|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:00:53 GMT -5
v) Hai quả chứng nhờ thực hành niệm xứ: C: (20a, 15-19) = P: (62, 34-37; 631-19):
Cả hai bản kinh đều mô tả hai quả chứng đạt được nhờ tu tập niệm xứ, đó là tối thượng tri kiến ngay trong hiện tại (C), chánh trí (P) hoặc nếu còn dư y, thì quả Bất hoàn (C) và sati và upàdesese anàgàmita (P).
Về thời gian tu tập để đạt đến hai quả nói trên, bản C bắt đầu bằng bảy năm và tuần tự xuống đến sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm, rồi bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng, rồi bảy ngày, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày một đêm. Nó còn nói thêm: "Vào buổi sáng, vị ấy tu tập như vậy, vào buổi chiều vị ấy sẽ đạt đến chứng đắc, vào buổi chiều vị ấy tu tập như vậy, sáng mai sẽ chứng đắc". Bản P khởi đầu bằng bảy năm, dần dần xuống đến sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm; bảy tháng rồi sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng, nửa tháng và bảy ngày chứ không ít hơn, và bảy ngày được xem là thời gian tối thiểu để đạt đến Chánh trí hay quả Bất hoàn.
Ghi chú: Về sự tu tập niệm xứ này cả hai bản kinh cho ta những tài liệu gần giống nhau, vì phương pháp quán căn bản chỉ là một. Nhưng những nhà kết tập hai tạng kinh dường như tự do thu thập những tài liệu, và điều này giải thích sự khác nhau về chi tiết mà ta sẽ thấy ở đây. Chúng ta có thể kết luận một cách an toàn rằng cả hai bản dịch đều xuất xứ từ một nguồn gốc, nhưng sự chọn lựa những chi tiết thì do những nhà kết tập tùy tiện.
b) Bốn chánh đoạn :Ở đây bản C sử dụng từ ngữ Bốn chánh đoạn (Sk. Samyakprahàna).
C 222: (vii, 98a-6-9) : "...Đối với những ác bất thiện pháp đã sanh, vị ấy nỗ lực tâm để diệt trừ chúng. Đối với các ác bất thiện pháp chưa sanh, vị ấy nỗ lực tâm để diệt trừ chúng, làm cho chúng không thể sanh khởi. Đối với các thiện pháp chưa sanh, vị ấy nỗ lực tâm làm cho nó có thể sanh. Đối với các thiện pháp đã sanh, vị ấy nỗ lực tâm để chúng tồn tại lâu dài, chúng không biến mất, mà tăng trưởng."
P77: (ii, 11, 10-22): Bản P dịch như sau: "anuppannànam pàpakànam akusalànam dhammànam anuppàdàya; uppannànam pahànaya; anuppannànam kusalànam dhammànam uppàdàya; uppannànam thìtiyà."
(Những ác bất thiện pháp chưa sanh không cho sanh khởi; đã sanh thì trừ diệt; những thiện pháp chưa sanh làm cho sanh khởi; đã sanh thì duy trì.)
c) Bốn thần túc: C 206: (vii, 78a, 13-15): "Vị Tỳ-kheo được dạy tu tập căn bản thần thông đoạn tận, được hoàn tất trong thiền định căn cứ trên dục, tùy thuộc viễn ly, ly dục, diệt, xả ly, hướng đến Niết-bàn. Cũng vậy căn bản thần thông đoạn tận, được hoàn tất trong thiền định căn cứ trên tinh tấn, trên tâm, trên sự phân biệt, tùy thuộc viễn ly, ly dục ... hướng đến Niết-bàn."
P16: (i,103,32-37): Gần giống. Bốn loại định được nói ở đây là dục, tinh tấn, tâm, trạch pháp. Thuộc từ cho thần túc là chandà - samàdhipadhànasankhàrasamannàgatam (với chữ dục được thay thế bằng ba yếu tố khác trong những trường hợp sau), nghĩa là có được thiền định dựa trên dục, với những hoạt động của sự nỗ lực, trong khi bản C thay thế danh từ padhànasankhàra bằng chữ đoạn có nghĩa là nhổ tận gốc.
d) Năm căn: Những pháp này được đề cập trong NC98, kinh C 86: (vi, 4a, 2-3) là các căn tín, tấn, niệm, định, tuệ. Bản P cũng tương tự.
e) Năm lực: Những pháp này được đề cập trong kinh C86: (vi, 4a, 3-5) và trong kinh P77: (ii,12,73). Chúng được kể như là các năng lực tín, tấn, niệm, định, tuệ.
f) Bảy bồ đề phần hay bảy yếu tố của trí tuệ:Được đề cập trong NC2, 49, 66, 72 và 98.
C86: (vi,4b,15-17): Chúng được kể như sau: tuệ, niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.
P77 : (ii,12,14-23): Cũng giống như trên: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi,và xả giác chi.
g) Tám Thánh đạo: Tám thánh đạo được kể trong NC31, 48, 65, 73, 93, 95 và 98.
C31: (43a,9-11): "Chánh kiến là gì? Khi thánh đệ tử nghĩ về khổ là khổ, sinh là sinh, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc khi vị ấy xét đến những hành vi trước của mình, hoặc khi vị ấy tu tập và tư duy về các nghiệp đạo, hoặc vị ấy thấy nguy hiểm trong các nghiệp đạo, hoặc khi vị ấy thấy sự an tịnh của Niết-bàn, hoặc khi vị ấy quán tâm giải thoát không chấp thủ. Trong những lúc ấy, vị ấy phân tích, phân tích rộng rãi, phân tích sâu xa, quán sát, quán sát rộng rãi, phân biệt rõ ràng và quán sát, đạt đến một cách minh bạch. Đây gọi là chánh kiến."
P141: (iii, 251, 12-15): Rất đơn giản. Bất cứ gì là trí về khổ, trí về nguồn gốc khổ, trí về sự diệt khổ, trí về con đường đưa đến diệt khổ, đây gọi là chánh kiến.
C: (43a, 11-13): "Thế nào là chánh tư duy? Khi vị thánh đệ tử tư duy về khổ là khổ.... đạt tâm giải thoát.Trong những lúc ấy, vị ấy quán sát, quán sát rộng rãi, quán sát một cách thích đáng. Vị ấy nghĩ về những gì cần suy nghĩ, tư duy những gì cần tư duy. Đây gọi là chánh tư duy."
P: (251, 16-18): Không hẳn như trên. Ở đây là ước vọng muốn từ bỏ dục vọng, ước vọng muốn tránh điều ác, ước vọng tiến đến vô hại.
C:(43a, 13-15): "Khi vị thánh đệ tử nghĩ về khổ là khổ.... tâm giải thoát, vào những lúc ấy, trừ bốn chánh ngữ, vị ấy từ bỏ những lời bất thiện, loại bỏ chúng, tẩy trừ chúng, nhổ tận gốc, không thực hành, không tu tập, không liên hệ đến chúng, đây gọi là chánh ngữ."
P:(251, 19-22): Cũng gần giống như trên, chỉ khác danh từ. Ở đây bản P nói từ bỏ nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô, nói lời phù phiếm, đây gọi là chánh ngữ.
C: (43a, 15-17): "Khi vị thánh đệ tử nghĩ về khổ là khổ, ...tâm giải thoát, vào những lúc ấy, trừ ba thân thiện hành, vị ấy tránh những hành vi bất thiện khác, gạt bỏ chúng, nhổ tận gốc, tẩy trừ chúng, không tu tập, không thi hành, không liên hệ đến chúng, đây gọi là chánh nghiệp."
P: (251, 23-25): Cũng một nhận xét như ở chánh ngữ.
C: (43a, 17-19): "Khi vị thánh đệ tử......tâm giải thoát, vào những lúc ấy, vị ấy không tầm cầu sai lạc, vị ấy không ham muốn cũng không hoan hỷ, không thi hành những ngón lừa bịp, tụng chú thuật, vị ấy không vướng vào tà mạng. Vị ấy chỉ tầm cầu y phục phù hợp với chánh pháp, không trái chánh pháp, chỉ tầm cầu thực phẩm, sàng tọa phù hợp với chánh pháp, không trái chánh pháp. Đây gọi là chánh mạng."
P:(251, 26-28): Rất đơn giản. Vị thánh đệ tử sau khi từ bỏ tà mạng, sinh sống với chánh mạng.
C: (43a, 19-20; 43b,1): "Khi vị thánh đệ tử...tâm giải thoát, vào những lúc ấy, vị ấy thi thố nỗ lực và phương tiện, tuyệt đối nỗ lực, bằng sức mạnh, tiến tới với sự hăng hái vững vàng, không từ bỏ, không thối lui, làm chủ tâm ý mình. Đây gọi là chánh phương tiện."
P: (251, 29-34; 252, 1-4): Không hẳn giống nhau. Ở đây bản P dùng danh từ chánh tinh tiến, trong khi bản C dùng chánh phương tiện. Ở đây vị Tỳ-kheo thi thố những ước muốn, nỗ lực, cố gắng, dụng tâm và hướng đến sự không sinh khởi những ác bất thiện pháp, nỗ lực hướng đến sự khởi lên thiện pháp, và nỗ lực duy trì, bảo tồn, tăng trưởng, lớn mạnh, phát triển, hoàn tất những thiện pháp đã sinh.
C: (43b, 1-3): "Khi vị thánh đệ tử... tâm giải thoát, vào những lúc ấy, khi có chánh niệm hướng về, chánh niệm chống lại, hoặc không có chánh niệm hướng về bất cứ gì, vị ấy chú tâm, hoàn toàn chú tâm, duy trì sự tỉnh giác, không quên lãng, đây gọi là chánh niệm."
P: (252, 5-9): Không giống như trên. Ở đây vị Tỳ-kheo trú quán thân nơi thân, quán thọ nơi cảm thọ, quán tâm nơi tâm, và quán các pháp nơi các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu ở đời.
C: (43b, 3-5): Khi vị thánh đệ tử... tâm giải thoát,vào những lúc ấy, vị ấy chứng trú các thiền chứng, vững chắc, cố định, không lay chuyển, không xao lãng, nhất tâm, vững vàng, tập trung, đây gọi là chánh định.
P: (252, 10-17): Không hẳn giống. Ở đây bản P nói đến sự chứng đắc bốn thiền từ thiền thứ nhất đến thiền thứ tư.
Trong NC31, có những hỏi đáp về tám thánh đạo như sau:
C210: (vii, 84a, 4-5): Hỏi : Tám thánh đạo là gì? Đáp: Tám thánh đạo là chánh kiến cho đến chánh định, đây gọi là Tám thánh đạo.
P 44: (i, 300, 31-34): Gần giống. Bản P kể toàn thể tám thành phần.
C: (84a, 6-7): Hỏi: Tám thánh đạo có phải là pháp hữu vi không? Đáp: Tám thánh đạo là pháp hữu vi.
P:(300, 35-36; 301,1): Cũng giống như vậy.
C:(84a, 7-8): Hỏi: Có bao nhiêu nhóm? Đáp: Có ba nhóm - nhóm giới, nhóm định và nhóm tuệ.
P: không có.
C: (84a, 8-11): Hỏi: Tám thánh đạo bao gồm cả ba nhóm, hay ba nhóm bao gồm Tám thánh đạo? Đáp: Tám thánh đạo không bao gồm ba nhóm, mà ba nhóm bao gồm Tám thánh đạo. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, ba thành phần này được bao gồm trong nhóm thánh giới; chánh niệm, chánh định, hai thành phần này được bao gồm trong nhóm thánh định; chánh kiến, chánh nguyện, chánh phương tiện, ba thành phần này bao gồm trong nhóm thánh tuệ. Đây là lý do Tám thánh đạo không bao gồm ba nhóm, nhưng ba nhóm bao gồm Tám thánh đạo.
P:(301, 1-11): Có một điểm khác. Bản P bao gồm chính tinh tấn trong nhóm định, trong khi bản C bao gồm chánh phương tiện trong nhóm tuệ. Phần còn lại gần giống nhau.
Như vậy, về Bát chánh đạo, chỉ có một sự khác nhau chính yếu giữa hai bản C và P, đó là sự phân loại của bản C về chánh phương tiện thuộc nhóm tuệ, trong khi bản P đặt chánh tinh tấn vào nhóm định. Còn về cách dịch của bản C thành "chánh phương tiện", đây là một lối dịch hơi xưa, những nhà phiên dịch về sau chọn danh từ "chánh tinh tiến", và danh từ này dịch đúng nghĩa tiếng Pàli.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:03:48 GMT -5
2. Diệt trừ các triền cái: NC 23, 28, 68 nói đến sự loại trừ năm triền cái với cách gần giống nhau.
Trong NC 23, được nói như sau:
C146: (vi, 79b, 6-9): "Sau khi hoàn tất tu tập thánh giới, sau khi đã tu tập sự hỷ túc, điều phục căn, chánh niệm tỉnh giác khi đi ra đi vào, vị Tỳ-kheo lại độc cư, viễn ly, tại một nơi nhàn tịnh hay dưới gốc cây, hoặc ở một nơi thoáng khí và yên tĩnh, trên mỏm núi hay trong hang đá, giữa trời hay trên một đống rơm, hoặc vị ấy đi đến một khu rừng hay một nghĩa địa. Vị ấy sau khi đi đến khu rừng, hay dưới gốc cây, một nơi trống vắng, trải tọa cụ ngồi kiết già với thân thẳng, nguyện chân chính, với tư tưởng khéo kiểm soát, không tán loạn, vị ấy diệt trừ tham, với tâm không tranh chấp, vị ấy thấy những tài sản vật dụng của người khác mà không ham muốn đem về cho mình, thanh lọc tâm khỏi tham lam. Cũng vậy với sân, hôn trầm, trạo cử, vị ấy đã diệt trừ nghi, vượt qua do dự, hướng đến các thiện pháp, vị ấy không nghi ngờ, thanh lọc tâm khỏi hoài nghi."
P27: (i, 181, 9-24): Đơn giản hơn. Nó bỏ: khi đi ra đi vào tại một nơi thoáng khí và yên tĩnh, trải tọa cụ, với chính nguyện, với tư tưởng khéo kiểm soát, không xao lãng, vị ấy diệt trừ tham, tâm không tranh chấp, vị ấy thấy những tài sản và vật dụng của người khác mà không tham đem về cho mình. Bản P thêm: khi đi khất thực về ăn xong; vị ấy giữ chánh niệm trước mặt.
Năm triền cái giống nhau trong hai bản; nhưng trong khi bản C chỉ nhắc đến bốn triền cái còn lại một cách rất vắn tắt, thì bản P cho nhiều chi tiết hơn.
3. Bốn thiền sắc giới: Bốn thiền thuộc sắc giới được đề cập trong NC 5, 7, 21, 23, 25, 28, 30, 31, 32, 37, 42, 43, 44, 64, 65, hoặc vắn tắt hoặc dông dài.
Trong NC 23, những pháp ấy được nói đến như sau:
a) Sơ thiền: C146: (vi, 79b, 9-10): "Vị Tỳ-kheo sau khi diệt trừ năm triền cái, diệt trừ tâm lỗi lầm và liệt tuệ, tránh xa dục, các bất thiện pháp, vị ấy chứng và trú sơ thiền đầy đủ tầm, tứ, hỷ, lạc do ly dục sinh."
P27:(i, 181, 25-28): Gần giống.
P: có tầm = C: hữu giác, nghĩa là có ý thức, có nhận thức; những dịch giả về sau dùng hữu tầm, nghĩa là có tra tầm.
P: có tứ = C: hữu quán, nghĩa là có tư duy quán sát; những dịch giả về sau dùng hữu từ, nghĩa là tư tưởng đang tra tầm.
b) Thiền thứ hai: C: (79b, 10-12): "Sau khi bỏ giác và quán, nội tâm tịch tĩnh, nhất tâm, vị ấy chứng và trú thiền thứ hai, không giác không quán, có hỷ và lạc do định sinh."
P:(181, 32-35): Giống như vậy.
c) Thiền thứ ba: P: (79b, 13-14): "Vị ấy từ bỏ hỷ và lạc, trú xả, không khao khát, với chánh niệm, chánh trí, thân cảm thọ lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng và trú thiền thứ ba."
P: (182, 2-6): Gần giống. Hai tiểu dị: bản P bỏ: không khao khát. C: lạc trú = P: sukhavihàrì.
d) Thiền thứ tư: C: (79b, 14-15): "Vị ấy sau khi xả lạc, xả khổ, diệt hỷ và ưu, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh."
P: (182, 10-14): Giống nhau.
Trong NC30, có một đoạn ba câu hỏi đáp chỉ có trong bản P, đề cập sơ thiền thuộc sắc giới. Hai câu hỏi đáp đầu cũng có trong bản C, nhưng trong NC31, P44: (i, 294, 24-28): Hỏi: Sơ thiền là gì? Đáp: Khi một vị Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, thì vị ấy chứng và trú sơ thiền với giác, quán, hỷ và lạc do ly dục sinh.
P: (i, 294, 28-32): Hỏi: Sơ thiền có mấy thiền chi? Đáp: Sơ thiền có năm thiền chi. Khi một Tỳ-kheo đạt đến sơ thiền, thì có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
P: (i, 294, 32-37; 295, 1-4): Hỏi: Sơ thiền từ bỏ bao nhiêu pháp, có được bao nhiêu pháp? Đáp: Ở sơ thiền, năm pháp được đoạn trừ, và năm pháp được chứng đắc. Đối với Tỳ-kheo nhập sơ thiền, thì tham, sân, hôn trầm, trạo cử, nghi, được trừ diệt và khởi lên tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
Trong NC37, các thiền thuộc sắc giới được kể như sau:
C217: (vii, 95a, 6-8): Nói đến sự chứng đắc bốn thiền thuộc sắc giới bởi một vị thánh đệ tử trú trong các thiền này, quán pháp phù hợp với pháp. Sau khi trú bốn thiền, quán pháp như pháp, vị ấy hoặc đạt đến lậu tận, hoặc nếu sự trừ diệt lậu hoặc chưa được hoàn toàn vì có tham ái, hoan hỷ trong pháp này, vị ấy sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết sử và tự nhiên được hóa sinh vào trong cõi này, và từ đó vị ấy sẽ chứng Niết-bàn, vị ấy đắc quả Bất hoàn.
P52: (i, 349, 29-30; 350, 351, 1-17): Gần giống như trên. Bốn thiền được mô tả dài dòng như thường lệ chứ không ngắn gọn như trong bản C. Sau khi chứng đắc một thiền, vị Tỳ-kheo nghĩ rằng thiền ấy do suy tư tác thành, và bất cứ gì được tạo tác, do suy tư tác thành đều vô thường và phải hoại diệt. Khi an trú trong điều này, vị ấy đạt đến lậu tận và nếu không, do tham ái, hoan hỷ đối với pháp này, vị ấy sẽ đạt đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử và tự nhiên hóa sinh, nhập Niết-bàn tại đấy, không trở lui đời này.
Tất cả những đoạn kinh trên cho chúng ta thấy rằng về phương diện các thiền chứng, không có khác nhiều giữa hai bản dịch.
4. Bốn phạm trú hay bốn vô lượng: Những pháp này được đề cập trong NC số, 18, 21, 24, 25, 29, 36, 37, 63, 64, 82, 98.
Chúng ta chọn NC6 để khảo sát tỉ mỉ những pháp này.
C93: (vi, 13a, 15-17): "Vị Tỳ-kheo trú, biến mãn một phương với tâm từ, cũng vậy phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, bốn phương trung gian, trên, dưới, biến mãn cùng khắp, với tâm câu hữu với từ, không trói buộc, không hận, không sân, không tranh, vô cùng quảng đại, lớn rộng, vô lượng, biến mãn tâm từ khắp thế giới, vị ấy khéo tu tập và an trú tâm từ. Cũng vậy với bi, hỷ và xả...".
P7:(i, 38, 20-30): Gần giống. C: bốn phương trung gian = P: tiriyam. C: không trói buộc, không hận, không sân, không tranh = P: averena abyàbajjhena - không hận thù, không ác ý. C: vô cùng quảng đại, lớn rộng, vô lượng = P: gần giống, bỏ: vô cùng. C: vị ấy khéo tu tập = P: không có.
Cả hai bản C và P đều đồng ý rằng sự tu tập bốn vô lượng sẽ đưa người ta tái sinh vào cõi Phạm thiên như được thấy trong NC63:
C27: (v, 34b, 1-5): Thượng tọa Xá-lợi-tử giảng bốn phạm trú cho Bà-la-môn Đà Nhiên; sự thực hành các pháp này sẽ đưa đến sự nhổ tận gốc tham dục và sau khi chết sẽ đưa đến tái sinh ở cõi trời Phạm thiên.
P97: (ii, 195, 1-17): Gần giống. Ở đây Thượng tọa Xá Lợi Phất giảng cho Bà-la-môn Dhànanjàni về bốn phạm trú được xem là con đường cộng trú với Phạm thiên.
Sự tu tập bốn vô lượng thường đặt giữa sự tu tập bốn thiền sắc giới và sự tu tập bốn thiền vô sắc, như được thấy trong NC37, kinh C217: (vii, 95a,8-13) và P52: (i, 351, 18-36; 352,1-2). Nhưng trong NC25, 21, 64, trong khi bản C trung thành với truyền thống này, nghĩa là, để sự tu tập bốn vô lượng ở giữa sự tu tập các thiền sắc giới và các thiền vô sắc giới, thì bản P không theo.
Đôi khi sự tu tập bốn vô lượng được đặt ngay trước sự chứng đắc quả A-la-hán, do vậy ngụ ý rằng sự tu tập bốn vô lượng này có thể đưa đến quả A-la-hán, như được thấy sau đây:
C183: (vii, 33b, 17-20): "Vị ấy nghĩ, bất cứ tư tưởng gì, thô hay tế, nổi lên và biến mất, vị ấy như thật biết rõ. Khi biết rõ như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Khi giải thoát, vị ấy biết mình đã giải thoát. Sanh đã tận; đời sống phạm hạnh đã được hoàn tất; việc cần làm đã làm xong; không còn sinh trở lại. Tri kiến ấy đúng như thật."
P7: (i, 38, 31-36): Bản P sau khi đề cập bốn phạm trú còn nói đến sự chứng đắc A-la-hán quả, với tri kiến về idam (A-la-hán quả), về hìnam (ô nhiễm, nghĩa đen là thấp kém), và panìtam (phương pháp diệt trừ ô nhiễm, nghĩa đen là thù thắng). Một tri kiến như vậy đưa đến sự tận trừ ba lậu hoặc, sự chấm dứt sinh, sự an lập đời sống phạm hạnh, sự hoàn tất công việc và diệt trừ tái sinh.
Như vậy, nghiên cứu tỷ giáo về sự tu tập bốn vô lượng trong hai bản dịch cho thấy sự gần giống nhau giữa hai truyền thống mà các bản kinh ấy tiêu biểu. Nhưng truyền thống C dường như thích pháp tu này hơn truyền thống P. Khuynh hướng này, một khuynh hướng đã tiềm tàng trong những bản kinh cổ của Phật giáo Sanskrit, có thể giải thích sự đặt nặng tâm từ bi của các nhà Đại thừa, những người đặt từ bi ngang hàng với trí tuệ, và nhấn mạnh việc ăn chay.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:06:48 GMT -5
5. Bốn thiền vô sắc:Sự tu tập bốn thiền vô sắc được đề cập trong NC 21,25,30,37,42,67,75. Trong NC42, sự tu tập này được đề cập như sau: C205:(vii, 77a, 12-18): "Khi ấy, nhờ vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ tất cả chướng ngại tưởng, không tác ý các tưởng, vị ấy chứng trú Không vô biên xứ... Sau khi vượt qua Không vô biên xứ, vị ấy chứng trú Thức vô biên xứ ... Sau khi vượt qua Thức vô biên xứ, vị ấy chứng Vô sở hữu xứ ... Khi cảm thọ lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc, vị ấy quán sát cảm thọ ấy là vô thường, vị ấy quán sát sự sinh diệt, quán ly dục, quán diệt, quán đoạn tận, quán từ bỏ. Sau khi quán những cảm thọ ấy là vô thường, quán sự sinh diệt của chúng, sau khi quán vô dục, quán diệt, quán đoạn tận, quán từ bỏ, vị ấy không phải sinh lại vào cuộc đời này. Vì không còn phải tái sinh vào đời này, vị ấy sẽ không có sợ hãi, do không sợ hãi, vị ấy nhập Niết-bàn. Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa, vị ấy biết như thật." P64:(i, 436, 18-26; 437, 1-6): Gần giống. C: Khi ấy nhờ vượt qua mọi sắc tưởng, nhờ tận trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý tất cả tưởng, vị ấy chứng trú không vô biên xứ = P : Bhikkhu sabbaso rùpa sađđànam samatikkamà patigha sađđàna atthagamà nànattasađđàna amanasikàrà ananto àkàso ti àkàsanađcàyatanam upasampajja viharati. Như vậy cũng giống như bản C. Ở đây pháp quán có hơi khác. Vị ấy quán bất cứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức nào cũng là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như một vật xấu xa, một ách vận, xem là xa lạ, là hư hỏng, là trống rỗng, không tự ngã, vị ấy không để tâm đến các pháp này, tập trung vào bất tử giới, nghĩ rằng: "Đây là thiện, đây là thù thắng, sự tịnh chỉ tất cả hành, sự diệt trừ mọi chấp thủ, sự dập tắt khát ái, ly dục, diệt, Niết-bàn". Nếu vững trú ở đây, vị ấy sẽ đạt đến sự tận trừ lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến lậu tận, do tham ái pháp ấy, do thích thú trong pháp ấy, thì nhờ diệt trừ năm kiết sử trói buộc vào hạ giới, vị ấy sẽ hóa sinh và từ đấy sẽ đạt Niết-bàn, không còn trở lui đời này. Ở đây ta nhận thấy bản P và C bỏ cảnh giới thứ tư là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì cảnh giới này được xem gần như là một chướng ngại cho giải thoát tối hậu, và vì đề tài của kinh này chỉ giới hạn vào sự từ bỏ năm hạ phần kiết sử. Thông thường, bản C mô tả sự tu tập bốn thiền dưới hình thức ngắn gọn, trong khi bản P thì đề cập đầy đủ tất cả bốn thiền, như được thấy trong NC 25: C185: (vii, 37b, 2-5): "Chúng ta đã vượt qua các tưởng về hình sắc cho đến sự chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ và trú trong đó." P31: (i, 208, 31-37): Gần giống. Ở đây bản P giải thích đầy đủ bốn thiền vô sắc giới. Nhận xét: Như vậy, về bốn thiền vô sắc, không có nhiều dị biệt giữa hai bản kinh. 6. Diệt tận định và vô tưởng định:Sau khi tu tập bốn thiền vô sắc, bản P thường nói đến một định khác gọi là diệt thọ tưởng, định này thường bị bỏ trong bản C, như được thấy trong P66, kinh Ví dụ con chim cáy: (i, 456, 3-6) và trong P113, kinh Chân nhân: (iii, 45, 1-5). Trong NC30 và 31, có một loạt hỏi đáp liên hệ đến Diệt tận định và Vô tưởng định. C211:(vii, 86b, 4-6): H: Gì là sự khác biệt giữa cái chết và nhập diệt thọ tưởng định? Đ: Trong sự chết, thọ mạng đã tắt, hơi ấm đã dứt, và các giác quan đều hư hoại. Nhưng nơi Tỳ-kheo nhập diệt định, thọ mạng chưa tắt, hơi ấm chưa dứt, và các căn chưa hư hoại. P43:(i, 296,11-23) : H: Gì là sự khác nhau giữa một vật đã chết và Tỳ-kheo nhập diệt thọ tưởng định? Đ: Nơi một người chết, thân hành chấm dứt, lắng xuống, ý hành chấm dứt, lắng xuống, thọ mạng đã tắt, hơi ấm đã nguội lạnh, các căn hư hoại. Về Tỳ-kheo nhập định diệt thọ tưởng, thân hành đã chấm dứt, ngữ hành vị ấy chấm dứt, lắng xuống, ý hành vị ấy chấm dứt, lắng xuống, nhưng thọ mạng không tắt, hơi ấm không nguội lạnh, các căn còn sáng. C: (vii, 86b, 6-8): H: Gì là sự khác nhau giữa nhập diệt định và nhập định vô tưởng? Đ: Khi vị Tỳ-kheo nhập diệt định, thì thọ, tưởng đã tắt. Khi vị Tỳ-kheo nhập định vô tưởng, thì thọ và tưởng chưa tắt. P: không có. C: (vii, 86b, 8-11) : H: Gì là khác nhau giữa người xuất diệt định và xuất vô tưởng định? Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, vị ấy không nghĩ như sau: "Ta đang xuất diệt định." Khi một Tỳ-kheo xuất khỏi định vô tưởng, vị ấy nghĩ như sau: "Ta có tưởng, ta không tưởng." P: không có. C:(vii,86b,11-12): H: Khi một Tỳ-kheo nhập diệt định, vị ấy từ bỏ pháp nào trước, thân hành, ngữ hành hay ý hành? Đ: Khi một Tỳ-kheo nhập diệt định, trước hết vị ấy từ bỏ thân hành, kế đến là ngữ hành, và cuối cùng là ý hành. P: Không có ở đây, nhưng có trong P44: (i,301,36, 362,1-5). Bản P nói rằng ngữ hành chấm dứt trước, rồi đến thân hành, rồi đến ý hành. C: (vii,86b,12-14): H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, pháp nào khởi lên trước, thân hành, ngữ hành hay ý hành? Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, ý hành khởi lên trước, rồi đến ngữ hành, và cuối cùng là thân hành. P: Không có ở đây, nhưng có trong P44: (i,302,13-18): Ở đây bản P nói rằng, ý hành xuất hiện trước, rồi thân hành, rồi ngữ hành. C:(vii, 86b, 14-16) : H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, có bao nhiêu loại xúc vị ấy cảm xúc đầu tiên? Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, vị ấy cảm ba loại xúc: vô tham, vô thực chất và vô tướng. P: Không có ở đây, nhưng có trong P44: (i,302,18-22). Ở đây bản P nói đến không xúc, rồi vô tướng xúc và vô nguyện xúc. Trong NC31, lại có một loạt hỏi đáp liên hệ đến hai loại định này: C210: (vii, 84b,5-7): H: Khi một người nhập diệt định, vị ấy có nghĩ rằng ta đang nhập diệt định? Đ: Khi một người nhập diệt định, vị ấy không nghĩ ta đang nhập diệt định. Do sự tu tập và luyện tâm của vị ấy nên đưa đến sự chứng đắc ấy. P44: (I,301, 30-36): Tương tự: H: Thế nào là sự chứng đắc diệt thọ tưởng? Đ: Vị Tỳ-kheo chứng đắc diệt thọ tưởng không nghĩ rằng ta sẽ chứng đắc diệt thọ tưởng, hoặc ta đang chứng diệt thọ tưởng, hoặc ta đã chứng diệt thọ tưởng. Do vị ấy tu tập về trước nên đưa đến sự chứng đắc ấy. C:(84b,7-9): H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt định, vị ấy có nghĩ ta xuất diệt tận định? Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt tận định, vị ấy không nghĩ ta xuất diệt tận định. Nhưng do thân thể và sáu giác quan tương ưng với mạng, vị ấy xuất khỏi định ấy. P:(302, 6-13): Cũng sự khác nhau như đã thấy trong câu hỏi trước. Một điểm khác nữa: C nói: nhưng do thân thể này... = P: do trước kia vị ấy đã tu tập tâm theo cách ấy nên đưa đến trạng thái này. C:(84b, 9-10): H: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt tận định, tâm vị ấy thích thú gì, thiên về cái gì, khuynh hướng về gì? Đ: Khi một Tỳ-kheo xuất diệt tận định, tâm vị ấy thích thú việc đi, thiên về việc đi, khuynh hướng việc đi. P: (302, 22-27): Tương tự: C: độc cư = P: viễn ly. Nhận xét: Như vậy, về phương diện định diệt thọ tưởng, giữa hai bản C và P không khác nhau nhiều. Mặc dù bản C dùng danh từ định diệt tận, bản P diệt thọ tưởng, định nghĩa cũng giống nhau. Về sự khác nhau giữa hành nào khởi trước hay diệt trước, thật khó mà phân biệt giữa thân hành và ngữ hành, vì nếu miệng cử động để thốt lên một âm thanh, thì điều này bao hàm cả ngữ hành và thân hành. Bởi thế sự khác nhau giữa hành nào khởi trước hay diệt trước trong hai bản C và P không phải là một điều quan trọng. 7. Năm thắng trí hay thần thông:Năm thắng trí được đề cập trong NC5, 25, 74. Như trong NC74, các pháp được nói đến như sau: C81:(v, 114b, 15-17): "Vị Tỳ-kheo có thể đắc như ý túc, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng thông, và sanh tử trí; rồi với sự đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy tự mình chứng đắc ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng quả A-la-hán." P119: (iii, 98, 2-28): Tương tự. Nhưng ở đây bản P nói dông dài như thường lệ với cả năm thắng trí. Trong NC5, vị Tỳ-kheo lập nguyện đắc năm thần thông như được thấy sau đây: C105: (vi, 29b, 12-13): "Mong ta chứng đắc các thần thông, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, sanh tử trí." P6: (i, 34, 10-37): Ở đây bản P cũng đề cập vấn đề này nhưng chia thành sáu nguyện, thứ 12 là thần túc, thứ 13 là thiên nhĩ, thứ 14 là tha tâm, thứ 15 là túc mạng, 16 là thiên nhãn và 17 là lậu tận. a) Thần túc thông:Trong NC26, thần thông này được nói như sau: C184: (vii,35a, 14-19): "Vị Tỳ-kheo có đại thần thông, đại công đức, đại oai thần lực, làm chủ vô số thần thông, thi triển vô số thần thông, từ một vị ấy biến thành nhiều, từ nhiều vị ấy trở thành một; vị ấy trở thành một người có tri kiến; vị ấy đi ngang qua vách đá, qua tường không bị chướng ngại như ngang qua hư không; vị ấy độn thổ và trồi lên như đi trong nước; vị ấy đi trên nước không chìm như đi trên đất; vị ấy bay trên trời và ngồi xếp bằng như con chim. Những vật có đại oai thần như mặt trăng, mặt trời, vị ấy với bàn tay sờ chạm thân của mặt trời mặt trăng cho đến phạm thiên giới." P32: (ii,214, 18-28): Ở đây bản P hoàn toàn khác, khi đề cập sự trả lời của Trưởng lão Ca Chiên Diên về luận thuyết (A-tỳ-đàm). Nhưng trong P108 Gopakamoggallana (tập 3), thì tương đương với bản C, nhưng bỏ: có thần thông lớn, công đức lớn, phước lớn, đại oai thần, làm chủ vô số thần thông và thi triển vô số thần thông; từ một biến thành một, có tri kiến. C: Vị ấy đi xuyên qua đá, qua tường không chướng ngại như qua hư không = P: Hiện rõ hoặc không ai thấy, vị ấy đi ngang qua tường, qua thành, qua núi như ngang qua hư không. C: thần thông lớn, công đức lớn, phước lớn, đại oai thần = P: có thần lực như vậy, đại oai thần như vậy. Bản P thêm : vị ấy thi triển năng lực bằng thân thể của mình. b) Thiên nhĩ:Trong NC74, C81: (v,114b, 15-17) chỉ nói thiên nhĩ trong khi P 19 nói: "Với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, vị ấy nghe được tiếng của chư thiên và loài người, ở xa cũng như gần." c) Tha tâm:Lại nữa trong NC74, C81: (v, 114b, 15-17) chỉ nói tha tâm thông trong khi P 119 nói dài như sau: "Với tâm mình vị ấy biết tâm của những hữu tình khác, của người khác. Tâm có tham vị ấy biết tâm có tham; tâm không tham vị ấy biết tâm không tham; cũng vậy, có sân, không sân, có si, không si, có định, không định, quảng đại, không quảng đại, hữu thượng, vô thượng, tập trung, không tập trung, giải thoát, không giải thoát." d) Túc mạng trí:Trong NC43, trí biết đời trước được nói như sau: C194: (vii, 51b, 14-17): "Vị ấy với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không ưu não, nhu nhuyến, tập trung, không giao động, vị ấy nhớ lại những đời trước, sau khi thực chứng với trí tuệ, vị ấy có một đời như thế, dáng vẻ như thế, nhớ lại vô số đời trước, một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời, thành kiếp, hoại kiếp, vô số thành và hoại kiếp, những hữu tình kia có tên như vậy, chúng đã trải qua những đời trước như vậy: Ta sinh ra tại đấy với tên như vậy, họ như vậy, dòng dõi như vậy, ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, thọ mạng như vậy, mạng chung như vậy; sau khi mạng chung tại đấy ta đã tái sinh ở đây. Khi tái sinh ở đây ta đã có tên như vậy, họ như vậy, ăn đồ ăn uống như vậy, thọ khổ lạc như vậy, thọ mạng như vậy, sau khi sống lâu như vậy, đã chết như vậy." Đoạn kinh C này có thể so sánh với kinh P trong NC28 : P39: Tương tự. Về những tĩnh từ chỉ tâm, bản P thêm pariyodàte- "thuần tịnh", kammaniye- "dễ sử dụng" . C : không sầu não = P: không cấu uế. C: với tâm không dao động = P: ànenjjappatte. P bỏ: sau khi chứng đắc với trí tuệ, vị ấy có một đời như vậy, dáng dấp như vậy. C: vị ấy nhớ vô số đời trước = P: nhớ lại nhiều đời trước. C: một đời, hai đời, trăm đời, ngàn đời = P: một đời, hai đời, ba, bốn, năm, mười, 20, 30 40,50, 100, 1000, một trăm ngàn đời. Bản P bỏ: sống lâu như vậy, đã chết như vậy, nhưng thêm: với tất cả đại cương và chi tiết. e) Thiên nhãn hay sinh tử trí:Trí này được đề cập trong NC26,28,38,43. Như trong NC43, trí này được nói như sau: C194: (vii, 51b, 18-20): "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không lo lắng, nhu nhuyến, tập trung, không dao động, vị ấy chứng đắc sinh tử trí. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, vị ấy thấy những chúng sinh này chết và tái sinh, đẹp, xấu, thanh, thô, hạnh phúc hay bất hạnh tùy theo nghiệp của chúng. Vị ấy thấy phù hợp với chân lý. Nếu những chúng sinh này làm các ác hành về thân, lời, ý, phỉ báng các bậc thánh, có tà kiến, theo tà hạnh; do những nghiệp này sau khi chết, chúng sẽ sanh vào các nơi đau khổ, vào địa ngục. Nếu những chúng sanh này thực hành các thiện hành về thân, lời, ý, không phỉ báng bậc thánh, có chánh kiến, chánh hạnh; do những nghiệp này sau khi chết, chúng sẽ sanh vào các thiện thú, cõi trời." Đoạn kinh C này có thể so với đoạn P trong NC28: P39: Tương tự, nhưng bỏ: vị ấy tu tập, chứng ngộ và chứng đắc nhờ trí, và thêm: vị ấy khuynh hướng tâm về. C: đẹp, xấu, thanh, thô, hạnh phúc, bất hạnh tùy theo nghiệp của chúng = P: hìne panìte suvanne dubbanne sugate duggate yathàkammùpage (hạ liệt, cao sang, đẹp, xấu, sanh thiện thú, ác thú, tùy theo hành nghiệp). Bản P bỏ: vị ấy thấy như thật. C: có tà hạnh = P: làm ác nghiệp do tà kiến. C: trong đọa xứ, địa ngục = P: cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C: có chánh hạnh = P: sammàditthikammasamàdànà. Nhận xét: Như vậy nghiên cứu tỷ giảo về năm thắng trí giữa hai bản C và P cho ta thấy không có gì khác nhau nhiều giữa hai truyền thống, trừ thêm bớt một vài tĩnh từ hoặc hơi khác. Chúng ta có thể nói rằng về phương diện định uẩn, quan điểm của hai bản C và P gần giống nhau. Ngoại trừ vài dị biệt trong cách trình bày bốn niệm xứ, cả hai bản dường như rút tài liệu từ một nguồn chung, và điều này giải thích sự tương đồng giữa hai bản dịch C và P khi nói về định uẩn. ---o0o---
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:12:29 GMT -5
C. TUỆ
Bàn về tuệ uẩn trước hết chúng ta đề cập nền tảng của tuệ, kế đến là bảy thanh tịnh, hai giải thoát và cuối cùng là bốn đạo bốn quả, bao hàm lậu tận.
1. Nền tảng của tuệ
a) Uẩn: Những pháp này được nói trong NC19, 24, 31,70, 77, 95, 98.
Trong NC31, năm uẩn được đề cập như sau:
C210: (vii, 83b, 11-13): "Đức Thế Tôn nói đến năm thạnh uẩn trong thân, sắc thạnh uẩn, thọ, tưởng, hành và thức thạnh uẩn."
P44: Tương tự.
C: năm thạnh uẩn = P: năm thủ uẩn. Ở đây bản C dùng chữ "thạnh" có nghĩa là tăng trưởng, thay cho chữ thủ ở bản P. Những dịch giả hậu kỳ thích dùng chữ thủ nghĩa là bám víu, và như vậy dịch đúng nghĩa danh từ Pàli upàdàna.
Trong NC24, tính lệ thuộc lẫn nhau (duyên khởi) của năm uẩn được bàn chi tiết như sau:
C30: (v,41a, 20): "Này chư hiền, cũng như do gỗ, đòn tay, bùn, đất, nước, cỏ, vây quanh và che phủ mà trong khoảng trống xuất hiện một cái được biết là nhà. Chư hiền nên biết thân này cũng vậy. Do gân, xương, da, thịt, máu vây quanh và che phủ mà trong khoảng trống xuất hiện cái được gọi là một thân xác. Này chư hiền, nếu con mắt bị hoại, nếu sắc không được ánh sáng phản chiếu và nếu không có ý tưởng, thì nhãn thức không sanh. Này chư hiền, nếu nội nhãn căn không bị hoại, nếu ngoại sắc được phản chiếu nhờ ánh sáng và nếu có ý tưởng, khi ấy nhãn thức sanh. Này chư hiền, nội nhãn, ngoại sắc, tất cả những thứ này thuộc về sắc uẩn. Nếu có cảm thọ, chúng thuộc về thọ uẩn. Nếu có nhận thức, chúng thuộc về tưởng uẩn. Nếu có tư duy hay ý hành, chúng thuộc về hành uẩn. Nếu có ý thức, chúng thuộc về thức uẩn. Như vậy, chư hiền, hãy tư duy về sự tập hợp, sự nhóm lại cùng nhau của các uẩn. Này chư hiền, đức Thế Tôn cũng đã dạy điều ấy. Khi chư hiền thấy được duyên sinh, là chư hiền thấy pháp; khi chư hiền thấy pháp, là chư hiền thấy lý duyên sinh. Vì sao, này chư hiền, đức Thế Tôn đã dạy rằng năm thạnh uẩn được sinh ra do các điều kiện: sắc thạnh uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thạnh uẩn." (Cũng vậy với các giác quan khác).
P28:(i, 190, 15-37;191, 1-34) : Tương tự, nhưng nhiều chi tiết hơn.
C: do gỗ, đòn tay, bùn, đất, cỏ = P : do gỗ, dây leo, cỏ và đất sét. Khi nói về thân thể, bản P bỏ: do máu. Trong khi bản C chỉ để hai trường hợp - một trường hợp trong đó nhãn thức không khởi lên do thiếu điều kiện thích hợp; và một trường hợp trong đó nhãn thức khởi lên do sự hiện hữu một số điều kiện thích hợp, bản P kể đến ba trường hợp. Trường hợp sau đây thiếu trong bản C: "nếu nội nhãn căn không bị hoại, nếu ngoại sắc đi vào chú ý, nhưng không có sự đáp ứng một cách thích hợp thì không có thức tương ứng."
C: Nếu nội nhãn căn bị hoại, nếu ngoại sắc không được ánh sáng phản chiếu và không có tưởng, thì nhãn thức không sanh khởi = P: Nếu nội nhãn căn không bị hoại, nếu ngoại sắc không đi vào chú ý, không có sự ráp lại thích hợp, thì không có sự xuất hiện của thức tương ứng. Ở đây bản P đề cập tất cả năm uẩn với độ dài bằng nhau, trong khi bản C bỏ qua ba uẩn giữa. Bản C dùng chữ tư thay cho hành.
Trong NC19, năm uẩn là đề mục thiền quán.
C200: (vii, 65b,13-19): "Lại nữa có sáu kiến căn bản. Gì là sáu? 1) Bất cứ sắc pháp nào thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, tinh hay thô, đẹp hay xấu, xa hay gần, chúng phải được chân chính quán sát với trí tuệ rằng: 'Đây không phải là trí tuệ của tôi, tôi không là cái này, cái này không là tự ngã'; 2) Bất cứ thọ nào; 3) Bất cứ tưởng nào; 4) Bất cứ quan điểm nào rằng: 'Chúng không thuộc về tôi, tôi không sở hữu chúng, chúng sẽ không hiện hữu và tôi cũng sẽ không hiện hữu', tất cả đều phải được quán sát như thật với trí tuệ : 'Đây không phải là tôi, tôi không phải là cái này, cái này không phải là tự ngã'; 5) Tất cả những gì được thấy, được nghe, được nhận thức, được biết, bất cứ cái gì được tư duy, được ý biết đến, từ đời này đến đời kia, từ đời kia đến đời này, tất cả đều phải được chân chánh quán sát với trí tuệ rằng chúng không phải là của tôi, tôi không phải thuộc về chúng, chúng không phải là tự ngã; 6) Bất cứ gì thuộc kiến chấp này 'đây là ngã, đây là thế giới, đây là tự ngã, ta sẽ trở thành trong đời sau, trường tồn, không biến đổi, thường hằng, không bị hủy hoại', tất cả đều phải được chân chánh quán sát với trí tuệ như sau: "Chúng không phải của tôi, tôi không thuộc về chúng, chúng không phải là tự ngã' ".
P22:(i, 138, 36-37; 139, 1-10): Không giống; bản P không nói đến sáu quan điểm mà nói năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tất cả những pháp này cần phải quán sát là: "không phải của tôi, tôi không thuộc về chúng, chúng không phải là tự ngã của tôi." Ở đây chúng ta để ý rằng bản C dịch từ ngữ Àtman là linh hồn, trong khi bản P nói là tự ngã.
b) 12 xứ hay phạm vi của giác quan: 12 xứ được đề cập trong NC 72,87,91, 98.
Trong NC72, chúng được đề cập như sau:
C181: (vii, 32a, 5-7): "Này A Nan, nếu một Tỳ-kheo thấy như thật 12 xứ, nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh xứ, tỷ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ. Này A Nan, khi thấy như thật 12 xứ, ấy là vị Tỳ-kheo biết rõ 12 xứ."
P115: (iii, 63, 18-23): Tương tự, cũng đề cập đến 12 xứ.
C: người biết như thật = P: khi vị ấy biết và thấy 12 xứ này.
C: vị Tỳ-kheo như vậy biết được 12 xứ = P: khi ấy đủ để gọi rằng vị ấy thiện xảo về xứ.
c) Giới hay các yếu tố: Giới được đề cập dài trong NC72, trong đó nhiều giới được phân tích và giải thích. Trong bản NC này, bản C nói đến 13 cách phân chia giới:
- 18 giới: 1 cách phân chia, - 6 giới : 3 cách phân chia, - 4 giới : 1 cách phân chia , - 3 giới : 6 cách phân chia, - 2 giới : 2 cách phân chia.
Bản P chỉ nói 6 cách phân chia về giới:
- 18 giới: 1 cách phân chia, - 6 giới: 3 cách phân chia, - 3 giới : 1 cách phân chia, - 2 giới: 1 cách phân chia.
Như vậy bản C nói đến tất cả 62 giới trong khi bản P chỉ nói 41 giới.
i) 18 giới: C1 = P1: C181: (vii,31b, 15-17) : "Có vị Tỳ-kheo thấy được 18 giới đúng như thật. 18 giới là: mắt, sắc, nhãn thức, tai, tiếng, nhĩ thức, mũi, mùi, tỷ thức, lưỡi, vị, thiệt thức, thân, xúc, thân thức, ý, pháp, ý thức.
P115: (iii, 62, 10-18): Gần giống. 18 giới cũng vậy.
C: Người biết đúng như sự thật = P : Khi vị ấy biết và thấy 18 giới này, thì đủ để gọi rằng vị ấy thiện xảo về giới. Sự khác nhau này cũng được thấy ở các nhóm giới kia.
ii) 6 giới: C2 = P2: C: (31b, 17): 6 giới là địa, thủy, hỏa, phong, không và thức.
P: (62,21-25): Cũng vậy.
iii) 6 giới: C3=P4: C: (31b, 17-18): 6 giới là dục, sân, hại, vô dục, vô sân, vô hại.
P: (62, 63): Cũng vậy, nhưng thứ tự hơi khác: dục giới, ly dục giới, sân giới, vô sân giới, hại giới, vô hại giới.
iv) 6 giới: C4 = P3: C: (31b, 18-19): 6 giới là lạc, khổ, hỷ, ưu, xả và vô minh.
P: (62, 28-32): Cũng vậy.
v) 4 giới: C5 = P: không có. C: (31b, 19): 4 giới là thọ, tưởng, hành và thức.
P : không có.
vi) 3 giới: C6 = P5: C: (31b, 19-20): 3giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
P: (63, 6-9): Cũng vậy.
vii) 3 giới : C7 = P: không có. C: (31b, 20): 3 giới là sắc giới, vô sắc giới và diệt định.
viii, ix, x, xi) 3 giới: C 8,9,10,11 = P: không có.
C: (32a,1-3): 3 giới là (thứ 8) quá khứ, vị lai và hiện tại; (thứ 9) thù thắng, không thù thắng và trung bình; (thứ 10) phước giới, phi phước giới, vô ký giới; (thứ 11) thuộc hữu học, thuộc vô học, không thuộc hữu học hay vô học.
xii) 2 giới: C12 = P: không có.
C: (32a, 3-4): Hữu lậu giới và vô lậu giới.
xiii) 2 giới: C13 = P6: C: (32a, 4): Hữu vi giới và vô vi giới.
P: (63, 12-15) : Cũng vậy.
Trong NC 94, có một đoạn dài đề cập thiền định về sáu giới như sau:
i) Về địa giới: C162: (vii,5b, 7-10): "Có vị Tỳ-kheo phân tích thân giới, nói rằng thân này có nội địa giới, nhận lấy mạng sống. Nội địa giới này như sau: tóc, lông, móng, răng, da ngoài, da mỏng, thịt, xương, gân, thận, tim, gan, phổi, lá lách, ruột già, bao tử, phân; và các nội sắc khác tương tự với chúng, cứng, thuộc bên trong và có sự sống. Đây gọi là nội địa giới. Bất cứ gì thuộc nội địa giới và ngoại địa giới đều gọi là địa giới. Vi ấy quán địa giới "cái này không phải là của tôi, tôi không phải cái này, cái này không phải là tự ngã". Vị ấy quán địa giới với trí tuệ và biết nó như thật, do vậy tâm vị ấy không bị mê lầm vì địa giới, không chấp thủ địa giới."
P140: (iii, 240, 14-33): Cũng vậy. Về địa giới cũng tương tự, nhưng định nghĩa hơi khác: Gì là địa giới? Có nội địa giới và ngoại địa giới. Gì là nội địa giới? Bất cứ gì cứng, thô, thuộc bên trong, thuộc cá nhân, liên hệ đến cá nhân, và xuất phát từ đó. Kể về các nội giới cũng giống như vậy. Bản P thêm: tủy xương, kilomakam và antagunam. Trong khi bản C kể da ngoài, da trong, P chỉ nói taco.
C: Như vậy tâm vị ấy không bị mê lầm vì địa giới, không chấp thủ địa giới = P: Như vậy vị ấy yểm ly địa giới, tâm lọc sạch khỏi địa giới. Bản C phân loại tủy xương thuộc về thủy giới.
ii) Về thủy giới: C: (5b, 10-13) : Được đề cập giống như cách đề cập địa giới, thay đổi "bất cứ cái gì cứng" bằng "bất cứ gì thuộc chất lỏng". Về những chất được phân loại thuộc thủy giới như sau: não, nước mắt, mồ hôi, chất nhầy, đàm, mủ, máu, mỡ, tủy xương, nước bọt, mật, nước tiểu.
P: (240, 34): Nhận xét như trên. Ở đây danh từ àpogatam thay thế danh từ kakkhalam kharigatam. Bản P khi kể thủy giới, bỏ: não, tủy xương (được để vào địa giới); thêm: vasà, lasikà.
iii) Về hỏa giới : C: (5b, 13-16): Được đề cập giống như ở phần điạ giới, thay thế "cái gì cứng" bằng "cái gì nóng và ấm". Về những chất được liệt vào hỏa giới là: thân nhiệt, hơi ấm của cơ thể, cảm giác bốc cháy của cơ thể, cái gì nuôi duỡng cơ thể, cái tiêu hóa thức ăn uống.
P: (241, 12-22): Nhận xét như trên. Ở đây danh từ tejogatam thay thế danh từ kakkhalam kharigatam. Những chất được liệt vào hỏa đại là: cái gì được đốt cháy, hao mòn, được tiêu thụ, cái gì qua đó người ta tiêu hóa được những gì đã ăn, uống, nhai, nuốt.
iv) Về phong giới: C: (5b, 16-19): Cũng giống như ở địa giới, thay "cái gì cứng" bằng "cái gì động". Về những chất được liệt vào phong giới: gió trên, gió dưới, gió đi ngang, gió xé, gió đá, gió không đường (vô đạo phong?), gió nơi chân tay, hơi thở vô thở ra.
P: (241, 23-32): Nhận xét như trên. Vàyogapam thay cho kakkhalam kharigatan. Về bản liệt kê các chất được gọi là phong giới, bản P bỏ : gió bên hông, gió xé, gió đá, gió vô đạo; nhưng thêm: gió lưng, gió ở bụng. C: gió ở tay chân = P: gió xuyên qua tay chân.
v) Về không giới: C: (5b, 19-20): Ở đây "bất cứ cái gì cứng" được thay bằng "bất cứ khoảng không nào ở trong thân, không bị ngăn bởi thịt, da, xương, gân". Về các chất được liệt vào không giới, gồm có: lỗ mắt, lỗ tai, lỗ mũi, lỗ miệng, lỗ họng, qua đó thức ăn được nuốt, được tiêu hóa, ở đó chúng lưu lại và đi xuống dưới.
P: (241, 33-34): Nhận xét như trên. Ở đây danh từ àkàsagatam thay cho danh từ kakkhalam kharigatan. Về các chất được liệt vào không giới, bản P bỏ: lỗ mắt, lỗ họng. Bản này không những nói đến thức ăn, mà còn những gì được nhai, uống, ăn, nếm.
vi) Về thức giới: Biết về thọ:
C: (6a, 3-13): "Khi vị Tỳ-kheo biết như thật năm giới, vị ấy không bị chúng làm ô nhiễm, nhưng cái được giải thoát là thức. Và vị ấy nhận biết cái gì? Vị ấy nhận biết lạc thọ, khổ thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả. Do hưởng thụ lạc thọ, vị ấy cảm nhận lạc thọ; khi cảm thọ lạc thọ vị ấy biết mình đang cảm thọ một lạc thọ, rồi vị Tỳ-kheo phá hủy sự hưởng lạc mạnh mẽ ấy; khi sự hưởng lạc mạnh mẽ ấy bị phá hủy, lạc thọ khởi lên từ sự hưởng lạc mạnh mẽ ấy cũng bị phá hủy, chấm dứt; khi ấy vị ấy biết rằng mình lắng dịu. Cũng vậy đối với bốn cảm thọ khác. Bất cứ sự hưởng thụ mạnh mẽ nào vị ấy cảm nghiệm, vị ấy tiếp nhận cảm thọ tương đương. Với sự phá hủy hưởng thụ mãnh liệt, cảm thọ tương đương cũng được hủy diệt, vị ấy biết rằng cảm thọ này tùy thuộc vào sự hưởng thụ mãnh liệt, có sự hưởng thọ mãnh liệt là gốc rễ, có sự hưởng thọ mãnh liệt là nguồn gốc, từ hưởng thọ mãnh liệt mà đến, có sự hưởng thọ mãnh liệt là cái đầu, tùy thuộc vào hưởng thọ mãnh liệt để vận hành. Cũng như do sự cọ xát hai thanh củi mà lửa phát xuất, và từ lửa một người cảm thọ hơi nóng; nhưng khi hai thanh củi được dang ra thì lửa tắt, và với sự dập tắt của ngọn lửa, hơi nóng cũng diệt và thanh củi trở lại mát mẻ."
P: (242, 13-14): Gần giống. Ở đây, bản P nói thức còn lại là thuần tịnh và vị ấy biết được một điều gì là nhờ thức này. Bản P chỉ nói đến ba tho,ï lạc, khổ và trung tính. Sự đề cập các cảm thọ giống nhau trong hai bản, nhưng bản P bỏ câu cuối cùng: "khi ấy vị ấy biết mình lắng dịu". Bản P cũng bỏ: "bất cứ sự hưởng thụ mãnh liệt nào vị ấy cảm nghiệm.... vận hành". Về ví dụ, bản P chỉ nói hơi ấm và ánh sáng có được do xúc chạm và cọ xát hai thanh củi; khi hai thanh củi được tách ra thì hơi nóng chấm dứt, lắng dịu.
Về xả thọ:
C: (6a, 13-20): "Khi vị Tỳ-kheo không bị ba cảm thọ làm ô nhiễm, thì vị ấy được giải thoát, và chỉ có xả thọ rất thanh tịnh. Rồi vị Tỳ-kheo ấy nghĩ đến việc dùng xả thọ thuần tịnh này tập trung vào Không vô biên xứ, và như vậy vị ấy phát triển một tâm như vậy, y cứ vào đó, an trú trên nó, đứng vững trên nó, ràng buộc với nó. Vị ấy nghĩ đến việc tập trung xả thọ thuần tịnh này trên Thức vô biên xứ, trên Vô sở hữu xứ và trên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và như vậy vị ấy phát triển một tâm tùy thuộc vào đó, an trú trên đó, đứng vững trên đó, ràng buộc vào đó, như một người thợ vàng thiện xảo, dùng lửa để nấu vàng và tinh luyện nó, làm cho vàng thật mỏng, đốt nó trong một cái lò, làm cho nó thuần tịnh, dễ sử dụng, sáng chói, rồi với thứ vàng thuần tịnh, dễ sử dụng và sáng chói ấy, người thợ vàng có thể làm thành bất cứ đồ trang sức gì mình muốn, như dải lụa vàng để trang sức y phục mới, hay chiếc nhẫn, chiếc vòng, chiếc kiềng đeo cổ, chuỗi ngọc. Khi ấy vị Tỳ-kheo nghĩ rằng, xả thọ thuần tịnh này vì lệ thuộc vào Không vô biên xứ, nên là một pháp hữu vi. Vì là một pháp hữu vi, nó phải chịu vô thường và do đó, khổ. Với điều này, vị ấy biết khổ, sau khi biết khổ, vị ấy không tập trung xả thọ này vào Không vô biên xứ. Cũng vậy với ba xứ kia. Sau khi biết cả bốn xứ này như thật với trí tuệ, sau khi không tập trung vào đó, khi ấy vị Tỳ-kheo biết rằng, xả ấy không còn là một pháp hữu vi, vị ấy không còn nghĩ đến việc trở thành hữu hay phi hữu. Khi cảm thọ một cảm thọ được giới hạn bởi thân, vị ấy biết rằng mình đang cảm thọ một cảm thọ giới hạn bởi thân, khi cảm thọ một cảm thọ giới hạn bởi thọ mạng (nguyên lý sống), vị ấy biết mình đang cảm thọ một cảm thọ giới hạn bởi thọ mạng. Vị ấy biết rằng, khi thân hoại mạng chung, tất cả những cảm thọ của vị ấy đi đến chấm dứt, diệt. Vị ấy biết chúng trở nên rất mát mẻ, như một ngọn đèn cháy nhờ vào bấc và dầu, nếu không ai cung cấp thêm dầu, không ai nối thêm bấc, thì với sự tiêu hủy nhiên liệu dầu và bấc cũ, ngọn đèn sẽ tự tắt."
P: (243, 11-32): Ở đây bản P đặt ví dụ về người thợ vàng trước với nhiều chi tiết hơn, mô tả người thợ vàng hay đệ tử ông ta sửa soạn lò, đốt bệ, thỉnh thoảng thụt bệ, rưới nước, canh chừng cẩn thận, và do đó vàng trở thành thuần tịnh, dễ sử dụng, không còn quặng, sáng chói, sẵn sàng để làm nhẫn, đồ đeo tai, đeo cổ, hay tràng hoa bằng vàng. Như vậy xả này được so sánh với một thứ vàng như thế. Ở đây cũng thế, vị Tỳ-kheo nghĩ đến việc tập trung xả này vào bốn vô sắc giới, xét xem xả này được nâng đỡ, được nuôi dưỡng bằng sự tập trung vào bốn vô sắc giới này có trú nơi ông lâu dài không. Vị ấy hiểu rằng khi làm như vậy, xả này sẽ là một pháp hữu vi. Bởi thế vị ấy không xây dựng, không nghĩ đến việc trở thành hay không trở thành, không bám víu bất cứ gì trên đời, vì không chấp thủ, vị ấy không bị dao động; do không dao động, vị ấy chứng đạt sự an tịnh. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong; không còn hiện hữu trở lại. Khi vị ấy cảm thọ một lạc thọ hay bất lạc thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết rằng nó vô thường, không nên bám víu, không phải là một đối tượng để hưởng thụ; như vậy vị ấy cảm nghiệm ba loại thọ này với xả. Khi vị ấy cảm thọ về thân, vị ấy biết mình đang cảm thọ một cảm thọ về thân, khi cảm thọ một cảm thọ về mạng, vị ấy biết mình đang cảm thọ một cảm thọ về mạng. Vị ấy biết rằng sau khi thân hoại mạng chung, tất cả những cảm thọ sẽ thành tịnh chỉ. Ví dụ về ngọn đèn cũng gần giống. Ở đây bản C đặt sự chứng quả A-la-hán vào đoạn sau.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:17:43 GMT -5
d) Bốn thánh đế: Bốn thánh đế được đề cập trong NC 16, 22, 24, 28, 30, 38, 95, 98.
Trong NC48, bốn chân lý được định nghĩa như sau:
C153:(vi, 91b, 16-19): "Gì là trí biết như thật về khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ, kết hợp với người mà ta ghét là khổ, ly tán với người mà ta thương là khổ, không được những gì ta mong cầu là khổ; nói tóm lại năm thạnh uẩn là khổ. Đây gọi là trí biết như thật về khổ. Gì là trí biết về tập, thói quen đau khổ? Khát ái đưa đến tái sinh tương lai, câu hữu với hỷ và tham, mong muốn có được hữu này hữu kia, đây gọi là trí biết như thật về tập, về thói quen của đau khổ. Gì là trí biết như thật về diệt khổ? Sự chấm dứt không dư tàn tham ái dẫn đến tái sanh này, câu hữu với hỷ và tham, mong muốn có được hữu này hữu kia, sự đoạn tận, hoàn toàn từ bỏ, không chấp thủ, sự dừng lại, sự chấm dứt, đây gọi là trí biết như thật về diệt khổ. Gì là trí biết như thật về con đường diệt khổ? Đây là Tám thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định, đây gọi là con đường đưa đến khổ diệt."
Ở đây bản P tương đương không nói đến bốn chân lý cao cả, nhưng ta có thể so sánh đoạn C này với đoạn P trong các kinh khác.
P141: (iii, 294, 9-13): Gần giống. Kinh bỏ: "bịnh là khổ, kết hợp với người mà ta ghét là khổ, ly tán với người mà ta thương là khổ". Kinh thêm "sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ".
C: 5 thạnh uẩn = P: 5 thủ uẩn.
P: (250, 32-34): Về nguyên nhân của khổ, cũng vậy.
C: Sự thực hành, thói quen khổ = P: khổ tập. Ở đây bản C dùng chữ "tập" với nghĩa tu tập, thói quen, để dịch danh từ samudayo; nhưng những dịch giả về sau chọn danh từ "tập" với nghĩa là tụ họp, nhóm lại để dịch samudayo.
C: mong có được hữu này, có được hữu kia = P: tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, nghĩa là dục ái, hữu ái và phi hữu ái.
P: (251,3-6): Về sự chấm dứt khổ, cũng gần giống.
C: Sự diệt tận không dư tàn khát ái này đưa đến hữu tương lai, câu hữu với hỷ và tham, mong có được hữu này, có được hữu kia = P: Cũng gần giống nhưng bỏ các tĩnh từ định tính cho chữ ái.
C: Sự đoạn tận, từ bỏ hoàn toàn, không chấp thủ, dừng lại, chấm dứt= P: patinissaggo mutti anàlayo.
P: (251, 7-11): Về con đường đưa đến diệt khổ, C bỏ "đưa đến", và nói vắn tắt tám thành phần của bát chánh đạo, trong khi bản P kể đầy đủ cả tám.
Trong NC95, có một nghiên cứu tỷ mỷ về tứ diệu đế đáng được phân tích chi tiết.
Thánh đế về khổ:
i) Sinh là khổ:
C31: (v,41b,20): Chân lý về khổ được định nghĩa như sau: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, kết hợp với người mà ta ghét là khổ, biệt ly với người mà ta ưa là khổ, không được điều ta mong cầu là khổ, nói tóm lại năm thạnh uẩn là khổ. Do đâu mà nói rằng sinh là khổ? Những hữu tình thuộc các loại chúng sinh được sinh ra, xuất hiện, thành hình, có năm uẩn, có mạng, đây gọi là sinh. Sinh là khổ như thế nào? Khi hữu tình sinh ra, thì thân thể và trái tim nhận hơi nóng lan rộng, nhận cảm giác, nhận cảm giác lan rộng; thân thể, trái tim, thân thể và trái tim, nhận sự tăng trưởng, hơi nóng, sự xáo trộn, sầu, ưu, nhận sự tăng trưởng lan rộn, hơi nóng... sầu, ưu lan rộng, nhận cảm thọ, cảm thọ lan rộng.
P141: (iii, 249, 9-17): Tương tự nhưng giản dị hơn nhiều. Bản này bỏ: "bệnh là khổ, kết hợp với những gì ta ghét là khổ, biệt ly với những gì ta ưa là khổ". Nó thêm: "sầu, bi, khổ, ưu, não". Về định nghĩa sinh, cũng gần giống. Bản P nói đến sự thụ thai, sự sinh ra, sự tái sinh, sự xuất hiện các uẩn, và sự có ra các nội xứ. Bản P bỏ định nghĩa về "sinh là khổ như thế nào".
ii) Già là khổ:
C:(42b, 6-10): Những hữu tình thuộc đủ loại chúng sinh đều già, với tóc bạc, răng rụng, năng lực ngày một yếu bớt, giảm sút, lưng còng, hai chân cong quẹo, thân thể nặng nề, hơi thở đi lên, đi phải chống gậy, da nhăn như hột mè, các căn lụn bại và vô dụng, da và dáng vẻ xấu xí. Đây là tuổi già. Tuổi già khổ như thế nào? Cũng định nghĩa như ở sinh là khổ, đây nói đến già.
P: (249,18-21): Gần giống nhưng giản dị hơn. Bản P nói, tuổi già, lụn bại, răng rụng, tóc hoa râm, da nhăn, thọ mạng giảm, các căn hư hoại. Ở đây cũng bỏ định nghĩa về sự đau khổ của tuổi già.
iii) Bịnh là khổ:
Bản P không có.
C: (42a, 10-14): Nhiều thứ bệnh khác nhau được kể như sau: đau đầu, đau mắt, đau tai, đau mũi, đau mặt, đau môi, đau răng, đau lưỡi, đau nóc họng, đau hầu, nấc cụt, phong suyễn, ho, mửa, kiết lÿ, kích ngất, ung thư, bướu, kinh ôn, xích đởm, sốt, mệt lả, ......., nhọt, đau ruột. Về sự bịnh là khổ, cũng giống như đoạn trước.
iv) Chết là khổ:
C: (42a, 18-20): Chết là sự chấm dứt của mạng căn, sự vô thường, sự chết, rã rời, chấm dứt, diệt tận, hủy hoại của thọ mạng, sự đóng lại mạng căn của những hữu tình thuộc đủ loại chúng sinh, đây gọi là chết. Về sự chết là khổ, cũng như trong đoạn trước.
P: (249, 22-26): Cũng vậy. Đấy là sự diệt mất, rơi rụng, tan vỡ, biến mất, chết chóc, quá vãng, công việc của thời gian, sự tan rã của các uẩn, sự vứt bỏ thân xác. Ở đây bản P bỏ định nghĩa về chết là khổ.
v) Kết với với những gì ta ghét là khổ:
Bản P không có.
C: (42a, 18-20): Đây là sự kết hợp, sự nhóm tụ lại sáu nội xứ mà ta không thích như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cũng thế với sáu ngoại xứ mà ta không ưa nhưng ta vẫn phải tiếp xúc như cảm, nghĩ về, cảm nhận; cũng thế với sáu giới mà ta không thích như địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới. Về sự kết hợp với những gì ta ghét là khổ, cũng giống như những đoạn trước, nhưng ở đây có nói đến cái khổ khi kết hợp với những gì ta ghét.
vi) Ly tán với những gì ta thích là khổ: P: không có.
C: (42b, 1-5): Cũng được đề cập như trong đoạn cuối, nhưng ở đây những gì ta thích chính là sáu nội ngoại xứ, sáu giới, nhưng ta phải chia ly với chúng, không thể kết hợp, không thể tụ hội với chúng.
vii) Không được những gì ta mong muốn là khổ:
C:(42b, 5-11): Hữu tình phải bị sinh, không thể thoát khỏi sinh, và người ta mong cầu đừng bị sinh ra, nhưng một mong cầu như thế không thể đạt được. Cũng tương tự, khi người ta mong khỏi bị già, khỏi bị chết, khỏi phải sầu, bi, than khóc, khi người ta chạm mặt khổ đau mà mong chuyển nó thành hạnh phúc thì vô hiệu; khi người ta được hạnh phúc mà muốn kéo dài hạnh phúc ấy mãi mãi cũng không được; cũng thế, khi người ta gặp những ý tưởng bất hạnh và mong mỏi chuyển chúng thành những ý nghĩ vui; khi người ta gặp những ý nghĩ hạnh phúc và mong chúng kéo dài mãi mãi cũng không được. Tất cả những điều này không thể cầu mong được.
P: (250, 13-25): Gần giống. Những mong cầu đừng bị sanh ra, bị già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cũng được lập ngôn như thế ở đây. Những mong cầu khác bị loại bỏ.
viii) Tóm lại năm thạnh uẩn là khổ:
C: (42b, 11-13): Có các thạnh uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thạnh uẩn; tóm lại năm thạnh uẩn này là khổ. Vậy thánh đế về khổ này đã hiện hữu trong quá khứ, đang hiện hữu trong hiện tại và sẽ hiện hữu trong tương lai; đây là sự thật như chân, không phải sự thật dối trá, không rời xa thực tại, mà các bậc thánh đã đạt đến, đã thấy, biết, liễu tri, chứng đạt, hoàn toàn chứng ngộ và chân chính chứng ngộ, cho nên được gọi là thánh đế về khổ.
P: (250, 26-31): Gần giống, nhưng bỏ phần cuối: Như vậy thánh đế về khổ này đã hiện hữu trong quá khứ ... vì thế đây gọi là khổ thánh đế.
Nhận xét: Sự nhấn mạnh hiện hữu của thánh đế về khổ trong quá khứ, hiện tại, vị lai trong bản C rất quan trọng. Nó dùng để giải thích lý thuyết "tất cả đều có" của bộ phái Nhất thiết hữu, chủ trương hiện hữu của năm pháp trong hình thái vi tế nhất vào tất cả các thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Sự loại bỏ đoạn này trong bản P có ý nghĩa, vì nó hiển thị rằng Thượng tọa bộ phủ nhận một hiện hữu như thế.
ix) Sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ:
(Bản C không có).
P: (249, 27-30): Soko, sầu: Khi người ta gặp một loại tai biến này hay khác, vài nỗi khổ này hay khác, người ta buồn sầu, ở trong trạng thái sầu khổ, bị sầu khổ ở nội tâm, bên trong bị đau đớn mãnh liệt.
P: (249,31-33): Paridevo, bi : Khi gặp một tai biến này hay khác, một loại khổ đau này hay khác, người ta rên rỉ, khóc lóc, ở trong tình trạng rên rỉ, khóc lóc, bị rơi vào rên rỉ khóc lóc.
P: (250, 3-5): Dukkham, khổ: Đây là nỗi khổ về vật lý, nỗi đau đớn thể xác, đau đớn, khổ vật lý và đau thể xác do sự xúc chạm bằng thân thể.
P: (250, 6-8): Domanassam, ưu: Cũng như trên, nhưng ở đây là nỗi khổ về tinh thần, nỗi đau tinh thần chứ không phải nỗi đau khổ về vật lý, thân xác.
P: (250, 9-12): Upàyàso, não: Khi gặp một vài loại tai biến nào đó, một vài loại khổ đau nào đó, người ta thất vọng, rầu rỉ, ở trong tình trạng tuyệt vọng, trong tình trạng rầu rỉ.
Thánh đế về nguồn gốc khổ:
C:(42b, 13-20): Gì là thánh đế về sự luyện tập khổ? Hữu tình thật sự có nỗi khao khát đối với các nội xứ, khao khác chúng, bám víu chúng, bị chúng làm ô nhiễm, chấp thủ chúng, đây gọi là sự luyện tập, thực hành đau khổ. Vì đệ tử đa văn biết về tri kiến ấy, nhận thức một cái thấy như vậy, hiểu và chứng ngộ một pháp như vậy, đấy là thánh đế về sự thực hành khổ. Vị ấy biết về cái gì? Vị ấy biết rằng, nếu có sự tham cầu vợ con, tôi tớ, nô lệ, quyến thuộc, ruộng, đất, nhà, cửa hàng, các tài sản bán buôn, thương mại mậu dịch, nếu vị ấy có sự tham đắm, ràng buộc với chúng, thì vị ấy sẽ bị chúng làm ô nhiễm, chấp thủ chúng, đây gọi là sự tập tành, và vị ấy biết thánh đế về tham ái, sự tập tành khổ. Cũng vậy với các ngoại xứ mà người ta tiếp xúc, cảm giác, thọ nhận, suy tư, tham ái; cũng vậy với sáu giới địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Về định nghĩa của đế và thánh, cũng như trong trường hợp đầu.
P: (250, 32-34): Không hẳn giống. Bản P nhắc đến cùng một định nghĩa như đã thấy ở trên: "Bất cứ khát ái nào đưa đến tái sanh, liên hệ đến hỷ và tham, tìm cầu khoái lạc chỗ này chỗ kia, nghĩa là dục ái, hữu ái, phi hữu ái". Ở đây cũng thế, bản P bỏ định nghĩa về đế và thánh.
Thánh đế về sự diệt khổ:
C: (43a,19): Gì là thánh đế về sự diệt khổ? Hữu tình thật sự khát ái đối với sáu nội xứ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu họ thoát khỏi chúng, không bị chúng làm ô nhiễm, không chấp thủ chúng, diệt tận chúng, từ bỏ chúng, vứt chúng đi, không ham muốn, ngừng lại, chấm dứt, không cần chúng, thì đây gọi là sự diệt khổ. Vị thánh đệ tử đa văn biết về một tri kiến như vậy, nhận thức một quan điểm như vậy, hiểu và thực chứng một pháp như vậy, đấy là thánh đế về sự diệt ái, sự chấm dứt khổ đau. Vị ấy biết về gì? Vị ấy biết rằng nếu không có tham ái vợ con, tôi tớ, nô lệ, quyến thuộc, ruộng đồng, đất đai, nhà cửa, hàng quán, tài sản bán mua, không có tham kinh doanh công việc, nếu vị ấy thoát khỏi chúng, không bị chúng làm ô nhiễm, không chấp thủ chúng, đoạn tận, từ bỏ, vứt chúng đi, không ham muốn, chấm dứt, dừng lại, không có chúng, đây gọi là sự chấm dứt khổ, và vị ấy biết thánh đế về sự chấm dứt khổ. Cũng vậy với ngoại xứ, mà người ta tiếp xúc, cảm nhận, thấy, nghĩ đến, khao khát sáu giới địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Ở đây bản C cũng lặp lại định nghĩa về đế và thánh.
P: (251, 3-6): Không giống hẳn. Định nghĩa như sau: Bất cứ sự chấm dứt nào về khát ái chấp thủ còn lại, sự từ bỏ nó, xua đuổi nó, giải thoát khỏi nó, độc lập với nó, đây gọi là sự chấm dứt khổ.
Thánh đế về con đường đưa đến diệt khổ:
Ở đây nói đến thánh đạo tám ngành như đã nói ở trên.
e) Duyên sinh: Pháp này được đề cập trong NC 9, 24, 27, 72, 98. Trong NC98, duyên sinh được đề cập như sau:
C86: (vi, 2b, 17-20): "Này A Nan, trước đây tôi đã nói cho ông về duyên khởi và các pháp khởi lên do duyên. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này không sinh thì cái kia không sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Tùy thuộc vào vô minh là các hành, tùy thuộc vào hành là thức; tùy thuộc vào thức là danh sắc, tùy thuộc vào danh sắc là sáu xứ, tùy thuộc vào sáu xứ là sáu hưởng thụ mạnh mẽ, tùy thuộc vào sáu hưởng thụ mạnh mẽ là thọ, tùy thuộc vào thọ là ái, tùy thuộc vào ái là thủ, tùy thuộc vào thủ là hữu, tùy thuộc vào hữu là sinh, tùy thuộc vào sinh là già chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết diệt."
P115:(iii, 63,24-32): Gần giống. C: nếu cái này có ... thì cái kia diệt = P: imasmim sati, idam hoti; imass uppàdà idamuppajjati; imasmim asati, idam na hoti; imassa nirodhà idam nirujjhati. (Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh; cái này không thì kia không, cái này diệt thì kia diệt). Cũng gần giống như bản C nhưng thứ tự hơi khác, và bỏ bớt: nếu cái này không sinh thì cái kia không sinh.
C: hưởng thụ mạnh mẽ = P: xúc - phasso; sparsa có nghĩa là hưởng thụ, sờ chạm, cho nên ở đây bản C dịch là hưởng thụ mạnh mẽ.
C: thọ (nhận) = P: upàdàna, các nhà phiên dịch về sau dịch thành thủ nghĩa là cầm nắm, bám víu.
C: tùy thuộc vào sanh là già chết = P: do duyên sinh, có già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Bản P thêm : Như vậy là tập khởi của đống khổ này.
C: nếu vô minh diệt thì hành diệt = P: avijjàya tveva asesaviràganirodhà sankhàranirodho. Bản P thêm : Như vậy là sự đoạn diệt của đống khổ này.
Trong NC27, lý duyên khởi được đề cập nhưng khởi sự bằng bốn loại thức ăn có ái làm nguyên nhân rồi đến thọ, hưởng thụ mạnh mẽ, sáu xứ, danh sắc, thức, hành, vô minh. Rồi nó nói : tùy thuộc vào vô minh là hành ... cho đến tùy thuộc vào sinh là già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy đây là sự sanh khởi của đống khổ lớn. Ở đây chúng ta nhận thấy rằng, bản C201:(vii, 67b, 2-9) không quên nói đến sầu, bi, khổ, ưu, não như được thấy trong đoạn trước.
Về bản chất tương quan lẫn nhau giữa năm uẩn được đề cập trong NC24, thì đã nói trong chương trước, về năm uẩn.
Như vậy chúng ta có thể nói về pháp duyên khởi, giữa hai bản C và P không có dị biệt nào quan trọng.
f) Bốn loại thức ăn: Bốn loại thức ăn được đề cập trong NC 27 và 70. Trong NC27, chúng được nói đến như sau:
C201:(vii, 67b): Một là đoàn thực, nghĩa là thức ăn từng miếng, thô và tế, kế đó là canh lạc, nghĩa là thức ăn do hưởng thụ mạnh mẽ, rồi ý niệm thực, nghĩa là thức ăn bằng ý chí và cuối cùng là thức thực, là thức ăn bằng ý thức.
P38: (i, 261, 5-8): Gần giống. C: đoàn thực thô và tế = P: kabalinkàro àhàro olàriko, và sukhumo và.
C: thức ăn hưởng thụ mạnh mẽ = P: xúc thực, phasso àhàro.
C: ý niệm thực = P: tư niệm thực, manosancetanà àhàra.
C: thức thực = P: vinnànam àhàro.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:20:08 GMT -5
g) Nghiệp và nghiệp dị thục hay hành động và quả báo của hành động: Những pháp này được đề cập trong NC 39, 40, 65, 84, 85, 89, 90.
* Trong NC89, chúng được đề cập như sau:
C170: (vii,16b, 12-18): Lúc bấy giờ Anh Vũ Ma Nạp đi đến đức Phật, chào Ngài và xin phép được hỏi. Khi được cho phép, anh hỏi đức Thế Tôn vì lý do gì, vì nguyên nhân gì mà trong số các hữu tình, mặc dù đều có thân người, một số lại thấp lùn, một số thì cao lớn, một số bần tiện, một số cao sang. Anh nói, anh thấy một số người chết yểu, một số sống lâu, một số mắc nhiều bệnh, một số ít bệnh, một số xấu xí, một số đẹp đẽ, một số không có uy quyền, không có ảnh hưởng, một số lại có uy quyền, ảnh hưởng. Có người thuộc dòng họ thấp kém, có người thuộc dòng họ cao quý, một số người nghèo, một số người giàu, một số người liệt tuệ, một số người có trí tuệ. Khi ấy đức Thế Tôn trả lời : hữu tình làm nên nghiệp của chúng, nhận lấy quả báo của những việc đã làm. Hữu tình tùy thuộc vào nghiệp, nương tựa vào nghiệp, nghiệp là trọng tài của chúng. Lối giải thích vắn tắt này không làm thỏa mãn thanh niên Anh Vũ. Và anh xin đức Thế Tôn giải thích chi tiết mọi thứ.
Đức Thế Tôn chấp nhận yêu cầu của Anh vũ ma nạp.
P135:(iii, 202, 12-24): Gần. giống C: Anh Vũ Ma Nạp Đô Đề Tử = P: Subha-mànava Todeyyaputta. Câu hỏi của Subha cũng vậy, nhưng đặt câu hỏi về người nghèo và giàu trước câu hỏi về dòng họ hạ liệt và cao sang. Câu trả lời của đức Phật hơi khác: "Kammassakà sattà, kammadàyàdà kammayonì kammabandhù kammapatisaranà." (Hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, là bào thai của nghiệp, là quyến thuộc của nghiệp, có nghiệp làm chỗ nương tựa). Còn lại giống nhau.
i) Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu?
C: (16b, 18-20): Có những người giết hại sinh vật, tàn ác, xấu xa, khát máu, có những tư tưỏng tác hại, không thương xót hữu tình, cho đến loài sâu bọ, sau khi đã hoàn tất những nghiệp này, khi chúng chết, chúng sẽ tái sinh vào địa ngục, khi được tái sinh làm người, chúng sẽ chết yểu, bởi vì đường lối như trên đưa đến chết yểu, những hành nghiệp như trên cho hậu quả như vậy. Có những người từ bỏ sát sinh, không sát sinh, bỏ dao, bỏ gậy, có tàm quý, có thương xót tất cả hữu tình cho đến loài sâu bọ. Sau khi nhận những nghiệp này một cách trọn vẹn, khi chết họ được tái sinh vào cảnh giới sung sướng, ở cõi trời. Khi tái sinh làm người, họ sẽ sống lâu. Vì con đường như trên đưa đến sống lâu, những nghiệp như trên đem lại hậu quả ấy.
P: (203, 16-34): Cũng vậy với vài dị biệt nhỏ về cách sử dụng từ ngữ. C: hết sức xấu xa, có tư tưởng tác hại = P: hatapahate nivittho (cố ý đả thương và giết hại).
C: sau khi nhận những hành vi ấy một cách toàn vẹn = P : so tena kammena evam samattena evam samàdinnena (vì nghiệp ấy đã được làm và hoàn tất một cách quyết định). C: họ sẽ được sinh vào địa ngục = P: họ sẽ được tái sinh vào cõi dữ , ác thú, đọa xứ, địa ngục.
ii) Tại sao có người nhiều bịnh có người ít bịnh?
C: (17a, 3-7): Cách giải thích cũng như vậy, chỉ khác về các hành động. Ở đây, những người làm hại hữu tình bằng tay, hoặc bằng que củi, bằng đá, dao hay gậy; những hành động ấy sẽ đưa đến nhiều bệnh. Trường hợp ít bệnh là ngược lại.
P: (204, 3-17): Cũng vậy, với những chỗ khác nhau như đã nói ở trên. C: bằng dao= P: với gươm; C: bằng đá= P: với hòn đất.
iii) Tại sao người xấu kẻ đẹp?
C: (17a, 7-12): Có những người nóng nảy, mau nổi giận, dù bị nói một chút cũng hết sức phẫn nộ, họ đầy sự sân hận, dễ buồn sầu, luôn luôn sẵn sàng làm lớn chuyện và tranh chấp. Những nghiệp này sẽ đưa con người đến chỗ tái sinh làm người xấu. Người đẹp là ngược lại.
P: (204, 18-31): Cũng vậy, nhưng bỏ : luôn luôn sẵn sàng để làm to chuyện và tranh cãi. Nó thêm: kuppati byàpajjati patitthìyati (giận dữ, bất đồng, chống đối).
iv) Tại sao có kẻ không quyền hành, ảnh hưởng, người lại có quyền hành, ảnh hưởng?
C: (17a, 12-16): Có những người ôm lòng ganh tị ghen ghét khi thấy người khác được cúng dường, tôn trọng. Họ muốn được những gì người khác được. Những nghiệp này sẽ khiến chúng tái sanh làm người không có quyền hành thế lực. Trường hợp kia là ngược lại.
P: (204-32-37): Cũng vậy. C: không quyền hành, không ảnh hưỏng = P: appesakkho (ít ảnh hưởng). Nó bỏ : chúng muốn được những gì người khác đã được.
C: người khác được cúng dường tôn trọng = P: paralàbhasakhàragarukàra- mànanavandanapujà ( người khác được lợi dưỡng, danh dự, cung kính, tôn trọng). Còn lại giống nhau.
v) Tại sao người thì sinh vào nhà thấp hèn, người thì sinh vào giòng họ cao quý?
C: (17a, 16-20) : Có những người lớn lối kiêu căng, không kính trọng những người đáng được kính trọng, không nể vì những người đáng được nể vì, không tôn kính những người đáng được tôn kính, không cúng dường những người đáng được cúng dường, không nhường đường đi cho những người đáng được nhường lối, không mời ngồi những người đáng được mời ngồi, không chắp tay chào và kính lễ người đáng chắp tay chào và kính lễ. Những nghiệp này sẽ đưa họ đến sự sinh vào gia đình hèn hạ. Trường hợp kia ngược lại.
P: (205, 16-26): Giống nhau với một vài khác biệt nhỏ về cách diễn đạt.
vi) Tại sao người sinh ra kẻ giàu người nghèo?
C: (17b, 2-8): Có những người không phải là người cho, không bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo, trẻ mồ côi và người ăn xin từ xa đến. Họ không bố thí đồ ăn, thức uống, y phục, mền, tràng hoa, hương thoa, nhà, giường, nệm và đèn. Những nghiệp này sẽ khiến họ sanh ra nghèo nàn. Trường hợp kia thì ngược lại.
P: (205, 6-15): Gần giống. Bản này chỉ nói bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, bỏ người nghèo, trẻ mồ côi, hành khất từ xa đến. Về những quà tặng, nó bỏ y phục, mền, nhưng thêm áo quần, xe cộ.
vii) Tại sao có người sinh ra liệt tuệ, có người có trí tuệ?
C: (17b, 8-15): Có những người không thường xuyên đi đến những Sa-môn, Bà-la-môn danh tiếng để hỏi về phước và phi phước, có tội, không tội, thù thắng, không thù thắng, cái gì trắng, cái gì đen, đen và trắng từ đâu ra, gì là quả báo thiết thực hiện tại, gì là quả báo về sau . Nghiệp này đưa họ đến tái sinh làm người liệt tuệ. Trường hợp kia thì ngược lại.
P: (205, 27-34): Cũng vậy. Nó bỏ các câu hỏi: cái gì là thù thắng, không thù thắng, cái gì là trắng, cái gì đen, đen trắng từ đâu đến, gì là quả báo thiết thực hiện tại, gì là quả báo về sau. Nó thêm: cái gì nên tu tập, cái gì không nên tu tập. Cái gì do tôi làm đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu dài, cái gì do tôi làm sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Trong NC90, đức Thế Tôn đưa ra những lý do sau đây về sự bất đồng rõ rệt giữa nhân và quả:
C171:(vii,19b, 7-20): Trong trường hợp những người không từ bỏ ác nghiệp nhưng lại được sinh vào hoàn cảnh tốt, ở cõi trời, đây là vì:
a) Họ đã hoàn toàn chịu quả báo các ác nghiệp của họ trong đời này, nên được tái sinh vào thiện thú, cõi trời;
b) Hoặc vì họ phải chịu quả báo ác nghiệp không phải ngay bây giờ, không phải ở đời sắp đến, mà ở trong đời sau nữa;
c) Hoặc trước kia họ đã làm những thiện nghiệp và những quả báo tốt lành chưa hết, nên sau khi chết họ được sinh vào thiện thú, cõi trời;
d) Hoặc là vào lúc chết, họ có những tâm và tâm sở hiền thiện, phù hợp với chánh kiến.
Những lý do còn lại, trường hợp những người từ bỏ ác nghiệp nhưng lại sinh vào ác thú, địa ngục, trường hợp người không từ bỏ ác nghiệp và những người sau khi chết sinh vào ác thú, địa ngục, và trường hợp những người từ bỏ ác nghiệp, sau khi chết được sinh vào thiện thú, cõi trời, ba trường hợp này cũng được giải thích như trường hợp đầu, với những thay đổi thích hợp về từ ngữ và cách diễn đạt.
P136: (iii,214,6-34): Không giống hẳn. Ở đây bản P kể ra bốn lý do: a. Vị ấy có lẽ trước kia đã làm những việc lành đưa đến quả báo an vui; b. Có lẽ vị ấy về sau này đã làm những việc lành đưa đến quả báo an vui; c. Vào lúc chết vị ấy có thể đã có chánh kiến vững chắc; d. Còn về những ác nghiệp hiện tại của y, có thể nhận quả báo xấu bây giờ hoặc vào một đời khác. Ba trường hợp kia cũng được giải thích tương tự, với những thay đổi thích hợp.
Như vậy chúng ta thấy rằng không có khác nhau nhiều về cách giải thích nghiệp và quả báo như đã thấy trên. Nhưng trong NC40, trong đó đức Thế Tôn khuyên Tôn giả La Vân làm thế nào để thực hành các nghiệp thì có vài khác nhau rõ rệt.
C14:(v,17a, 5-13): Đức Thế Tôn khuyên La Vân rằng, trước khi làm một thân nghiệp, nếu ông tư duy và thấy rằng thân nghiệp này được phép (nghĩa là trong sạch), nhưng sẽ đưa lại quả báo xấu và đau khổ cho chính mình và người khác, thì nên từ bỏ thân nghiệp ấy. Nếu trước khi làm một thân nghiệp, mà tư duy và thấy rằng thân nghiệp này không được phép, nhưng nó sẽ đem lại phước báo và hạnh phúc cho mình và cho người khác, thì nên làm một thân nghiệp như vậy. Cũng vậy với thân nghiệp đang làm. Đối với thân nghiệp đã làm, vị ấy cũng cần phải tư duy. Nếu thấy rằng thân nghiệp đã làm là được phép, nhưng sẽ đem lại quả báo xấu và đau khổ cho mình và người khác thì nên đến gần những Tỳ-kheo đa văn, phát lộ và sám hối chúng, không che dấu và phòng hộ trong tương lai. Nếu sau khi tư duy, thấy rằng thân nghiệp mình đã làm là không được phép, nhưng đem lại phước báo và hạnh phúc cho nình và người khác, thì cả ngày đêm vị ấy nên vui mừng và an trú trong chánh niệm và chánh trí.
P61:(i,415, 25-36): Sự tư duy ở đây không giống như trên. Tôn giả Ràhula được đức Phật khuyên hãy tư duy thân nghiệp mình sắp làm có đưa đến hại mình, hại người, hại cả hai, đó là một ác nghiệp đưa đến đau khổ, có quả báo đau khổ, thì vị ấy chắc chắn không nên làm việc ấy. Nếu thấy rằng thân nghiệp sắp làm sẽ không đưa đến hại mình, hại người, hại cả hai, mà là một việc phước đưa đến hạnh phúc, có quả báo an lạc, thì vị ấy nên làm một hành vi như vậy. (Cũng thế, với một thân nghiệp đang làm). Đối với thân nghiệp đã làm, nếu sau khi suy nghĩ thấy rằng nó đưa đến tự hại.... thì nên đi đến bậc thầy hay Tỳ-kheo đa văn để phát lộ sám hối, bộc bạch, và trong tương lai chừa bỏ làm một hành vi như vậy. Nếu sau khi tư duy thấy rằng thân nghiệp đã làm này không đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thì vị ấy nên an trú hoan hỷ ngày đêm tu tập một hành vi như vậy.
Về ngữ nghiệp và ý nghiệp cũng được đề cập theo cách ấy trong cả hai bản C và P.
Nhận xét:Sự giải thích của bản C cho các Tỳ-kheo một phạm vi rộng lớn về ý nghĩa hành vi công đức và về giới luật xuất gia. Nhưng bản P bỏ danh từ "được phép" và không cho phép một lối giải thích rộng rãi nào về định nghĩa hành vi công đức và về giới luật Tỳ-kheo.
Trong NC84, nghiệp và quả báo được đề cập rất nhiều.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:24:45 GMT -5
Ba loại sầu khổ hiện tại cho kẻ ngu:
i) Loại sầu khổ thứ nhất:
C149: (vii, 60b, 10-14): Kẻ ngu hiện tại phải chịu bao thứ đau khổ về thân và tâm. Bất cứ hành vi nào của kẻ ngu sẽ bị người ta nói đến một cách thích đáng, dù khi vị ấy đang ngồi trong hội chúng hay ở trên đường, giữa chợ, tại ngã tư. Khi một người ngu giết hại sinh vật, lấy của không cho, tà hạnh trong dục lạc, nói dối cho đến có tà kiến và có vô số ác bất thiện pháp, người ta sẽ phê bình sự xấu xa của tùy theo đó. Người ngu đâm ra lo lắng bất an khi nghĩ rằng mình đã làm tà hạnh như vậy và người ta sẽ bình phẩm sự xấu xa của mình như vậy. Đây là loại sầu khổ thứ nhất người ngu phải chịu ngay trong hiện tại
P129: (iii, 163, 14-25): Gần giống, nhưng bỏ: "giữa chợ" cho đến "có tà kiến, có vô số ác bất thiện pháp". Nó thêm: "uống rượu". Ở đây bản C nói đến mười bất thiện nghiệp đạo. Còn lại cũng giống nhau.
ii) Loại sầu khổ thứ hai:
C: (60b, 14-19): Người ngu trông thấy một tội nhân bị lính của vua bắt, phải chịu đủ cực hình như: 1. Chặt tay. 2. Chặt chân. 3. Chặt cả tay và chân. 4. Xẻo tai. 5. Xẻo mũi. 6. Cả tai mũi đều bị xẻo. 7. Bị xẻo thịt. 8. Bị nhổ râu. 9. Bị nhổ tóc.10. Râu tóc đều bị nhổ. 11. Nhốt vào cũi sắt. 12. Bị bọc vải rồi đem đốt. 13. Cửu khiếu bị đổ cát vào. 14. Bị vặn bằng cỏ. 15. Bị nướng trên lửa. 16. Bị đặt vào bụng một con lừa sắt và nướng trên lửa. 17. Bị bỏ vào miệng một con heo sắt để nướng trên lửa. 18. Bị bỏ vào miệng một con cọp sắt để nướng trên lửa. 19. Bị luộc trong một nồi đồng. 20. Bị luộc trong một nồi sắt. 21. Thân thể bị cắt ra từng mảnh. 22. Bị đâm bằng một chĩa ba nhọn. 23. Bị móc bằng một móc sắt. 24. Bị đặt nằm trên một giường sắt và bị rưới dầu sôi lên. 25. Bị đặt ngồi trong một cái cối sắt và giã bằng chày sắt. 26. Bị con rồng cắn. 27. Bị rắn cắn. 28. Bị quất bằng roi. 29. Bị đánh bằng gậy. 30. Bị đánh bằng ba toong. 31. Bị treo sống tên một cái sào. 32. Bị chặt đầu bêu giữa công chúng. Khi người ngu trông thấy cảnh này thì nghĩ mình cũng phạm tội như vậy, nếu vua biết, mình cũng sẽ bị bắt và chịu những cực hình như vậy, đây là loại sầu khổ thứ hai của người ngu.
P: (163, 26-27): Gần giống với những điểm khác nhau như trên. Trong khi bản C nói về một tội nhân, bản P nói về một kẻ trộm. Về các hình phạt khác nhau mà vua gia hình, bản P theo thứ tự sau: 1. Quất bằng roi, 2. Quất bằng gậy, 3. Đánh bằng roi, 4. Bị chặt hai tay, 5. Bị chặt 2 chân, 6. Tay chân đều bị chặt, 7. Bị xẻo tai, 8. Bị xẻo mũi. 9. Tai, mũi đều bị xẻo, 10. Hình phạt nồi cháo, 11. Cạo đầu như con sò, 12. Miệng như rahu, 13. Vòng lửa, 14. Đốt đuốc bằng bàn tay, 15. Vặn bằng cỏ, 16. Mặc áo vỏ cây, 17. Hình phạt con sơn dương, 18. Móc thịt, 19. Bị cắt từng lát như đồng tiền, 20. Bị ngâm giấm, 21. Bị quay bằng thanh sắt, 22. Hình phạt đệm rơm, 23. Rưới dầu sôi trên thân, 24. Cho chó xé thịt, 25. Bị đâm sống trên những cọc sắt, 26. đầu bị chặt đứt bằng gươm.
Nhận xét: Bản C kể 32 loại khổ hình trong lúc bản P chỉ kể 26. 14 hình phạt sau đây được tìm thấy trong cả hai bản: C1=P4, C2=P5, C3=P6, C4=P7, C5=P8, C6=P9, C7=P19, C8 và 9,10=P20, C14=P15, C23=P18, C24=P23, C28=P1, C29=P3, C30=P1. Ở đây, P20= C8,9,10 là nhổ râu, nhổ tóc, nhổ cả râu tóc.
Có 16 hình phạt trong bản C không có trong bản P. C11: bỏ vào trong cũi sắt; C12: bị gói trong vải mà đốt; C13: cửu khiếu bị đổ cát; C15: bị nướng trên lửa; C16: bị đặt vào bụng con lừa sắt và nướng trên lửa; C17: đặt vào miệng con heo sắt nướng trên lửa; C18: đặt vào miệng con cọp sắt nướng trên lửa; C19: luộc trong nồi đồng; C20: luộc trong nồi sắt; C21: thân thể bị cắt thành từng mảnh; C22: bị đâm bằng cọc nhọn; C25: bị đặt ngồi trong cối sắt và giã bằng chày sắt; C26: bị rồng cắn: C27: bị rắn cắn; C31: bị treo sống trên một sào cao; C32: bị treo ngược đầu.
12 hình phạt trong bản P sau đây không có trong bản C: P10: hình phạt nồi cháo; P11: đầu cạo như con sò; P12: miệng rahu; P13: vòng lửa, P14: đốt đuốc bằng bàn tay; P21: hình phạt vỏ cây; P22: hình phạt đệm rơm; P24: hình phạt cho chó xé xác; P25: bị đâm sống bằng những cọc nhọn, P26: bị chặt đầu bằng cây gươm.
iii) Loại sầu khổ thứ ba:
C: (60b,19): Khi một người ngu làm thân ác hành, ngữ ác hành và ý ác hành, khi vị ấy bị ốm và chịu những đau đớn, hoặc ngồi hoặc nằm trên một cái giường, trên một chỗ nằm hay trên đất, vị ấy chịu những đau khổ khốc liệt gần như chết và tất cả những thân ác hành, khẩu và ý ác hành bay lượn trên người ấy, đậu lại trên người ấy, như vào lúc hoàng hôn, cái bóng của một ngọn núi lớn lượn trên đất, đậu trên mặt đất. Vị ấy nghĩ rằng xưa kia mình đã không làm thiện hành, và đã làm nhiều việc bất thiện. Có chỗ nào cho những người ác, những kẻ bạo động, làm những việc điên rồ, những kẻ không làm thiện hành và các việc công đức, những kẻ không có chỗ trú ẩn chống lại những hậu quả đáng sợ, thì vị ấy chắc chắn sau này sẽ đi đến nơi ấy. Bởi thế, vị ấy hối hận những hành vi trước kia và do vậy, vị ấy không chết như một người thánh thiện, không chết như một người có công đức.
P: (164,24-32): Gần giống. P bỏ: vị ấy bị ốm và đau những nỗi đau khốc liệt gần như chết. P thêm: vị ấy chết nằm trên một cái ghế, một cái giường hay trên đất. Bỏ: bởi thế vị ấy hối hận những hành vi về trước của mình và do vậy vị ấy không chết như một bậc thánh, một người có công đức. Thêm: vị ấy than khóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh.
* Sau khi chết vị ấy sẽ tái sinh vào địa ngục:
i) Tái sinh vào địa ngục
C: (61a,4-6): Rồi kẻ ngu ấy do thân ác hành, ngữ và ý ác hành, sau khi chết sẽ bị sanh vào các cõi xấu, vào địa ngục. Khi ấy vị ấy chịu những ác báo, hoàn toàn khó chịu, không vui, không đáng muốn, vì địa ngục là một nơi hoàn toàn khó chịu, không vui, không đáng muốn.
P: (165,12-20): Gần giống, nhưng thêm: thật khó mà cho một ví dụ về sự khổ ở địa ngục.
ii) Ví dụ để tả thống khổ ở địa ngục:
C: (61a, 6-20): Khi ấy một Tỳ-kheo hỏi về nỗi khổ ở địa ngục, mà đức Thế Tôn mô tả là không thể nói, và Ngài đã đưa một ví dụ để làm sáng tỏ nỗi khổ trong địa ngục. Giả sử một kẻ cướp bị vua phạt phải bị đâm mỗi sáng bằng 100 cọc nhọn. Hình phạt được tái diễn vào buổi trưa và chiều, vì tội nhân vẫn còn sống; nhưng thân thể ông ta đã hoàn toàn bị đâm thủng bằng cọc nhọn như cái lỗ nơi một đồng tiền. Một lần đâm đã đau đớn vô cùng, nói gì đến 300 lần đâm trong một ngày. Rồi đức Phật nhặt lên một hòn đá nhỏ như hạt đậu mà bảo Tỳ-kheo so sánh nó với ngọn núi Tuyết. Vị Tỳ-kheo phải nhận rằng ngọn núi Tuyết là trăm ngàn triệu lần lớn hơn hòn đá. Khi ấy đức Phật dạy, nỗi khổ trong địa ngục là trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn lần, triệu lần đau đớn hơn nỗi khổ mà một tội nhân phải chịu trong một ngày bị đâm thủng bằng 300 cọc nhọn.
P: (165, 21-26): Gần giống, nhưng bỏ bớt "như lỗ một đồng tiền".
C: một hòn đá nhỏ như hạt đậu = P: hòn đá kích thước bằng bàn tay của Ngài.
iii) Khổ trong địa ngục:
C: (61b,20): Ở đây bản C kể ra 11 loại khổ hình trong địa ngục: 1. Khi một người sinh vào địa ngục, ngục tốt nắm lấy nó và dùng cưa nung đỏ chỏm đầu, làm cho nó thành một hình bát giác, hình vuông hay hình tròn, hoặc dài, hoặc ngắn, hoặc đẹp, hoặc xấu. Như vậy nó phải chịu cực hình đau đớn, cho đến 100 năm, 1000 năm mà vẫn không chết, cái chết chỉ đến khi các nghiệp ác bất thiện đã đoạn tận; 2. Cũng như trên, thay cưa nung đỏ bằng búa sắt nung đỏ; 3. Ngục tốt dùng một cọc sắt nung đỏ bắt nó ngồi lên trên, dùng những kềm sắt vặn mở miệng nó để rót những hoàn sắt nóng vào, đốt cháy môi lưỡi, họng, hầu, tim, bao tử, hoàn sắt đi ra phía dưới thân thể; còn lại cũng như trong trường hợp trước; 4. Cũng như ở trường hợp ba, thay cọc sắt nung đỏ bằng chuông sắt nung đỏ (?) và thay hoàn sắt nung đỏ bằng nước đồng sôi; 5. Ngục tốt bắt nó nằm trên một nền bằng sắt nóng, trói tay chân nó lại, bắt duỗi ra và dùng bù-lon sắt xoáy vào hai bàn tay, hai bàn chân và bụng; 6. Ngục tốt bắt nó quỳ trên đất, kéo lưỡi nó ra, để đóng lên 100 cái đinh cho nó nhả ra không được thụt vào, như một cái da bò bị căng ra bởi 100 cái đinh không co rút lại; 7. Ngục tốt lột da nó từ đầu đến chân, từ chân đến đầu và trói nó vào một xe sắt đỏ kéo đi qua lại trên nền đất sắt đỏ; 8. Ngục tốt nấu nước đồng sôi và bắt tội nhân rưới nước đồng sôi lên thân thể; 9. Ngục tốt dựng một ngọn lửa cao như núi, dìm tội nhân xuống dưới rồi kéo lên. Khi bị dìm xuống da thịt và máu của tội nhân cháy tiêu. Khi kéo lên, da thịt và máu lành lại như cũ; 10. Ngục tốt bỏ tội nhân chúc ngược đầu vào trong nồi đồng đầy nước sôi để luộc, thân thể tội nhân bị tung lên nhồi xuống khắp bốn hướng chính và bốn hướng phụ, bọt tuôn ra từ thân thể nó trở lại luộc chín thân thể nó; như những hạt đậu nhỏ đậu lớn, đậu trắng, đậu đen, đậu nâu và hột mù tạt, tất cả bỏ trong một nồi đồng đầy nước sôi mà luộc, thì những hạt đậu bên trong bị tung lên nhồi xuống khắp bốn hướng chính và bốn hướng phụ, những bọt tuôn ra lại luộc thân thể của chúng; 11. Địa ngục ấy có một ngục gọi là bốn sự hưởng thụ mãnh liệt; chúng sinh được sinh ra trong đó; khi mắt chúng thấy sắc, chúng không vui, nhưng chúng không thể không bằng lòng; tâm của chúng không tham ái nhưng cũng không thể không tham ái; tâm chúng không được thỏa mãn nhưng không thể không thỏa mãn; cũng vậy với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý nghĩ các pháp. Đức Thế Tôn dùng nhiều cách khác nhau để nói về ngục ấy, nhưng cái khổ trong ngục ấy không thể nào mô tả đầy đủ, địa ngục ấy chỉ có toàn là khổ.
P: (166, 18-32): Ở đây bản P chỉ kể bảy loại khổ trong địa ngục: C5=P1; C7=P4; C9=P5; C10=P6; C11=P7. Bản P bỏ : C1, C2, C3, C4, C6, C8. Bản C bỏ P2, P3.
C5=P1: Bản P bỏ: bắt nó nằm dài trên một nền sắt nóng. C: vặn một cái đinh sắt vào trong bụng = P: vặn một cái cọc sắt vào giữa ngực.
C7=P4: Bản P bỏ : ngục tốt lột da nó từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu. Nó chỉ nói chiếc xe, mà không nói xe đỏ rực, chỉ nói đất đỏ rực chứ không nói nền đất bằng sắt đỏ rực.
C9=P5: Bản P bỏ: khi nó bị dìm xuống, thì da thịt máu của nó bị đốt cháy và khi nó được kéo lên da thịt máu nó lại lành lại như cũ.
C10=P6: Bản P chỉ nói rằng, nó bị luộc và nổi lên trên mặt cùng với bọt, không giống bản C nói rằng, bọt thoát ra từ thân thể nó lại luộc thân nó. Bản P bỏ ví dụ đậu lớn đậu nhỏ luộc sôi.
C11=P7: Hoàn toàn khác. Ở đây bản C nói rằng, nó bị ngục tốt ở địa ngục ném vào trong địa ngục lớn, được mô tả là có bốn góc, bốn cổng, chia làm bốn phần bằng nhau, vây quanh bằng tường sắt, có mái sắt; nền của địa ngục này đỏ rực cùng khắp vuông vức 100 do tuần.
P2 và P3 không có trong bản C. P2: ngục tốt đặt nó nằm xuống và chặt nó ra bằng một cái rìu. P3: ngục tốt đặt nó chúc ngược đầu và cắt nó bằng những dao cạo.
iv) Nỗi khổ trong súc sinh:
C: (62a, 8-20): Người ngu có thể từ địa ngục tái sinh vào cõi súc sinh và ở đây nó cũng chịu những nỗi khổ khốc liệt. năm loại khổ được tìm thấy trong cảnh giới súc sinh: 1. Nó có thể được sinh vào cõi súc sinh, sinh ra lớn lên và chết trong bóng tối, nghĩa là làm côn trùng dưới đất. Vì kẻ ngu trước kia tham ăn và làm những hành vi xấu ác về thân, lời và ý, nên bây giờ bị sinh làm sâu bọ ở trong đất; 2. Nó có thể được sinh trong cõi súc sinh, sinh ra, lớn lên và chết trong thân thể như là những con vi trùng ký sinh nhỏ. Còn lại như trên; 3. Những con vật sinh ra lớn lên và chết ở trong nước, như cá, ma kiệt ngư (có lẽ là cá ở xứ Ma Kiệt Đà), rùa, cá sấu, bà lưu ni, đề tỷû (3 loại cá thần thoại có tầm cỡ khổng lồ); 4. Sinh làm loài nhai lại, loài ăn cỏ, ăn cây nhỏ và cây lớn, làm loài voi, ngựa, lạc đà, bò, cừu, nai, trâu nước, heo; 5. Sinh làm loài vật mà mỗi khi ngửi thấy mùi phân tiểu liền chạy đến ăn, cũng như những con trai, con gái nhỏ khi ngửi thấy mùi đồ ăn. Những con vật này là gà mái, heo, chó, dã can, quạ, câu lâu la, câu lân giàø (?). Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện để nói về những con vật này, vì nỗi khổ trong cõi súc sinh không thể nói hết. Trong cõi súc sinh không có gì ngoại trừ khổ.
P: (167, 21-34): Cũng vậy, nó nói đến năm loại súc sinh nhưng không theo thứ tự như trên, những đoạn tương đương như sau: C1=P3; C2=P không có; C3=P4; C4=P1; C5=P2; P5=C không có.
C1=P3: Cũng vậy. C: côn trùng ở trong đất = P: kìtà pulave ganduppàdà (bọ hung, ốc sên, giun đất) và bất cứ con vật nào sinh ra, sống và chết trong bóng tối. C: do lòng tham ăn của chúng=P: do sự hưởng thụ vị ngon của chúng ở đây (trong cõi này).
C3=P4: Gần giống. Bản P chỉ kể ba loại thú vật: cá, rùa và cá sấu, và bất cứ con vật gì sinh ra, sống và chết trong nước.
C4=P1: Gần giống. Bản P nói chúng ăn rêu mốc và cỏ khô nhai bằng răng. Nó nói đến lừa, cừu, nai, và bất cứ con vật nào ăn cỏ.
C5=P2: Gần giống, nhưng chỉ nói đến phân mà không nói nước tiểu. Trong lúc bản C dẫn ví dụ những đứa bé trai gái chạy đến khi nghe mùi thức ăn, bản C nói đến những người Bà-la-môn chạy đến khi nghe mùi đồ cúng ném vào lửa. Bản P bỏ qua, câu lâu la và câu lân già.
P5=C: không có: Có những con vật sinh ra lớn lên và chết trong đống rác, như là những vật sinh ra lớn lên và chết trong cá thối, thây rữa nát, gạo thối, hoặc trong vũng nước ở đầu làng, hay bên cạnh làng.
v) Sự khó khăn để được trở lại thân người:
C: (62b, 1-8): Thật rất khó cho người ngu để có được thân người trở lại, khi đã bị sinh vào súc sinh, vì trong cõi súc sinh không có hành vi công đức, không có cử chỉ cung kính, không có điều thiện thù thắng. Súc sinh ăn lẫn nhau, con mạnh cắn xé con yếu, lớn nuốt nhỏ. Thật vô cùng khó cho một con ruồi mù, cứ một trăm, một ngàn năm mới chui đầu vào trong một cái lỗ của một cây gậy bằng gỗ nhẹ, cứ mỗi trăm năm nó lại nổi đầu lên một lần; khi nó nổi lên ở phương đông thì một ngọn gió đông thổi tốc cây gậy về phía nam; nó nổi lên từ phương nam thì một ngọn gió nam thổi tốc cây gậy về phía tây; nó nổi lên từ phía tây thì một ngọn gió tây thổi cây gậy về phía bắc; nếu nó nổi lên từ phía bắc, một ngọn gió bắc sẽ tung cây gậy về một hướng khác. Con rùa vẫn không thể nào đặt đầu nó vào trong lỗ dù trải qua một thời gian hết sức dài. Người ngu cũng gặp một khó khăn như vậy, một thời gian dài như vậy, để có thể sinh trở lại vào thế giới loài người sau khi đã sinh vào thế giới súc vật.
P: (169, 9-25): Cũng gần giống. C: rùa mù= P: rùa chột mắt. Bản P chỉ nói đến ngọn gió đông thổi tạt cây gậy về phía tây, ngọn gió tây tạt cây gậy về phía đông, gió bắc tạt cây gậy về phía nam, và gió nam tạt cây gậy về phía bắc.
C: người ngu cũng gặp một khó khăn như vậy, một thời gian dài như vậy, để được sinh vào cõi người trở lại từ cõi súc sinh = P: thực còn khó khăn hơn cho người ngu để...
vi) Sinh vào gia đình thấp kém:
C(62b,8-15): Người ngu từ cõi súc sinh được sinh vào các gia đình hèn hạ, bị nghèo, thiếu ăn, như gia đình những người cai ngục, thợ thuyền, những người thợ thủ công, thợ gốm. Tại đấy nó được sinh làm người mù, người què, tay ngắn, người gù lưng, sử dụng tay trái, da xấu, mặt cừu, xấu xí, thọ mạng ngắn ngủi, làm nô lệ cho kẻ khác, tại đấy nó làm những thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp xấu ác, và do vậy khi chết, nó lại sinh vào những cõi ác trở lại.Cũng như thể hai người chơi bài bạc với nhau. Một người vì bài bạc mà mất tôi tớ, vợ con, cho đến bị treo ngược trong nhà tối, sự mất mát này của y trong cờ bạc cũng không thể so sánh với nỗi mất mát mà y phải chịu khi làm những nghiệp ác về thân, lời và ý.
P: (169, 25-32): Gần giống. Ở đây những gia đình được kể hoàn toàn khác: thợ săn, đan giỏ tre, đánh xe bò, hốt rác. Nó sẽ xấu xí, lùn, bệnh hoạn, chột mắt, dị dạng, què quặt. C: không có đủ thức ăn = P: không thể kiếm được đồ ăn uống, y phục, xe cộ, tràng hoa, hương liệu, đồ nằm, nhà ở, ánh sáng. Ví dụ cũng gần giống nhau. Bản P thêm sự mất mát tài sản, nhưng bỏ tôi tớ. C: bị treo ngược đầu trong nhà tối = P: bị bỏ tù.
* Trong NC85, có một mô tả chi tiết hơn về các địa ngục. Có sáu loại địa ngục, những địa ngục tương đương giữa hai bản như sau:
C1=P1, C2=P không có, C3=P2, C4=P5, C5=P4, C6=P6, P3= C không có.
i ) Đại địa ngục bốn cổng: C1= P1:
C64:(72a, 18-20): Sau khi tra vấn, huấn dụ, khiển trách người ấy về thiên sứ thứ năm, Diêm vương giao nó cho ngục tốt, người bỏ nó vào đại địa ngục bốn cổng, địa ngục này được mô tả trong bài kệ:
a) Bốn cột trụ có bốn cổng, tường vuông 12 góc; những bức tường được làm bằng sắt, trên lợp bằng mái sắt.
b) Nền sắt trong địa ngục cháy đỏ và sáng rực, sâu cho đến vô số dặm, nó được đặt dưới đáy nền.
c) Ngục ấy kinh khủng đến nỗi không chịu được và ngọn lửa thì thật khó mà nhìn đến; nhìn là rởn ốc, và nỗi sợ hãi đau đớn khốc liệt tấn công nó.
d) Khi nó rơi vào địa ngục, chân chổng lên đầu chúc xuống. Phỉ báng các bậc thánh và bậc điều ngự, những bậc thuần thiện. (Ở đây bài kệ dứt ngang).
Sau một thời gian dài thật dài, vì những chúng sinh này, cổng địa ngục phía đông mở ra và những chúng sinh kia ùa vào tìm sự an ổn, tìm sự trú ẩn. Khi chúng đã tụ tập đến số nhiều trăm ngàn, cổng phía đông ấy đóng lại, và những người kia ở bên trong chịu đau đớn khốc liệt rên la than khóc, tâm tư sầu khổ nằm dài trên đất. Chúng không thể chết, khi những nghiệp ác bất thiện của chúng trước kia chưa hết. Điều tương tự xảy ra ở ba cổng kia. Sau một thời gian dài thật dài, chúng ra khỏi đại địa ngục bốn cổng.
P130:(182,31-34): Không giống. Ở đây Diêm vương im lặng sau khi tra hỏi nó về thiên sứ thứ năm. Bản P thêm một đoạn trong đó ngục tốt cột nó vào một bánh xe răng cưa và bắt nó chịu một loạt các tra tấn như đã nói ở trước. Sự mô tả đại địa ngục bốn cổng không giống nhau. Trong một bài kệ chỉ bốn dòng, nó nói đơn giản rằng, địa ngục ấy có bốn góc và bốn cổng được chia đều, vây quanh bằng một bức tường sắt, trên có mái sắt, nền bằng sắt của nó đỏ rực và nóng cháy cả bốn phía, vuông vức một trăm do tuần. Ở đây bản P thêm một chi tiết trong sự mô tả đại địa ngục, ấy là những ngọn lửa đến từ bức tường đông, dội vào bức tường tây; những ngọn lửa từ bức tường tây dội vào bức tường đông. Cũng vậy với hai hướng kia và trên dưới. Nó cũng nói đến cánh cổng mở ra cho tội nhân ùa vào nhưng không nói chúng sinh tụ tập đến một trăm, một ngàn để tìm chỗ, trú.
C: những người bên trong chịu thống khổ khốc liệt rên la than khóc, tâm tư buồn thảm nằm dài trên đất = P: da mỏng, da dày, thịt, gân của nó bị đốt cháy và xương của nó đang cháy ngún. Mặc dù nó đến rất gần (cửa, hoặc nó đã chịu khổ như vậy rất lâu) mà cánh cửa vẫn đóng.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:26:22 GMT -5
ii) Đại địa ngục núi cao: C2=P không có:
C: (72b,7-8): Rồi nó được sinh vào đại địa ngục núi cao, trong đó lửa liên tục cháy, không có khói, không có ngọn, và nó buộc phải đi trên đấy và quanh đấy. Khi nó đặt chân xuống thì da thịt máu của nó cháy tiêu. Khi nó giở chân lên thì da thịt nó lành lại như cũ. Như vậy nó chịu đau khổ mãnh liệt cho đến vô lượng trăm ngàn năm. Còn lại cũng như trên.
iii. Đại địa ngục phân uế: C3=P2:
C: (72b, 8-12): Sau một thời gian dài rất dài, nó ra khỏi đại địa ngục đỉnh núi cao và sinh vào đại địa ngục phân uế. Nơi đây phân và nước tiểu tích tụ lại sâu vô số trượng. Trong địa ngục ấy, có những chúng sinh giống như những con sâu tên là Lăng Cù có thân trắng, đầu đen, miệng như kim, những sinh vật này gậm khới chân của những chúng sinh ấy, rồi đến xương hậu môn, rồi đến xương mông, xương khoan cốt, xương sống, xương vai, xương cổ, xương đầu. Sau khi phá hủy xương đầu, những con sâu ấy ăn hết tất cả não ở bên trong. Còn lại cũng như trên.
P: (184, 31): Không giống. Nó nói rằng sát với đại địa ngục bốn cổng là đại địa ngục dơ uế và người ta rơi vào đấy, nhưng nó không nói loại dơ uế nào. Nó cũng nói đến sinh vật có miệng như chim cắt hết thịt và da thịt, gân xương của tội nhân, rồi ngốn ngấu tủy xương.
iv) Đại địa ngục rừng lá sắt: C4 = P5:
C: (72b, 12-18): Sau một thời gian dài rất dài, những người ấy ra khỏi đại địa ngục dơ uế và sinh vào đại địa ngục rừng lá sắt. Khi trông thấy địa ngục này, chúng tưởng nó mát mẻ và ùa vào để tìm an ổn, tìm chỗ trú. Chúng tụ tập đến vô số trăm ngàn và vào trong ngục này.Ở đấy một ngọn gió thiêu đốt thổi mạnh từ bốn phía đến và những ngọn lá bằng sắt rụng xuống cắt tay, chân chúng, cắt cả tay lẫn chân, cắt tai, cắt mũi, cắt cả tai lẫn mũi, và những thân phần khác của chúng tuôn ra máu cho đến vô số trăm ngàn năm. Trong ngục này có những con chó vô cùng lớn với những cái răng rất dài xé những chúng sinh ấy ra từng mảnh, lột da từ chân lên đầu, từ đầu đến chân rồi ăn. Trong địa ngục ấy, có những con quạ lớn có hai đầu và một chiếc mỏ sắt. Chúng đứng trên trán của những người ấy, móc mắt họ ra mà ăn, chẻ đầu họ ra mà ăn tủy bên trong.
P: (185, 20-26): Không giống hẳn. Ở đây địa ngục được gọi là rừng lá gươm. Nó chỉ nói rằng lá ở đây khi gió lay động thì cắt đứt tay, chân, cả tay lẫn chân, cắt tai, mũi, cả tai lẫn mũi.
v) Đại địa ngục rừng cây bằng gươm sắt: C5=P4:
C: (72b, 19-20): Sau một thời gian dài rất dài, những chúng sinh ấy ra khỏi đại địa ngục rừng lá sắt và được sinh vào đại địa ngục rừng gươm sắt, và những cây lớn bằng gươm này cao một dặm, những lá nhọn dài đến sáu mét. Chúng được lệnh phải leo lên xuống những cây ấy. Khi chúng leo lên, thì những lá nhọn đâm xuống, khi chúng leo xuống thì những lá nhọn đâm lên. Những lá nhọn này đâm xuyên qua những người ấy, đâm thủng tay chân, cả tay lẫn chân, đâm thủng tai, mũi, cả tai lẫn mũi, đâm thủng những thân phần khác cho máu đổ ra.
P: (185, 14-19): Không giống hẳn. Ở đây đại địa ngục được gọi là rừng cây bông vải. C: cao một dặm với những lá nhọn dài sáu thước = P: cao một do tuần với những lá nhọn dài 16 ngón tay. Nó chỉ nói rằng những lá nhọn này cháy đỏ rực, và người ta bị bắt phải leo lên leo xuống.
vi) Đại địa ngục sông tro:C6 = P6:
C: (73a, 1-14): Sau một thời gian dài thật dài, những chúng sinh ấy ra khỏi đại địa ngục rừng gươm sắt, và sinh vào đại địa ngục sông tro. Cả hai bờ rất cao, được vây quanh bằng những cọc nhọn; bên trong rất đen tối và nước tro đang sôi sục. Những chúng sinh này, khi trông thấy, tưởng là nước mát lạnh, ùa vào để tắm và uống cho thỏa thích. Khi chúng tụ tập đến vô số trăm ngàn, chúng rơi vào sông ấy và tại đấy chúng bị cuốn đi xuôi dòng, ngược dòng, xuôi rồi ngược dòng, da thịt chúng bị bỏng và lột ra chỉ còn lại bộ xương. Hai bên bờ những ngục tốt võ trang bằng dao, gươm, gậy, gậy bọc sắt, đẩy chúng lại vào giữa dòng, nếu chúng cố leo lên bờ. Lại nữa trên hai bờ sông, có những ngục tốt trang bị bằng móc câu và lưới, móc những chúng sinh này lên, đặt trên những nền sắt nung đỏ, ném trên đất, làm chúng bò khắp chỗ này chỗ kia và hỏi chúng từ đâu đến. Chúng đáp rằng, không biết từ đâu đến, nhưng hiện tại hết sức đói. Rồi những ngục tốt ấy đặt chúng trên những giường sắt đỏ, đốt cháy chúng, buộc chúng ngồi lên trên. Khi ấy ngục tốt lấy một cây kềm bằng sắt nóng đỏ, vặn cho miệng chúng mở ra mà đổ những hoàn sắt nóng vào. Hoàn sắt đỏ này đốt cháy môi, lưỡi, hầu, họng, tim, ruột non, ruột già, bao tử của chúng rồi đi ra đầu kia của thân thể. Những ngục tốt hỏi chúng sẽ đi đâu. Chúng đáp rằng không biết đi đâu, nhưng đang khát nước lắm. Cũng hình phạt như trên được đặt ra, nhưng bây giờ ngục tốt lại đổ nước đồng sôi vào miệng chúng. Rồi những chúng sinh ấy lại rơi vào trong địa ngục sông tro, trong đại địa ngục rừng gươm sắt, trong đại địa ngục rừng lá sắt, trong đại địa ngục dơ uế, đỉnh cao, trong đại địa ngục bốn cổng.
P: (185, 27-33): Không hẳn giống. C: sông tro = P: khàrodakà. Bản P không tả sông này, chỉ nói nó rơi vào thứ nước ăn mòn này, bị mang đi ngược dòng, xuôi dòng, ngược và xuôi dòng, và nó chịu sự đau đớn khốc liệt không thể nói. Mọi chi tiết khác đều không có.
Bản P cũng nói hai trường hợp ngục tốt vớt nó ra bằng móc câu và hỏi nó muốn gì. Khi nó trả lời lần đầu rằng nó đói và lần hai rằng nó khát, thì chúng mở miệng nó ra bằng một cọc sắt nung đỏ và đẩy vào miệng nó lần đầu một hoàn sắt nóng đỏ và lần hai nước đồng sôi. Hoàn sắt đỏ và nước đồng sôi đốt cháy môi, miệng, cuống họng, ngực, và đi xuống dưới, mang theo ruột non, ruột già của nó. Rồi ngục tốt đặt nó lại trong đại địa ngục.
P3: Bản P thêm một địa ngục khác gọi là địa ngục than nóng, nó rơi vào đấy, chịu đựng những thống khổ khốc liệt.
* Trong NC75, đức Phật giải thích rằng những nơi sinh tùy thuộc vào nguyện vọng của tâm mình. Nhưng đoạn này trong hai bản khác nhau quá xa đến nỗi không thể nào nghiên cứu tỷ giảo từng phần. Bởi thế ở đây hai bản được đề cập riêng rẻ.
i) Sơ thiền thuộc sắc giới:
C168: (13a,19-20): Có Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú sơ thiền với giác, quán, với hỷ và lạc do ly dục sinh, rồi vị ấy thích hưởng thụ và trú trong thiền ấy. Do thích thú như vậy, vị ấy an hưởng và trú trong thiền này. Khi chết vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Phạm thiên. Chư thiên cõi này sinh ra và trú trong cõi Phạm thiên. Cảm thọ hỷ lạc do ly dục sinh; hỷ lạc này tương tự với hỷ lạc của vị Tỳ-kheo chứng sơ thiền, bởi vì do tu tập thiền này mà vị ấy sinh lên Phạm thiên giới.
ii) Nhị thiền cho đến tứ thiền:
C: (13b, 2-11): Với sự tu tập thiền thứ hai, vị ấy sẽ tái sinh vào Quan âm thiên; do tu tập thiền thứ ba, vị ấy sẽ sinh vào Biến tịnh thiên; do tu tập thiền thứ tư, vị ấy sẽ sinh vào Quảng quả thiên.
iii) Bốn thiền Vô sắc giới:
C: (13b,11-20): Do tu tập sơ thiền, vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Không vô biên; do tu tập nhị thiền, vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Thức vô biên; do tu tập tam thiền, vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Vô sở hữu; do tu tập tứ thiền, vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng.
iv) Tối thượng thiền:
C:(14a, 4-6): Khi ấy vị Tỳ-kheo vượt trên thiền Phi tưởng phi phi tưởng, với trí tuệ biết được sự diệt tận của thân xúc, vị ấy biết sự đoạn tận tất cả lậu hoặc. Như vậy thiền này là tối thượng trong tất cả thiền, thù thắng nhất, vi diệu nhất. Trú trong thiền này, vị Tỳ-kheo không còn tái sinh trở lại, chấm dứt sinh già, bệnh, chết; đây gọi là sự chấm dứt của khổ.
* Bản P kể đến 34 trường hợp để làm sáng tỏ sự giải thích của đức Phật:
i) Trường hợp thứ nhất:
P120: (99, 22-27): Vị Tỳ-kheo có tín, giới, văn, ưa bố thí, có trí tuệ. Vị ấy mong rằng sau khi chết, sẽ sinh cộng trú với những bậc thánh và những người giàu (khattiyamahàsàlà). Vị ấy chuyên chú tâm vào điều này, tu tập tâm theo điều này. Những hành (sankhàrà) này và những trú (vihàrà) này được khai triển, phóng đại, sẽ đưa vị ấy tái sinh tại đấy.
ii) Trường hợp thứ hai cho đến 33:
P: (100, 4-33): Những trường hợp này cũng giống như trường hợp đầu, chỉ khác ở chỗ những người mà Tỳ-kheo thích sinh cộng trú. Chúng như sau: Bà-la-môn giàu có, gia chủ giàu, trời Tứ thiên vương, Tam thập tam, Dạ ma, Đâu suất đà, Hóa lạc, Tha hóa tự tại, Phạm thiên Sahasso, Phạm thiên Devisahasso, Phạm thiên Tisahasso, Phạm thiên Catusahasso, 5 sahasso, 10 sahasso, 100 sahasso, Abhà devà, Parittabhà devà, appamànàbhà devà, Quang âm thiên (Abhassarà devà), Subhà devà, parittasubhàdevà, Appamànasubhà devà, Subhakinnàdevà, Quảng quả thiên (Vehapphalà devà), Vô phiền thiên (Avihà devà), Vô nhiệt thiên (Atappa devà), Thiện kiến thiên (Sudassi devà), Sắc cứu cánh thiên (Akanitthà devà), Không vô biên xứ thiên (Àkàsànancàyatanùpagà devà), Thức vô biên xứ thiên (Vinnànancàyatanùpagà devà), Vô sở hữu xứ thiên (Àkincannàyatanùpagà devà), Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên (Nevasannànàsannàyatananùpagà devà).
iii) Trường hợp thứ 34:
P: (103, 15-22): Ở đây vị Tỳ-kheo sau khi đoạn tận lậu hoặc, với thắng trí chứng được, ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc, mong an trú tâm đó. Như vậy vị Tỳ-kheo sẽ không sinh lại bất cứ ở đâu.
2. Bảy thanh tịnh: Bảy thanh tịnh được đề cập trong NC20 như sau:
C9: (12a,38): Tôn giả Xá-lợi-tử vào buổi chiều ra khỏi thiền định đi đến nơi Tôn giả Mãn Từ Tử, chào hỏi rồi ngồi xuống một bên và hỏi Tôn giả Mãn Từ Tử : Này hiền giả, có phải hiền giả đang sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm? - Thưa vâng. Hiền giả, có phải hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm để được giới thanh tịnh? - Không. Có phải vì tâm thanh tịnh, kiến thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì dĩ đạo tích đoạn trí tịnh (sự thanh tịnh khởi lên do trí tuệ đoạn trừ lậu hoặc để đi sâu vào đạo) mà hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm? - Không. Hiền giả, tôi đã hỏi, có phải hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm, hiền giả trả lời phải. Khi tôi hỏi có phải vì giới thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh..... mà hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm, hiền giả đều trả lời không. Vậy hiền giả vì mục đích gì sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm? - Thưa hiền giả, vì mục đích Vô dư Niết-bàn.
P24: (147, 11-37): Gần giống, với vài dị biệt nhỏ.
C: vì để thanh tịnh chướng ngại hoài nghi = P: kankhàvitaranavisuddhattham, đoạn nghi thanh tịnh.
C: vì thanh tịnh khởi lên do tri kiến đoạn tận đi sâu vào đạo = P: nànadassanavisuddhattham, vì sự thanh tịnh tri kiến.
C: vì Vô dư Niết-bàn = P: anupàdà parinibbànattham, vì Niết-bàn vô thủ trước.
Như vậy bảy thanh tịnh giống nhau trong hai bản, chỉ hơi khác nhau về danh từ.
3. Cetovimutti, Pannàvimutti : Tâm giải thoát, tuệ giải thoát Hai pháp này được đề cập trong NC 25, 30, 47, 69, 74, 75 và 82.
Trong NC 74, hai pháp này được đề cập như sau:
C81:(v, 114b, 15-17): Khi ấy vị Tỳ-kheo có thể đắc các thần thông, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng trí, sinh tử trí. Rồi với sự đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy chứng trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc, vị ấy đắc quả A-la-hán.
P119: (iii,98, 2-28): Gần giống. Ở đây bản P nói dông dài như thường lệ về các thần thông thiên nhãn cho đến sinh tử trí. Hai giải thoát cũng giống nhau. Ở đây bản P, bỏ không nói rõ sự chứng đắc quả A-la-hán.
NC30 hiển thị làm thế nào để đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát:
C211: (vii, 85b, 19-20). Hỏi: Có bao nhiêu pháp tương ưng với chính kiến để đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, để có được công đức về tâm giải thoát, tuệ giải thoát? Đáp: Có năm yếu tố tương ưng với chánh trí để có được tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Gì là năm? a. Tương ứng với sự thật; b. Tương ưng với giới; c. Tương ưng với đa văn; d. Tương ưng với tịnh chỉ; e. Tương ưng với tuệ quán.
P43: (I,294, 4-15): Câu hỏi như trên, nhưng câu trả lời hơi khác. C: quả và công đức = P: quả và lợi ích. Trong bản P, năm pháp là: giới, đa văn, thảo luận, chỉ và quán.
NC82 chỉ bàn về tâm giải thoát :
C79: (v,108b, 13-20): Tôn giả A Na Luật Đà giải thích đầu tiên đại tâm giải thoát. Có một Sa-môn hay Bà-la-môn đến nơi một khu rừng hay dưới gốc cây, hay một nơi yên tĩnh. Tại đấy vị ấy chọn một cây làm giới hạn và biến mãn đại tâm giải thoát cho đến giới hạn ấy và trú trong đó, không ra khỏi giới hạn này. Rồi vị ấy bỏ một cây làm giới hạn, chọn hai, ba cây làm giới hạn, rồi từ từ đến một khu rừng, hai, ba khu rừng, một ngôi làng, hai, ba ngôi làng, một xứ sở, hai, ba xứ sở rồi đến đại địa này, cho đến đại dương. Đây gọi là đại tâm giải thoát. Còn về vô lượng tâm giải thoát, một Tỳ-kheo trú sau khi biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư, bốn phương trung gian, trên, dưới, trải ra khắp nơi với tâm từ, không hận, không sân, không giận dữ, không tranh chấp, vô cùng lớn, vô cùng rộng, xa đến khắp thế giới và an trú trong đó. Cũng vậy với một tâm câu hữu với bi, hỷ, và xả. Đây gọi là vô lượng tâm giải thoát.
P127: (iii,146, 8-30): Gần giống. Bản P giải thích vô lượng tâm giải thoát trước, rồi đến đại tâm giải thoát. Về đại tâm giải thoát, cũng gần giống như vậy, nhưng những giới hạn được đặt ra hơi khác, trước hết là một gốc cây, rồi đến hai, ba gốc cây, phạm vi một khu làng, hai, ba khu làng, một vương quốc, hai, ba vương quốc và quả đất vây quanh đại dương. Về vô lượng tâm giải thoát cũng gần giống nhau.
Nhưng trong NC30, có một loạt những hỏi đáp liên hệ đến tâm giải thoát không có trong bản C.
P43: (296, 24-31): Hỏi: Có bao nhiêu điều kiện để đạt tâm giải thoát không vui không khổ? Đáp: Có bốn điều kiện để đạt tâm giải thoát không vui không khổ. Một Tỳ-kheo sau khi đã từ bỏ lạc thọ, khổ thọ, sau khi đã giảm bớt hỷ và ưu từ trước, chứng và trú thiền thứ tư với xả và niệm.
P: (296, 24-31): Hỏi: Có bao nhiêu điều kiện để đạt đến tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có hai điều kiện để đạt tâm giải thoát vô tướng. Đó là không tác ý tất cả tướng, và tác ý vô tướng giới.
P: (296, 36-37): Hỏi: Có bao nhiêu điều kiện để trú trong tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có ba điều kiện để trú trong tâm giải thoát vô tướng, đó là không tác ý tất cả tướng, tác ý đến vô tướng giới, và một sự chuẩn bị trước.
Hỏi: Gì là những điều kiện để xuất khỏi tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có hai điều kiện để ra khỏi tâm giải thoát vô tướng, đó là tác ý tất cả tướng và không nghĩ đến vô tướng giới.
P: (297, 9-37): Bản P khởi sự bằng cách giải thích rằng, nhờ thực hành bốn phạm trú, vị Tỳ-kheo đạt đến tâm giải thoát vô lượng, nhờ thực hành tu tập vượt qua thức vô biên xứ, nhập vô sở hữu xứ, mà vị Tỳ-kheo đạt được tâm giải thoát vô sở hữu; bằng cách đi đến một chỗ trống và suy tư về sự trống rỗng của tự ngã và những gì thuộc về tự ngã, vị Tỳ-kheo được không tâm giải thoát, và nhờ không nghĩ đến tất cả tướng bằng cách nhập định vô tướng, vị ấy đạt tâm giải thoát vô tướng. Như vậy đây là phương pháp theo đó những tâm giải thoát này khác nhau về nghĩa cũng như về văn. Lại nữa bản P giải thích rằng nhờ tận trừ tham, sân, si, những yếu tố dễ sản sinh ra cái gì hạn lượng, chướng ngại, có tướng, mà vị Tỳ-kheo có được tâm giải thoát vô lượng, vô sở hữu, không, vô tướng. Như vậy do phương pháp này, bốn tâm giải thoát đồng nghĩa nhưng khác văn.
Trong NC69, có nhắc đến ba loại giải thoát nhưng chỉ trong bản C:
C145: (vi,78a 15-10): Chu Nê Mục-liền-liên hỏi: Có gì khác nhau giữa sự giải thoát của Như lai không chấp thủ, hoàn toàn và chân chính giác ngộ, với tuệ giải thoát, và sự giải thoát của A-la-hán? Giải thoát nào cao hơn. Tôn giả A Nan trả lời : Không có khác nhau giữa ba thứ giải thoát này, không cái nào cao hơn cái nào.
4. Đạo, quả và lậu tận trí (Magga, phaala, àsavakhayanànam): Trong NC19, ba đạo và ba quả đầu tiên được đề cập.
a) Dự lưu:
C200:(vii, 66a, 18-20): Nếu ba kiết sử được đoạn tận, vị ấy đắc quả Tu đà hoàn không còn rơi lại vào ác pháp và chắc chắn được toàn giác; vị ấy sẽ tái sinh nhiều nhất là bảy lần trong cõi trời và người, sau đó sẽ chấm dứt đau khổ.
P22: (i, 141, 35-47) Gần giống. C: ba kiết sử được đoạn tận = P: tìni samyojanàni pahìnàni. C: không còn rơi lại vào các ác pháp = P: avinipàtadhammà (không phải đọa vào địa ngục). C: chắc chắn đạt được toàn giác = P: niyatà sambodhiparàyanà. Bản P bỏ : nhiều nhất vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời và người; sau khi sanh lại bảy lần, vị ấy sẽ chấm dứt khổ.
b) Nhất lai:
C: (66a, 17-18): Nếu ba kiết sử được đoạn tận, tham, sân, si bị muội lược (mỏng bớt), vị ấy đạt quả vị Nhất lai, trở về thế giới chư thiên và nhân loại một lần nữa rồi chấm dứt khổ.
P:(144,31-35): Gần giống, nhưng bỏ "chư thiên và nhân loại".
c) Bất hoàn:
C: (66a, 15-17): Nếu năm hạ phần kiết sử được từ bỏ, khi chết, vị ấy sẽ được tái sinh tại chỗ ấy và từ đấy đạt Niết-bàn, chứng quả Bất hoàn, không trở lui đời này nữa.
P:(141, 26-30): Gần giống. C: nếu năm hạ phần kiết sự được đoạn tận = P: panc' orambhàgiyàni samyojanàni pahìnàni. Bản P thêm: opapàtikà (tự nhiên hóa sinh).
d) A-la-hán và lậu tận:
Trong NC16, sự đắc A-la-hán quả và lậu tận trí được đề cập dông dài như sau:
C102 (vi, 24b,6-9): Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng, với tâm khéo tập trung và bất động, vị ấy hướng tâm về chứng ngộ, chứng đạt lậu tận trí. Khi ấy vị ấy như thật biết khổ, tập khởi của khổ, đoạn diệt của khổ và con đường đưa đến đoạn diệt khổ. Vị ấy cũng biết như thật các lậu hoặc, sự sinh khởi lậu hoặc, sự chấm dứt lậu hoặc, như thật biết con đường đưa đến chấm dứt lậu hoặc. Vị ấy đạt đến trí như vậy, kiến như vậy, với tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Khi đã giải thoát vị ấy biết mình đã giải thoát, sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì đáng làm đã làm xong; sẽ không còn hiện hữu. Đây là tri kiến chân thật của vị ấy.
P19:(i, 23, 11-26): Gần giống. C: với tâm định tĩnh như vậy, thuần tịnh, không lỗi lầm, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng, với tâm khéo tập trung và bất động = P: evam samàhite citte parisuddhe pariyodàte anangane vigatùpakkilese mudubhùte kammaniye thiteànejjappatte. C: tri kiến của vị ấy chân thật = P: abhhannàsim (tôi biết như vậy).
Trong NC67, quả A-la-hán được đề cập cách khác :
C75: (v,103a, 17-20): Tôn giả A Nan nói rằng đức Thế Tôn đã nói đến con đường hoàn toàn bất động, con đường thuần tịnh không vô biên xứ, con đường thuần tịnh vô tưởng, Niết-bàn vô dư y. Rồi Tôn giả hỏi Phật, xin Ngài giải thích gì là sự giải thoát của bậc thánh. Phật giải thích rằng, vị thánh đệ tử đa văn tư duy như sau: Nếu có những dục lạc nào hiện thời ở đây và mai sau, có sắc pháp nào hiện thời ở đây và mai sau, có tưởng về dục nào hiện thời ở đây và mai sau, có tưởng về sắc và bất động nào hiện thời ở đây và mai sau, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, tất cả những tưởng này đều vô thường, khổ và phải hoại diệt. Cái này được gọi là thuộc về tự ngã. (Vị ấy quán sát rằng) nếu có cái gì thuộc về tự ngã thì sẽ có sanh, già, bệnh, chết. Nếu có pháp nào trong đó tất cả những thứ này đều được đoạn tận, không dư tàn, không còn hữu nào khác, thì sẽ không còn tái sinh, không còn già, bệnh và chết. Nếu vị thánh tư duy như vậy, nếu có dư tàn thì đấy là pháp giải thoát; nếu có Niết-bàn không dư y, thì đấy gọi là bất tử (ambrosia). Nếu vị ấy tư duy như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Khi được giải thoát vị ấy biết mình đã giải thoát. Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì đáng làm đã được làm xong, sẽ không còn hiện hữu. Chân thật là trí của vị ấy.
P106:(ii, 265, 21-31): Ở đây Tôn giả A Nan tán thán là kỳ diệu, hy hữu, và nói rằng, bằng cách này cách kia, đức Phật đã giảng dạy sự vượt qua bộc lưu. Rồi Tôn giả hỏi về thánh giải thoát. Bản P cũng nói cùng những pháp ấy để quán tưởng, nhưng với thứ tự khác. Trong bản P, sự quán sát của vị Tỳ-kheo rất đơn giản: "Esa sakkàyo yàvatà sakkàyo etam amatam yadidam anupàdà cittassa vimokho" (Bất cứ gì thuộc thân thể là thân thể. Nhưng xa hơn thì chính bất tử này là tâm giải thoát không chấp thủ).
Chúng ta đã thấy ở trên, sự chứng đắc A-la-hán quả nhờ quán bản chất của các uẩn, quán xả, quán bốn phạm trú hay bốn vô lượng.
Nhận xét: Như vậy nhìn chung, ta có thể nói đoạn nói về tuệ không có nhiều dị biệt giữa bản C và bản P. Nhưng có ba điểm khác nhau quan trọng cần chú ý: bản C nói có 62 giới trong khi P chỉ có 41 giới; bản C nhấn mạnh hiện hữu của khổ trong quá khứ, hiện tại, và vị lai và định nghĩa các hành vi được cho phép. Lại nữa, về mô tả các loại tra tấn hay hình phạt khác nhau, các loại địa ngục, hai bản không giống nhau. Tất cả những điều này chứng tỏ hai bản dịch có ít nhiều biệt lập trong sự chọn lựa tài liệu, và mỗi bên phản ảnh giáo điều của bộ phái mình tiêu biểu.
---o0o---
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:30:27 GMT -5
CHƯƠNG V: ĐỨC PHẬT
1. Tường thuật về đời đức Phật:
Trong NC22, đức Phật có tự thuật cuộc đời của mình cho Tôn giả A Nan:
a) Xuất gia: C204: (vii, 74a,12-13): "Khi ta chưa đạt giác ngộ tối thượng và hoàn toàn, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta phải bị bệnh, tại sao ta lại điên rồ đi tìm cái cũng bệnh; ta bị già, chết, sầu, ưu, não, ô nhiễm, tại sao ta điên rồ đi tìm cái cũng già, chết, sầu, ưu, não, ô nhiễm? Sao ta không đi tìm cái không bệnh, sự an ổn tối thượng, Niết-bàn, đi tìm cái không già, không chết, không sầu, không não, không ô nhiễm, cái an ổn tối thượng, Niết-bàn?' "
P26: Gần giống. C: Khi ta chưa đạt đến giác ngộ hoàn toàn và tối thượng = P: Trước khi ta giác ngộ, khi ta chưa thành Phật, đang còn là Bồ-tát. Ở đây bản C bỏ danh từ Bồ-tát. C: phải bị già, chết, sầu, ưu, não, ô nhiễm = P: phải bị sinh, già, bệnh, chết, ô nhiễm.
C: (74a, 13-15): "Ta vào lúc ấy, trong tuổi thanh xuân là một thanh niên hoàn toàn trẻ trung, tóc xanh, khỏe mạnh, 29 tuổi, hưởng lạc thú, sống sung túc, mặc dù lúc ấy cha mẹ ta than khóc và thân quyến ta không vui lòng, không sung sướng, ta vẫn cạo râu tóc để đắp cà sa, vì lòng tin đã từ bỏ gia đình, sống không gia đình để học pháp."
P: (163, 27-31): Gần giống. Bản P bỏ: trong sự trong sáng của tuổi trẻ, 29 tuổi, hưởng lạc thú, sống sung túc, thân quyến không vui vẻ và hạnh phúc, vì lòng tin học pháp. Nó thêm: ngược lại ước muốn của cha và mẹ.
b) Học đạo với hai bậc hiền nhân: Học với Àlàra Kàlàma C:(74a, 15-20): "Ta tuân giữ sự trong sạch của thân, lời và ý. Sau khi hoàn toàn thanh tịnh thân, ta muốn đi tìm cái vô bịnh... vô thượng an ổn, Niết-bàn. Rồi ta đến Àlàra Kàlàma và hỏi: 'Àlàla, tôi muốn sống đời phạm hạnh dưới giáo pháp của Ngài, có thể được hay không?'
Àlàra đáp: 'Thưa Ngài đối với tôi, không có gì là không thể. Nếu Ngài muốn tu tập, xin hãy làm.' Rồi ta hỏi: 'Àlàra, thế nào là pháp mà Ngài đã biết, đã thấy và đã chứng?' Àlàra trả lời : 'Thưa Ngài, tôi đã vượt qua tất cả cảnh giới của thức, chứng và trú vô sở hữu. Đấy là pháp mà tôi đã biết, đã thấy và đã chứng.' Ta lại nghĩ: 'Không chỉ một mình Àlàra mới có đức tin như vậy, ta cũng có đức tin như vậy. Không chỉ một mình Àlàra có tin tấn như vậy, mà ta cũng có tinh tấn ấy. Không chỉ một mình Àlàra có tuệ như vậy, ta cũng có tuệ ấy. Àlàra đã biết đã thấy và đã chứng pháp này bằng tự mình.' Vì ta muốn chứng pháp ấy, ta độc cư ở một nơi yên tịnh, vắng vẻ, xa xôi, tâm ta không xao lãng mà tỉnh giác, nỗ lực thiền định. Cứ thế, nhờ độc cư tại một nơi yên tịnh, vắng vẻ, tâm ta không xao lãng mà tỉnh giác, nỗ lực thiền định, chẳng bao lâu ta chứng được pháp ấy. Sau khi ta chứng được pháp ấy, ta đến Àlàra và hỏi: 'Àlàra, có phải pháp mà Ngài đã biết, đã thấy và đã chứng là vượt trên tất cả cảnh giới của thức, đạt đến vô sở hữu xứ và an trú trong đó?' Àlàra trả lời: 'Thưa Tôn giả, chính pháp ấy tôi đã biết, đã thấy và đã chứng....' Àlàra lại nói với ta: 'Thưa Tôn giả, pháp mà tôi đã chứng Ngài cũng đã chứng. Pháp mà Ngài đã chứng, pháp ấy tôi cũng đã chứng. Thưa Tôn giả, Ngài đến đây, ta cùng lãnh đạo đoàn nhóm này.' Địa vị của Àlàra là bậc thầy, ta cũng ngang hàng với ông, được sự cúng dường, tôn kính, hạnh phúc tối thượng. Khi ấy ta lại nghĩ: 'Pháp này không đưa đến trí tuệ, giác ngộ, Niết-bàn. Bây giờ ta nên từ bỏ pháp ấy để đi tìm cái không bệnh ... sự an ổn tối thượng, Niết-bàn.' Rồi ta từ bỏ pháp ấy và đi tìm cái không bệnh, vô thượng an ổn, Niết-bàn."
P: (163, 31-37; 164; 165, 1-14): Cũng gần giống. C: Ta an tịnh thân hành: ... Niết-bàn = P : Như vậy sau khi xuất gia, người đi tìm cái gì có công đức, đi tìm con đường vô thượng an ổn. C: Không gì là bất khả đối với tôi; nếu ngài muốn tu tập thì hãy tu = P: Xin Tôn giả hãy an trú trong đó; pháp này một người có trí tuệ chẳng bao lâu tự mình chứng đắc, chứng ngộ, sẽ chứng đạt và an trú trong đó. Bản P thêm một đoạn đức Phật kể lại làm thế nào Ngài đã nắm vững pháp mà Àlàra Kàlàma đã khai thị, trên phương diện môi mép, như giải thích và tụng đọc. Như những người khác, ngài đã biết lý thuyết về trí tuệ, lý thuyết của các bậc trưởng lão. C: Ta lại nghĩ: "Pháp này không đưa đến yểm ly, ly dục, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn; mà chỉ đưa đến sự chứng đắc vô sở hữu." Phần còn lại cũng gần giống nhau.
c) Học với Uddaka Ràmaputta: C:(74b,5-15)=P(165, 15-37; 166,1-34): Đoạn này cũng gần như đoạn trước trong cả hai bản C và P, thay bằng tên Uddaka Ràmaputta và thay vô sở hữu xứ bằng phi tưởng phi phi tưởng xứ.
d) Giác ngộ: C:(74b, 15-20): "Rồi ta từ bỏ pháp ấy để đi tìm cái không bệnh......Niết-bàn. Ta đi đến phía nam ngọn núi Hsiang ting, đến làng những người Bà-la-môn Yu-pei-lo tên gọi Ssuna. Ở giữa làng có một nơi khả ái, có rừng xanh và con sông Ni Liên nước trong trẻo chảy tràn bờ. Khi ta thấy mặt đất này ta nghĩ: 'Đất này thật khả ái, khả lạc, với rừng xanh và con sông trong trẻo chảy tràn bờ. Nếu có thiện gia nam tử nào muốn học pháp, vị ấy thật nên học pháp tại đây. Ta cũng muốn học pháp, vậy nay ta nên học pháp tại nơi này'. Rồi ta lấy một ít cỏ, đi đến cây Bồ đề, trải ra, rồi trải tọa cụ ngồi kiết già, lập lời nguyện không rời khỏi chỗ nếu chưa đạt đến sự tận trừ lậu hoặc. Ta đi tìm cái không bệnh, tìm sự an ổn tối thượng Niết-bàn... và ta đạt đến cái không già, không chết, không sầu, bi, khổ, không lỗi lầm, sự an ổn tối thượng, Niết-bàn. Trí sanh, minh sanh, định đạo phẩm pháp (chữ nho); sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm xong, không còn hữu. Chân thật là tri kiến ta."
P: (166,35-37): Không giống hẳn. Bản P bỏ phía nam núi Hương, nhưng thêm Ma Kiệt Đà. Ở đây bản C đã lầm chữ Gayaø với chữ Gaja. C: Yu-Pei-lo, một làng Bà-la-môn tên gọi Ssuna = P: Uruvelà Senànigamo. Ở đây địa điểm này được mô tả là một nơi khả ái, một khu rừng êm ả, dòng sông chảy trong, dễ đến, khả ái, có những khu làng vây quanh, thích hợp để khất thực. Bản P bỏ: (*) Ta lấy một ít cỏ đi đến cây Bồ đề... cho đến sự diệt trừ lậu hoặc.
(*) được tìm thấy trong Nidanakatha thuộc Bản sanh truyện).
C: Định đạo phẩm pháp=P: Akuppà me vimutti (giải thoát bất động). Phần còn lại cũng giống nhau.
e) Do dự không muốn giảng pháp: P: (167,168,169): Đoạn kinh dài này không có trong bản C (trong đó đức Phật sau khi thành đạo đã ngần ngại không giảng pháp vì hữu tình bị chìm đắm trong dục lạc và vô minh; chỉ sau khi Phạm vương cầu thỉnh, đức Phật mới quyết định chuyển bánh xe pháp).
f) Quyết định giảng pháp: C:(74b,20): "Khi ta mới đạt Vô thượng bồ đề, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta sẽ giảng pháp cho ai trước tiên?' Rồi ta lại nghĩ: 'Ta nên giảng pháp trước tiên cho Àlàra.' Lúc ấy một vị thiên đứng trên hư không nói với ta rằng: 'Hỡi bậc đại tiên, Ngài nên biết rằng Àlàra đã chết bảy ngày trước đây.' Ta cũng biết rằng Àlàra đã chết bảy hôm trước. Rồi ta lại nghĩ: 'Thật là một mất mát lớn cho Àlàra đã không nghe được pháp này. Nếu nghe được pháp này, ông sẽ nhanh chóng hiểu và thâm nhập.' Khi ta mới đạt Vô thượng bồ đề, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta nên giảng pháp cho ai đầu tiên?' Rồi ta lại nghĩ: 'Ta nên trước hết giảng cho Uất Đầu Lam Phất'. Rồi một vị thiên đứng trên hư không bảo ta: 'Hỡi bậc đại tiên, Ngài nên biết rằng Uất Đầu Lam đã chết 14 ngày.' Ta cũng biết Uất Đầu Lam đã chết 14 ngày.Rồi ta nghĩ: 'Thực là mất mát lớn cho Uất Đầu Lam đã không nghe được pháp này. Nếu nghe được, ông ta sẽ nhanh chóng hiểu và thâm nhập.' Khi ta vừa đạt giác ngộ, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta nên giảng pháp cho ai đầu tiên?' Rồi ta lại nghĩ: 'Ngày xưa năm vị Tỳ-kheo đã phục vụ ta rất chu đáo, đã giúp đỡ ta rất nhiều. Khi ta còn thực hành khổ hạnh, những vị này hầu hạ ta. Bây giờ ta nên giảng pháp trước tiên cho năm vị này.' Rồi ta lại nghĩ: 'Ở đâu những vị này hiện giờ đang sống.' Rồi với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy năm vị Tỳ-kheo đang ở Ba La Nại, chỗ ở của chư thiên tại vườn Nai. Ta ở dưới cây bồ đề cho đến thỏa thích, rồi sửa soạn y bát để đi đến Ba La Nại, đến thị trấn Ca Thi."
P: (169;170): Gần giống. Bản P bỏ: Khi ta mới đạt vô thượng bồ đề........ Ta sẽ giảng pháp này cho ai đầu tiên. Nhưng thêm : Ai sẽ hiểu pháp này một cách nhanh chóng. Và nó cũng thêm một vài chi tiết về Àlàra: "Ông ấy đa văn, có kinh nghiệm, thông minh, ít lỗi". C: Hỡi bậc đại tiên=P: thưa Tôn giả. C: Uất Đầu Lam đã chết hai tuần trước=P: Ông đã chết hôm qua (abhidosa).
g) Gặp Yuto (P: Upako): C:(75a, 8-16)=P(170,33-37,171, 1-17):
Vào lúc ấy một tín đồ của ngoại đạo tên Yuto thấy ta từ xa đến, đã nói với ta: "Thưa Cồ Đàm, các căn của Ngài thật thanh tịnh, màu da của Ngài sáng sủa, gương mặt của Ngài tỏa ra ánh sáng. Thưa Cồ đàm, ai là thầy của Ngài? Ngài học pháp với ai? Ngài tin vào pháp gì?" Khi ấy ta trả lời choYuto với những bài kệ này: Trong bản C chỉ có 4 bài kệ đức Phật trả lời cho Yuto. Trong bản P có đến năm bài kệ, tương đương với bản C như sau: C1=P1, C2=P2 và P3, C3=P5, C4=P4.
C1=P1:
Bản C:
Ta là tối thượng, bậc chiến thắng tất cả. Không thủ trước bất cứ pháp gì; Tất cả tham ái đã được đoạn tận, đã giải thoát. Ta tự ngộ, còn ai có thể là thầy ta?
P:
Ta là đấng chiến thắng, nhất thiết trí; ta không bị nhiễm trước tất cả pháp. Tất cả đã được ta từ bỏ, giải thoát, với sự đoạn tận tham ái. Ta là người tự ngộ. Ta còn phải theo ai?
C2=P2 và P3:
C: Ta là đấng vô sanh, không ai vượt hơn ta, ta tự chứng vô thượng bồ đề, Như lai là bậc thầy của trời và người, ta là đấng Nhất thiết trí. Ta có năng lực, có uy lực.
P: Đối với ta không có thầy, không thể tìm thấy người ngang hàng với ta, trong thế giới này với chư thiên, không ai có thể sánh bằng ta. Ta là đấng tối thắng trên thế gian; là bậc thầy tối thượng. Một mình, ta chứng đắc toàn giác. Ta mát mẻ và an tịnh.
C3=P5:
C: Ta là đấng chiến thắng tất cả hữu. Điều này có nghĩa rằng tất cả lậu hoặc ta đã đoạn tận. Ta đã phá hủy tất cả các pháp bất thiện. Này Yuto, chính vì thế ta là đấng chiến thắng.
P: Những người giống như ta là những đấng chiến thắng, đã đạt đến sự đoạn tận lậu hoặc. Ta đã chinh phục tất cả các bất thiện pháp. Bởi thế này Upaka, ta là một đấng chiến thắng.
C4=P4:
C : Ta đi đến thành Ba La Nại để gióng lên tiếng trống cam lồ toàn hảo, để quay bánh xe pháp chưa từng quay trên thế gian này.
P: Ta đi đến đô thị Kàsì để quay bánh xe pháp, đánh trống bất tử trong thế gian bị mù lòa.
Khi ấy Yuto nói: "Hiền giả, mong được là như vậy." Nói xong anh ta bỏ đi qua một ngỏ rẽ.
h) Cảm hóa năm Tỳ-kheo: C:(75a, 14-20; 74b, 1-5): "Khi ấy ta tự mình đi đến trú xứ của chư thiên ở trong vườn Nai. Vào lúc ấy năm Tỳ-kheo khi trông thấy ta từ xa, đã làm quyết định như sau:
'Chư hiền nên biết, Sa-môn Cù Đàm đang đi đến, người này đầy dục vọng, đầy khao khát, ăn uống xa xỉ, ưa thích cơm chiên và gia vị, mật, dùng dầu mè để thoa chà thân thể. Nay ông ta lại đến. Chư hiền hãy ngồi yên đừng đứng dậy chào hỏi, cũng không đảnh lễ ông ta. Một chỗ ngồi được soạn riêng cho ông ta, nhưng đừng mời ông ta ngồi xuống. Khi ông ta đi đến thì nên nói: 'Nếu muốn ngồi thì cứ ngồi.' Khi ta đến trú xứ của năm Tỳ-kheo, năm vị Tỳ-kheo không thể chịu nổi uy lực của công đức ta. Họ đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Người thì cầm lấy bát của ta, người trải tọa cụ, người thì bưng nước cho ta rửa chân. Khi ấy ta nghĩ: 'Tại sao những người ngu này không giữ vững ý định của mình mà lại làm trái với những gì trước đây chúng đã quyết định?' Khi ấy năm Tỳ-kheo gọi ta bằng tộc tánh và danh từ "Tôn giả". Ta bảo họ: 'Hỡi năm Tỳ-kheo, ta là Như lai đã hoàn toàn giải thoát và giác ngộ. Các ngươi không nên gọi ta bằng tộc tánh và bằng danh từ Tôn giả. Tại sao? Vì ta đã đi tìm cái không bệnh... tri kiến của ta chân thật.' Họ nói với ta: 'Thưa Cồ Đàm, trước đây Ngài đã sống một cuộc đời như vậy, đã tu hành phạm hạnh như vậy, trải qua khổ hạnh như vậy mà Ngài đã không thể đạt được những pháp thù thắng thuộc thế gian thấp kém hơn tri kiến bậc thánh. Thế thì làm sao bây giờ Ngài có thể đạt được, khi Ngài đầy những dục vọng khao khát; ăn đồ ăn thức uống sang trọng, thức ăn gạo thơm và cơm chiên với đồ gia vị, mật, dầu mỡ, dầu mè để thoa chà thân thể.' Khi ấy ta trả lời : 'Hỡi năm Tỳ-kheo, ngày xưa, các ông có thấy ta có được các căn thanh tịnh, chói sáng như ta hiện giờ hay không?' Năm Tỳ-kheo lại đáp: 'Trước đây chúng tôi không thấy Ngài có các căn thanh tịnh, chói sáng. Nhưng thưa Cồ Đàm, bây giờ các căn của Ngài thật thanh tịnh, làn da Ngài chói sáng, và gương mặt Ngài đầy ánh sáng.' "
P:(171, 172, 173): Gần giống. C: đầy dục vọng, đầy khao khát.... thoa chà thân thể = P: vị ấy sống trong sự thừa thãi, đã từ bỏ nỗ lực tinh cần, đã trở về với đời sống sung mãn. Bản P bỏ: Khi ấy ta nghĩ, tại sao những người ngu này không giữ vững ý định của họ, mà làm trái lại những gì trước đấy họ đã quyết định.
Câu trả lời của đức Phật hơi khác: "Này các Tỳ-kheo, đừng gọi Như lai bằng tên, hay bằng Tôn giả. Hỡi các Tỳ-kheo, Như lai là đấng đã hoàn toàn chân chánh giác ngộ. Hãy nghe kỹ, cái bất tử đã được tìm thấy. Ta sẽ giáo giới, giảng pháp, nếu các ông thực hành phù hợp với những gì ta khuyến cáo thì không bao lâu các ông sẽ thấy được, chứng đạt được ngay hiện tại và an trú trong mục đích tối thượng của đời sống phạm hạnh, vì mục đích ấy mà những thiện gia nam tử đã chân chánh từ bỏ gia đình sống không gia đình."
C: Thế thì làm sao nay ngài có thể đạt được khi bây giờ ngài sống đầy đủ sung túc... thoa chà thân thể? =P: Bây giờ Ngài sống trong sự sung túc, đã từ bỏ nỗ lực tinh cần, đã trở về với đời sống sung túc, thì làm sao Ngài đạt được pháp tối thượng, tri kiến chân chính đặc biệt của bậc thánh?
C: Khi ấy ta trả lời: "Hỡi năm Tỳ-kheo, ngày xưa các ông có thấy ta có được căn thanh tịnh, đầy ánh sáng"=P: không giống. Trước hết Ngài phủ nhận đã sống một đời sung mãn, đã từ bỏ nỗ lực như năm vị Tỳ-kheo cáo buộc. Rồi Ngài dạy rằng Ngài là Như lai, đã hoàn toàn giác ngộ... vì mục đích ấy mà những thiện gia nam tử đã chân chánh từ bỏ gia đình sống không gia đình. Năm vị Tỳ-kheo lập lại lời cáo buộc của họ ba lần. Rồi Ngài hỏi năm vị Tỳ-kheo họ có nghe Ngài nói như vậy trước kia không. Khi họ trả lời không, Ngài lập lại một lần nữa lời nói trước, và cuối cùng thuyết phục được các Tỳ-kheo.
i) Phật thuyết pháp cho năm Tỳ-kheo: C:(75b, 5-10) : "Này hỡi năm Tỳ-kheo, các người nên biết: Có hai cực đoan mà những người tu hành không nên theo, một là đam mê dục lạc thấp kém, tầm thường, như người thế tục thường làm; hai là ép xác khổ hạnh, tự hành khổ, điều mà các bậc hiền thánh không làm, điều không có ý nghĩa (lợi lạc). Này năm Tỳ-kheo, có con đường trung đạo tránh xa hai cực đoan này, con đường này sẽ đem lại tri kiến, trí tuệ, sự tập trung, sự làm chủ hoàn toàn, đưa đến tri kiến, giác ngộ, Niết-bàn. Con đường này gọi là Thánh đạo, từ chánh kiến cho đến chánh định. Đây gọi là Thánh đạo tám ngành. Bây giờ ta muốn tuần tự giảng dạy năm Tỳ-kheo. Ta dạy hai Tỳ-kheo, ba vị kia đi khất thực về đủ ăn cho cả sáu người. Rồi ta giảng dạy cho ba Tỳ-kheo, hai vị kia đi khất thực, đủ ăn cho cả sáu. Như vậy ta đã giáo giới chúng, cải hóa chúng, đi tìm cái bất tử... Họ đã đạt đến tri kiến chân thực."
P:(173, 2-20): Không có sự bắt đầu của việc chuyển pháp luân trong bản P. Phần còn lại cũng giống nhau.
2. Những đặc tướng của đức Phật:
Trong NC78, bản C kể ra 24 đức tính kỳ diệu của đức Phật, nhưng bản P chỉ kể 19. Các đức tính tương đương trong hai bản như sau: C2=P1; C3=P3; C4=P4 và P5; C8=P19; C10=P16; C11=P15; C12=P18; C14=P17. Bản P bỏ: C1, C5, C6, C7, C9, C13, C15, C16, C17, C18, C19, C20, C21, C22, C23, C24. Bản C bỏ: P2, P6, P7, P8, P9, P10, P11, P12, P13, P14.
C1=P không có:
C32: Tôi (Tôn giả A Nan) nghe vào thời Phật Ca Diếp, Thế Tôn đã phát nguyện thành Phật và khởi sự tu phạm hạnh. Điều này tôi chấp nhận là một trong những đức tính kỳ diệu của Thế Tôn.
C2=P1:
C: (43b,9): Tôi nghe rằng vào thời đức Phật Ca Diếp, đức Thế Tôn sau khi đã phát nguyện thành Phật và tu phạm hạnh, đã sinh vào cõi trời Đâu Suất. Điều này tôi chấp nhận là một đức tính kỳ diệu của Thế Tôn.
P123: Tôn giả A Nan nói rằng, ngài đã nghe và đã được biết trực tiếp từ nơi đức Thế Tôn rằng Bồ-tát sinh trong cõi trời Đâu Suất, chánh niệm và hoàn toàn tỉnh giác. Điều này ngài xem là một đức tính kỳ diệu của Thế Tôn.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:32:42 GMT -5
Nhận xét:
Bản P bỏ không nói đến Phật Ca Diếp. Các truyền thống thường nói rằng Phật phát nguyện với đức Phật Nhiên Đăng. Ở đây bản C bỏ danh từ Bồ-tát.
C3=P3:
C:(44a, 2-6): Những lời của Tôn giả A Nan giống nhau trong tất cả những đức tính kỳ diệu, chỉ khác về đề mục. Ở đây có nói đến sự vui mừng của chư thiên vì sau khi đức Phật sinh vào cõi trờiĐâu Suất, thì có ba việc thù thắng hơn trước khi Ngài sinh: thọ mạng của chư thiên, dung sắc của chư thiên, tiếng tăm của chư thiên.
P:(119): Chỉ nói Bồ-tát ở trong cung trời Đâu Suất cho đến hết thọ mạng.
C4=P4 và P5:
C: (44a, 6-11): Khi đức Thế Tôn từ cung trời Đâu Suất đi vào mẫu thai thì toàn thể trời đất rung chuyển và một luồng ánh sáng chói lọi chiếu khắp thế gian, đến tận những góc u tối. Những nơi mà mặt trời mặt trăng mặc dù có đại oai thần lực cũng không chiếu tới, thì ánh sáng này chiếu đến được. Chúng sinh ở những nơi ấy nhờ ánh sáng này mà biết được rằng đã có những chúng sinh kỳ diệu được tái sinh tại đấy.
P: (119): Gần giống. Trong P4, Bồ-tát chánh niệm tỉnh giác, từ cung trời Đâu Suất đi xuống nhập mẫu thai. Trong P5, nói đến sự xuất hiện của ánh sáng quang vinh này. Ở đây bản P thêm rằng, ánh sáng chói lọi này vượt hơn cả quy luật của chư thiên. C: khắp thế giới = P: xuất hiện trong thế giới với chư thiên, ma, phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, trời, người. Bản P thêm rằng, 10,000 thế giới hệ rung chuyển.
C5=P không có:
C:(44a, 11-12): Đức Thế Tôn ở trong mẫu thai nằm nghiêng bên hông phải.
C6=P không có:
C:(44a, 12): Ở trong mẫu thai, đức Thế Tôn có thân hình duỗi ra.
C:7=P không có:
C:(44a, 12-14): Trong mẫu thai, đức Thế Tôn không bị dính máu mủ và các chất dơ dáy.
C8=P19:
C: (44a, 14-18): Khi đức Thế Tôn ra khỏi mẫu thai, thì có sự chấn động và ánh sáng chói chang (như trong C4).
P: (123): Như số 4 trên, cũng những khác biệt như vậy.
C9=P không có:
C: (44a, 18-19): Đức Thế Tôn ra khỏi mẫu thai với thân thể duỗi ra.
C10=P16:
C: (44a, 19-20): Khi ra khỏi mẫu thai, Ngài không bị dính máu mủ và những chất dơ.
P: (122): Gần giống. Bản P thêm ẩn dụ một viên ngọc minh châu đặt trên hàng Ba La Nại. Cả hai đều trong sáng, không vấy bẩn.
C11=P15:
C:(44a, 20): Khi đức Thế Tôn sinh ra, có bốn vị thiên vương, tay cầm vải mềm đứng trước mặt người mẹ, làm cho bà vui mừng với lời rằng hài nhi thật tuyệt diệu, có đại oai thần lực, có sức mạnh và công đức lớn.
P122 : Gần giống, thêm rằng: Bồ-tát không chạm đất. Bỏ: Với vải mềm trong tay. Trong khi bản C nói bốn vị thiên vương đứng trước mặt bà mẹ, bản P nói bốn vị thiên đặt Bồ-tát trước mặt bà mẹ. C: Một đứa trẻ kỳ diệu có đại oai thần lực ...= P: Hài nhi mà bà sinh ra đầy oai lực.
C12=P18:
C: (44b,2-4): Khi đức Thế Tôn vừa mới sinh, Ngài đã đi bảy bước, dạn dĩ, vô úy, và đi khắp bốn phương.
P: (123): Với nhiều chi tiết hơn. Trong khi Ngài đi bảy bước, một chiếc lọng trắng được trao cho Ngài, và Ngài tuyên bố với giọng nói của một ngưu vương rằng Ngài là chúa tể tối thượng trong tất cả thế gian. Đây là đời sống cuối cùng của Ngài, không còn hữu nào khác. Bản P thêm: đứng trên hai chân vững vàng, mặt hướng về phương bắc.
C13=P không có:
C: (44b,4-5): Khi đức Thế Tôn được sinh ra, có một cái hồ lớn hiện ra trước mặt bà mẹ với nước tràn bờ để cho bà có thể dùng để tắm rửa.
C14=P17:
C: (44b,5-6): Khi đức Thế Tôn vừa sinh ra, trời mưa xuống hai dòng nước, một ấm một lạnh, để tắm rửa thân thể đức Thế Tôn.
P: (123): Gần giống. Nó thêm rằng nước ấy dùng để tắm rửa cho cả bà mẹ.
C15=P không có:
C: (44b,6-9): Khi đức Thế Tôn vừa sinh ra, chư thiên trên trời trỗi thiên nhạc và rải trên đức Thế Tôn những hoa sen xanh của cõi trời, sen hồng, sen đỏ, sen trắng, những hoa mạn đà la và bột trầm hương.
C16=P không có:
C: (44b,9-14): Một ngày kia vua Bạch Tịnh đang ngắm cảnh cày bừa và đức Thế Tôn được đặt dưới gốc cây Diêm phù; đức Thế Tôn nhập sơ thiền ly dục ly bất thiện pháp, với tầm với tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh. Về chiều, bóng cây Diêm phù vẫn bất động trên lưng đức Thế Tôn, che nắng cho Ngài. Khi đức vua đi tìm con đã chứng kiến phép lạ này của cây Diêm phù và thốt lên lời tán thán.
C17= P không có:
C: (44b,14-19): Một ngày kia tại Tỳ Xá Ly, đức Thế Tôn sau khi khất thực ăn xong, để tọa cụ lên vai đi vào rừng, đến cây Tà la trải tọa cụ ngồi thiền, về chiều bóng của tất cả các cây khác đã di chuyển, nhưng bóng cây Ta la vẫn bất động trên thân Thế Tôn, che cho người. Một Ngài dòng họ Thích Ca tên là Mahayana đi vào rừng, chứng kiến phép lạ ấy của cây Tà la. Thật kỳ diệu thay.
C18=P không có:
C: (44b,19-20): Một thời đức Thế Tôn ở tại Tỳ Xá Ly trong khu rừng lớn. Vào lúc ấy các Tỳ-kheo đặt bát khất thực của họ ra giữa trời. Một con khỉ đi đến lấy bình bát của Thế Tôn đi mất. Các Tỳ-kheo muốn ngăn khỉ lại vì sợ bát bị bể, nhưng đức Thế Tôn bảo họ đừng lo. Con khỉ cầm bát, từ từ leo lên một cây cao, chứa một bát đầy mật, rồi từ từ leo xuống dâng bát mật ấy cho đức Thế Tôn, nhưng Ngài từ chối. Rồi con khỉ lấy một cây gậy bắt hết những con sâu trong mật, và dâng đức Thế Tôn nhưng Ngài cũng từ chối. Khi ấy con khỉ đổ thêm nước vào trong mật và dâng đức Thế Tôn, bấy giờ Ngài mới nhận của cúng dường.
C19=P không có:
P: (45a,14-7): Một thời tại Tỳ Xá Ly trên bờ sông Di Hầu, đức Thế Tôn đang phơi khô chiếc tọa cụ và giũ sạch nó trên sân thượng của một tòa lầu. Vào lúc ấy, có một đám mây bất thường kéo đến bao phủ bầu trời sắp đổ xuống một trận mưa lớn. Nhưng đám mây thấy đức Thế Tôn đang đập phơi chiếc tọa cụ của Ngài, nó dừng lại và đợi đức Thế Tôn làm xong. Khi ấy đám mây mới đổ mưa xuống tràn đầy những bậc cấp bên dưới.
C20=P không có:
C: (45a,17-10): Một thời đức Thế Tôn ở Po-chi, trong rừng suối nước nóng, ngồi dưới gốc một cây Sa la vương. Vào lúc ấy đang xế chiều, bóng của tất cả cây khác đều di chuyển, nhưng bóng cây Sa la vương không di chuyển khỏi chỗ ngồi của đức Thế Tôn. Người chủ vườn Lama chứng kiến phép lạ này nên thốt lên những lời tán thán việc hiếm có.
C21=P không có:
C:(45a,11-17) : Một thời đức Thế Tôn ở lại nhà của A-fu-sheng. Sau khi đi khất thực về ăn xong và thu dọn y bát, Ngài trải tọa cụ ngồi thiền trong nhà A-fu-sheng. Lúc ấy có một tiếng sét lớn và một trận mưa đá đổ xuống giết chết hai người trong bốn người đang cày ruộng. Trong lễ hỏa táng, mọi người kêu khóc lớn tiếng. Buổi chiều khi đức Thế Tôn ra khỏi thiền định, đi kinh hành lui tới ngoài trời, có một người trông thấy Ngài đang kinh hành lui tới liền đến đảnh lễ và theo sau Ngài. Đức Thế Tôn hỏi anh ta nguyên nhân tiếng ồn và huyên náo lớn. Người ấy thuật lại câu chuyện cho đức Thế Tôn và hết sức ngạc nhiên về sự thiền định sâu xa của Ngài đã không nghe thấy cũng không bị dao động bởi tất cả sự ồn ào, dao động ấy.
C22=P không có:
C: (45a,17-19): Một thời đức Thế Tôn đang ở Uruvelà, bên bờ sông Ni Liên, dưới gốc cây Ni câu loại, nơi Ngài vừa đạt giác ngộ. Vào lúc ấy có một trận mưa lớn kéo dài bảy ngày, làm mọi sự đều ngập chìm trong nước. Nhưng khi đức Thế Tôn đi ra khoảng trống để kinh hành, đất trồi lên cho Ngài đi lui tới.
C23=P không có:
C: (45a,19-20): Ma vương đã đi theo đức Thế Tôn suốt sáu năm, chờ một dịp thuận tiện để làm hại Ngài nhưng không thể được, đã kiệt sức và bỏ đi.
C24=P không có:
C: (45b,1): Đức Thế Tôn trong bảy ngày thực tập chánh niệm về thân không gián đoạn (niệm thân hành không gián đoạn).
Ngược lại có đến mười trường hợp, bản Pàli có nhưng bản Hoa ngữ không có:
P2: (119): Bồ-tát ở trong cung trời Đâu Suất, chánh niệm tỉnh giác.
P6: (120): Khi Bồ-tát đi vào mẫu thai, có bốn vị thiên vương xuống canh gác ở bốn hướng để đề phòng người và phi nhân nhiễu hại Bồ-tát và mẹ của Ngài.
P7: (120): Khi đức Bồ-tát đi vào mẫu thai, mẹ Ngài tự nhiên trở nên thánh thiện, không phạm vào năm giới cấm từ sát hại cho đến uống rượu.
P8: (121): Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ Ngài hưởng thụ năm dục; bà được vây quanh bằng năm thứ dục lạc.
P10: (121): Khi Bồ-tát ở trong thai mẹ, mẹ Ngài không bị ốm đau, sống thoải mái, không bị nhọc mệt. Bà thấy trong bụng mình vị Bồ-tát có đầy đủ tay chân, có các căn toàn hảo. Như một viên minh châu khéo giũa thành bảy mặt, được xâu bằng một sợi chỉ xanh hay vàng, đỏ, trắng, cam, xuyên qua viên ngọc ấy. Một người có mắt sáng, cầm trong tay viên ngọc và xem xét, thì sẽ thấy rõ ràng viên ngọc với sợi chỉ mỏng.
P11: (122): Mẹ Bồ-tát chết bảy ngày sau khi Ngài ra đời, và bà được tái sanh lên cõi trời Đâu Suất.
P12: (122): Những phụ nữ khác mang thai chín hoặc mười tháng trước khi sinh nở, nhưng mẹ của Bồ-tát thì luôn luôn mang thai đến mười tháng.
P13: (122): Các phụ nữ khác khi lâm bồn ngồi hoặc nằm, nhưng mẹ Bồ-tát sinh nở trong lúc đứng.
P14: (122): Khi Bồ-tát ra khỏi mẫu thai, thì chư thiên đón nhận Ngài trước hết rồi mới đến loài người.
Một đức tính kỳ diệu khác:
C: (45b,1-3): Rồi đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan: Ông nên xem đây cũng là một điều kỳ diệu nữa về đức Như lai. Đức Như lai biết các cảm thọ khi chúng khởi lên, khi chúng tồn tại, khi chúng chấm dứt, Ngài luôn luôn biết chúng. Cũng thế với các tư tưởng và nhận thức. Khi ấy Tôn giả A Nan chấp nhận điều này là một đức tính kỳ diệu khác của đức Như lai.
P:(124): Gần giống; bản P bỏ: "Ngài luôn luôn biết chúng". Bản P đặt "tưởng" (sannà) trước "tầm" (vitakka).
Nhận xét: Chúng ta để ý rằng từ ngữ Bồ-tát không được nhắc đến trong bản C. Còn bản P thì dùng từ ngữ này để chỉ đức Phật khi chưa giác ngộ. Như vậy chúng ta có thể phỏng đoán rằng danh từ Bồ-tát đã được Thượng tọa bộ đưa vào để phản đối cách giải thích danh từ này của các nhà Đại thừa. Chúng ta cũng nhận thấy rằng các truyền thống về sự tích đời đức Phật và những đức tính kỳ diệu của Ngài không giống nhau trong hai bản, mỗi bản dường như xuất xứ từ một nguồn khác nhau về phương diện cuộc đời đức Phật và những đức tính kỳ diệu của Ngài.
3. 10 danh hiệu Phật: Trong NC27, 10 danh hiệu của đức Phật được nói đến. Một nghiên cứu tỷ giảo hai bản dịch cho thấy những tương đồng và dị biệt sau:
C201:(vii,69a,1-2)=P38: (i,267,13-16):
C: Như lai=P: Tathàgàta.
C: Vô sở trước= P: A-la-hán, Araham.
C: Đẳng chánh giác (giác ngộ toàn vẹn và chân chính) = P: Sammàsambuddho.
C: Minh hạnh túc (đủ trí tuệ và giới hạnh)= P: Vijjàcaranasampanno.
C: Thiện thệ (khéo vượt qua)=P: Sugato.
C: Thế gian giải (người hiểu biết thế gian) = P: Lokavidù.
C: Vô thượng sĩ (người không ai sánh bằng)=P: Anuttaro.
C: Đạo pháp ngự (người điều phục con đường và pháp)= P: Purisadammasàrathi, người điều phục những người đáng điều phục.
C: Thiên nhân sư (thầy của người và trời)= P: Satthàdevamanussànam, bậc thầy của trời người.
C: Phật, chúng hộ (người che chở tất cả)= P: Buddho, Bhagavà, Phật Thế Tôn.
Trong Phật học đại tự điển, 10 danh hiệu Phật được kể như sau: Như lai, A-la-hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Nếu so danh sách này với danh sách bản P, ta không thấy gì khác nhau ngoại trừ danh hiệu cuối cùng. Bản S viết Phật, Thế Tôn thay thế cho bản P: Phật, Bạt- già-phạm (Bhagavà). Như vậy ta có thể nói rằng trong đoạn này, bản C với danh từ Đạo pháp ngự thay cho Điều ngự trượng phu của bản P là không đúng lắm vì đã lầm damya với Dhamma: Pháp.
4. 32 đại nhân tướng: Trong NC60, 32 tướng đại nhân được đề cập đầy đủ và ta thấy có những đồng dị sau đây:
C 161=P91:
Những đặc tướng tương đương trong hai bản như sau:
C1=P2; C2=P4; C3=P8; C4=P7; C5=P3; C6=P14; C7=P 6; C8=P5; C9= P12; C10=P13; C11=P không có; C12=P10; C13=P19 C14=P15; C15=P9; C16=P11; C17=P16; C18=P17; C19=P22; C20=P20; C21=P18; C22=P23; C23=P25; C24=P26; C25=P24; C26=P21; C27=P28; C28=P27; C29= P30; C30=P29; C31=P32; C32=P31. C 11 không có trong bản P, P1 không có trong bản C.
C1=P2: C: lòng bàn chân xuất hiện một bánh xe ngàn căm đầy đủ chi tiết=P thêm: có viền và trục đủ mọi vẻ.
C2=P4: C: bàn chân, ngón tay dài và có đầu nhọn=P: ngón tay dài.
C3=P8: C: bàn chân tròn và thẳng=P: những ống chân giống như chân sơn dương, nghĩa là rất thẳng.
C4=P7: C: gót chân và mắt cá phần sau tròn đầy, bằng phẳng cả hai phía=P: ussankhapàdo (mắt cá nhô ra).
C5=P3: C: hai mắt cá chân là dung? = P: àyatapanhi, có gót chân nhô ra.
C6=P14: C: lông xoăn lên=P thêm: lông xoăn lên có màu xanh, cuộn thành những vòng tròn về phía phải.
C7=P6: C: ngón tay ngón chân có màng lưới như con ngỗng chúa=P: jàlahatthapàda, tay chân có màng lưới.
Nhận xét: Cô Horner chọn cách giải thích của Ngài Buddhaghosa rằng chân tay cách đều nhau. Nhưng nghĩa trong bản C rất rõ.
C8=P5: C: bàn chân bàn tay tuyệt hảo, mềm mại như hoa Đâu la= P: tay chân mềm mại. (Tùla, theo Phật học Đại từ điển, là một loại bông vải rất mềm).
C9=C12: C: da láng, mịn, nước và bụi không thể dính=P: da bóng, mịn màng, nên bụi và nước không thể bám vào thân.
C10=P13: C: những sợi lông tách rời, mỗi lông mọc từ một lỗ chân lông. Màu lông hơi xanh và xoăn về phía phải như hình con sò=P: những sợi lông tách rời, mỗi lông mọc từ một lỗ chân lông.
C11=P không có: C: bắp đùi của Ngài đầy đặn như con nai chúa.
C12=P không có: C: cái bị che kín giống như con ngựa, như một con ngựa chúa giống tốt=P: cái gì được che kín bằng áo quần thì được bao bằng một cái bọc (tướng mã âm tàng).
C14=P15: C: thân không cong quẹo=P: một thân thể thẳng tắp như thân chư thiên.
C15=P9: C: thân thể không con quẹo, khi đứng thẳng bàn tay có thể sờ đầu gối=P: đứng thẳng không cúi xuống, Ngài có thể dùng hai lòng bàn tay xoa và sờ hai gối.
C16=P11: C: thân thể của Ngài có màu vàng chói như màu vàng ròng hơi đỏ=P: có màu vàng ròng.
C17=P16: C: bảy chỗ đầy đặn là hai bàn tay, hai bàn chân, hai vai và cái cổ=P: sattussaddo bảy chỗ có bề mặt lồi.
C18=P17: C: phần trên thân đầy đặn như một con sư tử=P: sìhapubbaddhakàyo (như bản C).
C19=P22: C: quai hàm như sư tử=P: sìhahanu (như bản C).
C20=P20. C: lưng của Ngài bằng và thẳng=P: samavattakkhandho, có vai tròn.
C21=P18: C: phần trên của hai vai tiếp giáp với cổ một cách đầy đặn=P: citantaramso (lỗ hổng ở vai được lấp đầy).
C22=P23: C: Ngài có 40 cái răng=P: cũng vậy.
C23=P25: C: giữa các răng không có khe hở=P: avivaradanto (như C)
C24=26: C: răng trắng=P: susukkadàtho, răng bóng loáng.
C25=P24: C: răng đầy đủ=P: samadanto, răng đều đặn.
C26=P21: C: có vị giác toàn hảo=P: rasaggasaggì (như C).
C27=P28: C: phạm âm của Ngài du dương như tiếng chim ca lăng tần già= P: brahmassaro karavìkabhànì (như C).
C28=P27: C: lưỡi rộng và dài, từ trong miệng thè ra có thể trùm phủ cả mặt=P: pahùtajìvho, lưỡi dài.
C29=P30: C: tuyến nước mắt đầy như nơi con ngưu vương = P: gopakhumo, lông mi của Ngài giống như lông mi của bò cái.
C30=P29: C: mắt Ngài có màu xanh biếc =P: abhniiølanetto (như C).
C31=P32: C: đỉnh đầu nhô ra, cân đối và tròn tóc xoay về trái như vỏ sò=P: unhìsasiso, đầu hình như có giải khăn bịt.
C32=P31: C: giữa hai lông mày có một sợi lông trắng mọc xoay về bên phải =P: unnà bhamukantare jàtà odàtà mudutùlasannibhà, giữa hai lông mày có một sợi lông trắng mịn như bông vải.
P1=C không có: Ngài có chân bước bằng phẳng.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:36:02 GMT -5
5. Uy nghi của đức Phật:Trong NC60, uy nghi của đức Phật được mô tả. Bản C tả đức Phật đắp y, phủ đầy mình bằng tấm y khi ra khỏi phòng, khi ra khỏi vườn, khi đi đường đến làng mạc, khi vào làng, trên đường làng, vào nhà, sửa soạn ngồi lên giường, khi ngồi, rửa tay, nhận thực phẩm, ăn, rửa tay, thuyết tùy hỷ pháp, đứng lên khỏi chỗ, đi ra khỏi nhà, trên đường ra khỏi làng, vào vườn và vào nhà. Bản P khởi đầu bằng sự đi vào nhà, quay về phía chỗ ngồi, rồi ngồi xuống, lấy nước rửa bát, nhận thức ăn, ngồi, lấy nước rửa bát, giáo giới, đi ra, mặc áo, ngồi thiền, thuyết pháp. C161 = P91: a) Mặc y:C: Sa-môn Cồ Đàm mặc y một cách thích đáng, không cao không thấp, y không dính sát vào thân, gió không thể thổi bay cái y khỏi thân thể. P: Cũng vậy. Sau câu y không dính sát vào thân, bản P thêm: tấm y không bị kéo xa khỏi thân Ngài. Bản P thêm: bụi và đất không dính vào thân của Sa-môn Cồ Đàm. Về câu: gió không thể thổi cái y khỏi thân, cô Horner chọn cách đọc của bản Thái Lan là kayasmin (nơi thân) thay vì kayamhà, nhưng bản C chứng tỏ đã chọn chữ kayamhà (khỏi thân). b) Bao phủ bằng tấm y:C: Cũng như mặc y. Nó thêm: Sa-môn Cồ Đàm khi mặc tấm y mới, theo thánh cách, cắt nó bằng dao và nhuộm màu sẫm. Ngài mặc y không vì tiền, vì kiêu căng, không để tự trang sức; mà chỉ để bảo vệ thân thể khỏi bị muỗi đốt, ruồi, gió, ánh nắng mặt trời, và vì tàm quý mà Ngài che thân. P: không có. c) Ra khỏi phòng:C: Khi Ngài ra khỏi phòng, thân Ngài không cúi về phía trước hay phía sau. Khi muốn đi, trước hết Ngài đặt chân phải xuống, giở chân lên đúng pháp, đặt chân xuống đúng pháp, không lẫn lộn, không mất trật tự. Trong khi bước đi, hai mắt cá không chạm vào nhau. Do công hạnh đời trước, bụi và đất không bám vào Ngài. P bỏ: Khi Ngài ra khỏi phòng, thân Ngài không cong lên phía trên hay cúi xuống phía dưới. C: Giở lên đúng pháp, đặt xuống đúng pháp, không lẫn lộn, không mất trật tự= P: Ngài không đặt bàn chân quá xa, cũng không đặt bàn chân quá gần, không đi quá nhanh, hoặc quá chậm. Nó thêm: trong khi bước đi Ngài không gõ hai đầu gối vào nhau, bắp vế Ngài không đưa lên đưa xuống, hoặc đưa vào đưa ra, Ngài chỉ di động phần dưới của thân thể, chứ không di động toàn thân. d) Ra khỏi vườn và đến làng, vào làng:C: Khi ra khỏi vườn, Ngài không cong thân lên hay cúi thân xuống. Khi Ngài đi đến làng, Ngài cũng xoay mình về phía mặt để quan sát chung quanh như một con voi chúa nhìn quanh, vô úy, giản dị, vì Ngài là đức Như lai chánh đẳng giác. Khi đi vào làng, Ngài không ngước lên hay cúi xuống. Khi đang đi trên những đường làng, Ngài không cúi xuống, ngước lên mà nhìn thẳng vừa tầm để không bị chướng ngại cho tri kiến. Do công hạnh đời trước, các căn của Sa-môn Cồ Đàm luôn luôn tự chủ. P bỏ: Phật ra khỏi vườn và đi vào làng. Nó nói: Khi đức Gotama nhìn quanh, Ngài nhìn với toàn thân, không nhìn lên nhìn xuống, không đi mà không để ý nhìn trước một tầm cày, hơn thế nữa, tri kiến của Ngài không bị chướng ngại. e) Vào nhà và ngồi trên chỗ ngồi:C: Trong khi vào nhà, Ngài không ưỡn thân hay cúi xuống, Ngài xoay thân về phía phải và ngồi trên chỗ ngồi của mình. Ngài không ngồi với toàn thể sức nặng của thân thể, Ngài không ngồi với hai tay chống nạnh. Trong khi ngồi Ngài không có vẻ buồn thảm bất an, cũng không có vẻ sung sướng. P: Khi vào nhà, Ngài không ưỡn thân, cong xuống, xoay qua xoay về. Ngài xoay về phía chỗ ngồi không quá xa hay quá gần. Ngài ngồi xuống chỗ, không đưa tay níu lấy chỗ ngồi. Ngài không ném toàn thân xuống ghế. Ngài không ngồi với tay chân bất an, không vắt chân chữ ngũ, chồng hai mắt cá. Ngài không ngồi với hai tay chống cằm. Trong khi ngồi trong nhà, Ngài luôn luôn có thái độ vô úy, không dao động, hướng về độc cư. f) Nhận nước để rửa tay chân và nhận đồ ăn:C : Trong khi nhận nước rửa, Ngài không đưa bát quá cao, quá thấp, không nhận quá nhiều, hay quá ít. Khi nhận thức ăn, Ngài không nhận từ cao, thấp, quá nhiều, hay quá ít; Ngài nhận thức ăn và cơm ngang nhau. Ngài vo tròn thức ăn thành từng viên đều đặn, đúng pháp và từ từ bỏ vào miệng. Ngài không há miệng sẵn để chờ thức ăn vào. Ngài nhai thức ăn ba lần trước khi nuốt xuống. Không có cơm hay thức ăn nào chưa được nhai kỹ. Khi còn có thức ăn trong miệng, Ngài nuốt xuống trước khi bỏ vào một viên khác. Do ba việc mà Sa-môn Cồ Đàm dùng tịnh thực, hy vọng thưởng thức vị nhưng không hy vọng thưởng thức lòng tham vị, ăn không vì tài sản của cải, không để kiêu căng, không để tự trang sức, trang hoàng; mà chỉ để duy trì thân thể khỏi bệnh, để ngăn bệnh cũ, không để khởi lên bệnh mới, để có sức khỏe và an lạc. P: Trong khi nhận nước vào bát, Ngài không xoay bát lên xuống, xoay vào xoay ra; Ngài nhận nước không quá ít, không quá nhiều. Ngài không rửa bát ồn ào, xoay tròn cái bát, Ngài không đặt bát trên nền để rửa tay. Tay và bát được rửa đồnglúc, Ngài không đổ nước rửa bát quá xa hay quá gần, Ngài không vung vãi nước. Trong khi nhận cơm, Ngài không xoay bát lên xuống vào ra. Ngài nhận cơm không quá nhiều không quá ít. Ngài ăn cà ri có chừng mực. Ngài không quên ăn cơm và thức ăn đồng một lúc với mỗi miếng ăn. Ngài đảo qua lại hai ba lần đồ ăn trong miệng trước khi nuốt xuống. Không có một hạt cơm nào chưa nhai đã nuốt. Không có một hạt cơm nào còn trong miệng đã nuốt một miếng cơm khác. Ngài ăn cháo, thưởng thức vị nhưng không có lòng tham vị. Sa-môn Gotama ăn với tám đức tính, không để vui đùa, không để đam mê, không để trang sức, không để tự làm đẹp, mà chỉ vừa đủ để duy trì cơ thể, để nó tiếp tục, thoát khỏi nguy hiểm, và để hỗ trợ đời sống phạm hạnh, nghĩ đến diệt trừ cảm thọ cũ, ngăn sự khởi lên những cảm thọ mới, và như vậy sống không lỗi lầm, trú trong an lạc. g) Nhận nước rửa tay, rửa bát, thuyết pháp:C: Trong khi nhận nước rửa tay, rửa bát, Ngài không nhận nó quá cao, quá thấp, quá nhiều, quá ít. Tay và bát được rửa và lau khô đồng lúc. Sau khi rửa và lau khô bát, Ngài đặt bát một bên, không quá xa, không quá gần, không nhìn thường xuyên vào cái bát, cũng không quá săn sóc cái bát. Ngài không chê thức ăn, không khen ngợi thức ăn mà giữ im lặng, rồi Ngài thuyết pháp cho các gia chủ, làm cho họ hoan hỷ, khích lệ họ, khiến họ hài lòng, sử dụng nhiều cách để thuyết pháp. Rồi Ngài ra đi. P: Gần giống như đoạn P ở trước. Nó thêm: Ngài đặt bát xuống không quá xa không quá gần. Không phải là không quan tâm gì đến cái bát, nhưng cũng không quá lo cho cái bát, Ngài ngồi im lặng một lúc, nhưng không để thời gian qua đi mà không ban lời giáo giới. Khi Ngài thuyết tùy hỷ pháp, Ngài không chê thực phẩm, không hy vọng được bữa ăn khác, nhưng làm cho hội chúng hoan hỷ, khích lệ làm chúng hài lòng với một câu chuyện về pháp, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi. h) Ra khỏi nhà đi trên đường đến làng và vào làng:C: Khi ra khỏi nhà, Ngài không ưỡn thân lên hay cong xuống. Không ngước lên mà nhìn thẳng, đúng pháp, để tri kiến không bị chướng ngại. Do thiện hành đời trước, các căn của Sa-môn Cồ Đàm luôn luôn tịch tịnh. Khi ra khỏi làng, Ngài không ưỡn thân lên hay cong xuống. Khi vào làng, Ngài không ưỡn thân lên hay cong xuống. P: Chỉ nói rằng khi Sa-môn Cồ Đàm ra đi, Ngài không bước quá nhanh hay quá chậm, Ngài không bước đi như thể muốn thoát khỏi hội chúng ấy cho nhanh. i) Ngồi thiền và giảng pháp:C: Sau khi ăn xong, thu dọn y bát, sau khi rửa tay chân, Ngài đặt tọa cụ lên vai và đi vào phòng để ngồi thiền. Sa-môn Cồ Đàm vì an lạc cho cả thế gian, đi vào phòng ngồi thiền. Rồi buổi chiều Ngài ra khỏi thiền định với gương mặt rạng rỡ hào quang, vì Ngài là đức Như lai, bậc giác ngộ hoàn toàn và chân chính. Có tám loại âm thanh phát ra từ Sa-môn Cồ Đàm: rất sâu, tỳ ma lâu pha (?), đi vào tim, khả ái, đầy đặn, linh động, trong sáng, có trí tuệ. Nhiều người yêu mến giọng nói của Ngài, hài lòng với nó, nhớ đến nó và trở nên định tĩnh. Sa-môn Cồ Đàm thuyết pháp cho chúng hội, giọng của Ngài không vượt ngoài phạm vi của hội chúng mà ở trong phạm vi hội chúng. Ngài thuyết pháp cho hội chúng làm cho họ vui mừng, khích lệ, hoan hỷ, sử dụng vô số cách để giảng pháp. Sau khi làm cho chúng hội vui mừng, khích lệ, hoan hỷ, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và trở về trú xứ. P: Sau khi đi đến tu viện, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, rửa chân không phải để làm đẹp, sau khi rửa chân Ngài ngồi kiết già lưng thẳng, chánh niệm được an trú. Ngài không nghĩ đến hại mình, hại người, hại cả hai, mà nghĩ đến lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Ngài thuyết pháp cho hội chúng, không khen không chê, mà làm cho họ hoan hỷ, khích lệ và vui mừng. Giọng nói của Ngài có tám đức tính, rõ ràng, bao trùm, êm ái, dễ nghe, đầy đặn, trong sáng, sâu xa, và vang dội. Trong khi giáo giới chúng hội, giọng Ngài không vượt ra ngoài phạm vi chúng hội. Những người này khi đạt được pháp thoại của Tôn giả Cồ Đàm khích lệ, làm cho phấn khởi, hoan hỷ, đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi và ra đi một cách miễn cưỡng, mắt vẫn còn nhìn nơi Ngài. Nhận xét: Về sự tường thuật cuộc đời đức Phật, giữa hai bản không có nhiều dị biệt, ngoại trừ bản C nói Ràmaputta đã chết hai tuần, còn bản P nói chết đêm trước. Về các điều kỳ diệu của Phật, ta thấy nhiều chỗ khác nhau, nhất là về cuộc đời của Ngài ở cung trời Đâu Suất, trong thai mẹ và một vài thần thông trong đời này. Những dị biệt này chứng tỏ hai bản tuân theo những truyền thống khác nhau. Về 32 đặc tướng trên thân Phật và uy nghi của Ngài cũng thế. Còn về 10 danh hiệu, thì gần giống nhau trong cả hai bản. ---o0o---
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:38:49 GMT -5
CHƯƠNG VI. TĂNG GIÀ HAY ĐOÀN THỂ TỲ-KHEO Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu về những điểm đồng dị giữa hai bản kinh khi nói về Tăng già. Trước hết ta đề cập giới Biệt giải thoát quy định đời sống của mỗi Tỳ-kheo và của toàn thể tăng chúng; kế đến là sinh hoạt hằng ngày của chư tăng, cách thức để dàn xếp tranh chấp, an cư mùa mưa và cuối cùng là tọa cụ. 1. GIỚI BẢN PÀTIMOKKHA (Biệt giải thoát)Mặc dù giới Biệt giải thoát được nói đến trong cả hai bản kinh C và P, nó không đề cập rõ ràng cả 250 giới của Luật bản Hoa ngữ hay 227 giới của Luật bản Pàli. Nhưng trong NC 46, có nói đến một số quy luật về cách hành xử của một Tỳ-kheo ở rừng, có thể xem như một cái nhân cho toàn thể giới Biệt giải thoát thành hình về sau. Bản Hoa ngữ kể ra 13 giới điều, trong khi bản P có đến 17. Một vài giới điều giống nhau, một vài giới điều hơi khác, và một số giới, bản này có, bản kia không. Những giới điều tương đương như sau: C1=P1; C2=P5; C3=P6; C5=P8; C6=P9; C7=P11; C8=P12 và P14; C9=P3; C10=P2; C11=P15; C12=P16; C13=P17. C4 không có trong bản P. P4, P7, P10, P13 không có trong bản C. C1: C26: Một Tỳ-kheo sống nơi vô sự (nhàn tịnh) cần phải có thái độ cung kính và biết tùy thuận. Nếu vị ấy không có thái độ cung kính và không biết tùy thuận, thì những Tỳ-kheo khác sẽ quở trách vị ấy và nói rằng, Tỳ-kheo ở nơi vô sự này nào có ích lợi gì khi sống ở nơi vô sự. Bởi thế một Tỳ-kheo sống nơi vô sự cần phải cung kính và biết tùy thuận. P1: P69: Gần giống. C: nơi vô sự=P: arannà, A lan nhã hay ở rừng. P thêm: khi vị ấy đến giữa tăng chúng; bỏ: biết tùy thuận; thêm: sappatissena, lễ độ. Những Tỳ-kheo khác sẽ quở trách vị ấy: Nào có ích gì vị Tỳ-kheo ở rừng này chỉ sống ở rừng cho thỏa thích, nhưng không kính trọng, không lễ độ với các đồng phạm hạnh. C2: Vị ấy nên học hạnh không cười đùa, không tháo động. P5: Không được giao động (anuddhatena), tâm không ổn định (acapalena). C3: Không vướng vào chuyện trò nhảm nhí (Nghĩa đen: không nói những chuyện thú vật). P6: Không được nói nhiều, không được nói tục. C4: Không được kiêu căng ngã mạn, phải ít nói. P: Không có. C5: Vị ấy phải học tập kiểm soát các giác quan. P8: Vị ấy cần tập kiểm soát các căn môn. C6: Vị ấy cần tập ăn uống có điều độ. P9: Cũng vậy. C7: Vị ấy phải tinh cần tinh tấn, không được lười biếng. P11: Vị ấy phải tinh cần. C8: Phải có chánh niệm, chánh trí tuệ. P12 và 14: Vị ấy phải an lập trong chánh niệm và trí tuệ. C9: Vị ấy phải biết thời nghi, không vào làng quá sớm để khất thực và không ra khỏi làng quá muộn. P3: Không vào làng quá sớm, không ra khỏi làng khi chiều tối. Nhận xét:M.L.S ii, trang 142 dịch: trong ngày, để dịch divà. Ở đây đúng hơn là atidivà, quá muộn trong ngày. C10: Vị ấy nên biết cách ngồi, thiện xảo trong việc sử dụng chỗ ngồi. P2: Thiện xảo trong việc dùng chỗ ngồi. C11: Vị ấy nên bàn về Luật và A-tỳ-đàm. P15: Vị ấy nên học Luật, Thắng pháp. C12: Vị ấy nên học thảo luận về tịnh chỉ, về các thiền pháp tịch tịnh giải thoát thuộc vô sắc, vượt quá sắc pháp. P16: Vị ấy nên tu tập các tịch tịnh giải thoát thuộc vô sắc, siêu quá sắc pháp. C13: Vị ấy nên học thảo luận về sự đoạn trừ lậu hoặc và chứng đắc tri kiến. P17: Vị ấy nên tu tập các pháp thượng nhân. P4: Vị ấy không nên đi đến các gia đình trước và sau bữa ăn. C : Không có. P7: Vị ấy phải là người có ái ngữ, một người bạn tốt. C: Không có. P10: Vị ấy cần phải tỉnh giác . C: Không có. P13: Vị ấy cần phải có định. C: Không có. 2. ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY CỦA CÁC TỲ-KHEOTrong NC25, có thuật đời sống hàng ngày của các Tỳ-kheo sống chung, chứng tỏ làm thế nào các Tỳ-kheo nên sống chung để có được sự hòa hợp và hài hòa trong tăng chúng. C185: Lúc bấy giờ, ở rừng Sừng bò có ba thiện gia nam tử sống chung, là Tôn giả A Na Luật Đà, Nan Đề, Kim Tỳ La. Các thượng tọa này sống chung như sau: Họ đi khất thực, ai về trước sửa soạn chỗ ngồi, múc nước, đặt nước rửa chân, bày ghế đẩu để rửa chân, đặt khăn để lau chân cùng với một bình nước uống và một chậu nước rửa. Nếu vị ấy có thể ăn hết tất cả những đồ ăn khất thực thì ăn, nếu còn dư, thì đặt trong một đồ chứa và đậy lại. Sau khi ăn xong, vị ấy đặt bát lại chỗ cũ, rửa tay chân, lấy tọa cụ đặt lên vai đi vào nhà ngồi thiền. Vị Tỳ-kheo đi khất thực về trễ, nếu ăn hết thức ăn khất thực thì ăn. Nếu không đủ, vị ấy có thể lấy thức ăn còn lại và ăn cho thỏa thích. Nếu có đồ thừa, vị ấy ném trên đất sạch hay trong nước không có trùng. Rồi vị ấy rửa sạch bát của Tỳ-kheo kia, lau khô và dẹp sang một bên, cuốn chiếu để ngồi, dẹp ghế đẩu để ngồi rửa chân, khăn lông để lau chân, dụng cụ để rửa chân, bình nước uống và chậu nước rửa. Vị ấy quét chỗ ăn, dọn sạch tất cả rác rưởi, đặt y bát vào chỗ cũ, rửa tay chân, lấy tọa cụ đặt lên vai đi vào nhà thiền. Vào buổi chiều, vị thượng tọa nào xuất thiền trước, nếu thấy bình nước uống, chậu nước rửa đã hết nước thì đi múc cho đầy. Nếu Tỳ-kheo có thể làm việc ấy một mình, vị ấy làm việc ấy rồi dọn dẹp. Nếu không thể làm một mình, vị ấy vẫy tay cho một Tỳ-kheo khác, rồi cả hai cùng mang những vật dụng ấy và dọn dẹp, không nói, không hỏi. Những vị thượng tọa này cứ mỗi năm ngày lại hội họp để bàn về pháp hay giữ im lặng của bậc thánh. P31: Bản P rất đơn giản và bỏ nhiều chi tiết. Tỳ-kheo nào về trước chỉ sửa soạn chỗ ngồi, đặt nước uống nước rửa và bát đựng đồ thừa. Vị Tỳ-kheo nào về sau, nếu muốn, có thể ăn thực phẩm còn thừa ấy. Nếu không muốn, vị ấy có thể bỏ nó tại một nơi không có cỏ xanh, hay bỏ trong nước không có trùng. Rồi vị ấy dẹp chỗ ngồi, nước uống, nước rửa, bát đựng đồ thừa và quét sạch phòng ăn. Trong khi bản C nói các thượng tọa ngồi thiền, bản P chỉ nói rằng vị Tỳ-kheo nào thấy bình nước uống, bình nước rửa..... đã trống rỗng thì đổ đầy. Bản P cũng nói ba thượng tọa gặp nhau mỗi năm ngày, nhưng không nói giữ im lặng bậc thánh. Ba vị Tỳ-kheo ở đây là A Na Luật, Nan Đề và Kim Tỳ La. 3. BẢY CÁCH DÀN XẾP TRANH CHẤP (Thất diệt tránh pháp) Trong NC66, bảy pháp diệt tránh được đề cập: Cách thứ 1:C: Bằng cách hiện diện =P: Sammukhàvinayo (Hiện tiền tỳ ni) C196: Có bảy cách dàn xếp tranh chấp là : bằng hiện diện(ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật), bằng sự nhớ lại (ưng dữ ức chỉ tránh luật), bằng không cuồng si (ưng dữ bất si chỉ tránh luật), bằng tự thú nhận (ưng dữ tự phát lộ chỉ tránh luật), bằng hình phạt cho ngươi (ưng dữ quân chỉ tránh luật), bằng tuần tự (ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật), như quét phân (ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật). Thế nào là luật dàn xếp tranh chấp bằng cách hiện diện? Hoặc một người (quở trách) đối với một người (phạm) mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người đối với hai người (phạm), một người đối với nhiều người (phạm), một người đối với tăng chúng (phạm) mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người (quở trách) đối với hai người (phạm), mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người đối với tăng chúng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người (quở trách) đối với nhiều người (phạm), mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với tăng chúng, nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Tăng chúng đối với tăng chúng mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Tăng chúng đối với một người, Tăng chúng đối với hai người, Tăng chúng đối với nhiều người, mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. P104: Không giống hẳn. Bảy cách ở trong bản P là: 1)Sammukhà- vinayo dàtabbo, 2) Sativinayo dàtabbo, 3) Amùlhavinayo dàtabbo, 4)Patinnàya kàretabbam, 5)Yebhuyyassikà, 6)Tassapàpiyyasikà, 7)Tinavatthàrako. Ở đây sự giải thích bản cáo trạng phải đưa ra hiện tiền không giống nhau. Bản P giải thích rằng khi có sự tranh chấp về pháp và phi pháp, luật và phi luật, thì tất cả chư tăng phải hội họp toàn chúng, và những gì đúng pháp cần phải được thảo luận và chấp hành. Khi ấy cuộc tranh chấp cần được dàn xếp tùy theo đó. Cách thứ 2:Ức niệm tỳ ni, cáo trạng bằng cách nhớ lại=P: Sativinayo dàtabbo C: Nếu có một người phạm giới nhưng không nhớ, khi ấy các Tỳ-kheo nên bảo vị ấy rằng, vị ấy đã phạm tội mà không nhớ. Vị ấy nên đến giữa đại chúng xin luật ức niệm. Và đại chúng nên chấp thuận yêu cầu ấy. Nếu có một tăng chúng sống hòa hợp, thì Tỳ-kheo nên đắp thượng y chừa một bên vai, bỏ dép, đảnh lễ một vị thượng tọa, quỳ thẳng chắp tay mà nói: "Bạch chư Tôn giả, con đã phạm một lỗi lầm nhưng không nhớ. Nay con xin đại chúng cho con luật ức niệm." Đại chúng nên đồng thanh cho Tỳ-kheo ấy luật ức niệm, phù hợp với pháp luật, giáo lý của đấng đạo sư, với sự hiện diện của Tỳ-kheo ấy, làm cho ông hoan hỷ. P: Mặc dù nội dung giống nhau, giải thích hoàn toàn khác. Ở đây các Tỳ-kheo quở trách một vị đã phạm một tội nặng hay một tội hơi nặng. Nhưng Tỳ-kheo ấy trả lời rằng: "Tôi không nhớ đã phạm một tội như thế." Khi ấy đại chúng nên cho Tỳ-kheo ấy ức niệm tỳ ni. Cách thứ 3:Bất si tỳ ni=P: Amùlhavinayo dàtabbo C: Có một người phát cuồng. Vì điên, vị ấy nói mình đã phạm nhiều giới tội bất tịnh, không xứng Sa-môn, không phù hợp với pháp và luật. Về sau vị ấy trở lại bình thường. Các Tỳ-kheo khác kể cho vị ấy nghe những gì đã xảy ra và khuyên vị ấy nên xin đại chúng ban cho luật bất si. Khi ấy đại chúng nên cho vị ấy luật bất si. Phần còn lại cũng như ức niệm tỳ ni. P: Ở đây giải thích hơi khác. Các Tỳ-kheo quở trách một vị đã phạm một tội ba la di hay gần như ba la di. Nhưng Tỳ-kheo ấy trả lời rằng ông không nhớ đã phạm một tội như thế. Khi bị các Tỳ-kheo khác gạn hỏi nhiều lần, vị ấy trả lời ông đã phát cuồng, mất quân bình tâm trí, và trong thời gian ấy đã làm và nói nhiều điều không xứng hạnh Sa-môn, nhưng ông không nhớ gì hết. Với một Tỳ-kheo như vậy, đại chúng nên cho vị ấy luật bất si. Cách thứ 4:Tự phát lồ chỉ tránh luật=P: Patinnaya karetabbam C: Khi một Tỳ-kheo phạm giới, dù có người bảo hay không ai bảo, có người nhắc hay không ai nhắc, nếu có một tăng chúng hòa hợp, Tỳ-kheo ấy nên đắp thượng y bày một bên vai, bỏ dép đến giữa chúng, cúi đầu dưới chân một vị trưởng lão Tỳ-kheo, quỳ thẳng chắp tay nói: "Thưa các trưởng lão, con đã phạm một tội lỗi, với lòng thành con xin bày tỏ trước trưởng lão. Con xin phát lộ không dám che dấu. Từ nay con sẽ tự chế ngự mình, không còn tái phạm." Khi ấy tăng chúng nên hỏi đương sự : "Chư hiền có thấy rõ tội lỗi không?" Tỳ-kheo ấy nên trả lời: "Thật sự con đã thấy rõ lỗi lầm." Khi ấy tăng chúng nên bảo đương sự: "Chư hiền khéo tự chế, chớ để tái phạm." P: Cũng vậy, với những dị biệt sau đây: C: được bảo hay không được bảo, có người nhắc hay không người nhắc=P: dù một Tỳ-kheo có quở trách hay không quở trách, nhớ và phát lộ một lỗi lầm. Bản P bỏ: nếu có một tăng chúng sống hòa hợp, bỏ dép đi vào trong tăng chúng ấy. C: quỳ gối= P: ngồi xếp gối. P bỏ: "Xin đại đức lắng nghe, nay ở trước đại đức, với lòng thành, con xin phát lộ không dám che giấu. Con sẽ tự chế và sẽ không tái phạm lỗi lầm." Trong khi bản C nói tăng chúng hãy bảo đương sự làm, bản P chỉ nói thượng tọa Tỳ-kheo nên nói như vậy. Cách thứ 5:C: Hình phạt cho người phạm tội = P: Tassapàpiyyasikà C: Nếu có một người không biết tàm quý, không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị nghi là có ác dục. Sau khi phạm một lỗi lầm, vị ấy nói mình thấy tại một nơi, nghe tại một nơi; sau khi nói mình biết tại một nơi, vị ấy nói mình thấy tại một nơi; sau khi nói mình thấy tại một nơi, lại nói mình biết tại một nơi. Giữa đại chúng, vị ấy nói mình biết tại một nơi. Giữa đại chúng, vị ấy nói mình thấy tại một nơi. Giữa đại chúng, vị ấy nói mình thấy tại một nơi rồi lại nói mình biết tại một nơi, nói mình biết tại một nơi rồi lại nói mình thấy tại một nơi. Với Tỳ-kheo ấy, đại chúng nên nhóm họp thi hành luật hình phạt cho đương sự. Nên bảo: "Ngươi không có đạo đức, không hiểu biết. Ngươi ác, bất thiện, vì đã phạm giới rồi lại nói tôi biết tại một nơi, thấy tại một nơi... (như trên)." P: Không giống, ở đây các Tỳ-kheo quở trách một Tỳ-kheo đã phạm tội ba la di hay gần như ba la di. Nhưng Tỳ-kheo ấy trả lời rằng mình không nhớ đã rơi vào một tội lỗi như thế. Khi các Tỳ-kheo khác thúc bách phải nhớ lại, vị ấy đáp rằng mình chỉ nhớ phạm một lỗi nhẹ này nọ chứ không phạm tội nặng. Khi bị thúc ép thêm nữa, vị ấy trả lời rằng trước đây mặc dù không ai bảo, vị ấy đã thú nhận có phạm một lỗi nhẹ, vậy thì sao bây giờ khi được hỏi lại không nhận mình đã phạm một tội ba la di hay gần như ba la di. Khi bị bức bách thêm, vị ấy mới thú nhận rằng đã phạm tội ba la di hay gần như ba la di. Những gì vị ấy đã nói trước đấy chỉ là nói đùa. Đây là sự trừng phạt cho người phạm giới.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:40:02 GMT -5
Cách thứ 6 để giàn xếp tranh chấp: C: Triển chuyển chỉ tránh luật=P: Yebhuyyassikà, quyết định của đa số (đa nhân mích tội)
C: Một số tranh chấp khởi lên giữa hai Tỳ-kheo : "Đây là pháp, đây không phải pháp; đây là luật, đây không phải là luật; đây là phạm tội, đây không phải phạm tội; tội này nhẹ, tội này nặng; điều này cần được nói lên, điều này không cần được nói lên; điều này đáng chế ngự, điều này không đáng chế ngự; điều này có dư tàn, điều này không có dư tàn; điều này đáng phát lộ, điều này không nên phát lộ". Khi ấy những tranh chấp này cần được dàn xếp ngay tại chỗ. Nếu cuộc tranh cãi được giải quyết ngay tại chỗ, thì khi ấy cuộc tranh chấp được gọi là đã giải quyết. Nếu không thì cuộc tranh chấp ấy nên đưa ra giữa tăng. Nếu nó được dàn xếp giữa các thành viên của tăng đoàn, thì cuộc tranh chấp được xem như đã giải quyết. Nếu không, thì khi gần đấy có những Tỳ-kheo thông kinh, luật luận, vị Tỳ-kheo này nên đi đến đấy thuật lại cuộc tranh chấp, nếu giữa đường cuộc tranh chấp được giải quyết, như vậy được xem là đã xong. Nếu không, cuộc tranh chấp nên được đưa ra giữa tăng. Nếu nó được giải quyết giữa tăng, thì cuộc tranh chấp được xem là đã được dàn xếp. Nếu không, và khi có nhiều bằng hữu và ngoại hộ thông kinh, luật, luận, những Tỳ-kheo nên đi đến đấy thuật lại cuộc tranh chấp để nhờ họ giải quyết. Những Tỳ-kheo này nên dàn xếp cuộc tranh chấp phù hợp với pháp, với luật, với lời Phật dạy và làm cho họ hoan hỷ ngay.
P: Ở đây cách này được đặt vào hàng thứ hai tiếp theo cách đầu là hiện tiền tỳ ni, nghĩa là khi cách đầu không giải quyết được tranh chấp tại chỗ, thì các Tỳ-kheo nên đi đến một nơi khác ở đấy có nhiều Tỳ-kheo hơn, và tại đấy các Tỳ-kheo nên họp toàn chúng và đưa tất cả vấn đề ra để giải quyết tranh chấp theo phán quyết của đa số.
Cách thứ 7: C: Như khí phấn tảo chỉ tránh luật (như quyét phân)=P: Tinavatthàrako, như thảo phú địa (trải cỏ che lấp)
C: Một tăng đoàn sống thường gây gổ tranh chấp, tăng chúng chia thành hai phe nhóm. Trong một nhóm, vị thượng tọa lớn nhất hay vị kế tiếp nên bảo với Tỳ-kheo trong nhóm như sau: "Thưa chư hiền, xin nghe. Chúng ta sống không có đạo đức, không hiểu biết, chúng ta thật là bất thiện. Bởi vì trong pháp và luật rất tốt đẹp này, chúng ta vì lòng tin đã xuất gia học đạo, nhưng lại sống tranh chấp, gây gổ nhau. Do sự tranh chấp gây gổ này, chúng ta đã phạm nhiều lỗi lầm, trừ những tội thâu lan giá và trừ những lỗi liên hệ đến cư sĩ. Vì an lạc cho tôi và cả cho chư hiền, nay tôi tha thiết sám hối trước chư hiền, xin phát lộ không dám che giấu. Tôi sẽ tự chế và không phạm những lỗi lầm ấy nữa." Nếu trong nhóm này không có Tỳ-kheo nào thích hợp, thì chính vị Tỳ-kheo ấy nên đi qua nhóm Tỳ-kheo bên kia, cúi đầu dưới chân một vị Tỳ-kheo trưởng thượng, quỳ gối chắp tay nói như sau: "...( như trên)." Khi ấy vị Tỳ-kheo kia nên nói : "Thượng tọa nên tự chế và đừng tái phạm." Rồi nhóm thứ hai cũng làm như vậy.
P: Không giống hẳn, mặc dù ý nghĩa không khác. Ở đây giản dị hơn. Nó nói rằng một Tỳ-kheo thiện xảo của một bên nên đứng dậy đắp y chừa một vai, chắp tay thưa đại chúng như sau: "Thưa chư hiền, xin lắng nghe. Chúng ta sống tranh chấp cãi cọ, đã làm đã nói nhiều điều không xứng hạnh Sa-môn. Nếu tăng nghĩ là phải, tôi xin sám hối bất cứ lỗi lầm nào do tôi cũng như chư hiền đã phạm, để cho tôi và chư hiền cùng được an lạc, trải cỏ phủ lấp chúng. Ngoại trừ những tội nặng và những lỗi lầm liên hệ đến cư sĩ." Một Tỳ-kheo có kinh nghiệm ở phe bên kia cũng làm như thế.
4. AN CƯ HÀNG NĂM Những Tỳ-kheo theo luật phải an cư mỗi năm ba tháng. Nhưng bản C nói đến an cư mùa hạ còn bản P nói đến an cư mùa mưa.
Trong NC20, an cư được đề cập như sau:
C9: Một thời đức Phật du hành ở Vương Xá, trú tại tu viện Trúc Lâm, và trải qua mùa hạ an cư tại đấy cùng với một chúng đông Tỳ-kheo. Tôn giả Mãn Từ Tử đang trải qua hạ an cư của ngài tại quê nhà. Lúc ấy, những Tỳ-kheo tại địa phương sau khi trải qua ba tháng hạ an cư, sau khi may y, mang y đi về thành Vương Xá, đến nơi ở lại trong tu viện Trúc Lâm.
P24: Bản P đề cập ngay đức Phật trú tại Vương Xá trong rừng Trúc, chỗ nuôi dưỡng những con sóc. Khi ấy nhiều Tỳ-kheo tại trú xứ sau khi đã qua ba tháng an cư mùa mưa, đi đến đức Phật, đảnh lễ Ngài và ngồi qua một phía.
Lại nữa trong NC43, có nói đến an cư hàng năm của các Tỳ-kheo như sau:
C194: Phật đang an cư mùa hạ cùng với một chúng đông Tỳ-kheo, Ngài khuyên họ nên giữ tập tục ăn ngày một lần như chính Ngài đã thực hành và tự thấy mình ly dục, không còn khao khát, ít bệnh, thân thể nhẹ nhàng, có sức khỏe, an ổn và hạnh phúc... Trong ba tháng hạ an cư, Tôn giả Bạt Đà Hòa Lợi không thể yết kiến đức Phật. Cuối mùa an cư, Tôn giả đi đến Phật và phát lộ lỗi lầm.
P65: Cũng vậy, nhưng ở đây nói đến an cư mùa mưa chứ không phải mùa hạ.
Sự khác nhau về luật an cư hàng năm đã được nêu lên trong đoạn nói về những đặc điểm của Nhất thiết hữu bộ và Thượng tọa bộ.
5. NI SƯ ĐÀN HAY TỌA CỤ Một dị biệt khác nữa mà chúng ta thấy trong cả hai bản dịch chứng tỏ truyền thống khác nhau của mỗi bộ phái, đó là sự tuân giữ tọa cụ được nói trong bản C nhưng phần lớn bị các bản P bỏ qua.
Như trong NC20, về tọa cụ được nói như sau:
C9: Tôn giả Mãn Từ Tử khi đêm đã tàn, và buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau bữa ăn ngọ, sau khi dẹp y bát, rửa tay chân, ngài đặt tọa cụ lên vai đi đến nơi kinh hành trong rừng Anda. Tôn giả Xá-lợi-tử cũng thế, sau khi đêm đã tàn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau bữa ăn ngọ, sau khi dẹp y bát, rửa tay chân, ngài đặt tọa cụ lên vai đi đến nơi kinh hành trong rừng Anda. Vào lúc ấy Tôn giả Mãn Từ Tử đi đến rừng Anda, trải tọa cụ dưới gốc cây, ngồi kiết già. Tôn giả Xá-lợi-tử cũng đi đến rừng Anda, trải tọa cụ ngồi kiết già không xa nơi Tôn giả Mãn Từ Tử ngồi.
P24: Không giống hẳn. Bản P bỏ tất cả đoạn nói về hai Tôn giả đi khất thực vào rừng Anda trải tọa cụ. Nó chỉ nói rằng, Tôn giả Mãn Từ Tử hoan hỷ với pháp thoại của Phật, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi vào rừng Anda để nghỉ ban ngày. Khi ấy một Tỳ-kheo thuật lại cho Tôn giả Xá Lợi Phất và ngài vội vàng cầm tọa cụ đi theo Tôn giả Mãn Từ Tử.
Nhận xét: Đây là đoạn văn độc nhất trong bản P nói đến ni sư đàn hay tọa cụ.
Điểm khác nhau này về sự tuân giữ ni sư đàn hay tọa cụ đã được đề cập trong chương nói về Một vài đặc điểm của Nhất thiết hữu bộ và Thượng tọa bộ.
Nhận xét chung:
Trong chương này, ta thấy có nhiều dị biệt giữa hai bản C và P, chứng tỏ hai bản tiêu biểu những truyền thống khác nhau. Do vậy một vài học giới về lối hành xử của một người ở rừng, bảy cách dàn xếp tranh chấp không hoàn toàn giống nhau trong hai bản kinh.
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:44:37 GMT -5
CHƯƠNG VII: KỆ TỤNGBây giờ chúng ta đi đến phần khảo sát tỷ giảo những bài kệ trong 98 kinh tương đương để tìm ra những điểm đồng dị giữa hai bản C và P. Mới nhìn qua ta thấy rằng bản C dồi dào bài kệ hơn bản P. Trong NC 40, 55, 89, có ba kinh C chứa nhiều bài kệ trong khi những bản P tương đương không có. Trong NC 40, có thêm hai bài kệ đều do đức Phật nói, khi giáo giới La Vân. Bài kệ thứ nhất: C14, Kinh La Vân : "Một người phạm lỗi gọi là nói láo, Thì không sợ đời sau, không có điều ác gì nó không thể làm. Thà nuốt viên sắt nóng như lửa, Còn hơn phạm giới này mà nhận bố thí của thế gian. Nếu biết sợ khổ, không thích nghĩ đến khổ, Thì không nên làm điều ác bí mật hay công khai. Nếu những bất thiện hành đã được làm, đang được làm, Cuối cùng người ta không thể thoát khỏi chúng, Cũng không có chỗ trú ẩn nào để thoát." Bài kệ 2:"Này La Vân, thân hành, ngữ hành và ý hành, Có công đức hay không công đức, Ngươi nên tư duy về chúng. Này La Vân, ngươi không được cố ý nói dối. Nói dối đem lại nguy hiểm, thì sao ngươi nói dối? Che đậy pháp của Sa-môn, Lời trống rỗng không thật, gọi là nói dối. Do không hộ trì miệng lưỡi, Mà người ta nói điều sai quấy. Hỡi con đấng Giác ngộ, đây là pháp của bậc Sa-môn. Này La Vân ngươi nên học; ở đâu ngươi cũng sẽ được hạnh phúc an lạc, an ổn và vô úy. Này La Vân, muốn được tất cả điều này ngươi không được hại người khác." Trong NC 55 , bản C có hai bài kệ nhưng không có trong bản P. C67: Kinh Đại thiên nại lâm: Vua Đại Điển cầm những sợi tóc bạc này và nói: "Đầu tôi đã có tóc hoa râm, cuộc đời tôi càng ngày càng già và yếu, Thiên sứ đã đến. Đã đến lúc tôi nên học pháp" C: Vua Nemi bảo chư thiên cõi trời 33: "Nó giống như cỗ xe mượn để cưỡi một thời gian. Nơi này là như thế, nghĩa là nó thuộc về kẻ khác. Ta sẽ trở về Mi-sa-lo và thực hành vô số pháp lành ở đấy. Nhờ vậy ta sẽ được sinh lên trời. Ta chứa nghiệp lành như lương thực trên đường lên thiên giới." Trong NC89, có một bài kệ trong bản C, không có trong bản P: C170: Kinh Anh vũ: "Những người Bà-la-môn do quá kiêu căng, Sau khi chết tại thế giới này, sẽ tái sinh trong sáu cảnh giới: Làm gà mái, chó, heo, chồn, Lừa và địa ngục là thứ sáu." Có 15 kinh trong đó cả hai bản C và P đều có kệ, như trong NC6, 22,35,36, 39, 48,54,60,83, 85, 86,87,88,96,97. Một vài bài kệ gần giống nhau trong cả hai bản. Như trong NC35, cả hai bài kệ như sau: C78: Phạm thiên thỉnh Phật: "Thấy nguy hiểm trong hữu, không sợ phi hữu, Như vậy không thích thú trong hữu, Thì có hữu nào không thể bị đoạn tận?" P49: Phạm thiên cầu thỉnh: "Sau khi thấy nguy hiểm của hữu, Đang hiện hữu, ta tìm cái phi hữu. Ta không thích thú hiện hữu, Ta không chấp thủ một lạc thú nào." Trong NC48, chúng ta có hai bài kệ sau: C153: Kinh Man nhàn đề: "Không bệnh là lợi tối thắng. Niết-bàn là lạc tối thắng. Trong các con đường, đường tám chánh, Trú trong an ổn và bất tử. P75: Kinh Màgandiya: "Không bệnh lợi tối thắng, Niết-bàn lạc tối thắng. Trong các đường, bát chánh, Đưa đến an ổn và bất tử." Trong vài trường hợp, kinh C có đến ba bài kệ, trong khi P chỉ có một bài, như được thấy trong NC36, và bài kệ duy nhất trong bản P chỉ có 96 dòng trong khi bài kệ tương đương trong bản C có đến 122 dòng. Tương tự về NC39, trong đó C có dư hai bài kệ, một bài sáu dòng và một bài bốn dòng. Trong khi bài kệ có chung với P, thì C hơn P tám dòng. Trong NC66, bài kệ trong C chứa 32 dòng, bản P chỉ chứa 22 dòng. Trong NC60, kinh C có bốn bài kệ, trong khi P chỉ có ba bài. Trong bài kệ một, bản P có bốn dòng hơn C; trong bài kệ hai, hai bản có số dòng giống nhau là 12 dòng, trong khi bài kệ thứ ba thì bản C có 10 dòng nhiều hơn bản P. Bài kệ thứ tư chỉ được tìm thấy trong C, chứa 10 dòng như sau: C161: Phạm Ma: "Trong các tế đàn, lửa là tối thượng. Âm thanh là nền tảng của tất cả mọi âm. Trong loài người, vua là tối thượng. Biển lớn hơn các dòng sông. Mặt trăng sáng hơn những vì sao, Nhưng không ánh sáng nào quá hơn mặt trời. Phương trên phương dưới, Bốn phương chính và bốn hướng phu,ï Cùng với tất cả thế gian, Từ nhân loại cho đến chư thiên, Chỉ có Phật là tối thượng." Về bài kệ này, những nhận xét sau đây của tiến sĩ Anesaki (JRAS, 1901, p.898) đáng chú ý: "Trong các kinh A-hàm bản Hoa ngữ, bài kệ sau đây được lặp đi lặp lại ít nhất 12 lần: Trong các tế đàn lửa là tối thượng, trong các chandas, sàvittì là tối thượng, trong loài người vua...., trong tất cả chúng sinh, nhân loại và chư thiên, chỉ có Phật là trên hết. Tôi không thể tìm thấy những bài kệ này trong các kinh Trung bộ P. Tất cả kinh P, dù đồng nhất với C về mọi mặt khác, đều không có bài kệ này, trong khi bản C tương đương thì có. Tôi tìm thấy chúng, trừ phần cuối, trong kinh Sela của Tiểu bộ Suttanipàta. Có phải chúng đã được thêm vào về sau trong các kinh A-hàm và kinh Tiểu bộ, hay chúng đã bị bỏ bớt khỏi kinh Trung bộ P?" Cũng vậy trong NC96, chỉ có một bài kệ, bài kệ bản C có 24 dòng, bản P chỉ có 20 dòng. Trong NC97, bản C có thêm hai bài kệ, một bài 16 dòng, một bài tám dòng, trong khi bản P có một bài kệ thừa ra 16 dòng. Sự khác biệt này có lẽ là do sự khác biệt về nội dung của hai kinh này. Trong kinh C, trong khi kể lại cơn bệnh của Cấp-cô-độc, bản C thêm một câu truyện do Cấp-cô-độc kể về lần đầu tiên ông gặp Phật, và hai bài kệ thuộc về câu truyện này. Bài kệ đầu được nói bởi một vị trời vốn là bạn cũ của Cấp-cô-độc đến giục ông đi gặp Phật. Bài kệ thứ hai được nói bởi chính Cấp-cô-độc để chào đức Phật. Và bài kệ P không có trong bản C thì được nói bởi vị trời Cấp-cô-độc để ca tụng Phật, Pháp, và Tôn giả Xá Lợi Phất. Cấp-cô-độc sau khi chết đã được tái sinh thành một vị trời, xuất hiện trước đức Phật và đọc bài kệ này ca tụng đức Thế Tôn. Nhưng vì bản kinh C kể lại một giai thoại khác trong đời Cấp-cô-độc, dĩ nhiên không phải là đã chết, nên bài kệ này không có. Nhưng có những trường hợp trong đó P có nhiều kệ hơn C, và những bài kệ trong bản P dài hơn. Như trong NC22, bản P có dư ba bài kệ: tám dòng, 14 dòng, bốn dòng. Bài kệ một nói về sự do dự của đức Phật không muốn thuyết pháp. Bài kệ hai tả Phạm thiên thỉnh cầu thuyết pháp; và đức Phật theo lời thỉnh của Phạm thiên trong bài kệ ba. Tất cả ba bài kệ đều không có trong bản C, vì bản C bỏ nguyên cả đoạn này. Trong NC54, trong bài kệ thứ nhất, bài kệ bản C có 22 dòng, ít hơn bài kệ bản P hai dòng; trong khi bài kệ thứ hai trong bản P có nhiều hơn bài kệ bản C bốn dòng, (bài kệ bản C có 48 dòng). Để nêu rõ những điểm đồng dị giữa hai bài kệ tương đương trong bản C và P, chúng tôi sẽ phân tích từng dòng các bài kệ để so sánh, trong NC6, 39 và 96. Trong NC6, Phật trả lời Bà-la-môn Thủy Tịnh, khi Bà-la-môn bảo Ngài đi tắm nước thiêng: C93: Thủy Tịnh Phạm chí: "Diệu hảo thủ phạm chí, Nếu vào sông Đa Thủy, Là trò chơi kẻ ngu, Không thể sạch nghiệp dữ. Hảo thủ, đến sông chi? Sông ấy có nghĩa gì, Người tạo nghiệp bất thiện, Nước trong nào ích chi. Người tịnh, không cấu uế, Người tịnh, thường thuyết giới, Người tịnh, nghiệp trắng trong, Thường hành hạnh thanh tịnh. Nếu ông không sát sinh, Cũng không hay trộm cắp, Chân thật, không nói dối, Thường chánh niệm, chánh trí, Phạm chí học như vậy, Tất cả chúng sinh an. Phạm chí về nhà chi, Nước nhà đâu trong sạch. Phạm chí, ông nên học, Dùng thiện pháp tẩy sạch. Cần gì nước bẩn kia, Chỉ trừ dơ thân thể?" P7: Gần giống. Bản P nói tên của bảy con sông: Bàhukà, Adhikakkà, Gayà, Sundarikà, Sarassatì, Payàgo và Bàhumatì là vô ích vì chúng không thể rửa sạch những hành vi đen tối. Đối với người trong sạch, ngày nào cũng là ngày lành (Phaggu); ngày nào cũng là ngày trai giới (Uposatha), vì người ấy luôn luôn tuân theo quy luật. Bản C thêm: luôn luôn có chánh niệm, chánh kiến đối với lời giáo huấn của đức Phật. Bản P bỏ hai từ này nhưng thêm : có lòng tin saddahanà, và không hà tiện, amaccharì. Trong dòng cuối, bản P nói đến đức Phật dạy: "Bạn cần gì phải đến sông, khi bất cứ giếng nào cũng là sông Hằng của bạn?" Trong khi bản P chấm dứt bài kệ ở đây và trở lại thể thức văn xuôi, bản C vẫn tiếp tục hình thức kệ: "Phạm chí bạch Phật rằng: 'Tôi cũng nghĩ như vậy, Dùng thiện pháp tẩy sạch, Cần gì nước dơ kia. Phạm chí nghe Phật dạy, Trong lòng rất hoan hỷ, Liền đảnh lễ chân Phật, Quy y Phật, Pháp, Tăng.' " Trong NC39, chính bài kệ của Ưu Ba Ly là bài mà người ta tìm thấy được tàn dư của nguyên bản Sanskrit ở Trung Á (xem phần phụ lục). C133: Khi ấy Kiền Tử hỏi Ưu Ba Ly rằng, tất cả mọi người trong thành Na Lan Đà đều biết Ưu Ba Ly là đệ tử của Ni Kiền; nhưng bây giờ, ông là đồ đệ của ai. Ưu Ba Ly trả lời Kiền Tử bằng một bài kệ dài, trong lúc quỳ gối chạm đất, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà nói: 1/ a. Trong số những người can đảm thoát khỏi vô minh, đã đoạn dứt lỗi lầm và chân chính vượt qua chúng, P1a. b. Vô tỷ, suy tư tinh tế, được điều phục về giới, định, tuệ, P1b. c. Bảo đảm không cấu uế, của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử, P1c. 2/ a. Về đức Thế Tôn vĩ đại với sự tự chế hoàn toàn; đã đạt đến sự thánh thiện, đã làm chủ ngữ nghiệp. P7a. b. Với chánh niệm, quán sát chân chính và tế nhị, không cao cũng không thấp, P7b. c. Bất động, luôn luôn tự chủ. Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. P7c. 3/ a. Về người không có sự cong quẹo, luôn luôn hài lòng, Đã tẩy sạch sự nhỏ nhen, khéo hỷ túc, P2a. b. Sau khi trở thành Sa-môn, vị ấy đạt giác ngộ, Với thân hiện tại là thân cuối cùng, đức Thế Tôn. P2b. c. Vô tỷ và không bụi bặm, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. P2c. 4/ a. Về con người không có ganh tị, vô lượng, Sâu xa khôn dò, đạt đến hiền trí, P4a. b. Luôn luôn an ổn và đầy nghị lực, Trú pháp, tư tưởng tế nhị, P4b. c. Được điều phục, luôn luôn không đùa, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. P5c. 5/ a. Về Ngài, một đại long tượng, thích ở cao, đã dập tắt kiết sử, đã đạt giải thoát. P5a. b. Thiện xảo về đàm luận, thanh tịnh, Trí sanh, sầu ưu tẩy sạch, P5b. c. Không trở lại hữu, đấng Thích Ca, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. P6c. 6/ a. Về Ngài, người đã đi một cách chân chính, với tư tưởng tập trung, không tán loạn, thanh tịnh. P8a. b. Luôn luôn mỉm cười, không sân hận, Thích độc cư, đã đạt đến cái tối thượng. P8b. c. Vô úy, luôn luôn nhiệt tâm và tinh cần, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. 7/ a. Về Ngài, bậc Đại tiên thứ bảy vô tỷ, Với ba sự chứng đắc, đã đạt đến Phạm thể, P6a. b. Không tỳ vết và thuần tịnh như một ngọn đèn sáng, Đạt đến an tịnh, chấm dứt sân hận, c. Tinh cần và hết sức thanh tịnh, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. 8/ a. Về Người đã đạt đến sự tịch tịnh, có trí tuệ như đại địa, có đại tuệ, đã tẩy sạch sự chấp thủ thế gian, P9a. b. Sau khi khéo tư duy với con mắt tối thượng, Một siêu nhân vô tỷ, P10b. c. Một bậc thầy của chính mình, không sân hận, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. 9/ a. Về Người đã đoạn tận hy vọng, thiện tối thắng, Người lãnh đạo tốt, có sự làm chủ vô song, P3a. b. Tối thượng và luôn luôn an lạc, Không còn hoài nghi, với ánh sáng chói, P3b c. Với kiêu mạn đã được tẩy trừ, giác ngộ tối cao, Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử. P3c. 10/ a. Về con người mà khát ái đã đoạn tận, với sự giác ngộ vô song, không có khói, không có lửa ngọn, P10a. b. Đức Như lai là đấng Thiện thệ, Vô song, vô tỷ, c. Có danh tiếng lớn, đã đạt đến sự chánh trực, Của đức Phật, Ưu ba ly là đệ tử. P10c 11/ a. Như vậy với 100 lời, ông ta tán thán Phật, Những lời ấy chưa từng được suy tính trước. b. Ưu Ba Ly đã nói lên chúng, Chư thiên đã đến nơi ông ta, c. Khéo giúp ông ta trong cuộc thảo luận, Phù hợp với pháp, thích hợp với một người như vậy. Kiền Tử đã hỏi, Đồ đệ của đức Phật, đấng mười lực. P56: Bài kệ của Ưu Ba Ly gồm có 11 đoạn trong C và mười đoạn trong P. Bản P bỏ đoạn thứ 11. Mỗi đoạn kệ chấm dứt với cùng một điệp khúc : C: Của đức Phật, Ưu Ba Ly là đệ tử =P: Của Ngài, đức Thế Tôn, tôi là đệ tử. Mặc dù cả hai bài kệ giống nhau phần chính, chúng có nhiều điểm khác nhau về thứ tự liên tiếp giữa các bài kệ, về vị trí của những bài kệ làm thành toàn thể. C1=P1; C2=P7; C3=P2; C4a=P4a; C4b=P4b; C4c=P5c; C5a=P5a; C5b=P5b= C5c=P6c; C6a=P8a; C6b=P8b; C6c=P không có; C7a=P6a; C7b=P không có; C7c=Pkhông có; C8a=P9a; C8b=P10b, C8c=Pkhông có; C9a=P3a, C9b=P3b; C9c=P3c; C10a=P10a; C10b=P không có; C10b=P 10c; C11=P không có. Như vậy C6c, C7b, C7c, C8c, C10b, C11 không có trong bản P và P4c, P6b, P8c, P9c không có trong bản C. Ngay cả trong những bài kệ tương đương, bản C và P cũng có nhiều khác nhau đáng kể. Như trong C1b, C: vô song=P: anighassa (không khổ). Trong C1c, C: an ổn, bảo đảm (secure)=P: vessantarassa (điềm tĩnh). Trong C2a, C: đạt đến sự thánh thiện =P: pattipattassa, đã đạt được cái gì có thể đạt. Trong C2b, C: không cao không thấp=P: anabhinatassa (không thiên về dục, không sân). Trong C3a, C: về Người không có sự cong quẹo(crookedness)=P: akathankathissa (không hoài nghi); C: đã trừ khử tính hà tiện=P: vantalokàmisassa (từ bỏ tài sản thế gian). Trong C3b, C: Ngài đạt đến giác ngộ=P manujassa (của một con người); C: đức Thế Tôn=P: narassa (về con người). Trong C4a, C: về Người không ganh tị=P: nisabhassa (về con người tốt nhất, bò đực tối thượng). Trong C4b, C: có nghị lực=P vedassa (người hiểu biết); C: có suy nghĩ tế nhị=P: samvutattassa (tự chế). Trong C4c, C: luôn luôn không đùa (always without sporting) = P : nippapancassa (không chướng ngại). Trong C5a, C: về ngài, một con rồng lớn = P: nagassa (về một con voi); C: ưa thích ở chỗ cao=P: pantasenassa (sống xa chỗ con người). Trong C5b, C: thiện xảo về thảo luận=P: patimantakassa (người nói hòa nhã); C: sinh từ trí tuệ = P: pannadhajassa (đã hạ cây cờ xuống); C: tẩy trừ sầu ưu = P: vìtaràgassa (lìa tham dục). Trong C5c, C: người không trở lại cõi hữu=P: purindadassa (người bố thí tối thượng). Trong C6a, C: về người đã đi một cách chân chính=P: sammaggatassa. Trong C6b, C: luôn luôn mỉm cười=P: asitassa (không trói buộc), C: không sân=P: appahìnassa (không thiên về bất cứ gì?). Trong C7a, C: về vị trời thứ bảy=P: isisattamassa (bậc hiền thứ bảy); C: không thể so sánh=P: akuhassa (không giả dối). Trong C8a, C: với trí tuệ như đại địa=P: Bhùripannassa (có trí tuệ quảng đại). Trong C8b, C: sau khi khéo tư duy=P: àhuneyyassa (đáng cúng dường); C: có con mắt tối thượng=P: yakkhassa (của dạ xoa). Trong C9a, C: về Người đã đoạn trừ hi vọng=P: asamsayassa, of Him who is sure(?); C: lãnh đạo tốt=P: venayikassa (lãnh đạo). Trong C9c, C: có giác ngộ tối thượng=P: virassa (anh hùng, người có nghị lực). Trong C10c, C: có đại danh=P: mahato (người vĩ đại); C: đã đạt đến sự chính trực = P: yasaggapattassa (đã đạt đến danh tiếng tối cao). Trong những bài kệ tương đương, những bài còn lại gần giống nhau. Nhận xét: Sự hiện hữu của từ thuộc dạ xoa trong câu kệ 10b của bản P thật khó hiểu. Không thể nào gọi Phật là một dạ xoa, nhất là trong một bài kệ ca tụng Ngài. Bản C dịch người có mắt sáng nhất đã đưa ra giải đáp. Nguyên bản Sanskrit có lẽ là danh từ Aksasya, có nghĩa là con mắt. Tiếng Pàli yakkhassa rõ ràng đã thêm chữ "y" ở trước cho dễ đọc như ta thường thấy trong các câu na yimassa, yaci yeva, kinci, yittham, v.v.. Trong NC96, bài kệ bản C và bài kệ tương đương trong bản P được nói như sau: C180: =P143: Đức Phật đọc một bài kệ sáu câu trong bản C và năm câu trong bản P: 1) C: Người tinh cần bố thí cho người bất cẩn một món quà có được phù hợp với chánh pháp, với một tâm hoan hỷ. Vị ấy tin vào nghiệp và quả báo của nghiệp, nên sự cúng dường này được thanh tịnh bởi người cho. P: Gần giống. C: tinh cần=P: có thiện giới. C:bất cẩn=P: có ác giới. C: vị ấy tin vào nghiệp và quả báo của nghiệp=P: vị ấy tin chắc vào quả báo dồi dào của nghiệp. 2) C: Người bất cẩn bố thí cho người tinh cần một món quà có được không phù hợp với chánh pháp và cũng không bố thí với tâm hân hoan, vị ấy không tin vào nghiệp và quả báo của nghiệp, như vậy sự cúng dường này được thanh tịnh bởi người nhận. P: Gần giống, với những dị biệt như trên. 3) C: Người biếng nhác bố thí cho người bất cẩn một món quà có được không hợp pháp và cũng không với tâm hoan hỷ; vị ấy không tin vào hành động và quả báo của hành động, như vậy sự cúng dường này không có quả báo lớn lao. P: Gần giống, với những dị biệt như trên. C: không có quả báo lớn=P: không được thanh tịnh bởi cả hai bên, người cho và người nhận. 4) C: Người tinh cần bố thí cho người tinh cần một món quà có được hợp pháp nhưng không với tâm vui vẻ, vị ấy tin vào nghiệp và quả báo của nghiệp; như vậy sự cúng dường này có quả báo lớn. P: Như trên, với những dị biệt như đã thấy. 5) C: Những tôi tớ và người nghèo, những người vui vẻ, san sẻ phần mình để góp vào việc bố thí, họ tin vào nghiệp và quả báo của nghiệp, như vậy một vật thí được bậc trí tán dương. P: không có. 6) C: Với thân và lời khéo hộ trì một cách chân chính; đưa tay ra xin hợp pháp, một người thiểu dục bố thí cho một người thiểu dục, quà tặng này là tối thượng. P: Không giống hẳn: Một người không chấp thủ bố thí cho một người không chấp thủ một món quà có được hợp pháp với một tâm hoan hỷ, tin chắc vào quả báo giàu có của hành vi, ta nói quà tặng này có lợi ích lớn. Như vậy, một tổng quan về nghiên cứu tỷ giảo các bài kệ trong hai bản kinh C và P cho ta thấy, bản C có nhiều kệ hơn bản P, và những bài kệ trong C thường dài hơn P. Chúng ta cũng nhận thấy rằng nền tảng chung giữa hai bản khá lớn. Và điều này nói lên một nguồn chung từ đấy cả hai bản rút tài liệu. Khi nghiên cứu kỹ những bài kệ tương đương trong hai bản, ta thấy có nhiều điểm đồng và dị, và điều này cho thấy thái độ độc lập của các nhà biên tập hai bản kinh, về phương diện sưu tầm và sắp xếp các tài liệu. ---o0o---
|
|
|
Post by TCTV on Jul 8, 2010 3:46:27 GMT -5
CHƯƠNG VIII: CÁC ẨN DỤ HAY NGỤ NGÔN
Kinh Phật đầy dẫy những ví dụ, nên trong cả hai bản C và P, ta thấy có một sưu tập dồi dào các ngụ ngôn và ẩn dụ. Một nghiên cứu tỷ giảo về những ẩn dụ này trong hai bản cho thấy những nét đặc sắc sau: 1. Một số ẩn dụ gần giống nhau trong hai bản; 2. Một số ẩn dụ có cùng nội dung nhưng cách trình bày khác nhau; 3. Trong vài trường hợp, bản P có ẩn dụ đơn giản hơn; 4. Trong vài trường hợp, trái lại, ẩn dụ trong C đơn giản hơn; 5. Một số ẩn dụ có trong C lại không có trong P; 6. Trong vài trường hợp, ẩn dụ trong C không có; 7. Có những trường hợp, ẩn dụ trong P chính xác hơn, sáng sủa hơn bản C; 8. Một số ẩn dụ hoàn toàn khác nhau trong hai bản.
1. Những ẩn dụ gần giống nhau: Trong vài trường hợp, hầu như không có gì khác nhau giữa hai ẩn dụ về phương diện nội dung cũng như hình thức.
Như trong NC4, Tôn giả Đại Mục-liền-liên kể một ví dụ để nói Tôn giả Xá-lợi-tử khéo biết tâm của người nghe để giảng pháp cho họ thấm vào tim:
C87: "Tôi đến nhà của một khổ hạnh lõa thể tên là Man Tử, xưa là người làm xe. Vào lúc ấy, cạnh nhà ông ta, có một người làm xe đang cưa gỗ để làm trục xe. Lúc ấy lõa thể Man Tử xưa làm nghề đẽo vành xe, đi đến nhà ấy và trông thấy người làm xe đang bận đẽo trục xe. Một tư tưởng khởi lên trong ông ta: 'Nếu người ấy dùng cưa cưa bớt những chỗ khuyết kia, thì trục xe sẽ toàn hảo'. Khi ấy, đúng như những gì lõa thể Man Tử đã nghĩ, người làm xe lấy một cái cưa cưa đứt những chỗ khuyết. Rồi lõa thể Man Tử hết sức vui mừng và nói: 'Ôi, thợ làm xe, anh biết đúng tim tôi; vì anh đã cưa đúng những chỗ khuyết để thành hình trục xe như tôi đã nghĩ.' "
P5: Gần giống. C: một lõa thể ngoại đạo tên Man Tử xưa là người làm xe=P: purànayànakàraputto Panduputto àjìviko. C: có một người làm xe đang đẽo gỗ để làm trục xe=P: vào lúc ấy Samìti một người thợ xe, đang đẽo vành của một bánh xe. C: nếu người làm xe kia lấy cái cưa cưa bớt những chỗ khuyết kia=P: mong người ấy đẽo đường cong, đường méo, chỗ khuyết này. C: vậy là tâm anh biết được tâm tôi=P: dường như là anh ta đang đẽo xe với cái tâm biết được tâm tôi.
Trong NC13, đức Phật trích dẫn một ví dụ về con gà mái để hiển thị rằng, bất cứ người nào có được 15 đức tính thì chắc chắn phải đạt toàn giác.:
C206: "Cũng như một con gà mái đẻ 10 trứng, 12 trứng, rồi đúng thời ấp chúng, đúng thời ủ chúng, canh chừng chúng một cách đàng hoàng. Có thể con gà mái không chú ý, nhưng trong những cái trứng kia, những con gà con với mỏ, móng, sẽ mổ cho thủng vỏ trứng để an toàn chui ra."
P16: Tương tự. C: 10 trứng hay 12 trứng=P: 8 trứng 10 trứng hay 12 trứng. C: đúng thời ấp chúng, đúng thời ủ chúng, đúng thời coi chừng chúng= P: đúng thời ấp ngồi trên chúng, đúng thời ủ chúng, chân chính chăm sóc chúng. C: con gà mái có thể không chú ý=P: mặc dù con gà mái không lập ước nguyện rằng mong gà con sẽ mổ vỏ mà chui ra sau khi đập bể vỏ trứng với móng và mỏ.
2. Nội dung giống nhưng hình thức khác: Trong phần lớn các ẩn dụ, chúng ta nhận thấy mục đích mà ẩn dụ chuyên chở để làm sáng tỏ một giáo lý nào đó là giống nhau trong cả hai bản, nhưng cách trình bày ẩn dụ không hoàn toàn giống nhau. Đa số ẩn dụ rơi vào trường hợp này và điều này chứng tỏ những nhà biên tập hoàn toàn tự do chọn lựa danh từ và cách diễn đạt.
Như trong NC16, đức Phật trích dẫn ví dụ đàn nai để hiển thị lợi lạc mà giáo lý Phật đem lại cho con người nói chung.
C102: "Giả sử có một nơi an ổn, nơi có dòng nước lớn. Ở đấy có một bầy nai đang sống và đi tung tăng. Nếu có một người đến, không tìm lợi lạc cho bầy nai, không tìm sự an ổn và hạnh phúc cho chúng. Người ấy ngăn con đường chính, mở ra một con đường nguy hiểm, đào một cái hố và cho một người canh chừng cái hố. Như vậy toàn thể bầy nai sẽ đi đến hoại diệt và hoàn toàn tử vong. Lại có một người đến muốn sự an lạc cho bầy nai ấy, tìm sự an ổn hạnh phúc cho bầy nai, nên vị ấy mở ra con đường chính, làm cho nó bằng phẳng, chặn con đường nguy hiểm và đuổi người đứng canh. Nhờ vậy đàn nai sống an ổn."
P19: Ẩn dụ trong P có vài dị biệt chi tiết. Nơi được nói đến là một mảnh đất sình sâu và thấp ở trong rừng bên cạnh có một đàn nai đang sống. Con đường an toàn được mô tả là khemo savatthiko pìtigamanìyo, con đường lừa bịp là kumaggo. Ở đây không nói gì đến đào hố và đặt mồi canh, mà nói một con mồi đực, một con mồi cái được đặt đấy để dụ đàn nai.
C: "Này các Tỳ-kheo, nên biết rằng ta nói ví dụ ấy để hiển thị một vài ý nghĩa. Người có trí nghe ví dụ sẽ hiểu nghĩa. Ví dụ này nói lên ý nghĩa như sau: Dòng nước lớn tượng trưng cho năm dục hấp dẫn, khả ái. Gì là năm? Các sắc đẹp do mắt nhận thức, âm thanh do tai nhận thức, mùi do mũi, vị do lưỡi, xúc do thân nhận thức. Các ngươi nên biết dòng nước lớn dụ cho năm dục này. Đàn nai dụ cho các Sa-môn, Bà-la-môn. Người đi đến không muốn lợi ích cho đàn nai dụ cho ma vương, kẻ xấu. Đóng con đường chính, mở con đường phụ, dụ cho ba tư tưởng bất thiện là tư tưởng về tham dục, tư tưởng về sân hận và tư tưởng về tác hại. Con đường nguy hiểm dụ cho ba tư tưởng bất thiện. Lại nữa con đường nguy hiểm dụ cho tám tà đạo, từ tà kiến cho đến tà định là thứ tám. Đào một hố lớn dụ cho vô minh, đặt người đứng canh dụ cho quyến thuộc của ma. Lại nữa có một người đến muốn lợi lạc cho bầy nai ấy, tìm an ổn và hạnh phúc cho bầy nai ấy là dụ cho đức Như lai, bậc A-la-hán chánh đẳng giác. Đóng con đường nguy hiểm, mở con đường chính an toàn dụ cho ba thiện tư duy là tư duy ly dục, vô sân và bất hại. Con đường dụ cho ba thiện tư duy và tám chánh đạo, từ chánh kiến đến chánh định là thứ tám."
P: Mảnh đất sình sâu là đồng nghĩa với tham dục; đàn nai lớn tiêu biểu chúng sinh; người muốn hại chúng tiêu biểu ma vương, kẻ xấu ác. Con đường hiểm nguy là đồng nghĩa với tám tà đạo. Con mồi đực tiêu biểu sự ham vui (nandìràga). Con mồi cái dụ vô minh. Người muốn tốt cho bầy nai là đồng nghĩa với Như lai, đấng toàn thiện. Con đường bảo đảm an toàn tiêu biểu đường bát chánh.
Trong NC19, Phật dùng ẩn dụ chiếc bè để hiển thị rằng pháp của Ngài dạy phải được từ bỏ sau khi sử dụng, chứ không phải để mà đeo mang, ôm giữ:
C200:=P22:
"Ta, vì các ngươi (không có trong P), đã nói về ẩn dụ chiếc bè, trong một thời gian dài (không có trong P), cần phải được từ bỏ chứ không để ôm giữ. Như có một dòng nước từ trên núi xuống, rất sâu và rất rộng, chảy nhanh và có rất nhiều vật trôi nổi trên đó. Trên dòng này, không có thuyền cũng không có cầu. Giả sử có một người đến muốn vượt qua bờ bên kia tìm một vài công việc. (Bản P nói, một người trên đường dài, trông thấy một dãi nước lớn, bờ bên này đầy nguy hiểm và hãi hùng. Bờ bên kia thì an toàn không đáng sợ, không có thuyền để vượt qua, không có cầu bắt từ bờ này sang bờ kia). Vì muốn qua sông, người ấy nghĩ: 'Dòng nước này thật sâu và rộng; chảy nhanh và có nhiều vật trôi nổi trên đó. Trên dòng nước này không có thuyền hay cầu có thể vượt qua. Ta có việc muốn ở trên bờ kia, muốn qua sông. Ta phải dùng đến phương tiện gì, cách gì để vượt qua bờ kia một cách an toàn?' (P: Cũng những dị biệt như đã ghi trong đoạn trước; và không có câu hỏi sau cùng). Rồi vị ấy nghĩ, 'Nay ở bờ này ta nên thu nhặt cỏ, cây bó lại để làm thành một chiếc bè, rồi cỡi bè ấy mà vượt qua sông.' Rồi người ấy thu nhặt trên bờ này những cỏ và gỗ, bó chúng thành một chiếc bè, cỡi chiếc bè này và qua bờ kia an toàn. (P: thêm cọng, cành, lá, nhưng bỏ gỗ; lại thêm: nhờ chiếc bè này, nỗ lực chống chèo với tay và chân.) Rồi người ấy nghĩ: 'Chiếc bè này rất ích lợi cho ta, vì nhờ nó ta đã từ bờ kia sang bờ này một cách an toàn. Ta sẽ vác nó lên vai phải hoặc đội trên đầu mà đi.' Rồi người ấy mang chiếc bè trên vai phải hoặc đội lên đầu mà đi. Các thầy nghĩ sao? Làm như vậy người ấy có được lợi ích (của chiếc bè) không? Các Tỳ-kheo trả lời: 'Không.' (P: Gần giống, với những dị biệt như đã nói; bản P chỉ nói vai mà không nói vai phải). Đức Thế Tôn hỏi: 'Người ấy nên làm gì về chiếc bè để có được sự ích lợi (của nó)? Người ấy nên nghĩ: 'Chiếc bè này rất ích lợi cho ta. Nhờ cỡi nó, ta đã vượt bờ kia sang bờ này. Nay ta nên nhận chìm chiếc bè này xuống nước, hoặc đặt nó trên bờ mà đi.' Rồi người ấy nhận chìm chiếc bè dưới nước, hoặc đặt trên bờ mà đi. Các thầy nghĩ sao? Làm như vậy về chiếc bè, người ấy có được lợi ích (của chiếc bè) không? Khi ấy các Tỳ-kheo đáp: 'Thưa vâng, có ích lợi.' (P: Gần giống, dị biệt như đã ghi. Ở đây P chỉ nói đưa chiếc bè lên bờ hay nhận chìm nó trong nước). Đức Thế Tôn nói: 'Như vậy trong một thời gian dài ta đã giảng cho các thầy ẩn dụ về chiếc bè là để từ bỏ chứ không phải để ôm giữ. Nếu các thầy đã hiểu ẩn dụ về chiếc bè mà từ lâu nay ta đã dạy, thì pháp các ông còn phải từ bỏ, huống là phi pháp.' "
Trong NC32, Phật lấy ví dụ cái hột của một cây leo tăng trưởng và trở thành nguy hiểm cho một cây lớn, để hiển thị mối nguy của dục:
C174:=P45:
Như vào tháng cuối xuân, vào những ngày hết sức nóng (P: vào tháng cuối mùa hạ), một hột của cây leo chih-i (?) nẻ ra rơi xuống đất dưới chân một cây sàla. (P: hạt của một cây leo nứt ra rơi xuống dưới chân một cây sàla). Khi ấy vị thần cây vì việc này đâm ra sợ hãi (bản P thêm: vị thần ở trong cây sàla sợ hãi, dao động, run rẩy. Nó bỏ: do việc này). Rồi các vị thần làng, những vị thần ở những cây lân cận, ở hàng trăm loại cây lúa, cây thuốc (?)vốn là quyến thuộc bằng hữu của thần cây này, thấy được sự đáng sợ và mối nguy của cái hột ấy trong tương lai, đi đến nơi thần cây này mà an ủi rằng: (Bản P bỏ: các vị thần làng, những vị thần ở những cây lân cận, ở hàng trăm loại cây lúa, cây thuốc nhưng nói: các thần rừng, thần rú, thần cây, thần ở trong các cây có thuốc và rừng rú. Nó bỏ: thấy được sự đáng sợ và mối nguy của cái hột ấy trong tương lai) "Hỡi thần cây, đừng sợ! Hỡi thần cây, đừng sợ! Cái hột này có thể bị con nai ăn, có thể bị chim công ăn, hoặc bị gió thổi, hoặc bị đám cháy trong làng đốt tiêu, hoặc bị một ngọn lửa hoang thiêu đốt, hoặc bị thối không còn là hạt giống." (P bỏ: Hỡi vị thần cây, ... hay bị gió thổi, hoặc bị đám cháy trong làng đốt. Nó thêm: hoặc có thể nó bị những người thợ rừng nhặt lên, hoặc có thể nó bị kiến trắng ăn. C: hoặc nó có thể bị thối không còn là hạt giống=P: hoặc nó có thể trở thành phi hạt giống). Bạn sẽ được an ổn (P: không có câu này). Nhưng hạt giống ấy không bị nai ăn, không bị chim công ăn, không bị gió thổi, không bị đám cháy đốt, không bị ngọn lửa hoang đốt cháy, không bị thối để không còn là hạt giống. Hạt giống ấy không thiếu điều gì, nó không bị đâm thủng, không bị cắt ngang, không bị hư hỏng vì gió, mưa và nắng. Nó gặp được mưa lớn và trổ mầm rất nhanh. (P bỏ: hạt giống này không thiếu gì.... gió mưa và nắng).Thần cây này nghĩ: "Vì lý do nào những thần cây trong làng, những thần cây lân cận... (như trên, cho đến không bị hỏng vì gió, mưa và nắng)." Nó trở thành cọng, cành, lá, mềm mại, khả ái để sờ. (P trước hết nói hạt giống lớn thành một cây leo mềm mại, dịu dàng, có lông và bám lấy cây sàla. Khi ấy vị thần cây nghĩ tại sao các thần cây bạn lại kéo đến an ủi mình trong khi chính mình thấy sự xúc chạm với dây leo này rất dễ chịu). Những cọng, cành, lá mềm mại khi chạm đến đem lại những cảm giác êm dịu. Cây leo phụ thuộc vào cây lớn này, trở thành những cọng lớn, có mắc và có lá chằng chịt bao quanh cây lớn, làm thành một mái che trùm lên nó. Khi cây leo đã phủ lên trên ngọn cây lớn, vị thần cây nghĩ: "Những thần cây trong làng... nó gặp được mưa lớnvà nẩy mầm rất nhanh. Vì hạt giống này, do hạt giống này, ta cảm thọ đau đớn khốc liệt, sự thống khổ cực kỳ gắt gao." (P: Cây leo bao trùm lấy cây sàla, làm thành một cái lọng ở trên nó, nảy sanh thêm vô số cây nhỏ, và mỗi cành lớn của cây sàla đều bị phá hủy. Khi ấy vị thần cây nghĩ rằng, bạn bè quyến thuộc của ông đã đúng khi báo cho ông biết về mối nguy của hột giống này).
3. Ẩn dụ trong bản P đơn giản hơn: Có nhiều trường hợp những ẩn dụ trong P đơn giản hơn trong C, như các trường hợp sau:
Trong NC4:
C87: "Như một thiếu nữ dòng Sát đế lợi, dòng Bà-la-môn, thiếu nữ của gia chủ, thợ thuyền, một thiếu nữ đoan chính, xinh đẹp, sau khi tắm rửa tẩy tịnh, thân mình xông hương phấn, mặc y phục sạch sẽ trong trắng. Nàng mang nhiều đồ nữ trang để tăng thêm sắc đẹp. Nếu có một người nghĩ đến cô gái ấy, mong cho cô được lợi ích, an lạc, bảo đảm và hạnh phúc. Người ấy lấy một vòng hoa sen xanh, hoa chiêm bặc, hoa tu ma na (hoa lài), hay hoa bà sư, hoa a đề mâu ca (đào hoa tâm) và tặng nàng tràng hoa ấy. Cô gái kia vui mừng nhận tràng hoa với cả hai tay, để đội lên đầu mà trang sức."
P5: Ẩn dụ ở đây đơn giản hơn. Nó nói trường hợp một phụ nữ hay một nam nhi, một thanh niên thích trang sức sau khi đã gội đầu. Nếu người ấy có được một tràng hoa sen hay hoa lài, hay hoa atimuttaka (đào hoa tâm), thì người con trai hay con gái ấy sẽ cầm tràng hoa với cả hai tay mà đặt lên đầu.
Trong NC18:
C193: "Như một rừng sàla trên một thửa đất tốt, người thợ rừng thông minh, thiện xảo, không lười biếng, tùy theo mùa mà nuôi dưỡng gốc các cây sàla. Người ấy thường xuyên xới đất, bón phân, và tưới nước cho chúng. Nếu nó quá cao, anh ta đào xuống cho sâu, nếu nó quá thấp, anh ta thêm đất. Nếu có cỏ hoang mọc gần cây, anh ta nhổ đi. Nếu những cây mọc chung mà cong quẹo, đầy gút mắc và không thẳng, anh ta nhổ quăng ra ngoài. Nếu có vài cành cong quẹo, anh ta cưa bớt. Nếu gần những cây ấy, có những cây sàla mới, mạnh mẽ, thẳng tắp, anh ta sẽ nuôi dưỡng chúng tùy theo mùa, thường xuyên xới đất thêm phân và tưới nước. Như vậy, rừng sàla trên mảnh đất tốt sẽ tăng trưởng xanh tốt và dồi dào."
P21: Không giống hẳn. Nó nói một rừng sàla lớn ở phụ cận một ngôi làng của một thị trấn. Rừng sàla này bị những cây leo ăn bám, xâm chiếm. Một số người vì muốn tốt cho khu rừng này, muốn nó được an ổn, nên chặt những cành bị cây leo ăn, kéo ra khỏi rừng. Nhưng những người ấy sẽ săn sóc cẩn thận những cành cây thẳng và lành mạnh. Nhờ vậy rừng sàla sẽ tăng trưởng xanh tốt dồi dào.
4. Ẩn dụ ở bản C đơn giản hơn: Trong vài trường hợp chúng ta thấy ẩn dụ trong C giản dị hơn. Như trong NC18:
C193: "Như một chiếc xe ngựa với người đánh xe ngồi trên. Ông ta cầm cương với bàn tay trái, bàn tay phải nắm một cây roi da. Người ấy điều khiển chiếc xe theo tám con đường chính và đạt đến bất cứ nơi nào mình muốn."
P21: Nó nói đến một chiếc xe thắng với những con ngựa giống tốt, đứng trên ngã tư đường, trên đất bằng phẳng, và một người đánh xe lão luyện sẵn sàng con roi. Một người đánh xe chuyên luyện ngựa, leo lên xe ấy, cầm cương trong bàn tay trái, và con roi trong bàn tay phải, người ấy có thể điều khiển chiếc xe đi xuôi đi ngược, đến bất cứ hướng nào tùy thích.
5. Những ẩn dụ không có trong bản P: Đôi khi có một vài ví dụ có trong C nhưng thiếu trong P. Như trong NC90
Trong C171: "Có bốn hạng người, một số không có dị thục báo mà như có, một số người có báo mà như không, một số không có báo và cũng có vẻ không có báo, một số có báo và cũng có vẻ là có báo. Cũng như có bốn hạng quả mít, một hạng không chín nhưng bề ngoài như đã chín, một số ngoài sống trong chín, một số ngoài sống trong sống, một số ngoài chín trong chín."
P136: Bản P nói đến nghiệp nhưng không nói đến người. Có những nghiệp vô hành và cũng có vẻ vô hành; có nghiệp vô hành nhưng có vẻ như có hành; có những nghiệp có hành và cũng mang vẻ có hành; có nghiệp có hành nhưng có vẻ như vô hành. Ẩn dụ ở đây không có.
6. Những ẩn dụ không có trong bản C: Đôi khi trường hợp xảy ra ngược lại, là bản C không có ẩn dụ, mà bản P tương đương thì có. Như trong NC8:
C98: Ở đây C nói đến giai đoạn trong việc quán thân khi vị Tỳ-kheo rõ biết hơi thở vào và thở ra. Nó bỏ ví dụ.
P10: Ở đây bản P thêm ví dụ một người thợ quay, rõ biết khi quay dài hay khi quay ngắn.
Trong NC74, P119 tiếp tục nói thêm rằng thân hành niệm lại được tu tập với tâm muốn đạt đến nhờ thắng trí, một thiền chứng này hay khác, thì vị ấy có thể đạt đến điều này và thân chứng bất cứ cảnh giới nào. Rồi bản P đưa ra ba ví dụ để làm rõ lời giải thích của Phật:
a) Như một bình nước đầy tràn đến nỗi một con quạ có thể uống được, và bình này được đặt trên một cái giá; nếu một người mạnh khỏe đi đến lay chiếc bình, có thể làm vãi nước ra ngoài.
b) Như một cái đê trên một mảnh đất bằng, bốn bờ được vây quanh bằng bờ đê. Con đê này đầy nước đến miệng, khiến một con quạ có thể uống nước. Nếu một người mạnh đi đến, có thể làm tràn nước ra.
c) Như tại ngã tư đường, trên một mảnh đất bằng, có một cỗ xe được thắng những con ngựa giống tốt. Một người đánh xe thiện xảo leo lên xe, tay trái cầm cương, tay phải cầm roi, có thể lái cỗ xe đi bất cứ nơi nào tùy thích.
|
|