|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 4:31:37 GMT -5
NC 60 C161: Phạm Ma kinh
P91: Kinh Brahmàyu
A. Toát yếu kinh C
Bà-la-môn Phạm Ma, sau khi nghe danh tiếng và trí tuệ của đức Phật, người có 32 đại nhân tướng, đã gởi một đệ tử của mình là Ưu Đa La đến xem để biết các tin đồn về đức Phật có đúng không. Ưu Đa La đi đến trông thấy 32 tướng trên thân đức Phật, theo dõi Ngài một thời gian để quan sát uy nghi và cách hành xử của đức Phật. Rồi khi trở về, y thuật lại toàn thể vấn đề cho Bà-la-môn Phạm Ma. Ông này đích thân đi đến yết kiến Phật, quan sát 32 đặc tướng của bậc đại nhân, lắng nghe đức Phật thuyết pháp và trở thành một đệ tử của Ngài.
P: Gần giống.
B. Nhan đề kinh
C: Phạm Ma kinh, bài kinh về Phạm Ma, nói đến người Bà-la-môn phái một đệ tử đi đến để xác định lời đồn về danh tiếng đức Phật.
P: Kinh Brahmàyu, bài kinh về Brahmàyu, cùng nói đến một người như ở kinh C.
C. Nơi thuyết kinh
C: Tại xứ Vi Đề Ha.
P: Cũng vậy.
D. Nội dung kinh
I. Danh tiếng của đức Phật:
C: Vào lúc bấy giờ ở Mi Sa La (P: Mithilà), có một Bà-la-môn tên Phạm Ma có tài sản lớn, vô số của cải, gia súc và mùa màng, được phong nhiều nhà và vựa lúa, giàu có dồi dào. Xứ Mi Sa La, cùng với nước, cỏ và cây cối được ân tứ bởi vua Vị Sanh Oán (A Xà Thế), con của bà Vi Đề Hi xứ Ma Kiệt Đà (P: Ajàtasattu, Videhiputta, Magadha). Bà-la-môn Phạm Ma có một người thanh niên tên là Ưu Đa La được cha mẹ nuôi lớn, sống một đời trong sạch, thanh tịnh cho đến bảy đời tổ tiên, không làm việc phi công đức. Anh ta học nhiều hiểu rộng, tinh thông bốn tập Vệ đà, có khả năng sâu sắc về khoa học ngữ nguyên, về ngôn ngữ nói chung và về năm câu (năm ngành hiểu biết). Anh ta đã nghe rằng Sa-môn Cồ Đàm, con trai dòng Sakya, đã từ bỏ dòng họ Sakya, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, vì lòng tin, từ bỏ gia đình sống không gia đình để học pháp. Ngài đang du hành ở Ma Kiệt Đà, cùng với một đại chúng Tỳ-kheo. Tiếng đồn tốt đẹp lan khắp mười phương về đức Cồ Đàm ấy như sau: Sa-môn Cồ Đàm là đức Như lai (như trước, cho đến)... hiển thị toàn vẹn đời sống phạm hạnh. Anh cũng nghe rằng Sa-môn Cồ Đàm có 32 đặc tướng của bậc đại nhân. Những người có 32 đặc tướng của bậc đại nhân này có hai con đường chắc chắn mở ra cho họ: nếu ở lại đời sống gia đình, họ sẽ thành vua Chuyển luân, thông minh trí tuệ, có bốn đạo quân để cai trị thế gian. Sau khi đã ổn định thế giới, nhờ tự lực của mình, họ sống phù hợp với pháp, làm đấng pháp vương có bảy báu: xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, đình thần báu; làm cha của một ngàn người con trai đẹp đẽ, dũng cảm, vô úy, hàng phục được các đạo quân khác, thống lĩnh tất cả đất đai cho đến biển cả, không dùng đến gươm giáo, gậy gộc, mà dùng pháp để an dân. Nếu họ cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa vì lòng tin từ bỏ gia đình sống không gia đình để học pháp, thì chắc chắn họ sẽ thành Như lai, bậc giác ngộ hoàn toàn và chân chính, tiếng đồn lan rộng khắp mười phương.
P: Gần giống. C: Phạm Ma = P: Brahmàyu. Bản P thêm rằng Bà-la-môn này già, đã cao tuổi, đã đến 120 tuổi. P hoàn toàn bỏ đoạn nói về tài sản lớn của Bà-la-môn, tài sản do vua ân tứ....... trong sạch cho đến bảy thế hệ. C: học nhiều, hiểu rộng, tinh thông bốn thánh điển = P: tinh thông ba tập Vệ đà. C: am tường sâu sắc khoa học ngữ nguyên và ngôn ngữ nói chung = P: giỏi từ ngữ, văn pháp, trí thế gian và đại nhân tướng. C: giỏi về năm câu (năm ngành hiểu biết) = P: giỏi về ngữ vựng, nghi lễ, văn, truyền thống, và ngữ âm. Danh tiếng của Sa-môn Cồ Đàm cũng giống như trong các kinh P trước đây. Ở đây bản P bỏ nói đến 32 tướng đại nhân, nhưng trong đoạn kế tiếp, khi Bà-la-môn giục Uttara đến yến kiến Sa-môn Cồ Đàm, ông cũng đề cập 32 tướng.
Ghi chú: Bản P nói ba tập Vệ đà trong khi bản C nói bốn tập. Như vậy truyền thống bản P xưa hơn.
II. Phạm Ma giục đệ tử mình đi đến yết kiến Sa-môn Cồ Đàm:
C: Phạm Ma lập lại những gì ông ta đã nghe đồn về danh tiếng, đức tính và đặc tướng của Sa-môn Cồ Đàm, cho đệ tử Ưu Đa La nghe, và giục anh ta đi đến xem Sa-môn Cồ Đàm có thật đúng như những gì được đồn đãi về Ngài, và Ngài có 32 tướng đại nhân hay không, vì Ưu Đa La đã đọc trong các kinh điển về người sở hữu 32 tướng đại nhân.
P: Gần giống. Bản P cũng nói 32 tướng và hai con đường duy nhất mở ra cho người này. Về đặc tính của một chuyển luân vương, hai bản gần giống nhau với những dị biệt như sau: Bản P bỏ: thông minh, trí tuệ. C: sau khi làm cho thế giới ổn định nhờ tự lực của mình = P: người đem lại ổn định cho xứ sở. C: có bốn loại quân đội để cai trị thế giới = P: chiến thắng cả bốn phương thế giới. Về bảy báu, chỉ có báu vật cuối cùng là hơi khác:
C: báu vật về chủ, binh lính, đình thần = P: báu vật về cố vấn. C: có danh tiếng lan rộng khắp mười phương = P: đã vén màn cho thế gian. P thêm rằng Bà-la-môn Brahmàyu nói, ông ta là người cho chú thuật và Uttara là người nhận chú thuật. Phần còn lại giống nhau.
III. Ưu Đa La đến gần đức Phật:
C: Khi ấy Ưu Đa La đến gần đức Phật, chào Ngài và ngồi xuống một bên. Anh thấy 30 tướng của bậc đại nhân trên thân đức Phật và nghi ngờ về hai tướng còn lại, là tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài. Khi Ưu Đa La đã biết Sa-môn Cồ Đàm có đầy đủ 32 tướng đại nhân, anh theo dõi Sa-môn Cồ Đàm suốt bốn tháng mùa hạ để quan sát cách hành xử của Sa-môn Cồ Đàm, uy nghi của Sa-môn Cồ Đàm và những nơi Ngài thăm viếng (uy nghi và hành xứ). Sau khi làm việc ấy, anh từ giã Sa-môn Cồ Đàm và ra về.
P: Gần giống. C: tướng mã âm tàng = P: kosohite vatthaguyhe. Về tướng lưỡi dài rộng mà trong bản C nói trùm phủ cả mặt, P nói Phật thè lưỡi ra chạm hai tai, hai mũi và trùm cả mặt cho đến trán. C: anh ta theo Sa-môn Cồ Đàm suốt bốn tháng mùa hè để quan sát uy nghi Sa-môn Cồ Đàm và những nơi Ngài thăm viếng = P: thanh niên Uttara trong bảy tháng đi theo sát Sa-môn Cồ Đàm như cái bóng để quan sát uy nghi của Ngài.
IV. Ưu Đa La thuật lại cho Phạm Ma:
1) 32 đại nhân tướng:
(Xin xem chương 5 về Phật và 32 tướng đại nhân).
2) Uy nghi của đức Phật:
(Xin xem ở trước, trang ...).
3) Ưu Đa La xuất gia:
C: Rồi Ưu Đa La xin phép Bà-la-môn để đi xuất gia với Sa-môn Cồ Đàm, và Phạm Ma bằng lòng. Sau đó Ưu Đa La đi đến đức Phật xin xuất gia và được thọ đại giới. Đức Phật chấp nhận.
P: Không có.
V. Cuộc gặp gỡ giữa đức Phật và Bà-la-môn Phạm Ma:
1) Các gia chủ và Bà-la-môn đến thăm Phật:
C: Sau khi Ưu Đa La được thọ giới, Phật cùng đại chúng Tỳ-kheo rời Videha và tuần tự đi đến Mi Sa La, ở lại trong rừng Makhàdeva. Tiếng đồn về đức Phật đã đến nơi này, các gia chủ và Bà-la-môn ở Mi Sa La cùng quyến thuộc ra khỏi thành đi về hướng bắc đến rừng Makhàdeva để yết kiến đức Phật. Một số đảnh lễ dưới chân đức Phật rồi ngồi qua một phía, một số chào hỏi đức Phật rồi ngồi qua một phía, một số chắp tay hướng về đức Phật rồi ngồi qua một phía, một số từ xa trông thấy đức Phật, giữ im lặng rồi ngồi xuống. Khi ấy đức Phật thuyết pháp cho họ, làm cho họ phấn khởi, khích lệ và làm họ hoan hỷ, dùng vô số cách để thuyết pháp.
P: Bỏ sự thọ giới của Ưu Đa La, thêm: một số xưng tên họ rồi ngồi xuống. Bỏ Phật thuyết pháp cho chúng.
2) Sự viếng thăm của Phạm Ma và 32 tướng đại nhân:
C:Tiếng đồn về Phật đến tai Phạm Ma và ông ta muốn đến thăm đức Phật. Ông sai chuẩn bị những cỗ xe khả ái, và khởi hành. Nhưng khi đến nơi đức Phật, thấy Ngài được vây quanh bởi vô số người đang nghe pháp, ông đâm ra sợ hãi, đến dưới một gốc cây và gởi một sứ giả đến hỏi thăm sức khỏe của đức Phật và xin phép được yết kiến Ngài. Đức Phật nhận lời, và Phạm Ma đến gặp đức Phật. Các gia chủ và Bà-la-môn, những người đã biết được đức hạnh và tri kiến của Phạm Ma, đứng dậy khỏi chỗ ngồi để nhường cho ông, nhưng Phạm Ma từ chối bảo rằng ông muốn yết kiến đức Phật ngay. Rồi ông đến trước Phật, chào Phật và ngồi qua một bên. Ông thấy tất cả tướng của một bậc đại nhân trên thân Phật trừ hai tướng, nghi ngờ về hai tướng này và đọc một bài kệ để xin đức Phật giải trừ những nghi này cho ông. Phật dùng thần thông hiển thị cho Phạm Ma hai tướng ấy. Sau khi trông thấy chúng, ông được xác tín rằng đức Phật đủ 32 tướng của bậc đại nhân.
P: Gần giống, với những dị biệt như đã thấy trong các đoạn trên. Bản P không nói Bà-la-môn Brahmàyu đâm ra sợ hãi khi đến gần đức Phật và phải gởi một sứ giả. Ở đây Bà-la-môn nghĩ rằng, thật mình không nên yết kiến Sa-môn Gotama mà không xin phép trước. Bởi thế ông gởi sứ giả đến. Và cũng ở đây, Bà-la-môn Brahmàyu dùng bài kệ để thưa hỏi đức Phật, và Phật cũng dùng một bài kệ để trả lời ông.
3) Đức Phật thuyết pháp cho Phạm Ma:
C: Đức Phật biết Bà-la-môn Phạm Ma này không phải là một kẻ lừa dối, một kẻ bịp bợm, ông ta đặt câu hỏi chỉ vì muốn hiểu biết chứ không phải muốn gây rối. Ông nghĩ tốt hơn Phật nên giảng cho ông pháp A-tỳ-đàm sâu sắc. Phật dùng kệ cho phép Bà-la-môn đặt câu hỏi vì an lạc trong hiện tại và vì hạnh phúc cho tương lai. Rồi Bà-la-môn Phạm Ma đặt những câu hỏi sau đây, tất cả đều dưới hình thức kệ: "Gì là Bà-la-môn? Ba sự thành đạt có nghĩa gì? Do gì mà người ta nói họ không còn chấp thủ? Gì là sự giác ngộ hoàn toàn và chân chính?" Phật dùng kệ trả lời:
"Phá hủy các ác bất thiện pháp, Đứng vững và an trú trong đời sống phạm hạnh, Tu tập trong phạm hạnh, Đây gọi là Bà-la-môn. Có tri kiến sáng suốt về quá khứ, Thấy rõ các cõi hạnh phúc và đau khổ, Diệt trừ ngu si, Biết điều này gọi là Mâu ni. Biết rõ tâm thanh tịnh, Hoàn toàn diệt trừ tham, sân, si, Đạt đến ba minh, Gọi là ba sự chứng đắc. Viễn ly khỏi ác pháp, An trú chân chính trong đệ nhất nghĩa, Là đối tượng chính cho thế gian tôn trọng, Do đây gọi là không chấp thủ. Giúp đỡ chư thiên và loài người. Đem lại con mắt và phá hủy tranh chấp, Có tri kiến quảng bác và đã tận trừ hữu, Gọi là giác ngộ chân chính và hoàn toàn."
P: Không giống hẳn. P bỏ: Đức Phật nghĩ rằng Bà-la-môn này không phải là một kẻ lừa dối..... giảng A-tỳ-đàm cho ông. Sự cho phép của Phật đã được đặt trong bài kệ trước. Ở đây bản P thêm một đoạn Brahmàyu quyết định nên hỏi Sa-môn Gotama những câu gì. Cuối cùng ông ta quyết định hỏi về mục đích của đời vị lai. Những câu hỏi không giống nhau trong hai bản, chỉ có một vài câu giống, và cả hai bản đều dùng hình thức kệ.
Ở đây Bà-la-môn hỏi:
"Thế nào gọi là Bà-la-môn? Làm sao để trở thành chủ của tri kiến? Thế nào là nắm vững ba minh? Thế nào là một bậc hữu học? Thế nào là một đức Như lai? Làm sao người ta trở thành toàn giác? Thế nào là một bậc hiền? Thế nào là một đấng giác ngô?"
Đức Phật cũng trả lời bằng bài kệ như sau:
"Ai biết đời quá khứ, Thấy được cõi trời và đọa xứ, Ai đạt đến phá hủy sinh tử, Người ấy là một bậc hiền, đã hoàn tất thánh trí. Ai biết tâm thanh tịnh, giải thoát mọi chấp thủ, Đã tận trừ sinh tử, Người ấy viên mãn đời phạm hạnh. Ai biết được tất cả tâm pháp, Gọi là đấng giác ngộ."
4) Bà-la-môn quy y.
C: Rồi Bà-la-môn Phạm Ma đứng dậy khỏi chỗ ngồi, muốn đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc ấy, đại chúng gia chủ và Bà-la-môn la lớn lên rằng, thật kỳ diệu, thật lạ lùng thay về Sa-môn Cồ Đàm, khi Bà-la-môn Phạm Ma của xứ Mi Sa La, người có bảy đời tổ tông đều thanh tịnh, người tối thượng trong các gia chủ và Bà-la-môn của xứ Mi Sa La, người đa văn nhất, giàu có nhất, cao tuổi nhất, đã 126 tuổi, lại hạ mình thờ phụng Sa-môn Cồ đàm. Đức Phật biết được tâm của hội chúng này, liền bảo Bà-la-môn Phạm Ma trở về chỗ ngồi của ông. Rồi Phật thuyết pháp cho ông, làm cho ông hoan hỷ, phấn chấn, khích lệ ông, dùng vô số cách để giảng pháp cho ông... (giống như trước) cho đến câu: "trở nên vô úy đối với pháp của đức Thế Tôn." Bà-la-môn Phạm Ma đứng dậy khỏi chỗ, đến ngồi dưới chân đức Phật, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật nhận ông làm một đệ tử tại gia. Rồi ông mời Phật cùng với chúng Tỳ-kheo hôm sau đến nhà ông thọ thực, và Phật nhận lời. Rồi ngày hôm sau đức Phật cùng chúng Tỳ-kheo đến nhà Bà-la-môn và được Bà-la-môn cúng dường thực phẩm. Sau buổi ăn, Bà-la-môn lấy một ghế thấp, và ngồi lắng nghe Phật thuyết tùy hỷ pháp. Đức Thế Tôn dạy:
"Trong các tế đàn, lửa là tối thượng, Phạm âm là nền tảng của tất cả âm thanh. Trong loài người, vua là tối thượng Biển dài hơn các dòng sông. Mặt trăng sáng hơn các vì sao, Nhưng không ánh sáng nào quá hơn mặt trời. Phương trên phương dưới, Bốn phương chính và bốn phương phụ, Cùng với tất cả thế gian, Từ nhân loại cho đến chư thiên, Chỉ có Phật là tối thượng."
P: Không giống, ở đây Brahmàyu thực sự đảnh lễ Phật, sắp đặt thượng y một bên vai, hôn quanh chân đức Phật, lấy hai tay vuốt khắp chân Ngài và xưng tên ông. Thái độ của ông làm cho toàn thể chúng hội kinh ngạc và úy phục. Rồi đức Phật giảng pháp cho ông như thường lệ cho đến khi Brahmàyu đạt được pháp nhãn. Phần còn lại cũng gần giống như C, nghĩa là sự quy y Tam bảo của ông, việc ông mời đức Phật thọ trai, nhưng ở đây không nói gì đến việc đức Phật thuyết tùy hỷ pháp. Ngài chỉ như thường lệ, làm cho Bà-la-môn hoan hỷ, hài lòng với một pháp thoại. Nó thêm: sau một tuần, đức Phật khởi hành đi đến Videha.
5) Cái chết của Phạm Ma và nơi tái sinh của ông:
C: Sau khi ở lại vài ngày tại Mi Sa La, đức Phật du hành đến Xá Vệ, và đi đến Thắng Lâm, vườn Cấp-cô-độc. Tin tức về cái chết của Phạm Ma đến với Ngài, và các Tỳ-kheo hỏi Phạm Ma tái sinh ở đâu. Phật trả lời rằng ông ta đã đắc quả Bất hoàn, không còn trở lui đời này nữa.
P: Gần giống; nó không nói Phật đến Xá Vệ và ở lại Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên.
Ghi chú: Cô Horner trong bản dịch của mình, đã đọc câu Pàli "Na ca mam vihesesi" thay vì "navamam vihesesi", cách đọc của cô có lẽ đúng, vì trong C có từ ngữ: "Ông ta không quấy rối Như Lai về pháp."
E. Phần kết
Trong khi bản P nói các Tỳ-kheo hoan hỷ lời đức Phật dạy, bản C thêm rằng, Phạm Ma cũng hoan hỷ. Điều này cho thấy một bất ổn lớn, khi ta xét rằng trong đoạn trước Phạm Ma được báo cáo là đã chết.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 4:32:26 GMT -5
NC61 C151: Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh
P93: Kinh Assalàyana
A. Toát yếu kinh C
Bà-la-môn A-nhiếp-hòa đến tranh luận với đức Phật về thuyết của Ngài rằng cả bốn giai cấp đều thanh tịnh, và đề cao sự ưu thắng của giai cấp Bà-la-môn. Phật dùng nhiều câu hỏi, ví dụ và mẩu chuyện để cho A-nhiếp-hòa thấy rõ sự trống rỗng của lời ông tuyên bố.
P: Gần giống, với một vài dị biệt trong các câu hỏi, ví dụ và mẩu chuyện.
B. Nhan đề kinh
C: Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh, kinh nói về Phạm chí A-nhiếp-hòa, tức là người Bà-la-môn đến thách đấu với đức Phật.
P: Assalàyanasuttam, kinh nói về Assalàyana, cũng một người như trên.
C. Nơi thuyết kinh
Cả hai bản cùng để nước Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc.
D. Nội dung kinh
I. Hoàn cảnh đưa đến sự thuyết kinh này:
C: Một số lớn Bà-la-môn ở Câu Sa La tụ họp trong một giảng đường đang bàn về lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm về sự thanh tịnh của cả bốn giai cấp, trong khi họ tuyên bố rằng giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, các giai cấp khác không thể sánh bằng; Bà-la-môn trắng, các giai cấp khác đen; Bà-la-môn thanh tịnh, các giai cấp khác bất tịnh; Bà-la-môn là con của Phạm thiên, sinh từ miệng của ngài. Họ nghĩ đến một người nào có thể đi đến thách đấu với Sa-môn Cồ Đàm, và đã chọn thanh niên A-nhiếp-hòa, người có sanh chủng thanh tịnh cho đến bảy thế hệ tổ tiên, không làm các việc phi công đức. Anh ta đa văn, học rộng, tinh thông bốn thánh điển, rất thiện xảo về luật duyên khởi, về ngữ pháp nói chung, và về năm câu (năm ngành hiểu biết). Tất cả họ đi đến yêu cầu A-nhiếp-hòa đi đến thách đấu với Sa-môn Cồ đàm. A-nhiếp-hòa từ chối, bảo rằng không thể nào tranh luận với Sa-môn Cồ Đàm, vì Ngài thuyết giảng phù hợp với chánh pháp. Các Bà-la-môn khác cứ giục anh đi, đừng có chưa đánh đã nhận thua và cuối cùng A-nhiếp-hòa nhận lời. Rồi anh cùng với các Bà-la-môn người Câu Sa La đi đến Sa-môn Cồ Đàm, chào hỏi Ngài và ngồi xuống một bên, nêu lên lời công bố của mình về sự tối thượng của giai cấp Bà-la-môn và hỏi quan điểm của Sa-môn Cồ Đàm.
P: Gần giống, thêm: khoảng 500 Bà-la-môn từ nhiều vùng khác nhau đi đến Xá Vệ vì một vài công việc. Bỏ: họ tụ họp trong một giảng đường, và chỉ nói đến quan điểm Sa-môn Cồ Đàm về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Những đức tính của Assalàyana cũng giống như những đức tính của Brahmàyu trong kinh Brahmàyu, ngoại trừ chi tiết, Assalàyana còn trẻ, 16 tuổi, đầu cạo trọc. Bản P thêm: các Bà-la-môn khác thúc giục Assalàyana đi tranh luận với Sa-môn Cồ Đàm, bảo rằng Assalàyana là người đã sống đời du sĩ. Trong bản P, những yêu cầu của các Bà-la-môn được lập lại ba lần, và Assalàyana từ chối hai lần. Cuối cùng Assalàyana chấp nhận, bằng cách giữ im lặng trong bản C, nhưng trong bản P anh ta bảo, thật sự Sa-môn Cồ Đàm nói đúng pháp, và thật khó mà cãi với những người nói đúng pháp, anh ta không thể cãi với Sa-môn Cồ Đàm. Tuy nhiên anh cũng sẽ đi như được yêu cầu. Ở đây lời công bố của Bà-la-môn như sau: "Giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, các giai cấp khác là hạ liệt; Bà-la-môn trắng, các giai cấp khác đen; Bà-la-môn thanh tịnh, không phải các giai cấp khác, Bà-la-môn là con chính thức của Phạm thiên, sinh từ miệng của Phạm thiên, được sinh ra do Phạm thiên, kẻ thừa tự của Phạm thiên."
II. Sa-môn Cồ Đàm bác bỏ:
Có chín sự bài bác và ví dụ trong cả hai bản, nhưng không giống nhau và cũng không cùng một thứ tự. Những bài bác tương đương như sau: C1 = P2; C2 = P: không có; C3 = P5; C4 = P6; C5 và C6 = P7; C7 và C9 = P8; C8 = P9. P1, P3, P4 không có trong C.
Bài bác thứ nhất: C1 = P2: C: Đức Thế Tôn hỏi A-nhiếp-hòa có nghe về hai xứ sở là Uất Nê (Yonà) và Chiên Phù (Kamboja), nơi đó chỉ có hai giai cấp chủ và tớ, hết làm chủ sẽ thành tớ, và hết làm tớ sẽ thành chủ. Khi A-nhiếp-hòa trả lời có, đức Phật bảo nếu các Bà-la-môn theo chánh đạo, họ sẽ có được hiểu biết chân chính và sự tự tri phù hợp với pháp. Cũng vậy với các quý tộc, gia chủ và thợ thuyền. Rồi A-nhiếp-hòa ca tụng Sa-môn Cồ Đàm thật kỳ diệu, hy hữu, nói rằng anh ta hiểu ví dụ ấy rất nhanh chóng, nhưng các Bà-la-môn lại nói giai cấp Bà-la-môn là tối thượng.
P: Gần giống. C: Uất Nê, Chiên Phù = P: Yonà, Kamboja. P thêm: và các xứ ở biên giới. Kết luận của Phật ở đây hoàn toàn khác: "Này Assalàyana, nếu thế thì do sức mạnh nào, do thẩm quyền nào mà các Bà-la-môn lại bảo giai cấp Bà-la-môn là tối thượng..."
Sự bài bác thứ hai: C2 = P không có: C: Đức Thế Tôn hỏi A-nhiếp-hòa, có phải chỉ những người Bà-la-môn mới không bị khoảng không này nắm lấy, không bị trói buộc bởi khoảng không, không bị chạm đến và không bị ngăn ngại bởi khoảng không. A-nhiếp-hòa phải trả lời rằng các giai cấp khác cũng vậy. Rồi đức Thế Tôn nói lên kết luận như trong lời bác thứ nhất.
Sự bài bác thứ ba: C3 = P5: C: Đức Thế Tôn hỏi A-nhiếp-hòa, có phải chỉ có Bà-la-môn mới có thể tu tập bi mẫn, không hận, không sân, không có ác ý, không tranh chấp, còn những người quý tộc, gia chủ và thợ thuyền, không thể làm như vậy. A-nhiếp-hòa trả lời rằng cả bốn giai cấp đều có thể làm như vậy. (Cũng kết luận như trên).
P: Gần giống. Nó thêm : trong xứ này (asmim padese).
Bài bác thứ tư: C4 = P6: C: Đức Phật hỏi A-nhiếp-hòa, nếu người từ một trăm dòng họ khác nhau đi đến, và một người nói lên rằng, chỉ có những người có thọ sanh cao quý và Bà-la-môn mới có thể đem bã đậu (xà phòng) để đến sông tắm, rửa sạch bụi bặm, trở thành sạch sẽ thanh tịnh, nhưng còn gia chủ và các giai cấp thợ thuyền thì sao. A-nhiếp-hòa trả lời rằng, tất cả giai cấp, không trừ một ai, đều có thể đem bã đậu và đi tắm cho sạch bụi bặm. (Phật kết luận như trên).
P: Gần giống. Nó không nói đến 100 dòng họ khác nhau đi đến và một người nói chỉ có quý tộc và Bà-la-môn có thể rửa sạch bụi bặm. Ở đây Phật hỏi Assalàyana, có phải chỉ có Bà-la-môn (không nói đến quý tộc) mới có thể dùng bột tắm và đồ chà lưng đi đến sông để tắm sạch bụi và bùn.
C: bã đậu để tắm rửa = P: đồ chà lưng và bột tắm.
Bài bác thứ năm và sáu: C5 và C6 = P7: C: Đức Thế Tôn hỏi A-nhiếp-hòa, nếu có người từ 100 dòng họ đi đến và một người nói, hãy đến đây, chỉ người quý tộc và Bà-la-môn mới có thể dùng bột chiên đàn thật khô, dùng nó như đồ lấy lửa, cọ xát nó để phát ra lửa. Nhưng những gia chủ và thợ thuyền, nếu họ lấy phân heo, phân chó khô và gỗ cây y lan hay một thứ gỗ tồi nào khác, dùng nó như dụng cụ phát sinh lửa, để cọ xát, những người này có thể làm sản sinh lửa để dùng được không. A-nhiếp-hòa đáp rằng, tất cả những người này, dùng các loại gỗ khác nhau để làm đồ lấy lửa, đều có thể sản xuất lửa. Và ngọn lửa được phát ra cũng có ngọn, có màu sắc, có hơi nóng, và có thể dùng để nấu, không khác gì lửa do các người quý tộc và Bà-la-môn làm phát sinh, nhờ sử dụng gỗ quý để làm sanh lửa.
P: Gần giống, nhưng nhiều chi tiết hơn. Ở đây nói đến một vị vua Sát đế lợi đã được quán đảnh, triệu tập một trăm người dân đủ mọi dòng họ.
C: những người thuộc dòng quý tộc và Bà-la-môn dùng gỗ chiên đàn rất khô = P: những người thuộc dòng quý tộc, Bà-la-môn, gia đình vương giả, dùng phần trên của một cây sàla hay một cây sakka hay một cây salala hay một cây trầm, hay hoa sen.
C: những người sinh ra từ gia chủ và thợ thuyền, lấy phân heo khô, phân chó hay gỗ y lan hoặc gỗ tồi khác = P: thuộc dòng họ chiên đà la, thợ săn, thợ đan tre, gia đình đánh xe bò, hốt phân... dùng phần trên của phân chó (sàpàna), phân heo (sùkara), phân khô, hay dầu cây đu đủ (elandakattha).
Bài bác thứ bảy và thứ chín: C7 và C9 = P8:
C: Đức Thế Tôn bảo A-nhiếp-hòa rằng mọi người được gọi tên tùy theo gia đình từ đó họ sinh ra. Như từ gia đình Bà-la-môn, họ được gọi là Bà-la-môn, từ gia đình quý tộc họ được gọi là quý tộc. Cũng vậy với gia chủ và thợ thuyền. Như lửa sinh từ củi thì gọi là lửa củi, từ cỏ, phân, gỗ, thì gọi là lửa cỏ, lửa phân, và lửa gỗ. Nhưng một người con từ một người cha quý tộc và một người mẹ Bà-la-môn giống hoặc mẹ hoặc cha hoặc không giống bên nào, không thể được gọi là một Bà-la-môn hay một quý tộc, nhưng cái thân thể được gọi là thuộc về chính nó, vì thân thể được gọi tùy theo nơi nó sinh ra. Nếu một con ngựa cái và một con lừa đực giao hợp và một con la được sinh ra, thì con la không thể được gọi là ngựa, cũng không gọi là lừa mà gọi là la. Ở đây đức Phật lặp lại lời kết luận của Ngài, và A-nhiếp-hòa cũng lặp lại lời ca tụng như đã thấy trong các bài bác trước. Lại nữa đức Thế Tôn hỏi A-nhiếp-hòa, giả sử có một Bà-la-môn tu hạnh tiết dục và bố thí, có bốn con trai, hai người có học còn hai người không học. Người Bà-la-môn sẽ bố thí cho ai trước, với chỗ ngồi tốt nhất, thực phẩm và nước rửa tốt nhất. A-nhiếp-hòa trả lời rằng người ấy sẽ bố thí cho hai người con trai có học. Đức Thế Tôn lại hỏi, giả sử có một Bà-la-môn thực hành tiết dục và bố thí, có bốn con trai, hai người không học nhưng siêng năng và ưa làm việc công đức, còn hai người thì có học nhưng không siêng năng và ưa làm hạnh phi công đức. Người Bà-la-môn sẽ bố thí cho ai trước, với chỗ ngồi, thực phẩm và nước rửa tốt nhất. A-nhiếp-hòa trả lời rằng, ông ta sẽ bố thí cho hai người không học nhưng siêng năng và ưa hành thiện. Rồi đức Thế Tôn bảo A-nhiếp-hòa rằng, A-nhiếp-hòa đầu tiên ca tụng đa văn, rồi ca tụng sự tuân giữ giới luật. Đức Thế Tôn đã nói về sự thanh tịnh của bốn giai cấp và công bố nó, A-nhiếp-hòa cũng đã nói về sự thanh tịnh của bốn giai cấp và công bố nó.
P: Không giống. Bản Pàli đặt hai lời bài bác này chung. Nó bỏ đoạn: "Người ta được gọi tùy theo gia đình từ đấy họ được sinh ra... được gọi là lửa củi." Trong khi bản C nói một người con trai từ cha quý tộc và mẹ Bà-la-môn hay mẹ quý tộc cha Bà-la-môn, dù nó giống cha, giống mẹ hay không giống ai cả, đều không thể gọi là Bà-la-môn hay quý tộc, mà có một giai cấp của riêng nó; bản P lại nói rằng, dù một người con trai được sinh ra từ một con gái quý tộc và thanh niên Bà-la-môn hay một thanh niên quý tộc và con gái Bà-la-môn thì đứa con trai ấy sẽ giống cả mẹ lẫn cha và sẽ được gọi vừa quý tộc vừa Bà-la-môn. Ví dụ về con la cũng giống như ở bản C, nhưng bản P không có cùng một kết luận như ở C. Bản P nói rằng, vì sự thọ sinh lẫn lộn của nó, nó được gọi là một con la và Assalàyana thêm rằng, anh ta nhận xét có sự dị biệt ấy ở đây, nhưng ở nơi khác, anh không thấy dị biệt nào cả. Về lời bài bác kia, bản P không nói rõ rằng, một Bà-la-môn thực hành hạnh tiết dục và bố thí; nó chỉ nói trường hợp hai anh em (không phải bốn) cùng mẹ nhưng không cùng cha (C: không có), một người thông minh, tinh thông (các tập Vệ đà), còn người kia thì không.
C: cho con trai nào, người Bà-la-môn sẽ bố thí trước, với chỗ ngồi, nước rửa và thức ăn tốt nhất = P: người Bà-la-môn sẽ cho ai ăn trước, đồ cúng cho người chết hay cháo, hay nước thánh, hay cơm dành cho khách.
C: hai người có học nhưng không siêng năng và ưa làm hành vi bất thiện = P: một người thông minh và thiện xảo (về các kinh Vệ đà), nhưng có ác giới và tính tình xấu xa. Người kia thì ngược lại. Phần còn lại cũng giống nhau. Cần ghi chú một dị biệt nữa ở đây. Trong bản C, đức Thế Tôn bảo A-nhiếp-hòa lúc đầu ca tụng đa văn, rồi ca tụng sự trì giới, và cả đức Thế Tôn lẫn A-nhiếp-hòa đã nói về sự thanh tịnh của bốn giai cấp và công bố nó, nhưng trong bản P, đức Phật bảo A-nhiếp-hòa rằng, lúc đầu anh ta đã nói về sanh chủng, rồi bỏ sanh chủng nói đến chú thuật, bỏ chú thuật nói về sự thanh tịnh của bốn giai cấp đúng như đức Phật đã công bố.
Bài bác thứ tám: C8 = P9: C: Đức Thế Tôn kể lại một câu chuyện cho A-nhiếp-hòa, ngày xưa có nhiều hiền nhân sống chung tại một nơi yên tịnh. Họ khởi lên một tà kiến rằng giai cấp Bà-la-môn là tối thượng.... Khi ấy một bậc hiền tên là Asito Devalo khi biết được tà kiến này đã đắp y, vấn một khăn vàng quanh đầu, cầm một cây gậy và một cái dù, choàng một áo trắng, biến mất từ chỗ của mình và không sử dụng cửa lớn để đi vào, ông ta xuất hiện trong ngôi nhà nhập thất của các hiền nhân, đi lui đi tới, nói rằng: "Bảy Bà-la-môn hiền trí đã đi đâu rồi?" Một người hiền trông thấy điều này, thuật lại vấn đề với các bạn của mình và yêu cầu họ đi đến trù rủa ông ấy. Nhưng khi những người này trù rủa: "Mong ngươi trở thành tro tàn. Mong ngươi trở thành tro tàn!", thì màu da của Asito Devalo lại càng sáng hơn và thân thể ông ta tỏa ra nhiều ánh sáng hơn nữa. Những người này liền hỏi Asito Devalo, ông là ai, và khi người này để lộ tông tích, các bậc hiền xin lỗi. Khi ấy Asito hỏi các bậc hiền có phải họ đã khởi lên một tà kiến rằng giai cấp Bà-la-môn là tối thượng.... và các người hiền công nhận đã có quan điểm như vậy. Khi ấy Asito hỏi họ có biết cha mình, ông nội mình,... cho đến bảy thế hệ, có cưới toàn thiếu nữ Bà-la-môn, không có ai phi Bà-la-môn hay không. Họ có biết mẹ của họ, bà ngoại của họ... trở lui cho đến bảy thế hệ, có phải những người này chỉ kết hôn toàn với người Bà-la-môn, không người đàn ông nào là phi Bà-la-môn. Rồi Asito lại hỏi, họ có biết sự thụ thai xảy ra như thế nào. Và đuợc trả lời rằng, khi ba việc kết hợp thì sẽ có sự thụ thai: sự gặp gỡ giữa cha, mẹ (người mẹ phải ở trong trường hợp có thể thụ thai) và sự đi đến của hương ấm (gandhabba). Asito hỏi họ có biết hương ấm đi thọ sanh ấy là nam tánh hay nữ tánh, từ đâu đến, từ giai cấp quý tộc hay Bà-la-môn hay gia chủ hay thợ thuyền, nó đến từ phương đông, nam, tây, hay bắc. Các bậc hiền ấy trả lời rằng họ không biết. Asito nói nếu họ không biết điều này thì làm sao có thể công bố rằng giai cấp Bà-la-môn là tối thượng. A-nhiếp-hòa khi bị Thế Tôn quở trách, tỏ vẻ hối hận. Đức Phật muốn làm cho ông hoan hỷ, bèn đưa ra sự bài bác thứ chín.
P: Gần giống. Ở đây Asito Devalo được mô tả là có râu tóc chải chuốt, mặc y phục màu tía, mang hài nhiều lớp, cầm một cái gậy bịt vàng xuất hiện trong am thất của bảy hiền nhân Bà-la-môn. Lời nguyền rủa cũng giống như trong C. Ở đây, bảy hiền nhân càng nguyền rủa Asito thì ông này càng đẹp đẽ, khả ái. Bản P thêm rằng, bảy hiền nhân nghĩ rằng trước đây khi họ nguyền rủa người nào, lời nguyền rủa của họ ứng nghiệm tức khắc, thế mà bây giờ lời nguyền rủa của họ không còn hiệu lực, thế thì khổ hạnh của họ đã thành vô dụng, đời sống phạm hạnh của họ không ích gì. Asito Devalo trấn an họ rằng, sự khổ hạnh của họ không vô dụng, đời sống phạm hạnh của họ không phải vô ích. Khi ấy ông để lộ tung tích mình, và bảy hiền nhân đến đảnh lễ Asito. Câu hỏi về cha, ông nội, mẹ, bà nội, sự thụ thai.... đều giống nhau.
C: (tử cung bà mẹ) không đầy, có thể thụ thai = P: màtà ca utunì hoti, ở trong thời kỳ của bà mẹ. Bản P bỏ câu hỏi : "Chúng sinh được sinh ra đến từ hướng nào?" Nó thêm một câu hỏi khác: "Sự tình là vậy thì bảy hiền nhân có biết mình là ai không?" và các hiền nhân trả lời không.
C: Đức Phật bảo A-nhiếp-hòa rằng những hiền nhân sống trong rừng, nơi vắng vẻ, khi được Asito khéo dạy dỗ, khéo giáo giới như vậy, đã không thể chỉ ra sự thanh tịnh của giai cấp Bà-la-môn, thế thì làm sao thầy của ông ta có thể chỉ được, người mặc áo cỏ? = P: Đức Phật bảo Assalàyana rằng, bảy hiền nhân Bà-la-môn khi được đức Phật hỏi và chất vấn về sanh chủng của mình đã không thể trả lời thì làm sao bây giờ anh ta khi được Phật hỏi và chất vấn về sanh chủng lại có thể trả lời được, khi anh ta cùng một thầy với họ, nhưng lại không phải là Punna Dàbbigàha (?). Bản P cũng nói đến thái độ hối hận của Assalàyana, nhưng chỉ ở phần cuối của sự bài bác thứ tám.
Ba bài bác không có trong C: P1, P3, P4: P1: Đức Phật hỏi Assalàyana rằng, những nữ Bà-la-môn được biết là cũng có kinh nguyệt, có thai, sinh con và cho con bú, và những người Bà-la-môn sinh từ trong bụng của họ, thế thì làm sao có thể tự cho mình là tối thượng.
P3: Đức Phật chứng minh cho Assalàyana thấy là không những chỉ có những giai cấp quý tộc, thương gia, thợ thuyền, mà ngay Bà-la-môn, nếu họ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, phỉ báng, ác khẩu, nói lời phù phiếm, nếu họ tham lam, ác ý, tà kiến, thì sau khi chết, họ cũng tái sinh vào các đọa xứ, vào địa ngục.
P4: Đức Phật chứng minh cho Assalàyana thấy rằng, không phải chỉ có Bà-la-môn mà cả quý tộc, thương gia, thợ thuyền, nếu họ từ bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, phỉ báng, ác khẩu, nói lời phù phiếm, nếu họ từ bỏ tham lam, ác ý, tà kiến, thì sau khi chết, tất cả đều sẽ được sinh vào thiện thú, cõi trời.
III. Phản ứng của A-nhiếp-hòa và các Bà-la-môn:
C: Khi ấy A-nhiếp-hòa đứng dậy khỏi chỗ ngồi, muốn đi đến đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhưng hội chúng la lớn: Sa-môn Cồ Đàm thật kỳ diệu, thật hy hữu, có đại thần thông, đại oai lực, đại công đức, khi đã giảng sự thanh tịnh của bốn giai cấp và làm cho A-nhiếp-hòa cũng tuyên bố sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Đức Thế Tôn biết tâm của đại chúng, bảo A-nhiếp-hòa hãy trở về chỗ ngồi, nói rằng, tâm của A-nhiếp-hòa được hoan hỷ là đủ. Rồi đức Thế Tôn giảng pháp cho anh ta, khích lệ làm cho anh phấn chấn hoan hỷ. A-nhiếp-hòa cúi đầu dưới chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Phật ba vòng rồi ra đi. Các Bà-la-môn ở Câu Sa La quở trách A-nhiếp-hòa, bảo rằng anh ta đi đánh bại Sa-môn Cồ Đàm nhưng cuối cùng đã bị Ngài luận bại, cũng như một người đi tìm mắt, đi vào khu rừng nhưng trở về mất cả hai mắt; như kẻ đến hồ để uống nước mà trở về vẫn khát. A-nhiếp-hòa bảo các Bà-la-môn rằng, anh ta đã nói với họ trước kia, rằng Sa-môn Cồ Đàm nói đúng pháp, khó mà tranh luận với một người nói đúng pháp.
P: Không giống. Ở đây chỉ nói rằng Assalàyana thốt lên: "thật là kỳ diệu, hy hữu", rồi xin Phật nhận anh làm đệ tử, từ đây cho đến trọn đời.
Ghi chú: Cô Horner, trong M.L.S., ii., p. 349, ghi chú 3, nhận xét rằng, công thức thường lệ để xin trở thành đệ tử cư sĩ không xuất hiện ở đây một cách đầy đủ, mà bản kinh cũng không đưa ra những dấu hiệu về sự rút ngắn hay bỏ. Nếu chúng ta so sánh với bản C thì C có vẻ hữu lý hơn.
E. Phần kết
Bản P bỏ phần kết, bản C có phần kết như thường lệ.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 4:33:47 GMT -5
PHẦN 4: PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Tiểu sử Sanghadeva Sanghadeva hay Tăng-già-đề-bà, hay Chúng Thiên, có tên là Cồ Đàm. Ngài sinh ở Kê Tân. Theo Khai Nguyên Thích giáo lục, quyển 3 và Cao tăng truyện, quyển 1, Ngài tinh thông ba tạng và nhất là tạng A-tỳ-đàm. Ngài thường ngày đêm tụng Tam pháp độ luận và xem đây là cửa vào đạo pháp. Ngài có trí thông minh sâu xa sắc bén, uy nghi khả kính, thiện xảo về thuyết pháp.
Ngài đến Trường An vào cuối triều đại Kiện Nguyên (373-384) thuộc đời Hậu Tấn (384-417). Sau khi ngài đến không lâu, Tăng-già-bạt Trừng (Sangha Bhùti) đã dịch luận Bà tu mật và Đàm Ma Nan Đề (Dhamma Nandì) đã dịch hai tác phẩm Tăng nhất A-hàm và Quảng thuyết tam pháp độ hơn mười vạn chữ, nhưng những bản dịch này chưa được hoàn hảo. Lúc bấy giờ, có nhiều rối loạn về chính trị xảy ra, nên không người nào có thể kiểm chính các bản dịch, mà ngài Đạo An thì đã chết. Sa-môn Pháp Hòa, một người bạn của Đạo An gặp Tăng-già-đề-bà và mời ngài đến đất Lạc Dương, ở lại đấy bốn, năm năm để hiệu đính các bản dịch. Ngài dịch lại A-tỳ-đàm và Quảng thuyết chúng kinh. Rồi ngài rời Lạc Dương đi đến miền Nam và được Huệ Viễn pháp sư mời ở lại Lô Sơn. Huệ Viễn là vị sáng lập ngôi chùa danh tiếng ở Lô Sơn. Tại đây ngài dịch hai tác phẩm A-tỳ-đàm và Tam pháp độ luận trong Bát nhã đường.
Năm đầu niên hiệu Long An, ngài đến kinh đô, được vua và đình thần vô cùng thán phục. Vương Trung, vị vua mộ đạo, đã xây cho ngài một ngôi chùa, ở đấy ngài giảng A-tỳ-đàm. Vương Trung mời Sa-môn Thích Huệ Trì và 40 vị sư khác, rồi xin ngài dịch kinh Trung A-hàm và Tăng nhất A-hàm. Sa-môn Tăng Già Lạc Xoa ở Kê Tân cầm trong tay bản kinh Phạn ngữ, và Ngài dịch ra Hoa ngữ. Sa-môn Đạo Từ ở Dự Châu cầm bút lông, Lý Bảo và Đường Hóa ở vương quốc Vũ (?) viết lời dịch.
Ở Lô Sơn và Kiện Khang, Sanghadeva đã dịch 5 tác phẩm chia làm 118 tập:
1. Trung A-hàm, 60 tập hay 58 tập, được dịch từ ngày 10-11 năm đầu Long An, và kết thúc ngày 25-6 năm thứ hai (398). Công việc dịch thuật này được thực hiện trong chùa Đông Đình.
2. Tăng nhất A-hàm, 50 tập, dịch từ tháng giêng năm đầu Long An. Đây là bản dịch thứ hai, bản dịch đầu do Dharmanandi thực hiện.
3. A-tỳ-đàm tâm luận, 4 tập, dịch phẩm này cộng tác với pháp sư Huệ Viễn vào năm thứ 16 Thái Nguyên (391). Đạo Từ cầm bút, Sanghadeva đọc lời dịch.
4. Tam pháp độ luận, gồm 2 tập, dịch vào năm thứ 16 Thái Nguyên, ở Lô Sơn, cộng tác với Pháp sư Vi Viễn.
5. Giáo thọ Tỳ-kheo ni pháp, 1 tập, dịch tại Lô Sơn. Tác phẩm này đã mất. Bốn tác phẩm đầu gồm 117 tập tất cả, hiện nay vẫn còn.
PHỤ LỤC 2 Vài nhận xét về dịch phẩm của Sanghadeva Sanghadeva dịch tác phẩm này vào năm 398. Vì bản dịch này đã xưa nên ta không thể phán đoán nó dưới ánh sáng của thuật ngữ đã cố định bởi các dịch gia về sau như Huyền Trang. Nhưng công việc của Sanghadeva đáng tán dương ở chỗ đấy là một công tác tiên phong, được làm vào một thời đại ít ai biết về ngôn ngữ Ấn và sự phiên dịch thành Hoa ngữ.
Chúng ta để ý những đặc điểm sau đây trong bản dịch của Sanghadeva.
a. Danh từ lỗi thời: Một số danh từ mà Sanghadeva dùng trong bản dịch đã bị loại bởi những dịch gia về sau:
Pàli Sanghadeva: Các dịch gia về sau: Vedanà Giác Thọ Savitakka Hữu giác Hữu tầm Savicàra Hữu quán Hữu từ Phassa Canh lạc Xúc Sammàvàyàma Chánh phương tiện Chánh tinh tấn Samudaya Tập ( = tập quán) Tập ( = tập họp) Udàna Soạn Vô vấn tự thuyết Upàdànakkhandha Thạnh uẩn Thủ uẩn Purisadammasàrathi Đạo pháp ngự Điều ngự trượng phu Aniccatà Vô thường pháp Vô thường tánh Upàdàna Thọ ( = nhận) Thủ Sankhàra Tư hoặc Hành Hành
b. Giải sai:
Danh từ Gayàsise, tên một địa danh, được Sanghadeva dịch là Tượng đảnh, nghĩa là đầu voi, vì lầm Gaya là Gaja. Cũng vậy, Makhàdeva được dịch là Đại thiên vì lầm Makhà là Mahà. Chữ Nagà được dịch là rồng thay vì voi. Danh từ Purisadammasàrathi được dịch là Đạo pháp ngự, người chế ngự con đường và pháp, vì danh từ damma bị lầm với Dhamma. Những dịch gia về sau chọn danh từ Điều ngự pháp sư dịch đúng nghĩa từ Pàli. Lại nữa từ Sahàpi sukhena sahàpi somanassena được dịch sai thành tự lạc tự hỷ nghĩa là hỷ lạc của riêng mình.
c. Cách dịch máy móc: Đôi khi chúng ta thấy một cách dịch máy móc, không để ý đến ý nghĩa đích thực của danh từ trong đoạn văn cần dịch. Như chữ attha nghĩa là ý nghĩa, mục đích, lợi ích thì toàn thị được dịch là nghĩa. Ví dụ danh từ sàttham dịch đúng là hữu nghĩa, nghĩa là có nghĩa; nhưng nếu dịch danh từ atthasamhita mà dịch là dữ nghĩa tương ưng thì khá vụng, như được thấy trong kinh 191, vii, 44b, 20. Cũng vậy, với những từ atthakàmo và anatthakàmo, nghĩa là mong sự lợi lạc, không mong sự lợi lạc (cho nó). Nhưng bản C dịch là cầu nghĩa (tìm ý nghĩa)và bất cầu nghĩa (không tìm ý nghĩa). Một danh từ khác là jàtarùparajata nghĩa là vàng và bạc. Bản C tương đương là sanh sắc tượng bảo, sanh để dịch jàta, sắc để dịch rùpa và tượng bảo để dịch rajata. Một cách dịch lạ lùng khác là chữ màtikà, được dịch là mẫu (mẹ) như được thấy trong đoạn : "Có những Tỳ-kheo thiện xảo về kinh, luật và mẹ" (Tsê, vii, 57a, 19). Đôi khi dịch giả chỉ đặt cạnh nhau những từ Hoa ngữ trong cùng một thứ tự với nguyên bản, bất chấp ý nghĩa toàn thể. Như từ ngữ nổi tiếng Yam tam ariyà àckkhanti, upekkhako satimà sukhavihàri được dịch là "vị thánh sở thuyết thánh sở xả niệm lạc trú thất", thì chỉ có thể hiểu được nhờ tham cứu bản văn P.
d. Lối dịch hữu ích: Trong vài trường hợp, bản dịch C giúp ta hiểu đúng các danh từ Pàli. Như bài kệ nổi tiếng của Upàli, sự hiện hữu của từ yakkhassa trong lời ca tụng Phật thì khá khó hiểu. Bản C dịch: Người có con mắt cao thượng đem lại giải đáp. Như vậy từ yakkhassa rõ ràng là akkhassa được thêm vào chữ y để dễ đọc. Cũng vậy với danh từ pannadhajassa trong cùng bài kệ ấy được dịch là hạ cờ. Nhưng bản C tương đương là do trí tuệ sanh nghe thích hợp hơn vì là một từ ngữ chỉ đức tính của Phật. Do vậy, chữ pannadhajassa nên dịch là pannajassa dưới ánh sáng của bản C.
e. Một vài lối dịch lạ lùng: Chúng ta cũng để ý vài lối dịch lạ lùng về một số danh từ, mà danh từ nguyên bản đôi khi không thể nào là một với bản P. Như một số danh từ sau: P: appaharite = C: đất tịnh; P: àmisa = C: đồ ăn uống; P: pisunà vàcà = C: hai lưỡi; P: ummagga = C: tà đạo; P: aranna = C: vô sự xứ ; P: citta = C: tâm; P: bandhupàdàpacca = C: đoạn chủng vô tử (giảng nghĩa: không có con cái).
Bản C luôn luôn dịch từ Viharati là du có nghĩa là du lịch, gần với nghĩa tiếng Sanskrit nhưng không phải nghĩa tiếng Pàli là trú, ở lại. Lại nữa, danh từ padakkhinam katvà nghĩa là sau khi đi quanh giữ phía tay phải hướng về một người nào thì bản C luôn luôn dịch là nhiễu tam táp nghĩa là đi quanh người ấy ba vòng. Từ atta (Sk.: àtman) đôi khi được dịch là thần (hồn) đôi khi được dịch là ngã. Công thức thông thường của bản P như sau: "N'etam mama, n'eso' hamasmi, na meso attàti", nhưng trong bản C lại dịch: bỉ phi ngã hữu, ngã phi bỉ hữu, diệc phi thị thần (đấy không phải của tôi, tôi không thuộc vào đấy, và cũng không phải linh hồn) (C200, vii 65b, 13-14).
f. Giống với cách hiểu Sanskrit: Một vài từ Hoa ngữ chứng tỏ bản dịch C gần với nghĩa Sanskrit hơn là với nghĩa Pàli. Như danh từ cattàro sammappadhànà có nghĩa là bốn sự nỗ lực trong tiếng Pàli. Nhưng bản C dịch là tứ chánh đoạn, nghĩa là bốn sự diệt trừ chân chính, gần với Phạn ngữ samyakprahàna. Cũng vậy với từ veyyàkarana nghĩa tiếng Pàli là trả lời, giải thích, trình bày. Nhưng danh từ tương đương Hoa ngữ là ý thuyết, có nghĩa là tiên đoán, như vậy gần với tiếng Sanskrit vyàkarana như đã thấy ở trước.
g. Một vài từ khó hiểu: Có vài từ trong bản C mà ta không tài nào hiểu nỗi, mà cũng không thể đoán ra danh từ gốc trong nguyên bản. Như trong NC36, Tôn giả Đại Mục-liền-liên đi vào thiền định Như kỳ tượng định, không thể hiểu nghĩa là gì. Lại trong cùng một NC ấy, ta gặp một đoạn như sau: "Họ nghĩ: Sa-môn này đã ngồi tại một nơi vô sự và lâm chung. Chúng ta nên gom củi, cỏ phủ khắp thi thể và da duy chi", mà chúng ta phỏng đoán là dahati, có nghĩa là hỏa thiêu (C131, vi, 49b, 19). Lại nữa danh từ phi phẩm có thể đoán là Niết-bàn, phi để dịch nir và phẩm để dịch vàna trong đoạn sau: "Vị Tỳ-kheo được nói là đã tu tập căn bản thần thông hoàn tất về thiền định căn cứ trên dục, y cứ viễn ly, ly dục, diệt, từ bỏ, hướng đến phi phẩm." (C206, vii, 78a, 13-15). Nhưng từ ngữ sau đây thì không thể nào giải thích nỗi. Nó nói đến sự giác ngộ của Phật dưới cây bồ đề như sau: "Trí sanh, nhãn sanh; định đạo phẩm pháp; sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm, không còn sanh trở lại." (C204, vii, 74b, 20). Định, nghĩa là tập trung, đạo là con đường, phẩm có nghĩa trình độ và pháp có nghĩa đạt ma. Bốn chữ này sắp lại với nhau không ai đoán được nghĩa là gì. Dường như nó tương đương với từ ngữ Àkuppà me vimutti. Lại nữa từ ngữ tát vân nhã hoàn toàn không thể hiểu được trong câu: "Ni Kiền Tử không phải là tát vân nhã, mà tự cho tát vân nhã." (C196, vii, 56a, 13). Dường như nó ám chỉ danh từ Sabbannu nghĩa là nhất thiết trí.
h. Phiên âm và dịch:
Bản C phần nhiều dùng cách phiên âm để ghi danh từ riêng trong nguyên bản về người và nơi chốn, như được thấy trong các ví dụ sau:
P: Aggivessana = C: A Kỳ Xá Na ; P: Ajita kesakambalì = C: A Di Đa Kê Xá Kiểm Bà Lợi ; P: Aciravatì = C: A Di La Bà Đề ; P: Kàsi = C: Ka Thi ; P: Kimbila = C: Kim Tỳ La.
Một đôi khi có sự phiên dịch, nhưng không nhiều như P: Jetavana = C: Thắng Lâm; P: Migàramàtu = C: Lộc Mẫu; P: Kukkuràràma = C: Kê Viên.
Đôi khi phiên âm và phiên dịch được sử dụng lẫn lộn như: P: Sàriputta = C: Xá-lợi-tử, Xá lợi là phiên âm chữ Sàri và tử dịch nghĩa chữ putta. P: Mahàkassapa = C: Đại Ca Diếp, Đại là dịch chữ mahà, và Ca diếp là phiên âm chữ kassapa. (xem nhiều chi tiết hơn ở phụ lục 10)
PHỤ LỤC 3 Vài nhận xét về bản dịch Anh ngữ kinh Trung bộ Bản dịch C cho ta thấy sự chính xác về một vài nhận xét của cô Horner trong bản dịch Middle Length Sayings, bản dịch Anh ngữ Kinh Trung bộ do cô dịch.
Trong M.L.S tập II, trang 332, cô chọn cách đọc "na ca mam vihesesi" thay vì "navamam vihesesi"; một sự chọn lựa chính xác khi so với bản C: "ông ấy không làm phiền ta về pháp."
Lại nữa trong đoạn: "Sannam idam attena và attaniyena và ti" (T.L.M, ii, 263, dòng 28, 29), cô Horner đề nghị nên đọc là Sunam thay vì Sannam. Nhận xét của cô được hỗ trợ bởi đoạn kinh C sau đây: "Thánh đệ tử đa văn tư duy như vầy: Thế gian này trống rỗng, không có ngã, không có gì thuộc về ngã."
Đôi khi bản C giúp ta thấy được vài sai lầm trong cách dịch và nhận xét của cô. Như trong câu Pàli sau đây: "Àkankheyya ce bhikkhave bhikkhu: ye me nàtisàlohità petà kàlakatà pasannacittà anussaranti tesam tam mahapphalam assa mahànisamsanti" (i,33,21-24), cô Horner dịch: "Mong điều này sẽ làm một cõi lớn, lợi ích lớn cho bà con quyến thuộc của ta, những người nhớ lại những người đã chết với tâm hoan hỷ..." nhưng trong Papancasùdanì (I,144), nó được nói: "Bà con quyến thuộc khi chết nhớ lại những đức tính của Tỳ-kheo và nhờ vậy chết với tâm hoan hỷ"(Tesam tanti Tesam tam mayi pasannacittam và Pasannena cittena anussaranam và). Điều này được hỗ trợ bởi đoạn kinh C tương ứng: "Ta có những quyến thuộc. Mong sao nhờ ta, mà khi họ mệnh chung, họ sẽ đi đến những nơi tốt đẹp, cho đến được sinh lên trời." (C105)
Lại nữa trong đoạn sau: "Hoti kho so àvuso samayo yam bàhirà àpodhàtu pakuppati, antarahità tasmim samaye bàhirà pathavìdhàtu hoti" (ii, 185, 27-29), cô Horner có quan niệm rằng, bản văn này sai, đã ghi àpodhàtu thay vì pathavìdhàtu (M.L.S, tập I, 232, ghi chú 1), nhưng bản C cho thấy bản P không sai. Lại nữa có ba tai họa là hỏa tai, thủy tai, phong tai (Phật học đại tự điển, trang 304). Trong Thanh tịnh đạo (Visuddhi Magga) cũng chỉ nói ba samvattà: aposamvattà (thủy tai), tejosamvattà (hỏa tai) và vàyosamvattà (phong tai) (chương 13). Một ví dụ khác về cách dịch không đúng của cô Horner là trong M.L.S, ii, trang 325, ghi chú 6, khi cô chọn chữ kayasmim theo bản kinh Thái Lan thay vì chọn kàyamhà trong nguyên bản P: "Gió không thể làm cho y của vị ấy lay động." (M.A.,iii, 393). Nhưng bản C tương đương chứng tỏ kàyamhà được dùng ở đây: "Gió không thể thổi bay chiếc y khỏi thân." Lại nữa trong từ ngữ jàlahatthapàda (bàn tay, bàn chân có màng lưới), cô chọn cách hiểu của Buddhaghosa trong M.A. iii, 376, là : "Bốn ngón tay của đức Như lai và năm ngón chân của Ngài có số đo bằng nhau" (M.L.S, ii, 321, ghi chú 2). Nhưng bản C nói rõ như sau: "Ngón tay, ngón chân có màng lưới như ngỗng chúa."
Tất cả những nhận xét trên đây không cốt để chỉ trích bản dịch vĩ đại của cô về kinh Trung bộ, mà đến nay chưa ai sánh bằng, nhưng chỉ là một đóng góp nhỏ vào công trình tuyệt diệu mà vị học giả vĩ đại ấy đã hoàn tất.
PHỤ LỤC 4 Phân loại 222 kinh C theo phẩm, quyển và ngày tụng đọc A. 18 PHẨM (VARGAS) hay CHƯƠNG Chương I: Thất pháp (Sapta dharmàh): 10 kinh:
1. Thiện pháp kinh, 2. Trú độ thọ kinh, 3. Thành dụ kinh, 4, Thủy dụ kinh, 5. Mộc tích dụ kinh, 6. Thiện nhân vãng kinh, 7. Thế gian phước kinh, 8. Thất nhật kinh, 9. Thất xa kinh, 10. Lậu tận kinh.
Chương II: Nghiệp tương ưng (Karmasamyukta): 10 kinh:
11. Diêm dụ kinh, 12. Hòa phá kinh, 14. La vân kinh, 15. Tư kinh, 16. Sư tử kinh, 19. Ni kiền kinh, 20 Ba la lao kinh.
Chương III: Xá-lợi-tử tương ưng (Sàriputrasamyukta): 11 kinh:
21. Đẳng tâm kinh, 22. Thành tựu giới kinh, 23. Trí kinh, 24. Sư tử hống kinh, 25. Thủy dụ kinh, 26. Cù ni sư kinh, 27. Phạm chí Đà nhiên kinh, 28. Giáo hóa bệnh kinh, 29. Đại Câu-hy-la kinh, 30. Tượng tích dụ kinh, 31. Phân biệt thánh đế kinh.
Chương IV: Vị tằng hữu pháp (Abhutadharma): 10 kinh:
32. Vị tằng hữu pháp kinh, 33. Thị giả kinh, 34. Bạc câu la kinh, 35. A tu la kinh, 36. Địa động kinh, 37. Chiêm ba kinh, 38. Úc già trưởng giả kinh (A), 39. Úc già Trưởng giả kinh (B), 40. Thủ trưởng giả kinh (A), 41. Thủ trưởng giả kinh (B).
Chương V: Tập tương ưng (Samudaysamyukta): 16 kinh:
42. Hà nghĩa kinh, 43. Bất tư kinh, 44. Niệm kinh, 45. Tàm quý kinh (A), 46. Tàm quý kinh (B), 47. Giới kinh (A), 48. Giới kinh (B), 49. Cung kính kinh (A), 50. Cung kính kinh (B), 51. Bổn tế kinh, 52. Thực kinh (A), 53. Thực kinh (B), 54. Tận trí kinh, 55. Niết-bàn kinh.
Chương VI: Vương tương ưng (Ràjasamyukta): 14 kinh:
56. Di hê kinh, 57. Vị Tỳ-kheo thuyết kinh, 58. Thất bảo kinh, 59. Tam thập nhị tướng kinh, 60. Tứ châu kinh, 61. Ngưu phấn dụ kinh, 62. Tần bệ sa la vương ứng Phật kinh, 63. Bệ bà lăng kỳ kinh, 64. Thiên sứ kinh, 65. Ô điểu dụ kinh, 66. Thuyết bổn kinh, 67. Đại thiên nại lâm kinh, 68. Đại thiện kiến vương kinh, 69. Tam thập dụ kinh, 70. Chuyển luân vương kinh, 71. Bệ tứ kinh.
Chương VII: Trường thọ vương (Dìrghàyuràja): 15 kinh:
72. Trường thọ vương bổn khởi kinh, 73. Thiên kinh, 74. Bát niệm kinh, 75. Tịnh bất động đạo kinh, 76. Úc già chi la kinh, 77. Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh, 78. Phạm thiên thỉnh Phật kinh, 79. Hữu thắng thiên kinh, 80. Ca hy na kinh, 81. Niệm thân kinh, 82. Chi ly di lê kinh, 83. Trưởng lão thượng tôn thùy miên kinh, 84. Vô thích kinh, 85. Chân nhân kinh, 86. Thuyết xứ kinh.
Chương VIII: Uế phẩm (Anganavarga): 10 kinh:
87. Uế phẩm kinh, 88. Cẩu pháp kinh, 89. Tỳ-kheo thỉnh kinh, 90. Tri pháp kinh, 91. Châu na vấn kiến kinh, 92. Thanh bạch liên hoa dụ kinh, 93. Thủy tịnh phạm chí kinh, 94. Hắc Tỳ-kheo kinh, 95. Trụ pháp kinh, 96. Vô kinh.
Chương IX: Nhân phẩm (Nidànavarga): 10 kinh:
97. Đại nhân kinh, 98. Niệm xứ kinh, 99. Khổ ấm kinh (A), 100. Khổ ấm kinh (B), 101. Tăng thượng tâm kinh, 102. Niệm kinh, 103. Sư tử hống kinh, 104. Ưu đàm bà la kinh, 105. Nguyện kinh, 106. Tưởng kinh.
Chương X: Lâm phẩm (Vanavarga): 10 kinh:
107. Lâm kinh (A), 108. Lâm kinh (B), 109. Tự quán tâm (A), 110. Tự quán tâm (B), 111. Đại phạm hạnh kinh, 112. A nô ba kinh, 113. Chư pháp bổn kinh, 114. Ưu đà la kinh, 115. Mật hoàn dụ kinh, 116. Cù đàm di kinh.
Chương XI: Đại phẩm (Mahàvarga): 25 kinh:
117. Nhu nhuyến kinh,118. Long tượng kinh, 119. Thuyết xứ kinh, 120. Thuyết vô thường kinh, 121. Thỉnh thỉnh kinh, 122. Chiêm ba kinh, 123. Sa-môn nhị thập ức kinh, 124. Bát nạn kinh, 125. Bần cùng kinh, 126. Hành dục kinh, 127. Phước điền kinh, 128. Ưu bà tắc kinh, 129. Oán gia kinh, 130. Giáo Đàm di kinh, 131. Hàng ma kinh, 132. Lại-tra-hòa-la kinh, 133. Ưu ba ly kinh, 134. Thích vấn kinh, 135. Thiện sanh kinh, 136. Thương nhân cầu tài kinh, 137. Thế gian kinh, 138. Phước kinh, 139. Tức chỉ đạo kinh, 140. Chí biên kinh, 141. Dụ kinh.
Chương XII: Phạm chí phẩm (Bràhmanavarga): 20 kinh:
142. Vũ thế kinh, 143. Thương ca la kinh, 144. Toán số Mục-liền-liên kinh, 145. Cù mặc Mục-liền-liên kinh, 146. Tượng tích dụ kinh, 147. Văn đức kinh, 148. Hà khổ kinh, 149. Hà dục kinh, 150. Uất sậu ca la kinh, 151. Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh, 152. Anh vũ kinh, 153. Man nhàn đề kinh, 154. Bà la bà đường kinh, 155. Tu đạ đa kinh, 156. Phạm ba la diên kinh, 157. Hoàn lô viên kinh, 158. Đầu na kinh, 159. A già la ha na kinh, 160. A lan na kinh, 161. Phạm ma kinh.
Chương XIII: Căn bản phân biệt phẩm (Mùlavibhangavarga): 10 kinh:
162. Phân biệt lục giới kinh, 163. Phân biệt lục xứ kinh, 164. Phân biệt quán pháp kinh, 165. Ôn tuyền lâm thiên kinh, 166. Thích trung thiền thất tôn kinh, 167. A nan thuyết kinh, 168. Ý hành kinh, 169. Câu lâu sấu vô tránh kinh, 170. Anh vũ kinh, 171. Phân biệt đại nghiệp kinh.
Chương XIV: Tâm phẩm (Cittavarga): 10 kinh:
172. Tâm kinh, 173. Phù di kinh, 174. Thọ pháp kinh (A), 175. Thọ pháp kinh (B), 176. Hành thiền kinh, 177. Thuyết kinh, 178. Lạp sư kinh, 179. Ngũ chi vật chủ kinh, 180. Cù đàm di kinh, 181. Đa giới kinh.
Chương XV: Song phẩm (Yamakavarga): 10 kinh:
182. Mã ấp kinh (A), 183. Mã ấp kinh (B), 184. Ngưu giác sa la lâm kinh (A), 185. Ngưu giác sa la lâm kinh (B), 186. Cầu giải kinh, 187. Thuyết trí kinh, 188. A di na kinh, 189. Thánh đạo kinh, 190. Tiểu không kinh, 191. Đại không kinh.
Chương XVI: Đại phẩm (Mahàvarga): 10 kinh:
192. Ca lâu Ô đà di kinh, 193. Mâu lê phá quần na kinh, 194. Bạt đà hòa lợi kinh, 195. A thấp bối kinh, 196. Châu na kinh, 197. Ưu ba ly kinh, 198. Điều ngự địa kinh, 199. Si tuệ địa kinh, 200. A lê tra kinh, 201. Trà đế kinh.
Chương XVII: Bổ lợi đa phẩm (Potaliyavarga): 10 kinh:
202. Trì trai kinh, 203. Bô lị đa kinh, 204. La ma kinh, 205. Ngũ hạ phần kết kinh, 206. Tâm uế kinh, 207. Tiễn mao kinh (A), 208. Tiễn mao kinh (B), 209. Bệ ma na tu kinh, 210. Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh, 211. Đại Câu-hy-la kinh.
Chương XVIII: Lệ phẩm (Sanvidahanavarga): 11 kinh:
212. Nhất thiết trí kinh, 213. Pháp trang nghiêm kinh, 214. Bệ ha đề kinh, 215. Đệ nhất đắc kinh, 216. Ái sanh kinh, 217. Bát thành kinh, 218. A na luật đà kinh (A), 219. A na luật đà kinh (B), 220. Kiến kinh, 221. Tiễn dụ kinh, 222. Lệ kinh.
B. 60 QUYỂN QUYỂN 1-2 Phẩm I, Thất pháp 10 kinh 3-4 Phẩm II, Nghiệp tương ưng 10 kinh 5-7 Phẩm III, Xá-lợi-tử tương ưng 11 kinh 8-9 Phẩm IV, Vị tằng hữu pháp 10 kinh 10 Phẩm V, Tập tương ưng 16 kinh 11-16 Phẩm VI, Vương tương ưng 14 kinh 17-21 Phẩm VII, Trường thọ vương 15 kinh 22-23 Phẩm VIII, Uế phẩm 10 kinh 24-26 Phẩm IX, Nhân phẩm 10 kinh 27-28 Phẩm X, Lâm phẩm 10 kinh 29-34 Phẩm XI, Đại phẩm 25 kinh 35-41 Phẩm XII, Phạm chí phẩm 20 kinh 42-44 Phẩm XIII, Căn bản phân biệt 10 kinh 45-47 Phẩm XIV, Tâm phẩm 10 kinh 48-49 Phẩm XV, Song phẩm 10 kinh 50-54 Phẩm XVI, Đại phẩm 10 kinh 55-58 Phẩm XVII, Bổ lợi đà phẩm 10 kinh 59-60 Phẩm XVIII, Lệ phẩm 11 kinh
C. 5 NGÀY TỤNG Ngày thứ nhất từ phẩm I đến nửa đầu phẩm VI 64 kinh Ngày thứ hai từ nửa sau phẩm VI đến phẩm X 52 kinh Ngày thứ ba từ phẩm XI đến nửa đầu phẩm XII 35 kinh Ngày thứ tư từ nửa sau phẩm XII đến nửa đầu phẩm XV 35 kinh Ngày thứ năm từ nửa sau phẩm XV đến phẩm XVIII 36 kinh
---o0o---
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 4:35:10 GMT -5
PHỤ LỤC 5
Những tựa đề và nơi thuyết các kinh C và P tương đương
NC 1 C100, Tưởng kinh. Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc. P1: Mùlapariyàyasutta, Kinh Pháp môn căn bản. Ukkatthà, Subhagavana, gốc cây Sa la vương. NC 2 C10, Lậu tận kinh (Kurus, Kammassadamma). P2 : Sabbàsavasutta, Kinh Tất cả lậu hoặc Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc. NC 3 C88, Cầu pháp kinh (Kosala, Pancasàlà, Simsapàvana). P3: Dhammadàyàdasutta, Kinh Thừa tự pháp Xá Vệ, vườn Kỳ thọ... Anàthapindikàràma. NC 4 C87, Uế phẩm kinh (Bhagga, Sumsumàragiri, Bhesakalàvana), vườn Nai. P5: Ananganasutta, Kinh Không uế nhiễm Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 5 C105, Nguyện kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P6: Àkankheyyasutta, Kinh Ước nguyện Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 6 C93, Thủy tịnh phạm chí kinh (Uruvelà, Neranjarà, Ajapàlanigrodha). P7: Vatthùpamasutta, Kinh Ví dụ tấm vải Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 7 C91, Châu na vấn kiến kinh (Kosambì, Ghositàràma). P8: Sallekhasutta, Kinh Đoạn giảm Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 8 C98, Niệm trú kinh (Kurus, Kammassadamma). P10: Satipatthànasutta, Kinh Niệm xứ Kurus, Kammassadamma. NC 9 C 103, Sư tử hống kinh (Kurus, Kammassadamma). P11: Cùlasìhanàdasutta, Tiểu kinh Sư tử hống Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 10 C 99, Khổ ấm kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P13: Mahàdukkhakkhandhasutta, Đại kinh khổ uẩn. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma NC 11 C100, Khổ ấm kinh (Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha). P14: Cùladukkhakkhandha, Tiểu kinh khổ uẩn Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha. NC 12 C89, Tỳ-kheo thỉnh kinh (Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa). P15: Anumànasutta, Kinh Tư lượng Sumsumàragiri, Bhesakalàvana. NC 13 C206, Tâm uế kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma) P16: Cetokhilasutta, Kinh Tâm hoang vu Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 14 C107, Lâm kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P17: Vanapatthasutta, Kinh Khu rừng Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 15 C115, Mật hoàn dụ kinh (Sakkas, Kapilavatthu). P18: Madhupindikasutta, Kinh Mật hoàn Kapilavatthu. NC 16 C102, Niệm kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P19: Dvedhàvitakkasutta, Kinh Song tầm Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 17 C101, Tăng thượng tâm kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P20: Vitakkasanthànasutta, Kinh An trú tầm Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 18 C193, Mâu lê phá quần na kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P21: Kakacùpamasutta, Kinh Ví dụ cái cưa Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 19 C200, A lê tra kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P22: Alagaddùpamasutta, Kinh Ví dụ con rắn Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 20 C9, Thất xa kinh (Ràjagaha, Veluvana, rồi đến Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P24: Rathavinìtasutta, Kinh Trạm xe Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa; rồi Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 21 C178, Lạp sư kinh (Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa). P25: Nivàpasutta, Kinh Bẫy mồi Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 22 C204, La ma kinh (Sàvatthi, lâu đài Migàramàtu). P26: Ariyapariyesanasutta, Kinh Thánh cầu Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma, rồi Pubbàràma, Migàramàtu. NC 23 C 146, Tượng tích dụ kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P27: Cùlahatthipadopamasutta, Tiểu kinh dụ dấu chân voi Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 24 C30, Tượng tích dụ kinh Chỗ như trên. P28: Mahàhatthipadopamasutta, Đại kinh dụ dấu chân voi. Chỗ như trên. NC 25 C185, Ngưu giác Sa la lâm kinh (Nàdikà, Ginjakàvasatha). P31: Cùla-Gosingasutta, Tiểu kinh rừng Sừng bò Nàdikà, Ginjakàvasatha. NC 26 C184, Ngưu giác Sa la lâm kinh (Bhagga, Gosingasalavana) . P32: Mahà-Gosingasutta, Đại kinh rừng Sừng bò Gosingasalavanadàya. NC 27 C201, Trà đế kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P38: Mahàtanhàsankhàyasutta, Đại kinh đoạn tận ái. Như C. NC 28 C182, Mã ấp kinh (Anga, Assapura, Assavana). P39: Mahà-Assapurasutta, Đại kinh Xóm ngựa Như C. NC 29 C183, Mã ấp kinh Như trên. P40: Cùlaassapurasutta, Tiểu kinh Xóm ngựa Như C. NC 30 C211, Đại Câu-hy-la kinh (Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa). P43: Mahàvedallasutta, Đại kinh Phương quảng Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 31 C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh (Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma). P44: Cùlavedallasutta, Tiểu kinh Phương quảng Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. NC 32 C174, Thọ pháp kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P45: Cùladhammasamàdànasutta, Tiểu kinh Pháp hành. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 33 C175, Thọ pháp kinh Như trên. P46: Mahàdhammasamàdànasutta, Đại kinh Pháp hành. Như trên. NC 34 C186, Cầu giải kinh (Kurus, Kammassadamma). P47: Vìmamsakasutta, Kinh Tư sát Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 35 C78, Phạm thiên thỉnh Phật kinh Xá vệ, Thắng lâm, Cấp-cô-độc viên. P49: Brahmanimantanika, Kinh Phạm thiên cầu thỉnh. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 36 C131, Hàng ma kinh (Bhagga, Sumsumàragiri, Bhesakalàvana). P50: Màratajjaniyasutta, Kinh Hàng phục ác ma Như C. NC 37 C217 Bát thành kinh Tỳ Xá Ly. P52: Atthakanagarasutta, Kinh Bát thành Vesàli, Beluvagàmaka. NC 38 C203, Bổ lợi đa kinh (Nàlandà, Pàvàrikambavana). P54: Potaliyasutta, Kinh Potaliya Anguttaràpa, thị trấn Àpana. NC 39 C133, Ưu ba ly kinh Nà Lan Đà. P56: Upàlisutta, Kinh Upàli Nàlandà, Pàvàrikambavana. NC 40 C14, La vân kinh Vương Xá, rừng Suối nóng. P61: Ambalatthikàràhulovàdasutta, Kinh Giáo giới Ràhula ở rừng Ambala. Như C. NC 41 C221, Tiễn dụ kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên P63: Cùlamàlunkyasutta, Tiểu kinh Màlunkyaputta. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 42 C205, Ngũ hạ phần kết Chỗ như trên. P64: Mahàmàlunkyasutta, Đại kinh Màlunkyaputta. Chỗ như trên. NC 43 C194, Bạt đà hòa lợi kinh Chỗ như trên. P65: Bhaddàlisutta, Kinh Bhaddàli Chỗ như trên. NC 44 C192, Ca lâu Ô đà di kinh Sàketa. P66: Latukìkopamasutta, Kinh Ví dụ Chim cáy Anguttaràpa, thị trấn Àpana. NC 45 C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh Sàketa. P68: Nalakapànasutta Nalakapàna, rừng Palàsa. NC 46 C26, Cù ni sư kinh Vương Xá, rừng trúc Ca Lan Đà P69: Gulissànisutta, Kinh Cù ni sư Như C. NC 47 C195, A thấp bối kinh Kàsi, rồi Simsapàvana. P70: Kìtagirisutta Như C. NC 48 C153, Man nhàn đề (Kurus, Bhàradvàjagotta). P75: Màgandiyasutta, Kinh Màgandiya Như C. NC 49 C207, Tiễn mao kinh (Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa, Moranivàpa). P77: Mahàsakulùdàyìsutta, Đại kinh Sakulùdàyì Đầu tiên ở Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. Rồi đến Moranivàpa, Paribbàjakàràma. NC 50 C179, Ngũ chi vật chủ kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P78: Samanamandikasutta Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 51 C208, Tiễn mao kinh (Vương Xá, vườn trúc Ca Lan Đà, rồi đến Moranivàpa). P79: Cùlasakulùdàyìsutta, Tiểu kinh Sakulùdàyì Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. Rồi đến Moranivàpa. NC 52 C209, Bệ ma na tư kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P80: Vekhanassasutta, Kinh Vekhanassa Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 53 C63, Bệ bà lăng kỳ kinh (Kosalas). P81: Ghatìkàrasutta, Kinh Ghatìkàra Như kinh C. NC 54 C132, Lại-tra-hòa-la kinh (Kurus, Thullakotthita, Simsapàvana). P82: Ratthapàlasutta, Kinh Ratthapàla Như kinh C. NC 55 C67, Đại thiên nại lâm kinh (Videla, Mithilà, Makkhàdevambavana). P83: Makhàdevasutta, Kinh Makhàdeva Như C. NC 56 C216, Ái sanh kinh Xá Vệ, Thắng Lâm. P87: Piyajàtikasutta, Kinh Ái sanh Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 57 C214, Bệ ha đề kinh Chỗ như trên. P88: Bàhitikasutta Như trên. NC 58 C213, Pháp trang nghiêm kinh (Sakkas, Medalumpa). P89, Dhammacetiyasutta, Kinh Pháp trang nghiêm. Như C. NC 59 C212, Nhất thiết trí kinh (Ujunnnà, Kannakatthala). P90: Kannakatthalasutta Chỗ như C. NC 60 C161, Phạm ma kinh (Videha). P91: Brahmàyusutta, Kinh Brahmàyu Như C. NC 61 C151, Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P93: Assalàyanasutta, Kinh Assalàyana Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 62 C150, Uất sậu ca la kinh (Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa). P96: Esukàrìsutta, Kinh Esukàrì Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 63 C27, Phạm chí Đà nhiên kinh Vương Xá (như P). P97: Dhànanjànisutta, Kinh Dhànanjàni Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. NC 64 C152, Anh vũ kinh Vương Xá, rừng trúc Ca Lan Đà. P99: Subhasutta, Kinh Subha Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 65 C19, Ni kiền kinh Thích Sí Sấu, thị trấn Devadaha. P101: Devadahasutta, Kinh Devadaha Như C. NC 66 C196, Châu na kinh (Bhaggas?, Sàmagàma). P104: Sàmagàmasutta, Kinh Làng Sàma Như C. NC 67 C75, Tịnh bất động đạo kinh (Kurus, Kammassadamma). P106: Ànanjasappàyasutta. Như kinh C. NC 68 C144, Toán số Mục-liền-liên kinh Xá Vệ, Đông viên Lộc Mẩu giảng đường. P107: Ganakamoggallànasutta, Kinh Toán số Mục-liền-liên. Như C. NC 69 C145, Cù mặc Mục-liền-liên kinh (Vương Xá). P108: Gopakamoggallànasutta Như C. NC 70 C187, Thuyết trí kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P112: Chabbisodhanasutta Như C. NC 71 C85, Chân nhân kinh Như trên. P113: Sappurisasutta Như trên. NC 72 C181, Đa giới kinh Như trên. P115: Bahudhàtukasutta Như trên. NC 73 C189, Thánh đạo kinh (Kurus, kammassadamma). P117: Mahàcattàrìsakasutta, Kinh Đại tứ thập Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc. NC 74 C81, Niệm thân kinh (Anga, Àpana?). P 119: Kàyagatàsatisutta, Kinh Thân hành niệm Như trên. NC 75 C168, Ý hành kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P120: Sankhàruppatisutta Như trên. NC 76 C190, Tiểu không kinh Xá Vệ, Đông viên Lộc Mẫu giảng đường. P121: Cùlasunnatasutta, Kinh Tiểu không Sàvatthi, Pubbàràma, lâu đài Migàramàtu. NC 77 C191, Đại không kinh (Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha). P122: Mahàsunnatasutta, Kinh Đại không Như C. NC 78 C32, Vị tằng hữu pháp kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P123: Acchariyabbhutadhammasutta Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 79 C34, Bạt câu la kinh Vương Xá, rừng Trúc Ca Lan Đà. P124: Bakkulasutta Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. NC 80 C198, Điều ngự địa kinh Chỗ như trên. P125: Dantabhùmisutta Chỗ như trên. NC 81 C173, Phù di kinh Chỗ như trên. P126: Bhùmijasutta Chỗ như trên. NC 82 C79, Hữu thắng thiên Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên P127: Anuruddhasutta, Kinh A na luật Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 83 C72, Trường thọ vương bản khởi kinh (Kosambì, Ghositàràma). P128: Upakkilesasutta, Kinh Tùy phiền não Như C. NC 84 C199, Si tuệ địa kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P129: Bàlapanditasutta, Kinh Hiền ngu Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 85 C64, Thiên sứ kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P130: Devadùtasutta, Kinh Thiên sứ Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 86 C167, A nan thuyết kinh Chỗ như trên. P132: Ànanda-Bhaddekarattasutta, Kinh A nan nhất dạ hiền giả. Chỗ như trên. NC 87 C165, Ôn Tuyền lâm thiên kinh Vương Xá, rừng Trúc Ca Lan Đà. P133:Mahàkaccàna- Bhaddekarattasutta, Kinh Đại Ca chiên diên nhất dạ hiền giả Ràjagaha, Tapodàràma. NC 88 C166, Thích trung thiền thất tôn kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P134: Lomasakangiya- Bhaddekarattasutta, Kinh Nhất dạ hiền giả Lomasaka Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 89 C170, Anh vũ kinh Chỗ như trên. P135: Cùlakammavibhangasutta, Kinh Phân biệt tiểu nghiệp. Chỗ như trên. NC 90 C171, Phân biệt đại nghiệp kinh Vương Xá, rừng Trúc Ca Lan Đà. P136: Mahàkammavibhangasutta, Kinh Phân biệt đại nghiệp. Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. NC 91 C163, Phân biệt lục xứ kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P137: Salàyatanavibhangasutta, Kinh Phân biệt sáu xứ. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 92 C164, Phân biệt quán pháp kinh Chỗ như trên. P138: Uddesavibhangasutta, Chỗ như trên. NC 93 C169, Câu lâu sấu vô tránh kinh (Bhagga, Kammassadamma). P139: Aranavibhangasutta Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 94 C162, Phân biệt lục giới kinh (Magadha, Ràjagaha). P140: Dhàtuvibhangasutta, Kinh Phân biệt giới Như C. NC 95 C31, Phân biệt thánh đế kinh (Kurus, Kammassadamma). P141: Saccavibhangasutta, Kinh Phân biệt sự thật. Bàrànasì, Isipatana, Migadàya. NC 96 C180, Cù Đàm di kinh (Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha). P142: Dakkhinavibhangasutta. Như C. NC 97 C28, Giáo hóa bịnh kinh Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên. P143: Anàthapindikovàdasutta, Kinh Giáo hóa Cấp-cô-độc. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma. NC 98 C86, Thuyết xứ kinh Chỗ như trên. P148: Chachakkasutta, Kinh Sáu sáu Chỗ như trên.
PHỤ LỤC 6
Danh sách 22 kinh Pàli Trung bộ không có trong A-hàm 1) P30, Cùla Saropamasutta 2) P36, Mahà Saccakasutta 3) P41, Sàleyyakasutta 4) P42, Velanjakasutta 5) P51, Kandarakasutta 6) P55, Jìvakasutta 7) P57, Kukkuravatikasutta 8) P58, Abhayaràjakumàrasutta 9) P60, Apannakasutta 10) P71, Tevijja-Vacchagottasutta 11) P85, Bodhiràjakumàrasutta 12) P94, Ghotamukhasutta 13) P95, Cankìsutta 14) P98, Vàsetthasutta 15) P100, Sangàravasutta 16) P102, Pancattayasutta 17) P103, Kintìsutta 18) P105, Sunakkhattasutta 19) P111, Anupadasutta 20) P114, Sevitabbàsevitabbasutta 21) P118, Ànàpànasatisutta 22) P131, Bhaddekarattasutta.
Chúng ta nhận thấy rằng kinh P85, Bodhiràjakumàrasutta, có kinh tương đương của nó trong tạng Luật, và kinh P118, Ànàpànasatisutta, có tương đương trong bản kinh riêng rẽ nhan đề là Sự kinh.
-ooOoo-
PHỤ LỤC 7
Danh sách 19 kinh trong A-hàm không có trong Trung bộ và trong các Nikàya khác (Theo C.A.P.N)
1) C7, Thế gian phước kinh 2) C39, Úc già trưởng giả kinh 3) C44, Niệm kinh 4) C54, Tận trí kinh 5) C55, Niết-bàn kinh 6) C60, Tứ châu kinh 7) C62, Tần bệ sa la vương ứng pháp kinh 8) C65, Ô điểu dụ kinh 9) C69, Tam thập dụ kinh 10) C80, Ca hy na kinh 11) C92, Thanh bạch liên hoa dụ kinh 12) C147, Văn đức kinh 13) C159, A già la ha na kinh 14) C176, Hành thiền kinh 15) C177, Thuyết kinh 16) C197, Ưu ba ly kinh 17) C218, A na luật đà kinh (A) 18) C219, A na luật đà kinh (B) 19) C222, Lệ kinh
Kinh C197, Ưu ba ly kinh, có bản tương đương Pàli trong Mahàvagga (Đại Phẩm) (6,1-8). Kinh C62 có bản Pàli tương đương trong Mahàvagga (1,4-1).
-ooOoo-
PHỤ LỤC 8
Toát yếu 19 kinh trong Trung A-hàm không có trong Trung bộ kinh và các Nikàya khác 1. C7, Thế gian phước kinh:
Phật giảng bảy loại phước trên thế gian, là phẩm vật mà các thiện nam tín nữ dâng cúng cho tăng già:
a) phòng xá; b) tọa cụ, thảm, chiếu, đệm ngủ; c) tất cả y phục mới và sạch; d) thức ăn; e) cho người làm vườn, tôi tớ đến phục vụ chư tăng; f) khi có gió mưa, lạnh, tuyết, thì đích thân đến chùa để cúng dường; g) sau khi chư tăng ăn xong, phải xem chừng để họ không bị khổ vì gió, mưa, lạnh, tuyết, y phục không bị ướt, để ngày đêm có thể an ổn thực hành thiền quán.
Rồi Phật giải thích bảy loại phước siêu thế, đó là các thiện nam tín nữ vui mừng :
a. khi nghe rằng đức Như lai và các đệ tử của Ngài đang du hành đến một nơi nào; b. khi nghe rằng đức Như lai và đệ tử muốn đi từ nơi này đến nơi kia; c. khi nghe rằng đức Như lai và đệ tử đã từ giã chỗ kia để đến chỗ này; d. sau khi nghe như vậy, đi đến yết kiến và đảnh lễ Phật cùng chúng tăng với một tâm thanh tịnh; e. cúng dường cho họ; f. sau khi cúng dường, quy y Tam bảo; g. thọ ngũ giới.
Đức Phật lại giải thích rằng những hành vi này đem lại vô lượng vô số quả báo công đức, như nước của năm con sông lớn ở Diêm Phù Đề.
2. C39, Úc già trưởng giả kinh:
Không lâu sau khi Phật nhập Niết-bàn, có một gia chủ tại Tỳ Xá Ly thường bố thí cho tất cả mọi người và mỗi năm ngày lại mời chư tăng thọ trai. Một hôm ông ta mất một chiếc tàu và Tôn giả A Nan được chư tăng phái đến bảo ông đừng cúng dường nữa. Gia chủ thưa Tôn giả rằng ông cúng dường bố thí cốt để toại nguyện làm Chuyển luân vương. Ông giải thích rằng ước nguyện của người nghèo trong làng là được trở thành một người giàu; người giàu trong làng thì ước mong trở thành một người giàu trong quận; người giàu trong quận mong thành người giàu nhất trong đô thị; người giàu trong đô thị ước nguyện được làm người mà mọi người phải cung kính tôn trọng; người được cung kính tôn trọng trong thành phố ước muốn trở thành tể tướng trong xứ; tể tướng trong xứ muốn trở thành tiểu vương; ước nguyện của tiểu vương là muốn trở thành Chuyển luân vương; Chuyển luân vương lại có ước nguyện muốn tu hành phạm hạnh thành một Tỳ-kheo, thực chứng chân lý và đắc quả A-la-hán. Bởi thế ông ta bố thí thật nhiều cốt để thỏa mãn lời nguyện làm Chuyển luân vương. Rồi Úc Già nói thêm rằng, ông có bốn sự thành tựu khác nữa: a. Mỗi khi đến tu viện ông luôn luôn đảnh lễ các Tỳ-kheo, ngồi vói họ, đàm luận pháp với họ, và không bao giờ coi thường một Tỳ-kheo nào cả; b. Mỗi khi ông cúng dường cho các Tỳ-kheo, có một vị trời đứng trên không bảo ông, người này là một A-la-hán, người kia sẽ thành La hán; người này là bậc Bất hoàn; người này sẽ thành Bất hoàn, người này là một bậc Nhất lai, người này sẽ thành một bậc Nhất lai; người này là một bậc Dự lưu người này sẽ thành một bậc Dự lưu; người này tinh cần, người kia không tinh cần. Nhưng ông ta không tin vị trời ấy, không làm theo lời khuyên và mong muốn của vị trời, mà với trí tuệ trong sáng của mình, ông biết rằng có đức Như lai và thánh chúng của đức Như lai; d. Ông đã ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú cho đến thiền thứ tư.
3. C44, Niệm kinh:
Phật bảo các Tỳ-kheo rằng, nếu Tỳ-kheo thất niệm, không có chánh trí thì điều này có hại cho chánh niệm, chánh trí của vị ấy. Không có chánh niệm, chánh trí là có hại cho sự hộ trì các giác quan, sự hộ trì giới, sự bất hối, hỷ, lạc, an tịnh, hạnh phúc, chánh định, chánh tri kiến, viễn ly, ly dục, giải thoát. Sự không giải thoát có hại cho Niết-bàn. Nếu Tỳ-kheo không thất niệm và có chánh trí, thì điều này sẽ sinh khởi chánh niệm chánh trí. Chánh niệm, chánh trí sẽ sinh khởi sự hộ trì căn.... cho đến giải thoát. Giải thoát, sinh khởi Niết-bàn.
4. C54, Tận trí kinh:
Phật bảo các Tỳ-kheo rằng, với chánh tri chánh kiến, người ta có thể đạt đến lậu tận, không phải là không chánh tri chánh kiến. Do chánh tri kiến về khổ, về tập khởi của khổ, về sự diệt khổ, về con đường đưa đến diệt khổ phù hợp với chân lý mà người ta đạt đến lậu tận, rồi Phật kể ra một loạt 24 pháp kế tiếp nhau, hiển thị rằng pháp thứ nhất có pháp thứ hai là nguồn gốc, pháp thứ hai có thứ ba là nguồn gốc v.v.. cho đến pháp thứ 24. 24 pháp như sau: 1. Thắng trí, 2. Giải thoát, 3. Ly dục, 4. Yểm ly, 5. Chánh tri chánh kiến, 6. Định, 7. Lạc, 8. An tịnh, 9. Hỷ, 10. Hân hoan, 11. Bất hối, 12. Giữ giới, 13. Hộ trì kinh, 14. Chánh niệm, chánh trí, 15. Chánh tư duy, 16. Tin tưởng, 17. Nhẫn nhục, 18. Đọc tụng, 19. Thọ trì pháp, 20. Suy xét ý nghĩa pháp, 21. Phạm vi lỗ tai (ear-sphere?), 22. Lắng tai nghe diệu pháp, 23. Đến gần, 24. Cung kính hầu hạ. Rồi Phật giải thích 24 pháp trong thứ tự ngược lại và theo cách phủ định.
5. C55, Niết-bàn kinh:
Đức Phật kể ra một loạt 29 pháp tiếp nhau, hiển thị pháp thứ nhất có nguồn gốc từ pháp thứ hai, pháp thứ hai có nguồn gốc từ pháp thứ ba.... cho đến pháp 29. 29 pháp ấy như sau: 1. Niết-bàn, 2. Giải thoát, 3. Ly dục, 4. Nhàm chán, 5. Thấy biết chân chính, 6. Tập trung, 7. Lạc, 8. An tịnh, 9. Hỷ, 10. Hân hoan, 11. Bất hối, 12. Giữ giới, 13. Hộ trì căn, 14. Chánh niệm chánh trí, 15. Suy xét chân chính, 16. Tin tưởng, 17. Khổ, 18. Già chết, 19. Sanh, 20. Hữu, 21. Thủ, 22. Ái, 23. Thọ, 24. Hưởng thụ mạnh mẽ, 25. Sáu xứ, 26. Danh sắc, 27. Thức, 28. Hành, 29. Vô minh. Rồi Phật giải thích những pháp ấy theo cách ngược lại, do vô minh có hành v.v.. cho đến Niết-bàn.
6. C60, Tứ châu kinh:
Đức Phật xác nhận tư tưởng của Tôn giả A Nan là đúng, rằng trên thế gian này rất ít người chết với những ước muốn của họ đặc biệt thỏa mãn, rất ít người chết với tâm nhàm chán dục vọng. Rồi Phật kể lại một tiền kiếp của Ngài lúc còn làm một vị Chuyển luân vương cai trị bốn châu: 1. Cai trị châu Diêm Phù, ở đó ngài có vô số tài sản và quyến thuộc, 7000 con trai với những trận mưa châu báu suốt bảy ngày ngập đến gối; 2. Cai trị châu ở phía tây tên Cù Đà Ni (Aparagoyàna); 3. Cai trị châu phía đông Phất Bà Tỳ Đà Đề (Pubbavideha); 4. Cai trị châu Uất Đơn Bạch (Uttarakuru). Mặc dù Ngài đã cai trì cả bốn châu ấy, Ngài vẫn chưa thỏa mãn, rồi Ngài lên cõi trời 33, và tại đấy, vì bị mê mẩn bởi sự giống nhau giữa Ngài với trời Đế thích, trừ đôi mắt, ngài đã muốn đoạt ngôi của Đế Thích và do duyên cớ này Ngài đã rớt xuống trở lại châu Diêm Phù Đề. Rồi Ngài nhận ra và công bố rằng nếu chết đi Ngài sẽ chết với một tâm bất mãn, đức Phật tiếp tục giải thích rằng bây giờ thì khác vì Ngài đã thành một đức Như lai viên mãn và chân chính giác ngộ và đã chấm dứt tất cả những loại đau khổ.
7. C62, Tần bệ sa la vương ứng Phật kinh:
Kinh này có kinh P tương đương trong Mahàvagga, nói về việc vua Tần Bà Sa La xứ Ma Kiệt Đà thỉnh Phật.
8. C65, Ô điểu dụ kinh:
Phật dùng bảy ví dụ, một con rái cá, một con cưu mạt (chim săn mồi), một con chim thứu (kên kên), một con chim ăn đồ mửa, một con sói, một con quạ, và một con bê để khuyên các Tỳ-kheo không nên xử sự giống sáu con thú và chim (nghĩa là nhận của cúng dường từ cư sĩ mà không có tịnh giới) nhưng hãy theo gương con bò, nghĩa là từ bỏ năm triền cái, hành thiền để đắc quả A-la-hán.
9. C69, Tam thập dụ kinh:
Đức Phật dùng 30 thí dụ về các vật và người mà vua hoặc cận thần của vua sở hữu, để khuyên các tăng ni phải có đủ 30 đức tính cần có của người đã xuất gia. Đó là: 1. Lấy giới làm đồ trang sức, 2. Sự viên mãn giới để hộ trì đời sống phạm hạnh, như năm ấn, 3. Hộ trì sáu giác quan, như lính gác cung điện, 4. Chánh niệm, như người gác cổng, 5. Tâm an tịnh, như hồ tắm đầy nước trong, 6. Bạn lành, như người hầu tắm, 7. Sự tuân giữ giới, như hương liệu thoa thân, 8. Tàm và quý, như y phục đẹp, 9. Bốn thiền, như chỗ ngồi, 10. Chánh niệm, như người thợ hớt tóc, 11. Hỷ, như thực phẩm tuyệt hảo, ngon lành, 12. Pháp vị, như thức uống ngon, 13. Ba thiền về tâm, không, vô nguyện, vô tướng, như là những tràng hoa đẹp, 14. Nhà của chư thiên, phạm thiên, như là lâu đài cung điện. 15. Trí tuệ, như người giữ nhà, 16. Bốn chánh cần, như bốn loại thuế. 17. Bốn chánh đoạn, như các loại quân, 18. Bốn thần thông, như bốn loại xe, 19. Định tuệ, như vật trang hoàng cho xe. 20. Chánh niệm, như người đánh xe, 21. Tự tâm, như lá cờ cao, 22. Bát chánh đạo, như con đường bằng phẳng, 23. Trí tuệ, như tướng quân, 24. Trí tuệ, như sảnh đường cho tiếp kiến, 25. Lên lầu cao trí tuệ, như vua và đình thần lên lầu cao, 26. Sự đạt đến bốn hạng gia đình cao quý, như là thiện xảo về dòng họ và triều đại, 27. Chánh niệm, như một y sĩ có tài. 28. Thiền định không chướng ngại, như một chỗ nằm khéo trang hoàng, 29. Tâm giải thoát bất động, như ngọc báu nổi tiếng, 30. Quán tâm để thanh tịnh thân, như việc vua và định thần của vua đi tắm và bôi hương liệu lên thân thể để làm thân họ trong sạch.
10. C80, Ca thi na kinh:
Tôn giả A Na Luật Đà bảo Tôn giả A Nan rằng, ba cái y của mình đã rách, rất tồi tệ, và xin Tôn giả A Nan sai các Tỳ-kheo sắm cho mình ba y. Tôn giả A Nan bảo các Tỳ-kheo tụ hội để may y cho Tôn giả A Na Luật Đà. Khi Phật trông thấy, Ngài hỏi Tôn giả A Nan sao không báo cho Ngài biết để Ngài đến giúp một tay may y, rồi Phật đi đến hội chúng và giúp một tay may y cho Tôn giả A Na Luật Đà, cùng với 800 Tỳ-kheo hiện diện, nhờ thế ba y hoàn tất nội trong một ngày. Khi ấy đức Thế Tôn vì bị đau lưng, trước đại chúng, nằm xuống nghỉ một lát và bảo Tôn giả A Na Luật Đà thuyết pháp về Ca thi na cho các Tỳ-kheo. A Na Luật Đà vâng lời, ngài nói ra lý do của việc mình theo đời sống phạm hạnh, tuân giữ giới luật, gột rửa năm triền cái, sự hành thiền, chứng đắc bốn thiền, các thần thông, thiên nhãn, tha tâm, túc mạng trí, sinh tử trí, trí biết về bốn đế, về các lậu hoặc một cách như thật. Rồi Tôn giả A Na Luật Đà hỏi các Tỳ-kheo, nếu có nghi ngờ gì về sự chứng đắc sáu thắng trí của ngài thì cứ hỏi, ngài sẽ trả lời cho tất cả. Khi ấy, đức Phật sau khi hết cơn đau lưng, trở dậy ngồi kiết già, khen ngợi A Na Luật và khuyến khích ngài giảng pháp Ca thi na cho các Tỳ-kheo và khuyên các Tỳ-kheo nên thực hành pháp Ca thi na.
11. C92, Thanh bạch liên hoa dụ kinh:
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng có những pháp có thể phá hủy bằng thân như các bất thiện thân hành, có những pháp có thể phá hủy bằng miệng như các bất thiện ngữ hành, có những pháp không thể phá hủy bằng thân và miệng, như sự tranh chấp, cải cọ, thù hằn, tham lam, quỷ quyệt, nịnh hót, vô tàm vô quý, ác dục, tà kiến, những thứ này không thể được phá hủy bằng thân và miệng mà chỉ nhờ bằng trí tuệ.
12. C147, Văn đức kinh:
Đức Phật kể ra cho Bà-la-môn Văn Đức 14 đức tính cần phải có của đệ tử xuất gia, tại gia của Phật. Nhờ đa văn và tu tập: 1. không khổ sầu và bị đau khổ thắng lướt, nếu công việc của họ không được thịnh vượng, 2. (như trên) nếu phải xa lìa những gì họ yêu thích, 3. quán sát tài sản là vô thường và nghĩ đến việc xuất gia học pháp, 4. theo đời sống không nhà để học pháp, 5. nhẫn khổ chịu nhọc về mọi thứ, 6. chịu đựng sự bất hạnh một cách nhẫn nại không bị nó làm ảnh hưởng, 7. chịu đựng sự kinh hoàng một cách nhẫn nại không bị ảnh hưởng bởi sợ hãi, 8. không bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng sân hận, 9. tránh xa ác bất thiện pháp, chứng và trú bốn thiền, 10. đắc quả Dự lưu, 11. đắc Nhất lai, 12. đắc Bất hoàn, đắc giải thoát tịch tịnh khỏi sắc pháp, đạt đến vô sắc, 14. đắc sáu thắng trí và quả A-la-hán.
13. C159, A già la A na kinh:
Bà-la-môn A Già La A Na hỏi Phật một loạt câu hỏi, khởi đầu là : "Kinh điển Vệ đà căn cứ trên nền tảng nào" cho đến Niết-bàn là pháp thứ 16. Phật trả lời một loạt 17 pháp, khởi đầu bằng con người, được nói là nền tảng trên đó kinh Vệ đà căn cứ, v.v.. cho đến Niết-bàn, pháp kế tiếp làm nền tảng cho pháp đi trước nó, trừ pháp thứ sáu, hư không, không có nền tảng vì do mặt trăng mặt trời mà hư không hiện hữu; cũng trừ Niết-bàn, cái không có nền tảng. 17 pháp như sau: 1. Người, 2. Mùa màng, 3. Đất, 4. Nước, 5. Gió, 6. Hư không. 7. Nhật nguyệt, 8. Tứ thiên vương, 9. Cõi trời 33, 10. Trời Dạ Ma, 11. Trời Đâu Suất Đà, 12. Trời Hóa Lạc, 13. Trời Đại Hóa Lạc, 14. Trời Brahmaloka 15. Trời Đại Phạm, 16. Nhẫn nhục và từ bi, 17. Niết-bàn.
14. C176, Hành thiền kinh:
Đức Phật giảng cho các Tỳ-kheo bốn hạng người tu tập thiền định: những người tu hành thối về thiền định mà tưởng mình tiến, hạng người tiến mà tưởng mình thối, hạng người thối nhưng biết mình thối, hạng người tiến mà biết mình tiến.
15. C77, Thuyết kinh:
Đức Phật giảng cho các Tỳ-kheo lý thuyết về bốn loại ngôn ngữ. Có một Tỳ-kheo tu hành đạt đến sơ thiền nhưng không bám giữ sụ tu tập ấy, không nghĩ về đặc tính của nó mà lại nuôi những ý nghĩ liên hệ đến dục. Tỳ-kheo ấy nên biết rằng vị ấy khởi lên sơ thiền nhưng không đứng vững, không tiến, mà sẽ thụt lùi. Nếu có một Tỳ-kheo tu tập và đạt đến sơ thiền, nhưng bám lấy sự tu tập này, tư duy về đặc tính của nó, trú tâm mình trên pháp ấy làm nó trở thành chuyên nhất, Tỳ-kheo ấy nên biết rằng vị ấy khởi lên pháp này không thụt lùi cũng không tiến bộ; vị ấy sẽ không trở thành nhàm chán, mà sẽ đứng vững và định của vị ấy sẽ kéo dài.
Lại nữa có một Tỳ-kheo hành thiền đạt đến sơ thiền. Vị ấy không bám giữ sự tu tập này, không nghĩ đến đặc tính của nó nhưng nuôi những ý tưởng liên hệ và mong muốn tiến lên. Tỳ-kheo ấy nên biết rằng, vị ấy làm khởi lên pháp ấy nhưng không thụt lùi, không đứng nguyên chỗ, không trở thành nhàm chán, mà pháp ấy khiến họ tiến xa hơn và chẳng bao lâu họ sẽ đạt đến thiền thứ hai. Lại nữa có một Tỳ-kheo hành thiền, đạt đến sơ thiền, không bám giữ pháp ấy, không nghĩ đến đặc tính của nó, nhưng nuôi dưỡng những ý tưởng liên hệ đến diệt tận, an tịnh, ly dục, Tỳ-kheo nên biết rằng vị ấy làm phát sinh pháp ấy nhưng không thụt lùi, không đứng một chỗ, không tiến lên, nhưng pháp ấy làm cho vị ấy nhàm chán và chẳng bao lâu vị ấy sẽ đạt đến lậu tận, sự chấm dứt tất cả lậu hoặc. Cũng vậy với thiền thứ hai, thứ ba và thứ tư cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ.
16. C197, Ưu ba ly kinh:
Kinh này có kinh P tương đương trong Mahàvagga.
17. C218, A na luật đà kinh:
Các Tỳ-kheo hỏi Tôn giả A Na Luật Đà thế nào gọi là một Tỳ-kheo chết như một bậc thánh. Tôn giả A Na Luật Đà trả lời rằng, khi một Tỳ-kheo tu tập chứng đến thiền thứ tư, vị ấy được gọi là chết như một bậc thánh nhưng không hoàn toàn thánh. Nhưng vị Tỳ-kheo nào có được thiên nhãn, tha tâm, biết các đời trước, đạt đến sanh tử trí, lậu tận trí, đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đắc quả A-la-hán, vị ấy được gọi là đã chết với một tâm thánh thiện và đây là tối thượng.
18. C219, A na luật đà kinh:
Các Tỳ-kheo hỏi Tôn giả A Na Luật Đà thế nào gọi là một Tỳ-kheo chết không còn phiền não. Tôn giả A Na Luật Đà trả lời rằng, khi một Tỳ-kheo có tri kiến chánh trực, có các học giới mà chư thánh yêu mến. Khi một Tỳ-kheo tu tập bốn niệm xứ, bốn vô lượng, khi một Tỳ-kheo tu các thiền vô sắc cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, thế là họ chết không có phiền não, nhưng không phải là tuyệt đối không phiền não. Chỉ có những Tỳ-kheo nào biết cách dập tắt thân xúc, và với trí tuệ đoạn trừ tất cả lậu hoặc, những Tỳ-kheo ấy sẽ chết tuyệt đối không phiền não.
19. C222, Lệ kinh:
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng, muốn nhổ tận gốc, hoặc muốn biết một cách riêng rẽ 12 thành phần của duyên sinh, người ta phải tu tập bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo, mười biến xứ, và mười pháp của bậc vô học.
---o0o---
|
|
|
Post by TCTV on Dec 21, 2010 17:51:03 GMT -5
Sabbāsava sutta - Bài dạy tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn I. ĐẠI Ý KINH Đức Phật giới thiệu bảy phương pháp diệt trừ tận gốc rễ của lậu hoặc, phiền não. Tuỳ theo căn tánh, hành giả chọn lựa cho mình phương pháp thích hợp nhất để giải phóng tất cả trói buộc, sống an lành và hạnh phúc, ngay bây giờ và tại đây. II. NỘI DUNG KINH Đối tượng thính chúng được đức Phật giảng dạy phương pháp diệt trừ lậu hoặc là “người biết và người thấy.” Hai loại tác ý: Tác ý là nền tảng nhận thức, theo đó, lậu hoặc sinh khởi hay bị đoạn diệt. Do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. 1) Trừ diệt lậu hoặc bằng tri kiến: Phàm phu do không tuệ tri nên tác ý các pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải tác ý. Không cần tác ý mà lại tác ý: do vậy 3 lậu (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) chưa sanh được sanh khởi, hay đã sanh được tăng trưởng. Tác ý các pháp cần tác ý: nhờ đó, 3 lậu (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) chưa sanh không sanh khởi, hay đã sanh được trừ diệt. Không như lý tác ý về quá khứ: "Ta có mặt hay không? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt với hình vóc như thế nào? Không như lý tác ý về vị lai: "Ta có mặt hay không? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt với hình vóc như thế nào?” Không như lý tác ý về hiện tại: "Ta có mặt hay không? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt với hình vóc như thế nào? Chúng sanh từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?” Hậu quả của không như lý tác ý: sáu tà kiến (còn gọi kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược) xuất hiện: 1) Ta có tự ngã", 2) Ta không có tự ngã, 3) Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã, 4) Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã, 5) Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã, 6) Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại. Do bị tà kiến trói buộc, phàm phu không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Nhờ như lý tác ý: "Đây là khổ," "Đây là khổ tập," "Đây là khổ diệt," "Đây là con đường đưa đến khổ diệt," ba kiết sử là thân kiến, nghi, giới cấm thủ được trừ diệt. Đây gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ. 2) Trừ diệt lậu hoặc bằng phòng hộ: Với như lý giác sát, người trí sống phòng hộ mắt, tai, mủi, lưởi, thân và ý; nhờ đó, các lậu hoặc được diệt trừ và nhiệt não không còn. 3) Trừ diệt lậu hoặc bằng thọ dụng: a) Y phục để che đậy sự trần truồng, ngăn ngừa lạnh, nóng, ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát. b) Thực phẩm không phải để hưởng thụ, thoã mãn, tự làm đẹp thân, mà chỉ để thân được sống lâu và sống khoẻ, hỗ trợ con đường tu tập, nhờ đó diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, không còn lỗi lầm, sống được an ổn. c) Sàng toạ chỉ với mục đích sống độc cư an tịnh. d) Dược phẩm để trị bệnh, ngăn chận các cảm giác khổ đã sanh, để được ly khổ hoàn toàn. 4) Trừ diệt lậu hoặc bằng kham nhẫn: a) Kham nhẫn khí hậu và thời tiết: lạnh, nóng. b) Kham nhẫn thực phẩm: đói, khát. c) Kham nhẫn ngoại duyên: sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát. d) Kham nhẫn thị phi: kham nhẫn những cách nói mạ lỵ, phỉ báng. e) Kham nhẫn cảm thọ khổ của thân (thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người). 5) Trừ diệt lậu hoặc bằng tránh né: a) Tránh né thú dữ: voi, ngựa, cọp, rắn, chó sói v.v... b) Tránh né ngoại cảnh: khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. c) Tránh né nơi chốn: những trú xứ không nên lai vãng, những chỗ ngồi không đáng ngồi. d) Tránh né người bất thiện: bạn bè hay người ác độc nếu giao du thì bị người trí nghi ngờ, khinh thường. 6) Trừ diệt lậu hoặc bằng trừ diệt: a) Dục niệm: tư duy, ý niệm hướng về dục, ước muốn thoã mãn dục tính, lệ thuộc dục vọng; xem khoái lạc giác quan là cứu cánh của cuộc sống. b) Sân niệm: tư duy, ý niệm hay khuynh hướng bực tức, giận dữ, chống đối đối tượng, thể hiện qua lời tục tĩu, thô bạo, thiếu ái ngữ; qua hành động nóng nải và các biểu hiện nôn nóng. c) Hại niệm: tư duy, ý niệm hay khuynh hướng tiêu diệt, cản phá đối tượng không thích; hãm hại, trù dập, ức hiếp người khác. d) Bất thiện, đã khởi lên, đang hiện hữu hay sẽ có mặt; không để chúng tồn tại lâu dài trong ý nghĩ và việc làm. 7) Trừ diệt lậu hoặc bằng tu tập (bhāvanā): Ngoài hỗ trợ bằng phương pháp đoạn trừ lậu hoặc trên nền tảng ngăn ngừa các tâm lý dục, sân, hại và các pháp bất thiện, hành giả còn phải vận dụng 7 yếu tố giác ngộ: a) chánh niệm, b) trạch pháp, c) tinh tấn, d) hoan hỷ, e) khinh an, f) định tĩnh, g) xả ly, hướng đến viễn ly, ly tham và giải thoát. Bệnh Nào Thuốc Nấy: những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ được đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng dược đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được đoạn trừ đã được kham nhẫn đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được đoạn trừ đã được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được đoạn trừ đã được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu tập được đoạn trừ đã được tu tập đoạn trừ. Nhờ đó, con người được sống trong phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau. III. CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ Lậu hoặc (P. āsava, S. āsrava): sự ô nhiễm, mê lầm (hoặc) hay rỉ chảy (lậu) của tâm, có khả năng làm chúng sanh rơi rớt (lậu) trong sanh tử luân hồi. Có ba loại lậu hoặc: a) dục lậu (kāmāsava): sự ô nhiễm do tham đắm khoái lạc giác quan; b) hữu lậu (bhavāsava): sự ô nhiễm do tham đắm tái sanh ở thế giới sắc thể và thế giới vô sắc thể; c) kiến lậu (diṭṭhāsava): sự ô nhiễm do chấp thủ vào quan điểm sai lầm, hay do thiếu tuệ giác về bốn chân lý thánh. Như lý tác ý (yoniso manasikāraṃ) thường được dịch trong tiếng Anh là “thích hợp để chú ý” (fit for attention) hay “sự chú ý không ngoan” (wise attention), “sự phản ánh thông thái” (wise reflection), hay “sự chú tâm có lý trí” (rational attention) vốn không phản ánh đúng được thật chất của thái độ nhận thức này. Như lý tác ý là cách viết theo cấu trúc Hán Việt, thay vì phải gọi là “tác ý như lý” là cách dụng tâm hay nhận thức phù hợp với “đạo” hay nguyên lý vận hành của mọi sự vật hiện tượng. Đây là cách thức đặt tâm vào quỷ đạo chân lý, phản ánh loại nhận thức sự kiện phù hợp với luật duyên khởi, luật nhân quả đang diễn ra hay tương thích với bản chất của sự vật hiện tượng đang diễn ra xung quanh ta. Không như lý tác ý (ayoniso manasikāraṃ) hay còn gọi là “tác ý không như lý” tức là cách dụng tâm hay nhận thức không phù hợp với “đạo”, hay nhận thức trái ngược lại với chân lý hay nguyên lý vận hành của mọi sự vật hiện tượng. Chẳng hạn, nhận thức “thường còn” trong vô thường; nhận thức có một bản ngã bất biến trong các sự vật không thực thể; nhận thức hạnh phúc trong khi sự kiện diễn ra là khổ đau. Sáu giác quan: mắt, tai, mủi, lưởi, thân và ý là các cơ năng nhận thức trên cơ sở tưởng tri và ý niệm hoá. Bảy giác tri: bảy yếu tố giúp cho hành giả đạt được sự giác ngộ: chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hoan hỉ, khinh an, thiền định và buông xả. Tà kiến (micchādiṭṭhi): quan niệm hay nhận thức không dựa trên lý duyên khởi, lý nhân quả, lý vô thường và lý vô ngã. Kiến trù lâm (diṭṭhigaharam): tà kiến như rừng rậm; đây là quan niệm hay nhận thức sai lầm trói buộc con người như rừng cây làm cho người lạc lối bị mê hồn trận, không biết lối ra. Kiến hoang vu (diṭṭhiṭhikantāram) tà kiến như bình nguyên hoang dã, làm người tu tập hành mất định hướng trên con đường đạo. Kiến hý luận (diṭṭhivisūkam): tà kiến là nhận thức sai lầm, trói buộc con người trong các lý luận quanh co, vô ích cho đạo đức và nhận thức. Kiến tranh chấp (diṭṭhivipphanditam): tà kiến trói buộc con người trong sự bảo thủ quan điểm của mình như chân lý, phủ định xung đột với các quan điểm khác, là đầu mối của chấp trước, tranh giành và đấu tranh. Kiến kiết phược (diṭṭhisamyojanam): tà kiến trói buộc con người, làm cho con người không thể vùng vẫy nổi, sai sử con người trong khổ đau và luân hồi. IV. NHẬN XÉT Khái niệm “tưởng tri” và “thắng tri” được kinh này thay thế bằng hai khái niệm “tác ý không như lý” và “tác ý như lý.” Khi dụng tâm chân chánh thì đó là tác ý như lý. Đây cũng chính là “chánh kiến” tức cái nhìn đúng với bản chất của sự vật. Khi dụng tâm không chân chánh thì đó là “tác ý không như lý” và đây chính là tà kiến. Bài kinh này dạy chúng ta cách thức tác ý dụng tâm để mang lại giá trị hạnh phúc và an vui. Tất cả các nhận thức không theo quỹ đạo đó cần phải được loại trừ. Nhận thức trong Kinh này được xem là đầu mối của khổ đau hoặc hạnh phúc, sinh tử hoặc giải thoát. Vấn đề không nằm ở đối tượng được nhận thức, mà nằm ở xu hướng của nhận thức. Nếu nhận thức đúng với chân lý thì đó là thắng tri của bậc thánh, vượt thoát khỏi mọi hệ luỵ. Ngược lại, nếu nhận thức không phù hợp với chân lý thì đó là tưởng tri, dấy khởi các tâm lý tham lam, sân hận, si mê, lôi kéo con người vào từ trừng của sinh tử. Đối tượng tu tập của kinh này là phiền não lậu hoặc, những tâm lý âm tính, trói buộc chúng sanh trong khổ đau. Phương pháp tu tập trong Kinh này khởi đi bằng nhận thức “như lý tác ý” để thành tựu được đời sống đạo đức thanh tịnh. Nói cách khác, để có được hạnh phúc khỏi những đau khổ, hành giả phải điều chỉnh nhận thức và sự tác ý về đối tượng nhận thức. Nếu các Kinh khác nhấn mạnh đến gốc rễ của lậu hoặc chính là các tâm lý tham, sân và si thì Kinh này đề cập đến cách thức nhận thức không đúng với chân lý tạo nên gốc rễ của phiền não, lậu hoặc. Điểm đặc biệt của Kinh này là đề cập đến 7 góc độ góp phần tạo ra lậu hoặc: nhận thức sai lầm, thiếu sự phòng hộ các giác quan, thọ dụng để thoã mãn các dục, thiếu kham nhẫn, không biết tránh né những thứ cần tránh né, không đoạn trừ các bất thiện pháp, và không tu tập các yếu tố dẫn đến sự giác ngộ. Con đường giải thoát hay con đường chế ngự lậu hoặc được khởi đi bằng nhận thức chân chánh và phát huy các đức tính đối lập với các cá tính vừa nêu. Bài kinh này đề cập đến “như lý tác ý” như nhận thức chánh kiến, giúp con người dập tắt khổ đau. Qua đó, chúng ta thấy rằng trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong Phật giáo. Nơi nào có trí tuệ nơi đó có hạnh phúc. Mấu chốc của con đường tu tập trong Kinh này chính là đoạn trừ lậu hoặc bằng các từ bỏ thái độ chấp thủ quan điểm. Khi thái độ chấp thủ không còn, lề lối nhận thức theo truyền thống hay theo kinh nghiệm hữu ngã không còn chỗ đứng. Nhờ đó, các tác ý hưởng dục, tác ý giận dữ, tác ý sát hại, tác ý bất thiện hoàn toàn vắng mặt. Sự giác ngộ theo đó được trưởng thành. VI. CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Tại sao Kinh không đề cập sáu hay tám, mà chỉ có bảy phương pháp tu tập diệt trừ lậu hoặc. Số bảy trong Kinh này là con số biểu tượng hay mang một ý nghĩa nào khác? 2. Ngoài bảy cách thức tu tập trong Kinh, quý vị có phát kiến ra cách thức nào khác không mà vẫn có hiệu quả trong việc diệt trừ các lậu hoặc cá nhân ? 3. Theo bạn, các phương pháp tu tập trong Kinh này có giá trị tuyệt đối cho tất cả đối tượng khác nhau trong nhiều trường hợp khác nhau, hay chỉ áp dụng cho từng trừng hợp và từng đối tượng cụ thể ? 4. Theo bạn, cái gì làm cho bạn khổ đau nhất trong đời. Nếu bạn phải giáp mặt với khổ đau đó một lần nữa thì bạn chọn phương pháp nào trong bảy cách thức tu tập trong kinh này để giải quyết khổ đau đó? 5. Trong bảy phương pháp tu tập trong Kinh này, bạn thích phương pháp nào nhất? Tại sao?
|
|
|
Post by TCTV on Dec 21, 2010 17:53:20 GMT -5
Kinh Trung Bộ giảng giải - Bài 000: Dẫn nhập khoá học "Kinh Trung Bộ và Cuộc sống"
Có thể nói, Kinh Trung Bộ là tuyển tập đề cấp đến các vấn đề Phật học, đa dạng và phong phú, mà chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu trong từng bài kinh. Ở đây, chúng ta tìm hiểu sơ lược về bố cục của bộ kinh này.
I. CÁC QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ KINH TRUNG BỘ
- Kinh này chỉ dành riêng cho giới xuất gia, người tại gia không nên học. Cấp Cô Độc nhờ nghe Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc (Trung bộ 143; tương đương với Giáo Hoá Bệnh kinh của Trung A-hàm 26) và học kinh mà được an lành, siêu thoát cuối đời.
- Kinh Trung Bộ nói riêng và kinh Pali nói chung là kinh Tiểu Thừa, dành cho hang “tiêu nha bại chủng” hay “căn cơ thấp kém.” Thực ra, Kinh Trung Bộ đề các tất cả các vấn đề Phật học, từ nhận thức luận, đến đạo đức học, và được xem là cẩm nang triết lý đạo đức Phật giáo.
- Phật tử Bắc tông không học kinh điển Nam tông. Cần học để hiểu nhau hơn, thông cảm nhau, để cùng nhau được hạnh phúc.
- Kinh Trung Bộ nói riêng và Kinh điển Pali nói chung là kinh điển nguyên thuỷ, và các kinh khác là kinh ngoại đạo.
- Đúng: Kinh nền tảng của Kinh tạng Pali, chứa đựng nhiều kinh điển nền tảng nhất.
II. VÀI NÉT VỀ KHOÁ HỌC
- Thời gian học: Mỗi tuần 1 lần, 80 phút. Khoảng 20-30 phút vấn đáp; hoặc thảo luận các vấn đề ứng dụng.
- Hướng dạy: a) chủ đề; b) từng bài Kinh. à Chọn các bài căn bản, không trùng lập nội dung. Không đọc toàn bài Kinh.
- Đối tượng và bản chất khoá học: Đối tượng đa dạng (tăng ni và Phật tử, Phật tử và không phật tử, trình độ không đều). Không phải lớp học mang tính học đường quá cao, nhưng cũng không quá thấp. Vừa nội dung vừa ứng dụng.
- Bố cục bài: Kinh Nikāya hay Pali rất khô khan, có nhiều thuật ngữ rất mới và khó hiểu với Phật tử, có nhiều đoạn trùng lập. Đại ý Kinh, Nội dung Kinh, Liên hệ ứng dụng. Giải thích nghĩa từng từ. Thuật ngữ Phật học trong Trung Bộ tương đối lạ và khó hiểu à khó ứng dụng à không lợi ích. Chuyển sang ngôn ngữ thường ngày.
- Tài liệu tham khảo: Muốn hiểu bài giảng, học viên nên đọc tài liệu 1 trước ở nhà, để hiểu chính xác lời Phật. Đọc một cách có suy tư và tìm cách ứng dụng.
+ Nên mua “Kinh Trung Bộ” do HT. Thích Minh Châu dịch.
+ Đĩa MP3 về Kinh Trung Bộ.
+ Quyển Kinh Trung Bộ do Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải tóm tắt và chú giải.
+ Nguyệt san Giác Ngộ số 68 (11-2001) trở đi, phần tóm tắt của HT. Thích Chơn Thiện.
III. MỤC ĐÍCH HỌC
- Học kinh theo hướng ứng dụng hành trì, để tìm kiếm các giá trị cuộc sống theo tinh thần Phật dạy.
- Kinh Phật không phải viện bảo tàng, để cất giữ, mà để học hỏi và hành trì.
- Học Kinh Phật không để tranh luận hơn thua, phân chia nhân ngã; mà nhằm chuyển hoá nhận thức, thăng hoa đạo đức, góp phần làm cuộc sống có ý nghĩa.
IV. GIỚI THIỆU BỐ CỤC KINH TRUNG BỘ
Có thể nói, Kinh Trung Bộ là tuyển tập đề cấp đến các vấn đề Phật học, đa dạng và phong phú, mà chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu trong từng bài kinh. Ở đây, chúng ta tìm hiểu sơ lược về bố cục của bộ kinh này.
Toàn bộ lời Phật dạy được chia làm hai nhóm: a) pháp (dhamma) tức Kinh tạng gồm 5 bộ kinh điển (Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi và Tiểu Bộ) và b) luật (vinaya) còn gọi là luật tạng, tức nguyên tắc đạo đức. Trung Bộ Kinh (Majjhima-Nikāya) thuộc về “pháp.”
Cần nói rằng các tuyển tập Kinh trong hệ Pali thường được phân bổ theo chiều dài (pamāṇa) của Kinh. Trường Bộ Kinh là tuyển tập 32 bài kinh có chiều dài dài nhất (dīghappamāṇānaṁ suttānaṁ). Trung Bộ Kinh là tuyển tập 152 Kinh có chiều dài trung bình (majjhimappamaaṇāni suttāni). Tương Ương Bộ Kinh gồm 7762 bài kinh. Tăng chi bộ Kinh là tuyển tập 9557 bài Kinh liên hệ đến pháp số, bắt đầu từ số một đến số 11. Tiểu Bộ Kinh là tuyển tập 15 bộ Kinh theo chủ đề. Thực ra, các phân loại tuyển tập kinh như vừa nêu cũng không tuyệt đối lắm. Ví dụ, bài kinh Vammīka và kinh Cūḷagopalaka có chiều dài ngắn hơn vài bài kinh trong các tuyển tập còn lại.
Trung Bộ Kinh là phần thứ hai của Kinh tạng, gồm 152 Kinh, và được chia làm 3 phần (paṇṇāsa) mỗi phần 50 Kinh, riêng phần thứ 3 gồm 52 Kinh. Mỗi phần lại chia thành 5 nhóm (vagga), mỗi nhóm gồm 10 Kinh, và nhóm cuối cùng gồm 12 Kinh.
Điểm đặc biệt của Trung Bộ Kinh là nhóm 4, tức các kinh mang số thứ tự từ 40 đến 50, có cấu trúc “bộ” hay “song đôi” (yamakavagga), cứ hai Kinh gồm một tựa đề. Kinh thứ nhất với tiếp đầu ngữ Cūḷa (tiểu kinh) là kinh ngắn hơn; trong khi đó, với tiếp đầu ngữ Mahā (đại kinh) là kinh dài hơn.[1]Trên thực tế, có tất cả 17 cặp kinh như vậy, nằm rãi rác trong toàn Kinh Trung Bộ. Trật tự, tiểu kinh trước đại kinh không được nhất quán, và do đó, có lúc đại kinh đứng trước. Có trường hợp, tiểu kinh không nhất thiết theo sau hay đứng trước đại kinh, mà chúng cách nhau khá xa (ví dụ, kinh mang số 109, 110).
Đối tượng thính chúng trong Trung Bộ Kinh rất đa dạng. Có 36 Kinh nói cho từng đối tượng khác nhau (chẳng hạn các kinh mang số 8, 12, 23, 30, 41, 42, 36, 50); trong khi các kinh còn lại nói cho đại chúng. Đức Phật đối thoại với nhiều thần phần xã hội khác nhau: vua chúa, thương gia (k. 82), tướng cướp (k. 86), và với cả những người lãnh tụ tôn giáo khác, và có kinh nói trên thiên giới (k.49). Phần lớn các bài kinh trong Trung Bộ Kinh do đức Phật nói. Có vài kinh do ngài Xá-lợi-phất nói (3, 5, 9, 24, 28, 43). Có kinh do ngài Mục-kiền-liên nói (15, 37, 50). Có 9 kinh do A-nan-đa nói. Có kinh do Ca-chiên-diên nói (18, 23). Có kinh dưới dạng đối thoại giữa đệ tử Phật và người khác đạo (27, 44).
V. PHƯƠNG PHÁP ĐẶT TÊN KINH ĐẠI THỪA
Tông Thiên Thai phân loại các tựa đề của Kinh gồm 7 loại, xoay quanh ba nhóm chính là nhân, pháp và dụ:
1. Đơn nhân lập đề: Các Kinh nói về hạnh nguyện độ sinh của một đức Phật hay một vị Bồ-tát. Ví dụ: Kinh A-di-đà, Kinh Duy-ma-cật; Kinh Thắng Man Phu Nhân.
2. Đơn Pháp: Pháp môn chính của Kinh được sử dụng làm tựa đề Kinh. Ví dụ: Kinh Đại-bát Niết-bàn.
3. Đơn Dụ: Lấy ẩn dụ làm nội dung của bài kinh. Ví dụ: Kinh Phạm Võng, tức Phạm Thiên, ám chỉ cho các điều khoản giới luật đan xen nhau vô tận.
4. Nhân Pháp: Trong tựa đề vừa có đối tượng pháp hội và có pháp môn được giảng dạy. Ví dụ: Kinh Văn-thù Vấn Bát-nhã.
5. Pháp Dụ: Trong tựa đề, pháp môn được sánh ví với một hình ảnh. Ví dụ: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
6. Nhân Dụ: Người thuyết pháp được ví dụ như một biểu tượng đặc biệt. Ví dụ: Kinh Như Lai Sư Tử Hống.
7. Nhân Pháp Dụ: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Đại Phương Quảng là pháp. Phật là nhân. Hoa Nghiêm là dụ.
LỜI KHAI MẠC
Kính bạch . . . . Trước nhất, con xin thành kính đảnh lễ sự hiện diện quý báu của chư tôn Hoà thượng, quý Thượng toạ, đại đức Tăng, tại giảng đường chùa Phật học Xá Lợi, để chứng minh lễ khai giảng lớp học “Kinh Trung Bộ và Cuộc Sống.”
Chúng con thành kính tri ân Hoà thượng Thích Hiển Tu, Viện chủ chùa Phật Học Xá Lợi, HT. Thích Trí Quảng, trưởng Ban Hoằng Pháp, cũng như ban Quản Trị của Chùa đã cho phép con tổ chức lớp học này tại giảng đường của một ngôi chùa gắn liền với truyền thống giảng dạy Phật học trong nửa thế kỷ qua.
Kính bạch chư tôn đức và liệt quý vị. Về phương diện công năng, lời Phật dạy có thể được gọi là “sữa pháp,” có khả năng nuôi lớn đạo đức, trí tuệ và hạnh phúc của con người.
Về phương diện đối tượng, lời Phật dạy được gọi là “mưa pháp” tưới mát đều cho mọi loài, không phân biệt chủng loại, tôn giáo, giới tính, hay lão ấu.
Về phương diện đặc tính, lời Phật dạy được gọi là “biển pháp” vừa mênh mông, bao la, vừa sâu thẳm, về tư tưởng, triết lý và đời sống tâm linh.
Về phương diện ứng dụng thực tiễn, kiến thức của đức Phật được sánh ví với những chiếc lá trong rừng nhưng lời Phật dạy qua kinh điển như “những chiếc lá trong lòng bàn tay.” Nghĩa là đức Phật không dạy chúng ta những điều mông lung, vô ích, mà chỉ giới thiệu cho chúng ta những cẩm nang hay tấm bản đồ của an vui và giải thoát, theo đó, chúng ta phải tự thực hành để tự mình đạt được mục đích tối thượng.
Dĩ nhiên chúng ta có nhiều cách tiếp cận Phật pháp nhưng một trong những cách cần thiết cho cuộc sống đời thường của mọi người là “đến với lời Phật dạy qua phương diện ứng dụng.” Đó là lý do, lớp học “Kinh Trung Bộ và Cuộc Sống” được ra đời. Mong sao qua khoá học này, quý học viên sẽ xây dựng hạnh phúc và an vui cho mình và gia đình qua lời vàng Phật dạy. Trên tinh thần này, tôi xin tuyên bố khai mạc “lễ khai giảng lớp học” Nguyện tất cả được an vui trong chánh pháp và hanh thông trong cuộc sống.
[1] Trong Kinh Pháp Cú, phẩm đầu tiên có tên gọi là Phẩm Song Đối, với nghĩa bài kệ trước và bài kệ sau có nội dung tương phản. Trong Kinh Tương Ưng (S. iv. 6-15) và Kinh Tăng Chi (A. iv. 314-335; v. 113-131) cũng có các phẩm song đối.
|
|
|
Post by TCTV on Dec 21, 2010 17:55:00 GMT -5
Kinh Tăng Chi Bộ - Chương I - Phẩm đoạn triền cái - Phân tích
Kinh Tăng Chi Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
1
CHƯƠNG MỘT
MỘT PHÁP
Minh Mẫn
II. PHẨM ĐOẠN TRIỀN CÁI
Những pháp đoạn trừ và nuôi dưỡng năm triền cái.
1-10. TỊNH TƯỚNG v.v...
1.- Ta không thấy một phép nào khác, này các Tỷ-kheo, dẫn đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tịnh tướng. Tịnh tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không như lý tác ý, đưa đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, và dục tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
2. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như đối ngại tướng. Đối ngại tướng, này các Tỷ-kheo, nếu theo như lý tác ý, đưa đến sân, chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
3. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không hân hoan, biếng nhác, chán nản, ăn quá no, tâm thụ động. Với người có tâm thụ động, này các Tỷ-kheo, hôn trầm thụy miên chưa sanh được sanh khởi, và hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
4. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến trạo hối chưa sanh được sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tâm không được chỉ tịnh. Với người tâm không chỉ tịnh, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa sanh được sanh khởi, và trạo hối đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
5. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không như lý tác ý. Do không như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi, và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
6. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tướng bất tịnh. Tướng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận.
7. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như từ tâm giải thoát... Từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn tận.
8. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn tận.
9. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đua đến trạo hối chưa sanh không sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tâm tịnh chỉ. Người có tâm tịnh chỉ, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa sanh không sanh khởi, và trạo hối đã sanh được đoạn tận.
10. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi, và nghi hoặc đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như lý tác ý. Nếu như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi, và nghi hoặc đã sanh được đoạn tận.
*************************
Trộm bàn:
1.- Ta không thấy một phép nào khác, này các Tỷ-kheo, dẫn đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tịnh tướng. Tịnh tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không như lý tác ý, đưa đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, và dục tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại….
- Tịnh tướng là bản thể vắng lặng, thanh khiết. Một hành giả không chuyên cần khởi tâm thanh tịnh, bản chất thanh tịnh đó để tham dục không có điều kiện sanh khởi và phát triển, chắc chắn chúng dễ dàng phát triển, khởi sanh rộng rãi! tướng bất tịnh cũng là điều kiện để hành giả nhàm chán những loại tham dục uế trược. Tịnh tướng hay bất tịnh tướng là hai mặt của một vấn đề, có khả năng đoạn trừ tham dục.
- Sân cũng thế, tự nó không có điều kiện sanh khởi và phát triển, nếu đối diện với những tình trạng đưa đến tâm sân, hành giả tác ý thanh tịnh liễu triệt thì sân sẽ không có điều kiện khởi sanh hoặc phát triển!
- Hôn trầm thụy miên là một trạng thái tâm thức và thể chất. Tác động bởi ngoại cảnh thì ít mà do chính bản thân là chủ thể quyết định. Nguyên nhân đưa đến hôn trầm là do tâm lý thiếu phấn chấn, thụ động, lười biếng, trầm mịch, thậm chí ăn quá độ cũng dễ đưa đến hôn trầm thụy miên. Chính vì thế, Phật chế Tỳ kheo ăn ngọ để tránh cung ứng cho cơ thể quá dồi dào và khỏi mất thời gian tu tập vì chuyện ăn uống.
- Trạo cử là hai chi mạt thuộc cỏi sắc giới và vô sắc giới làm chướng ngại. Hối là ố tác từ nghi sanh kết hợp với trạo cử gọi là trạo hối. Trạo hối chỉ được triệt tiêu khi tu Tứ Thánh Đế và tâm an định.Hành giả tu tập tâm không chỉ tịnh thì đó là điều kiện cho trạo hối dễ phát sanh.
- Nghi là một trong năm hạ phần kiết sử. Nghi có 11 loại nằm trong ba cỏi, chỉ được đoạn trừ khi thấu hiểu được Tứ Thánh đế, mà Đức Thế tôn gọi là Như lý tác ý. Hiểu được lý duyên sinh thì thấu được pháp xuất thế, dứt được nghi.
Hãy lưu ý hai đoạn văn mà chúng ta lướt qua dễ nhầm lẫn như sự trùng lặp: 1.- Ta không thấy một phép nào khác, này các Tỷ-kheo, dẫn đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tịnh tướng. Tịnh tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không như lý tác ý, đưa đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, và dục tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại
Và: 6. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tướng bất tịnh. Tướng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận.
Như lý tác ý về bản thể thanh tịnh thì dục tham chưa sanh không thể phát sanh, dục tham đã sanh không thể phát triển. Và nếu dục tham đã sanh thì quán bất tịnh tướng, dục tham đã sanh sẽ đoạn diệt và nếu dục tham chưa sanh thì sẽ không có cơ hội sanh trưởng.
2. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như đối ngại tướng. Đối ngại tướng, này các Tỷ-kheo, nếu theo như lý tác ý, đưa đến sân, chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
Và: 7. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như từ tâm giải thoát... Từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn tận. Đối trước ngoại cảnh phát khởi tâm sân và phát triển tâm sân, nhưng hành giả hành dụng từ tâm giải thoát mọi phiền trược sân hận không thể phát sanh, tâm sân đã có sẽ được đoạn tận.
Các chi phần kiết sử còn lại cũng thế. mỗi kiết sử đều có phương án đối trị. Tham dục lấy bất tịnh chuyển hoá.Sân hận lấy tâm từ giải độc. Hôn trầm lấy quán quang tỉnh thức. Trạo hối lấy chỉ tịnh làm thuốc hay. Nghi hoặc dùng Tứ đế hành quán. Chưa sanh sẽ không sanh, đã sanh sẽ không phát triển và dần dà bị đoạn diệt. Đó là cách đoạn ngũ triền cái của mọi hành giả.
Với pháp thế gian, giáo dục là phương cách ngăn ngừa khi tội ác chưa phát sanh, luật pháp là phương cách cảnh giác răn đe và xử trị tội ác sẽ và đã phát sanh; đó chỉ là giải quyết hiện tượng, phẩm Đoạn Triền Cái trên đây là cách giải quyết tận căn theo từng chi phần kiết sử, Lời Phật dạy không chỉ là hoá giải tâm lý, còn là nguồn căn đoạn trừ bệnh lý của con người.
17/11/09
|
|