|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:07:57 GMT -5
MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA) Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo) Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính, ấn bản 2003
MỤC LỤC CHI TIẾT
Tiểu sử Hòa thượng Giới Nghiêm Lời nói đầu Kệ lễ bái Tam bảo I. PHẦN DẪN NHẬP 1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà) 2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga) 2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ 2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN 2.3. Thấp thoáng bóng Sư Tử II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP 1. Danh 2. Con số hạ lạp 3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả 4. Thỉnh mời vào Hoàng cung 5. Cứu cánh của Sa môn hạnh 6. Tái sanh - Vô sanh 7. Chú tâm 8. Hành tướng của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng 9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y 10. Hành tướng của Tín 11. Hành tướng của Tấn 12. Hành tướng của Niệm 13. Hành tướng của Định 14. Hành tướng của Tuệ 15. Ngũ căn - riêng và chung 16. Tương quan thân trước và sau 17. Tái sanh và vô sanh 18. Trí tuệ 19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không? 20. Cảm thọ 21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh? 22. Không nên hỏi lại câu đã hỏi 23. Danh sắc tương quan liên hệ 24. Thời gian và không còn thời gian 25. Nguyên nhân của thời gian 26. Thời gian tối sơ? 27. Có rồi không! Không rồi có! 28. Pháp hành thì sao? 29. Tự nhiên sanh? 30. Tự ngã trong thân? 31. Nhãn thức và tâm thức 32. Hành tướng của Xúc 33. Hành tướng của Thọ 34. Hành tướng của Tướng 35. Hành tướng của Tác Ý 36. Hành tướng của Thức 37. Hành tướng của Tầm 38. Hành tướng của Tứ (hay Sát) 39. Lại hỏi về "Chú Tâm" 40. Những tâm sở đồng sanh 41. Về năm giác quan 42. Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp 43. Sớm ngăn ngừa điều ác 44. Lửa địa ngục 45. Nước dựa khí 46. Niết bàn 47. Ai sẽ đắc Niết bàn 48. Làm sao biết Niết bàn là tối thượng lạc 49. Có Phật không? 50. Phật là tối thượng tôn bảo 51. Phật tối thắng như thế nào? 52. Thấy Phật 53. Khi chết ngũ uẩn diệt theo 54. Vedagù? 55. Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp 56. Nghiệp trú ở đâu 57. Biết còn tái sanh? 58. Phật ở đâu? 59. Thương yêu cái thân? 60. Bậc toàn giác biết tất cả 61. Tại sao Phật không giống cha mẹ Ngài 62. Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri) 63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật? 64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược? 65. Tham luyến và dứt tham luyến 66. Trí tuệ ở đâu? 67. Luân hồi 68. Trí nhớ 69. Ai cũng có trí nhớ 70. Có bao nhiêu loại trí nhớ 71. Tương quan phước và tội 72. Diệt khổ chưa đến? 73. Cõi Phạm Thiên bao xa? 74. Thời gian tái sanh 75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia 76. Vào cửa nào để đầu thai? 77. Nhân sanh giác ngộ 78. Điều lành nhỏ, phước quả lớn. Điều ác lớn, tội báo nhỏ 79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ. Người ngu làm điều ác tội báo lớn 80. Bay bằng thân 81. Xương dài 100 do tuần 82. Biển 83. Ngưng hơi thở 84. Pháp xuất thế gian 85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu 86, 87. Thức, tuệ và sanh mạng 88. Thì giờ phải lẽ rồi 89. Phật và chư tăng ai phước báu nhiều hơn SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA 90. Lễ bái, cúng dường xá lợi, kim thân Phật, cây Bồ đề... không có phước 91. Đức Phật có toàn giác không? 92. Đức Thế tôn có tâm Đại bi hay không? 93. Nghi vấn về sự bố thí Ba-La-mật 94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn 95. Hoài nghi về sự thụ thai 96. Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại 97. Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không? 98. Đức Thế Tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa? 99. Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "tứ thần túc" để duy trì thọ mạng 100. Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được hoàn hảo? 101. Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tông làm thinh không trả lời? 102. Chúng sanh sợ hãi diêm chúa? 103. Tụng kinh Paritta thật không có lợi ích! 104. Oai lực của Đức Phật thua Ma vương? 105. Vì Đức Phật thuyết pháp mà làm cho sáu mươi vị tỳ kheo hộc máu. 106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng? 107. Giáo hội của Đức Tôn Sư có bị phân ly, chia rẽ không? 108. Tỳ kheo tạo nghiệp do không biết, tại sao lại không có tội? 109. Đức Thế Tôn có lãnh đạo, bảo quản giáo hội tỳ khưu không? 110. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc lục căn? 111. Sao Đức Thế Tôn có lời nói khiếm nhã? 112. Cái cây có tâm lý không? 113. Bữa cơm của Cunda có vấn đề! 114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai? 115. Quả đất dường như có tâm thức?
116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường? 117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắt đạo? 118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn? 119. Thế nào gọi là Sa-môn? 120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo? 121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ? 122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận! 123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn? 124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào? 125. Đời sống Sa-môn vô tư, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất 126. Tai sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng? 127. Đức Phật muốn che dấu Pháp? 128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối! 129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử 130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đương cự nổi thần lực của 131. Kiếp áp chót, tại cung trời Đảu suất, Đức Bồ-tát quán sát thế gian để 132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi? 133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại? 134. Quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng 135. Sự tà hạnh của người nữ? 136. Các vị A la hán còn sợ hãi? 137. Đức Phật dạy cắt đức sợ hãi? 138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng? 139. Đức Thế Tôn là người khai sáng Đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa? 140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn? 141. Tại sao có đắc quả nhanh, chậm khác nhau? 142. Về cư sĩ A-la-hán! 143. Tại sao bồ tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ? 144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa - mà bồ tát Jotipàla lại 145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm? 146. Tại sao có lúc Đức Phật lại xưng mình là Bà-la-môn, có khi xưng mình là 147. Tại sao không có hai Đức Phật xuất hiện một lần? 148. Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội thanh tịnh của Đức 149. Thân thọ khổ, tâm có thọ khổ? 150. Giải thêm về "tâm không động" 151. Người đã phạm "bất cộng trụ", xin tu lại, có đắc được đạo quả không? 152. Cư sĩ phá giới và sa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao? 153. Nước có sanh mạng chăng? 154. Trùng câu 141. 155. Trên thế gian này cái gì không sanh? 156. Bậc A-la-hán còn phạm giới? 157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh? 158. Trùng câu 157 159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa? 160. Tại sao Đức Thế tôn không cấm chế giới luật một lần? 161. Mặt trời có bệnh chăng? 162. Lại bệnh của mặt trời nữa! 163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con! 164. Chư Phật quá khứ có tu khổ hạnh không? 165. Năng lực của thiện và ác nghiệp cái nào mạnh hơn? 166. Hồi hướng phước có hiệu quả không? 167. Hồi hướng "ác" có được không? 168. Tại sao có chiêm bao? 169. Chết đúng thời và chết không đúng thời 170. Tại sao nhập Niết bàn lại có hiện tượng phi thường? 171. Chúng sanh nào có khả năng đắc đạo? 172. Niết bàn có xen lẫn khổ? 173. Tại sao không diễn tả Niết bàn một cách cụ thể? 174. Làm sao rõ Niết bàn? 175. Niết bàn không ở đâu cả! 176. Có ai thấy Phật không? 177. Đầu đà khổ hạnh có ích lợi gì? NHỮNG CÂU HỎI VỀ VÍ DỤ 178. Về con lừa 179. Về con gà 180. Về con sóc 181. Về con cọp cái 182. Về con cọp đực 183. Về con rùa nước 184. Về cái kèn 185. Về cây súng 186. Về con quạ 187. Về con khỉ 188. Về dây bầu leo 189. Về hoa sen 190. Về hạt giống 191. Cây Sàla xanh tốt 192. Về chiếc thuyền 193. Về ghe thuyền dính đá ngầm 194. Về cột buồm 195. Về người cầm lái thuyền 196. Về người làm công 197. Về biển cả 198. Về quả đất 199. Về nước 200. Về lửa 201. Về gió 202. Về núi 203. Về hư không 204. Về mặt trăng 205. Về mặt trời 206. Về trời Đế thích 207. Về chuyển luân Thánh vương 208. Về con mối 209. Về con mèo 210. Về con chuột 211. Về con bò cạp 212. Về con chồn 213. Về chó rừng 214. Về con nai 215. Về con bò 216. Về con heo 217. Về con voi 218. Về sư tử 219. Về vịt nước 220. Về chim Venàhikà mái 221. Về chim sẻ 222. Về chim cu 223. Về con rít 224. Về con dơi 225.Về con đỉa 226. Về con rắn 227. Về con trăn 228. Về nhện giăng lưới 229. Về hài nhi 230. Về rùa vàng 231. Về rừng 232. Về cây đại thọ 233. Về mưa 234. Về ngọc mani 235. Về người săn bắn 236. Về người câu cá 237. Về thợ bào gỗ 238. Về người thợ gốm 239. Về con quạ 240. Về cái dù 241. Về đám ruộng 242. Thuốc trị độc rắn 243. Về vật thực 244. Về người bắn cung III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP Kính cáo Thi điếu
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:11:54 GMT -5
I. PHẦN DẪN NHẬP
1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)
Sau khi Đức Thế Tôn tuyên bố sắp nhập Niết bàn, ngài cùng với một số đông tỳ khưu Tăng đến thành Kusinàra thuộc quốc độ Malla. Đến khu rừng mát mẻ, dừng lại dưới hai cội cây sàla tươi đẹp với bốn nhánh vươn cao và tỏa rộng, hoa nở rực rỡ và ngạt ngào hương, ngài bảo tôn giả Ananda xếp y tăng-già-lê rồi nói:
- Như Lai sẽ Niết bàn ở đây!
Thế rồi, Đức Thế Tôn nằm nghiêng lưng trên tảng đá bằng phẳng, đầu quay về phía bắc, mặt quay về phía tây. Chư tỳ khưu Tăng ngồi vòng quanh yên lặng như một rừng thiền định. Giữa tiếng chim ríu rít, vài cánh hoa rơi khẽ, bài pháp sau đây đã được Đấng Giác ngộ thuyết lên:
-"Này các thầy tỳ khưu! Như Lai nhắc nhở và căn dặn các thầy như vầy: tất cả pháp hữu vi đều không chắc thật, không bền vững. Tất cả các pháp hữu vi dầu thô thiển hay vi tế đều bị sự tác động của vô thường, biến hoại, đổi khác.
Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp, là phước tạo tác (punnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm của người và trời; nói cách khác, là nhân sanh sáu cảnh trời dục giới hoặc được làm người có phước báu sắc thân xinh đẹp, ít bệnh tật, ít khổ đau, nhưng nó cũng chẳng thường còn như ý nguyện mãi thế đâu!
Tất cả pháp hữu vi, nếu là ác pháp, là tội tạo tác (appunnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm và cảnh giới trong bốn đường dữ là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la. Vậy các thầy hãy cố gắng gìn giữ thân khẩu ý, ngăn giữ ác hạnh để khỏi chịu quả báo đau khổ về sau.
Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp thù thắng, là vô ký hay bất động tạo tác (ananjabhi sankhàra); là nhân của tầng trời sắc giới và vô sắc giới của các bậc tu hành đã đắc tứ thiền hay tứ không; cấu tạo nên thân tâm cõi trời phạm thiên hữu sắc và phạm thiên vô sắc. Tuổi thọ ở đấy thì vô lượng nhưng hết phước báu thiền định cũng phải bị đọa lạc như thường.
Vậy này các thầy tỳ khưu! Hãy tinh tấn chuyên niệm, chớ quên, chớ phóng dật, chớ giải đãi. Tử sinh là việc lớn. Hãy rèn luyện thân khẩu ý cho thanh tịnh. Hãy làm cho sung mãn tứ vô lượng tâm. Hãy qua khỏi bờ kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh trầm luân khổ đau sinh diệt nữa!"
Lúc Đấng Thập Lực (Dassapàlannana) dùng lời tối hậu huấn thị tỳ khưu Tăng với tâm bi mẫn như thế, biết là ngài sắp Tịch diệt Niết bàn, có một số sa môn tâm hãy còn phàm, đã không ngăn được sự ưu sầu, luyến tiếc đối với Đức Đạo sư, họ đã chảy nước mắt khóc than vô cùng bi lụy.
Đức Tòan Thắng Ma lại ân cần nói thêm rằng:
-"Này các thầy tỳ khưu! Hình như các thầy tưởng rằng khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ không còn ai là thầy dạy dỗ các thầy nữa chăng? Không phải thế đâu!
Này các thầy tỳ khưu! Pháp và Luật rất đầy đủ, Như Lai đã giáo giới đến các thầy rồi. Ba-la-đề-mộc-xoa (patimo-kkha) dành cho Tăng và Ni, Như Lai đã chỉ dạy cặn kẽ trong bộ Lưỡng phân biệt (ubhatovibhanga) rồi. Nhân có tội và nhân vô tội Như Lai cũng đã từng thuyết minh chi li, rõ ràng rồi.
Thinh Văn ba-la-mật tuệ, Như Lai cũng đã nói rồi.
Tuệ Đến-bờ-kia cho bậc Độc Giác và bậc Chánh Đẳng Giác, Như Lai cũng đã từng tán dương rồi. Và nào là Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như y túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo,Thất quả, Bát định, Cửu định.. . Như Lai cũng đã nhiều lần tuyên thuyết bằng những thời pháp, đoản ngôn, kệ ngôn, ví dụ, so sánh, giảng giải, phân tích ... khác nhau.
Vậy này các thầy tỳ khưu! Người nào thông hiểu pháp ấy, chứng ngộ pháp ấy được gọi là Thinh Văn đệ tử của Như Lai; là người có căn cơ mẫn tiệp, lanh lẹ, kiến trú vững chắc, tâm giải thóat, tuệ giải thóat không xao động.
Này các thầy tỳ khưu! Dầu Như Lai có diệt độ, nhưng Pháp và Luật ấy chính là thầy của các thầy, còn ở bên các thầy, làm nơi nương tựa và dẫn lối cho các thầy. Thế thì sầu thương, bi lụy có ích gì khi các pháp dẫu nhỏ nhiệm như mảnh lân hư trần, to lớn như Tu-di sơn cũng đều phải bị vô thường biến hoại?
Lại nữa, khi Như Lai Niết bàn rồi, ông Đại Ca-diếp sẽ mở hội kết tập lần đầu, trùng tuyên lại Pháp và Luật cho đầy đủ, tỏ rạng lên hầu nhắc nhở và mở mắt cho những tỳ khưu hư hỏng, phóng túng như ông Subhadda cùng những hoa ngôn, lộng ngữ, xuyên tạc Chánh pháp của chúng ngoại đạo.
Lại một trăm năm sau nữa, có vị trưởng lão A-la-hán có tên Yassa Kananda, vì hủy trừ lời nói của tỳ khưu Vajjiputtaka mà mở đại hội kết tập lần thứ nhì, trùng tuyên trọn vẹn Tam tạng Thánh điển.
Thế rồi, hai trăm mười tám năm sau kể từ khi Như Lai diệt độ, có tôn giả Moggaliputtatissa kết tập lần thứ ba, loại bỏ tất cả tư tưởng lai tạp của ngoại giáo, giữ nguyên lời dạy chơn truyền của Như Lai y như lần thứ nhất và lần thứ nhì. Sau đó nữa, tỳ khưu Mahinda, một vị Thánh Tăng, vốn là hoàng tử con của vua A-dục, đã đem ba tạng kinh truyền Chánh pháp vào xứ Tích-lan (Jampànidìpa).
Và khỏang chừng năm trăm năm sau kể từ hôm nay, có một đức vua tên là Mi-lan-đà, có nhiều phước duyên thù thắng (abhinihàra) đã tạo trữ từ xưa, dùng những câu hỏi rất cao siêu, vi tế, sắc bén bởi năng lực trí tuệ của mình để vấn đạo, bức bách các sa-môn, bà-la-môn trong toàn cõi Diêm-phù này, làm cho họ phải trốn vào rừng sâu.
Khi ấy, có một vị tỳ khưu tên là Na-tiên, có trí tuệ siêu phàm, đã giải đáp dễ dàng những câu hỏi, phá nghi những nạn vấn cho đức vua Mi-lan-đà bằng nhiều cách phân tích thiện xảo, nhiều ví dụ sinh động, cụ thể làm cho bậc minh quân vô cùng hài lòng. Nhờ vậy, Pháp và Luật của Như Lai đã không lu mơ, mà trái lại, càng thêm tỏ rạng, được trân trọng bảo lưu, truyền thừa trên thế gian tròn đủ 5.000 năm."
Như thế, vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên với những câu hỏi đáp giữa họ đã được Đức Thế Tôn tiên tri sẵn trước khi ngài nhập diệt.
Người ta nói rằng nước của năm con sông lớn của xứ Ấn-độ tuôn chảy về biển bao nhiêu lượng nước thì những câu hỏi của vua Mi-lan-đà cũng tuôn chảy liên miên, dồn dập không ngưng nghỉ như vậy. Tuy nhiên, nước của năm con sông lớn ra đến biển thì nằm yên trong biển, hòa tan trong biển, được biển kết nạp, dung chứa một cách bình thản như chẳng có vấn đề gì phải bận tâm. Cũng vậy, biển cả được ví như trí tuệ siêu phàm, vô lượng của đại đức Na-tiên. Do vậy, những câu hỏi dù khúc mắc, dù đặt bẫy, dù sâu rộng, dù vi tế thế nào của vua Mi-lan-đà, đều được ngài Na-tiên sẵn sàng giải đáp rành rẽ, khúc chiết bằng nhiều cách khác nhau. Một ngọn đèn cực lớn, ánh sáng quang minh chiếu diệu soi tỏ vào các chỗ tối tăm, hang hóc sâu kín như thế nào thì trí tuệ của đại đức Na-tiên cũng soi tỏ vào bóng tối hoài nghi, kiến thức đa diện của đức vua Mi-lan-đà y như thế ấy.
Quả thật, cuộc vấn đáp của hai bậc tài đức đã chứa chan sự thật, triết lý, tư tưởng và cả những ý nghĩa nhiệm mầu; khả dĩ nối được ngọn đèn Pháp Bảo giữa cõi mê đồ, vọng tưởng. Sự tranh biện và lập luận minh bạch, khúc chiết của hai ngài có sức hấp dẫn phi thường, làm cho người nghe, người đọc phát sanh phỉ lạc chưa từng có.
2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
Vào thời Đức Phật Ca-diếp (Kassapa), có đức vua tên là Vijjitàvì trị vì một vương quốc giàu mạnh, kinh đô đặt tại xứ Sàgala xinh đẹp. Đức vua là một cư sĩ có giới và có trí, cai trị quốc độ bằng mười vương pháp, sống với thần dân bằng bốn pháp tế độ.
Tại kinh đô ven sông, đức vua cho xây dựng một ngôi chùa lớn rồi dâng cúng đến các vị trưởng lão đạo cao đức trọng, suốt thông Tam tạng. Ngài hộ độ Chư tăng đầy đủ về tứ sự, hết tuổi thọ, hóa sanh làm Thiên chủ cõi Đao-lợi, gọi là Đế thích Thiên vương.
Ở ngôi chùa do đức vua bảo trợ này, chư tỳ khưu Tăng rất đông đúc, duy trì pháp học và pháp hành một cách nghiêm túc và không gián đoạn. Trong chúng, có vị tỳ khưu giới hạnh trong sạch, hằng ngày tu tập thiền quán. Mỗi sáng, ngài thường thức dậy sớm, lễ bái Tam Bảo, quán tưởng ân đức Tam Bảo, tọa thiền, kinh hành rồi đi quét dọn xung quanh chùa. Công việc ấy ngài làm một cách lặng lẽ và chuyên cần.
Hôm kia, vị tỳ khưu quét lá quanh Bảo tháp, gom lại thành đống rồi gọi chú sa di phụ việc hốt đem đổ đi.Chú sa di ngày thường rất ngoan ngoãn, nhưng hôm ấy lại sanh tâm lười biếng, giả vờ không nghe. Gọi đến lần thứ ba, thấy chú sa di vẫn cứng đầu, vị tỳ khưu bèn bước tới, đánh cho chú mấy cán chổi khá đau. Thế là chú sa di vừa khóc vừa hốt rác, lòng ấm ức vô cùng. Công việc xong xuôi, chú sa di phát lời nguyện rằng:
-"Với phước báu đổ rác này, nếu chưa đắc được Niết bàn, dù sanh vào cảnh giới nào, cũng xin cho tôi có đầy đủ quyền cao, chức trọng mà oai lực của tôi sẽ thù thắng hơn tất cả mọi người, như mặt trời vĩ đại ở giữa hư không kia vậy."
Nguyện xong, hể hả và vui sướng, chú sa di đi xuống sông tắm. Khi bơi lội nhởn nhơ trong nước, thân tâm mát mẻ, chú sa di cảm thấy hối hận, tự nghĩ:
-"Thầy tỳ khưu bảo ta hốt rác, đấy chẳng phải là phận sự bắt buộc, chẳng phải là việc riêng của ngài; cũng chẳng phải là lợi ích cho các thầy A-xà-lê, cũng không phải nhằm phục vụ cho các vị thượng tọa, hòa thượng của ngài. Vậy đích thị ngài đánh ta là muốn tế độ ta, muốn đánh vào cái tính lười biếng và cứng đầu của ta! Ôi! Vì u mê mà ta tự làm hại ta rồi."
Vẫn còn ngâm mình dưới sông, nhìn những lượn sóng như vô tận đuổi nhau đến tận bờ xa, chú sa di tâm cơ máy động, phát lời đại nguyện:
-"Vì thiếu trí tuệ mới sinh lười biếng, cứng đầu, sinh những nhận thức sai lầm, nông nổi. Vậy thì với tất cả những phước đức tu tập của tôi, phước đức đổ rác bấy lâu nay, phước đức thấy mình lầm lỗi, xin nguyện rằng: nếu chưa đắc quả Niết bàn, hãy cho tôi được trí tuệ nhiều vô biên vô lượng như những làn sóng vô tận của con sông này."
Đang trên bến, cũng định xuống sông tắm, vị tỳ khưu nghe được lời phát nguyện đầy quyết tâm vững chắc của chú sa di, chột dạ, nghĩ thầm: "Không kể chút lầm lỗi sáng nay, chú sa di này từ lâu tu tập rất tốt, có hạnh kiểm và có trí. Vậy với lời nguyện sắt đá này, chú sa di hẳn sẽ thành tựu dễ dàng." Trầm ngâm hồi lâu, vị tỳ khưu nghĩ tiếp:"Trong lời nguyện của chú sa di, vừa có cái gì đó như phục thiện mà cũng vừa có cái gì đó như đối chọi lại với ta? Nhưng bản chất của chú sa di này ngủ ngầm sự cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn. Vậy nếu lời nguyện kia mà thành tựu thì trên thế gian này có ai đủ khả năng trí tuệ để kềm bớt trí tuệ của y?".
Vì thế, vị tỳ khưu cũng chấp tay lên đầu, hướng giữa thinh không, phát lời đại nguyện:
-"Với tất cả mọi công đức tu tập của tôi, công đức quét rác bao nhiêu năm, nếu tôi chưa đắc quả Niết bàn, xin cho tôi được thành tựu trí tuệ bất khả tư nghì. Trí tuệ ấy phải đầy đủ năm tính chất sau đây:
- Nhiều như sóng của con sông đại Hằng.
- Vững chắc và kiên định như hai bờ của con sông này.
- Thấy rõ gốc ngọn tất cả các pháp.
- Quang minh, sáng sủa.
- Quảng bác, thâm sâu, sắc bén.
Mong nhờ trí tuệ bất khả tư nghì ấy, có thể kiềm chế, phá nghi, soi rọi, dẫn dắt chú sa di đi đến nơi giác ngộ, giải thóat."
Cả hai vị tỳ khưu và sa di, với lời nguyền ấy, sau khi tan rã ngũ uẩn, họ đều được sanh làm người, làm trời trọn thời gian giữa hai vị Phật. Đến lúc Phật Thích-ca Niết bàn gần năm trăm năm, vị tỳ khưu thuở xưa từ cõi trời giáng hạ làm Na-tiên tỳ khưu; vị sa di sanh làm vua Mi-lan-đà ở kinh thành Sàgala đúng với lời nguyện của họ.
2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ
Ông người gốc Hy-lạp, là một viên đại tướng lừng danh, vô địch, theo đoàn quân viễn chinh xâm lăng Ấn-độ. Sau khi đã đặt nền thống trị trên một đế quốc rộng lớn, viên thủ lĩnh bị giặc giết, ông lên kế vị làm vua, đóng đô tại Sàgala.
Sàgala là vùng đất nằm ở thượng lưu năm con sông, dưới chân Hy-mã-lạp-sơn, với núi non hùng vĩ bao quanh, sông dài uốn khúc tạo nên một khung cảnh xinh tươi trù phú và thạnh mậu.
Xuất thân là một tướng lãnh thao lược, bách chiến bách thắng, bá quyền từ lưu vực sông Hằng đến các bờ cõi miền đông, từ cửa sông miền nam giáp biển đến tận chân Hy-mã-lạp-sơn, nhưng đức vua ấy luôn phòng thủ không một chút lơ là. Hoàng cung được bảo vệ với những thành trì kiên cố, vững chắc, được đào hào sâu rộng bao bọc xung quanh, những cổng thành bằng đá to lớn luôn luôn được đội quân uy nghi với gươm đao, cung nỏ túc trực sẵn. Nhờ vậy, không một kẻ thù nào dám quấy nhiễu, không một kẻ nghịch nào dám manh tâm thoán đoạt.
Giữ yên bên ngoài, nhà vua lo việc bên trong, chăm lo đến cơm no áo ấm cho muôn dân. Kế hoạch phát triển đất nước, nhà vua chú trọng nông nghiệp, có chính sách khuyến nông đúng đắn và hữu hiệu. Các ngành nghề lao động, thủ công đều được tuyên truyền, vận động, cổ súy nâng cao. Không bao lâu sau, đất nước này sống đời thái bình và thịnh trị, giàu mạnh và hùng cường.
Kinh thành Sàgala đặc biệt rất huy hoàng và tráng lệ. Các lối đi đều được lát đá. Nam nữ có lối đi riêng. Ven đường có nhà mát, nhà nghỉ, có cây to bóng mát. Điểm xuyết đó đây rất nhiều ao hồ, rất nhiều vườn cây. Ao hồ thì nuôi đủ thứ cá sắc màu đẹp đẽ. Vườn cây trồng kỳ hoa dị thảo, nuôi muôn chim, muôn thú hiền lành. Ngoài ra, dinh thự, đền đài, phố xá, cầu kỳ, đại hí trường, tiểu hí trường được xây dựng, kiến thiết cao sang và mỹ lệ. Từ Hoàng cung, ánh đèn chói sáng trăm màu rực rỡ, nhạc ca, vũ điệu dặt dìu ngày đêm hoan lạc. Hoàng gia ăn vận như thiên tướng, thiên nữ cõi trời, với xe hai ngựa, bốn ngựa, kiệu... qua lại tấp nập. Các vị sa môn, bà la môn, đạo sĩ thong dong lui tới đó đây, hoàn toàn được tự do, được tôn trọng, lễ bái, cúng dường... Dân chúng ăn mặc đẹp đẽ, trang trí vòng hoa, trân châu, lũ lượt tới các điểm giải trí, vui chơi ở các nơi công cộng và hí trường.
Đây là thời đại cực thịnh của kinh đô Sàgala.
Hoàng cung có nhiều kho vàng, kho bạc, kho đồng, kho gạo, kho vải vóc, lương thực, giáo mác, cung tên, thuốc nổ v.v.., những loại ngọc cực qúi như ngọc mànì, nhà vua cũng có rất nhiều. Các loại vải, gấm, lụa trứ danh như kasila, udubara, koseyya... là thứ dùng hằng ngày của hoàng gia.
Kinh thành của đức vua Mi-lan-đà hưởng phước cực kỳ sung sướng, được ví như Bắc-cu-lưu-châu hoặc như huê viên Alakam Manda ở cõi trời cũng không ngoa vậy.
Về quốc độ thì như thế, còn về cá nhân thì ngài có sức học uyên thâm, tài cao chí lớn, lại là người rất đạo đức nên được quần chúng tôn sùng, ngưỡng mộ. Tài liệu sử sách còn ghi lại đầy đủ về con người của vị vua ấy như sau:
- Đệ nhất về của cải, tài sản. - Đệ nhất về quân binh như voi, ngựa, xe... - Đệ nhất về trí tuệ. - Đệ nhất về học giả. - Đệ nhất về thông minh. - Đệ nhất về sức mạnh, quyền uy. - Đệ nhất về giọng nói trầm hùng, êm dịu. - Đệ nhất về hiểu biết các tôn giáo, nhất là Phật giáo. - Đệ nhất làm chủ trí thức và cảm xúc của mình. - Đệ nhất về bác học.
Đã vậy, đức vua còn thông suốt 18 môn học nghệ:
1. Học tiếng muôn thú để đoán định tốt xấu, lành dữ. 2. Học về đất đai, núi non, thảo mộc. 3. Toán học. 4. Biết rõ tất cả các nghề thợ. 5. Võ học. 6. Triết học, thắng luận. 7. Thiên văn. 8. Âm nhạc 9. Y khoa. 10. Nghệ thuật bắn cung. 11. Khảo cổ học. 12. Lịch sử, truyện tích, khẩu ngữ. 13. Khoa tử vi. 14. Rành rẽ về phân kim (biết vàng ngọc thật, giả). 15. Học về vật lý. 16. Học về chăn nuôi, nông nghiệp, làm vườn. 17. Binh pháp. 18. Văn học: sử truyện nhân gian, cú pháp, thể luật, văn thơ...
Toàn cõi châu Diêm-phù-đề khó tìm ra một nhân vật trí tài như vậy.
* * * * *
Hôm kia, sau công việc triều chính mệt mỏi, đức vua cùng đoàn quân ngự giá ra khỏi hoàng thành du ngoạn. Đến một chỗ phong cảnh tươi thắm, hữu tình, đức vua ra lịnh dừng lại, xuống xe, ngài thong dong cất bước đi dạo.
Ngồi nghỉ chân nơi một tảng đá, dưới tàn đại thụ mát mẻ, đức vua ngước nhìn lên trời cao. Giữa bầu trời xanh biếc dịu dàng, một vầng thái dương rực rỡ, huy hoàng, ngự trị giữa hư không lồng lộng. Đức vua nhìn mặt trời rất lâu, đoạn nói chuyện với viên tướng hộ giá:
- Này khanh! khanh có thấy mặt trời kia không?
- Tâu, có thấy!
- Nó trấn ngự giữa hư không một cách đầy uy lực, bất khả xâm phạm, khanh có cảm nghĩ thế chăng?
- Dạ, thưa có, tâu Đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vỗ vai viên tướng một cách thân mật, cảm thán nói rằng:
- Mặt trời rực rỡ kia là chúa tể của hư không. Trí tuệ quang minh là chúa tể của chúng sanh các loài trong tam giới. Khanh đã từng tòng chinh theo trẫm đi đây đi đó nhiều nơi; khanh cũng đã từng mang lệnh của trẫm đi khắp kinh thành cùng các biên trấn xa xôi. Vậy khanh hãy cố nhớ cho thật kỹ, xem có vị sa môn, bà-la-môn nào là bậc đại trí thức, thống hiểu kinh pháp, làu thông kinh pháp; hoặc là người đã tự mình tuyên bố, rằng là, đã đắc quả A-la-hán, đắc quả Phật? Trẫm muốn diện kiến họ, đối thoại với họ hầu tăng trưởng kiến thức và trí tuệ. Nào, khanh hãy cố nhớ lại xem?
Quả là thầy nào trò nấy, đức vua kiến thức uyên thâm thì viên tướng hộ giá thân tín kiến thức cũng uyên thâm. Sau một hồi suy nghĩ chín chắn, viên tướng tâu:
- Trước đây rất lâu xa, khi theo hầu chân ngựa của bệ hạ đi vào xứ sở tôn giáo huyền bí này, hạ thần có nghiên cứu qua sử sách tôn giáo của dân bản địa. Mấy ngàn năm trước đây, tu sĩ bà-la-môn thọ trì và phụng hành theo kinh điển Phệ-đà; và có thể nói rằng, tôn giáo này đã nắm độc quyền toàn bộ sinh hoạt tinh thần của xã hội Ấn. Nhưng cách đây gần năm trăm năm, bộ tộc Sakya, dòng dõi Thái dương anh hùng, đã xuất sanh được một vị Phật tên hiệu Sĩ-đạt-ta Cù-đàm, thì truyền thống ngàn đời của bà-la-môn bị lung lay đến tận nền móng. Hiện tại ở xứ sở này còn tồn tại đạo Phật ấy, đồng thời, tồn tại sáu tông phái ở trong và ngoài truyền thống Phệ-đà...
Đức vua Mi-lan-đà khen ngợi và mắng yêu người bề tôi trung tín:
- Khanh thật giỏi, nhưng dài dòng quá. Chuyện ấy thì trẫm cũng biết. Hãy nói tóm gọn coi nào?
- Dạ - Viên tướng kính cẩn cúi đầu - Sáu vị giáo chủ ấy là: Pùrana Kassapa, Makkhalìgosàla, Niganthanàtaputta, Sanjayabelatthaputta, Ajitakesakambala, Bakuddhakaccày- ana. Và hiện nay, trong kinh thành có mặt môn đệ của sáu danh sư ấy đang triển khai tông giáo, danh tiếng lẫy lừng, đồ chúng rất đông. Họ đều không phải là người thiểu trí mà toàn là bậc thầy thiên hạ. Họ được mọi người cung kính, cúng dường, tôn trọng. Bệ hạ có thể nào đến viếng họ, đáp vấn với họ vài điều xem thử có chút kiến thức bổ dưỡng nào chăng?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười hài lòng:
- Được lắm, khanh bàn rất hợp ý trẫm.
Thế rồi, người đầu tiên mà đức vua Mi-lan-đà đến diện kiến là một vị chân sư, kế thừa giáo chủ Puràna Kassapa. Sau khi yên vị chủ khách, đức vua kính cẩn hỏi rằng:
- Bạch thầy, chúng sanh đầy khắp trong ba cõi, có sanh mạng, có y báo, có chánh báo, có đời sống giống nhau, khác nhau, có sanh, có tử, có xuống, có lên... ở trong một luật tắc nào đó. Vậy thầy có thể nào cho biết cái gì nuôi dưỡng chúng và hộ trì chúng?
Vị chân sư mau mắn đáp:
- Tâu đại vương! Đại vương hãy nhìn xem núi sông, muôn loài và cây cỏ; tất cả chúng có được từ đại địa, lớn lên, trưởng thành từ đại địa! Vậy rõ ràng chúng sanh được nuôi dưỡng, được hộ trì bởi đại địa là điều quá hiển nhiên rồi!
Đức vua giả vờ mỉm cười, gật đầu, rồi dường như hỏi sang chuyện khác:
- Cảm ơn thầy! Chẳng hay giáo lý của thầy có nói đến những chúng sanh thống khổ ở các cõi địa ngục và ngạ quỷ chăng?
- Thưa có, tâu đại vương!
Đức vua bây giờ mới tỏ vẻ giận dữ, phất tay áo
đứng dậy:
- Vậy mà thầy dám bảo quả đất nuôi dưỡng và hộ trì chúng sanh? Quả đất nuôi dưỡng, hộ trì chúng sanh sao lại để cho chúng sanh đọa lạc vào các cảnh giới địa ngục và ngạ quỷ đầy thống khổ và đau thương dường ấy?
Vị chân sư nín lặng.
Đức vua Mi-lan-đà cảm thán: "Chẳng lẽ nào chân sư thiên hạ mà hoang vu và rỗng không như thế này sao?"
Viên võ tướng thấy vua buồn bã , lựa lời khôn khéo nói:
- Kinh đô của Đại vương còn nhiều vị danh sư khác nữa, biết đâu trong số họ sẽ có người làm vừa lòng Đại vương?
Nghe lời, lần này đức vua Mi-lan-đà tới thăm viếng vị danh sư môn đệ của giáo chủ Makkhalìgosàla. Sau vài câu xã giao khách sáo, đức vua đi vào đề:
- Bạch thầy, giáo pháp của thầy quan niệm như thế nào về thiện, ác? Có nhân và có quả của thiện nghiệp và ác nghiệp chăng?
Vị danh sư trả lời:
- Chẳng có đâu, tâu Đại vương! Chẳng có thiện nghiệp và ác nghiệp. Quả tốt xấu của thiện nghiệp, ác nghiệp ấy cũng không. Theo giáo pháp mà bần đạo đã tuyên thuyết thì người nào sanh ra trong thế gian này được làm vua, khi chết sanh vào nơi khác cũng làm vua y như thế. Tương tự, nếu đời này là bà-la-môn, thương gia, nông gia, kẻ hạ tiện candàla, người đói khổ... khi tứ đại rã tan, tái sanh vào cảnh giới khác cũng sẽ làm bà-la-môn, thương gia, nông gia, kẻ hạ tiện candàla, người đói khổ giống như vậy. Chẳng có quả phước, quả tội tham dự vào đấy để tạo nên vui hay khổ cho chúng sanh cả.
Đức vua đã cảm thấy bực mình nhưng vẫn nhẫn nại hỏi tiếp:
- Nếu không có quả phước tội, kiếp này giống kiếp kia thì chắc hẳn tướng mạo của chúng sanh vẫn không thay đổi?
- Đúng là vậy, tâu Đại vương!
- Ví dụ, tướng mạo một người xấu xí, tật nguyền hẳn kiếp sau cũng xấu xí, tật nguyền?
- Thưa vâng, tâu đại vương!
- Một tội nhân bị hành hình chặt tay, cưa chân, bị treo cổ, bị chém đầu; kiếp sau sinh ra cũng phải bị chặt tay, cưa chân, bị treo cổ và bị chém đầu như thế?
Vị danh sư gục gặc đầu:
- Quả đúng vậy, tâu đại vương!
Vua Mi-lan-đà vẫn trầm tĩnh, chậm rãi nói:
- Vậy muốn cho trẫm chấp nhận luận điệu ấy, thầy phải bằng mọi cách giảng giải, phân tích, so sánh, ví dụ minh bạch, cụ thể... cho trẫm nghe với nào?
Vị danh sư im lặng.
Đức vua bèn phản công:
- Thầy không đưa ra được à? Thầy chẳng có cách gì để bảo vệ cho giáo pháp của mình được à? Thế thì chẳng khác gì thầy đã nói dối? Đã võ đoán? Chỉ thuần túy là suy luận chứ không dựa trên một sự thật nào cả?
Vị danh sư cúi đầu bối rối.
Đức vua dằn mặt:
-Trẫm đã hỏi thầy một cách rất nghiêm túc, rằng là có nhân quả của các nghiệp thiện ác hay không! Câu hỏi ấy, đáng ra phải được trả lời rất là dè dặt, cẩn trọng, vì nó ảnh hưởng to lớn đến đạo đức con người, đến hạnh phúc của toàn xã hội. Thầy là một kẻ vô trách nhiệm, thiểu trí, không có lương tri, không có trái tim; không thấy, không biết lại dám đưa ra thuyết thường kiến làm băng hoại nhân luân và đức lý trần gian! Trẫm tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tôn trọng sự lập tông, khai giáo, tự do diễn thuyết, tự do ngôn luận và bảo vệ cả những tự do ấy. Nhưng thầy hãy tự xét lại, suy gẫm lại giáo pháp của thầy có thật sự hữu ích cho cuộc đời này không? Cái chủ trương của thầy với những quan kiến phi
đạo đức ấy có phải là tung bóng tối va khổ đau lên cuộc đời vốn đã tối tăm và đau khổ này không?
Đức vua Mi-lan-đà giận run nhưng vẫn làm chủ được tư tưởng và cảm xúc của mình, không nói gì nữa, ngài lặng lẽ bỏ về hoàng cung, lòng vô cùng sầu não.
Ít hôm sau, nỗi buồn lắng xuống, đức vua lại ẩn nhẫn lặn lội đi đến giáo phái môn đệ của Niganthanàtaputta. Rồi lần lượt là môn đệ của Sanjavabelatthaputta, môn đệ của Ajitakesakambala, môn đệ của Pakuddhakaccàyana. Nhưng đức vua hoàn toàn thất vọng. Kẻ với thuyết hoài nghi, bất khả tri; kẻ với thuyết nguyên tử, những con số; kẻ với thuyết nhất nguyên vô ngã hay hữu ngã v.v..., chẳng có giáo chủ, chân sư nào làm cho trí tuệ của đức vua hài lòng.
Chán nản, đức vua lại quay qua chính sự, tìm quên trong công việc, đọc kinh sách, suy gẫm, trầm tư; nhưng nhà vua vẫn không chấm dứt được sự thao thức, xao xuyến và những nghi vấn về cuộc đời. Có một cái gì đó rất bí mật, rất huyền nhiệm đằng sau sự sống, sự chết của con người! Hiện tại trong tay đức vua có đầy đủ tất cả mọi quyền lực. Ngài đã từng là một tướng lãnh bất khả chiến bại, là một vị đế vương oai hùng chẳng ai dám sánh. Mọi kẻ thù đều cởi giáo quy hàng. Mọi lân bang đều triều phục. Quốc khố sung mãn châu báu, sung mãn khí giới, vật thực. Quân binh, voi, ngựa, xe kiêu hùng và vô địch. Danh vọng cao sang phủ trùm mọi châu lục. Thế nhưng, nhà vua vẫn cảm thấy trống không, cô đơn, vô nghĩa lý. Những vấn nạn không cơ hóa giải vẫn ngày đêm nhức nhối khối óc và trái tim của ngài. Có cái gì đó không bao giờ với tới được, chập chờn, ma mị, khuấy rối cả trong giấc ngủ của vị đế vương.
* * *
Nhân một đêm trăng sáng, đức vua Mi-lan-đà đi thơ thẩn dạo chơi trong vườn thượng uyển. Một làn gió mát mẻ thoảng qua, hương thơm vi diệu của nhiều loài hoa cực quý đưa tới. Đức vua cảm thấy tinh thần thư thái, ngài bước đi lặng lẽ dưới ánh trăng vằng vặc, lại suy nghĩ:
- "Ôi! Đêm thanh, trăng tỏ, gió phơi phới mát lành, hương kỳ hoa thơm ngát...! Vậy đây đâu phải là thời mà ta dạo chơi trống không vô vị như thế này? Đây là thời phải lẽ nhất để cho ta đi hỏi đạo nơi các bậc thượng sĩ, đạt đức, cao nhân! Nhưng mà môn đệ của sáu giáo chủ hữu danh nhất trong thiên hạ, ta đã gặp rồi. Những lời giải đáp của họ không làm cho lỗ tai ta hoan hỷ; không làm cho trái tim của ta bao dung, dịu dàng; không làm cho trí óc của ta được cởi mở, khoan khoái. Cái trí tuệ và mớ kiến thức nhạt nhẽo của họ không xứng đáng để ta mất thì giờ vô ích.
Ôi! Vậy cõi Diêm-phù-đề này còn bậc đại ẩn sĩ nào chăng? Quốc độ này chẳng lẽ không có một sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ nào thành đạt trí tuệ cao thượng quả vị A-la-hán, quả vị Phật ... để ta đến thăm viếng, cung kính, lễ bái, tôn trọng, cúng dường hay sao? Chẳng còn ai phá nghi cho ta, giảng giải những chỗ uyên áo, tế vi mà ta hằng thao thức hay sao? "
Hôm kia, sau buổi thiết triều, đức vua ân cần đem tâm sự trên nói với bá quan, nhưng mọi người chỉ lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau.
Một vị lão thần tâu:
- Ngoài sáu phái hữu danh ở trong và ngoài truyền thống Phệ-đà, còn có đạo Phật rất thịnh hành, chùa chiền và Tăng lữ đông đúc, chẳng hay...
Đức vua khoát tay, đứng dậy:
- Khanh đừng nói nữa! Hầu như trẫm đã đi thăm viếng hết rồi tất cả những ngôi chùa hữu danh, sa môn hữu danh...! Kẻ thì tinh thông pháp học nhưng không có pháp hành, người thì chuyên về pháp hành, không biết gì về pháp học. Nhưng những pháp học của họ cũng khả nghi bởi những kiến thức chắp vá, vay mượn từ nhiều chủ thuyết khác nhau. Đa phần là hữu danh vô thực hoặc có chút kiến thức chứ không có trí tuệ. Nói tóm lại, thật là hoang vu và rỗng không trong các tu viện, tự viện, am thất, chùa chiền... Hầu hết là cái giá áo, túi cơm; xuất gia tu học chỉ để thừa tự tài lộc, vật thực... mà thôi!
Nói xong, nhà vua thở dài.
Thế rồi, bắt đầu từ dạo ấy, miệng truyền miệng, tai truyền tai, thủ đô Sàgala vắng bặt không còn một sa môn nào dám lai vãng. Sáu phái hữu danh lập căn cứ địa mấy trăm năm ở đây cũng "chuồn" về phương khác. Tất cả chùa chiền, am thất... trống không Tăng lữ, và thiện nam tín nữ, theo đó chẳng còn ai tới lui.
Suốt mười hai năm ròng rã, nghe đâu có bậc đại trí là đức vua tìm đến, rồi sau đó lặng lẽ trở về với bước đi nặng nề hơn, phiền muộn hơn.
Các sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ lần lượt bỏ kinh đô Sàgala cùng đế quốc của đức vua, tìm chỗ khác trú thân hoặc ẩn trốn vào non sâu tuyết lãnh.
Ai cũng sợ đức vua Mi-lan-đà tìm đến hỏi đạo!?
2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
Trong lúc ấy, tại Hy-mã-lạp-sơn, ở hang động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như cõi trời, có mấy chục vị A-la-hán ngụ cư, họ sống tương ái, tương kính, hòa hợp như nước với sữa, đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Hôm kia, sau khi xuất định, vị đại trưởng lão Assagutta hướng tâm đến thế gian, ngài thấy rõ chuyện đức vua Mi-lan-đà đã dùng uy lực của trí tuệ, uy lực của kiến thức đa diện áp đảo sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu tình trạng ấy kéo dài thì Phật pháp chắc sẽ bị lu mờ và tiêu vong.
Hôm kia, đại trưởng lão Assagutta triệu thỉnh tất cả chư vị A-la-hán tụ tập trên đỉnh núi Yugandhara, kể lại chuyện vua Mi-lan-đà, tình trạng Chư Tăng, các hàng cận sự nam nữ vắng mặt trong tất cả chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:
- Vậy thì có vị đại đức nào có thể nhiếp phục đức vua bằng trí tuệ của mình, có thể giải đáp tất cả mọi câu hỏi để phá nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy rõ chánh pháp; làm cho đức vua ấy phát khởi lòng tin để nâng đỡ, hộ trì Phật giáo thì hãy đứng lên nhận lãnh sứ mạng cam go này?
Đại trưởng lão Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội chúng thánh nhân vẫn im lặng. Ngài biết rằng chư vị A-la-hán này thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát nhưng sở học, kiến thức, tuệ phân tích, biện tài, biện thông...chẳng thể nào so sánh nổi với đức vua Mi-lan-đà, bèn gợi ý:
-Trên cõi trời Đao-lợi có một vị thiên tử tên là Mahàse--na, ở trong cung vàng Ketumatì, phía trước bảo điện của Đế thích Thiên chủ. Vị thiên tử Mahàsena ấy có trí tuệ vượt bậc, có thể đàm luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua Mi-lan-đà.
Ngài đại trưởng lão vừa nói xong, với tâm biết tâm, tất cả Thánh chúng A-la-hán đồng từ giã tuyết lãnh, bay lên Đao-lợi thiên cung với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay.
Đức Đế-thích trông thấy chư tỳ khưu Tăng như đám mây lành đồng giáng hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ bên chân đại trưởng lão Assagutta, bạch rằng:
-Hôm nay, chẳng hay quý ngài có nhân duyên gì mà đồng vân tập về trú xứ của con? Con đang sẵn sàng nghe lời dạy bảo của quý ngài.
Đại trưởng lão Assagutta bèn kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà , với nỗi lo ngại sự suy tàn của giáo pháp, vì trong toàn cõi Diêm-phù-đề chẳng ai có khả năng đối thoại được với đức vua ấy.
Vua trời Đế thích nghe xong, hỏi rằng:
- Đức vua Mi-lan-đà ở kinh đô Sàgala kia, phải chăng vừa từ cõi trời Đao-lợi này mà sanh xuống?
- Đúng thế!
Vua trời Đế thích gật đầu:
- Vậy thì đúng rồi! Trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà quả thật thế gian không có người "thứ ba"!
Đại trưởng lão Assagutta mỉm cười:
- Bần tăng cũng biết vậy nên đã đồng quy tụ về đây, những mong Thiên chủ giúp đỡ triệu thỉnh thiên tử ở trong cung vàng Ketumatì giáng sanh xuống cõi trần! Chỉ có vị thiên tử ấy may ra mới có đủ trí tuệ sắc bén để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đà mà cứu nguy cho chánh pháp.
Đế thích Thiên chủ nói:
- Con xin vâng mệnh. Vậy xin cung thỉnh qúi ngài cùng với con sang cung điện của thiên tử Mahàsena.
Đến nơi, sau khi chào hỏi xong, Đế thích Thiên chủ giới thiệu chư vị Thánh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà rồi kết luận rằng:
- Quý ngài đã không quản tuổi già sức yếu, cỡi gió đạp mây lên đây với lòng thành thỉnh nguyện thiên tử hạ sanh cõi trần, ở đấy Phật giáo đang gặp nạn, phải nhờ trí tuệ của thiên tử may ra mới phục hưng được chánh giáo.
Thiên tử Mahàsena nghe xong, với tâm dửng dưng nhìn ra xa đáp:
- Tâu Thiên chủ! Hạ thần không còn một mảy may xúc động tham muốn gì trong việc tái sanh kia nữa. Vả, cõi người thường bận rộn trong việc nuôi mạng, vui ít khổ nhiều, lại đầy trược hạnh. Vậy xin Thiên chủ rộng lòng thông cảm, hạ thần đã chán sinh tử, thường mong hóa sanh vào các cõi tịnh cư, đắc thánh quả rồi Niết bàn luôn ở đấy.
Đại trưởng lão Assagutta lên tiếng thuyết phục:
- Thiên tử nói rất đúng! Tử sinh đáng chán, phiền não nên lìa. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ cùng cốc, chuyện thế gian thật không còn dính một hạt bụi, đáng ra là phải Niết bàn lâu rồi, nhưng còn cố duy trì thọ mạng là vì một chút nhân duyên với chánh pháp. Phật tổ xuống trần cũng vì sự khổ đau của sanh loại. Lẽ nào thiên tử lại làm ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn vào rừng sâu? Bao nhiêu am thất, chùa chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự nam nữ không có chỗ nhờ nương? Lẽ ra thiên tử phải phát tâm bi mẫn mới đúng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thiên là nơi thọ hưởng về quả của định tứ thiền, chẳng phải là nơi có thể tu tập sung mãn về phước, về tuệ, để đến chỗ giải thoát; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, không tu tập mà dòng tâm vẫn trôi chảy về Niết bàn. Sự thật ấy thiên tử nên hiểu cho chính xác. Chính ở cõi người có khổ, có vui, có vô thường, vô ngã, v.v... thiên tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện quán để chứng ngộ đạo quả tối hậu là sở nguyện đã muôn triệu năm của thiên tử vậy.
Lời nói đầy đủ tình lý, kinh cảm từ tâm, mở phơi chánh đạo, làm cho thiên tử Mahàsena vô cùng phấn khích, ngài qùy xuống dưới chân đại trưởng lão Assagutta, kính cẩn nói rằng:
- Vậy là ngài đã mở mắt và soi tỏ con đường cho con đi, ân đức ấy con chẳng thể nào đáp đền được; con nguyện thực thi theo lời dạy bảo của ngài hạ sanh xuống cõi trần vì lợi ích cho bao người mà cũng vì lợi ích cho con để con đầy đủ khả năng tuệ giác hầu nhiếp phục đức vua Mi-lan-đà và chấn hưng giáo pháp.
Chư vị Thánh Tăng cùng Thiên chủ Đế thích vô cùng hân hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-hán chia phước trí theo cách riêng của mình, từ giã cõi Đao-lợi bay về tuyết lãnh Hymalaya.
Khi Chư Tăng đã quy hội đầy đủ trên đỉnh núi Yuga-ndhara, ngài Assagutta chợt hỏi:
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa rồi, có ngài tỳ khưu nào vắng mặt chăng?
Một vị tâu:
- Kính bạch tôn giả! Đại đức Rohana đang nhập đại định bảy ngày trong hang động là không đến hội họp.
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức ấy đến đây.
Trong lúc ấy, tỳ khưu Rohana vừa xả diệt định, hướng tâm đến, biết đại hội Thánh nhân A-la-hán đang cho triệu thỉnh mình, bèn tức khắc rời hang động, hiện diện ngay trước mặt Chư Tăng. Sau khi đảnh lễ chư vị trưởng lão, đại đức Rohana ngồi qua một bên.
Các vị trưởng lão hỏi rằng:
- Này hiền giả Rohana! Trước khi nhập định diệt, thọ tưởng bảy ngày, hiền giả có hướng tâm quán xét việc gì sẽ xảy ra trong bảy ngày ấy không?
Đại đức Rohana bước ra, quỳ bạch:
- Thưa quý ngài trưởng lão, vì không quán xét nên con không biết.
Chư vị trưởng lão ngồi im lặng.
Một vị trưởng lão nói rằng:
- Vì không biết cho nên không cố ý, không cố tình; không cố ý, không cố tình vậy không có tội.
Đại đức trưởng lão Assagutta nhè nhẹ gật đầu.
Một vị trưởng lão lại nói:
- Trong lúc chánh giáo đang gặp đại nạn, bần tăng đề nghị từ nay trước khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, dầu thời hạn 3 ngày, qúi ngài cũng nên quán xét việc gì sẽ xảy ra trong thời gian ấy.
Chư Tăng đồng ý ý kiến ấy bằng cách làm thinh.
Đại đức Rohana tâu:
- Thưa qúy ngài trưởng lão, con có phạm tội, tội gây ra dù không cố ý; vậy con xin nhận hình phạt do Tăng quyết định, hành phạt tương đương với tội "không cố ý" ấy!
Chư Tăng đồng nở nụ cười hàm tiếu, im lặng.
Đại trưởng lão Assagutta hỏi:
- Này hiền giả Rohana! Trong mười pháp ba-la-mật, hiền giả thành tựu chưa được thuần thục, viên mãn là ba-la-mật nào?
- Thưa tôn giả kính mến! Ba-la-mật kém nhất của con là tinh tấn và nhẫn nại.
Đại trưởng lão Assagutta hội ý với các vị trưởng lão một lát rồi nói với đại chúng rằng:
- Ở xứ Katangala, phía xa dưới chân ngọn tuyết lãnh này, có người bà-la-môn tên là Sonuttara, sẽ sanh hạ một đứa con tên là Na-tiên, hậu thân của thiên tử Mahàsena. Vậy cảm phiền đại đức Rohana hãy dùng hạnh ba-la-mật tinh tấn và nhẫn nại ấy đi gieo duyên, trì bình khất thực nơi nhà bà-la-môn ấy, cho đủ kỳ hạn bảy năm và mười tháng. Sau đó tìm cách độ cho trẻ Na-tiên xuất gia. Đấy chính là hình phạt cao thượng mà tôi đề nghị dành cho ngài Rohana, chẳng hay Chư Tăng có chuẩn y không?
Chư Thánh Tăng thảy đều im lặng chấp thuận.
Đại đức Rohana qùy bạch:
- Hình phạt ấy con rất hoan hỷ, nhờ vậy, con sẽ bổ sung được công hạnh ba-la-mật của chính con.
* * *
Đấy là thời mà thiên tử Mahàsena rời khỏi thiên cung, gá vào thai bà vợ của ông bà-la-môn Sonuttara, là hương trưởng của xứ Katagala. Ngay lúc ấy, thế gian xuất hiện ba hiện tượng lạ thường:
- Tất cả khí giới phát lên chói sáng.
- Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi.
- Khắp trên không trung nổi lên những tiếng vang động.
Các nhà tinh thông điềm triệu bèn giải rằng:
- Khí giới phát sáng là sẽ có một cuộc chiến tranh sắp xảy ra , nhưng là cuộc chiến tranh , luận tranh do khí giới kiến thức và trí tuệ chói sáng.
- Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi là một hiện tượng nghịch lý, đảo lộn sự tuần hòan của vũ trụ, vậy thì phải có một nhân cách phi phàm, người mà không phải người xuất hiện trên trần thế.
- Sự xuất hiện của vị ấy, đấng ấy, không những chỉ lợi ích cho con người mà còn lợi ích cho rất nhiều cõi trời.
Về phần đại đức Rohana, sau khi thọ nhận hình phạt cao thượng, ngài bộ hành đến xứ Katangala. Sau khi tìm hiểu dân tình, ngài biết rằng, thôn làng này là xứ sở ngoại giáo rất thịnh hành. Muốn sống được ở đây, hóa đạo ở đây thì ngài phải kiên trì tinh tấn và nhẫn nại bất thối chuyển.
Tìm được một khu rừng mát mẻ tốt tươi, không gần mà cũng không xa xóm làng, đại đức Rohana chuẩn bị một cuộc ngụ cư lâu dài. Sau khi thu xếp được chỗ ở dưới bóng hai tàn cây đại thụ, trong một động đá thiên nhiên, đại đức Rohana lấy cỏ tranh kết tọa cụ rồi đi vào đại định, nghỉ ngơi dưỡng sức.
Mấy hôm sau, xả diệt định khi vầng thái dương vừa ló dạng ở chân trời, đại đức Rohana đắp y mang bát hướng đến làng Katangala. Rồi tuần tự nhà này sang nhà kia cho đến gia đình ông bà-la-môn Sonuttara; nhưng ở đâu cũng bị đóng cửa hoặc đưa mắt nhìn hờ hững, khinh thị, chối từ...Mỉm nụ cười của bậc Thánh ở trong tâm, đại đức Rohana trở lại khu rừng u tĩnh của mình, kiếm lá cây, trái cây ăn tạm rồi vào động đá thọ hưởng hạnh phúc giải thoát...
Những ngày hôm sau đều như vậy, với khuôn mặt từ bi, hiền hòa, với bước đi thanh thoát, trầm tĩnh, đại đức Rohana xuất hiện trước cửa mọi nhà; rồi lại với bát không, nhận lãnh những đôi mắt thiếu thiện cảm, vài lời nói xa gần chỉ trích, phỉ báng... rồi lại lặng lẽ đi về, ăn lá cây, trái cây và thiền định. Cuộc sống đều đặn như vậy trôi qua, các gia đình trong làng lần lượt thương mến, quý trọng vị sa môn hiền lành, họ cúng dường cơm, sữa, đường, mật ong...; và bao giờ nhận được vật thực gì, ngài đều đọc tụng lên một lời phúc chúc ngắn rồi bước sang một nhà khác.
Dù nắng nóng nung người, mưa gió bão bùng hay đông hàn tuyết rơi; đại đức Rohana vẫn tinh tấn, chuyên cần, nhẫn nại, xuất hiện trước cửa mọi nhà như một chiếc đồng hồ chính xác nhất. Ngài không hề bỏ một ngày trong suốt 7 năm 10 tháng ròng rã như thế. Cả làng Katangala đều được đại đức Rohana cảm hóa, thỉnh thoảng có vài gia đình thỉnh ngài về nhà để bát và xin được nghe pháp. Đặc biệt, gia đình ông bà-la-môn Sonuttara vẫn đóng kín cửa trước bước chân của ngài suốt bảy năm mười tháng, đại đức Rohana không hề nhận được dầu chỉ một lời nói dễ nghe, một biểu hiện thân thiện, một sự kính trọng xã giao nào nơi nhà người bà-la-môn ấy. Một vá cơm, một muỗng cháo, một cái bánh... lại càng không! Ngài chỉ nhận được lời chưởi chó, mắng mèo, lời rầy la con cái, lời thô lỗ cộc cằn, lời nói đâm xóc, cạnh khóe, chửi mắng, phỉ báng v.v...
Hôm kia, theo lệ thường, đại đức Rohana ôm bát đứng trước ngôi nhà ấy, gia chủ bà-la-môn Sonuttara đi vắng, một người nô bộc cảm thấy tội nghiệp lén bước ra nói nhỏ nhẹ rằng:
- Bạch ngài, xin ngài vui lòng đi độ thực nơi khác, khổ thân ngài thôi, gia đình này họ không dâng cúng chút gì đâu.
Nghe được vậy, đại đức Rohana hoan hỷ mỉm cười dời chân đi. Sau khi khất thực vừa đủ dùng, ngài trở lại khu rừng. Bà-la-môn Sonuttara sau công việc trở về, gặp ngài ở giữa đường, cất giọng mỉa mai:
- Này ngài tu sĩ, sáng nay đứng trước cửa nhà tôi, chắc ngài có nhận được chút gì đó chứ?
Đại đức Rohana cất lời nhã nhặn:
- Thưa gia chủ qúi mến! Cảm ơn lời chào hỏi, sáng nay, quả thật bần tăng có nhận được!
Nghe vậy bà-la-môn Sonuttara tức giận, hối hả bước về, kêu cả nhà ra hạch hỏi xem ai là người cả gan trái ý ông, đem dâng cúng vật thực cho ông sa môn. Khi biết rằng, chẳng có ai đem cho gì cả, ông bà-la-môn giận run lẩy bẩy: "hoá ra là ông này nói dối, ta sẽ mặt đối mặt chỉ trích ông ta một phen."
Sáng mai, vừa thấy bóng đại đức Rohana, bà-la-môn Sonuttara đã đứng chặn ở đầu ngõ, kêu mọi người trong xóm ra chứng kiến, rồi ông ta chất vấn:
- Ông thầy tu kia, hôm qua, ở tại đây, chẳng có ai để bát cúng dường gì cho ông cả, thế tại sao gặp tôi, ông lại nói dối là "có nhận được"? "có nhận được" cái gì nào, trước mặt bà con lối xóm, ông hãy nói rõ cho tôi nghe?
Đại đức Rohana điềm đạm nói:
- Thưa gia chủ, bần tăng không hề nói dối, quả thật, hôm qua bần tăng có nhận được.
- Gia đình tôi chẳng ai cho thì ông nhận được gì? Tu hành mà nói dối thế sao?
Đại đức Rohana ngước nhìn mọi người xung quanh với tư thái trầm thản rồi nói với bà-la-môn Sonuttara:
- Gia chủ hãy bình tĩnh nghe bần tăng nói đây. Bần tăng đến ngôi làng này tính đến nay là bảy năm mười tháng. Suốt trong thời gian ấy, bần tăng đều đặn đi khất thực mỗi ngày, không bỏ một ngày, dù thời tiết khắc nghiệt thế nào chăng nữa. Nhờ ơn Phật, bà con trong làng đã khởi tín tâm, hộ trì vật thực cơm cháo đầy đủ. Nhưng riêng gia đình gia chủ đây, gần ba ngàn ngày ấy, bần tăng vẫn kiên trì khất thực - mà bần tăng không hề nhận được một muỗng cháo, một vá cơm hoặc một chút vật thực dính trên đầu ngọn cỏ kusa! Cho chí một lời xã giao, một lời nói nhỏ nhẹ, dễ nghe... cũng không có! Lỗ tai bần tăng chỉ nhận được những lời cay chua, độc địa, những lời nói cạnh khóe, ác khẩu, ác ngữ...; thế nhưng, sáng hôm qua, bần tăng có nghe được một lời nói nhã nhặn, lễ độ... của một người tớ gái, cho nên bần tăng rất hoan hỷ, rất cảm ơn. Vậy thì thưa gia chủ, bần tăng nói với ngài là "bần tăng có nhận được" là đúng với sự thực, đâu phải là lời nói dối?
Nghe xong câu chuyện, bà con trong xóm rất cảm động trước lời nói của vị chân tu. Riêng ông bà-la-môn Sonut--tara thì kinh cảm đến từng chân tơ kẻ tóc, lòng bừng bừng hoan hỷ, nghĩ rằng: "Chỉ với một lời nói dễ nghe mà ông ta đã tỏ vẻ cảm ơn như thế ấy, huống hồ ta thành kính cúng dường cơm bánh vật thực thượng vị thì ông ta sẽ thỏa thích và tri ân gia đình ta đến chừng nào?"
Nghĩ thế xong, bà-la-môn Sonuttara chăm chú quan sát đại đức Rohana, ngạc nhiên làm sao, khi ông thấy vị sa môn kia sao thanh khiết quá, đức hạnh quá. Khuôn mặt vị ấy như tỏa ra ánh sáng dịu hiền, đôi mắt từ bi, dáng dấp ung dung, siêu thoát, tự tại, lục căn buông xả và nhàn tịnh. Một niềm tịnh tín dâng lên, một niềm hỷ lạc dâng lên, ông bà-la-môn bèn bước đến, quỳ mọp bên chân đại đức Rohana, kính cẩn bạch rằng:
- Hôm nay con đã có tâm trong sạch với ngài, xin ngài hãy khoan thứ những tội lỗi do con đã mạo phạm. Vậy bắt đầu từ đây về sau, xin ngài vì lòng bi mẫn hãy thương tưởng đến con, tế độ con bằng cách cho con được cúng dường mỗi bữa!
Đại đức Rohana im lặng nhận lời.
* * *
Khi câu chuyện xảy ra ở trên, đồng tử Na-tiên do thiên tử Mahàsena hạ sanh, sau mười tháng trong thai bào, bây giờ đã được bảy tuổi. Bà-la-môn Sonuttara cho mời một thầy ba-la-môn uyên bác đến dạy học. Họ sữa sọan bàn ghế, trải những tấm thảm quý để chuẩn bị cho lớp học khai tâm.
Nhìn vị đồng tử tướng mạo phi phàm, thầy A-đồ-lê soạn ba bộ kinh Phệ-đà rồi lần lươt đọc tụng lên, xem thử trí nhớ của trẻ như thế nào! Hễ cứ đọc một đọan, thầy bảo Na-tiên đọc lại và Na-tiên đọc không sai một chữ. Kinh ngạc, thầy A-đồ-lê đọc tiếp. Suốt nửa tháng, ba bộ kinh Phệ-đà mới đọc xong và Na-tiên đã thuộc nằm lòng.
Thầy A-đồ-lê giảng giải:
- Đấy là tất cả kinh điển của giai cấp thượng đẳng bà-la-môn, con đường đến Phạm thể, những đức tính cao cả cùng những tri thức minh triết trên đời này mà một con trai bà-la-môn thông thái phải am tường. Kỳ lạ làm sao, con đã học thuộc, vậy bây giờ hãy nghe ta giảng đây.
Nửa tháng sau thì Na-tiên đã thông suốt tam Phệ-đà, dẫu thầy A-đồ-lê hỏi xuôi ngược, hỏi nghĩa đen, nghĩa bóng, ẩn dụ, đoản ngôn,v.v... Na-tiên đã trả bài làu làu không vấp váp.
Bất đồ, Na-tiên hỏi lại thầy:
- Kính thầy A-đồ-lê! Tam Phệ-đà là ba con đường dẫn đến Phạm thể, đấng vô thượng chí tôn! Tri thức của thầy thông thái như vậy, nhưng con đường thực hành thì như thế nào? Thầy lựa chọn con đường nào?
Thầy bà-la-môn nín lặng.
- Hoặc là thầy đã từng thấy đấng Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ ấy chưa?
Để cho vị thầy già bối rối với những câu hỏi, đồng tử Na-tiên đi đến gặp bà-la-môn Sonuttara:
- Thưa cha! Con không học nữa. Tri thức Phệ-đà thật vô ích vì chính thầy dạy học của con cũng không biết đấng Phạm thể ấy là thế nào, và cũng chưa từng chứng nghiệm hạnh phúc thể nhập Đấng Ây ra sao?
Bà-la-môn Sonuttara sững người, ông cũng không biết ăn nói làm sao với con, đành nói át:
- Nhưng con cần phải học nữa.
Đồng tử Na-tiên lễ độ:
- Vâng, thưa cha, con sẽ học, nhưng không biết là còn phải học những gì nữa?
- Con phải học chữ, học viết; và cần phải học năm bộ sách nữa.
- Thưa cha! Học chữ, học viết thì không cần nữa, vì một tháng nay con đã tự học rồi. Còn năm bộ sách kia là những bộ sách gì?
Bà-la-môn Sonuttara lại cầu viện thầy A-đồ-lê giảng giải về năm bộ sách ấy như sau:
1. Về phúng tụng, nghi lễ. 2. Về thiên văn địa lý. 3. Xem xét thế giới, đức Iso và sự sáng tạo núi sông, cây cỏ, muôn loại... 4. Đoán mộng, xem tướng. 5. Vệ sinh thường thức như: rửa mặt, tắm, thọ dụng vật thực, đại tiểu tiện v.v...
Đồng tử Na-tiên chăm chú nghe xong, hỏi:
- Thưa cha! Năm bộ sách ấy đã có viết sẵn chưa?
- Có viết sẵn, và gia đình chúng ta cũng có thờ năm bộ ấy.
- Vậy xin cha hãy trả thù lao hậu hĩ cho thầy dạy học của con. Bắt đầu từ nay con có thể học được.
Thế rồi, trước sự sững sờ, kinh ngạc của mọi người, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách, xin ở nơi một căn nhà trống trong khu vườn xinh đẹp để đọc, nghiên cứu, học tập. Trọn cả bảy ngày như vậy, Na-tiên chỉ rời sách khi dùng cơm và khi ngủ.
Sau khi nắm trọn vẹn cả năm bộ sách, Na-tiên bần thần suy nghĩ:
-" Có lợi ích gì đâu là những môn học này? Ngoại trừ về vệ sinh thường thức, còn ngoài ra chúng trừu tượng, xa vời so với đời sống, sự sống của con người. Nó chẳng cho ta hiểu rõ về nguồn gốc của sinh tử và nỗi khổ đau chung của sanh loại. Ôi! Thật là rỗng không và phù phiếm thay?"
Suốt trong thời gian ấy, đại đức Rohana đã lui tới thường xuyên nơi ngôi nhà này, nhận sự cúng dường những món ăn thượng vị của bà-la-môn Sonuttara . Và hình bóng ngài đã trở nên thân thiết, ấm cúng cho mỗi người trong gia đình. Ngài theo dõi sự học tập và tâm tư của đồng tử Na-tiên trong mỗi ngày. Ngài biết rằng Na-tiên do nhờ công hạnh và trí tuệ tu tập nhiều kiếp theo Chánh pháp, vững chắc chánh kiến, nên những tư tưởng ngoại giáo thật khó tương ưng. Và hiện giờ Na-tiên đang chán nản, sầu muộn, hoài nghi. Biết vậy, như lực sĩ với cánh tay duỗi, đại đức Rohana đã xuất hiện trước mặt đồng tử Na-tiên với dung nghi chói sáng, với đôi mắt từ bi và nụ cười hiền dịu.
Vừa thấy ngài, đồng tử Na-tiên tâm phát sanh phỉ lạc, hân hoan nghĩ rằng: "Ta từng thấy vị chân tu này mà chưa được đối mặt, chưa được hầu chuyện với ngài. Ôi! Được đáp vấn với ngài vài câu chắc lợi ích cho ta lắm."
Bèn kính cẩn nói:
- Bạch tôn trưởng! Tại sao tôn trưởng có phẩm mạo và y phục khác với kẻ thế?
Đại đức Rohana thân ái ngồi xuống một bên:
- Này con thân! Vì ta là kẻ xuất gia!
- Người xuất gia là gì?
- Là người tình nguyện lìa bỏ gia đình, quyến thuộc, tài sản, vợ con; sống đời đi xin ăn rày đây mai đó, chẳng có trú xứ nhất định, chẳng có nhà cửa, mái che; chỉ mang theo bên mình ba y và cái bát khất thực.
- Xuất gia như vậy có lợi ích gì không, thưa tôn trưởng?
- Có chứ! Có lợi ích nhiều lắm chứ con! Người xuất gia thường lánh xa điều ác, thường bỏ dữ làm lành, thường sống đời rỗng lặng, thanh tịnh, không có khổ đau, phiền muộn.
Đồng tử Na-tiên suy nghĩ hồi lâu, lặng lẽ gật đầu ra chiều đã lãnh hội, rồi hỏi tiếp:
- Tại sao tôn trưởng phải cạo bỏ râu tóc?
Đại đức Rohana ân cần giải thích:
- Người xuất gia vì muốn sống đời giải thoát như hư không nên phải cạo bỏ râu tóc; vì cạo bỏ râu tóc là muốn tránh tất cả những công việc bận rộn vô ích sau đây:
1. Tốn tiền và mất thì giờ do kiếm thợ cắt tóc và gội đầu. 2. Tốn tiền và mất thì giờ do mua trâm cài tóc, bối tóc, cột tóc hoặc chải tóc. 3. Tốn tiền mua hương liệu, dầu thơm và mất công xoa ướp. 4. Tốn tiền và mất công mua hoa kết làm tràng hoa.
Ngoài ra, muốn cho đầu tóc được đẹp người ta còn trang điểm bằng những đồ trang sức như vàng, bạc cùng những loại đá qúy khác nữa. Vậy, nhờ tránh những bận rộn ấy mà người xuất gia có nhiều thì giờ dành cho sự tu tập đó con!
Nhè nhẹ gật đầu, Na-tiên hỏi tiếp:
- Còn tại sao lại mặc y nhuộm bằng vỏ cây, rễ cây?
- Cũng tương tự như cạo bỏ râu tóc vậy, nghĩa là tránh những bận rộn do kiếm vải vóc, tốn tiền, tốn thời gian may vá, tìm kiếm thuốc nhuộm v.v..., áo quần đẹp như kẻ thế lại còn tốn thời giờ sửa soạn thân thể, vật trang điểm, vật thoa, vật thơm cùng những phiền phức khác nữa...
- Con hiểu! Quả là mất thì giờ vào những việc phù phiếm ấy thì không đáng tí nào! Tất cả những lời nói của tôn trưởng đều rất hay, đều rất hợp với sở thích của con. Vậy chẳng hay tôn trưởng có thể chỉ dạy cho con phương pháp tu tập cao thượng như của tôn trưởng chăng?
Đại đức Rohana mỉm cười:
- Có thể được, con ạ! Nhưng có điều khó khăn, không biết con có vượt qua được chăng?
- Con sẽ cố, thưa tôn trưởng!
- Là con phải dứt bỏ tất thảy các điều bận rộn như ta nói ở trên; nghĩa là phải xin phép cha mẹ cạo bỏ râu tóc, mặc y nhuộm bằng vỏ cây thô xấu cho đúng với phẩm mạo của người xuất gia; sống không nhà cửa, đi theo ta mới mong thực hành, tu tập theo pháp môn cao thượng của ta được.
Nghe lời đại đức Rohana, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách về trả lại trên bàn thờ, ngồi lặng lẽ, buồn bã, bỏ ăn, bỏ ngủ. Bà-la-môn khi hiểu được ý định xuất gia của con trai, tự nghĩ: "Nếu cho nó đi xuất gia theo vị sa môn khả kính kia cũng là điều hay; khi lớn tuổi, khôn ngoan, hiểu biết, ta lại bắt về, lo gì!"
Thế là đồng tử Na-tiên được phép gia đình đi theo đại đức Rohana, bắt đầu con đường tôi luyện, tu tập, hy vọng sau này trở nên một pháp khí đại dụng cho chánh pháp thời pháp nạn.
* * *
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:14:54 GMT -5
Hai thầy trò lầm lũi đạp tuyết dầm sương nhắm hướng Hymalaya đi thẳng. Thấy đồng tử Na-tiên còn quá nhỏ sợ không kham nổi nắng gió đường xa nên đại đức Rohana cho nghĩ chân tại chùa Niya Vijambùvatthu để dưỡng sức. Mấy ngày hôm sau họ mới tới được hang động Rakkhita kỳ vĩ, nơi ẩn cư của hội chúng Thánh nhân A-la-hán .
Đồng tử Na-tiên thấy càng lúc càng đi sâu vào núi non cheo leo hiểm trở, khí lạnh buốt xương, rất nhiều loại thú rừng hoang dã lui tới đó đây, bèn cảm thấy sợ hãi. Đại đức Rohana trấn an:
- Cả hàng trăm vị ẩn sĩ đang sống rất yên lành, thú dữ ở đây chúng không làm hại ai cả.
Họ bước vào một hang động thiên nhiên hùng vĩ, không khí mát mẻ tỏa ra. Rất nhiều vị Thánh A-la-hán ngồi yên lặng thiền định, thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả trên những tảng đá bằng phẳng trơn tru.
- Hiền giả đã làm xong bổn phận và đã về rồi đấy à, Rohana?
Một vị Thánh Tăng mày bạc như hai vệt tuyết, người gầy khô, khẳng khiu nhưng cứng cáp như một cỗi tùng già, mở mắt cất tiếng hỏi.
Đại đức Rohana dẫn đồng tử Na-tiên đến quỳ tâu:
- Thưa vâng, con đã thi hành xong hình phạt cao thượng, và đây là đồng tử Na-tiên!
Đại trưởng lão quan sát trẻ một hồi rồi nói:
- Hạnh Ba la mật tinh tấn và nhẫn nại của hiền giả rõ ràng là đã thành tựu viên mãn, bần tăng xin chúc mừng hiền giả.
- Con không dám!
- Hình phạt tuy đã xong, nhưng hiền giả có nhân duyên làm thầy hòa thượng tế độ và làm thầy giáo thọ cho đồng tử Na-tiên nữa đấy!
- Con xin vâng!
Thế rồi, buổi chiều, đồng tử Na-tiên được cạo tóc, mặc chiếc y thô xấu, xuất gia làm sa di với sự chứng minh của hội chúng Thánh nhân A-la-hán, thầy tế độ là hòa thượng Rohana.
Sau khi làm lễ xuất gia xong, ngài đại trưởng lão Assagutta vân du về chùa Nìyaka mà ngài từng ở trước đây, các vị A-la-hán khác chia nhau đi nhiều phương hoặc dời vào các hang động sâu trong tuyết sơn.
Sa di Na-tiên liền tâu với đại đức Rohana:
- Phẩm mạo xuất gia con đã làm xong rồi, vậy xin tôn trưởng chỉ giáo cho con phương pháp tu tập cao thượng.
Đại đức Rohana nghĩ thầm: "Sa di này có trí nhớ phi phàm, hy vọng y sẽ thuộc nằm lòng được Thắng nghĩa pháp. Nhờ làu thông tạng Thắng nghĩa này, sau này sẽ là kho tàng trí tuệ để y tranh luận với đức vua Mi-lan-đà."
Rồi ngài nói:
- Này Na-tiên con! Giáo pháp đầy đủ gồm có 3 tạng, tổng cọng kinh chữ viết trên lá buôn, số lượng rất kinh khiếp, 16 con voi kéo cũng không hết! Ây là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Thắng nghĩa pháp hay là Vi diệu pháp. Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ dạy con học tạng Vi diệu, là tạng khó nhất, con có kham nhẫn được chăng?
- Con sẽ cố gắng!
- Tốt. Bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ ra bãi cát ven suối, học tại đấy!
Thế rồi, tuần tự, đại đức Rohana tụng đọc, viết, cắt nghĩa bảy bộ Abhidhamma cho sa di Na-tiên cùng với những giảng giải cặn kẽ, chi tiết:
Dhammasanghanì: Bộ pháp tụ. Vibhangha: Bộ phân tích. Dhàtukathà: Bộ chất ngữ. Puggala pannati: Bộ nhân chế định. Kathàvatthu: Bộ ngữ tông. Yamaka: Bộ song đối. Patthànamahàpa karana: Bộ vị trí.
Suốt mấy năm trường sa di Na-tiên chuyên cần học Vi diệu tạng. Khi đã học thuộc lòng cả bảy bộ, Na-tiên thưa với thầy:
- Bạch tôn trưởng! Ngài dạy cho đệ tử như vậy là đã quá nhiều, chưa cần thiết phải dạy thêm. Hãy cho đệ tử suy gẫm giáo pháp cao siêu này cho tới nơi tới chốn.
Cũng trong thời gian này, đại đức Rohana cặn kẽ chỉ dạy cho Na-tiên cách đi đứng nằm ngồi, mặc y, mang bát; cách cung kính, lễ bái các vị trưởng lão, cách sống với chúng ở giữa rừng núi, ở giữa phố thị, làng mạc v.v... Mỗi mỗi oai nghi, hành động, ăn nói phải cẩn trọng, thu thúc, gìn giữ như thế nào để cho xứng đáng phẩm hạnh của một sa môn. Na-tiên đã được dạy sơ về một số giới luật như thế, thêm một số kinh căn bản, vài pháp môn hít thở, thiền định, thiền quán v.v...
Khi đã đến tuổi thiếu niên, có lẽ đã suy gẫm sâu xa về Vi diệu tạng cùng với những lý nghĩa rốt ráo của nó, Na-tiên quỳ bạch với đại đức Rohana, xin được thuyết lại bảy bộ Vi diệu tạng trước sự chứng minh của chư tỳ khưu Tăng. Đại đức Rohana hoan hỷ bằng lòng, với tâm truyền tâm, ngài thỉnh mời tất cả các vị trưởng lão, các vị Thánh nhân đồng quy hội tại hang động Rakkhita.
Đến ngày, đại đức Rohana trang trọng kết một bảo tòa bằng lá cỏ để cho vị pháp sư tí hon đăng đàn thuyết pháp. Thế rồi, như sấm gióng giữa trời mưa, sa di Na-tiên thuyết như nước chảy mây trôi từng bộ Thắng nghĩa pháp với đầy đủ lý nghĩa sâu rộng; đầy đủ ẩn dụ, so sánh, phân tích, đoản ngôn, kệ ngôn v.v... một cách linh hoạt, dí dỏm, sắc bén, chưa từng được nghe.
Bảy tháng, bảy bộ kinh Vi diệu tạng mới được thuyết xong! Cử tọa, thính chúng Thánh nhân rất vui mừng vì tâm huyết của các ngài thế là đã thành tựu bước đầu. Quả đất dày bốn mươi do tuần rung rinh chấn động. Chư thiên hoan hỷ tán dương công đức của vị sa di. Chư phạm thiên sắc giới cũng hết lòng khen ngợi biện tài của vị pháp sư siêu việt. Hoa Mạn-đà-la giữa hư không rơi xuống ngày đêm cúng dường Pháp Bảo.
Lúc sa di Na-tiên tròn 20 tuổi, chư vị A-la-hán cho thọ đại giới làm thầy tỳ kheo; rồi được đại đức Rohana đẫn đi thăm các chùa dưới chân núi.
Hôm kia, cùng thầy đi khất thực trong một ngôi làng, ý nghĩ sau đây khởi lên trong tâm của vị tân tỳ kheo: "Sao mấy năm nay thầy của ta không dạy thêm gì cho ta hết, hay ngài chỉ biết có bảy bộ Vi diệu tạng kia thôi, chẳng thông thuộc một giáo pháp nào khác?".
Đại đức Rohana, với tâm biết tâm, biết ý nghĩ xấu quấy của Na-tiên, bèn mỉm cười nói rằng:
- Này con! với tâm niệm như thế thật không xứng đáng cho con, một tu sĩ xuất gia phạm hạnh. Tâm niệm ấy là kiêu căng, ngã mạn, con có biết thế chăng?
Tỳ khưu Na-tiên hoảng sợ, tóc dựng ngược, nghĩ rằng: "Ôi! Quả thật ta đã quấy quá, thầy ta quả thật là bậc đại trí thức, ta chẳng nên tự làm hại ta bởi những ý nghĩ xuẩn ngốc."
Rồi Na-tiên quỳ mọp xuống đất, ôm chân bụi của đại đức Rohana:
- Xin thầy từ bi xá tội cho đệ tử, đệ tử nguyện sẽ không còn dám tái phạm nữa.
Đại đức Rohana lắc đầu:
- Ta không thể xóa tội ấy cho con được!
Để cho Na-tiên quỳ xin sám hối đúng ba lần, đại đức Rohana mới nói:
- Thôi được rồi, cũng không muộn gì. Con phải siêng học pháp học cho thành tài, phải đi vào pháp hành cho rốt ráo. Bao giờ con có thể dùng trí tuệ của mình khuất phục được đức vua Mi-lan-đà, kinh đô Sàgala, để nhà vua phát tâm trong sạch, quy ngưỡng theo Phật giáo, thì khi ấy ta sẽ xá tội cho con.
Tỳ khưu Na-tiên chấp tay, cúi đầu nhũn nhặn:
- Bạch tôn trưởng! Lúc nào là đúng thời? Và đức vua ấy là người ra sao?
- Trái cây kia còn xanh, không thể mong nó chín vội. Vậy đến lúc nào đó, tự con sẽ thấy là đúng thời, tự con sẽ biết.
- Đệ tử sẽ còn học và hành bao lâu nữa?
- Con còn phải văn, tư và tu nhiều lắm, hãy biết như vậy!
Suy nghĩ một lúc, tỳ khưu Na-tiên lại hỏi tiếp:
- Ba tháng mưa tới đây, đệ tử sẽ nhập hạ ở đâu để có được sự tấn ích lợi lạc?
- Con hãy bộ hành đến chùa Nìyaka và thọ giáo với vị đại trưởng lão ở đấy. Nói rằng ta gởi lời vấn an sức khỏe của người.
Đến ngày tỳ khưu Na-tiên từ giã thầy bổn sư để lên đường. Tại chùa Nìyaka, Na-tiên gặp lại đại trưởng lão mà ngài từng gặp ở thạch động Rakkhita, đảnh lễ, vấn an sức khỏe của người rồi ngồi sang một bên.
Vị đại trưởng lão chính là ngài Assagutta, giả vờ hỏi rằng:
- Ngươi tên chi?
- Tên của đệ tử, ngài rõ rồi.
- Vậy tên ta là gì?
- Thầy bổn sư của đệ tử biết rõ tên của ngài.
- Bổn sư của ngươi tên gì?
- Ngài đã biết rõ tên bổn sư của đệ tử.
Đại trưởng lão Assagutta rất thú vị, bèn nói:
- Đúng thế!
Rồi thầm nghĩ: "Ngài Rohana gởi y đến ta là cốt ý để ta mài giũa cái "pháp khí" này cho sắc bén, nhưng ta sẽ không mài giũa, ta sẽ làm cho nó cùn nhụt bớt đi. Hãy dập tắt kiêu căng, ngã mạn nơi tỳ khưu Na-tiên này."
Kể từ hôm ấy, đại trưởng lão Assagutta giữ im lặng, không nói một lời dầu cho tỳ khưu Na-tiên có hỏi gì chăng nữa. Ngoài ra, chỗ nào mà Na-tiên quét dọn, cất đặt, đại trưởng lão Assagutta cất đặt, quét dọn lại. Nơi nào Na-tiên múc nước đầy, ngài nghiêng đổ đi, múc nước nơi khác rửa mặt, tay chân v.v...Tuy nhiên, Na-tiên không lấy thế làm phiền hà, một lòng nhẫn nại, mềm mỏng để vượt qua tất cả mọi thử thách.
Ba tháng như vậy qua đi.
Một bữa kia, có người cận sự nữ thân tín, lâu năm, đến chùa thỉnh đại trưởng lão xin cúng dường để bát tại nhà, rồi nói:
- Dường như ở chùa có vị khách tăng từ phương xa đến an cư, phải thế không, bạch ngài?
- Có, là tân tỳ kheo Na-tiên .
- Đệ tử xin thỉnh luôn vị ấy.
Đại trưởng lão Assagutta im lặng nhận lời. Hôm sau, cũng không mở miệng, ngài ra dấu hiệu bảo Na-tiên đắp y mang bát đi theo. Người cận sự nữ sau khi tự tay mình dâng cúng thực phẩm thượng vị đến bát cho hai ngài, đợi hai ngài dùng xong bèn thưa thỉnh muốn được nghe pháp.
Đại trưởng lão chợt nói với Na-tiên:
- Ông hãy tùy nghi thuyết pháp làm sao cho thí chủ của ông được hoan hỷ.
Nói xong, chẳng đợi Na-tiên "ừ hử" ra sao, đại trưởng lão đã quăng bát qua hư không, bay về chùa Nìyaka trong thời gian chớp mắt. Na-tiên ngơ ngẩn, xuất thần mà bà tín nữ cũng ngơ ngẩn xuất thần một lúc lâu.
Người cận sự nữ bèn tâu:
- Thỉnh đại đức thuyết pháp. Đệ tử đã 30 năm tu học làm một cận sự tại gia, hôm nay chỉ thích nghe pháp sâu xa mầu nhiệm hầu mở mang trí tuệ.
Tỳ kheo Na-tiên định tâm một lát, đoán căn cơ, rồi với tâm chân thật và lòng bi mẫn, nói rằng:
- Hãy nghe đây bà tín nữ! Bà không muốn nghe nhiều lời mà tôi cũng mới chỉ là tân tỳ kheo, tu học chẳng bao lâu, không có nhiều pháp. Vậy tôi chỉ thuyết tóm tắt một kệ ngôn thôi, bà hãy nhiếp tâm và chăm chú lắng nghe!
- Vâng, thưa đại đức.
Rồi với giọng phát âm chuẩn mực, chính xác nhất, tỳ kheo Na-tiên ngâm một kệ ngôn như sau:
"Yamkincisamudayadhamma sabbantam nirodhadhammam;
có nghĩa là:
"tất cả các pháp được cấu tạo, kết hợp, hữu vi; nó do duyên sanh thì phải theo duyên diệt".
Như chìa khóa mở cửa kho tàng, câu kệ ngôn được thuyết lên hàm nghĩa tinh yếu giáo pháp đã vén mở trí tuệ cho bà tín nữ. Thanh âm trầm hùng, vi diệu của câu kệ như tiếng chuông ngân vừa chìm lắng trong không gian, bà đã đắc quả Tu-đà-huờn, nhập vào dòng Thánh. Xiết bao hoan hỷ, bà tín nữ già nua quỳ mọp xuống đảnh lễ với những giọt nước mắt rơi lả chả: giọt nước mắt mừng vui, vì bà biết rằng từ đây, còn rất ít phiền não, bà sẽ nhẹ nhàng cất cánh bay về cõi Bình an Vĩnh hằng!
Trong lúc ấy, ở chùa Nìyaka, đại trưởng lão Assagutta dùng thần thông theo dõi và biết rõ mọi chuyện, ngài thốt lên: "Lành thay, lành thay!" rồi suy nghĩ:
"Tỳ kheo Na-tiên vừa được trí vừa được tâm, khá lắm! Ngã mạn, tự cao giờ y đã lắng dịu! Bài pháp ngắn gọn vừa rồi chứng tỏ y đầy đủ công hạnh ba-la-mật từ quá khứ. Chỉ với một mũi tên buông ra là trúng đích, cũng vậy, một câu kệ ngôn thôi mà đã làm cho bà tín nữ cắt đứt một lúc ba sợi dây trói buộc là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Hy hữu thay!"
Trên hư không, đại trưởng lão Assagutta còn nghe được rất nhiều chư thiên phát tâm thỏa thích, rải hoa cúng dường và hết lòng tán thán trí tuệ ba-la-mật của tỳ kheo Na-tiên .
Trở về chùa, tỳ kheo Na-tiên đến đảnh lễ đại trưởng lão rồi ngồi xuống một nơi phải lẽ.
Tôn giả Assagutta nói:
- Ngươi đã thuyết gì?
- Bạch, ngài đã biết rõ hơn cả đệ tử nữa!
Im lặng.
- Ngươi thuyết "hay" nhỉ?
- Bạch tôn trưởng, ngài đã qúa khen, vả lại, ngãi cũng rõ, không phải đệ tử thuyết "hay", mà nhờ may mắn là đúng căn cơ!
Im lặng.
- Chân thực, nhẫn nại là những ba-la-mật mà ngươi đã tự thành tựu!
- Đệ tử nhờ sự chỉ dạy của tôn trưởng.
- Tất cả những ba-la-mật khác cũng cần phải được tu tập cho trọn vẹn, sung mãn như thế.
- Thưa vâng!
Im lặng.
Đại trưởng lão chợt ân cần nói với Na-tiên:
- Bây giờ ta phải trở lại Hy-mã-lạp sơn, còn ngươi thì hãy đi đến phía tây của thành phố Pàtaliputta, chùa Asoka, đảnh lễ vị trưởng lão tên là Dhammarakkhita. Ở đấy ngươi có thể học hỏi được ít nhiều.
- Bạch tôn trưởng, ngài không chỉ dạy gì thêm cho đệ tử nữa sao?
- Ta còn một vài việc nữa trước khi Niết-bàn, nhưng đối với ngươi thì ta đã hết trách nhiệm và bổn phận. Hãy chuẩn bị và lên đường vào sáng hôm sau.
Na-tiên chợt xúc động quỳ ôm chân bậc tôn trưởng, lát sau mới hỏi:
- Đệ tử không còn gặp ngài nữa chăng?
- Duyên đã mãn.
Im lặng.
- Từ đây đến chùa Asoka là bao xa, thưa tôn trưởng?
- Chừng một trăm do tuần.
Im lặng.
- Xin ngài bi mẫn dạy cho con một lời cuối cùng?
- Hãy thắp sáng ngọn đuốc Chánh Pháp!
Khi Na-tiên quỳ xuống thành kính đảnh lễ, ngước lên thì không còn trông thấy đại trưởng lão Assagutta nữa; ngài bùi ngùi đứng lặng nhìn vào giữa hư không, cảm thán thốt lên: "Ôi! Các bậc Thánh nhân trên đời này họ đến đi nhẹ nhàng, thanh thoát, gót chân họ không hề dính dù là một chút bụi hư không."
Sáng ngày, vị tân tỳ kheo Na-tiên lầm lũi nhắm thành phố Pàtaliputta lên đường. Đi mới được một đổi, một đoàn năm trăm cổ xe với hàng hóa chất đầy tung bụi lướt qua. Tỳ kheo Na-tiên đứng nép vào gốc cây ven lộ.
Thấy ngài, người bá hộ khách thương cho dừng xe lại, đến bên cung kính hỏi:
- Bạch ngài, ngài định bộ hành về đâu?
- Bần đạo đến thành phố Pàtaliputta, chùa Asoka.
- Con cũng về hướng ấy, vậy xin thỉnh ngài cùng đi với con.
- Cảm ơn lòng tốt của thí chủ.
- Xin ngài đừng cảm ơn con, con là một cư sĩ, con làm việc ấy vì tâm hoan hỷ, vì bổn phận thích đáng của người Phật tử.
Tỳ kheo Na-tiên từ tốn mỉm cười, khẽ gật đầu.
Thế rồi họ cùng lên xe tiếp tục hành trình. Người khách thương lặng lẽ quan sát tướng mạo, ngôn ngữ, cử chỉ của vị sa môn trẻ trung, xinh đẹp mà không ngớt khen thầm trong lòng. Khắp nơi, Tăng lữ ly tán, chùa chiền hoang phế; chỉ còn năm, bảy am thất khuất tịch là còn sinh hoạt - thế mà ở đâu lại sản sinh ra một vị tỳ kheo phi phàm như thế này?
Vị khách thương chợt nói:
- Từ đây đến chùa Asoka, chúng ta phải đi mất bảy, tám ngày đường, vậy trong thời gian ấy, đại đức hãy cho phép con được dâng cúng vật thực vào mỗi bữa trưa.
Tỳ kheo Na-tiên nhận lời bằng cách làm thinh.
Đường xa, người khách thương được dịp hầu chuyện.
- Vị bổn sư mà con quy y là một vị luận sư tinh thông Vi diệu tạng, nên con cũng mê say môn học ấy. Vậy chẳng hay đại đức có thể chỉ giáo cho con một vài điểm trong tạng ấy chăng?
Tỳ kheo Na-tiên ngạc nhiên nói:
- Là cư sĩ mà ông cũng học Vi diệu tạng ư? Về tạng ấy bần đạo cũng có học được chút ít. Ông cư sĩ cứ hỏi, bần đạo sẽ trả lời bằng khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình.
Thế rồi, thầy trò ngày đi đêm nghỉ. Những câu hỏi lần lượt của người khách thương đưa ra, được tỳ kheo Na-tiên khiêm tốn trả lời. Trước dễ, sau khó, từ cạn vào sâu... người khách thương đã thật sự kinh ngạc trước kiến thức bao la như đại dương của vị tỳ kheo trẻ. Ông ta lại càng kính trọng và khâm phục hơn nữa ở đức tính nhũn nhặn, khiêm hòa và sự định tĩnh tâm hồn được biểu hiện qua nụ cười, đôi mắt cùng tứ oai nghi của ngài.
Những câu hỏi về Vi diệu tạng vừa chấm dứt thì thành phố Pàtaliputta cũng vừa hiện ra ở cuối tầm mắt. Người khách thương như vừa tắm xong trong một dòng suối trong lành của Pháp bảo, ông ta hoan hỷ và thỏa thích vô hạn; huệ nhãn phát sanh, mọi trần cấu, bợn nhơ phiền não thô thiển chợt dưng lắng dịu, những ác pháp không còn dấy khởi lên nữa: ông ta đã chứng quả Nhập lưu!
Khi chia tay, người khách thương phát tâm trong sạch cúng dường xấp vải Kampala quý báu dài mười sáu hắc tay, rộng tám hắc tay. Tỳ kheo Na-tiên nói lời chúc phúc rồi từ giã.
Đến chùa Asoka, Na-tiên tìm gặp trưởng lão Dhamm-arakkhita, đảnh lễ, dâng xấp vải quý cho ngài rồi bạch rằng:
- Đệ tử từ chùa Nìyaka lặn lội đường xa tới đây, mong ngài từ bi dạy pháp học cho đệ tử.
- Ông là đệ tử của ai?
- Bạch, tất cả các vị tôn túc trưởng lão trong hang động Rakkhita đều là thầy của đệ tử.
Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Thầy trực tiếp là vị nào?
- Thưa, tôn trưởng Rohana, tôn trưởng Assagutta.
- Đấy là các bậc đại Tôn túc Thánh nhân! Các ngài ấy đã dạy cho ông những gì?
- Một vị dạy đệ tử Vi diệu tạng và uy nghi giới hạnh, một vị dạy đệ tử đức chân thật, khiêm cung và nhẫn nại.
- Tốt, vậy bây giờ ông muốn học gì nữa?
- Đệ tử pháp học còn kém cỏi, thiếu sót, xin ngài vì lòng bi mẫn dạy thêm cho đệ tử về Kinh và Luật.
Tôn giả Dhammarakkhita im lặng nhận lời.
Ngày hôm sau có một vị tăng tên là Tissadatta từ Tích lan vượt biển tìm đến cũng mong được học tạng Kinh bằng ngôn ngữ Magadha. Khi được hỏi, vị tỳ kheo này cho biết là đã học thuộc nằm lòng tạng Kinh bằng tiếng Lankà, nay muốn học thêm tạng Kinh bằng tiếng Magadha để tiện bề so sánh, đối chiếu. Tôn giả Dhammarakkhita và tỳ kheo Tissadatta nói chuyện với nhau bằng tiếng Tích lan. Khi trao đổi xong, tỳ kheo Tissadatta quỳ xuống đảnh lễ tôn giả Dhammarakkhita.
Buổi chiều, tôn giả Dhammarakkhita nói với Na-tiên:
- Bắt đầu từ ngày mai, ông cùng học chung với tỳ kheo Tissadatta!
Na-tiên lắc đầu:
- Đệ tử không muốn học chung với vị ấy.
- Tại sao?
- Thưa , người xứ Sàgala không thích ngôn ngữ Lan-kà, nên đệ tử chỉ muốn học tạng kinh bằng tiếng Magadha thôi!
Tôn giả Dhammarakkhita chợt nghiêm mặt:
- Dĩ nhiên là ta dạy bằng tiếng Magadha! Nhưng ông đã hiểu lầm ta và có ý nghĩ xấu về tỳ kheo Tissadatta, ông có thấy thế không?
Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, Na-tiên quỳ mọp xuống xin sám hối, nghĩ thầm trong tâm rằng: "Những ý nghĩ xấu quấy của ta như thế nào, ngài đều biết rõ cả, vậy hãy cố gắng sống đời tỉnh thức, chánh niệm trong mỗi hơi thở."
Thế rồi họ lần lượt học năm bộ kinh Nikàya bằng tiếng Magadha, ấy là: Dìgha, Majjhima, Samyutta, Angutta-ra và Khuddaka. Trí nhớ của Na-tiên thật phi thường, chưa tới mười hôm đã học thuộc lòng bộ Dìgha Nikàya, trong lúc ấy Tissadatta chưa học xong được một nửa!
Ban đầu, tôn giả Dhammarakkhita muốn dìm bớt tính khí kiêu ngạo của tỳ kheo Na-tiên bằng cách không dạy tiếp nếu tỳ kheo Tissadatta chưa thuộc. Nhưng sau thấy Na-tiên không tỏ vẻ nóng nảy, vẫn lặng lẽ chờ đợi, thì giờ rảnh rỗi, ngài thấy Na-tiên tìm chỗ khuất vắng để tìm hiểu nghĩa kinh, hay ngồi thiền định, nên ngài lại đổi ý. Lại nữa, trong lúc này Phật giáo đang gặp nạn, các tôn giả Rohana và Assagutta đã ân cần gởi gắm; vậy sự thành toàn pháp học cho Na-tiên sớm chừng nào sẽ tốt chừng ấy. Vì nghĩ vậy nên tôn giả Dhammarakkhita dạy tiếp cho Na-tiên. Và chỉ vỏn vẹn có ba tháng, Na-tiên đã thuộc nằm lòng năm bộ kinh. Ba tháng sau đó nữa, Na-tiên thuộc lòng luôn cả năm bộ chú giải.
Vô cùng bằng lòng về người đệ tử thông minh tuyệt hảo, không để mất thì giờ, tôn giả Dhammarakkhita dạy luôn tạng Luật cho người học trò yêu. Thế rồi, trải qua bốn tháng nữa, Na-tiên thông suốt thêm tạng Luật và luôn cả chú giải.
Hôm kia, tôn giả Dhammarakkhita dẫn Na-tiên đi dạo qua một vùng đồi, chỉ tay vào một khu rừng xa, ngài nói:
- Có lần, Phật tổ nói gì về nắm lá trong tay so với lá cây trong rừng kia?
- Thưa, ngài bảo rằng, nhiều như lá cây trong rừng kia là hiểu biết của ngài; nhưng những gì ngài chỉ dạy, thuyết ra chỉ bằng nắm lá trong tay của ngài thôi.
- Vậy là thế nào nhỉ?
- Thưa, Đức Thế Tôn chỉ nói những điều đáng nói, cần thiết, điều lợi ích cho chúng sanh; ngoài ra, những điều vô bổ, phù phiếm, những điều rỗng không nhằm thỏa mãn kiến thức, không đưa đến giác ngộ, giải thoát, ngài không nói.
- Đúng thế! Ngay chính những điều mà ngài nói ra, được ghi lại trong Tam Tạng, chúng có phải là Sự thật chăng? Là chân lý chăng?
- Thưa, không phải, chúng chỉ là ngón tay trỏ chỉ mặt trăng, chứ chẳng phải mặt trăng!
Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu:
- Con hiểu vậy là chính xác!
Lúc ấy, một người chăn bò đang lùa một đàn bò đi ngang qua. Đợi cho đàn bò đi khuất, ngài Dhammarakkhita nói:
- Con có liên tưởng gì về người chăn bò và đàn bò này?
- Thưa, người chăn bò kia có lẽ biết rất rõ đàn bò ấy có mấy trăm con, bao nhiêu đực cái, bao nhiêu bê con, con nào già yếu, con nào sắp sinh v.v... Y lại còn rất rành cách chăm sóc, nuôi dưỡng đàn bò sao cho mập, mau phát triển; nhưng vị ngon, vị ngọt của sữa bò như thế nào... thì có lẽ là người khác được hưởng còn y không được hưởng!
- Đúng như vậy.
- Thưa, cũng dường thế ấy, người làu thông Tam tạng, rành rẽ giáo pháp, có thể giảng nói kinh nghĩa, kệ ngôn thao thao bất tuyệt, tháng này qua tháng nọ; phân tích chi ly từng mục, đoạn, phần..., các chi pháp rất rạch ròi, phân minh...; nhưng nếu y chưa nếm được hương vị của Pháp, chứng nghiệm Pháp, sống trong Pháp... thì so với người chăn bò có khác gì đâu?
- Đúng như vậy! Này con, con đừng làm người chăn bò tội nghiệp kia nhé!
Tỳ kheo Na-tiên nghe rúng động cả châu thân, thầm cảm kích sâu xa sự giáo giới, nhắc nhở của vị thầy siêu việt, ngài quỳ xuống ôm chân bụi bậc tôn trưởng:
- Làu thông Tam tạng cũng trở nên rỗng không, vô ích nếu chưa chứng ngộ Pháp mầu. Đệ tử biết là đệ tử phải làm gì rồi.
Sau buổi đàm đạo ấy, Na-tiên rút vào một cốc vắng để chuyên tu thiền định và thiền quán. Ngài nhất mực tinh tấn theo đuổi pháp hành. Ngoài việc khất thực để nuôi mạng, thì giờ còn lại ngài gia công chuyên niệm ngày đêm, chỉ nghỉ nghiêng lưng vào canh cuối. Hôm kia, tuệ giác bừng sáng, thấy rõ Diệt đế, ngài đắc A-la-hán quả, luôn cả 4 tuệ phân tích (Patisambhidanana) và thần thông. Ngay khi ấy trời đất có những hiện tượng phi thường như địa cầu chấn động, biển cả sóng dâng cao, núi Tu-di rung rinh, chư thiên hoan hỷ và hoa trời rơi xuống cúng dường v.v...
Tôn giả Dhammarakkhita xuất hiện, mỉm nụ cười hoa sen:
- Ta chúc mừng con việc lớn đã thành. Hiện giờ các đại tôn giả ở đỉnh núi Himalaya đang chờ con để giao phó công việc đấy!
Xiết bao cảm kích, tỳ kheo Na-tiên lạy tạ từ biệt thầy, tức khắc biến mất khỏi chỗ và có mặt ngay tại hang động Rakkhita trước mặt hội chúng Thánh nhân A-la-hán. Sau khi đảnh lễ các vị đại tôn giả, tỳ kheo Na-tiên nhìn quanh không thấy đại trưởng lão Assagutta, biết ngay là ngài đã Niết-bàn rồi. Đại đức Rohana biết ý, nói rằng:
- Bậc đại tôn trưởng Assagutta trước khi diệt độ có dạy lại rằng, con phải tìm cách phục hưng Chánh Pháp.
- Đệ tử phải làm như thế nào? Và đây có phải là thời mà tôn trưởng sẽ xá tội xưa của đệ tử?
- Phải rồi! Mọi nhân mọi duyên đều đã đầy đủ. Các vị tôn túc trưởng lão đã phải khổ công thành toàn Pháp học và Pháp hành cho con. Trước mắt, con phải làm hai công việc.
- Đệ tử xin nghe!
- Việc thứ nhất là phục hưng tất cả các chùa chiền hoang phế, quy tụ Tăng lữ trở về, cho xuất gia thêm, đào tạo Tăng tài, tổ chức các buổi thuyết pháp ở nhiều nơi để cận sự nam nữ có cơ hội trở lại với những sinh hoạt y như trước đây!
- Thưa, một mình đệ tử sợ không kham nổi.
- Con chớ lo lắng, ở đâu cần sự giúp đỡ, chư tôn túc trưởng lão ở đây sẽ xuất hiện kịp thời!
- Vậy đệ tử xin hoan hỷ nhận lãnh trách nhiệm mà quý ngài đã giao phó.
- Việc thứ hai là sau khi việc thứ nhất đã đi vào nề nếp, con hãy đến tại kinh đô Sàgala chùa Sankheyya, có vị đại đức tên là Ayupàla ở đấy, con chuẩn bị để gặp gỡ đức vua Mi-lan-đà và khôn khéo sử dụng tất cả mọi khả năng trí tuệ của mình. Con phải nhiếp phục đức vua ấy, đấy là mệnh lệnh tối hậu.
- Đệ tử có nhiếp phục được chăng?
- Hãy quán nhân duyên, con sẽ thấy!
Nghe lời, tỳ kheo Na-tiên nhiếp tâm, theo dõi tiến trình sinh tử của chính mình từ kiếp này sang kiếp kia; lâu sau, ngài thấy một ngôi chùa lớn ven sông, thời Phật Ca diếp, ngài làm một vị tỳ kheo như thế, vua Mi-lan-đà hiện nay, trước kia làm một vị sa di như thế. Vì lời nguyện của cả hai như vậy nên bây giờ có nhân có duyên như vậy. Xúc động Chánh Pháp, tỳ kheo Na-tiên qùy xuống dưới chân các bậc tôn trưởng:
- Quý ngài đã khổ tâm vì đệ tử , vì nhân duyên của chính đệ tử mà từ lâu đệ tử không thấy, không biết. Vậy xin quý ngài tha thứ tất cả lỗi lầm của đệ tử dù cố ý hay vô tình mà xâm phạm đến quý ngài!
Tiếng "lành thay, lành thay" vang lên. Khi Na-tiên ngửng đầu thì chẳng còn ai ở đấy nữa, hang động vắng tanh, lạnh lùng... dường như chỉ còn thoảng mùi hoa hương vi diệu mà chư thiên rải xuống cúng dường.
Ngơ ngẩn, xuất thần, Na-tiên đảnh lễ hang động Rakkhita lần cuối cùng rồi sửa lại y bát xuống núi theo con đường hạnh nguyện.
2.3. Thấp thoáng bóng SƯ TỬ
Nhắc lại chuyện vua Mi-lan-đà.
Sau khi đi hỏi đạo, vấn đạo, tất cả các bà-la-môn, sa môn hữu danh trong quốc độ, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thất vọng vì chẳng ai thỏa mãn được cho ngài vài câu, huống hồ là đi sâu vào giáo pháp! Chán nản, ngài đành vùi đầu vào chính sự, rảnh rỗi, ngài lại xem kinh, đọc sách, suy tư. Đức vua thấy rằng, tư tưởng của đạo Phật rất uyên thâm, hầu như nói ra được tòan bộ về đời sống con người, sự vui khổ cũng như sự sống chết của nó. Nhưng giáo pháp ấy cũng hàm tàng biết bao nghi vấn mà tri thức của ngài không với tới được, không kiến giải được. Ôi! hỏi ai bây giờ? Các bậc A-la-hán thật sự vắng mặt trên cuộc đời này rồi sao?
Đã bao năm, nhốt mình trong cung cấm, đức vua cũng không nhớ nữa. Hết xuân khứ rồi đông lai, tuổi già lại đến mà vấn đề "tử sinh đại sự" không giải quyết được thì phỏng đời sống này còn có tích sự gì!
Hôm kia, khi nhà vua đang dạo chơi trong vườn thượng uyển thì có một vị đại thần tìm đến xin được ra mắt ngài. Đức vua cho phép viên đại thần cùng ngồi dưới bàn đá bên gốc cây sàla tỏa bóng xanh mát.
- Tâu đại vương! Hạ thần thấy một hiện tượng rất lạ lùng.
Đức vua ưu ái ban cho viên lão thần một chung ngự tửu rồi phán:
- Khanh cứ nói đi!
- Hạ thần thu lượm rất nhiều nguồn tin khác nhau, đều là những nguồn tin đáng tin cậy. Rằng là các chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện trước đây hoang tàn, đổ nát ở nhiều nơi, bây giờ đang được xây dựng lại quy mô hơn, tráng lệ hơn!
Đức vua thóang nhăn mày, nhưng lại nói:
- Điều ấy tốt thôi! Bản tâm của trẫm cũng thấy rõ đạo Phật xứng đáng được như vậy.
- Rồi Tăng lữ không biết từ đâu xuất hiện mà đông đúc thế không biết!
- Còn các sinh hoạt khác?
- Cận sự nam nữ hai hàng trở lại chùa sinh hoạt còn đông đảo hơn trước đây, với những lễ như: cầu an, cầu siêu, an vị Phật, trai tăng, để bát, thọ bát quan trai giới, nghe thuyết pháp v.v...
- Khanh còn nghe gì nữa chăng?
- Tâu, nghe đâu hiện có rất nhiều bậc Thánh nhân xuất hiện, họ đều là các bậc A-la-hán có nhiều thần thông; ngoài ra còn có hằng chục vị pháp sư siêu việt có mặt đó đây để chủ trì các buổi thuyết giảng, có nơi đông đến hằng chục ngàn người nghe.
Đức vua nghe đến đây bỗng thấy rạo rực trong người, hưng phấn nói:
- Thế là hay lắm! Vậy trong kinh đô ta thì thế nào? Đã mấy năm nay trẫm không hề ra ngoài.
- Tâu, ngôi chùa Sankheyya to lớn, hùng vĩ ở kinh đô bao năm nay chỉ có mấy vị sư già kinh kệ, nhang khói; mấy tháng nay có vị trưởng lão tên là Àyupàla dẫn Chư Tăng từ đâu về đông hơn cả một trăm vị. Thiện nam tín nữ lục tục kéo tới cúng dường, nghe pháp.
Đức vua Mi-lan-đà chợt đứng dậy, niềm vui vỡ òa theo với lời nói:
- Hay lắm ! Vậy trẫm lại được dịp đi hỏi đạo nơi vị đại đức Àyupàla ấy. Ôi! Hạnh phúc thay!
Thế rồi, hôm sau đức vua cho người đến chùa Sankheyya thông báo trước rồi cùng với tùy tùng xa mã, ngự giá lên đường. Rất kính trọng chốn Phật điện, đức vua ra lệnh ngừng xe ở ngoài cổng, rồi cùng với năm trăm tùy tùng, thị vệ chậm rãi đi bộ vào chốn thiền môn. Các vị sư thị giả lịch thiệp dẫn đức vua vào gặp đại đức Àyupàla, đang chờ ngài ở giảng đường mênh mông, rộng lớn, có khả năng dung chứa cả hằng vạn người.
Sau khi chào hỏi cung kính, xã giao, yên vị chủ khách rồi, đức vua hỏi:
- Bạch đại đức! Sự xuất gia của ngài đây có lợi ích như thế nào? Cao quý như thế nào?
Trưởng lão Àyupàla đáp:
- Tâu đại vương! Người xuất gia có ba điều lợi ích và cao quý như sau: nhờ thọ trì giới, người ấy thường lánh xa điều ác, thành tựu điều lành, tăng trưởng điều lành, người ấy sẽ trở thành một con người đức hạnh. Đấy là sự lợi ích và cao quý thứ nhất. Thứ hai, nhờ thực hành thiền định, người ấy tìm được sự quân bình và yên tĩnh tâm hồn, người ấy sẽ không còn bị tham sân nung đốt, quấy nhiễu nữa. Thứ ba, nhờ thực hành thiền quán mà người ấy phát sanh trí tuệ, viên mãn trí tuệ... để lần lượt chứng đắc đạo quả Thánh nhân, chấm dứt khổ đau, phiền não...
Đấy là ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn của người xuất gia, tâu Đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hài lòng rồi nói:
- Trẫm rất hoan hỷ về cách đáp vắn tắt nhưng đầy đủ của đại đức. Nhưng trẫm còn thắc mắc rằng, là người cư sĩ tại gia có thể thực hành để gặt hái ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn ấy chăng?
- Có thể được, tâu đại vương !
- Xin đại đức từ bi chỉ giáo cho !
- Người xuất gia nhờ tu tập theo giới định tuệ nên gặt hái được ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn. Còn người cư sĩ tại gia dù họ tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền, nhưng họ còn có cơ hội nghe Pháp mà tăng trưởng trí tuệ. Bố thí có công năng tạo trữ phước báu, mở rộng tấm lòng và học hạnh xả ly. Thọ trì ngũ giới hoặc bát quan trai giới làm cho con người trở nên hiền thiện, đức hạnh. Tham thiền có công năng làm cho tham sân lặng yên. Và nghe pháp có thể khai mở trí tuệ, chứng đắc các đạo quả Thánh nhơn . Như vậy, người cư sĩ tại gia cũng có thể thực hành và thành tựu ba điều lợi ích, cao quý ấy, tâu đại vương !
- Đại đức nói vậy thì có gì làm bằng chứng?
- Có chứ, tâu đại vương! Lúc Đức Thế Tôn thuyết về Túc sanh truyện, nhất là truyện kể về thái tử Vessantara với 700 đại thí, ở gần cửa thành Sankassa, hằng chục ngàn cư sĩ dự nghe đều đắc được quả Thánh, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà chợt cất lời tán thán:
- Ôi! Thật là vi diệu! Hôm nay nhờ đại đức khai mở kiến thức cho trẫm thấy rõ răng: chỉ nghe Pháp thôi cũng có thể thành tựu được đạo quả Thánh nhân, không kể là xuất gia hay tại gia!
- Đúng thế, tâu đại vương!
Bất ngờ nhất, đức vua Mi-lan-đà hỏi vặn lại:
- Thế thì, thưa đại đức! Sự xuất gia của ngài và của hơn trăm vị tỳ khưu trong ngôi chùa Sankheyya này, trong khắp quốc độ này, quả thật là vô ích, rỗng không, chẳng lợi ích gì ráo, chẳng cao thượng gì ráo. Vì sao vậy? Vì làm một tại gia cư sĩ cũng có thể thành tựu ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn? Thưa, có phải vậy chăng?
Trưởng lão Àyupàla Phật học uyên thâm nhưng không sở trường về tranh luận, không nắm rõ những câu hỏi nom có vẻ bình thường nhưng ẩn dấu nhiều gút mắc, nên ngài đã không trả lời được, nín lặng.
Đức vua Mi-lan-đà còn tấn công tiếp, không khoan nhượng:
- Như vậy, giống dòng của sa môn Thích tử xuất gia, giữ gìn trai phạn nghiêm cẩn, không dùng quá ngọ là vì đã tạo trữ những việc làm xấu xa từ trước, nghiệp còn dư sót nên kiếp này phải bị trả quả ăn mỗi ngày một bữa, có phải thế chăng? Có phải các vị xuất gia ấy trước đây đã cướp đoạt món ăn của kẻ khác, bỏ đói kẻ khác nên kiếp này phải ăn ít lại để trả nợ mình đã gieo?
Có một số các vị xuất gia khác, theo hạnh đầu đà sống đời không nhà cửa, ngụ ở cội cây, rừng, nghĩa địa, chỗ không có mái che ... trông rất là tội nghiệp. Tại sao thế? Các vị ấy trước đây lỡ gây nhân trộm cướp, đốt phá xóm làng, dỡ nhà cửa của kẻ khác, cướp đoạt nhà cửa của kẻ khác làm cho người ta không có mái che trên đầu, chẳng còn nhà để ở; nên kiếp này, suốt đời phải bị trả quả xấu do nghiệp mình đã làm, chứ cao thượng cái nỗi gì?
Có rất nhiều vị thọ đầu đà bậc thượng, suốt đời ngăn oai nghi nằm, họ cũng chẳng cao thượng gì đâu! Tại sao? Vì họ đã từng làm trộm cướp, sau khi đón đường tước giật của cải, tài sản của kẻ lữ hành còn bắt trói họ, buộc hai cánh tay vào sau, bắt họ ngồi không cho họ nằm! Thế đấy, gây nhân sao thì gặt quả vậy chẳng sai trật tí nào.
Thưa đại đức! Vậy những giới, những định của các bậc sa môn xuất gia chẳng hơn gì người tại gia, mà trái lại, còn tệ hơn nữa vậy. Sống đời tại gia được phước báu nhiều hơn; được thọ hưởng ngũ dục nhưng rồi cũng đắc đạo quả Thánh nhân như ai. Có phải thế không, đại đức hãy trả lời cho trẫm nghe đi?
Trưởng lão Àyupàla thấy lập luận của nhà vua không đúng với sự thật, không đúng với vận hành nhân quả qua các kiếp sống, nhưng vì không có biện tài nên ngài không đáp được, đành ngồi giữ im lặng của bậc Thánh.
Một vị lão thần trong năm trăm người tùy tùng tâu rằng:
- Thưa Đại vương! Theo hạ thần được biết, ngài đại đức trưởng lão thâm uyên Phật học, từng thuộc lòng năm bộ kinh Nikàya, nhưng vì do không được lợi khẩu, lợi trí nên không đáp được đấy thôi. Ngưỡng mong đại vương mở lượng hải hà dung thứ!
Lòng cao ngạo chợt khởi lên, đức vua Mi-lan-đà nói to, giọng như sấm động:
- Chẳng phải chỉ riêng có đại đức đây không đáp được, mà toàn cõi châu Diêm-phù-đề này cũng thế, chẳng có sa môn nào đáp được đâu. Tất cả đều rỗng không, điêu tàn, hoang phế... là kiến thức và trí óc của các sa môn Thích tử đời nay! Cho dẫu họ có tự xưng mình là bậc A-la-hán, là bậc Chánh Đẳng Giác đi chăng nữa thì cũng ngồi mà toát mồ hôi vì những câu hỏi của trẫm đưa ra!
Trưởng lão Àyupàla tự nghĩ: "Đúng là ta chẳng thể nào soi sáng vấn đề cho đức vua dầu kinh điển ta nắm vững. Các vị đại tôn túc đã nói rất rõ rằng, lúc cần thiết, tỳ kheo Na-tiên sẽ có mặt ở đây, sẽ dùng trí tuệ biện tài để khuất phục đức vua này. Trách nhiệm bước đầu của ta thế là xong."
Từ giã chùa Sankheyya, đức vua vô cùng buồn bã. Ba hôm sau lại có vị đại thần tên là Nemittiya vào tâu với đức vua:
- Mấy năm nay hạ thần có nghe danh một vị Thánh tăng tên là Na-tiên, còn đang độ thanh xuân nhưng sức học bao trùm thiên hạ. Vị ấy xuất thân trong gia đình bà-la-môn, thuở mới bảy tuổi đã thông suốt Tam Phệ-đà luôn cả chú giải cùng năm bộ sách truyền thống của tôn giáo này. Thế rồi, vị ấy từ bỏ truyền thống, bao năm tu học trong nhiều hang động ở tuyết sơn và các thảo am dưới chân ngọn Hymalaya. Vị ấy đã thọ giáo chân truyền từ các bậc đại ẩn sĩ. Sau đó, mới hơn hai mươi tuổi đầu, vị ấy đã được các bậc đại sư phụ cho xuống núi. Từ đó, suốt từ miền đông đến miền nam, chùa chiền được chỉnh tu, am thất, tự viện mọc lên, Tăng chúng từ đâu đổ về, những chiếc y vàng chói lọi dày đặc khắp các thành phố, thị trấn, hang cùng ngõ hẻm...
Tâu đại vương! Vị ấy quả thật có thần cơ diệu toán, phục hưng Phật giáo rất có chiến lược và chiến thuật. Vị ấy đánh ngoài vào trong và hiện đang bao vây kinh đô của đại vương! Cuộc luận chiến cách đây mấy hôm ở ngôi chùa Sankheyya mà đại vương đã gặp, đấy chỉ là một đội quân "tiền trạm", thăm dò thực lực của đại vương đấy thôi!
Đại thần Nemittiya vốn là viên võ tướng nên cách trình bày, ngôn ngữ nhuốm mùi trận mạc. Vừa nghe đến tên Na-tiên, đức vua đã cảm thấy xao xuyến, rúng động cả châu thân, không biết tại sao!
Vị đại thần vô tình không hay biết, cứ thao thao bất tuyệt:
- Vị Thánh Tăng Na-tiên ấy từ nơi này sang nơi khác, lần lượt luận thắng các danh sĩ bà-la-môn, lần lượt khai đàn thuyết giáo độ cho rất nhiều tu sĩ và thiện nam tín nữ. Đi đâu, vị Thánh Tăng ấy cũng rất đông đảo đệ tử tùy tùng cùng đồ chúng. Người ta nói rằng dung mạo vị ấy đẹp như đức Ànanda, là vị thị giả của Đức Phật thời sinh tiền, đạo hạnh và trí tuệ thì đúng là tôn giả Sariputta, đại đệ tử trí tuệ đệ nhất của Phật tổ hóa sanh!
Tâu đại vương! Hiện tại, vị Thánh Tăng ấy với đông đảo tùy tùng vừa đến chùa Sankheyya sáng nay, kinh đô Sàgala của đại vương đã bị hằng trăm ngàn tu sĩ áo vàng đánh chiếm mất rồi!
Bần thần, đức vua đứng dậy làm rơi vỡ một tách trà, trong lúc ấy, viên đại thần tên là Devamantiyà xuất hiện:
- Tâu đại vương!
- Cứ nói - đức vua phán.
- Vị Thánh Tăng Na-tiên mà quan thượng thư vừa trình bày là đúng sự thật. Vị ấy thông suốt Tam Phệ-đà, thông suốt Tam Tạng là chuyện không phải ngoa truyền. Không kể vị ấy, chính những đệ tử của vị ấy, mới xuất gia tỳ kheo hai, ba năm mà cũng rất nhiều vị thuộc lòng một tạng, hai tạng. Họ chẳng sợ hãi một ai cả, chia nhau từng người đi hoằng pháp đó đây.
Đức vua Mi-lan-đà đã lấy lại bình tĩnh, chậm rãi hỏi:
- Các khanh có nghe nói đến sở học và trí tuệ của vị ấy chăng?
- Tâu, đại vương thông suốt mười tám môn học nghệ, thì nghe đâu vị ấy còn thuộc vào loại tổ sư! Như vậy mọi kiến thức về triết học, thắng luận, thiên văn, địa lý, toán học, văn chương, sử truyện, ngữ ngôn, cú pháp, cổ văn, tử vi, chiêm tinh v.v... thì đại vương chớ nên đụng đến làm gì! Còn Phật học thì kiến thức của vị ấy nghe đâu được một trăm lẻ tám vị Thánh Tăng A-la-hán trên Hy mã lạp sơn trao truyền. Vị ấy còn là bậc lợi khẩu, lợi trí, lợi tuệ; ăn nói lại du dương, trầm bỗng, lưu loát; quần chúng như bị mê hoặc bởi từ nhiều vẻ đẹp: kiến thức, tâm hồn cùng tướng mạo của vị ấy nữa.
Tâu đại vương! Nghe đâu, các vị chư thiên, Tứ đại Thiên vương, Đế thích Thiên vương cũng bị vị ấy nhiếp phục, thâu làm đệ tử. Nếu thế, vị ấy muốn làm thầy không những chỉ cõi người mà còn làm thầy cả cõi trời nữa!
Vị ấy hiện giờ đang ở trong kinh đô của đại vương, chùa Sankheyya; Tăng chúng và thiện nam tín nữ từ mười phương đang kéo nhau về đấy để nghe pháp, cúng dường. Năm con sông đổ tuôn về biển như thế nào thì mọi ngã đường người ta đổ tuôn về chùa Sankheyya cũng dường thế ấy!
Đức vua Mi-lan-đà đi tới đi lui, đi lui rồi đi tới, trời không nóng mà ngài chảy mồ hôi. Đức vua đã cảm thấy sợ hãi thật sự, mọi biện pháp trấn an, làm chủ cảm xúc chợt trở nên vô ích khi nghe kể về vị Thánh Tăng tên là Na-tiên!
Thật lâu sau, đức vua mới nói:
- Các khanh hãy đến chùa Sankheyya, nói với đại đức Na-tiên rằng, là hoàng đế Mi-lan-đà sẽ đến thăm đại đức và Tăng chúng ngay ngày mai.
Thế rồi hôm sau, đức vua sửa soạn long xa cùng với thị vệ tùy tùng năm trăm người, ngự giá đến chùa Sankheyya. Khi ấy, ngài Na-tiên đã chuẩn bị sắp xếp đâu vào đó sẵn sàng: ngài đang ngồi giữa giảng đường to lớn cùng với tám mươi ngàn tỳ khưu! Sở dĩ ngài Na-tiên tập trung số Tăng chúng đông đảo như vậy là muốn đánh mạnh vào tâm lý của đức vua; vì uy lực của Tăng thường làm cho cả loài chúa sơn lâm kiêu hùng nhất cũng phải cụp đuôi!
Và quả thật như vậy, vừa bước vào, ngó lên giảng đường, tóc đức vua đã dựng ngược! Tăng chúng lớp lớp uy nghi, trang nghiêm ngồi bất động, trầm mặc tạo nên một uy lực làm cho đức vua run sợ thật sự!
Đức vua hỏi nho nhỏ vị đại thần thân tín:
- Này Devamantiya! Tăng chúng ở đâu mà đông đúc kinh khiếp như thế?
- Tâu, hạ thần cũng không biết nữa, chắc là họ dùng thần thông biến hóa ra!
- Hoang đường!
- Vậy thì hạ thần xin tâu rõ: bốn mươi ngàn vị ngồi ở đằng sau đều là tân tỳ kheo, thọ đại giới từ một hạ đến sáu hạ! Bốn mươi ngàn vị ngồi đằng trước cao hạ hơn, từ tám hạ đến hai mươi hạ.
Tuy nhiên, dầu nhỏ, dầu lớn, họ đều là tùy tùng, đang theo học với vị Thánh tăng Na-tiên cả thảy! Đại vương đã khiếp chưa, họ đều quy giáo, khâm phục ngài Na-tiên!
- Sao khanh biết rõ vậy?
- Tâu, vì khâm phục và sợ hãi vị ấy nên hạ thần đã điều tra tận tường!
Đức vua Mi-lan-đà lúc ấy như con voi bị vây khổn giữa bầy tê ngưu, như loài rồng nằm co lại trước móng vuốt của những con chim đại bàng, như con chó chóc bị con trăn quấn chặt và sắp nuốt, như con gấu ngựa bị trâu rừng bao vây, như con ếch bị con rắn rượt đuổi, như con nai bị sập bẫy thợ săn, như con chuột run sợ trước oai lực của mèo, như loài tà tinh quỷ mị ở trong tay ông thầy pháp, như mặt trăng bị nhật thực ăn nuốt... Hoặc như rắn bị bắt trong giỏ, chim bị nhốt trong lồng, cá bị dính lưới, như trẻ đi lạc trong rừng sâu nhiều thú dữ, như dạ xoa có tội gặp mặt Tỳ sa môn Thiên vương (Vessavanna), như vị trời hết thọ mạng rời thiên cung v.v... Cũng như thế ấy là sự sợ hãi của đức vua khi đối diện với tỳ kheo Na-tiên cùng với Tăng chúng của ngài. Tuy nhiên, vốn là người trí dũng song toàn, văn võ toàn tài, đức vua đã vội trấn an bằng ý nghĩ như vầy: "Đại đức này dầu có ghê gớm đúng như lời đồn đãi, với khí thế uy mãnh, hùng lực hôm nay, cũng không làm gì nỗi ta đâu!" Rồi ngài mỉm cười nói với viên đại thần thân tín:
- Khanh khỏi cần giới thiệu. Giữa tám mươi ngàn vị tỳ kheo, trẫm có thể nhận ra ngay ai là Na-tiên đại đức.
Và quả đúng như vậy, tỳ kheo Na-tiên ngồi giữa như một vầng trăng sáng bởi diện mạo uy nghi và cốt cách tỏa ra, chẳng thể lầm lẫn được.
Quan đại thần Devamantiya gật đầu:
- Đúng thế, tâu đại vương! Ngài đã nhận ra chúa sư tử lông vàng rồi vậy.
Dầu đã tự trấn áp, tâm của đức vua vẫn bị chao đảo, như bị sóng đánh, nó không thể lặng yên: ngài đã không làm chủ được mình trước cuộc luận tài vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người!
Cuộc vấn đáp giữa vua Mi-lan-đà và tỳ kheo Na-tiên bắt đầu!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:18:01 GMT -5
II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP (gồm 244 câu hỏi) 1. DanhĐức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện: - Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng? Tỳ kheo Na-tiên đã quan sát vị vua hữu danh đã từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, vì ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn gì khi nhiếp phục đức vua này. Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp: - Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe. - Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hãy nghe đi. - Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hãy nói đi! - Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi. - Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi. - Ngài đáp như thế nào? - Đại vương hỏi như thế nào? Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường... đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô "lành thay" vang rền như sấm dội. Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp: - Bạch đại đức, ngài tên gì? - Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. Còn cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên gì đi nữa thì nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ gì đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có gì là "tôi" là "của tôi" như ngã chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rõ! Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh: - Xin tất cả các vị hãy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-tiên vừa nói rằng, cái tên Na-tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái gì là Na-tiên ở đấy, chẳng có gì là "tôi" và "của tôi" cả. Mọi người nghe rõ rồi đấy chứ? Rồi quay sang tỳ kheo Na-tiên , đức vua phản vấn: - Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là "ta" và "của ta" thì những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v... thì ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai trì giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm gì cả! Và như vậy thì nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, hòa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-tiên là gì đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rõ rồi đấy chứ. - Tâu đại vương! Bần tăng nghe rõ rồi! - Người nghe đó có phải là Na-tiên chăng? - Tâu, không phải. - Chẳng có gì là Na-tiên cả sao? - Vâng, chính thế! - Tóc, lông, móng, răng da... kia là Na-tiên sao? - Tâu, đại vương, không phải. - Thịt, tủy, gân, xương là Na-tiên chăng? - Thưa, không phải! - Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-tiên chăng? - Tâu, Đại vương, không phải. - Hay lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Na-tiên? - Tâu, không phải thế. - Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-tiên? - Tâu, cũng chưa chắc là vậy. Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn: - Bạch đại đức! Hồi nãy giờ trẫm đã cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v... có phải là Na-tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. Vì khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, thì chẳng có cái gì được gọi là Na-tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quý vị hãy làm chứng cho trẫm đấy nhé! Đại đức Na-tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, lòng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói gì ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng lòng từ. Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-tiên mới chậm rãi nói: - Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng vì tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt? - Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không! - Thế ra đại vương tới đây bằng xe. - Vâng, trẫm đến bằng xe. Đại đức Na-tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người: - Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hãy xác nhận cho: đức vua đã nói rằng ngài đến đây bằng xe! Rồi quay sang đức vua, ngài Na-tiên hỏi lại: - Đại vương bảo rằng đạivương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ? - Chắc chắn là thật. - Vậy đại vương hãy nói cho rõ về cái xe ấy! Cái gì gọi là xe? Cái gọng chăng? - Không phải. - Hay cái trục, cái bánh là xe? - Cũng không phải. - Cái thùng, cái mui là xe chăng? - Chẳng phải đâu. - Hoặc roi, dây cương là xe? - Chẳng phải. - Thế chắc cái ách, căm xe? - Không phải nốt. - Vậy cái gì là xe? Đức vua Mi-lan-đà im lặng. Đại đức Na-tiên cất giọng chậm rãi: - Tâu đại vương! Bần tăng đã đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái gì là xe thì đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái gì được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đạivương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hãy làm chứng cho! Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng thì cung thỉnh đức vua tìm cách luận thắng đối phương. Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói: - Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hãy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v... nếu nằm riêng lẻ thì không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại thì giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối? - Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn... nếu chúng nằm riêng lẻ thì làm sao được gọi là Na-tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại thì giả danh gọi là Na-tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-tiên thì đâu phải lời nói dối? Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết lòng tán thán đại đức Na-tiên: - Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng? Cả đại giảng đường vang lên tiếng "lành thay, lành thay" làm chấn động cả kinh đô Sàgala. * * * 2. Con số hạ lạp
Để cho không khí im lắng lại một lúc, đức vua hỏi tiếp:
- Đại đức năm nay được bao nhiêu hạ lạp rồi?
- Thưa, bần tăng tu mới được bảy hạ.
- Con số 7 ấy là đếm luôn cả đại đức vào trong, hay là chỉ đếm cái hạ không thôi? Con số 7 ấy là con số của đại đức hay con số của hạ?
Khi ấy, đức vua đang mặc y phục vương giả với những đồ trang sức quý báu, cái bóng sáng rỡ của ngài rọi vào trong chai đựng nước ai cũng trông thấy rõ ràng. Đại đức Na-tiên đưa tay chỉ, rồi hỏi ngược lại rằng:
- Tâu đại vương! Cái bóng với đồ trang sức rực rỡ trong chai nước kia là đại vương, hay người đang đối thoại với bần tăng đây là đại vương?
- Trẫm đây mới thật là trẫm, còn cái bóng kia nương nơi trẫm mà có. Nó có là bởi trẫm.
- Cũng thế, tâu đại vương! Số 7 kia là số hạ lạp chứ không phải bần tăng, nhưng nó có được là do nương gá nơi bần tăng. Nó có là bởi bần tăng.
- Hay lắm! Quả thật đúng như vậy! Cục đá quăng qua thì cục chì ném lại. Thật thú vị làm sao!
* * *3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả? Sau hai câu hỏi mở đầu, đức vua biết là gặp được bậc trí tuệ, nên ngài muốn đi sâu vào giáo pháp, bèn ướm lời: - Bạch đại đức! Trẫm rất thích đàm đạo với đại đức về nhiều vấn đề khác nữa, nhưng không rõ đại đức có hoan hỷ không? - Tâu đại vương! Cái đó còn tùy thuộc nơi đại vương! Nếu đại vương đàm thoại mà lấy tư cách một Trí giả (Panditavàda), thì bần tăng sẵn sàng hầu đáp. Nhưng nếu đại vương đứng trên tư cách mình là bậc Vương giả (Ràjavàda), thì xin thưa thẳng, bần tăng sẽ không thể hầu đối được. - Tư cách một Trí giả là như thế nào? - Tâu đại vương! Phàm là Trí giả nói chuyện với nhau, bao giờ cũng nói lời ngay thật, muốn trao đổi hiểu biết, soi sáng hiểu biết cho nhau. Trong câu chuyện, nếu có những lý lẽ đưa ra, dù đúng, dù sai, dù cao, dù thấp, dù phải, dù trái v.v... các bậc Trí giả không bao giờ vì thế mà phiền lòng hay nóng giận. Họ tôn trọng nhau, dù ý kiến, tư tưởng có bất đồng chăng nữa. Thắng, bại không hề làm cho họ chau mày, mà chính chân lý, sự thật mới thuyết phục được họ. Nếu gặp phải đối phương là tay lợi trí, lợi khẩu, hùng biện đại tài, bậc Trí giả không vì thế mà tìm cách cản ngăn, áp chế, bắt ngừng nói, đuổi ra khỏi chỗ ngồi; hoặc lươn lẹo dùng những xảo thuật miệng lưỡi, ngụy biện nhằm tranh thắng cho kỳ được! Đấy là cốt cách, phong thái đầy hiểu biết của bậc Trí giả, tâu đại vương! Đức vua gật đầu mỉm cười: - Đúng bậc Trí giả là vậy! Còn tư cách của bậc Vương giả là thế nào, thưa đại đức? - Tâu đại vương! Bậc Vương giả vì quen sống trong quyền lực, nhất hô bá ứng, nên khi đối thoại thường quen áp đảo, bắt buộc kẻ khác chấp thuận quan điểm của mình. Nếu có ai đó nói một câu không vừa ý, hoặc đối nghịch với tư kiến của mình; bậc vương giả sẽ không hài lòng, sẵn sàng dùng quyền uy của mình mà bắt tội, chẳng dựa vào lẽ phải và công bằng. Những cuộc nói chuyện như thế rồi chẳng đi đến đâu, vì thái độ và lối xử sự của các bậc Vương giả đã tự ngăn chặn con đường về với sự thật, đốt cháy mối cảm thông và cắt đứt sự hiểu biết. Đối thoại trong tư thế bậc Vương giả thường rơi vào một chiều, phiến diện và ngõ cụt như vậy đấy, tâu đại vương! Đức vua Mi-lan-đà lại gật đầu nữa: - Hay lắm, thưa đại đức, trẫm đã hiểu rõ rồi. Trẫm chẳng thích cách nói chuyện của người Vương giả, trái lại, trẫm sẽ cố gắng xem mình là người Trí giả để hầu chuyện với đại đức. Khi đối thoại, đại đức hãy quên cái hào nhoáng cao sang bên ngoài của trẫm đi, mà hãy tiếp xúc với chính con người của trẫm thôi. Đại đức cứ nói chuyện một cách tự nhiên, bình thường như đại đức nói chuyện với chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni, cận sự nam, nữ v.v...; thậm chí như nói chuyện với người hộ tự, người quét rác, người nấu ăn trong ngôi chùa này cũng được vậy, trẫm không bắt lỗi gì đâu! - Tâu đại vương! Ngài đã phán những lời rất cao quý, rất hay, rất đúng đắn, đúng là lời của một bậc minh quân vĩ đại nhất trên thế gian. Bần tăng rất khâm phục, và bần tăng sẽ rất hoan hỷ, thoải mái để hầu chuyện với Đại vương như là một bậc Trí giả - Vậy đại đức hãy nghe Trẫm hỏi. - Tâu, xin ngài cứ hỏi đi? - Bạch, trẫm đã hỏi xong rồi. - Thưa, bần tăng đã đáp rồi. - Đại đức đáp như thế nào? - Đại vương hỏi như thế nào? Đức vua Mi-lan-đà vì vui thích mà thử trí tuệ của đại đức Na-tiên đó thôi, các câu hỏi này chỉ lặp lại, nhưng giảng đường thì mọi người hoan hô, tán thán vang rân. * * * 4. Thỉnh mời vào Hoàng cung
Lúc ấy, đức vua nghĩ rằng: "Vị tỳ kheo này trí tuệ bất khả tư nghì, lại hoàn toàn tự chủ, tự tin. Hiếm có được một người như thế trên thế gian này. Ôi! Ta còn biết bao nhiêu là câu hỏi về lẽ tử sinh, về niềm vui, nỗi khổ, về bí mật đằng sau kiếp sống, nó hằng gậm nhấm ta ngày đêm không nguôi, không dứt. Nhưng hôm nay hỏi thế là vừa đủ, ngày mai ta sẽ thỉnh ngài vào hoàng cung, thì giờ rộng rãi, tha hồ mà đàm đạo."
Nghĩ thế, đức vua bảo viên đại thần Devamantiya đến đảnh lễ đại đức Na-tiên và xin mời ngài vào hoàng cung ngày mai. Đại đức Na-tiên mỉm cười bằng lòng. Đức vua cúi đầu, chấp tay chào đại chúng và ngài Na-tiên rồi, rời khỏi chỗ ngồi, theo phái đoàn tùy tùng hộ giá, từ giã. Ngồi trên long xa mà tâm trí đức vua như để đâu đâu, cứ vẩn vơ tưởng đến hình bóng của ngài Na-tiên , chẳng khác gì một ám ảnh! Bất chợt, đức vua thốt thành lời: "Na-tiên ... trí tuệ vô song"!
Sáng hôm sau, trời vừa hửng sáng, 4 viên đại thần Nemittiya, Antakàya, Mankura và Sappadinna cùng nhau vào hầu đức vua, đồng tâu rằng:
- Chúng hạ thần nên thỉnh đại đức Na-tiên như thế nào?
- Thỉnh vào thọ thực và giảng đạo.
- Tâu, cùng bao nhiêu vị tỳ kheo tháp tùng?
- Bao nhiêu vị cũng được, tùy ý đại đức Na-tiên.
Vị đại thần Sappadinna vốn là vị quan thủ khố, muốn tiết kiệm cho hoàng gia, nên tâu rằng:
- Xin đại vương cho phép mời đại đức Na-tiên với cùng mười vị tỳ khưu nữa là lẽ phải.
- Khanh chớ nhiều lời, trẫm đã bảo là hãy để đại đức Na-tiên tùy nghi.
- Tâu đại vương, nếu lỡ đại đức Na-tiên dẫn theo cả trăm ngàn vị thì vật thực tiêu tốn hằng trăm xe và cả hằng ngàn người phục dịch cũng lo không xuể!
Đức vua chợt nghiêm mặt lại:
- Nhà ngươi thật là bủn xỉn, keo kiệt! Của tiền, vật thực là của hoàng gia chứ không phải là của ngươi mà tính toán, so đo như thế! Trẫm là bậc Đế vương, giàu sang bốn biển; lẽ nào trẫm không lo nổi một bữa ăn cho Tăng chúng chùa Sankheyya hay sao? Các ngươi hãy đi đi, ai lo việc nấy, nếu công việc không chu toàn sẽ bị tội "khi quân" đấy!
Bốn vị đại thần sợ hãi, khấu đầu rút lui. Rồi một vị chuẩn bị xuất kho, vị lo lương thực, vị đi huy động người; còn viên đại thần Antakàya tức tốc lên ngựa đi mời thỉnh đại đức Na-tiên.
Đại đức Na-tiên hỏi:
- Mỹ ý của Đức vua muốn bần tăng cùng đến với bao nhiêu vị?
Đại thần Antakàya cúi đầu:
- Thưa, hoàng cung rộng rãi, của tiền như biển, vật thực như rừng; đức vua bảo rằng, hoàng gia hân hạnh được cung nghinh, cúng dường Tăng chúng đông chừng nào tốt chừng ấy!
Lúc bấy giờ, đại đức Na-tiên đã chuẩn bị đâu đấy xong, với y bát chỉnh tề, ngài cùng với tám mươi ngàn vị tỳ khưu trang nghiêm khởi hành. Thế rồi, cả rừng mây vàng như sóng cuộn tràn qua kinh đô Sàgala, lần lượt tuôn đổ về cung điện. Dân chúng đông nghẹt các ngả đường, nô nức chen lấn nhau để xem một hiện tượng hy hữu: thời của một Tăng chúng huy hòang và cực thịnh chưa từng thấy ở châu Diêm phù đề!
Viên đại thần Atakàya trao ngựa cho quân hầu, đi bên cạnh đại đức Na-tiên, với lòng vô cùng ngưỡng mộ, y lân la hỏi chuyện:
- Bạch đại đức! Cuộc vấn đáp hôm qua hay quá chừng nhưng tiếc là đệ tử không nắm được nghĩa lý sâu xa, nên còn lắm điều thắc mắc. Trước ngài bảo rằng tên ngài là Na-tiên, sau đó ngài lại phủ nhận Na-tiên ấy, và bảo rằng không hề có Na-tiên?
Đại đức Na-tiên mỉm cười, nói nhỏ:
- Vậy theo ngài, cái gì là Na-tiên?
- Thưa, hơi thở còn là sanh mạng còn, hơi thở duy trì sự sống. Chẳng hay hơi thở ấy có phải là Na-tiên không?
- Thế hơi thở kia có ra mà không có vô thì sao?
- Tâu, sẽ chết ạ!
- Những người thổi kèn, thổi sáo, thổi ống tiêu... họ chỉ thổi ra, mà không thổi vô, là sao nhỉ?
Viên đại thần im lặng.
- Có những đạo sĩ bà-la-môn họ tu phép nhịn thở năm ngày, bảy ngày ...., chẳng vô mà cũng chẳng ra thì phải giải thích làm sao?
- Đệ tử quả thật là không biết, mong đại đức chỉ giáo cho?
- Này Atakàya! Đại đức Na-tiên chậm rãi thuyết giảng - Hơi thở vào ra kia chỉ làm cái phần việc thở vô thở ra mà thôi, tương tự như phận việc của con mắt, của lỗ tai, của cái lưỡi ...vậy. Trong tất cả chúng chẳng có cái gì được gọi là chúng sanh, là thức tánh ở đấy cả. Chúng chỉ là "thân hành", ngài nên biết như vậy.
- "Thân hành" ấy nó trú ở đâu, bạch ngài?
- Nó trú trong ngũ uẩn, chính xác là trong "sắc uẩn"! Đi sâu vào toàn bộ sắc uẩn ấy, chúng chỉ là rỗng không, chẳng có gì được gọi là Na-tiên, ngài nên hiểu như thế! [*]
Đại thần Atakàya nghe xong, tâm trí sáng suốt, vững niềm tin trong sạch với giáo pháp, thành kính chấp tay nói:
- Bạch đại đức, từ rày xin ngài cho phép đệ tử được làm một cận sự nam trong Phật giáo!
[*] Không những sắc uẩn mà thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng trống rỗng như thế. Nhưng khi ngũ uẩn được kết hợp làm một tiến trình, một "ảo tưởng", có một chúng sanh (một linh hồn, một tự ngã) ra đời. Thật ra, tiến trình ngũ uẩn ấy sinh diệt liên tục, thay đổi liên tục ...
* * * 5. Cứu cánh của Sa môn hạnh Sau buổi cúng dường trọng thể, đức vua thỉnh tất cả tỳ khưu Tăng về chùa an nghỉ, chỉ xin lưu lại mười vị cùng với đại đức Na-tiên dự buổi Pháp đàm. Đức vua thỉnh đại đức Na-tiên cùng mười vị tỳ khưu ngồi cao phía trên, ngài ngồi bên dưới cùng với quần thần, rồi bạch: - Thưa, trẫm đã sẵn sàng rồi. - Tâu, bần tăng cũng đã sẵn sàng rồi, đại vương hãy tùy nghi. - Thế thì trẫm xin hỏi đây: Sống đời xuất gia có gì là lợi ích? Có gì là cao thượng? - Tâu đại vương! Người sống đời xuất gia thành tưụ được bốn điều lợi ích: Thứ nhất là không còn sầu khổ khi một ngũ uẩn sanh, hay gọi là "khổ sanh". Thứ hai, không còn sầu khổ khi ngũ uẩn héo mòn , tiều tụy, hay gọi là "khổ già". Thứ ba, không còn sầu khổ khi ngũ uẩn đau đớn, nhức nhối, khó chịu, hay gọi là "khổ bệnh". Thứ tư, không còn sầu khổ khi ngũ uẩn tàn hoại, diệt mất, hay gọi là "khổ chết". Sự thay đổi, biến hoại, tiêu diệt của ngũ uẩn từ sanh, lão, bệnh, đến tử - người xuất gia hằng suy niệm, hằng quán tưởng nên sẽ thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối - là những lợi ích thù thắng đấy, tâu đại vương! - Đúng thế! Quả thật là lợi ích to lớn giữa cõi nhân sinh này. Còn có cái gì là cao thượng, thật sự cao thượng của người xuất gia, thưa đại đức? - Thưa, khi người xuất gia không còn bị sinh lão bệnh tử của ngũ uẩn ma vương ấy chi phối nữa, vị ấy thân chứng một trạng thái quân bình tuyệt hảo, hạnh phúc tuyệt hảo; vượt cao, vượt trên tất cả hạnh phúc của trần thế, siêu việt ý niệm, ngữ ngôn: cái ấy giả danh là Niết bàn; nơi không còn sanh tử, khổ đau và phiền não nữa! Đấy là sự cao thượng trên tất cả mọi sự cao thượng, tâu đại vương! Đức vua rất hoan hỷ hỏi tiếp: - Tất cả sa môn đều có nguyện vọng như thế sao? - Tâu đại vương! Cứu cánh sa môn hạnh thì như thế, nhưng trong hàng Tăng lữ hiện có bảy hạng người xuất gia vì lý do khác nhau: 1. Có người xuất gia vì muốn trốn luật vua, phép nước. 2. Có người xuất gia là để được thân cận giới quyền quý cao sang. 3. Có người xuất gia là mong được quyền hành trong một ngôi chùa hay lãnh đạo Tăng lữ, đồ chúng. 4. Có người xuất gia vì thất nghiệp, muốn kiếm miếng cơm manh áo. 5. Có người xuất gia vì cô thế, cô thân, trốn kẻ thù nghịch. 6. Có người xuất gia vì mang công mắc nợ. 7. Có người xuất gia vì sợ sanh tử luân hồi, muốn chấm dứt khổ đau, phiền não. Thấy đại đức Na-tiên trả lời đâu ra đó rất rõ ràng, minh bạch, lại tự nhiên như hít thở khí trời; ngài phục lắm, thử ướm hỏi: - Vậy chắc chắn đại đức vì mục đích cao thượng của hạng người thứ bảy mà xuất gia làm sa môn? Đại đức Na-tiên mỉm cười gật đầu: - Thưa, không phải thế! Bần tăng rời khỏi gia đình lúc bảy tuổi, còn rất nhỏ thì nào biết gì! Sau dần lớn lên, nhờ Thầy tổ, nhờ các vị trưởng lão dày công giáo hóa, trí óc mới khơi mở được chút ít. Hiện giờ thì có thể nói rằng, bần tăng tu là cốt ý để diệt khổ, đấy không còn là lời nói dối nữa! Đức vua Mi-lan-đà nghe cách trả lời, cách nói đầy khiêm tốn của đại đức Na-tiên, ngài kính trọng quá, quỳ xuống vập đầu và nói lớn: - Ôi lành thay! Cao quý thay! * * * 6. Tái sanh - Vô sanh
Nghỉ ngơi một lát, vua lại hỏi:
- Có ai chết rồi mà không sanh trở lại chăng?
- Thưa, có kẻ sanh trở lại và có người không sanh trở lại.
- Điều kiện nào để một người bị tái sanh? Và điều kiện nào để một người được vô sanh?
- Tâu, người nào còn tham sân si, phiền não, người ấy còn tái sanh; người nào tiêu diệt được tham sân si, phiền não, người ấy sẽ vô sanh.
Nghe trả lời vậy, đức vua lại đâm ra tò mò:
- Vậy đại đức đã vô sanh chưa?
- Tâu, nếu bần tăng còn phiền não, còn ham muốn sự sống thì bần tăng còn tái sanh; ngược lại, bần tăng sẽ vô sanh!
Đức vua lại tán thán:
- Tuyệt vời thay là cách trả lời của bậc trí tuệ!
* * * 7. Chú tâm - Bạch đại đức, tâm niệm đúng, chú tâm đúng thì có thể nào thành bậc vô sanh được chăng? - Tâu đại vương, không phải đơn giản như thế! Bậc vô sanh phải thành tựu đầy đủ 3 pháp sau đây: 1) Chú tâm đúng. 2) Trí tuệ. 3) Thiện pháp đầy đủ. Thiếu một trong ba chẳng thể vô sanh được đâu. - Vậy chú tâm đúng không phải là trí tuệ sao? - Thưa, chú tâm đúng chỉ mới đưa đến chánh định! Chú tâm thì trâu, bò, heo, ngựa ... các loài súc sanh đều có khả năng đó, nhưng trí tuệ thì nhơn, thiên mới có! - Kỳ lạ vậy thay! * * * 8. Hành tướng [*] của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng
[*] Lakkhana: có thể dịch là tướng trạng, tính chất v.v...
Đức vua hỏi tiếp:
- Xin đại đức cho biết hành tướng của chú tâm ra sao?
- Thưa, muốn chú tâm phải cần có hai yếu tố: một là phải có một sự cố gắng, một nỗ lực ở bên trong (ussàhalakkh--ana); hai là phải nắm bắt, chụp bắt, bắt dính được đối tượng (gaharalakkhana).
- Thế còn trí tuệ (panna)? Hành tướng của trí tuệ ra sao?
- Ở đây, tâu đại vương, hành tướng của trí tuệ là sự cắt đứt, sự tiêu diệt, sự phá hoại, sự đốn bỏ; như cắt đứt tham, sân, si, tiêu diệt phiền não v.v...
- Đại đức làm thế nào đưa ra một ví dụ thực tiễn, cụ thể về chú tâm (manasikàra) và trí tuệ (panna) để cho trẫm dễ lãnh hội, được chăng?
- Có thể được, tâu đại vương! Đại vương đã từng có khi nào quan sát người nông dân cắt lúa chưa?
- Thưa, trẫm biết rõ lắm.
- Họ làm như thế nào hở đại vương?
- Thưa, thợ cắt bước xuống ruộng, tay trái gom lúa lại, tay phải cầm lưỡi hái rồi cắt!
- Cũng thế, tâu đại vương! Bước xuống ruộng là một nỗ lực, một cố gắng (ussàha); tay trái gom lúa lại là nắm bắt, bắt dính (gahara). Bắt dính gì? Bắt dính tham sân si,tùy miên kiết sử. Còn trí tuệ thì cắt lìa, đọan lìa tất thảy phiền não ấy. Như vậy được gọi là chấm dứt luân hồi, được vô sanh, Niết bàn, tâu đại vương!
Đức vua lại cảm thán thốt lên:
- Hay quá! Chẳng có ví dụ nào mà sống động, dễ nghe, dễ thấy, dễ hiểu đến vậy!
* * * 9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y Đức vua Mi-lan-đà hỏi: - Trước đây đại đức có nói, muốn thành tựu Niết bàn, vô sanh, phải đầy đủ 3 pháp: chú tâm đúng, trí tuệ và thiện pháp. Chú tâm và trí tuệ thì trẫm đã hiểu rồi, nhưng còn thiện pháp, những gì được gọi là thiện pháp? - Thiện pháp thì rất nhiều, nhưng Giới mới chính là nền tảng cho các thiện pháp nảy nở, tăng trưởng, tâu đại vương! - Xin đại đức hãy giảng cho rộng ra! - Vâng, Giới là nơi vững trú, nảy nở, tăng trưởng của những thiện pháp sau: ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, bốn thiền, tám pháp giải thoát, một pháp định, ba pháp nhập định ... - Đại đức hãy cho ví dụ. - Vâng, ví dụ như đất là nơi mà các hột giống nảy mầm và lớn lên; đất là nơi mà các loại củ có thể nứt mộng đâm nhánh, đâm cây. Cũng như thế ấy, GIỚI là nơi nảy mầm, tăng trưởng của ngũ căn là tín, tấn, niệm, định, tuệ ... cùng những thiện pháp khác, tâu đại vương! - Đại đức có thể cho thêm ví dụ nữa được chăng? - Thưa, có thể được! Đại vương hãy đưa mắt quan sát đời sống của người nông phu trên thửa ruộng của họ! Phải chăng những người nông phu ấy, họ cày, họ bừa, họ gieo mạ, cấy lúa, gặt hái, ... ở trênđất! Rồi họ có cơm ăn, áo mặc, cưới vợ, sinh con cũng nhờ đất! Đất đã nuôi sống họ, đất đã cho họ đời sống có phải chăng? Lại nữa, đại vương hãy quan sát những khách thương buôn bán lộ trình xa với một trăm cỗ xe hàng hóa, năm trăm cỗ xe hàng hóa. Họ phải qua sông, qua biển, qua sa mạc, qua rừng núi, thị trấn, làng mạc ... Như vậy, rõ ràng là đất đã chuyên chở họ, đất đã nuôi sống họ. Nếu không có đất không biết hàng hóa di chuyển ở đâu. Cũng vậy, một hành giả lên đường, đầu tiên là phải biết nương tựa Giới, lấy Giới làm sở y, phát triển Giới cho sung mãn, thanh tịnh thì các thiện pháp mới có cơ hội tựu thành. Xin tâu đại vương rõ! - Cũng chưa rõ lắm đâu, thưa đại đức! Trẫm muốn nghe nhiều ví dụ nữa. - Được thôi, đại vương hãy nghe đây! Đại vương chắc đã từng thấy người ta tập luyện, biểu diễn các môn thể thao, các trò vui chơi công cộng chứ? - Trẫm có thấy! - Muốn tập luyện hay biểu diễn những nơi lộ thiên công cộng như thế, đầu tiên người ta phải làm sao? - Đầu tiên người ta tìm một bãi đất trống, rồi sau đó người ta phát sạch lùm bụi, dẫy cỏ, dọn sạch gai góc, miểng sành, miểng chén, đá sỏi v.v.. - Cũng thế, tâu đại vương! Đất làm nơi nương tựa nhưng cũng phải dọn sạch sẽ, bằng phẳng, phong quang thì các trò thể thao, du hý, vui chơi mới biểu diễn được, ý nghĩa này như thế nào thì Giới cũng phải được hiểu như vậy. - Hay lắm - Đức vua gật - nhưng trẫm muốn nghe ví dụ nhiều cách, nhiều kiểu khác nhau. - Bần tăng sẽ cố gắng làm cho đại vương vừa lòng, nhưng đại vương cũng cho phép bần tăng được hỏi vài câu. - Rất hoan hỷ - Đức vua nói - Đại đức cứ hỏi đi! - Quốc độ của đại vương rộng lớn và đẹp đẽ, rất nhiều nơi xứng đáng để xây dựng kinh đô, sao đại vương chọn xứ Sàgala này? - Vì nó là thượng nguồn của năm con sông lớn nhất Ấn độ. Nơi đây rừng núi bao quanh, sông xanh uốn khúc, quả thật là một nơi sơn thủy hữu tình. - Đại vương trên thông thiên văn, dưới thông địa lý, lại còn là một nhà chiến lược quân sự nữa; vậy khi xây dựng kinh đô, ngài bắt đầu công việc như thế nào? - Đầu tiên, trẫm cho vời một số các vị kiến trúc, dưới sự hướng dẫn của trẫm, họ lên một bản vẽ tổng quát toàn bộ hoàng thành: la thành, tường, hào, các lối đi, chính điện, bảo điện, nơi ngự triều, ngọ môn quan, các kho đụn, nơi khánh tiết, lễ hội, hý trường, sân thể thao, hội trường v.v.. và v.v.. - Rồi sau đó, lúc bắt đầu xây dựng, phải làm sao? - Dĩ nhiên, phải san phẳng tòan bộ mặt bằng, dọn dẹp mặt bằng mới xây dựng được. - Cũng thế ấy, tâu đại vương! Toàn bộ lâu đài, cung điện, thành quách... của đại vương đều được xây dựng trên đất sau khi đất ấy được làm cho sạch sẽ, phong quang như thế nào thì Giới cũng như thế ấy, phải được làm cho thanh tịnh thì các lâu đài Thiện pháp mới xây dựng ở trên đó được. Tứ thanh tịnh giới là chỗ trú mình, chỗ sở y của người xuất gia để thành tựu tín, tấn, niệm, định, tuệ cùng các thiện pháp tối thắng khác. Đức vua gật đầu: - Tuyệt vời thay là cách dẫn chuyện của đại đức, nhưng chưa đâu, trẫm muốn nghe thêm một ví dụ nữa. - Xin vâng, thế thì cho phép bần tăng được hỏi. - Đại đức cứ hỏi tự do. - Trước đây, đại vương từng là một đại tướng lãnh bách chiến bách thắng, ngài đã từng chỉ huy bốn loại quân binh một cách thiện xảo, thiên tài, ngài đã từng chiến thắng những "trận địa chiến" rất lớn. Bần tăng xin được hỏi là đại vương thường thiết lập, bố trí "trận địa chiến" ấy ra sao? - Không dấu gì đại đức, chuyện ấy đối với trẫm thì dễ dàng như mặc áo, ăn cơm vậy. Đầu tiên trẫm quan sát các thế núi, sông, rừng, sa mạc, đồng ruộng, thôn làng. Rồi dự định chỗ tấn, chỗ thoái, chỗ lập đồn lũy, chỗ hư binh, chỗ phục binh v.v.. sau đó, lập sa bàn, tập trận giả, rồi tập trận thật trên địa thế núi sông tương tự ...; rồi còn chiến thuật, tâm lý ... và nhiều lãnh vực chuyên môn khác nữa. - Chừng đó là bần tăng hiểu rồi, tâu đại vương! Muốn chiến thắng, bách chiến bách thắng, đại vương phải thiết lập vững vàng trận địa, nơi thế đất này, thế núi kia ... tất cả đều được chuẩn bị, dự phòng sẵn. Dường thế ấy, từ Giới lập trận thế, từ Giới lập chiến thuật, chiến lược; từ Giới lập sa bàn; từ Giới mà tiêu diệt đối phương ... thì mười đội binh ma quân phiền não sẽ cởi giáo quy hàng. Nhờ Giới mà tín sẽ vững chắc không xao động. Nhờ Giới mà tấn không thối thất. Nhờ Giới mà niệm không buông lơi. Nhờ Giới mà định tâm thêm kiên cố. Nhờ Giới mà tuệ càng thêm sáng tỏ. Tâu đại vương! Đức Phật tổ cũng hằng giáo giới chư tỳ khưu như vậy. Giới năng sanh thiện pháp. Giới năng sanh định, định năng sanh tuệ. Có Giới là có tất cả. Nơi nào có Giới thì nơi ấy có tuệ. Nơi nào có tuệ thì nơi ấy có Giới. Quả địa cầu là nơi sanh của các loài thảo mộc, động vật, long vương, dạ xoa, đại bàng, muôn thú, người ... như thế nào - thì Giới là nơi sanh trưởng của ngũ căn, ngũ lực ... các cõi trời, phạm thiên, các tầng Thánh quả; cho chí quả vị tối thượng Chánh đẳng giác ... cũng từ Giới mà sở y, nương tựa, tâu đại vương được rõ! - Hay lắm! Trẫm không còn có lý do gì mà nghi ngờ về Giới nữa. Thật là tuyệt hảo! * * *
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:32:33 GMT -5
10. Hành tướng của Tín
Đức vua lại hỏi tiếp:
- Các thiện pháp đầu tiên lấy GIỚI làm nơi nương tựa, đại đức có nhắc đến ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Vậy hành tướng của Tín là thế nào? Nhờ đại đức giảng rõ.
- Thứ nhất là, Tín có công năng làm cho tâm yên lặng, trong sạch (Sampasàdanalakkhana); thứ hai là, Tín có công năng làm cho tâm luôn có khuynh hướng tiến về phía trước (Sampakkhamdanalakkhana), tâu đại vương!
- Công năng thứ nhất ấy lợi ích như thế nào?
- Tâu đại vương, Tín phát sanh trong tâm rồi thì nó như cái màng chắn các bụi bặm phiền não, không cho lan vào. Các bụi bặm phiền não ấy thường dấy sinh từ năm pháp cái; tức là năm pháp che lấp, ấy là hôn trầm thụy miên, buông lung phóng đật, sân, dục và nghi. Nhờ vậy, tâm được yên lặng, trong sạch.
- Xin đại đức hãy cho ví dụ để trẫm được sáng tỏ về lợi ích ấy.
- Ví như đại vương dẫn 4 loại quân binh vượt qua một con rạch, nước bị quấy lên đục ngầu. Lúc bấy giờ đại vương muốn uống nước, bèn sai quân hầu lấy lên bình lọc nước đặt xuống lòng rạch. Bình lọc nước ấy có công năng gạn lọc tất cả bùn dơ đục vẩn, chỉ còn lại nước trong sạch như thế nào thì Tín cũng có công năng lọc sạch uế trược phiền não như thế ấy, tâu đại vương.
- Trẫm hiểu điều đó rồi, vậy còn công năng thứ hai, tại sao lại có khuynh hướng tiến về phía trước?
- Ây là vì người có Tín luôn luôn hướng theo thiện pháp mà đi tới, tự sách tấn mà vượt qua, vượt lên mãi. Như thấy người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A-na-hàm, A-la-hán ... người có Tín thường nhắc nhở tâm mình làm sao để chạy theo các đạo quả ấy, cố gắng cho đến lúc giác ngộ, giải thoát mới thôi.
- Đại đức có ví dụ nào chăng?
- Thưa, có chứ! Ví như trận mưa lớn ngập lụt tất cả đường sá, sông hồ. Một đoàn bộ hành dừng chân, e ngại chẳng dám vượt qua vì không biết mực nước nông sâu. Chợt một người đàn ông có vẻ thành thạo ngắm nhìn con rạch, đưa mắt nhìn thế nước, ước lượng dòng chảy, chỗ cạn, chỗ sâu, rồi xắn quần, vén áo thản nhiên lội qua. Bắt chước người đàn ông, theo dấu người đàn ông, đoàn bộ hành nhờ vậy mới tiếp tục được lộ trình. Người có Tín cũng như thế ấy, thấy người đi trước mình lội qua được dòng sông sinh tử, thì theo dấu người ấy để lội theo. Thấy người trước mình xắn quần,vén áo lội qua "bờ kia", y cũng cố gắng xắn quần, vén áo quyết bỏ "bờ mê" bên này cho bằng được . Những quả vị Thánh nhân đều là mục đích cho người có Tín hằng nỗ lực để vươn tới, lướt tới cho thành tựu hẳn thôi, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm hiểu rõ Tín là gì rồi.
* * *
11. Hành tướng của Tấn
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Đại đức có nói thiện pháp thứ hai là Tấn, vậy hành tướng của nó thế nào?
- Tấn có công năng hộ trì, nâng đỡ các thiện pháp cho được vững chắc, tăng trưởng; không để cho thiện pháp hư mòn, tiêu hoại hoặc sụp đổ, tâu đại vương!
- Xin đại đức lấy ví dụ cho rõ nghĩa.
- Ví dụ một ngôi nhà muốn được vững bền, lâu năm không bị xiêu ngã thì các cột, kèo, đòn tay... cần phải được chắc chắn. Ngôi nhà chính là thiện pháp; cột, kèo, đòn tay chống đỡ là Tấn, tâu đại vương!
- Trẫm muốn nghe thêm ví dụ.
- Ví như đức vua ra trận mà quân giặc quá mạnh, phải phái thêm viện binh mới thắng địch được. Quân giặc mạnh ví như ác pháp mà viện binh chính là Tấn. Như vậy, Tấn có hai công năng, thứ nhất là hộ trì thiện pháp (ví dụ đầu) và thứ hai là tiêu trừ ác pháp (ví dụ sau), đúng như kệ ngôn Đức Thế Tôn đã thuyết:
"Này các thầy tỳ khưu! Tấn là sức mạnh của bậc Thinh Văn, nó hộ trì thiện pháp và tiêu trừ ác pháp; làm cho tội lỗi tiêu hoại và phước đức phát triển. Có Tấn thì chẳng bao giờ lìa xa Chánh pháp."
- Thế là trẫm đã sáng tỏ!
* * *
12. Hành tướng của Niệm
- Còn Niệm là thế nào, thưa đại đức?
- Niệm cũng có hai chức năng. Thứ nhất là nhắc nhở tâm, thứ hai là giúp tâm cầm nắm.
- Nhắc nhở tâm như thế nào?
- Thưa, bất cứ một pháp nào phát sanh lên, Niệm có bổn phận nhắc nhở tâm ghi nhận pháp ấy. Ghi nhận một cách thuần túy khách quan. Chức năng thứ nhất của Niệm là như vậy đó, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho thí dụ.
- Vâng! Ví như người canh cửa của đức vua, y phải tự nhắc nhở mình thường xuyên là đừng có lơ đễnh nhiệm vụ, người nào đi vô đi ra phải biết. Như vị quan giữ kho của đức vua, y phải biết rõ đây là kho lương thực, đây là kho vàng bạc, vải vóc, quân nhu, khí giới v.v... Như vậy, Niệm như là người canh cửa, như vị quan giữ kho - đấy là chức năng thứ nhất, tâu đại vương!
- Vậy là trẫm đã hiểu. Còn "cầm nắm" là thế nào hở đại đức?
- Tâu đại vương! Một pháp phát sanh lên, niệm không những nhắc nhở tâm ghi nhận pháp ấy mà còn "cầm nắm" trọn vẹn cái thiện, cái ác ấy nữa. Các pháp như tứ niệm xứ, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực... nghĩa là ba bảy trợ đạo phẩm, tứ vô lượng tâm cũng phải được hiểu như vậy.
- Trẫm muốn nghe ví dụ để hiểu rõ vấn đề hơn.
- Được thôi, tâu đại vương! Ví như người canh cửa của đức vua, sau khi không lơ đễnh nhiệm vụ thấy rõ người nào đi vô đi ra, mà còn biết đây là quan, đây là dân, đây là người được phép vào, đây là người không được phép vào. Ví như quan giữ kho của đức vua sau khi biết đây là kho vàng, kho bạc, kho lương thực mà còn nắm vững tình trạng của kho ấy, biết kho vàng, kho bạc nhiều hay ít, biết kho lương thực đầy hay vơi, v.v... Để khi vua cần hỏi, vị quan giữ kho có thể cho đức vua nắm rõ tài sản, kim ngân trong cung khố của mình. Chức năng thứ hai của Niệm là có thể trình cho biết các pháp lui tới tâm như thế nào, nó thiện hay ác, tốt hay xấu như vị quan giữ kho trình lên đức vua vậy tâu đại vương .
- Cảm ơn đại đức. Ví dụ vậy là tuyệt hảo, trẫm "nắm giữ" được pháp và nghĩa của Niệm rồi.
* * *
13. Hành tướng của Định
- Thế nào là Định? Đức vua hỏi tiếp - hành tướng của Định là như thế nào, thưa đại đức?
Đại đức Na-tiên đáp:
- Tâu đại vương! Định là quy tâm về một mối, là cột tâm, là tập trung tâm lại không cho loạn động. Trong tất cả thiện pháp, Định là chủ trì, Định là nguyên đỉnh, Định là tối thắng, Định là chỗ hướng về, Định là nơi tụ họp, Định là chỗ tiến tới, Định là chỗ chảy xuống...!
- Đại đức hãy cho ví dụ.
- Ví như đại vương dẫn 4 loại quân binh ra trận mạc. Bốn loại quân binh ấy sẽ y cứ nơi đức vua, họ xem đức vua là lớn, là bậc thống lĩnh tối cao, đức vua là chủ trì, là nguyên đỉnh, là tối thắng, là chỗ hướng về, là nơi tụ họp, là chỗ tiến tới, là nơi chảy xuống... tâu đại vương! Ví dụ này như thế nào thì các thiện pháp sẽ y cứ Định là bậc chủ trì như vậy, do Định mà phát sanh y như thế ấy; đúng như câu Phật ngôn mà Đức Thế Tôn đã thuyết:
"Này các thầy tỳ khưu! các thầy hãy tinh cần tiến tu thiền định. Người nào có thiền định rồi, người ấy sẽ dễ dàng chứng đắc đạo quả, giác ngộ ba minh."
- Tâu đại vương! Vậy đại vương có thắc mắc gì về Định nữa chăng?
- Không. Đức vua đáp - trẫm đã thông suốt lắm rồi.
* * *
14. Hành tướng của Tuệ
- Xin đại đức giảng giải cho trẫm nghe về Tuệ?
- Tuệ cũng có hai chức năng, tâu đại vương! Chức năng thứ nhất là cắt lìa, cắt đứt, đốn bỏ, diệt tận, hủy diệt như bần tăng đã trình bày. Còn chức năng thứ hai là soi sáng, là chiếu soi, là tự chiếu..., tâu đại vương!
- Chức năng thứ nhất thì trẫm đã lãnh hội rồi,vậy hãy cho nghe chức năng thứ hai? Cái gọi là soi sáng tỏ tường ấy là gì?
- Tâu đại vương! Khi Tuệ tâm sở phát sanh lên rồi thì nó có công năng soi tỏ cho ta thấy rõ đâu là mê si, đâu là vô minh, đâu là khổ, đâu là nguyên nhân khổ, đâu là vô thường, đâu là vô ngã, đâu là con đường thoát khổ ... một cách rõ ràng minh bạch.
- Xin cho nghe ví dụ?
- Ví như người cầm cây đèn sáng đi vào căn nhà tối tăm; nhờ ngọn đèn soi sáng họ thấy rõ đường đi lối lại, thấy rõ đây là bàn, ghế, tủ, giường v.v... Ngọn đèn sáng là Trí tuệ mà các vật dụng trong nhà là các thiện pháp, ác pháp ở trong tâm đấy, tâu đại vương!
- Trẫm đã rõ. Nhờ đèn sáng mà bóng tối tự lui, cũng vậy, nhờ Tuệ mà vô minh tự diệt. Hay thay!
* * *
15. Ngũ căn - riêng và chung
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:
- Đại đức vừa trình bày xong ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ và gọi đó là những thiện pháp. Những thiện pháp ấy có tên gọi, chức năng, công dụng khác nhau. Thế chúng đứng độc lập, riêng biệt; chẳng có cái "chung" gì cả sao?
- Có chứ, tâu đại vương!
- Cái "chung" ấy là gì?
- Cái chung ấy là cùng hướng về một mục đích, cùng thành tựu một lợi ích, tâu đại vương.
- Mục đích ấy là gì? Lợi ích ấy là gì?
- Mục đích và lợi ích ấy chính là ngăn tất cả các điều dữ, diệt tất cả các phiền não, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho ví dụ.
- Ví như đại vương dẫn bốn loại quân binh: bộ binh, tượng binh, mã binh, xa binh ra trận. Bốn loại binh ấy có tên gọi khác nhau, hình tướng, chức năng, công dụng khác nhau nhưng đều thành tựu chung một lợi ích, một mục đích: ấy là đem về vinh quang và chiến thắng cho đại vương!
- Đúng thế! Trẫm rất hài lòng về ví dụ ấy.
* * *
16. Tương quan thân trước và sau
- Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh, noãn sanh, thấp sanh v.v... Khi chúng chết đi, thác sanh trở lại, thì đàn ông vẫn làm đàn ông, đàn bà vẫn làm đàn bà; loài hai chân thành loài hai chân, loài bốn chân thành loài bốn chân... hay sao, thưa đại đức?
- Ý đại vương nói rằng, thân trước thân sau vẫn mang hình tướng ấy? Con người cũ ấy?
- Đúng là trẫm muốn hỏi như thế!
- Nói con người cũ là không phải, mà nói chẳng phải con người cũ cũng không phải, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho nghe rõ hơn?
- Ngay trong kiếp sống này thôi mà lập ngôn như thế cũng đã sai rồi. Khi chúng ta sanh ra trên đời này, kể từ khi thai nhi nằm trong bụng mẹ, hài nhi nằm trong nôi, lớn lên biết bò, biết đi rồi khôn lớn trưởng thành, trung niên, già lão. Này đại vương! Vậy đứa bé và ông lão ấy cùng là một con người hay là hai con người?
- Một cũng trật, hai cũng chẳng nhằm!
- Bệ hạ lúc còn là hài nhi, còn ẵm ngữa trong lòng quốc mẫu với bệ hạ bây giờ có khác gì nhau không?
- Khác chứ sao không! Hồi đó nhỏ dại mà bây giờ lớn khôn. Thân thể đã khác mà hiểu biết cũng khác nữa.
- Nếu đại vương nói thế thì không những bệ hạ khác mà mẫu hoàng, phụ hoàng, thầy dạy học của bệ hạ cũng khác nữa. Bần tăng nghi ngờ lắm. Nghi ngờ rằng, cha mẹ của bệ hạ bây giờ không phải là cha mẹ thuở xưa của bệ hạ. Phụ hoàng và thầy dạy học của bệ hạ cũng là người khác rồi. Một kẻ tội đồ, gây ác nghiệp cách đây mấy năm là một người khác, bây giờ bị cắt tay, cắt chân lại là một người khác nữa hay sao?
- Không phải thế! Ý trẫm không phải là vậy. Nếu là đại đức thì đại đức trả lời sao?
- Tâu đại vương! Bần tăng sẽ trả lời rằng, lúc còn bé nhỏ là bần tăng, mà lúc lớn lên cũng là bần tăng chứ không phải người khác. Cái thân có thay đổi từ bé, trung niên đến già lão, nhưng vẫn tồn tục một sinh mạng ấy thôi.
- Xin cho ví dụ.
- Ví như cây đèn đốt cháy đầu hôm cho đến sáng, đầu hôm thì đầy dầu, sáng thì cạn dầu. Tâu đại vương! Vậy thì đầu hôm, giữa khuya và sáng là ba cây đèn khác nhau chăng?
- Chẳng phải thế. Nó chỉ là một cây đèn ấy được cháy đỏ liên tục đầu hôm đến sáng.
- Tất cả chúng sanh cũng y như thế đó, tâu đại vương. Danh và sắc đầu tiên kết hợp thành thân và tâm này tạo nên một sanh mạng, một đời sống hữu tình; tuy thân và tâm đều vô thường, thay đổi nhưng nó vẫn duy trì tồn tục sanh mạng cho đến lúc chấm dứt tuổi thọ. Già lão có thay đổi nhưng vẫn là một con người ấy mà thôi
- Cho xin ví dụ nữa.
- Ví như sữa tươi, để lâu thành sữa chua, thành sữa đặc, thành sữa trong v.v... Nói sữa tươi là sữa chua thì hẳn không đúng, nhưng nếu nói sữa chua không do sữa tươi mà ra thì sai. Tương quan thân lão và thân hài nhi là vậy, cho chí kiếp này qua kiếp kia cũng y như thế, tâu đại vương!
Đức vua gục gặc đầu:
- Chí lý! Sanh trở lại, bảo là con người cũ là sai, không phải con người cũ cũng sai nốt. Hay lắm! Chí lý lắm!
* * *
17. Tái sanh và Vô sanh
Đức vua hỏi:
- Thế người không còn tái sanh, có thể tự mình xác tín, biết rõ điều đó chăng hở đại đức?
- Có thể được, tâu đại vương!
- Bằng cách như thế nào?
- Thưa, ai thấy mình không còn gây nhân phiền não, cấu sanh; nghĩa là không còn vô minh và ái dục thì người đó biết chắc mình không còn sanh lại trong ba cõi, sáu đường nữa.
- Trẫm muốn nghe ví dụ.
- Ví như người làm ruộng, đầu mùa lo cày bừa, gieo mạ thì cuối vụ ông ta gặt lúa, cất lúa vào bồ. Năm sau, vì một lý do nào đó, người làm ruộng kia không còn cày bừa, gieo mạ nữa - thì ông ta có còn gặt lúa, cất lúa vào bồ chăng, tâu đại vương?
- Có lúa đâu mà gặt, mà cất!
- Tại sao đại vương biết?
- Vì ông ta có cày bừa và gieo mạ đâu!
- Đúng thế! Cày bừa, gieo mạ là nhân; gặt lúa cất vào bồ là quả. Cũng thế, chúng sanh có gây nhân cấu sanh, ái dục nên còn quả tái sanh; người tu hành đắc đạo tự biết mình không gây nhân cấu sanh, ái dục nên biết chắc rằng không còn tái sanh nữa, tâu đại vương!
- Rất dễ hiểu, thưa đại đức .
* * *
18. Trí và Tuệ (nana-panna)
- Trí và Tuệ khác nhau như thế nào, thưa đại đức?
- Trí thuộc về nhận thức, kiến thức, hiểu biết; còn Tuệ là thấy rõ vô thường, khổ não, vô ngã. Trí là thông minh mà Tuệ là sáng suốt, vậy nó khác nhau, tâu đại vương!
- Thông minh và sáng suốt khác nhau sao?
- Thông minh là học nhanh, hiểu nhanh, học một biết hai, có thể có kiến thức sâu rộng, nhưng nếu không biết tu tập có thể đi đến tà trí. Còn người sáng suốt thì tự biết tâm mình, có tu tập, thấy rõ pháp; nó cũng được gọi là chánh trí hay chánh tuệ, tâu đại vương!
- Người có được Tuệ có thể biết mọi sự, mọi vật không, thưa đại đức?
- Có điều biết, có điều không biết.
- Tại sao?
- Những gì có học thì biết, những gì không học thì không biết. Đơn giản có vậy. Trí thuộc phạm trù hiểu và biết, Tuệ thuộc về cái thấy không còn lầm lẫn như: vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, khổ cho là lạc!
- Vậy người có Trí còn si mê, lầm lẫn; người có Tuệ thì hết si mê, lầm lẫn?
- Đúng vậy!
- Thế khi Tuệ phát sanh thì si mê, lầm lẫn ấy đi đâu?
- Nó diệt mất.
- Đại đức hãy cho ví dụ.
- Ví như cầm cây đèn rọi vào hóc tối, ánh sáng hiện thì bóng tối tự tiêu, tâu đại vương.
- Còn Tuệ, nó mất chăng?
- Nó cũng diệt mất, nhưng công việc mà Tuệ đã làm, như cho ta thấy biết chân tướng của cuộc đời, cho ta thấy rõ lý vô thường, khổ và vô ngã của pháp thì vẫn còn, tâu đại vương!
- Sao lạ vậy? Điều đó trẫm ngờ lắm. Hãy cho trẫm nghe ví dụ xem nào?
- Vâng, ví như một người thắp đèn để viết sách, viết xong, tắt đèn; đèn tuy tắt nhưng chữ vẫn còn lưu lại trên giấy, tâu đại vương .
- Xin cho một ví dụ nữa.
- Một người đề phòng hỏa hoạn, sắm sẵn năm chum đầy nước. Khi hỏa tai, người ấy lấy nước trong năm chum đem ra sử dụng, dập tắt được lửa. Tai qua nạn khỏi, người ấy chẳng cần dùng năm chum nước ấy nữa, phải thế chăng? Cũng như thế, năm chum nước được ví cho ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ; khi rưới tắt được lửa tham sân si, phiền não rồi, xong phận sự rồi nó sẽ tự diệt; nhưng không, vô tướng và giải thoát thì vẫn còn, tâu đại vương!
- Trẫm muốn nghe ví dụ nữa.
- Ví như vị lương y dùng năm loại dược thảo, bào chế ra phương thuốc trị bệnh cho bệnh nhân. Uống xong, lành bệnh, vị lương y có còn dùng lại năm loại dược thảo kia để cho bệnh nhân uống nữa không, tâu đại vương?
- Không cần thiết nữa.
- Đúng thế, bệnh lành rồi không cần thuốc như thế nào, các tùy miên kiết sử phiền não đã diệt rồi thì ngũ căn tín, tấn, niệm, định, tuệ cũng không dùng nữa y như thế ấy. Chỉ còn lại niềm hạnh phúc chân thật thôi, tâu đại vương!
- Đã rõ lắm rồi nhưng đại đức còn có thể cho thêm ví dụ nữa chăng?
- Có thể được chứ! Ví như đại vương có lần cầm quân xuất trận. Cứ mỗi lần đại vương bắn một mũi tên lửa là dấu hiệu tấn công, bắn năm mũi tên lửa là năm đợt tấn công, quân địch bại trận. Thế thì sau khi chiến thắng, đại vương có cần bắn năm mũi tên nữa hay chăng?
- Bắn làm gì nữa, đại đức.
- Đúng thế! Năm mũi tên chính là năm đội quân thiện pháp, quân giặc bại trận ví như ác pháp, vô minh, ái dục. Người giác ngộ sẽ không còn sử dụng binh khí gì nữa mà chỉ thọ hưởng an lạc siêu thế thôi, tâu đại vương!
- Hay lắm! Trẫm không còn ngờ gì nữa.
* * *
19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không?
Đức vua hỏi:
- Bậc Vô sanh, nghĩa là người đã Niết bàn, có còn đau khổ chút ít nào không, thưa đại đức?
- Một chút ít thọ khổ ấy cũng không có, tâu đại vương!
- Vậy thì trong đời này, các ngài chứng ngộ lý Vô sanh rồi có còn thọ khổ chút ít không?
- Thọ khổ nơi thân thì còn mà thọ khổ trong tâm thì không, tâu đại vương!
- Tại sao thế?
- Thân còn thọ khổ vì thân còn bị già, bị bệnh, còn bị sự biến hoại đổi khác do các định luật tự nhiên chi phối như định luật sinh học, định luật khí hậu, thời tiết, nắng mưa v.v... Tâm không còn thọ khổ nữa là do tâm ấy đã dập tắt tất cả mọi nguyên nhân tạo tác đau khổ: ấy là vô minh, ái dục!
- Giác ngộ, giải thoát rồi mà còn đau khổ nơi thân, thế sao các ngài không Niết bàn đi?
- Tâu đại vương! Các ngài chưa Niết bàn vì các ngài chẳng tham cầu sự sống mà cũng chẳng bất bình, chán ghét sự sống. Các bậc A-la-hán ấy họ sống an nhiên, tự tại giữa cuộc đời, còn duyên thì đến, hết duyên thì đi. Trái cây kia chưa đúng thời, chưa chín thì họ chẳng mong chín mau, chín vội bao giờ! Cho nên tôn giả Xá-lợi-phất thuở còn sinh tiền, có câu kệ ngôn sau:
" - Tịch diệt chẳng ưa thích Mà sự sống cũng không Chẳng hy cầu tham luyến Chẳng trái ý nghịch lòng Còn duyên, thời thì ở Hết duyên, thời thì đi Không, vô tướng, vô tác Tùy hữu vi, vô vi!"
Đức vua Mi-lan-đà cảm thán thốt lên:
- Hay thay! Tuyệt vời thay! trẫm đã hiểu.
* * *
20. Cảm Thọ
Đức vua lại hỏi tiếp:
- Thưa đại đức! Khi một người cảm thấy vui thì cái ấy là thiện chăng? Và khi cảm thấy khổ thì cái ấy là ác chăng?
- Cũng tùy trường hợp, tâu đại vương! Thọ vui thiện cũng có, ác cũng có, mà vô ký cũng có, ngược lại thọ khổ cũng y như thế.
- Sao lạ vậy? Vui sao có thể là ác? Khổ sao có thể là thiện? Thiện và khổ có lẽ nào lại tương hợp, đi chung đường?
- Khó nói lắm! Tâu đại vương! Trên thế gian này biết bao người đắm đuối trong ngũ dục, trong ác pháp, trược pháp mà họ cứ vẫn nghĩ là vui, là hạnh phúc? Biết bao người làm việc lành, cố gắng lìa xa ngũ dục mà họ cứ vẫn nghĩ là khổ, và họ bảo rằng đấy là khổ thanh cao? Các quan niệm vui khổ quả thật tương đối lắm thay! Nếu như đại vương hiểu rõ về tất cả mọi cảm thọ thì đại vương sẽ không đặt những câu hỏi tương tự.
- Trẫm vẫn chưa hiểu ra điều ấy.
Đại đức Na-tiên hỏi:
- Có người tay mặt nắm lấy một cục sắt nóng, tay trái nắm một phiến băng lạnh! Bần tăng hỏi thử đại vương; hai tay người ấy thọ nhận cảm giác gì? Cả hai tay đều run rẫy chăng?
- Không phải.
- Cả hai tay đều bị nóng đốt chăng?
- Cũng không phải.
- Một tay nóng, một tay lạnh chăng?
- Trong một lúc làm sao có hai cảm giác?
- Vậy thì nóng lạnh giao hòa, đã hòa nhau thì nóng lạnh triệt tiêu?
- Cũng chẳng phải thế!
Đại đức Na-tiên bèn giảng giải:
- Tâu đại vương! Ngay chính những cảm giác nóng lạnh thô tháo ở nơi thân mà chúng ta cũng khó nhận biết, huống hồ là những cảm thọ vi tế thuộc vui, thuộc khổ ở nơi tâm! Vui khổ, thật ra, rất tương đối vậy!
- Xin đại đức giảng rộng ra cho trẫm được lãm tường.
- Thưa vâng, có sáu lạc thọ nương sáu trần cảnh của người thỏa thích trong ngũ dục, đấy gọi là sáu lạc thọ thô trược của thế gian. Có sáu lạc thọ hành trình trong sáu trần cảnh của người xuất ly thế gian, có minh sát tuệ, đấy gọi là sáu lạc thọ thanh cao. Có sáu thọ khổ nương sáu trần cảnh của người đắm say ngũ dục, đấy là sáu khổ thọ thô trược của thế gian. Có sáu khổ thọ hành trình trong sáu trần cảnh của người xuất ly thế gian, có minh-sát-tuệ, đấy gọi là sáu khổ thọ thanh cao. Có sáu xả thọ của người thỏa thích trong ngũ dục, đấy gọi là sáu xả thọ thô trược của thế gian. Có sáu xả thọ hành trình trong sáu trần cảnh của người xuất ly thế gian, có hành minh sát tuệ, được gọi là sáu xả thọ thanh cao. Tất cả mười hai thọ lạc , mười hai thọ khổ, mười hai thọ xả ấy nhân với ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, tổng cọng có một trăm lẻ tám cảm thọ, tâu đại vương! Vậy thì những cảm thọ ấy, ta có thể xác định được rằng, cảm thọ này là thiện, cảm thọ kia là ác được chăng?
- Khó nói lắm, thưa đại đức .
- Thảng hoặc, có thể xác định được rằng, thọ khổ chính là ác và thọ lạc chính là thiện chăng?
- Cũng khó nói vậy thay!
Trầm ngâm một lát, đại đức Na-tiên hỏi tiếp:
- Thế đại vương còn thắc mắc gì về cảm thọ nữa chăng?
- Còn đấy, thưa đại đức! Tại sao một tay cầm cục sắt nóng, một tay cầm phiến băng lạnh, ta khó cảm nhận được nóng hay lạnh?
- Tâu đại vương! Vì khi xúc phát sanh thọ, thì thọ ấy chỉ có một tâm. Một tâm thì trong một lúc không thể nhận hai trần cảnh được!
- Trường hợp ấy có thể ví, là nếu đã thọ khổ thì không thể thọ lạc, đã thọ lạc thì không thể thọ khổ, phải thế không thưa đại đức?
- Vâng!
- Vậy thì trẫm đã hoàn toàn lãnh hội rồi!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:35:50 GMT -5
21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh?
Đức vua hỏi:
- Cái gì dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh, thưa đại đức?
- Là danh, sắc, tâu đại vương!
- Nghĩa là danh sắc của con người cũ này sanh trở lại?
- Không phải vậy, tâu đại vương! Chính danh sắc này làm các việc thiện ác; và chính do năng lực của nghiệp thiện ác ấy mà một danh sắc khác kế tục được sanh ra để nhận lãnh quả phước hoặc tội đã tạo tác.
- Nếu danh sắc cũ mà không sanh trở lại, thì đời này làm ác, đời sau đâu có chịu tội báo? Và như thế có nghĩa là mình đã thoát khỏi luân hồi sinh tử sao?
- Không phải vậy, tâu đại vương! Chỉ có người không còn gây nhân thiện ác mới chấm dứt tái sanh, chứ nếu còn gây nhân thiện ác thì sẽ sanh trở lại để thọ nhận quả báo, vòng sinh tử vì thế sẽ tiếp nối mãi không ngừng. Danh sắc cũ và danh sắc mới cũng chính là mình đấy chứ không phải ai khác.
- Xin đại đức hãy cho ví dụ.
- Ví như kẻ trộm xoài, chủ nhà bắt được quả tang dẫn đến đại vương nhờ xử trị. Bị cáo cãi rằng: "Hạ thần không hái xoài của người ấy. Trái xoài của anh ta trồng hồi trước chỉ là hạt mầm ở dưới gốc còn trái mà hạ thần hái là trái to ở trên cành. Hạ thần không có ăn trộm." Tâu đại vương! Với lý lẽ như thế, đại vương có xử phạt y được không?
- Thưa đại đức, dẫu có ngụy biện hay ho, trẫm vẫn xử phạt tên ăn trộm kia như thường!
- Sao lại thế được? Y đâu có hái cắp trái của người kia trồng đâu mà xử tội, hở đại vương?
- Đành rằng thế, nhưng mà trái cây y hái trộm ấy cũng do từ trái kia sanh ra, nó nẩy mầm, tăng trưởng mà thành. Cho nên người kia cũng không thoát khỏi tội.
Tỳ khưu Na-tiên gật đầu:
- Cũng như thế đó là danh sắc cũ và danh sắc mới, tâu đại vương . Việc tái sanh từ đời này sang đời kia cũng vậy. Các nghiệp thiện ác trong đời giống như đã gieo hạt giống, nẩy mầm, tăng trưởng, mai sau tất có quả báo.
Đức vua Mi-lan-đà cũng gật đầu:
- Trẫm đã hiểu, nhưng xin Đại đức cho một ví dụ nữa.
- Có thể được. Ví dụ có người đốt lửa sưởi ấm bên bờ ruộng, lửa ấy cháy lan sang một đám ruộng, người chủ ruộng bắt dẫn đến đại vương xử trị. Người đốt lửa tâu rằng: "Lửa của hạ thần đốt lên là lửa khác, lửa cháy ruộng ấy là lửa khác, không phải là lửa của hạ thần." Người kia nói lý như vậy, đại vương có bắt tội chăng?
- Dĩ nhiên là bị tội rồi.
- Vì cớ sao, tâu đại vương?
- Vì lửa cháy ruộng ấy cũng do từ lửa anh ta sưởi ấm trên bờ ruộng mà sanh ra, nên y không thể chạy tội được.
- Cũng vậy, ngon lửa trước là danh sắc cũ, ngọn lửa cháy ruộng tức là danh sắc mới, có được cũng từ danh sắc cũ mà ra.
- Xin cho nghe một ví dụ nữa.
- Ví như người đốt đuốc ngoài sân để ăn cơm, vô ý để tàn lửa bay sang đống rơm, lan sang nhà hàng xóm rồi thiêu rụi cả làng. Dân làng bắt y dẫn đến cho đại vương xử tội. Y cãi cố rằng, lửa cháy nhà là lửa khác còn lửa của y là ở nơi bó đuốc dùng để ăn cơm mà thôi! Đại vương có trị tội được y chăng?
- Trị tội được chứ!
- Vì cớ sao?
- Vì lửa cháy nhà có được là do từ lửa nơi bó đuốc của y.
- Cũng như thế đó là ngũ uẩn cũ và ngũ uẩn mới, tâu đại vương! Ngũ uẩn này (danh sắc cũ) tuy đã tắt nhưng cũng bởi nó mà tạo nên ngũ uẩn mới (danh sắc mới).
- Cho nghe một ví dụ nữa.
- Có người đàn ông nạp lễ vật dạm hỏi một cô gái còn nhỏ, đợi lớn lên hẳn cưới, nhưng sau đó ông ta đi làm ăn xa. Cô gái lớn lên, có người đàn ông khác đem lễ vật hậu hỉ đến cưới đem đi. Người đàn ông đi làm ăn xa trở về vác đơn thưa kiện. Người kia cãi rằng: "Vợ cũ của anh chỉ là một cô bé, còn vợ của tôi đây là một thiếu nữ." Vậy thì trường hợp ấy, đại vương xử cho ai thắng?
- Dĩ nhiên là cho người đàn ông trước thắng kiện.
- Tại sao lại như thế?
- Vì thiếu nữ kia cũng từ cô bé mà trưởng thành chứ có phải là người khác đâu.
- Cũng như thế đó là thân này và thân kia, danh sắc cũ và danh sắc mới, tâu đại vương!
- Đại đức còn có ví dụ nào nữa chăng?
- Có thể được, tâu đại vương! Ví như có người đến một chủ nuôi bò mua sữa. Mua xong, anh ta gởi bình sữa lại hẹn lát sau đến lấy, nhưng vì bận việc, hôm sau mới tới lấy sữa. Nhưng sữa đã chua, anh ta bảo rằng, anh không mua sữa chua và yêu cầu chủ bò đổi bình sữa mới. Người chủ bò không chịu, bảo rằng sữa chua là vì để cách đêm chứ không phải là sữa khác. Thế rồi hai người cãi vả nhau. Trường hợp đại vương thì đại vương xử cho ai được kiện?
- Chủ nuôi bò.
- Tại sao?
- Sữa để cách đêm thì nó chua chứ có phải là sữa khác đâu.
- Danh sắc cũ tạo nghiệp thiện ác nên có được danh sắc mới cũng y như thế, tâu đại vương .
- Trẫm hoàn toàn lãnh hội rồi, cảm ơn đại đức!
* * *
22. Không nên hỏi lại câu đã hỏi
Đức vua Mi-lan-đà chợt hỏi:
- Đại đức hiện nay có còn tái sanh nữa chăng?
- Câu này, đại vương đã hỏi rồi mà bần tăng cũng đã trả lời rồi: rằng, nếu bần tăng còn tham sân si phiền não, còn ham muốn sự sống thì bần tăng còn tái sanh, bằng ngược lại, bần tăng sẽ vô sanh.
Tuy nhiên, đại vương nghĩ như thế nào, nếu có kẻ hết lòng trung thành với đại vương, lập nhiều chiến công cho đại vương, đã được đại vương ban thưởng trọng hậu, thế mà người ấy cứ than phiền với người khác rằng, đại vương chẳng hề cho y cái gì cả! Lời nói của người ấy là lời nói đáng hay không đáng nói, hở đại vương?
- Thật không nên nói như thế.
- Cũng vậy là câu hỏi của đại vương! Câu hỏi ấy thật không đáng hỏi một tí nào.
Đức vua Mi-lan-đà cười, nói nhũn nhặn:
- Trẫm đã lĩnh ý, cảm ơn sự quở trách khéo léo của đại đức.
* * *
23. Danh sắc tương quan liên hệ
Vua hỏi:
- Đại đức đã nói đến danh sắc, vậy cái gì là danh, cái gì là sắc?
- Thưa, phàm vật gì mắt thấy được, sờ nắm được, xúc chạm được, cái ấy được gọi là sắc pháp; cái gì có tính trừu tượng như tâm vương, tâm sở... thuộc ý niệm, tư tưởng... thì gọi là danh pháp.
- Tại sao các danh pháp thì có tạo tác đến đời sau còn sắc pháp thì không?
- Chẳng phải thế đâu, tâu đại vương! Hai pháp danh sắc này tương quan tương liên với nhau. Danh phải nương gá vào sắc, sắc phải nhờ danh mới hiện hữu để cấu tạo thành một sanh mạng. Chúng luôn luôn nương nhau, không từng lìa nhau bao giờ.
- Xin cho nghe ví dụ.
- Ví như một cái phôi trứng, ban đầu nó trong và ướt, sau đó nó đặc sệt, dần dần tượng hình thành quả trứng rồi nở thành chim, thành con gà. Cái phôi thai ban đầu ấy sở dĩ có được là do nhờ thức tái sanh (danh) nương gá vào sắc chất (sắc) của gà mà tạo nên mầm sống. Trong mầm sống ấy đã có danh và sắc nương gá lẫn nhau, tương quan tương liên với nhau, đồng sanh, đồng hiện hữu đã từ vô thỉ đến nay rồi, trải qua thời gian dài vô tận.
- Hay lắm!
* * *
24. Thời gian và không còn thời gian
Đức vua lại hỏi tiếp:
- Đại đức vừa nói đến thời gian, rồi lại còn nói thời gian dài vô cùng tận, điều ấy được hiểu như thế nào?
- Thưa, thời gian thường trải qua ba thì: quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ thì vô thỉ (không có khởi đầu) vị lai thì vô chung (không có chấm dứt), nên nói quá khứ, vị lai đều vô cùng, vô tận; còn hiện tại thì chỉ là cái chớp mắt thoáng trôi, đại vương nên có ý niệm về thời gian như vậy.
- Cả ba thì quá khứ, hiện tại, vị lai tức là thời gian; và thời gian này luôn luôn hiện hữu và chi phối tất cả chúng hữu tình, có phải vậy không thưa đại đức?
- Có khi có, có khi không, tâu đại vương!
- Trường hợp nào không có thời gian, không còn thời gian?
- Trường hợp những người đã dập tắt tất cả pháp hành, tức là pháp hữu vi, tạo tác, đã chấm dứt mọi nguyên nhân sanh tử thì không còn diễn tiến trong thời gian, không còn bị quy định trong thời gian, không còn bị chi phối bởi thời gian. Nói cách khác, các vị Thánh nhân đắc đạo họ sống không có thời gian. Họ vô sanh vậy.
- Trường hợp nào là có?
- Trường hợp tạo tác, còn pháp hành, còn gây nhân thiện ác; nghĩa là còn thọ nhận quả báo từ đời này sang kiếp kia là còn thời gian. Nói cách khác, thời gian đồng nghĩa với tử sinh và luân hồi vô tận vậy.
- Rõ ràng lắm, tri ân đại đức.
* * *
25. Nguyên nhân của thời gian
Đức vua hỏi:
- Thưa đại đức! Phàm cái gì có quả thì phải có nhân. Vậy nguyên nhân đâu mà có thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai?
Na-tiên tỳ khưu nói:
- Đại vương đặt câu hỏi hay lắm! Trước khi trả lời, đại vương cho phép bần tăng được hỏi lại ít câu.
- Đại đức cứ hỏi!
- Muốn chấm dứt thời gian thì phải làm sao?
- Là phải chấm dứt pháp hành (Sankhàra), pháp hữu vi, pháp tạo tác, pháp cấu sanh... như đại đức đã trả lời trong câu hỏi trước.
- Đúng thế. Vậy muốn chấm dứt pháp hành ấy thì phải làm sao nữa?
- Thì phải chấm dứt vô minh, vì "vô minh" sinh "hành" như Đức Thế Tôn đã thuyết.
- Đúng thế. Và như vậy, câu hỏi của đại vương đã được đại vương tự trả lời rồi.
Đức vua cười ha hả:
- Khéo lắm, nhưng xin đại đức giảng giải cho rõ ràng hơn một tí.
- Có thể được, tâu đại vương! Có thời gian là vì còn bị pháp hành chi phối, pháp hành là do vô minh mà có. Vậy muốn chấm dứt thời gian thì phải chấm dứt vô minh. Từ vô minh, chúng ta sẽ lần theo tiến trình sanh tử ấy như sau:
Vô minh là tình trạng bất giác, thiếu tỉnh thức, thiếu sáng suốt nên khởi tâm vọng động, tạo nên hành, và hành chính là ái, thủ, hữu quá khứ. Do hành nghiệp mà phát sanh năng lực đưa tâm nương gá nơi bào thai [kết sanh thức (danh) + tinh trùng và noãn châu (sắc)]. Kết hợp danh sắc hiện rõ chức năng sáu căn để nhận thức sáu trần (lục nhập). Khi có sáu giác quan của một chúng sanh ra đời, tùy đối tượng nhận thức mà phát sanh nhãn xúc, nhĩ xúc...ý xúc (xúc). Từ đây có các cảm thọ khổ ưu, hỷ lạc và xả (thọ). Có thọ liền có tham sân si (ái). Có ái, chấp thủ, tạo nên các thủ (dục thủ, kiến thủ, ngã thủ và giới cấm thủ). Thủ là sức mạnh tạo thành nghiệp (hữu) thiện, bất thiện và bất động. Hữu là lực tạo tác để trở thành (bhava), nghĩa là tạo năng lực để hiện hữu trong tương lai. Rồi thức tái sanh kết hợp với sắc pháp (tinh trùng + noãn châu) tạo tác nên một chúng sanh mới, chịu sự chi phối của già chết và sầu bi khổ ưu não...; và tiến trình của mười hai duyên khởi này chính là tiến trình sinh tử không đầu, không đuôi kéo dài đến vô tận, chẳng thể phanh ra đầu mối. Tìm kiếm nguồn gốc đầu tiên của chúng sanh, của thời gian là một việc làm không thể được, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã giảng giải rất tận tường.
* * *
26. Thời gian tối sơ?
Đức vua hỏi tiếp:
- Đại đức vừa nói là không thể phanh ra nguồn gốc của thời gian, tức là không thể tìm ra thời gian tối sơ. Điều ấy trẫm hiểu, nhưng trẫm muốn nghe ví dụ.
- Ví dụ như trái cây. Trái chín rụng, hạt rơi xuống thành cây khác, trái khác; và cứ thế tiếp tục đến vô cùng, vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gốc nguồn của trái cây kia chăng?
- Không thể được.
- Cũng thế là thời gian tối sơ của chúng sanh, chẳng thể tìm được, tâu đại vương.
- Cho nghe ví dụ khác.
- Ví dụ trứng gà ấp nở ra gà. Gà con thành gà mẹ, lại đẻ trứng, ấp nở ra bầy gà con. Gà con lớn lên đẻ trứng, ấp nở ra gà nữa và cứ thế tiếp tục đến vô cùng vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gà sinh trứng hay trứng sinh gà? Có thể tìm ra nguồn gốc của con gà kia chăng?
- Không thể được.
- Cũng thế là thời gian tối sơ của chúng sanh, chẳng thể phanh tìm được, tâu đại vương.
- Cho nghe ví dụ nữa.
Na-tiên tỳ khưu vẽ theo cái hình bánh xe rồi nói:
- Đại vương có thể chỉ cho bần tăng thấy chỗ nào là điểm khởi đầu trên cái hình bánh xe này chăng?
- Thưa, chẳng thể.
- Cũng như thế đó là điểm bắt đầu của chúng sanh, chẳng thể tìm ra, tâu đại vương! Trong vòng tử sanh, sanh tử ấy, giống như bánh xe này, không đầu không đuôi; chúng sanh lui tới, vần xoay mãi mãi không ngừng. Đức Thế Tôn đã giải thích về điều ấy như sau:
"Khi có mắt và có sắc thì có nhãn xúc. Có nhãn xúc liền có các cảm thọ. Khổ, lạc và xả. Có các cảm thọ liền có ái phát sanh. Có ái liền có thủ. Có thủ liền có hữu, tức là tạo nghiệp. Có tạo nghiệp nên phải sanh trở lại để nhận quả báo.
Khi có tai và có âm thanh thì có nhĩ xúc. Có nhĩ xúc liền có các cảm thọ. Có thọ liền có ái, có thủ, có hữu, tức là tạo nghiệp thiện ác hoặc bất động. Có tạo nghiệp nên phải sanh trở lại để thọ nhận quả báo. Cũng giống như thế với mũi và hương, lưỡi và vị, thân và vật xúc chạm, ý và pháp. Tất cả chúng là những tác động, là nhân, là duyên đưa đến tái sanh, tương tục vần xoay không gián đoạn, vô thỉ, vô chung".
Như thế thì làm thế nào tìm ra được đầu mối của sinh tử, thời gian tối sơ, nguyên nhân đầu tiên của chúng sanh được, hở đại vương?
- Thưa, quả vậy.
* * *
27. Có rồi không, Không rồi có!
Đức vua hỏi:
- Thời gian tối sơ không thể phăng tìm được, điều đó thì trẫm lãnh hội rồi, nhưng thời gian tối sơ ấy có thể nào khi có, khi không chăng, hở đại đức?
- Đúng là như thế, tâu đại vương!
- Xin đại đức nói cho rõ hơn.
- Ví như có một giống cây, chưa mọc thì chưa có, đến khi người ta đem giống ấy, trồng tỉa nên cây, hoa, lá, trái. Như thế được hiểu trước đây là không mà bây giờ là có vậy, tâu đại vương!
- Thế còn từ có mà trở thành không?
- Cũng tương tự thế, có một giống cây trước đây mọc đầy rừng, đầy đất, không biết có mặt từ bao giờ nhưng bây giờ thì hoàn toàn mất hẳn, diệt hẳn. Vậy là có mà trở thành không đấy, tâu đại vương!
* * *
28. Pháp hành thì sao?
Đức vua hỏi:
- Thế còn pháp hành (Sankhàra) thì sao, hở đại đức?
- Pháp hành, pháp hữu vi đã sanh rồi thì nó cứ sanh mãi, tương tục mãi như thế.
- Xin đại đức giảng cho rõ.
- Pháp hành này phải được hiểu là những pháp cấu tạo ở trong tâm. Đại vương đã từng hiểu mười hai duyên khởi rồi thì cứ từ cái duyên khởi ấy mà suy ra. Khi có lục căn, lục trần thì có lục xúc. Có xúc thì có thọ, ái, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Khi thọ mạng chấm dứt thì nghiệp lực tạo sức mạnh cho thức tái sanh đi tìm cảnh giới mới. Như thế thì pháp hành (Ai, thủ, hữu) đã sanh rồi thì sanh sanh đến vô tận theo vòng luân hồi tử sanh của chúng sanh vậy.
- Trẫm hiểu. Nhưng đại đức có nói là có thể chấm dứt pháp hành ấy, nghĩa là có thể từ có mà trở thành không?
- Đúng thế.
- Xin đại đức giảng giải.
- Điều ấy đại vương hiểu rồi mà! Nghĩa là nếu không có vô minh thì không có hành, chấm dứt hành thì không có thức đi tìm cảnh thú tái sanh để cấu tạo nên danh sắc mới... cứ thế mà suy diễn ra, nếu mười hai duyên khởi không còn tồn tục được thì vòng luân hồi tử sanh ấy sẽ chấm dứt. Pháp hành từ có mà trở thành không là vậy, tâu đại vương.
- Hay vậy thay!
* * *
29. Tự nhiên sanh?
- Thế có vật gì mà do tự nhiên sanh, hở đại đức?
- Không có vật gì trên thế gian này mà do tự nhiên sanh cả, tâu đại vương .
- Thế sao đại đức bảo có vật từ không mà thành có?
Tỳ khưu Na-tiên mỉm cười:
- Trước đây khi dẫn quân đi chinh chiến, đại vương có ở trong cung điện này chưa?
- Thuở ấy chưa có cung điện này!
- Rồi sau sao lại có?
- Khi lập kinh đô, trẫm mới làm cung điện.
- Đại vương làm như thế nào?
- Trẫm cho người san bằng đất, chở đá sỏi từ nơi khác đến, cho lấy gỗ trong rừng và để thợ mộc làm cột, kèo, đòn tay, chạm trổ v.v... Sau đó làm thành quách, cửa ngõ, lối đi, trồng cây, đào ao hồ, nuôi chim, thả ca v.v...
- Thế thì cung điện này đâu phải do tự nhiên sanh mà do chính công kiến tạo, tập kết vật liệu, sức người làm, đá, sỏi, vôi, đường v.v... Tất cả chúng kết hợp lại mới thành cung điện, phải thế chăng?
- Đúng như thế.
- Cũng thế, không có thể trở thành có, nhưng có ấy không phải tự nhiên sanh mà do sự cấu tạo, kết hợp nhiều yếu tố, nhiều phụ liệu khác mà thành, tâu đại vương .
- Xin cho ví dụ.
- Ví như hạt lúa có thể trở thành cây lúa không, hở đại vương, nếu như nó không có đất, nước, ánh sáng, phân, công chăm sóc, thời gian và ý niệm trồng lúa của người chủ ruộng?
- Không thể thành cây lúa được nếu thiếu các yếu tố, điều kiện đi sau.
- Cũng như thế, chẳng có vật gì do tự nhiên sanh, do tự nó sanh mà do sự kết hợp nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác, tâu đại vương .
- Xin cho ví dụ nữa.
- Ví như đất sét có thể trở thành đồ gốm không, hở đại vương?
- Không thể được. Đất sét mang về phải lấy nước nhồi cho nhuyễn, xong rồi phải nặn thành cái nồi, niêu, chén, bát v.v...; kế nữa phải có củi, lửa, bỏ vào lò nung cho chín v.v...Ây mới thành đồ gốm dùng được.
- Thế rõ ràng là nó chẳng do tự nhiên sanh mà do sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhiều điều kiện vậy.
- Đại đức còn ví dụ nào nữa chăng?
- Có thể được. Ví dụ như người gãy đàn. Nếu không có dây, phím, da bịt, thùng gỗ v.v... thì âm thanh có thể vang tiếng được không, tâu đại vương?
- Cây đàn, âm thanh như thế cũng không phải tự nhiên sanh, nó cần nhiều yếu tố và điều kiện vậy.
- Có người muốn cưa cây lấy lửa, nhưng y không có hai thanh gỗ, không có bùi nhùi, không có cả người cưa thì có thể tạo ra lửa không hở đại vương?
- Thưa không.
- Ví như người có kính thủy tinh, có ánh nắng mặt trời, lại có người cầm kính ấy chiếu lên đống cỏ khô, rơm khô... thì có thể tạo ra lửa được chăng?
- Thưa được.
- Ví như có gương soi, có người đứng trước gương, có ánh sáng thì có hình người hiện ra trong gương không, tâu đại vương?
- Thưa có.
- Hết thảy mọi sự mọi vật trong thế gian đều y như thế, chẳng có cái gì do tự nhiên sanh, phải cần các yếu tố, điều kiện, kết hợp lại mà thành. Nói cách khác, vạn pháp, muôn loài đều do nhân duyên sanh vậy, tâu đại vương!
- Hay lắm! Trẫm đã hoàn toàn lãnh hội.
* * *
30. Tự ngã trong thân?
Đức vua hỏi:
- Tất cả mọi nhận thức, hiểu biết dường như là do một tự ngã ở trong thân, phải vậy không, đại đức?
- Đại vương hiểu điều đó như thế nào, có thể nói rộng ra được chăng?
- Trẫm nhận thấy thế này. Tất cả chúng sanh có sanh mạng, phải có một chủ thể nhận thức nương gá ở trong thân, nhờ thế mới có thể thấy sắc bằng mắt, nghe tiếng bằng tai, ngửi hương bằng mũi v.v...Nghĩa là tự ngã ấy có thể thấy được ngoại cảnh bên ngoài qua sáu cửa sổ giác quan vậy. Ví như chúng ta đang ngồi trong bảo điện này, nếu muốn nhìn thấy cảnh phía đông, ta mở cửa phía đông, muốn nhìn cảnh phía tây, phía nam, phía bắc thì ta mở cửa phía tây, phía nam, phía bắc. Mở bốn cửa sổ ở bốn hướng ta nhìn thấy ngoại vật như thế nào, thì tự ngã ở trong thân nhìn thấy ngoại vật qua sáu giác quan cũng y như thế. Đấy là ví dụ của trẫm, không biết có đúng chăng?
- Bần tăng đã hiểu. Như bốn cửa sổ ở bốn hướng này, ta muốn xem hướng nào thì mở hướng ấy?
- Đúng thế.
- Nếu tự ngã muốn thấy sắc thì nó mở nhãn môn để thấy sắc?
- Đúng thế.
- Vậy thì tự ngã ấy có thể thấy sắc bằng nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý môn được chăng?
- Không thể.
- Có thể nghe âm thanh bằng mắt, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
- Không thể.
- Có thể ngửi được mùi hương bằng mắt, tai, lưỡi, thân và ý chăng?
- Không thể.
- Tương tự như thế, nếm vị bằng mắt, tai, thân và ý? Xúc chạm bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và ý? Và suy nghĩ bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân?
- Không thể.
- Vậy tại sao đại vương lại bảo là muốn thấy hướng nào thì mở cửa hướng ấy bằng ví dụ những cửa sổ? Sáu giác quan mà ví dụ là sáu cửa sổ, ấy là thí dụ không thích đáng, không tương hợp chút nào cả. Đại vương có thấy như thế chăng?
- Trẫm đã thấy.
- Các cửa sổ ở cung điện này nếu được mở rộng ra thì ta có thể thấy ngoại cảnh xa rộng hơn. Nhưng mắt mà được khoét rộng ra thì có thể thấy ngoại cảnh xa rộng hơn chăng?
- Không thể.
- Tương tự như thế ấy. Nếu tai, mũi, lưỡi, thân, ý mở rộng ra thì ta có thể nào nghe xa rộng , ngửi xa rộng, nếm xa rộng, xúc xa rộng, suy nghĩ xa rộng được chăng?
- Thật không thể được.
- Như vậy chứng tỏ luận cứ của đại vương là không tương hợp, không thích đáng. Lại nữa, ví dụ đại vương đứng ở cổng thành bố thí cho dân nghèo, một người ở hướng đông đến, nhận vật bố thí rồi đi, đại vương có thấy chăng?
- Dĩ nhiên là trẫm thấy.
- Một người ở hướng tây lại, nhận của bố thí xong, người ấy không đi mà đứng yên trước mặt đại vương, thế đại vương có thấy chăng?
- Có thấy.
- Tương tự như vậy, khi lưỡi nếm vị, cái lưỡi biết rõ ấy là vị chua, ngọt, béo, bùi chăng?
- Dĩ nhiên là biết.
- Nhưng nếu cái vị ấy chưa đến lưỡi, còn đứng ở ngoài lưỡi, thì đại vương có thể nào biết nó là đắng, chát, ngọt, bùi không?
- Không thể biết được.
- Như vậy, rõ ràng là lối ví dụ so sánh của đại vương là không tương hợp, không thích đáng. Lại nữa, nếu ta đem mật ong đổ đầy trong lu lớn, bắt một người nằm vào trong và bịt kín miệng người đó lại, thì y có thể nào biết được cái ngọt của mật chăng?
- Không nếm thì làm sao biết được.
- Như vậy, thêm một lần nữa, đại vương biết rõ đâu là không tương hợp, không thích đáng.
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu:
- Bây giờ trẫm đã thấy rõ sự kém cỏi, nông cạn của mình, xin đại đức giảng giải cặn kẽ cho trẫm nghe thêm.
Na-tiên tỳ khưu bèn thuyết như sau:
- Tâu đại vương! Con mắt tiếp xúc với sắc nhưng chưa chắc con mắt ấy biết rõ sắc ấy là xanh, đỏ, trắng, vàng đâu, nếu không có nhãn thức. Và nhãn thức ấy cũng không phải là một tự ngã, một chủ thể. Nhãn thức sanh lên khi căn xúc với trần, nhưng nó không phải sanh khởi một mình, nó có những tâm sở đồng sanh khác, gọi là biến hành tâm sở: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn.
- xúc là xúc chạm trần cảnh, - tác ý là khởi ý đến trần cảnh, - thọ là cảm giác, - tưởng là tri giác, nhận biết, - tư là tư tác do tham sân hoặc bất động, - nhất tâm làm cho các tâm sở được liên tục - mạng căn duy trì mạng sống của một tiến trình tâm.
Và nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng được hiểu như thế. Tất cả căn, trần, thức, và những tâm sở đồng sanh ấy chúng tương quan tương duyên với nhau. Như vậy thì thức, cái nhận biết, đâu phải là chủ thể, đâu phải là cái độc lập, đâu phải là tự ngã thường hằng nương gá ở trong thân? Đại vương có biết rằng luận cứ của đại vương đã rơi vào thường kiến, một tà kiến nguy hiểm cho những người học Phật chăng?
- Cảm ơn đại đức, cái tự ngã ấy chỉ là ảo giác, ảo tưởng, trẫm đã rõ rồi.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:39:21 GMT -5
31. Nhãn thức và tâm thức (Cakkhu vinnana - Mano vinnana)
- Bạch đại đức! Khi nhãn thức sanh khởi thì tâm thức có cùng sanh khởi không?
- Thưa, có.
- Vậy cái nào trước, cái nào sau?
- Nhãn thức sanh trước, tâm thức sanh sau, tâu đại vương!
- Điều này trẫm nghi ngờ lắm! Phải chăng nhãn thức và tâm thức quen biết nhau, hoặc giả nhãn thức có nói với tâm thức rằng: "Nếu tôi sanh tại chỗ nào thì anh cũng sanh tại chỗ ấy." Hoặc tâm thức nói với nhãn thức rằng: "Anh hãy sanh trước đi, tôi sẽ nương theo anh mà sanh sau."
- Chúng không giao hẹn với nhau như thế đâu, tâu đại vương.
- Nếu không có sự kết ước của hai bên, sao anh thì đi trước, anh thì đi sau luôn luôn như thế được?
- Ây là bởi có bốn tính chất sau đây khiến chúng cùng sanh một chỗ, đi liền nhau chứ không có ký kết, giao ước gì hết.
Một là hành trình theo chỗ thấp, xuôi chiều. Hai là hành trình theo một hướng, một cửa. Ba là hành trình theo dấu cũ, đường cũ. Bốn là hành trình theo thói quen, theo huân tập, theo quán tính.
- Hành trình theo chỗ thấp, xuôi chiều là như thế nào, hở đại đức?
- Nước mưa trên trời rơi xuống, nó chảy về đâu, hở đại vương?
- Chảy vào chỗ đất thấp.
- Nếu có đám mưa khác nữa?
- Cũng chảy vào chỗ đất thấp ấy thôi.
- Thế trận mưa trước có nói với trận mưa sau rằng: "Hễ tôi chảy chỗ nào thì anh chảy chỗ đó." Hoặc đám mưa sau nói với đám mưa trước: " Chỗ nào anh chảy xuống thì chỗ ấy tôi sẽ chảy theo" không?
- Chúng không hề giao ước như vậy. Nước chảy xuống chỗ thấp là chuyện tự nhiên thôi.
- Nhãn thức sanh khởi trước, tâm thức sanh khởi sau cũng y như thế, chẳng giao ước gì cả, tâu đại vương .
- Trẫm đã hiểu ví dụ ấy. Còn hành trình theo một hướng, một cửa là thế nào?
- Ví như có một tòa trấn thành tường cao, hào sâu nhưng vào ra chỉ có một hướng, một cổng thành duy nhất. Vậy người bên trong muốn đi ra bên ngoài phải làm thế nào, đại vương?
- Phải đi ra bằng cổng lớn.
- Thế người thứ hai, thứ ba?
- Cũng từ cổng ấy mà ra.
- Những người ấy có hò hẹn gì với nhau chăng mà họ đi ra cùng một cửa?
- Thưa không.
- Người ra trước có nói với người ra sau, người ra sau có nói gì với người ra trước mà họ lại cùng đi chung một hướng, một cửa như thế?
- Thưa không.
- Nhãn thức đi trước và tâm thức đi sau cùng ra một hướng, một cửa là thế đó, tâu đại vương .
- Thế còn hành trình theo dấu cũ, đường cũ là sao?
- Ví như có chiếc xe đi qua cánh rừng để lại một dấu vết, chiếc xe theo sau có theo dấu vết đó mà đi hay tự mở con đường mới?
- Dĩ nhiên là theo dấu vết, theo đường cũ mà đi.
- Họ có hẹn ước gì với nhau chăng?
- Thưa không.
- Nhãn thức và tâm thức cũng thường theo dấu vết cũ, đường cũ mà sanh khởi y như thế đó, tâu đại vương .
- Tính chất thứ tư của chúng là theo thói quen, huân tập, quán tính là thế nào, đại đức?
- Ví như các môn học tập viết, làm toán v.v... ban đầu ai cũng vụng về, chậm chạp. Nhưng về sau do sự cố gắng, tập luyện, làm nhiều, viết quen tay...; từ vụng về, chậm chạp đã trở nên mau lẹ, nhậm lẹ, tính nhanh, viết thạo. Đấy chính là thói quen, là huân tập, lâu ngày trở thành quán tính, như phản xạ tự nhiên vậy. Nhãn thức và tâm thức cùng sanh khởi trước sau cũng mau lẹ, theo thói quen, theo quán tính như vậy đó, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Không những nhãn thức mà cho chí nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng phải được hiểu như trên, cũng có đầy đủ những tính chất nêu trên, tâu đại vương .
- Trẫm đã hết nghi về điều ấy rồi.
* * *
32. Hành tướng của Xúc (Phassalakkhana)
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:
- Còn xúc tâm sở thì thế nào? Khi nhãn thức sanh khởi thì xúc tâm sở có cùng sanh khởi chăng?
- Cũng cùng sanh khởi. Khi nhãn thức sanh, không phải chỉ có xúc tâm sở cùng sanh mà những tâm sở khác cùng biến hành sanh khởi: thọ, tưởng, tư, nhất tâm v.v... như bần tăng đã trình bày cho đại vương nghe rồi.
- Đúng vậy, trẫm có nghe rồi nhưng chưa nắm vững lắm. Đại đức hãy giảng cho trẫm nghe về hành tướng của xúc ấy là thế nào?
- Xúc là đụng chạm, chạm nhau, giao nhau...
- Đại đức cho xin ví dụ?
- Như hai con dê đấu nhau, hai cái sừng của chúng đụng nhau. Cái sừng của con này là nhãn căn, sừng của con kia là sắc trần; và chỗ mà hai cái sừng của chúng chạm nhau chính là xúc. Ví như hai bàn tay vỗ vào nhau, chỗ mà hai bàn tay chạm vào nhau là xúc. Ví như cái nồi mới chồng lên cái nồi cũ, chỗ tiếp giáp hai cái nồi là xúc.
Nói tóm lại, con mắt giao tiếp với sắc thì có nhãn xúc. Lỗ tai giao tiếp với âm thanh thì có nhĩ xúc. Cái mũi giao tiếp với mùi hương thì có tỷ xúc. Cái lưỡi giao tiếp với vị thì có thiệt xúc. Cái thân giao tiếp với vật trơn, nhám thì có thân xúc. Cái ý giao tiếp với pháp thì có ý xúc. Xúc là cái giao tiếp, là cái gạch nối, là cái va chạm, cái đụng nhau giữa căn và trần, tâu đại vương .
- Hay lắm. Thật rõ ràng.
* * *
33. Hành tướng của Thọ (Vedanalakkhana)
- Thế Thọ tâm sở có hành tướng thế nào, ra sao, để dễ nhận biết, thưa đại đức?
- Khi nào có khổ, lạc, xả, thì đấy được gọi là Thọ tâm sở, tâu đại vương .
- Xin cho nghe ví dụ.
- Ví như đại đức thuở mới lập quốc, đã ban thưởng trọng hậu cho các bậc công thần, tức là những người đã từng xông pha trận mạc lập được nhiều chiến công hiển hách cho đại vương. Vị công thần ấy sau khi được đại vương ban cho chức vị, phẩm hàm, bổng lộc nên y đã sống một đời vinh hoa phú quý. Sống đời vinh hoa phú quý, được cảm thọ rất nhiều lạc thú về ngũ dục - chính là Thọ đấy, tâu đại vương!
Lại nữa, ví như có người, thuở bình sanh ưa làm việc lành, tích lũy điều hành, biết giữ giới, biết bố thí, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi trời, cảm thọ năm loại dục lạc đó là thiên sắc, thiên thanh, thiên hương v.v...Cảm thọ năm loại thiên lạc ấy là thọ đấy, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức .
* * *
34. Hành tướng của Tưởng (Sannalakkhana)
- Vậy thì Tưởng tâm sở? Đức vua hỏi.
- Là ghi nhận, chụp bắt cái tướng tổng quát của vật, ấy là Tưởng, tâu đại vương .
- Xin cho ví dụ.
- Ví như đại vương có một vị quan giữ kho siêng năng và cần mẫn trong bổn phận của mình. Tất cả những tài sản quý giá, ngọc ngà, châu báu... y đều nắm vững số lượng một cách tổng quát... chính xác, rõ ràng và không bao giờ nhầm lẫn. Nhận biết, chụp bắt, ghi nhận cái tổng quát ấy là chức năng của Tưởng, tức là tri giác đấy, tâu đại vương!
* * *
35. Hành tướng của Tác Ý (Cetanalakkhana)
- Đại đức cho biết luôn về Tác ý tâm sở?
- Tác ý là khởi ý, khởi ý làm việc gì đó cho mình (tự tác) hoặc cho người (tha tác).
- Trẫm muốn nghe thí dụ.
- Ví như có người chế tạo độc dược, tự mình uống rồi ép người khác uống theo. Như vậy, không những tự làm khổ mình mà còn làm khổ kẻ khác.
Trong thế gian này, có một số người tác ý làm điều ác, xui khiến kẻ khác làm điều ác; đến khi chấm dứt thọ mạng, họ đọa vào bốn đường khổ và những người làm ác kia cũng rơi vào bốn đường khổ giống nhau.
Lại nữa, ví như có người chế tạo một loại nước ngọt, ngon ngọt bổ dưỡng, tự mình uống rồi mời người khác cùng uống. Uống xong, tự mình cảm nghe sảng khoái, thích thú mà người được mời uống cũng cảm thấy thích thú, sảng khoái. Cũng vậy, có người làm việc lành, khuyến hóa kẻ khác làm việc lành; đến khi chấm dứt thọ mạng, cả mình và người đều được hóa sanh đến cảnh trời an vui, sung sướng.
Như vậy, Tác ý này chính là nghiệp đấy, tâu đại vương!
- Hay lắm.
* * *
36. Hành tướng của Thức (Vinnanalakkhana)
- Còn Thức? Đức vua hỏi - hành tướng và chức năng của nó là thế nào, đại đức?
- Thức có chức năng thứ nhất là nhận thức, chức năng thứ hai là thu thập kinh nghiệm của lộ trình tâm, tâu đại vương!
- Xin cho nghe ví dụ.
- Như người lính đứng canh cổng thành của đại vương. Người ấy thấy rõ những người đến cung điện từ hướng đông, tây, nam, bắc; biết rõ người ra kẻ vào, biết rõ là vua, quan hay dân, nam hay nữ, tâu đại vương. Ví dụ ấy như thế nào thì thức biết rõ sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp cũng như thế ấy.
- Còn thu thập kinh nghiệm của lộ trình tâm?
- Ví như người lính canh cổng thành ấy, nhờ thói quen, nhờ kinh nghiệm mà biết rõ những người vào ra, đến đi, kẻ nào gian kẻ nào ngay; biết rõ người nào đáng kính trọng, người nào cần phải nghi ngờ, người nào mình thích và người nào mình ghét v.v... Các cảm giác (thọ), tri giác (tưởng) tham sân (hành) ở trong các tiến trình của tâm sở ấy; Thức ghi nhận, thu thập, lưu giữ kinh nghiệm cũng y như thế, tâu đại vương!
* * *
37. Hành tướng của Tầm (Vitakkalakkhana)
- Đại đức giảng luôn cho nghe về Tầm tâm sơ?
- Tầm chính là tìm kiếm. Đi tìm kiếm đối tượng là Tầm, tâu đại vương .
- Xin cho nghe ví dụ.
- Ví như con ong bay đi tìm kiếm đóa hoa để hút mật, nó thấy đóa hoa, bay quanh đóa hoa, tìm chỗ để đậu xuống trên đóa hoa - Đấy là Tầm tâm sở, thưa đại vương .
- Rõ lắm.
* * *
38. Hành tướng của Tứ (hay Sát) (Vicaralakkhana)
- Còn Tứ tâm sở?
- Tứ chính là quan sát, soát xét, kiểm soát và bắt dính đối tượng, tâu đại vương!
- Xin cho nghe thí dụ.
- Con ong sau khi tìm kiếm được hoa (tầm), nó đậu trên đóa hoa, quan sát đóa hoa, rà soát đóa hoa, ấy là Tứ. Như thế, Tứ tâm sở luôn luôn đi theo tầm tâm sở, như con ong tìm hoa (tầm) rồi đậu trên hoa (tứ); như vang và tiếng, tiếng đi trước (tầm), vang đi sau (tứ); như bóng và hình, có hình (tầm) là có bóng (tứ). Hai tâm sở ấy luôn luôn đi liền nhau, tâu đại vương .
- Trẫm đã hiểu.
* * *
39. Lại hỏi về "Chú tâm" (Manasikàra)
Đức vua lại hỏi:
- Đại đức đã có nói về manasikàra rồi! Nhưng khi thì nó có nghĩa là tác ý đến đối tượng, khi được hiểu là Chú tâm, khi được hiểu là quan sát đối tượng; vậy manasikara khác nhau như thế nào với các tâm sở: tác ý, tầm và tứ tâm sở? Nó có gần giống với nhất tâm chăng?
- Đại vương hỏi rất hay. Manasikàra nó có nghĩa là khởi tâm đến, hướng tâm đến - nên nó đồng nghĩa với tác ý. Nhưng khi khởi tâm, hướng tâm đã thuần thục sẽ phát sanh chú tâm, giai đọan này tương đương với tầm và tứ tâm sở. Nhưng khi Chú tâm thuần thục, nó sẽ dẫn đến nhất tâm. Vậy cho nên khi nói Manasikàra - là hàm nghĩa, nó đã tự tác ý, qua tầm, qua tứ (Chú tâm) để đi đến nhất tâm. Như thế, Chú tâm đưa đến nhất tâm, tâu đại vương .
- Thật khó nhận biết vậy thay!
- Vâng, rất khó, vì danh pháp là cái trừu tượng, lại nữa, nếu không tu tập thiền quán thì không dễ gì mà thấy chúng một cách rõ ràng được .
* * *
40. Những tâm sở đồng sanh
- Bạch đại đức! Những tâm sở mà đại đức vừa trình bày như: xúc, thọ, tưởng, tác ý... đều là những tâm sở đồng sanh trong một lúc hay sao?
- Thật ra, nó có trước có sau, nhưng vì tiến trình ấy diễn ra nhanh quá nên trí tuệ ta không theo dõi được, không phân tích được.
Ví dụ: Tiến trình của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi thấy đóa hoa, biết đóa hoa ấy đẹp và thích đóa hoa ấy thì nó đã đi suốt tiến trình ấy rồi. Mà khi thấy đóa hoa ấy đẹp, thích đóa hoa ấy thì trong nhãn thức cũng có bảy tâm sở khác đồng sanh: xúc, tác ý, thọ tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn... và khi thích đóa hoa ấy cũng là tiến trình mười hai duyên khởi đã vận hành rồi. Nó nhanh quá phải không đại vương!
- Vâng, nhanh quá. Nhanh quá, nhưng ta cũng có thể phân tích được, đây là xúc, thọ, tưởng v.v... được chứ?
- Không thể được.
- Đại đức có thể cho nghe thí dụ?
- Vâng, ví như viên quan ngự trù dâng cho đại vương một món ăn nhiều gia vị lạ lùng, rất ngon. Đại vương ăn món ấy, biết ngon, nhưng đại vương có thể nào bảo viên quan ngự trù rằng: ngươi hãy lấy ra cho trẫm xem từng mùi vị một như mặn, ngọt, bùi, thơm, béo... được chăng?
- Không thể được.
- Các mùi vị ấy không thể lấy ra được một cách riêng rẽ như thế nào thì các tâm sở đồng sanh cũng y như thế đó, tâu đại vương rõ.
- Trẫm chưa rõ đâu, đại đức hãy giảng thêm.
- Vâng, khi đại vương biết vật kia là muối, đại vương biết bằng gì?
- Bằng mắt, trẫm có thể biết được?
- Có chắc biết muối bằng mắt không, đại vương?
- Chắc chắn chứ!
- Thế nếu trước đây, đại vương chưa từng nếm muối, thì hiện giờ đại vương có thể nào biết được muối mặn chăng?
- Đồng ý là thế, nhưng giả dụ có một xe chở đầy muối đi qua trước mặt, đại đức nhận biết xe muối ấy bằng mắt hay bằng lưỡi? Nếu là bằng lưỡi thì số lượng muối bằng sức mạnh của năm con bò kéo - thì lưỡi làm thế nào nếm cho hết được đại đức?
- Chẳng cần nếm hết cả xe muối mà cũng biết được đấy là muối, tâu đại vương .
- Đại đức biết bằng gì?
- Bần tăng biết bằng mắt.
- Lời nói của đại đức trước sau rất mâu thuẫn, trước thì bác bỏ lời của trẫm, sau thì chấp nhận lời của trẫm. Té ra chúng ta đều biết muối bằng mắt.
- Không phải thế đâu, đại vương! Trước tiên phải dùng lưỡi nếm muối, mới biết rõ vị mặn của muối; nhưng sau do kinh nghiệm, do đã từng thấy muối có hình dáng như vậy, màu sắc như vậy, nên khi thấy biết muối ngay, chẳng cần phải nếm. Như thế chứng tỏ gì? Khi lưỡi nếm vị, khi mắt thấy sắc, bên trong nó khởi lên biết bao kinh nghiệm trước đây, biết bao nhiêu là tâm sở khởi sanh...; thì thử hỏi làm thế nào để phân tích được đây là tâm sở gì, kia là tâm sở gì? Có phải thế không, hở đại vương?
- Đúng thế! Đại đức giảng điều ấy rất hay!
- Lại nữa, đại vương hãy nghe tiếp đây: Người ta có thể dùng cân để cân được vị mặn của muối chăng?
- Không thể cân được!
- Ngay chính những vị như ngọt, mặn, béo, bùi...; tức là chỉ một cảm thọ, chúng ta cũng không thể đem ra mà phân tích, mà cân đo được, huống hồ là hằng chuỗi tâm sở, hằng chuỗi cái vi tế? Những danh pháp ấy biến đổi, sanh diệt nhanh gấp mười bảy lần sắc pháp - thì chúng ta có thể nào mang ra để biết rõ đây là thọ tâm sở, đây là tưởng tâm sở... hở đại vương!
- Thật là tuyệt vời, chẳng có gì rõ ràng hơn thế nữa!
* * *
41. Về năm giác quan
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Thưa đại đức! Ngũ căn tức là năm giác quan của con người, phát sanh do nghiệp khác nhau hay là nghiệp chung nhau?
- Có cái chung, có cái riêng, tâu đại vương .
- Xin cho nghe thí dụ.
- Ví như người ta trồng ngũ cốc trên một cánh đồng, khi các loại giống nẩy mầm, lớn lên, tăng trưởng, ra hoa, kết hạt, thì giống nào hiện ra giống ấy không thể lẫn lộn nhau được. Như vậy, đất nước, ánh sáng, phân là cái chung mà lúa, đậu, mè, bắp, kê lại là cái riêng. Cũng như thế, thân tâm là cái chung nhau nhưng năm giác quan sanh ra từ đấy, nó có những chức năng riêng biệt, khác nhau, tâu đại vương!
* * *
42. Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp
- Bạch đại đức! Cái chung và cái riêng ấy trẫm đã hiểu rồi, nhưng trong cái chung, riêng ấy dường như có chung, riêng khác nữa, không hiểu tại sao? Ví như cùng là con người, ai cũng đầy đủ thân tâm, ai cũng đủ ngũ quan, nhưng không hiểu do đâu mà có sự sai khác, bất đồng như vậy.
Có người trường thọ, ít bệnh tật, không mấy khi đau ốm, lại có người chết yểu, nhiều bệnh tật? Có người sắc thân đẹp đẽ, sáng sủa, ai cũng ưa nhìn; lại có người sắc thân xấu xí, đen đúa, dị hợm, ai cũng muốn xa lánh?
Có người phúc phận to lớn, quyền uy sang cả, ai cũng kính nể, phục tùng; lại có người bần tiện, hạ liệt, ai cũng rẻ rúng, coi khinh?
Có người thông minh, mẫn tuệ, tài cao xuất chúng; lại có người ngu dốt, si mê, đần độn?
Có người luôn gặp may mắn, tài vận hanh thông; lại có người suốt đời rủi ro, bế tắc, luôn luôn gặp tai ương, hoạn nạn?
Có người ăn nói hiền lành, dịu ngọt, từ hòa; lại có người ăn nói cộc cằn, thô lỗ, ác khẩu?
Có người thật thà, tốt bụng; lại có người chua ngoa xảo trá, lươn lẹo?
Nói ra sự sai khác nữa thì nó không cùng, nhưng tạm phân ra bảy đôi tức mười bốn nhóm người như vậy, đại đức hãy giảng giải lý do tại sao cho trẫm nghe?
- Dễ dàng thôi, tâu đại vương: Bần tăng không rõ tại sao nơi khu vườn thượng uyển của đại vương, cũng cùng chất đất ấy, khí hậu, thời tiết ấy, mà cây cối, thảo mộc, muôn hoa lại vô vàn sai khác? Cây lá đều xanh nhưng trái thì có trái ngọt, trái chua, trái béo, trái bùi; hoa thì hoa to, hoa nhỏ, màu sắc sai khác, hương thơm sai khác?
- Vì chủng loại bất đồng, hạt giống khác nhau, thưa đại đức .
- Vậy thì sự sai khác giữa các loại chúng sanh, sự bất đồng giữa con người là do chúng đã tạo trữ những hành nghiệp khác nhau. Nghiệp khác nhau chính là những hạt giống khác nhau, tâu đại vương .
- Xin đại đức giảng rộng cho nghe.
- Vâng , Đức Thế Tôn đã thuyết về nghiệp ấy như sau: "Này thiện nam tử, tất cả chúng sanh đều được sanh ra bởi nghiệp, nghiệp là của mình, phải thọ quả của nghiệp; nghiệp là tạo tác, là chủ tể muôn loài, nghiệp là giống dòng tông chủng, nghiệp tìm đến nhau, nghiệp dẫn dắt nhau đi."
Thế nào là được sanh ra bởi nghiệp? Tất cả chúng sanh đời trước làm những việc thiện, ác, tốt, xấu. Những việc làm thiện, ác, tốt, xấu ấy huân tập thành nghiệp nhân; tạo nên sức mạnh đưa chúng sanh đầu thai vào hiện tại này để thọ nhận nghiệp quả của thiện, ác, tốt, xấu. Như vậy là do nghiệp sanh chứ không phải Thượng đế sanh hay tự nhiên sanh!
Thế nào là nghiệp của mình? Khi chúng sanh đã tạo nghiệp rồi, thì nghiệp ấy đi liền theo như bóng không lìa hình; nghiệp ấy đưa ta lên thiên đường, đưa ta xuống địa ngục; nghiệp ấy là tư lương, là hành trang của chúng sanh mang theo khắp ba cõi, sáu đường; vui khổ cùng thọ nhận, họa phúc phải chung phần, quý tiện cùng chia xẻ, vinh nhục đều chung ở v.v... Vậy nghiệp dù tốt xấu cũng là của mình, chứ của ai?
Thế nào là phải thọ quả của nghiệp? Nghiệp mà chúng sanh đã tạo tác rồi thì phải sanh ra để thọ nhận quả báu ấy. Chẳng thể trốn trong động thẳm hang sâu, dưới đáy biển, giữa hư không... hầu tránh thoát được nghiệp đã gieo.
Tại sao nói nghiệp là tạo tác, là chủ tể? Tại sao thế? Vì rằng trên đời này, nghiệp làm ra mọi sự, nghiệp tạo nên hoàn cảnh, nghiệp xây dựng nên quốc độ, nghiệp tạo ra cây lành trái ngọt, nghiệp tạo tác chiến tranh, nghiệp xây dựng hòa bình, nghiệp làm ra sum la vạn tượng, nghiệp phá hoại cho đổ nát điêu tàn v.v...Thế không gọi nghiệp là tạo tác, là chủ tể là gì?
Nghiệp là giống dòng tông chủng nghĩa là thế nào?
Phàm chúng sanh đã sanh ra trên đời này đều có giống dòng, chủng tộc, thân bằng, quyến thuộc, quốc độ, quê hương v.v... Tự chúng sanh lựa chọn chăng? Ngẫu nhiên chăng? Không, tất thảy do nghiệp đấy. Tại sao? Những người tâm ý giống nhau thường tạo nghiệp giống nhau, tạo nghiệp giống nhau thì cảnh giới giống nhau. Từ cảnh giới giống nhau, nếu còn ưa thích, quyến luyến nhiều đời nên bây giờ trở thành cha con, chồng vợ, họ hàng, quyến thuộc của nhau. Từ đó suy ra, nghiệp không là giống dòng, tông chủng là gì?
Thế nào là nghiệp tìm đến nhau, dẫn dắt nhau đi? Vì rằng chúng sanh đã tạo nghiệp, khi trở thành thói quen, thì thói quen thường đưa chúng sanh đi tìm thói quen ấy, dẫn dắt chúng sanh đi theo nghiệp ấy. Lại nữa, người lành thường đi tìm người lành, người ác thường đi tìm người ác; kẻ xấu bạn với kẻ xấu, người tốt bạn với người tốt. Như chúng ta thường nói: "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" là vậy. Đại vương còn thắc mắc, nghi nan gì về sự sai khác dị đồng của chúng sanh trong thế gian này nữa chăng?
- Trẫm đã hoàn toàn lãnh hội , mắt trẫm đã sạch bớt một lớp bụi mù. Cảm ơn đại đức nhiều lắm!
- Không có gì!
* * *
43. Sớm ngăn ngừa điều ác
Đức vua hỏi:
- Trẫm có nghe rằng, người tu hành trong Phật giáo thường ngăn ngừa điều ác, ngăn ngừa nguyên nhân sanh khổ, tại sao không đợi nó đến để dập tắt luôn?
- Không những ngăn ngừa điều ác, mà tất cả các thiện pháp cần phải nên tu tập càng sớm càng tốt mới thu được nhiều lợi ích, nếu để muộn thì thật là nguy hiểm, tâu đại vương!
- Tại sao thế?
- Ví dụ đại vương đợi đến khi khát nước cháy cổ mới sửa soạn sai người đào giếng? Việc làm ấy có thích đáng không, có kịp có nước để uống không?
- Phải đào giếng từ trước.
- Phàm tu hành cũng vậy, nếu khi sự khổ đến mới lo tu thì muộn rồi. Lại nữa, ví như đại vương đợi đến khi đói bụng mới sai người cày ruộng, gieo mạ... thì đến lúc gặt lúa có còn cứu kịp cơn đói của đại vương chăng?
- Chẳng thể cứu kịp.
- Ví như đại vương bảo vệ hoàng thành này, nhưng đại vương lại suy nghĩ: "Đợi khi giặc đến ta sẽ luyện tập quân sĩ, rèn đúc khí giới, huấn luyện ngựa voi v.v...". Sự suy nghĩ ấy có đúng thời chăng?
- Thì hoàng cung này giặc sẽ chiếm mất.
- Cũng vậy, người tu hành phải biết lo toan từ trước, sớm làm điều lành, sớm ngăn ngừa điều ác, đợi đến khi nước đến chân thì không kịp nữa. Nên Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Người có trí tuệ hằng tìm lợi ích an vui cho mình, đừng như kẻ buôn thóc kia, lối đi bằng phẳng, dễ dàng thì không chịu đi; lại lựa chọn con đường gập ghềnh, hiểm trở mà đánh xe đi, đến khi gãy trục, gãy vành, ngồi khóc lóc, thở than! Kẻ ngu bỏ lành làm ác cũng y như thế, có hối cũng đã muộn màng."
* * *
44. Lửa địa ngục
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Có nhiều vị tỳ kheo đã thuyết cho trẫm nghe rằng: lửa địa ngục nóng hơn lửa thế gian hằng vạn lần. Lại còn đưa ra ví dụ rằng, quăng một cục đá vào đống lửa thế gian, lửa cháy trọn ngày đêm, cục đá vẫn trơ trơ. Nhưng nếu quăng một tảng đá lớn vào lửa địa ngục, trong giây lát tảng đá kia sẽ bị cháy tiêu mất. Đấy là điều khó tin thứ nhất.
Lại nữa, các vị ấy còn thuyết rằng: Những chúng sanh làm ác, đọa vào địa ngục sẽ bị lửa địa ngục thiêu đốt cả ngàn vạn năm mà vẫn không chết, vẫn không bị cháy thành tro. Tảng đá thì bị lửa địa ngục đốt cháy, còn chúng sanh thì vẫn sống nhăn răng! Đấy là điều khó tin thứ hai!
Tỳ khưu Na-tiên lại đáp bằng cách hỏi:
- Tâu đại vương! Đại vương học rộng biết nhiều, thế đại vương biết con vật gì ăn được đá sỏi chăng?
- Các con công, kỳ đà, rùa, gà... có ăn sạn sỏi hoặc thỉnh thoảng có nuốt sạn, sỏi vào bụng.
- Còn ở dưới nước? Các loài thủy tộc?
- Thì cá sấu, trạnh, cua, thuồng luồng...Khi chúng có chửa, chúng cũng thường ăn sạn, sỏi.
- Thế sạn, sỏi có tiêu không?
- Thưa, hẳn là phải tiêu chứ.
- Vậy thì trứng trong bụng chúng có tiêu không?
- Thưa, không.
- Đại vương nói thế bần tăng nghi ngờ lắm. Tại sao sạn, sỏi cứng thế mà lại tiêu, còn trứng dễ vỡ thế mà lại không tiêu?
- Có gì lạ đâu đại đức! Bởi chức năng của bao tử là co bóp nên sạn, sỏi sẽ tiêu, còn chức năng của buồng trứng là nuôi dưỡng nên trứng không tiêu. Một bên sinh, một bên diệt, hai bên có hai sức mạnh khác nhau, công dụng khác nhau.
- Cũng như thế ấy là lửa ở địa ngục, tâu đại vương! Tảng đá thì cháy tiêu còn chúng sanh không cháy là do hai bên có hai năng lực khác nhau, công dụng khác nhau, bị chi phối bởi các định luật khác nhau.
- Xin đại đức nói rõ hơn.
- Tảng đá lớn bị lửa cháy tiêu là do định luật vật lý, chúng sanh mà không bị cháy là bởi định luật của nghiệp duy trì. Nghiệp ác tạo nên sức mạnh duy trì mạng sống chúng sanh cho đến khi chúng sanh ấy trả hết quả đã gieo.
- Nếu nghiệp chưa hết thì chưa bị cháy tiêu?
- Đúng thế.
- Đại đức cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Bần tăng có nghe rằng các loài vật như sư tử cái, cọp cái, beo cái, chó sói cái...; lúc có chửa, chúng rất thích ăn xương của các loài thú khác, nhưng không biết xương ấy có tiêu không?
- Tiêu chứ.
- Thế tại sao cái thai của chúng lại không tiêu?
- Là do sức mạnh của nghiệp duy trì.
- Hàng phụ nữ quý phái, các vị mệnh phụ phu nhân, các công nương sang trọng lúc có thai thường thích ăn cá thịt, sơn hào hải vị để tẩm bổ thai nhi. Như vậy là làm tiêu hết cái này để nuôi cái kia? Sao kỳ lạ vậy nhỉ?
- Chắn hẳn do nghiệp, thưa đại đức .
- Chúng sanh làm ác, đọa vào địa ngục, chúng sinh ra trong lửa thiêu, già trong lửa thiêu nhưng sẽ không bị cháy tiêu. Như thế, tất cả đều do nghiệp, tâu đại vương!
- Thật là thỏa đáng vô cùng.
* * *
45. Nước dựa khí
Vua hỏi:
- Các vị sa môn trong hàng ngũ của đại đức thường thuyết lý rằng: đất dựa nước, nước dựa khí, khí dựa hư không. Điều ấy sao khó tin đến vậy?
Khi ấy, đại đức Na-tiên có cái bình lược nước mang sẵn, ngài đưa cái bình lược nước lên cao, nói rằng:
- Đại vương! nước trong bình này không do khí duy trì, nâng đỡ là gì! [*]
- Vâng, đúng thế!
[*] Ngày nay, các thể đặc, lỏng, hơi, chân không nương tựa nhau là điều mà ai cũng có thể biết.
* * *
46. Niết bàn
- Thưa đại đức! Tại sao Niết bàn thường được nói là diệt (nirodha), là tịch diệt? Trẫm nghi ngờ điều đó lắm!
- Xin thưa, Niết bàn chính là diệt, là tịch diệt, một trạng thái ngưng nghỉ và vắng lặng, đại vương hãy nghe đây, bần tăng sẽ nói.
Chúng sanh hằng chịu thế lực của căn trần chi phối, mãi trôi dạt giữa biển đời sanh tử, mãi quẩn quanh trong lục đạo luân hồi, mãi chìm đắm giữa dòng ái dục; nên chẳng bao giờ thoát ly được sự bủa vây của phiền não do sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, bất bình, uất ức, thống khổ v.v... Các bậc Thinh văn A-la- hán, do nhờ có tu tập, do nhờ có trí tuệ nên các ngài đã thoát khỏi sự chi phối của căn trần; đã liễu ngộ sinh tử, không còn trôi dạt trong ba cõi, sáu đường, đã chấm dứt ái dục! Khi ái dục đã diệt tận thì mọi chấp thủ tiêu vong [*]; thủ diệt thì ba hữu [**] đâu có còn? Ba hữu không còn thì lấy đâu ra sanh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não? Như vậy, mọi nguyên nhân của phiền não đau khổ thảy đều ngưng nghỉ, vắng lặng; nếu không gọi là diệt, là tịch diệt thì gọi là gì hở đại vương?
- Hay lắm! Chính xác lắm!
[*] Có bốn thủ: dục thủ, kiến thủ, ngã thủ và giới cấm thủ.
[**] Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
* * *
47. Ai sẽ đắc Niết bàn?
Đức vua hỏi:
- Ai tu hành đều đắc quả Niết bàn như nhau cả chứ?
- Không chắc như vậy. Người nào thực hành đúng chánh pháp, giác ngộ những pháp mà bậc trí tuệ đã giác ngộ, biết chắc những pháp mà bậc trí tuệ đã biết chắc, dứt bỏ những pháp mà bậc trí tuệ dứt bỏ, tiến hành những pháp mà bậc trí tuệ tiến hành, thấy rõ những pháp mà những bậc trí tuệ đã thấy rõ; người ấy mới đắc được Niết bàn, tâu đại vương .
* * *
48. Làm sao biết Niết bàn là tối thượng lạc?
- Chưa đắc Niết bàn thì làm sao biết được Niết bàn là tối thượng lạc, đại đức ?
- Thưa, biết chứ. Ví như một người chưa từng bị chặt tay, chặt chân có biết rằng bị chặt tay chặt chân là khổ không?
- Thưa, biết.
- Làm sao mà biết được?
- Nghe tiếng kêu la, than khóc quằn quại đau đớn của những nạn nhân ấy nên biết.
- Cũng như thế ấy, dầu chưa chứng đắc Niết bàn, nhưng nghe những vị Thánh nhân A-la-hán nói lại và thấy đời sống thanh tịnh, nhàn lạc, an vui của họ nên biết Niết bàn là tối thượng lạc.
- Đúng lắm.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:41:56 GMT -5
49. Có Phật không?
Đức vua hỏi:
- Đại đức đã thấy Phật chưa?
- Thưa chưa.
- Thầy hòa thượng, thầy tiếp dẫn của đại đức đã thấy chưa?
- Thưa, cũng chưa thấy.
- Nếu thế thì rõ ràng không có Phật trên đời này, vì chính mắt đại đức không thấy mà các bậc thầy của đại đức cũng chẳng thấy.
Ngài Na-tiên bèn hỏi:
- Trên núi Hy-mã có một con sông tên là Dhànadì, đại vương đã thấy con sông đó chưa?
- Thưa chưa.
- Thế thì thân phụ và các bậc tiền bối của đại vương có thấy không?
- Cũng chưa.
- Vậy thì rõ ràng con sông Dhànadì là không có, vì đại vương không thấy mà các bậc tiền bối của đại vương cũng chẳng thấy.
- Thưa, quả là có con sông Dhànadì, vì mặc dầu trẫm không thấy, các bậc tiền bối của trẫm không thấy nhưng các sách có ghi chép và những người đã từng thấy họ nói lại.
- Cũng vậy, tâu đại vương ! Bần tăng dầu chưa thấy Đức Phật; các bậc thầy của bần tăng cũng không thấy Phật; nhưng Đức Phật vẫn có, vì kinh sách, bia ký còn ghi chép sử tích và giáo pháp của ngài, lại còn nhiều vị Thánh tăng A-la- hán kể lại nữa.
- Hay lắm.
* * *
50. Phật là tối thượng tôn bảo
- Các vị sa môn thường giáo giới đến đệ tử rằng: Phật là bậc tối thượng, tối thắng, cao quý vô ngần, thế gian không ai bì được! Điều ấy có đúng chăng?
- Tâu đại vương, đúng thế.
- Tại sao đại đức biết? Đại đức vừa xác nhận là chưa thấy ngài kia mà!
- Ví dụ như đại vương chưa từng thấy biển, nhưng có thể biết rằng là biển sâu thẳm và rộng mênh mông chăng?
- Có thể biết được.
- Tại sao?
- Vì năm con sông lớn như Gangà, Yanumà, Acìravatì, Sarabhù, Mahìnadì... mang một lượng nước vô tận, thế mà chúng tuôn chảy ngày đêm về biển, biển vẫn không đầy tràn. Do vậy, nên biết biển sâu thẳm, mênh mông.
- Cũng như thế ấy, các hàng đệ tử của Phật, nhất là các bậc Thánh từ Dự lưu quả đến A-la-hán quả đều thành tựu giới đức, định đức, tuệ đức; họ đông vô số, và là những bậc đáng tôn quý, nhưng họ đều là đệ tử của Đức Đạo Sư. Nhờ vậy nên biết Đức Phật là bậc Tối thượng Tôn bảo.
- Thật là chí lý!
* * *
51. Phật tối thắng như thế nào?
Đức vua lại hỏi:
- Đồng ý Phật là tối thượng, tối thắng; nhưng tối thượng, tối thắng như thế nào mới được chứ?
- Tối thượng, tối thắng là vượt người, là vượt trời; là thầy của chư thiên và loài người, tâu đại vương !
- Làm sao biết?
- Nghe mười danh hiệu của Đức Phật mà chúng sanh đã xưng tán là đủ biết, lại nữa, các vị Đại phạm thiên, những bậc có uy lực nhất trong tam giới, vốn là đệ tử của Đức Phật, đủ chứng minh điều đó, tâu đại vương .
- Ai nói điều đó?
- Kinh sách còn ghi lại, tâu đại vương .
- Làm sao tin điều đó được?
- Nghe nói đại vương rất giỏi toán học, đại vương học được của ai?
- Có sách còn để lại.
- Sách ấy của ai?
- Của nhà toán học tên là Tissa.
- Vị ấy còn sống không?
- Đã chết rồi.
- Cũng như thế ấy, kinh sách còn để lại mặc dầu Đức Phật đã nhập diệt rồi. Các vị Thánh đệ tử lưu truyền và hiện giờ chúng ta đang học giáo pháp ấy, gồm pháp học và chín pháp xuất thế gian [*] nên nói Đức Thế Tôn là tối thắng, tâu đại vương
- Rất chính xác, cảm ơn đại đức .
[*] Bốn đạo, bốn quả và một Niết bàn.
* * *
52. Thấy Phật
- Pháp mà Đức Chánh Đẳng Giác đã thuyết, pháp ấy như thế nào?
- Pháp mà Đức Thập Lực Tuệ đã thuyết, ai nghe và thực hành đúng đắn pháp ấy, chứng đắc pháp ấy được gọi là Thinh Văn đệ tử của Phật . Và ai thấy pháp ấy tức là thấy Phật, tâu đại vương!
- Đúng như thế sao?
- Chính Đức Thế Tôn đã thuyết: "Ai thấy pháp tức thấy Như Lai, ai thấy Như Lai tức thấy Pháp." Và khi ấy, người ấy sẽ không còn hoài nghi và đặt những câu hỏi về Niết bàn, về sự hiện thân của Đức Phật, về đức hạnh, trí tuệ và sự tối thắng, vô thượng của ngài nữa, tâu đại vương!
- Trẫm cũng hy vọng như vậy! Nhưng đại đức chớ nên mắng xéo trẫm như thế.
- Không dám đâu, tâu đại vương !
* * *
53. Khi chết ngũ uẩn diệt theo
Đức vua hỏi:
- Khi một chúng sanh chết ở đây, tái sanh chỗ khác thì thức của chúng sanh ấy có lìa khỏi ngũ uẩn này để tái sanh chăng?
- Chúng sanh chết thì ngũ uẩn diệt và thức cũng diệt theo, tâu đại vương .
- Thế tại sao Đức Thế Tôn có thuyết rằng, chúng sanh hằng đi theo nghiệp của mình và thức sẽ đi tìm cảnh thú tái sanh theo nghiệp ấy.
- Đúng là như thế.
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Thức tái sanh ấy được gọi là kết sanh thức, tức là thức nối liền từ kiếp này sang kiếp kia. Khi chết, thức diệt, không đi theo, nhưng nó tác động, chuyển hướng trong nháy mắt là kết sanh thức đi sang cảnh giới khác liền. Ví như người ta mồi lửa từ cây đèn này sang cây đèn khác. Lửa từ cây đèn bên này không đi sang cây đèn bên kia như thế nào, thì thức cũng không đi theo như thế ấy, tâu đại vương .
- Xin cho nghe thêm ví dụ.
- Thuở nhỏ đại vương có học toán số, văn phạm, sử truyện với các thầy phụ đạo phải chăng?
- Đúng thế.
- Thế thì toán số, văn phạm, sử truyện... ấy nó có chạy ra từ miệng, từ óc của thầy phụ đạo sang miệng và óc của đại vương chăng?
- Không có chạy qua.
- Và khi đại vương học giỏi, thì kiến thức, hiểu biết của các thầy phụ đạo chắc là cạn hết vì đã truyền sang tất thảy cho đại vương rồi?
- Không phải như thế. Kiến thức và hiểu biết của các vị ấy còn y nguyên.
- Vậy là không có cái gì đi qua cả sao?
- Không có.
- Tái sanh cũng y cũng như thế. Khi chết ngũ uẩn diệt, thức cũng diệt, chẳng có thức đi theo, nhưng thức ấy tác động, hướng tâm, trong một niệm là duyên theo cảnh giới tái sanh liền, tâu đại vương .
- Trẫm đã rõ.
* * *
54. Vedagù?
- Có một chữ mà các bậc trí thức trong thời đại này thường dùng là Vedagù, nghĩa đen là bậc thông hiểu, thâm đạt Phệ đà; nghĩa bóng là người thông đạt thế gian. Từ ấy có hàm nghĩa là người đã thông hiểu, thâm đạt hữu vi pháp và vô vi pháp không, đại đức?
- Theo Phật giáo thì Vedagù ấy chẳng có ý nghĩa thâm diệu gì cả, chẳng diễn đạt được gì về giáo pháp cao siêu cả, tâu đại vương! Tuy nhiên, vì Vedagù là thuật ngữ của đạo bà-la-môn, đã trở thành phổ thông, nên thỉnh thoảng Đức Thế Tôn cũng dùng từ ấy để chỉ những bậc đã thâm đạt pháp.
- À ra thế!
* * *
55. Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp
Đức vua hỏi:
- Cho trẫm trở lại câu hỏi trước. Đại đức nói là khi chết, ngũ uẩn diệt, nghĩa là cả thân tâm này diệt hết, không còn gì?
- Đúng vậy.
- Chẳng có bất cứ cái gì ở thân này đi sang cảnh giới tái sanh cả?
- Tạm thời có thể nói như vậy.
- Vậy thì tiện lắm, khỏe lắm rồi. Nếu trên đời này mà trẫm có làm ác, giết người vô số; khi chết, tất cả nghiệp cũng diệt theo; sang cảnh giới mới, trẫm sẽ không bị trả quả do ác nghiệp của mình đã tạo!
- Chẳng phải thế đâu, đại vương! Chỉ có người chấm dứt mọi nguyên nhân sanh tử, kẻ ấy mới chấm dứt được nghiệp; còn tất cả mọi chúng sanh, không ai thoát được nghiệp đã gieo!
- Thế tại sao đại đức bảo là diệt hết!
- Đại vương có nhớ chuyện xử phạt người trộm xoài không?
- Có nhớ.
- Kẻ trộm xoài ấy đã ngụy biện ra sao?
- Y nói rằng, tôi hái trái ở trên cành còn xoài của người trồng ở trong đất đã bị diệt mất tiêu.
- Rồi đại vương phán tội ra sao?
- Trái dưới đất nó diệt nhưng nó nảy mầm, lớn lên, ra hoa ra trái. Trái mà ngươi hái cũng do từ trái dưới đất mà sanh ra.
- Nghiệp cũng như thế, tâu đại vương! Thân tâm tuy diệt, nhưng nghiệp đã tạo giống như mầm cây, nó sẽ ra hoa kết trái ở thân tâm mới. Người hái trộm xoài không thoát khỏi tội như thế nào thì chúng sanh cũng chẳng thể tránh khỏi nghiệp khi nó đã trổ quả, tâu đại vương !
- Hay thay! Đại đức đúng là bậc Đại trí tuệ.
- Dạ không dám!
* * *
56. Nghiệp trú ở đâu?
Đức vua hỏi:
- Thế thì các nghiệp thiện, ác ấy nó trú ở đâu?
- Trú ở chỗ nào thì rất khó nói, nhưng nghiệp hằng đi theo chúng sanh từ cảnh giới này sang cảnh giới kia như bóng với hình vậy.
- Không thể chỉ rõ thiện ở chỗ này hay ác ở chỗ kia sao?
- Thưa không.
- Đại đức có ví dụ nào về điều ấy không?
- Ví dụ một cái cây lớn sẽ có trái, đại vương có thể nào chỉ cho bần tăng rõ là trái nó sẽ nằm tại chỗ này, tại chỗ kia ở trên cành hay chăng?
- Không thể.
- Cũng như thế ấy là các nghiệp mà chúng sanh hằng gánh chịu, nó luân lưu từ đời này sang kiếp kia, chẳng biết thời gian nào, chẳng biết không gian nào nó sẽ trổ quả, nhưng chắc chắn nó sẽ trổ quả. Thiện thì an vui mà ác thì đau khổ, tâu đại vương !
- Thật là tuyệt!
* * *
57. Biết còn tái sanh?
- Người còn tái sanh có biết chắc là mình còn tái sanh chăng, đại đức ?
- Biết rõ chứ.
- Làm sao mà biết?
- Một người làm ruộng lo cày bừa, gieo hạt, cấy mạ, bỏ phân, chăm sóc chu đáo lại gặp mưa thuận, gió hòa nữa; thì người ấy có biết chắc mình gặt được lúa, sẽ có cơm ăn không, đại vương ?
- Vâng, biết chắc.
- Người còn tạo nghiệp thiện ác biết chắc là còn tái sanh cũng y như thế đó, tâu đại vương !
* * *
58. Phật ở đâu?
- Đại đức có nói là Phật có thật?
- Đúng thế!
- Vậy hiện giờ Phật ở đâu?
- Tâu đại vương , hiện giờ Đức Thế Tôn đã tịch diệt Niết bàn rồi, bần tăng không thể nói cho đại vương rõ là ngài ở đâu được.
- Tại sao?
- Ví dụ ngọn lửa đã tắt, Đại vương có thể chỉ cho bần tăng rõ ngọn lửa ấy đi đâu chăng?
- Không thể.
- Đức Thế Tôn tịch diệt Niết bàn cũng y như thế. Tuy nhiên, giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã thuyết, pháp ấy bần tăng có thể chỉ cho đại vương được.
- Trẫm hiểu rồi.
* * *
59. Thương yêu cái thân?
Đức vua hỏi tiếp:
- Các vị tỷ kheo dường như là nâng niu, chăm sóc, thương yêu cái thân của mình quá lắm, tại sao lại như thế?
- Đại vương nhận xét như vậy là không đúng rồi!
- Các vị tỳ kheo từ chối khổ hạnh, không nhịn ăn, không mặc y bó tử thi, không còn ở trong nghĩa địa, không còn ngủ trên đất; họ ăn ngày một bữa đầy đủ do thí chủ mời thỉnh, mặc y do thí chủ dâng cúng nên phước tướng đẹp đẽ, da thịt hồng hào. Lại nữa, họ cạo râu tóc sạch sẽ, móng tay, móng chân cắt sạch sẽ, ngủ có điều độ, tắm rửa điều độ, giữ gìn từng bước đi, giữ gìn tay chân, thân khẩu. Một đời sống như vậy không phải là bảo trọng, thương yêu cái thân là gì?
- Đại vương trước đây đã từng cầm quân ra trận nhiều lần, phải chăng?
- Đúng thế.
- Và quân lính của đại vương có rất nhiều người bị thương, phải chăng?
- Đúng thế.
- Đại vương đã làm gì với những người lính bị thương ấy?
- Dĩ nhiên là cho họ lui tuyến sau, cử thầy thuốc chăm sóc vết thương.
- Họ thường chăm sóc ra sao?
- Họ chùi rửa vết thương cẩn thận, lấy thuốc đắp lên, lấy vải nhuyễn mịn băng bó lại.
- Người ta làm như thế có bảo trọng, nâng niu, thương yêu vết thương quá chăng?
- Không phải thế, chỉ mong cho vết thương chóng lành.
- Cũng như thế đó, các vị sa môn trong giáo pháp của Đức Thế Tôn chăm sóc cái thân không phải là vì thương yêu, nâng niu, bảo trọng cái thân - mà vì muốn dùng cái thân ấy để tu tập, phát triển giới hạnh. Cho nên, có ba việc mà thế gian lấy làm trọng là ăn, mặc, ngủ - thì các vị sa môn chỉ cần vừa đủ, biết đủ mà thôi. Ngoài ra, các vị sa môn còn quán tưởng khi ăn, khi mặc, chỗ ở và thuốc men. Lại còn quán tưởng cái thân là vật bất tịnh, gồm có cửu khiếu ngày đêm tuôn chảy các mùi hôi thối dơ uế, luôn quán tưởng cái thân là đáng nhờm gớm v.v... Như vậy thì có phải vì thương yêu, bảo trọng, nâng niu cái thân không đại vương ?
- Nếu vậy thì quá hay, cao thượng lắm!
* * *
60. Bậc toàn giác biết tất cả?
- Thưa đại đức ! Đức Phật là bậc Toàn giác (Sabbannù), tức là ngài biết tất cả (Sabbadassàvì) phải không?
- Đúng thế, ngài là bậc Toàn giác nên ngài có tuệ biết tất cả (Sabbannutannàna), tâu đại vương!
- Đức Thế Tôn có tuệ biết tất cả, tại sao ngài không chế định giới luật trước mà đợi đến khi các vị tỳ khưu có giới phạm mới cấm chế sau?
- Đại vương biết trên thế gian này có nhiều thầy thuốc tài giỏi chứ?
- Có biết, rất nhiều thầy giỏi.
- Họ làm như thế nào? Họ chế thuốc trước cho người vô bệnh uống hay đợi đến khi có bệnh, tùy bệnh nặng nhẹ, cân đo liều lượng mới chế thuốc cho uống sau?
- Dĩ nhiên pha chế thuốc phải sau chứ.
-Cũng như thế đó, có giới phạm của chư tỳ kheo, mới chế định giới luật, như trị bệnh cho thuốc vậy, tâu đại vương !
- Dễ hiểu quá, cảm ơn đại đức.
* * *
61. Tại sao Phật không giống cha mẹ ngài?
Đức vua lại hỏi:
- Thưa đại đức ! phải chăng Đức Thế Tôn có ba hai quý tướng và tám mươi vẻ đẹp của bậc đại nhân? Ví dụ như nước da của ngài tươi sáng như vàng ròng, có hào quang tỏa chiếu xung quanh kim thân ngài chừng độ một sải tay?
- Đúng như thế, tâu đại vương .
- Thế phụ hoàng và mẫu hậu ngài có phước tướng sang cả như vậy chăng?
- Thưa không.
- Thật kỳ lạ. Con không giống cha thì giống mẹ, đấy là lẽ thường tình. Ở đây, Đức Thế Tôn có đầy đủ các phước tướng mà phụ hoàng và mẫu hậu thì không, như vậy chứng tỏ rằng người ta nói hơi quá chăng? Đức Phật chắc gì có các phước tướng ấy?
Na-tiên tỳ khưu chợt hỏi:
- Đại vương thấy hoa sen chưa?
- Thấy rồi.
- Hoa sen được sanh ra từ đâu?
- Thưa, từ bùn.
- Hoa sen sinh ra trong bùn, lớn lên trong nước, khi trổ hoa thì sắc hương nó giống bùn, giống nước không, đại vương ?
- Thưa không.
- Đức Phật cũng thế. Ngài sinh ra do phụ hoàng và mẫu hậu mà không giống phụ hoàng và mẫu hậu vì trong tự thân ngài có mầm mống giống khác, đó là Phật chủng. Hạt mầm Phật chủng này được tựu thành do công năng ba la mật mà ngài đã tích lũy trong vô lượng kiếp nên phước tướng vượt trội và khác hẳn bất cứ ai trong thế gian, tâu đại vương!
- Cái ví dụ về sen mọc trong bùn của đại đức thì không tương hợp lắm nhưng mà cái "hạt mầm Phật chủng" thì thật là hay! Cảm ơn đại đức, trẫm đã hiểu.
* * *
62. Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri)
- Đức Thế Tôn thường thực hành phạm hạnh giống như các vị phạm thiên phải không, đại đức?
- Đúng vậy.
- Nếu thế thì Phật là học trò của phạm thiên rồi.
- Theo ý của đại vương , sự giống nhau ấy là thầy trò của nhau sao?
- Đúng vậy.
- Bần tăng nghe rằng đại vương có một con voi chúa mà đại vương đặt tên là "con voi hạnh phúc" phải chăng?
- Đúng vậy.
- Và người ta nói rằng tiếng rống của con voi ấy giống như tiếng kêu của loài chim Thứu trên Tuyết sơn?
- Đúng như vậy.
- Như thế có lẽ con voi hạnh phúc của đại vương là học trò của loài chim Thứu kia rồi!
- Thưa, không phải thế.
- Thế phạm hạnh của Đức Phật sao đại vương bảo là học trò của phạm thiên? Lại nữa, Đức Phật tự mình giác ngộ Chánh pháp, phạm thiên không tự mình giác ngộ Chánh pháp mà học hỏi Chánh pháp từ Đức Thế Tôn. Lẽ ra, ai thầy ai trò đại vương phải tự biết chứ?
- Phải ! Trẫm đã đặt câu hỏi lẩm cẩm mất rồi!
- Không phải lẩm cẩm đâu mà vì quá sắc bén đó thôi, tâu đại vương!
Đức vua chợt cười vui:
- Không dám đâu, thưa đại đức !
* * *
63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?
Đức vua hỏi:
- Phải cần có những điều kiện nào để cho những người tu lên bậc trên được gọi là thành tựu cụ túc giới, thưa đại đức?
- Phải cần có đủ thầy yết ma, thầy hòa thượng tế độ và số Tăng hội chứng minh, tâu đại vương .
- Đức Thế Tôn có cụ túc giới không?
- Ngài là bậc có cụ túc giới viên mãn nhất.
Đức vua hỏi tiếp:
- Vậy ai là thầy yết ma, thầy hòa thượng tế độ cho Đức Phật? Và tăng chúng chứng minh có bao nhiêu vị, không thấy đâu nói tới?
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn cụ túc giới viên mãn nhất, nhưng ngài không có ai là thầy, lấy đâu ra Tăng hội!
Đức vua quay qua mọi người:
- Xin chư vị có mặt đây làm chứng cho câu nói của đại đức Na-tiên! Khi trẫm hỏi những điều kiện tựu thành cụ túc giới, đại đức bảo là phải có đủ thầy yết ma, thầy hòa thượng tế độ cùng số Tăng hội chứng minh. Trẫm hỏi là Đức Thế Tôn có cụ túc giới không, đại đức bảo là Đức Phật cụ túc giới viên mãn nhất, thế nhưng lại bảo là cụ túc giới của Đức Phật không có yết ma, hòa thượng, không có Tăng hội! Một vị sa môn như đại đức tại sao trước sau bất nhất, lời nói sau phủ nhận lời nói trước là thế nào?
Na-tiên tỳ khưu im lặng.
Đức vua tấn công tiếp:
- Như thế, rõ ràng Đức Phật chưa có cụ túc giới, đang tu bậc thấp, chưa tu lên bậc cao!
Đại đức Na-tiên bây giờ mới hỏi:
- Đại vương, bần tăng thấy đại vương có khí độ trầm tĩnh, ăn nói trầm tĩnh; những cách nói thô tháo, cộc cằn, phùng mang, trợn mắt không có nơi đại vương; đại vương cũng không vung tay, múa chân như những kẻ say rượu... Bần tăng không rõ tại sao đại vương lại được như thế?
- Có gì đâu, vì trẫm thấy những điều ấy là xấu, là biểu hiện một nhân cách tầm thường, nông nổi... nên tự chế và bỏ dần những tính xấu ấy đi.
- Có nhiều người cũng tự chế, cũng biết đấy là xấu nhưng sao không bỏ được?
- Có lẽ họ huân tập quá sâu dày, và có những tính xấu không phải chỉ một vài kiếp mà bỏ xong!
- Đại vương hãy nghe cho rõ đây! Giới luật, ban đầu là để ngăn ngừa những vọng động thô tháo của thân và khẩu rồi dần dần đi sâu vào ý. Đức Thế Tôn sở dĩ cụ túc giới viên mãn bởi vì ngài đã rèn luyện thân khẩu ý từ vô lượng kiếp; bởi ngài đã huân tập các công hạnh, nhất là ba mươi ba la mật rốt ráo và viên mãn nhất. Lại nữa, ngài là bậc Toàn Giác, có tuệ biết tất cả thế gian pháp; biết rõ cái nào xấu cần phải ngăn ngừa, loại bỏ; biết rõ cái nào là tốt cần phải phát huy, tăng trưởng. Mọi giới luật cũng từ đấy mà ra. Nói cách khác, Đức Phật giác ngộ giới luật, sống với giới luật ở trong tâm, nên những biểu hiện ra bên ngoài của ngài về đi, đứng, nằm, ngồi, mặc y, thọ thực, đối nhân, xử thế... đều mẫu mực, đoan nghiêm, từ hòa, chín chắn, mô phạm... một cách tuyệt hảo và toàn bích.
Sở dĩ Đức Thế Tôn cụ túc giới viên mãn, không có ai là thầy, vì ngài đã cùng với cụ túc giới ấy là một; ngài giác ngộ cụ túc giới, đem ra giáo giới Tăng chúng, rồi Tăng chúng y cứ vào giới luật ấy để tu tập, để đi đến chỗ không còn lỗi lầm, không còn cả một tính xấu nhỏ. Các tầng Thánh quả là các cấp độ tu tập dần dần đến chỗ hoàn mỹ là vậy đó, tâu đại vương. Ví như đại vương biết những tính xấu để tự chế... là đại vương cũng bắt đầu đi theo con đường như Đức Phật đã đi; nhưng lộ trình của Đức Phật sâu dày hơn, lâu xa hơn, đã vô lượng kiếp rồi, thế thôi!
- Trẫm đã có hiểu được chút ít, mong đại đức giảng thêm: tại sao cụ túc giới của Đức Phật là không ai hơn được?
- Điều này bần tăng nói rồi - là ba mươi pháp ba la mật của ngài như bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chơn thật, quyết định, tâm từ, tâm xả của Đức Phật đã trọn vẹn và toàn hảo trên thế gian không ai bằng được; nên ngài đã tự thành tựu cụ túc, nghĩa là pháp chưa từng sanh được sanh lên, là pháp phi thường mà thế gian chưa từng có. Không ai có đủ đức để ở trên, ở cao hơn cụ túc giới của Đức Phật, tâu đại vương .
- Cho xin nghe ví dụ được chăng?
- Đại vương là bậc tối thượng trong một nước, có ai trong nước này oai lực hơn đại vương chăng?
- Không có.
- Nếu có kẻ đòi ngồi lên đầu lên cổ của đại vương thì đại vương làm sao?
- Trẫm sẽ chém đầu.
- Cũng như thế đó là cụ túc giới của Đức Thế Tôn. Cụ túc giới của Đức Thế Tôn là có oai lực nhất. Ai có ý nghĩ truyền cụ túc giới cho Đức Phật, thì kẻ đó, vì thiếu giới đức, định đức, tuệ đức nên đầu của y sẽ bị vỡ thành bảy mảnh.
- Vậy là trẫm hiểu rồi, trên thế gian này chẳng có nhóm Tăng hội nào có đủ uy đức, oai lực để truyền giới cho Đức Thế Tôn cả.
- Không phải vậy đâu, đại vương !
Đức vua ngạc nhiên:
- Tại sao?
- Có cả thảy ba nhóm Tăng, tâu đại vương! Chính có ba nhóm Tăng này cu hội mà truyền giới cụ túc đến cho Đức Thế Tôn , đó là:
1. Nhóm ba-la-mật Tăng (Paramì sangha) 2. Nhóm thiện Tăng (Kusala sangha) 3. Nhóm quả Tăng (Phala sangha)
Cho nên Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Người nào có tâm chơn chánh, trực hạnh, thực hiện giới, định, tuệ, đi trên con đường bốn đạo và thành tựu bốn quả - người ấy được Như lai gọi là Tăng"
- Hay lắm vậy!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:42:33 GMT -5
64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược?
- Thưa đại đức, trẫm có nghe các bậc hiền trí nói rằng, trên thế gian này có hai loại nước mắt. Một loại nước mắt có khả năng trị bệnh như một liều thần dược vì nó làm cho mát mẻ và sảng khoái tinh thần. Một loại nước mắt khác thì như độc dược, nguy hiểm vô cùng. Việc ấy có không, và nếu có, thì tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế?
- Chuyện có đấy, tâu đại vương !
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Nước mắt do uất ức, hận thù, do sầu bi khổ ưu não...; là loại nước mắt được xúc cảm, bị thiêu đốt bởi tham luyến, sân hận và si mê... mà tiết ra, trào vọt ra; nước mắt ấy chẳng khác gì độc được. Nhưng nước mắt ứa ra được xúc cảm bởi các trạng thái tâm cao thượng, như nghe pháp, như phỉ lạc trong thiền định, niềm hỷ hoan tinh thần, tâm bi mẫn đối với đau khổ của chúng sanh...; thì đó là loại nước mắt mát mẻ do hỷ, phỉ, bi mà có, nên nó đúng là liều thần dược, tâu đại vương!
- Thật là hay, thật là bổ ích.
* * *
65. Tham luyến và dứt tham luyến
- Thưa đại đức , người còn tham luyến và người đã dứt trừ tham luyến, hai hạng người ấy khác nhau ở chỗ nào?
- Người còn tham luyến là người còn dính mắc, người không còn tham luyến là người không còn dính mắc, tâu đại vương!
- Trẫm nghĩ rằng sống trên đời này ai cũng ưa ăn sung, mặc sướng; ai cũng muốn thọ dụng ngũ dục khả ái, khả ý; thế thì chuyện dính mắc hoặc không dính mắc làm sao biết được, làm sao phân biệt được?
- Đúng là cả hai bên đều thọ dụng giống nhau, đều phải ăn, mặc giống nhau. Nhưng với kẻ còn tham luyến thì họ đắm say, hưởng thụ, tìm thỏa mãn trong ngũ dục, lại còn suốt đời miệt mài đeo đuổi ngũ dục nữa. Trái lại, người không còn tham luyến, họ ăn, mặc, ngủ rất chừng mực, điều độ. Ăn, mặc, ngủ đối với họ chỉ để nuôi mạng sống, duy trì thân thể để tu tập, để hành phạm hạnh. Như vậy được gọi là dính mắc và không dính mắc, tâu đại vương .
- Trẫm đã lãnh hội được điều ấy.
* * *
66. Trí tuệ ở đâu?
- Thưa đại đức , trí tuệ nó nằm ở đâu?
- Nó không có trú xứ làm sao mà chỉ nó ở đâu, đại vương!
- Ngài nói vậy e rằng không có trí tuệ rồi.
Tỳ khưu Na-tiên bèn hỏi lại:
- Thế gió nó ở đâu, tâu đại vương ?
- Không thể chỉ được.
- Đại vương nói vậy thì e rằng không có gió rồi!
Đức vua Mi-lan-đà chợt cười ha hả:
- Đại đức lanh trí lắm!
* * *
67. Luân hồi (Samsara)
- Luân hồi là thế nào, thưa đại đức?
- Luân hồi sinh tử là sự sống chết lui tới quẩn quanh của chúng sanh. Nghĩa là chúng sanh sanh ra trong thế gian, rồi lại chết trong thế gian. Chết trong thế gian, cấu sanh trở lại cũng trong thế gian, rồi sẽ chết lại trong thế gian nữa. Và cứ thế, tử sanh sanh tử mãi mãi đến vô cùng, chẳng bao giờ ra khỏi thế gian được. Luân hồi tử sanh là vậy, tâu đại vương!
- Xin cho nghe ví dụ.
- Người ta ăn trái xoài, lấy hạt gieo, mọc lên thành cây, có hoa, có trái. Lấy trái ăn rồi gieo nữa, mọc lên cây khác, trái khác. Lại ăn nữa, lại gieo nữa. Như thế, trái xoài đầu tiên không biết đâu tìm, mà trái xoài cuối cùng cũng kéo dài đến vô tận, không có điểm cuối. Sự sống chết, chết sống của chúng sanh trong vòng luân hồi cũng như thế đó, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu rồi!
* * *
68. Trí nhớ
- Thưa đại đức, nếu mình nhớ lại được một việc làm từ lâu xưa, không biết là do gì?
- Do trí nhớ, tâu đại vương .
- Thế mà trẫm nghĩ, nhớ được là do tâm.
- Nếu đại vương nghĩ là do tâm, vậy có việc gì trong quá khứ mà đại vương quên chăng?
- Có rất nhiều chuyện đã quên.
- Đã nhớ là do tâm mà sao lại quên? Hay khi làm những việc ấy, đại vương làm với vô tâm ?
- Không phải vậy, làm với hữu tâm.
- Đã "có tâm" mà sao tâm lại không nhớ ?
Suy nghĩ một hồi, đức vua nói:
- Hay là ký ức chăng?
- Đúng thế, trí nhớ là do ký ức, ký ức chính là nơi ghi chép chuyện quá khứ giúp cho trí nhớ làm việc. Chức năng của trí nhớ là làm công việc nhớ lại các việc trong quá khứ; còn tâm có chức năng nhận thức, suy nghĩ, nhận biết, chụp bắt, gom thâu mà thôi, tâu đại vương !
- Rõ ràng lắm rồi!
* * *
69. Ai cũng có trí nhớ
Đức vua hỏi tiếp :
- Trí nhớ này chỉ có đối với người trí thức, người có học, hay nó phổ cập cho mọi hạng người, kể cả người lao động chân tay?
- Tất cả mọi người trên thế gian đều có trí nhớ cả. Có trí nhớ mới có thể học các môn học, tu tập các đề mục thiền định, học hỏi các công nghệ hoặc sống và làm việc trên đời này, tâu đại vương !
* * *
70. Có bao nhiêu loại trí nhớ
- Vậy có bao nhiêu loại trí nhớ, thưa đại đức ?
- Có tất cả mười bảy loại trí nhớ, tâu đại vương .
- Xin cho nghe?
- Vâng, xin đại vương hãy nghe:
Một là trí nhớ phi thường. Hai là trí nhớ do cất đặt của cải, tài sản. Ba là trí nhớ các ngày trọng đại hay hạnh phúc lớn. Thứ tư, trí nhớ do kỷ niệm vui. Thứ năm, trí nhớ do từng bị khổ đau.
Thứ sáu, trí nhớ do những hình ảnh quen thuộc. Bảy là trí nhớ được tái hiện do mùi vị, âm thanh v.v... Tám, trí nhớ do được nhắc lại. Chín, trí nhớ do làm dấu, dấu hiệu. Mười, trí nhớ do nhắc nhở nguyên nhân.
Mười một, trí nhớ do nhìn mặt chữ. Mười hai, trí nhớ do ghi chép. Mười ba, trí nhớ lâu xa do đắc túc mạng minh. Mười bốn, trí nhớ do từ kinh sách, sử sách. Mười lăm, trí nhớ do nhớ ý nghĩa.
Mười sáu, trí nhớ do huân tập, thói quen Mười bảy, trí nhớ do nhờ học thuộc lòng.
Đức vua hỏi tiếp:
- Thế nào là trí nhớ phi thường?
- Đây là loại trí nhớ của ngài Ànada, chỉ nghe Đức Thế Tôn thuyết một lần là có thể thuyết lại giống y như thế; như sao y nguyên văn các kệ ngôn, đoản ngôn, ví dụ, so sánh v.v... Lại còn nhớ lâu, không quên. Đây cũng là trí nhớ của cận sự nữ Khujjutarà, chỉ nghe Đức Đạo Sư thuyết một lần là thuyết lại được, tâu đại vương .
- Thế nào là loại trí nhớ do cất đặt của cải tài sản?
- Đây là loại trí nhớ của những người giàu có quen chu đáo, cẩn thận; họ chôn dấu, cất đặt tài sản, vật quý chỗ này chỗ kia, nhưng khi cần lấy để sử dụng, họ nhớ ngay, tâu đại vương!
- Thế nào là trí nhớ bởi những ngày trọng đại, hạnh phúc lớn?
- Ví dụ như đức vua nhớ ngày đăng quang của mình, người xuất gia nhớ ngày thọ đại giới, bậc thánh nhớ lại hạnh phúc đầu tiên khi đắc quả Tu-đà-hườn v.v...
- Tức là những kỷ niệm trọng đại ở trong đời, bất kể xuất gia hay tại gia?
- Đúng vậy.
- Nó khác gì với loại trí nhớ thứ tư: tức là do kỷ niệm vui?
- Loại thứ ba là kỷ niệm trọng đại, loại thứ tư là niềm vui bình thường với huynh đệ, gia đình, bè bạn; do gặp lại những niềm vui đã từng có trước đây mà nhớ lại.
- Còn trí nhớ do từng bị đau khổ ?
- Là những người từng bị đau khổ, lao lung, hoạn nạn trong khoảng đời nào đó đã hằn sâu trong tâm khảm, bây giờ dễ dàng nhớ lại mỗi lần hồi ức, hồi tưởng.
- Thế nào là trí nhớ do hình ảnh quen thuộc?
- Đây là do những người mình đã từng quen mặt như cha mẹ, anh em, nay thấy lại hình ảnh những người hao hao như vậy nên sực nhớ. Thảng hoặc là thấy nhà cửa, cây cối, súc vật tương tự, nó gợi lại hình ảnh quá khứ đã từng quen biết, tâu đại vương !
- Trẫm đã hiểu! Ví dụ như hồi còn nhỏ, ở quê, trẫm hay thấy loài ngựa cao thồ chở hàng, sang đây mỗi lần thấy ngựa chở hàng liền nhớ lại quê cũ, có phải thế không?
- Đúng vậy.
- Thế thì trí nhớ do tái hiện mùi vị, âm thanh?
- Không những mùi vị, âm thanh mà cả màu sắc nữa, nói rộng ra là cả ngũ trần; nếu ta đã từng cảm xúc, thích thú từ quá khứ, nay gặp lại màu sắc ấy, mùi vị ấy, âm thanh ấy... thì cả một trời liên tưởng lại hiện ra mà phát sanh trí nhớ, tâu đại vương .
- Vâng, còn trí nhớ được nhắc lại?
- Dễ hiểu thôi, ví dụ một bài toán mà đại vương đã quên, sau đó nhờ người khác nhắc, đại vương làm được bài toán ấy...
- Loại trí nhớ thứ chín, thưa đại đức ?
- Có những người buôn bán nhỏ, họ không biết chữ, biết viết nhưng họ lại làm dấu bằng son, bằng than nơi tường nhà. Nhờ làm dấu, họ biết rõ ai còn nợ bao nhiêu, ai đã trả bao nhiêu v.v... Ví dụ những tỷ kheo làm dấu trên y của mình, ví dụ những chủ trâu bò thường làm dấu nơi trâu, nơi bò của mình để khỏi lẫn lộn với đàn trâu bò khác, v.v...
- Loại trí nhớ do nhắc nhở nguyên nhân là gì?
- Đây là trường hợp những người có trí nhưng hay quên. Khi được nhắc nhở, không cần nhắc nhở toàn bộ sự việc, chỉ nhắc nhở nguyên nhân là họ có thể biết, tâu đại vương!
- Cho xin nghe ví dụ.
- Ví dụ, người kia cầm bó đuốc trên tay đi qua một xóm nhà lá, có người thấy vậy nói rằng: "Coi chừng bó đuốc trên tay kìa!". Chỉ cần nghe vậy là người kia sực nhớ rằng: "Ông A vì sơ ý nhen lửa mà làm cháy cả cánh đồng. Ông B vì đốt đèn sơ ý mà cháy nhà, cháy lan cả xóm v.v...". Đây là loại trí nhớ nhắc nhở nguyên nhân, tâu đại vương!
- Còn trí nhớ do nhìn mặt chữ là vì viết hoài nên quen tay, quen mặt chữ, sau này chỉ nhìn mặt chữ là biết viết, biết luôn cả nghĩa của nó, phải thế chăng, đại đức?
- Đúng vậy.
- Trí nhớ do ghi chép là của người làm thư ký, làm sổ sách kế toán với những con số nhỏ, con số lớn. Nhờ ghi chép vào sổ sách cụ thể, rõ ràng mới nhớ được, phải không đại đức? Còn trí nhớ lâu xa do đắc túc mạng minh là thế nào?
- Đây là trí nhớ do đắc túc mạng: nhớ được một kiếp, hai kiếp... cho đến trăm ngàn kiếp trước của mình, tâu đại vương!
- Còn trí nhớ có từ kinh sách, sử sách là trí nhớ do đọc kinh sử của nhiều đời, nhiều thời đại trước viết lại, chép lại ở trong kinh sử ấy?
- Đúng thế, tâu đại vương!
- Còn trí nhớ do ý nghĩa?
- Đây là loại trí nhớ của người thông minh, sáng láng, đọc kinh sách họ có thể quên hết câu, chữ mà chỉ nhớ ý nghĩa của câu, chữ ấy. Khi cần viết lại câu, chữ họ sẽ từ ý nghĩa ấy mà viết ra theo cách diễn đạt của mình.
- Thế trí nhớ do huân tập, thói quen là gì?
- Bất cứ môn học nào, dù trí thức hay chân tay, mà chúng ta học mãi, làm hoài; lâu nó sẽ huân tập thành thói quen - là loại trí nhớ này, tâu đại vương!
- Vâng, còn trí nhớ do học thuộc lòng thì trẫm biết rồi. Vậy là có tất cả mười bảy loại trí nhớ!
- Thật ra, nó còn nhiều loại nữa, tâu đại vương! Nhưng mười bảy loại trí nhớ này đủ để tóm thâu tất cả mọi loại trí nhớ trên đời này.
- Trẫm hiểu rồi. Vậy là quá đầy đủ. Tri ân đại đức nhiều lắm.
* * *
71. Tương quan phước và tội
Đức vua hỏi:
- Trong hàng ngũ sa môn của Đại đức, có người thuyết rằng, có kẻ trọn đời làm ác nhưng đến khi lâm tử, họ tưởng nghĩ đến Phật, ân đức hoặc tướng hảo quang minh sáng chói của ngài thì có thể sanh lên cõi trời. Điều ấy thật khó tin! Lại nữa, các vị ấy còn thuyết rằng, người nào đã lỡ tạo nghiệp sát sanh, không cần phải nhiều lần, dù chỉ một lần, người ấy phải bị đọa địa ngục chẳng sai. Điều ấy lại càng không thể tin được!
- Tâu Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, nếu có người ném một viên đá nhỏ độ bằng hột bắp hay hột tiêu xuống mặt nước, viên đá ấy sẽ nổi hay chìm?
- Chắc chắn phải chìm.
- Nếu có một người chất vài trăm viên đá lớn vào một chiếc ghe rất to, có sức chở rất lớn - thì vài trăm viên đá ấy có chìm không, Đại vương?
- Thưa không.
- Cũng vậy là tội và phước cùng sự tương quan giữa phước và tội, tâu Đại vương! Một viên đá dù bé như hạt tiêu nó vẫn bị chìm xuống nước. Tương tự vậy, có người làm việc ác, dù chỉ một lần, như giết sanh mạng loài hữu tình; thì ác nghiệp ấy có sức nặng đưa chúng sanh đầu thai vào các cảnh giới đau khổ như địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la. Vài trăm viên đá lớn mà không chìm là nhờ có ghe lớn chở. Cũng giống thế, một người làm việc ác trọn đời nhưng nhờ tưởng nghĩ đến ân đức của Phật, tâm người ấy trú vững chắc và hoan hỉ ở trong ân đức ấy; nhờ vậy, chính nhờ thiện tâm nâng đỡ - như chiếc ghe lớn - người ấy được sanh thiên cũng là điều hiển nhiên thôi.
- Trẫm đã hiểu.
- Lại nữa, ác nghiệp nặng thường đưa chúng sanh đi xuống, thiện nghiệp nhẹ thường đưa chúng sanh đi lên. Tuy nhiên, nếu đã lỡ tạo ác nghiệp rồi thì phải siêng năng, tinh tấn làm việc lành; chính nhờ việc lành, nhờ thiện nghiệp, nó có khả năng nâng đỡ cho tất cả chúng sanh. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn còn dạy rằng: " Ghe, thuyền hằng chuyên chở đồ đạc qua sông lớn, qua biển lớn; nhưng nếu ghe, thuyền ấy chở quá mức độ cho phép, ghe thuyền ấy sẽ bị chìm. Cũng vậy, thiện nghiệp nâng đỡ ác nghiệp, nhưng nếu ác nghiệp quá nặng, thiện nghiệp cũng sẽ bị chìm theo! Lại nữa, ghe thuyền ấy phải được vững chắc, kiên cố không bị rò rỉ; nếu bị rò rỉ, thấm nước thì phải tát cạn, phải bịt chặt các lỗ rò rỉ đi. Cũng vậy, đừng để ác nghiệp xen vào, nếu ác nghiệp đã rò rỉ vào tâm thì phải bịt chặt lại, tát cạn lần hồi ác nghiệp ấy đi. Nhờ vậy ghe, thuyền thiện pháp kia sẽ đến được bến bờ an vui nhất định."
- Trẫm không còn nghi ngờ gì điều ấy nữa.
* * *
72. Diệt khổ chưa đến?
(Tương tự câu 43)
Đức vua hỏi:
- Thưa đại đức, những vị sa môn của đại đức tu hành tinh tấn là để nhằm diệt trừ những nỗi thống khổ, phải chăng?
- Đúng thế!
- Những cái khổ ấy từ quá khứ chăng?
- Có thể từ quá khứ nhưng quá khứ thì đã qua rồi.
- Vị lai chăng?
- Có thể là vị lai nhưng vị lai cũng chưa đến.
- Thế thì hiện tại chăng?
- Có thể là hiện tại nhưng hiện tại không có điểm dừng, luôn chảy trôi.
Đức vua Mi-lan-đà nhíu mày:
- Thế thì cái khổ ấy nó nằm ở đâu?
- Nơi nào tương quan phát sanh, nơi nào lục căn tiếp xúc với lục trần, nơi ấy xem chừng đau khổ sẽ hiện khởi.
- Vậy là đau khổ ấy sẽ có mặt từ thời hiện tại đến thời tương lai?
- Cả quá khứ nữa, thưa đại vương!
- Như đại đức nói là quá khứ đã qua rồi!
- Đúng thế, nhưng nếu chúng ta hồi ức, hồi tưởng, nó sẽ có mặt ngay tức khắc. Lại nữa, do chúng ta cố ý lưu giữ ở trong tâm.
- Vậy muốn nói cho chính xác thì đau khổ luôn luôn là có, sẽ có, sẽ tới khi lục căn tiếp xúc với lục trần?
- Có thể nói như vậy.
- Cũng có thể nói là diệt cái khổ nhưng mà cái khổ ấy sẽ có, sẽ đến?
- Đúng thế.
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Thế là đại đức tu hành tinh tấn là nhằm tiêu diệt những cái khổ chưa đến, chưa có? Thật là kỳ lạ! Cái khổ chưa phát sanh thì làm sao mà diệt nó được.
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười:
- Hiện nay, đức vua là đấng chí tôn của một quốc gia; có khi nào đức vua nghĩ đến trường hợp một nước cừu địch nào đó sẽ lăm le xâm chiếm lãnh thổ của đại vương chăng?
- Có chứ.
- Vậy thì đức vua sẽ chờ đến lúc quân giặc công phá thành trì mới lo tập luyện binh mã, rèn đúc khí giới hay sao?
- Không, trẫm lo toan dự phòng những công việc ấy từ trước.
- Dự phòng khi quân giặc chưa đến hay sao?
- Đúng thế.
- Giặc chưa đến mà đã lo việc diệt giặc nhỉ?
- Đúng thế! Bởi không biết giặc sẽ đến lúc nào nên phải luôn luôn phòng vệ, phòng thủ.
- Cũng như thế đó, tâu đại vương! Đau khổ chưa đến nhưng thình lình đau khổ sẽ đến như quân giặc kia vậy, đợi đến khi đau khổ đến mới tìm cách diệt là đã muộn rồi. Các sa môn Thích tử tu hành tinh tấn, phòng hộ các căn, giữ gìn thu thúc thân khẩu ý, giới luật nghiêm cẩn là để phòng thủ thành trì như thế đó, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu, nhưng cho nghe thêm ví dụ.
- Đại vương đợi đến khi khát nước mới bảo quân binh đào giếng, đào hồ hay sao?
- Đợi đến khi khát mới đào giếng thì đâu có kịp.
- Cũng thế, đợi đau khổ đến mới tìm cách diệt thì đâu còn kịp nữa!
- Đúng vậy, xin cho nghe ví dụ nữa.
- Đại vương đợi đến khi đói bụng mới cho người cày ruộng, bừa rồi gieo hạt lúa hay sao?
- Ai lại làm thế bao giờ.
- Vậy thì đại vương nghĩ rằng các sa môn Thích tử tu hành tinh tấn nhằm diệt cái khổ chưa đến là chuyện không đúng chăng?
- Hoàn toàn chính xác.
Đại đức Na-tiên chợt hỏi:
- Đại vương hỏi câu này đến hai lần, tại sao vậy?
- Trẫm muốn thử sự thấy biết nhất quán của đại đức vậy thôi!
- Cảm ơn đại vương!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:43:20 GMT -5
73. Cõi Phạm Thiên bao xa?
- Thưa đại đức! Từ đây đến cõi trời phạm thiên bao xa?
- Xa lắm, tâu đại vương!
- Đại đức có thể cho biết cụ thể được chăng?
- Có thể được, tuy không xác đáng lắm, nhưng đại vương có thể hình dung. Rằng là nếu có một tảng đá to lớn bằng một tòa nhà, rớt từ cõi trời phạm thiên xuống thì nó phải mất bốn tháng mới đến được nơi đây, tâu đại vương.
- Thế tại sao kinh sách Phật giáo nói rằng, một tỳ khưu có thần thông có thể bay từ cõi người lên cõi phạm thiên chỉ với thời gian như viên lực sĩ co duỗi cánh tay? Điều ấy thật khó tin.
Đại đức Na-tiên không trả lời mà lại hỏi:
- Đại vương quê quán ở đâu?
- Trẫm sanh ra và lớn lên ở đảo Alasanda, thưa đại đức.
- Từ đây đến đó có xa chăng?
- Xa lắm, có lẽ xa hơn hai trăm do tuần.
- Thế đại vương có nhớ việc gì xảy ra tại quê cũ của đại vương chăng?
- Trẫm nhớ chứ, và nhớ một cách dễ dàng.
- Sao đại vương có thể đi và về vượt qua hai trăm do tuần nhanh đến vậy?
Đức vua Mi-lan-đà cười xòa:
- Đại đức nhạy trí quá, trẫm rất cảm phục.
* * *
74. Thời gian tái sanh
- Thưa đại đức, ví dụ có hai người ở đây cùng chết, một người được sanh lên cõi trời phạm thiên, một người đầu thai vào xứ Kasmir kế cận đây, thế thì ai sẽ đến trước?
- Cùng đến một lúc, tâu đại vương.
- Xa gần không đồng nhau mà sao lại cùng đến một lượt, thưa đại đức?
- Thế thì đại vương thử nhiếp tâm nghĩ đến xứ sở Alasanda của đại vương đi?
- Trẫm nghĩ rồi.
- Bây giờ đại vương lại nhiếp tâm nghĩ đến xứ sở Kasmir đi!
- Trẫm nghĩ rồi!
- Thời gian mà đại vương nghĩ đến hai xứ sở ấy, xứ sở nào mau hơn?
- Thời gian bằng nhau.
- Tại sao thế? Xứ Alasanda của đại vương cách đây hai trăm do tuần, xứ Kasmir cách đây chỉ có mười hai do tuần mà thời gian đi về lại bằng nhau?
- Quả đúng như thế thật. Nhưng đại đức có thể cho nghe thêm ví dụ nữa được chăng?
- Ví dụ có hai con chim cùng bay, một con tìm đậu nhánh cao, một con tìm đậu nhánh thấp, chúng cùng đậu một lần. Bần tăng thử hỏi đại vương, cái bóng của hai con chim ấy, bóng nào rọi xuống mặt đất trước?
- Cùng một lần, không trước không sau.
- Chúng sanh chấm dứt thọ mạng ở đây, dẫu hóa sanh lên cõi Phạm thiên, dẫu đầu thai vào cảnh người thì thời gian vẫn đồng nhau, không có sau trước, tâu đại vương.
- Đại đức cho nghe thêm ví dụ.
- Đại vương hãy nhìn sắc thân của bần tăng đi?
- Trẫm nhìn rồi.
- Đại vương bỏ bần tăng, và qua cửa kính trên nóc cung điện, nhìn mặt trời thử xem.
- Trẫm nhìn rồi.
- Thời gian mà đại vương nhìn bần tăng ở cạnh đây và thời gian mà đại vương nhìn mặt trời xa xăm kia, có bằng nhau chăng?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Vậy là trẫm đã hiểu. Sự tái sanh của chúng sanh, dầu ở cảnh giới nào, đều xảy ra trong một niệm, chẳng có xa gần, sau trước!
- Đúng thế, tốc lực tâm đều bằng nhau.
- Quả vậy, thưa đại đức.
* * *
75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia
Đến đây, đức vua Mi-lan-đà chợt suy nghĩ một hồi lâu rồi nói:
- Thưa đại đức, trẫm có một hoài nghi, một nghi nan. Rằng là chúng sanh chết ở đây đầu thai vào cảnh giới khác, khi đi sanh như vậy chúng có hình tướng hoặc màu sắc nào chăng?
- Chẳng có màu sắc nào, chẳng có hình tướng gì khi chúng sanh đi đầu thai, tâu đại vương. Suốt cả tam tạng, Đức Chánh Đẳng Giác không nói điều ấy.
- Nếu Đức Phật không thuyết điều ấy thì rõ ràng giáo pháp của Đức Phật đồng với ngoại đạo rồi!
- Tại sao đại vương lại suy diễn như vậy?
- Đúng là trẫm suy diễn, nhưng mà trẫm suy diễn y cứ nơi câu nói của đại đức. Nếu chúng sanh đi đầu thai mà không mang theo màu sắc và hình tướng nào cả, như vậy chứng tỏ không có chúng sanh đi đầu thai. Không có chúng sanh đi đầu thai thì cảnh giới mà nó đầu thai cũng không có. Cõi sau không có thì cõi sau nữa cũng không có. Nếu luận điểm như vậy thì khác gì chủ trương của tà sư Gunàjìvaka, là bậc thầy lớn, là bậc trí thức lớn ngoại đạo hằng tuyên bố: "Chẳng có cõi này, cõi sau nên không có chuyện chúng sanh đầu thai vào cõi sau."
- Đại vương hãy nghe bần tăng nói đây.
- Trẫm nghe rõ rồi.
- Đại vương có nói dối không đấy?
- Sao đại đức lại nói thế?
- Làm sao đại vương có thể nghe được lời nói của bần tăng, khi mà lời nói của bần tăng chẳng có màu sắc và hình tướng nào cả? Chẳng có màu xanh, trắng, vàng... hay hình thù như voi, ngựa, xe đi từ miệng của bần tăng sang lỗ tai của đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Hay lắm, tuyệt vời thay là trí tuệ của đại đức.
- Tâu đại vương! Chúng sanh lìa bỏ cõi đời này đi tìm chỗ tái sanh chẳng có màu sắc, hình thù tướng mạo gì cả đâu. Từ cảnh giới này sang cảnh giới kia ví như tiếng nói của bần tăng đi sang lỗ tai của đại vương vậy!
- Trẫm đã hiểu rồi. Có lẽ trên thế gian này chẳng ai có tuệ giác thâm sâu như đại đức, đã soi rọi làm cho trẫm tiêu tan mọi nghi ngờ. Nhưng từ sự giải đáp của đại đức, trẫm lại phát sanh một nghi nan khác nữa.
- Đại vương cứ nói.
- Nếu tái sanh mà chẳng có màu sắc và hình tướng nào đi ra cả, thì khi đầu thai vào cảnh giới mới, một ngũ uẩn khác sẽ tự nhiên sanh ra chăng? Và như vậy thì nói thiện, nói ác để làm gì? Có sự liên hệ gì giữa nghiệp thiện ác với đời này đời kia đâu? Và cái mà Phật giáo gọi là vòng luân hồi tái sanh thật vô nghĩa lý vậy! Xin đại đức hãy soi sáng cho trẫm điều nghi nan ấy.
- Vâng, thường ngày đại vương có ăn cơm chăng?
- Có.
- Hạt cơm ấy từ đâu ra?
- Từ lúa.
- Lúa ấy tự nhiên sanh ra hay do đại vương bảo nhân dân cày bừa và gieo hạt?
- Dĩ nhiên là phải trải qua công phu gieo cày gặt hái mới có được.
Im lặng một lát, đại đức Na-tiên hỏi tiếp:
- Hạt gạo mà đại vương sai người nấu để ăn chính là hạt lúa mà người nông dân gieo trên ruộng phải chăng?
- Thưa không phải.
- Hay là hạt lúa khác?
- Cũng không phải. Nó có được từ hạt lúa gieo trên ruộng.
Đại đức Na-tiên chợt mỉm cười:
- Thế là đại vương đã tự trả lời câu hỏi của đại vương! Đại vương đã tự trả lời rằng, hạt cơm mà đại vương ăn chẳng phải do tự nhiên sanh mà do công người nông phu gieo cày và gặt hái. Lại nữa, hạt cơm ấy có được dẫu chẳng phải là hạt lúa gieo trên ruộng, nhưng cũng do từ hạt lúa trên ruộng ấy sanh ra. Cũng vậy, ngũ uẩn tuy đã diệt rồi, nhưng nương tựa ngũ uẩn ấy, do các nghiệp thiện ác chi phối mà sanh ra ngũ uẩn mới. Ngũ uẩn mới chính là hạt gạo mà đại vương ăn, nó có được cũng do từ ngũ uẩn cũ, tức là hạt lúa cũ sinh ra. Và đấy chính là sự diễn tiến của vòng luân hồi tái sanh, tâu đại vương.
- Trẫm đã rõ lắm rồi nhưng cho nghe thêm ví dụ.
- Đại vương có tổ chức hội hoa đăng chứ?
- Thưa có.
- Khi đại vương chủ trì hội hoa đăng ấy, đại vương thấy người ta mồi lửa từ cây đèn này sang cây đèn khác chứ?
- Vâng, thấy.
- Thế thì lửa bên cây đèn này tự nhiên nó chạy sang cây đèn bên kia chăng?
- Chẳng phải tự nhiên mà do có người mồi.
- Rồi lửa ở cây đèn sau chính là lửa ở cây đèn trước?
- Không phải.
- Hay chẳng liên hệ gì với nhau?
- Chẳng phải.
- Vậy là đại vương đã tự trả lời. Đại vương đã tự trả lời rằng, chẳng phải ngũ uẩn mới do tự nhiên sanh mà chính do thiện ác tạo tác. Ngũ uẩn mới không phải là ngũ uẩn cũ đầu thai mà do ngũ uẩn cũ cùng với những tạo tác của nó mà sanh ra ngũ uẩn mới. Đại vương đã nắm vững vấn đề rồi chứ?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Ngũ uẩn nói chung, nhưng nói riêng sắc uẩn cũng là vậy chứ.
- Đúng là vậy.
- Thọ và tưởng... cũng thế?
- Đúng là vậy.
- Nhưng sắc thân của chúng sanh dù xấu dù đẹp, dù đui què mẻ sứt hay lành lặn; những cảm thọ vui buồn, cùng những tri giác, ý tưởng v.v... nếu bảo chết là hết thì không đúng, bảo không liên hệ gì nhau cũng không đúng. Trẫm đã hiểu vậy nhưng đại đức có thể thiện xảo cho nghe ví dụ nào cụ thể dễ hiểu nữa chăng?
- Có thể được. Đại vương có cái kiếng soi mặt nào ở đấy chăng?
- Thưa có.
- Đại vương hãy để cái kiếng ấy ở trước mặt đại vương.
- Để rồi.
- Đại vương hãy soi mặt mình vào đấy.
- Soi rồi.
- Đại vương có thấy rõ tai, mắt, mũi của đại vương ở trong kiếng chăng?
- Thưa, thấy rõ rồi.
- Thế là tai, mắt, mũi của đại vương đã đi qua cái kiếng kia rồi phải không?
- Đúng vậy.
- Đại vương hãy xem lại coi thử đại vương có mất tai, mất mắt và mất mũi chăng?
- Không mất.
- Vậy, nói chung là ngũ uẩn, nói riêng là sắc, thọ tưởng... ở kiếp sau nó nương từ sắc, thọ, tưởng của kiếp này mà có, bảo là một cũng sai, bảo là hai cái khác nhau cũng sai vậy. Khi một chúng sanh chết, ngũ uẩn diệt theo, nhưng những nghiệp thiện ác tạo tác như bóng nương theo hình sẽ cấu sanh ngũ uẩn mới, đời sống mới trong bụng mẹ. Mãi mãi như vậy là hành trình luân hồi của chúng sanh trong sáu nẻo.
- Cảm ơn đại đức.
* * *
76. Vào cửa nào để đầu thai?
- Đại đức vừa bảo là ngũ uẩn mới sẽ cấu sinh trong bụng mẹ, vậy thì nó sẽ theo vào cửa nào mới cấu sanh được?
- Nó có vào nhưng chẳng theo cửa nào cả, tâu đại vương!
- Sao lại vô lý như thế được?
- Đại vương có cái hộp nào mang theo đó chăng?
- Thưa có.
- Đại vương có biết trong hộp ấy đựng gì không?
- Nó đựng ngọc ấn và mấy cái triện son của trẫm.
- Vậy thì "cái thấy" của đại vương nó đi vào cửa nào mà biết trong hộp đựng ngọc ấn và triện son?
- À ra vậy!
- Chúng sanh vào bụng mẹ chẳng theo cửa nào cả cũng y như thế, đầu tiên nó đi vào bởi cái tâm sơ khởi gọi là kiết sinh thức; cái thức ấy chẳng có hình thù, tướng mạo gì cả, nó như cái luồng suy nghĩ hay tốc lực tâm của đại vương vụt chạy vào bên trong cái hộp kia vậy.
- Trẫm không còn nghi ngờ gì nữa cả.
* * *
77. Nhân sanh giác ngộ
- Nhân để sanh giác ngộ có mấy pháp hở đại đức?
- Nó có bảy nhân sanh gọi là thất giác chi, gồm có niệm, trạch pháp, tấn, hỷ, an, định, xả - tâu đại vương.
- Người giác ngộ đạo quả là do giác chi nào hay phải thành tựu trọn vẹn bảy giác chi ấy?
- Dĩ nhiên thành tựu bảy giác chi mới trọn vẹn, nhưng chỉ cần một giác chi thành tựu cũng đủ giác ngộ rồi.
- Ấy là giác chi nào vậy?
- Là trạch pháp giác chi hay còn gọi là tuệ trạch pháp, tâu đại vương!
- Trẫm có thắc mắc đấy, thưa đại đức! Bởi vì nhân giác ngộ có tới bảy điều, cớ sao đại đức bảo rằng chỉ cần thành tựu một trạch pháp giác chi cũng đủ giác ngộ?
- Vậy thì đại vương hiểu thế nào, một lưỡi kiếm đặt trong bao nó gồm có bảy phần: bao trong, bao ngoài, cán kiếm, chuôi kiếm, lưng kiếm, bụng kiếm và lưỡi kiếm... mới gọi là đầy đủ phải chăng?
- Đúng thế.
- Khi cần cắt một vật gì, người ta sử dụng cả bảy phần ấy hay sao?
- Không, chỉ cần sử dụng lưỡi kiếm.
- Cũng vậy là bảy giác chi. Tuệ trạch pháp giác chi được ví như lưỡi kiếm, sáu giác chi còn lại như là bao, chuôi, thân kiếm... vậy. Chúng vốn không xa lìa nhau mà cấu thành một bộ phận, tuy nhiên, chỉ cần tuệ trạch pháp giác chi là cắt lìa được phiền não rồi, tâu đại vương.
- Thật là tuyệt vời!
* * *
78. Điều lành nhỏ, phước quả lớn; Điều ác lớn, tội báo nhỏ
Vua hỏi:
- Có trường hợp nào mà một người làm việc ác lớn, tội báo lại nhỏ; còn một người làm việc lành nhỏ, phước quả lại lớn không, đại đức?
- Có chứ, và chuyện ấy cũng thường thường xảy ra.
- Vậy là không đúng với luật nhân quả chăng? Luật nhân quả bảo rằng gieo hạt mè nhỏ thì được hạt mè nhỏ, gieo hạt bí to thì được quả bí to?
- Đúng là thế. Nhưng nếu hạt mè kia nhiều phân, có nước, nhổ cỏ dại, chăm cào xới, nhổ tỉa cây dày thì hạt sẽ lớn hơn một tí chứ?
- Đúng thế.
- Còn hạt bí to kia gieo nơi đất sỏi đá khô cằn, chẳng phân nước, chẳng chăm sóc thì quả bí chắc hẳn sẽ còn tí teo như quả cà?
- Đúng vậy.
- Cũng vậy là gieo nhân, nhưng còn trợ duyên, thuận duyên, nghịch duyên hay chướng duyên góp phần vào nhân ấy mới quyết định quả được. Một người làm việc dữ nhưng suốt ngày đêm ăn năn, hối hận, luôn luôn cảm thấy khó chịu, bứt rứt... nên nguyện từ rày về sau không dám làm việc ác nữa. Chính nhờ tâm người ấy ăn năn hối cải nên cái quả báo, tội báo sẽ nhẹ đi, nhỏ đi. Đấy là trường hợp nhân việc ác lớn mà quả tội báo lại nhỏ. Một người làm việc lành nhỏ nhưng tâm lại hoan hỉ, thỏa thích; suốt ngày, suốt tháng an vui, mát mẻ với chút ít việc lành ấy thì phước quả của nó chắc chắn là to lớn lắm, tâu đại vương!
- Đại đức kể cho nghe một trường hợp cụ thể.
- Vâng, thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài gặp một tôi nhân bị chặt cụt cả tay cả chân, miệng ngậm một cành hoa sen với tác ý thành kính dâng cúng cho ngài. Sau khi thọ nhận, đức Phật quay lại bảo với các tỳ kheo rằng: nhờ phước đức này mà trong suốt chín mươi mốt kiếp sắp tới, người bị cụt tay chân kia khỏi bị đọa vào ba đường dữ, được sanh lên cõi trời hưởng hết phước báu mới sanh lại làm người. Bởi vậy cho nên chuyện nhân quả xảy ra trên thế gian này nó muôn mặt, muôn chiều, chứ không đơn giản như thường nhân hiểu đâu! Điều lành nhỏ phước quả lớn, điều ác lớn tội báo nhỏ - mà ngược lại như thế cũng thường có đấy, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Đại vương đã hiểu nhưng chưa hiểu hết.
Đức vua mỉm cười:
- Có thể đúng như vậy thật.
* * *
79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ; Người ngu làm điều ác tội báo lớn
- Thưa đại đức, nhân quả khó hiểu cho toàn diện, nhưng giả sử kẻ có trí và người ngu cùng làm điều ác thì ai bị tội báo nhiều hơn?
- Người ngu sẽ bị nặng, tâu đại vương!
- Nếu thế thì khác luật pháp của thế gian. Trong quốc độ của trẫm, người thừa hành pháp luật, kẻ có học, có trí thức, hiểu biết mà phạm pháp, trẫm sẽ có hình phạt rất nặng; trái lại, người quê mùa, thất học, dại dột mà phạm pháp thì trẫm sẽ chế định hình phạt rất nhẹ.
- Dĩ nhiên là Phật pháp khác thế gian pháp.
- Xin đại đức cho nghe ví dụ.
- Có một cục sắt nóng đặt giữa hai người, kẻ trí và người ngu. Nếu đức vua bắt buộc mỗi người phải nắm cục sắt ấy đưa lên, chuyện gì xảy ra? Người trí sẽ thò tay nắm thật nhanh, đưa lên rồi thả xuống thật nhanh. Như thế y sẽ bị phỏng nhưng phỏng nhẹ. Còn người ngu không biết, nắm chặt, thế là y bị phỏng nặng. Cũng thế, người ngu làm việc ác, không biết đấy là ác, lún sâu vào ác nên tội báo sẽ nặng. Còn người trí biết đấy là ác, cũng làm ác; nhưng tìm cách này cách kia để cho cái ác ấy nó nhẹ đi, do vậy tội báo sẽ ít hơn, tâu đại vương!
- Rõ ràng lắm rồi.
* * *
80. Bay bằng thân
- Thưa đại đức, có ai đi đến cõi Phạm thiên, xứ Bắc-cu-lô-châu hay châu khác bằng thân thể này được không?
- Có thể được.
- Thân hình tứ đại nặng nề này làm sao có thể bay đến nơi xa xăm như thế?
- Đại vương có thể nhảy lên khỏi mặt đất này được bao cao?
- Thuở nhỏ thì trẫm nhảy cao chừng ba hắc tay nhưng nhờ tập luyện võ nghệ với ý chí, sau này trẫm nhảy cao gấp đôi như thế.
- Với quyết tâm, với ý chí, đại vương có thể nhảy cao hơn gấp đôi mức bình thường; cũng dường thế ấy, các sa môn tu tập thiền định, làm cho thiền định sung mãn; sau đó dùng ý chí, nung nóng ý chí, tu tập thuần thục tứ-như-ý-túc, đắc thần thông họ có thể bay đến cõi trời Phạm thiên, Bắc-cu-lô-châu hoặc các châu khác nhanh chóng bằng thời gian của viên lực sĩ duỗi cánh tay thôi, tâu đại vương.
- Thật là kỳ lạ!
- Đúng vậy, năng lực của tâm bất khả tư nghì.
* * *
81. Xương dài 100 do tuần
- Thưa đại đức, điều đó thì bất khả tư nghì rồi, nhưng các vị sa môn trong hàng ngũ của đại đức, có người thuyết những điều cũng bất khả tư nghì không kém vậy!
- Cho bần tăng được nghe?
- Họ nói rằng, có một thứ xương động vật không biết là loại giống gì dài đến một trăm do tuần!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Điều ấy có thể hiểu được, suy luận được chứ không bất khả tư nghì lắm đâu.
Xin cho nghe.
- Đại vương đọc nhiều hiểu rộng, chắc có đọc qua sách "hải dương học" nói về các loài thủy tộc sống ở biển khơi?
- Thưa, có đọc nhưng không biết có nhớ không!
- Ở đấy có nói đến một loài cá kình ngư hay thuồng luồng gì đó, dài đến năm trăm do tuần.
- Đúng vậy, dường như là vậy.
- Cá mà dài đến năm trăm do tuần, xương chỉ có một trăm do tuần, có lẽ xương còn ngắn quá phải không đại vương?
Đức vua cười ha hả:
- Tuyệt vời làm sao là cái dí dỏm của đại đức!
- Đại vương dí dỏm cũng thú vị như thế!
* * *
82. Biển
- Đại đức có nhắc đến biển. Tại sao người ta gọi là biển trong khi nó cũng chỉ là nước thôi?
- Sở dĩ gọi là biển vì trong đó có nước hòa với muối, nên nước biển thường có vị mặn.
- Tại sao nó lại mặn?
- Vì nó tích tụ quá lâu ngày, lại tích lũy quá nhiều xương cốt của các loài thủy tộc khiến nước trở nên mặn, tâu đại vương!
- Chỉ đơn giản thế thôi ư?
- Vâng, chỉ có thế là đủ hiểu rồi, còn truy nguyên đến tận gốc cho rõ lý do thì tất là trùng trùng nhân duyên tương tác, tương thành.
- Đúng vậy.
* * *
83. Ngưng hơi thở
- Thưa đại đức, các sa môn Thích tử có thuyết rằng, nếu nhập định đến một độ sâu nào đó người ta có thể ngưng hơi thở mà vẫn không chết?
- Đúng vậy.
- Đại đức có thể cắt nghĩa được chăng?
- Vâng, nhưng đại vương có biết các loại hơi thở thường liên hệ với tâm con người như thế nào không?
- Quả thật chưa biết.
- Vậy thì đại vương hãy nghe đây. Người mà tâm địa nóng nảy, độc ác, xan tham, nhiều mê si thì hơi thở của họ thô tháo, dồn dập, đứt quảng, nặng nề. Còn người tâm an ổn, vắng lặng, thư thái, mát mẻ thì hơi thở nhẹ nhàng, điều hòa, diu và sâu. Đại vương có biết điều đó chăng?
- Thưa, có biết.
- Thế người ngủ mà thường ngáy thì ra sao?
- Có trường hợp người ban ngày làm việc nhiều, tối ngủ mê mà ngáy. Có người ham ăn, mê ngủ, đầu óc rỗng không, to mập, ngủ thường ngáy. Có người chất phát, vô tư, không lo, không nghĩ, nằm ngủ thường ngáy. Có người thân bệnh hoạn, tâm không được tu tập, ngủ thường ngáy - thưa đại đức.
- Nhưng nói chung thì ngáy, hơi thở họ ra sao? Ngủ mà ngáy thì tốt hay xấu?
- Khi ngáy, hơi thể nặng nề, thô trọc; biểu hiện trạng thái tâm không yên tĩnh nên đa phần là xấu.
- Đúng vậy. Còn người khi sắp chết, hơi thể khò khè, phát ra tiếng kêu ức ức hoặc vật mình vật mẩy, hoặc rống như trâu bò hoặc kêu như heo bị chọc tiết là sao?
- Đấy là biểu hiện một cái tâm buông lung, phóng dật, thân khẩu ý tự tung tự tác làm càn, làm quấy, làm dữ, không có giới, không có định, không có trí. Còn những biểu hiện kèm theo như kêu rống là do tạo ác nghiệp quá nặng... Chẳng hay trẫm nghĩ như thế có đúng không, đại đức?
- Hoàn toàn đúng. Cho nên hơi thở càng thô, tâm càng thô, hơi thở càng tế, tâm càng tế. Những vị tỳ kheo càng đi sâu vào thiền định thì thân an tịnh, tâm sẽ an tịnh. Thân tâm càng an tịnh thì hơi thở càng lúc càng dịu nhẹ, vi tế. Đến một lúc nào đó thân hoàn toàn chỉ tịnh thì tâm cũng hoàn toàn chỉ tịnh. Lúc ấy hơi thở cũng mất luôn, chấm dứt luôn hơi thở nhưng sự sống, sức nóng vẫn còn tồn tại.
- Có thể là đúng vì nghe rất hợp lý.
- Đấy không phải là cái lý mà là sự thật. Các tỳ kheo nhập tứ thiền có thể ngưng hơi thở, các vị Thánh nhập định diệt thọ, tưởng - không những các ngài chỉ ngưng hơi thở mà còn ngưng luôn cả cảm giác và tri giác đấy, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã cho trẫm mở rộng kiến văn.
Đại đức Na-tiên mỉm cười, chỉnh thêm một lượt nữa:
- Đấy không chỉ là kiến văn mà là "sự thật" khá thâm sâu của giáo pháp, tâu đại vương!
- Thật là kỳ diệu.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:44:47 GMT -5
84. Pháp xuất thế gian
- Đại đức vừa giải thích điều cao siêu ấy mà đại đức bảo là "sự thật khá thâm sâu" của giáo pháp, thế ra giáo pháp còn những điều thâm sâu hơn thế nữa chăng?
- Phải, không những nó thâm sâu mà còn tế vi và mầu nhiệm nữa.
- Đại đức có thể nói về các pháp ấy cho trẫm nghe với chăng?
- Có thể được, nhưng đó chính là các pháp xuất thế gian (Lokuttaradhamma) nên rất khó nói.
- Tại sao lại khó nói?
- Thưa, vì rằng pháp xuất thế gian thì phải được diễn đạt và thông hiểu bằng tuệ xuất thế gian. Pháp xuất thế gian không thể lãnh hội bằng phàm tuệ được.
- Hóa ra là vậy - hóa ra là vì trẫm là người phàm!
Đại đức Na-tiên mỉm cười, không trả lời.
* * *
85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu?
- Đại đức vừa nói đến tuệ xuất thế gian, vậy tuệ xuất thế gian ấy khác với tuệ như thế nào? Và tuệ xuất thế gian ấy trú ở đâu?
- Cũng chỉ là tuệ ấy (Pannà) nhưng nó sâu hay cạn đó thôi, tâu đại vương! Tuệ xuất thế gian nó cũng không có trú xứ, không có nơi chốn, như gió vậy!
- Cảm ơn đại đức! Thế thì câu hỏi ấy đại đức đã giải đáp một lần rồi.
* * *
86, 87. Thức, tuệ và sanh mạng
- Thưa đại đức, thức và tuệ có ý nghĩa, ngữ tự giống nhau hay khác nhau?
- Ý nghĩa và ngữ tự của thức và tuệ hoàn toàn khác nhau, tâu đại vương.
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Thức là vinnàna, nghĩa là nhận biết, thu góp mọi kiến thức, kinh nghiệm; còn tuệ là pannà có nghĩa là thấy rõ, biết chắc mọi sự mọi vật (các pháp) đúng như thực tướng, tâu đại vương.
- Cả hai thức và tuệ ấy chính là sanh mạng ở trong thân tứ đại này phải không?
- Đại vương! sanh mạng theo cách hiểu của đại vương là linh hồn phải chăng? Và vấn đề linh hồn thường tại ở trong thân thì đại vương đã hỏi rồi, và bần tăng cũng đã giải đáp thỏa đáng rồi. Đừng nên rơi vào quan niệm thường kiến như thế!
- Vâng, nhưng trẫm vẫn bị một hoài nghi khởi sanh. Là nếu không có một sanh mạng thường tại ở trong thân thì ai là người thấy bằng mắt? Nghe bằng tai? Ngửi bằng mũi? Nếm bằng lưỡi? Đụng chạm bằng thân? Và suy nghĩ bằng ý? Hẳn phải có một linh hồn ở trong thân chứ?
- Đại vương, xin ngài hãy nghe cho kỹ đây, khi đại vương nhìn thấy một cái hoa đẹp, đại vương nhận thức rõ là cái hoa ấy đẹp chứ?
- Vâng!
- Nếu sau đó, đại vương thoáng nghe một âm thanh chát chúa, đại vương cảm thấy khó chịu chứ?
- Vâng!
- Vậy thì cái "thức nhận biết" đóa hoa đẹp và "thức cảm nghe" âm thanh chát chúa ấy nó là một thức hay là hai thức?
- Thưa, nó là hai thức.
- Vậy thì thức trước diệt rồi mới có thức sau phải chăng?
- Đúng vậy!
- Thế là đại vương đã tự trả lời, rằng là chẳng có thức thường trú như linh hồn, như sanh mạng, mà thức chỉ là duyên sanh, duyên diệt!
Đức vua Mi-lan-đà chợt như bừng sáng:
- À ra thế, chẳng có lý giải nào rõ nghĩa hơn thế! Vậy còn tuệ thì sao?
- Tuệ cũng từ cái nhận biết ấy, từ cái thức ấy chứ không phải là hai cái khác nhau: nhưng thức thì dễ sai lầm, còn tuệ thì thấy đúng, biết đúng - tuệ thấy đúng như thực tướng, tâu đại vương!
- Đại đức có thể nói rõ nghĩa hơn một chút nữa chăng?
- Thưa vâng, nhận biết của cái thức là do vô minh, ái dục chi phối, còn cái thấy của tuệ là một cái thấy trong sáng, thanh tịnh từ sự giác ngộ và giải thoát, không bị ngăn che bởi vô minh và ái dục nữa, tâu đại vương!
- Nghĩa là thức có chức năng khác, và tuệ có chức năng khác? Hay nói cách khác "thức thanh tịnh" thì "tuệ" khởi sanh?
- Vâng, có thể hiểu như vậy.
- Còn sanh mạng thì sao?
- Sanh mạng cũng như thức và tuệ vậy, nó có vai trò và chức năng khác nhau trong toàn bộ cơ cấu thân tâm của loài hữu tình, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức! Quả thật là vi diệu!
- Đại vương, điều vừa trình bày ấy quả thật là vi diệu nhưng trí óc con người vẫn có thể lãnh hội được. Còn Đức Thế Tôn thì ngài liễu tri cả những điều thậm mật hơn thế nhiều, làm được cả những việc huyền diệu mà trong tam giới không ai làm được!
- Những điều ấy là điều gì, thưa đại đức?
- Những việc tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm là cái gì cụ thể, tuy nhiên, nhận biết cho đúng là một việc khó. Nhưng thử hỏi những pháp vô hình, vô tướng, những pháp tế vi trừu tượng từ tâm vương, tâm sở thì ai là người có khả năng thấy rõ, biết chắc bằng Đức Thế Tôn?
- Vâng, xin đại đức giảng rộng cho nghe?
- Đại vương, ví như có người ngụm một ngụm nước biển, y có thể biết được nước biển ấy là mặn chăng?
- Biết được.
- Nhưng y có thể phân tích trong ngụm nước biển ấy, bao nhiêu là nước từ Hằng hà? Bao nhiêu nước từ sông Yamanà? Bao nhiêu nước từ sông Sarabbù? Bao nhiêu nước từ sông Aciravatì? Bao nhiêu nước từ sông Nahì?
- Thật không thể! Chẳng ai có khả năng phân tích ra được.
- Tại sao?
- Vì chúng đã bị trộn lẫn làm một rồi.
- Đại vương có thấy không, lưỡi nếm vị là một cái gì cụ thể, thế mà ta chẳng thể nào phân tích được, huống hồ là những pháp vô hình, vô tướng, tế vi và trừu tượng. Chúng ta làm thế nào để biết được đây là thọ (cảm giác), đây là tưởng (tri giác), đây là hành (ý chí), đây là tác ý (khởi tâm); đây là tâm vương này, tâm vương kia?
- Quả thật là khó khăn.
- Đức Thế Tôn không những biết rõ mà còn phân tích chi ly, rằng đây là hành trình của các tâm vương, tâm sở trong dục giới, đây là hành trình của các tâm vương, tâm sở sắc giới, đây là hành trình của các tâm vương, tâm sở vô sắc giới!
- Vâng, vâng.
- Rồi Đức Thế Tôn còn biết rõ và phân tích được các trạng thái tâm, đạo và quả xuất thế gian nữa, tâu đại vương.
- Thật là kỳ diệu, thật là phi thường, thưa đại đức.
- Đúng vậy.
* * *
88. Thì giờ phải lẽ rồi
Đến đây, đại đức Na-tiên nói rằng:
- Tâu đại vương, bây giờ nửa đêm, cũng là thì giờ phải lẽ, bần tăng còn trở về chùa.
Đức vua Mi-lan-đà đáp:
- Thưa vâng, canh đầu đã qua, trống hoàng thành đã báo canh giữa từ lâu, trẫm đã làm phiền giờ giấc của đại đức nhiều lắm rồi.
Nói xong, đức vua truyền quan hầu lấy vải dạ cuộn lại, bên trong tẩm đầy dầu, đốt lên làm đèn để tiễn đại đức Na-tiên ra về. Ngài nói với quan hầu:
- Các ngươi tôn kính và phục dịch trẫm như thế nào thì phải tôn kính và phục dịch đại đức y như thế.
Các quan hầu vâng dạ rồi tán thán:
- Đại vương là bậc đại trí thức thế gian không ai dám sánh mà vị đại đức kia cũng vậy, thật là bậc trí thức cổ kim hy hữu.
Đức vua gật đầu, đáp với giọng vừa hài lòng, vừa tự mãn:
- Đúng vậy! Có vị thầy như đại đức kia và có người học trò như trẫm đây thì trên thế gian này có môn học nào lại không thể truyền đạt được? Đại đức kia kiến thức siêu quần bạt tụy thì trẫm đây cũng y như thế!
Đức vua Mi-lan-đà hoan hỷ vô cùng vì đại đức Na-tiên đã giải đáp mau lẹ, đầy đủ, rành mạch và rõ ràng những câu hỏi của ngài; bèn sai lấy bộ y gấm Kambala cực kỳ quý báu trị giá một trăm ngàn lượng bạc, dâng cúng đến đại đức Na-tiên, rồi tâu rằng:
- Ngoài bộ y này, trẫm còn muỗn dâng cúng hằng ngày tại vương cung một trăm lẻ tám mâm cơm bánh vật thực đến Chư Tăng chùa Sankheyya, xin đại đức và Chư Tăng hoan hỷ thọ nhận cho. Và đại đức cùng Chư Tăng cần dùng gì xin cứ tùy thích, của trong kho luôn luôn có sẵn.
- Bần tăng xin đa tạ, nhưng tứ sự hằng ngày chúng tôi đã có đủ, đại vương đừng bận tâm suy nghĩ.
- Trẫm cũng biết đại đức sống đời tri túc nuôi mạng, chẳng màng đến lợi lộc vật chất thế gian; nhưng đại đức phải biết hộ trì mình, đồng thời hộ trì cho trẫm nữa chứ?
- Xin đại vương hãy trình bày cho rõ tôn ý?
- Vâng. Ý trẫm muốn nói là, nếu đại đức khước từ vật dụng cúng dường thì dư luận, miệng tiếng sẽ bất lợi cho đại đức và bất lợi cho trẫm nữa. Tại sao vậy? Vì mọi người trong khắp quốc độ, cả quốc độ khác nữa, sẽ nói rằng: tỳ kheo Na-tiên thật là vô tích sự, chẳng tài cán gì; nghe đồn là trí tuệ vô song nhưng đã không giải đáp được những câu hỏi sắc bén, thâm sâu của đức vua Mi-lan-đà, đến nỗi đức vua chẳng dâng cúng thứ gì đến ông ta cả. Như thế, thì dư luận ấy có tổn hại thanh danh của đại đức chăng?
Nhè nhẹ gật đầu, mỉm cười, đại đức Na-tiên nói:
- Quả có thế thật. Còn về phía đại vương thì bất lợi gì?
- Dư luận họ sẽ nói rằng, ông vua Mi-lan-đà thật là keo lẫn, rít róng; đại đức Na-tiên đã khổ công ngày đêm chẳng quản mệt nhọc, giải đáp cho đức vua từ câu hỏi này đến câu hỏi kia, từ gần đến xa, từ cạn vào sâu, từ pháp thô thiển đến pháp vi tế... thật không có chỗ nào mà chê được. Chỗ nào cũng đầy đủ rõ ràng. Chỗ nào cũng như mặt trời, mặt trăng. Thế mà đức vua hà tiện kia chẳng cúng dường gì đến bậc tu hành khả kính, trí tuệ vô song kia cả! Có đáng chán không chứ!
- Quả là người ta có thể đàm tiếu thế thật.
- Cho nên, để tự hộ trì, bảo vệ danh thơm, tiếng tốt cho cả hai, đại đức thật không thể khước từ phẩm vật cúng dường của trẫm vậy.
- Khi mà đại vương sử dụng sự khôn khéo của lý luận và miệng lưỡi thì tất cả các giống hữu tình trên thế gian đều phải bị thuyết phục! Bần tăng xin cung kính nhận sự cúng dường nhưng không phải để hộ trì danh thơm, tiếng tôt - mà chính là để hộ trì giáo pháp vậy!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là khéo nói thay! Và cũng thật là hộ trì chánh đáng thay!
Đến ngang đây, hốt nhiên đức vua có vẻ trầm ngâm, rồi chậm rãi, bùi ngùi tâm sự:
- Trẫm ngày ngày như con sư tử bị nhốt trong cái cũi vàng, nhưng thường hướng mặt ra bên ngoài mơ ước một cuộc đời tự do phóng khoáng. Ngôi vị đế vương của trẫm đây hằng phải chăm lo việc nước, lo nghĩ trăm công ngàn chuyện chẳng có khi nào được thanh thản ở trong lòng. Lắm lúc trẫm muốn từ bỏ tất cả để ra đi, sống đời xuất gia giải thoát, nhưng chướng duyên còn nhiều quá. Rốt lại, mơ ước cũng chỉ là mơ ước thôi!
Khi đại đức Na-tiên trở về chùa rồi, nằm trên long sàn, đức vua thao thức không ngủ được. Ngài hồi tưởng lại cuộc vấn đáp trong ngày, tự hỏi: "Ta đã hỏi đại đức Na-tiên những gì? Và đại đức Na-tiên đã trả lời ta như thế nào?" Rồi từng câu hỏi và đáp lần lần hiện ra trong tâm trí của đức vua. Sau khi rà soát lại toàn bộ nội dung và ý nghĩa các câu hỏi và đáp, Đức vua tự tán thán: "Hay lắm, tất cả các câu hỏi của ta đều thỏa đáng, chơn chánh và các câu đáp của đại đức Na-tiên cũng thỏa đáng và chơn chánh vô cùng." Với niềm vui lâng lâng trong lòng, đức vua không ngủ cho đến sáng.
Về phần đại đức Na-tiên, cũng y như đức vua vậy, vừa nằm nghỉ nghiêng lưng thì các câu hỏi và đáp lại mồn một hiện ra: "Nhà vua đã hỏi ta những gì? Và ta đã đáp những câu hỏi ấy như thế nào?" Rồi đại đức cũng tự xét: "Các câu hỏi của đức vua đều rất hay, những câu trả lời của ta cũng chẳng có chỗ nào là khiếm khuyết cả." Đại đức cũng giữ niềm hân hoan trong lòng cho đến lúc trời sáng.
Sớm hôm ấy, đại đức Na-tiên lại y bát đi vào cung, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Đức vua Mi-lan-đà đến đảnh lễ rồi ngồi một bên phải lẽ.
Đức vua chấp tay nói:
- Thưa đại đức! Suốt đêm qua trẫm đã không ngủ được vì các câu hỏi và đáp cứ lởn vởn hiện ra trong đầu. Tuy nhiên, trẫm rất hân hoan và vui sướng vì những câu hỏi của trẫm rất là chánh đáng và những câu trả lời của đại đức cũng chí lý và tốt đẹp dường bao!
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười rồi nói:
- Đại vương tưởng rằng đêm qua bần tăng ngủ ngon giấc sao? Đại vương thao thức, hồi tưởng về ý nghĩa của những câu hỏi và đáp suốt đêm, rồi hân hoan, thích thú vì nó cho đến sáng - thì bần tăng cũng vậy chớ có khác gì! Nói tóm lại là tất cả đều tốt đẹp, về phần đại vương cũng vậy mà về phần bần tăng cũng thế!
Hai bậc trí tuệ vô song gặp nhau, tâm đắc với nhau, cùng tâm sự với nhau như thế rồi từ giã, hẹn hôm sau sẽ tái ngộ đàm đạo nữa.
Ghi chú:
Bản Bắc truyền "Na-tiên Tỳ kheo kinh" chấm dứt ngang đây, chỉ có 62 câu, so với bản Nam truyền là 88 câu. Ngoài ra bản Nam truyền còn hơn 150 câu hỏi và đáp nữa, xin chư vị độc giả hãy xem tiếp.
* * *
89. Phật và chư tăng, ai phước báu nhiều hơn?
Hôm sau, sau khi an vị nơi chỗ ngồi, đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:
- Thưa đại đức, Bà Pajàpati Gotàmì là di mẫu của Phật, có dâng cúng đến Đức Phật một bộ y quý giá, nhưng Đức Phật không thọ nhận, lại nói với bà rằng: "Hãy cúng dường bộ y này đến Chư Tăng, vì cúng dường đến Chư Tăng cũng như cúng dường đến Như Lai vậy." Chẳng hay điều ấy có đúng chăng?
- Thưa, quả có như thế.
- Như vậy chứng tỏ rằng Đức Phật không cao quý hơn Tăng, không cao thượng hơn Tăng, không phải là bậc thầy tối thượng của Tăng rồi! Đại đức nghĩ như thế nào? Bộ y kia đã được làm ra thật công phu, mất biết bao nhiêu là thì giờ cùng tâm huyết? Chính tự tay bà Pajàpati Gotàmì cán bông, bắn bông, quay sợi rồi tự dệt lấy. Thế mà Đức Thế Tôn đã cam tâm từ chối! Nếu Đức Thế Tôn quả đã tròn đủ các đức tánh cao thượng đặc biệt phi thường hơn Tăng thì ngài đã thọ nhận để cho bà di mẫu - vốn có ân đức nuôi dưỡng ngài từ nhỏ - được phước báu to lớn mới phải. Chuyện xảy ra như vậy làm cho trẫm có hai mối nghi, thưa đại đức . Mối nghi thứ nhất là phước báu của Phật không hơn phước báu của Tăng. Mối nghi thứ hai là Đức Thế Tôn quên nghĩ đến ân đức dưỡng dục đối với bà di mẫu của mình!
- Tâu đại vương, cả hai mối nghi của đại vương đều chính đáng, tuy nhiên, việc làm của Đức Phật chứng tỏ Đức Phật cao thượng hơn đại vương nghĩ rất nhiều.
- Xin đại đức hoan hỷ giải thích cho nghe.
- Bần tăng muốn giải thích bằng ví dụ.
- Vâng, trẫm rất vui lòng.
- Ví như đại vương sắp truyền ngôi cho một vị hoàng tử vậy. Muốn cho hoàng tử sau này được mọi người tôn trọng, nể phục, khả dĩ có đủ uy tín để lãnh đạo quốc độ, có đủ uy tín với lân bang; nên trước mặt bá quan văn võ triều đình, trước mặt các sứ thần ngoại giao, đại vương thường ca ngợi tài đức, phẩm hạnh của hoàng tử. Đại vương làm như thế là nghĩ đến sơn hà xã tắc trong tương lai, hay làm như thế vì nghĩ rằng hoàng tử cao quý, cao thượng hơn đại vương?
- Dĩ nhiên là trẫm nghĩ đến quốc độ sau khi trẫm nhắm mắt.
- Việc ca ngợi phước báu của Tăng cũng y như thế. Đức Phật vì nghĩ đến tương lai của giáo pháp, muốn cho giáo pháp được thịnh mãn lâu dài nên Đức Phật mới ca tụng phước báu của Tăng. Dù sao, đến thời phải lẽ, Đức Phật sẽ nhập diệt; và kẻ kế thừa sự nghiệp hoằng truyền giáo pháp tồn tại năm ngàn năm là sứ mạng của Tăng. Tăng còn thì giáo pháp còn, cho nên Đức Phật khuyên bà di mẫu cúng dường đến Tăng cũng vì lẽ ấy. Đức Phật nghĩ đến Tăng cũng như đại vương nghĩ đến vị hoàng tử của đại vương vậy, đâu phải vì Tăng cao quý, cao thượng hơn Đức Phật! Đại vương hãy suy gẫm thử xem?
- Có lý lắm, trẫm đã suy gẫm rồi. Nhưng đại đức có ví dụ nào nữa chăng?
- Ví như cha mẹ vì thương con, lo lắng, chăm sóc con. Ngoài vấn đề lo cơm ăn áo mặc cho đầy đủ, đôi khi cha mẹ còn bóp tay, bóp chân tắm rửa, kỳ cọ, thoa dầu, trang điểm cho con nữa. Việc làm ấy của cha mẹ có phải là vì con cái cao quý, cao thượng hơn cha mẹ không, hở đại vương?
- Không phải thế. Mà vì cha mẹ nào cũng thương con, hằng lo cho con, mong cho con được sung sướng, được xóm làng nể trọng, để còn kế thừa sự nghiệp, đem lại danh thơm tiếng tốt cho gia đình, tổ tiên...
- Vâng, đúng là vì Đức Phật hằng chăm lo cho Tăng trong mai hậu được đầy đủ tứ sự cúng dường, được ngoại giáo và thế gian nể trọng, để thừa tự giáo pháp cho được xán lạn và vinh quang, tâu đại vương!
- Ngài còn ví dụ nào nữa chăng?
- Ví như một nước lân bang vốn quy phục đại vương, đem cống hiến cho đại vương những phẩm vật quý giá. Đại vương lại đem vật cống hiến ấy tặng cho vị quốc sư mà đại vương hằng kính trọng và thương mến. Người ta có vì lẽ đó mà bảo quốc sư ấy cao quý và cao thượng hơn đại vương chăng?
- Không thể bảo như thế được. Sở dĩ mà trẫm đem vật quý giá ấy ban tặng cho vị quốc sư là vì vị quốc sư xứng đáng được hưởng, ngoài ra, trẫm còn muốn văn võ bá quan trong triều đình tôn trọng danh dự và địa vị của vị quốc sư ấy nữa.
- Đức Thế Tôn là bậc thầy tối thượng của Tăng, là bậc thầy của chư thiên và nhân loại; ngài vĩ đại, cao thượng và cao quý hơn tất thảy chúng sanh trong tam giới, ân đức và phước báu của ngài ai nào dám so sánh được, tâu đại vương? Ở trong kinh Samyutta Nikàya (Tương ưng bộ) có kệ ngôn như sau: "Cao quý hơn tất cả các núi ở tuyết lãnh chỉ có Tuyết Sơn. Mặt trời là bá chủ, là cao quý hơn tất thảy các vật giữa hư không. Biển cả cao quý hơn tất cả sông hồ trên mặt đất. Mặt trăng cao quý hơn tất cả các vì tinh tú. Giữa tam giới, Đức Phật cao quý, cao thượng hơn tất cả chúng sanh." Lại nữa, Đức Pháp chủ Sàriputta có thuyết rằng: "Trên thế gian này chỉ có một người, một con người duy nhất, độc nhất, trải qua vô lượng kiếp tu tập các công hạnh, là kẻ tế độ chúng sanh; sanh ra trong thế gian là vì sự an vui, tiến hóa, sự lợi ích cho chư thiên và loài người. Vị độc nhất vô nhị ấy chính là Đức Chánh Đẳng Giác, bậc A-la-hán vô song, là Đức Phật Sakya Muni vậy." Tâu đại vương! Đức Phật cao quý và cao thượng như thế thì tâm bi mẫn của ngài đối với Chư Tăng mai hậu, đối với tiền đồ của giáp pháp cũng giống như đại vương đối với hoàng tử, như cha mẹ lo cho con, như đại vương ban tặng phẩm vật cho vị quốc sư vậy. Đại vương đã sáng tỏ chưa?
- Sáng tỏ rồi. Nhưng còn mối nghi thứ hai?
- Vậy đại vương nghĩ thế nào? Bà di mẫu cúng dường bộ y quý giá do tự tay mình làm đến Đức Phật là do động cơ nào thúc đẩy?
- Có lẽ là do động cơ mẹ con, nghĩa là nặng về tình cảm cá nhân hơn là bố thí cúng dường vì tâm ly tham, vì các trạng thái tâm cao thượng.
- Cúng dường, bố thí do tình cảm cá nhân, phước báu sẽ như thế nào so với sự cúng dường, bố thí bằng các trạng thái tâm cao thượng như xả, ly tham hoặc chỉ nghĩ đến Tăng cùng sự tồn tại lâu dài của giáo pháp?
- Dĩ nhiên bố thí cúng dường với các trạng thái tâm sau, phước báu sẽ thù thắng hơn nhiều.
- Đức Thế Tôn chính vì nghĩ đến ân đức to lớn của bà di mẫu nên ngài đã tạo duyên cho bà cúng dường bố thí đến Tăng, để bà hưởng được phước báu thù thắng trong mai hậu vậy. Điều lợi ích ấy chính đại vương đã tự nói ra.
- Vâng, hóa ra Đức Thập Lực Tuệ đã giúp cho bà di mẫu cúng dường cao thượng để bà hưởng được phước báu cao thượng. Trẫm đã rõ. Ôi! Hay vậy thay! thật là những ý nghĩa vàng ngọc, cao quý vậy thay!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:45:51 GMT -5
SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA
Khi đại đức Na-tiên trở về chùa rồi, đức vua Mi-lan-đà tìm chỗ thanh vắng, suy nghĩ rằng: "Ta có những câu hỏi Mendaka rất thù thắng, rất vi diệu, rất sâu kín; trong tam giới này không ai có thể đáp được, ngoài các vị Bồ Tát. Những câu hỏi này, nếu không được giải đáp thỏa đáng, sẽ phát sanh nhiều hoài nghi to lớn; và nó sẽ là nguyên nhân cho mọi cuộc tranh luận, tranh chấp bởi các hàng học Phật thời hậu lai! Nhưng trước khi đặt những câu hỏi Mendaka này để đại đức Na-tiên trả lời rõ ràng từng điểm một, ta phải chuẩn bị tâm, chuẩn bị trí cho thanh tịnh và sáng suốt."
Hừng sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ửng hồng ở phương đông, khi các loài chim vừa rời khỏi tổ bay liệng giữa hư không, khi các thầy bà-là-môn đang tụng kinh điều thắng hạnh; khi các âm thanh như kèn, đàn, sáo... cùng những sinh hoạt nhân gian bắt đầu rộn ràng thì đức vua Mi-lan-đà đã tắm rửa vệ sinh thân thể, súc miệng bằng nước thơm tinh khiết, ngự ra chỗ yên tĩnh nhất của vườn ngự. Ngồi thiền định một lát, giữ hơi thở điều hòa, đức vua xả ly mọi vướng bận, vắng lặng dục và sân, chắp tay lên đỉnh đầu niệm ân đức của Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Rồi ngài nghĩ rằng: "Ta sẽ bàn giao quốc sự cho các vị đại thần trong vòng bảy ngày. Bảy ngày ấy ta sẽ thọ trì tám pháp lành. Tám pháp lành ấy có công năng thiêu hủy ác pháp và những trần cấu dơ uế. Khi nội tâm đã đầy đủ, sung mãn tám pháp lành ấy, ta sẽ tìm đến đại đức Na-tiên để đặt những câu hỏi Mendaka."
Sau khi công việc triều chánh đã được bàn giao, đức vua cởi vương bào cùng châu báu ngọc ngà; mặc chiếc y màu hoại sắc như các đạo sĩ, quấn chiếc khăn thô lên đầu như hình chiếc nhẫn; rời khỏi long ngai, ngự lên lầu cao, trú trong một căn phòng thoáng đãng và tịch mịch.
Suốt bảy ngày ấy, đức vua thành tựu được tám pháp lành sau đây:
Một là, không suy nghĩ, vướng bận hoặc bàn chuyện quốc sự.
Hai là, không để cho tâm ái dục, luyến ái chi phối.
Ba là, không có sân niệm nào đối với bất kỳ một ai.
Bốn là, không có hành động nào do mê tối, lầm lạc, si mê.
Năm là, không một điều tiếng nào dù hận, dù tức, dù khó chịu đối với mọi người, quan lại, kẻ hầu, chánh hậu, thứ phi, hoàng tử hoặc cung nga thể nữ...
Sáu là, thân không sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, đánh đập người; khẩu không nói dối, ác khẩu, lời hung dữ v.v...
Bảy là, hoàn toàn thu thúc lục căn. Sáu cửa đều được thanh tịnh.
Tám là, trú từ bi tâm.
Ngày thứ tám, đức vua Mi-lan-đà thọ thực sớm, với hỷ và an, với từ bi tâm tỏa mát ở khí sắc, ngài đi chào hỏi mọi người với những lời vui vẻ đầy từ ái. Sau đo, với oai nghi đỉnh đạc và trầm tịnh, với ý được thu liễm, với tâm đầy hoan hỷ, với trí trong sáng và rỗng rang; đức vua đi bộ thanh thản đến chùa gặp đại đức Na-tiên, hai tay chấp lại đặt lên giữa đỉnh đầu, rồi bạch như sau:
- Đại đức Na-tiên tôn kính! Hôm nay trẫm muốn hội diện với ngài để hỏi về những câu hỏi có ý nghĩa sâu kín. Như mặt đất bí mật thường ẩn chứa của báu, như khu rừng thanh vắng thường để dành cho các sa môn tĩnh tu; những câu hỏi mà trẫm sẽ hỏi ngài đây cũng phải được tìm chỗ thích hợp, phải tránh xa tám điều cấm kị, nếu không, cuộc diện đàm của chúng ta sẽ bị hư hỏng.
- Đại vương cứ nói.
- Thứ nhất là phải tìm chỗ bằng phẳng, tránh chỗ gồ ghề, lồi lõm, chỗ chông chênh, chỗ có khe vực nguy hiểm. Thứ hai là tránh chỗ sẽ phát sanh nhiều sợ hãi. Thứ ba là tránh chỗ có gió mạnh, gió dữ, gió độc, gió lạnh. Thứ tư, tránh chỗ quá kín đáo như mật thất hoặc hang động. Thứ năm là tránh chỗ người ta hay đến để cúng vái cầu khấn chư thiên hoặc thọ thần. Thứ sáu, tránh chỗ gần đường cái quan, gần lối đi mà bộ hành thường qua lại. Thứ bảy, tránh chỗ gần thị thành, chợ búa. Thứ tám là tránh chỗ gần bến nước, giếng nước. Đó là 8 chỗ không thích hợp cho những câu hỏi về Mendaka, thưa đại đức.
- Bần tăng đã hiểu lý do, nhưng đại vương hãy cứ giải thích một cách rộng rãi theo ý mình.
- Vâng. Chỗ bằng phẳng chỉ đơn giản là để dễ dàng thay đổi oai nghi mà không ngại vấp té vô ích. Chỗ không có thú dữ như cọp, beo, rắn độc để khỏi phát sanh sợ hãi. Chỗ có các loại gió dữ, gió mạnh, ác phong, hàn phong sẽ khiến dễ bị nhiễm cảm, nhức đầu, sổ mũi. Không tới chỗ quá kín đáo để tránh sự tò mò, dòm ngó, nghi vấn của nhiều người. Còn tránh bốn chỗ sau là tránh sự đông đúc của bá tánh, tránh ồn ào, huyên náo, hỗn tạp dễ bị phân tâm, không chuyên nhất cho sự suy nghĩ tế vi và sâu kín. Ý nghĩa, lý do của tám điều cấm kỵ là vậy, thưa đại đức!
- Hay lắm - đại đức Na-tiên gật đầu tán thán - đại vương quả là người chu đáo nhất thế gian này.
- Không dám. Tránh tám chỗ cấm kỵ ấy không thôi thì cũng chưa đáng được gọi là chu đáo đâu, thưa đại đức!
- Xin cho bần tăng được nghe cao kiến?
- Còn tám hạng người nữa sẽ không được dự nghe những câu hỏi và đáp của chúng ta, vì tám hạng người ấy không đủ trình độ tâm, trình độ trí, sẽ phát sanh nghi ngờ vô ích. Có họ thì các câu hỏi Mendaka sẽ bị chúng làm cho hư hoại.
- Xin đại vương cứ trình bày.
- Thứ nhất là hạng người nặng về luyến ái, thiên về luyến ái. Thứ hai là hạng người nhiều sân hận, nóng nảy, hung dữ. Thứ ba là hạng người si mê, đần độn. Thứ tư là hạng người nhiều ngã chấp, kiêu căng, kiêu mạn. Thứ năm là hạng người thấp thỏi, hèn hạ, ti tiểu. Thứ sáu là hạng người ương lười, biếng nhác, dễ duôi. Thứ bảy là hạng người chỉ thấy cái bụng của mình, nhìn không xa hơn cái bụng hoặc hay suy bụng ta ra bụng người. Thứ tám là người ngu, kém hiểu biết không chịu thấy ra cái ngu của mình!
- Vậy là quá chu đáo rồi.
- Chưa đâu, thưa đại đức.
- Còn gì nữa, hở đại vương?
- Thưa, cũng còn phải tránh chín hạng người nữa. Thứ nhất là người đắm đuối, ái luyến đã thành quen, thành nề. Thứ hai là người nóng nảy, hung dữ, sân hận đã thành tâm, thành tánh. Thứ ba là người si mê, đần độn đã biến thành bản chất...
Đến đây, đại đức Na-tiên chợt hỏi:
- Ở trên cũng tham, sân, si; dưới cũng tham, sân, si nhưng một bên là mới "nặng về", "nghiêng về", còn một bên là tham, sân, si đã gắn chặt, kết dính kiên cố... Phải chăng đấy là điều khác nhau, thưa đại vương?
- Vâng. Đúng là vậy.
- Xin cho nghe sáu hạng người kế tiếp.
- Thứ tư là người nhiều lo âu, sợ hãi. Thứ năm là người ham mê danh lợi. Thứ sáu là người uống rượu. Thứ bảy là người thích trang sức, trang điểm, nước hoa, dầu thơm. Thứ tám là đàn bà, thứ chín là trẻ con...
- Hay lắm! Đại vương không cần phải giải thích thêm nữa. Tuy nhiên, bần tăng chỉ muốn hỏi thử đại vương về hạng người thứ tám và thứ chín thôi, tại sao họ không có khả năng tiếp thu những câu hỏi và đáp về Mendaka?
- Thưa, đàn bà và trẻ con thời Đức Phật có rất nhiều người có căn cơ lớn, trí tuệ lớn; họ có khả năng giác ngộ giáo pháp, nhưng bây giờ thì hết rồi. Giáo hội tỳ kheo ni Đức Thế Tôn đã không cho phép duy trì, kế thừa nữa. Và trẻ con thì chẳng có ai bảy tuổi mà đắc quả A- la- hán cả!
- Vâng, thật là chính xác! Đại vương có gì trao đổi nữa chăng?
- Thưa, còn! Tất cả hạng người kể trên đều không được dự nghe. Còn người đặt câu hỏi và được dự nghe như trẫm đây phải hội đủ một số điều kiện, bằng không, các câu hỏi Mendaka cũng sẽ bị hủy hoại.
- Các điều kiện ấy là gì, đại vương?
- Thưa, thứ nhất là tuổi tác đã trưởng thành. Thứ hai là không ham mê chức phận. Thứ ba là phải siêng năng học hỏi. Thứ tư là không thân cận với kẻ ngoại đạo. Thứ năm là luôn khởi tâm hướng đến cái chân thực, cái như thực (yonisomanasikàra = như lý tác ý). Thứ sáu là thích luận đạo, vấn đạo để phát triển trí tuệ. Thứ bảy là ưa thích trong pháp và ý nghĩa của giáo pháp. Thứ tám là nơi quốc độ thích hợp (ở trú xứ thích hợp).
- Lý do của tám điều kiện ấy là gì, tâu đại vương?
- Thưa, có tám điều kiện ấy mới có trí tuệ, trí tuệ mới phát triển được, thưa đại đức.
- Quả đúng như thế.
- Thưa đại đức! trẫm là người học trò có đầy đủ tám điều kiện để phát sanh trí tuệ như đã kể ở trên, thật cũng khó kiếm trên cõi Diêm phù đề này. Nhưng một bậc thầy A-xà-lê như đại đức, muốn được xứng danh, chơn chính, chơn thực là một bậc A-xà-lê trọn vẹn, tuyệt hảo...thì có lẽ lại càng hy hữu hơn...
- Tại sao lại hiếm có bậc A-xà-lê như thế? Hãy cho nghe, tâu đại vương!
- Thưa, vì trẫm chỉ có tám điều kiện, nhưng một bậc A-xà-lê sư như đại đức thì phải hội đủ hai mươi lăm điều kiện, thưa đại đức!
- Đại vương hãy nói đi!
- Vâng. Hai mươi lăm đức tính của một bậc A-xà-lê sư như sau:
Thứ nhất, thầy luôn luôn hộ trì, thương yêu, bi mẫn đối với đệ tử. Thứ hai, thầy biết rõ đệ tử này cần gần gũi, đệ tử kia không nên gần gũi. Thứ ba, thầy biết rõ đệ tử này phóng dật, giải đãi, dễ duôi, đệ tử kia thì không. Thứ tư, Thầy phải biết rằng lúc này nên cho người đệ tử nằm và nghỉ, lúc khác thì không. Thứ năm, thầy phải biết đệ tử này đau ốm, đệ tử kia khỏe mạnh.
Thứ sáu, thầy phải lưu ý người đệ tử này đầy đủ vật thực, đệ tử kia thiếu thốn. Thứ bảy, thầy phải hiểu rõ từng đức tính, từng cá tính của từng đệ tử. Thứ tám, thầy phải biết chia sớt phần vật thực của mình nếu đệ tử không đủ no. Thứ chín, thầy phải tìm cách trấn an giúp người đệ tử giải thoát mọi nỗi lo âu, sợ hãi. Thứ mười, thầy phải theo dõi, theo sát pháp hành của người đệ tử để biết cách hướng dẫn người đệ tử tu tập mau tiến bộ.
Mười một, thầy phải biết rõ tất cả các pháp và người nên thân cận, gần gũi để giáo huấn đệ tử. Mười hai, thầy phải biết chùa chiền nào, tăng lữ nào là nên thân cận, gần gũi để chỉ bày cho đệ tử. Mười ba, thầy không nên để cho đệ tử cười đùa, nô giỡn một cách vô ích. Mười bốn, thầy biết đệ tử có tội, phải ngăn cấm tội ấy và sẵn sàng xá tội cho đệ tử. Mười lăm, thầy phải luôn luôn nhu thuận, nhu nhuyến với đệ tử.
Mười sáu, thầy luôn luôn nhắc nhở không cho đệ tử bỏ bê pháp học và pháp hành. Mười bảy, thầy không được dấu diếm những ý nghĩa sâu xa của giáo pháp đối với đệ tử. Mười tám, thầy không nên để sót lại dầu một chút ít những pháp sâu xa mà không dạy cho đệ tử. Mười chín, thầy cần cho đệ tử biết lần hồi sức tài, sức học của mình. Hai mươi, thầy thường xuyên nâng đỡ đừng cho đệ tử hư hỏng, phải giúp cho đệ tử tiến bộ.
Hai mươi mốt, thầy luôn luôn nghĩ rằng, phải làm sao cho đệ tử học tập đến nơi đến chốn. Hai mươi hai, thầy luôn có tâm từ với đệ tử. Hai mươi ba, thầy không được bỏ đệ tử trong lúc đệ tử bị tai ương, hoạn nạn, rủi ro, tai hại. Hai mươi bốn, thầy không được thờ ơ trong bổn phận và trách nhiệm đối với đệ tử. Hai mươi lăm, thầy phải chỉ ra những chỗ mà đệ tử đã học sai và phải giải thích cho rõ ràng.
Sau khi đức vua Mi-lan-đà nói ra đầy đủ hai mươi lăm đức tính của một bậc làm thầy, đại đức Na-tiên lại một lần nữa tán thán:
- Quả thật là vi diệu! Nhưng không biết trên thế gian này có bậc thầy nào hội đủ các đức tính ấy chăng?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Ngài quá khiêm tốn. Trẫm cảm nhận ra rằng đại đức là bậc A-xà-lê sư ấy. Khi có người đệ tử như Trẫm đây hội đủ tám điều kiện; và khi có bậc thầy hội đủ hai mươi lăm đức tính như đại đức - thì chúng ta hãy tìm chỗ tránh xa tám điều cấm kỵ, xa lánh mười bảy hạng người. Và ở đấy, các câu hỏi về Mendaka sẽ được bắt đầu.
- Lành thay! - Đại đức Na-tiên nói - Nhưng vẫn chưa đủ, tâu đại vương! Đại vương đã chấp nhận mình là một người đệ tử, vậy đại vương có thông thuộc mười đức tính phải có của một người cận sự nam, cận sự nữ chăng?
- Xin cho nghe!
- Vâng. Điều thứ nhất là một người cận sự nam (hay nữ) phải biết chia vui, chung khổ với tỳ khưu Tăng. Điều thứ hai là thân khẩu phải thanh hạnh, lìa xa trược hạnh. Thứ ba là phải biết lấy pháp làm chủ, pháp là mục đích. Thứ tư là thường hoan hỷ, xả ly, bố thí. Thứ năm là phải chăm chuyên, tinh tấn học, suy nghĩ để hiểu cho thấu đáo lời dạy của Đức Thế Tôn. Thứ sáu là phải biết rời xa những niềm vui huyên náo và rỗng không bên ngoài Phật giáo, dù có mất sanh mạng cũng không nhận ngoại đạo làm thầy. Thứ bảy là phải có chánh kiến kiên cố, bất động. Thứ tám là vui thích trong việc làm cho Tăng được hòa hợp, cận sự nam nữ hai hàng đoàn kết, hoan hỷ làm phước sự. Thứ chín không được thực hành hạnh giả dối, thấp hèn. Thứ mười là phải lấy Tam Bảo làm chỗ quy hướng, nương nhờ.
Tâu đại vương! Mười đức tính ấy cần phải có và đầy đủ ở trong tâm của đại vương. Ngoài ra, đại vương biết nguyên nhân nào làm cho Phật giáo suy vong, tiêu hoại thì phải ngăn ngừa, dập tắt nguyên nhân ấy. Phải hộ trì cho Phật giáo được hưng thịnh dài lâu vì hạnh phúc và an vui cho đại vương cũng như cho chư thiên và loài người. Đại vương có làm được như thế chăng?
- Thưa, trẫm làm được. Và mười đức tính ấy của một cận sự nam trẫm cũng có đầy đủ.
- Lành thay! Vậy chúng ta hãy tìm nơi thích hợp, và đại vương hãy tùy nghi đặt bất cứ câu hỏi nào về Mendaka.
- Vâng, mọi nhân, mọi duyên điều viên mãn, chúng ta hãy bắt đầu hỏi và đáp.
- Thưa vâng!
* * *
90. Lễ bái, cúng dường Xá lợi, Kim thân Phật, cây Bồ-đề... không có phước báu!
Khi tìm được chỗ thích hợp, đức vua Mi-lan-đà đê đầu xuống sát chân đại đức Na-tiên, thành kính đảnh lễ rồi thưa rằng:
- Bạch đại đức! Chúng ngoại đạo thấy Phật tử cung kính lễ bái, cúng dường xá lợi, cây bồ đề, kim thân Phật, chúng đã nói rằng: "khi Đức Phật còn tại tiền, các Phật tử cung kính, lễ bái, cúng dường ngài cũng phải lẽ. Nay ngài đã nhập diệt rồi, các ngươi dẫu có lễ bái cúng dường bao nhiêu chăng nữa thì Đức Phật cũng đâu có hoan hỷ? Mà không hoan hỷ tất không có phước báu. Không có phước báu tất sẽ có tội. Coi chừng các ngươi làm vậy là rơi vào tà kiến đấy!"
Thưa đại đức! Sự nhận xét ấy của ngoại đạo đúng hay sai? Là chánh kiến hay tà kiến? Những mong đại đức với tâm bi mẫn, với tuệ chân thật hãy phá nghi cho những người học Phật thời hậu lai.
- Tâu đại vương! Đại vương hãy nghe đây, bần tăng sẽ giảng giải. Nhưng trước khi giảng giải, bần tăng xin hỏi đại vương: thuở Phật còn tại tiền, khi nhận được sự lễ bái, cung kính, cúng dường của cận sự nam nữ hai hàng, Đức Phật có hoan hỷ không?
- Dĩ nhiên là có hoan hỷ.
- Chẳng phải thế, tâu đại vương! tâm hoan hỷ là tâm thô lậu, nó chính là cấu uế đối với các vị tu tập thiền quán, huống chi đối với Đức Phật là bậc ở ngoài ba cõi? Khi nhận sự lễ bái, cúng dường của Phật tử, Đức Thế Tôn trú tâm giải thoát chớ không phải tâm hoan hỷ đâu, tâu đại vương!
- Vâng, đúng vậy!
- Đức Thế Tôn đã hoàn toàn vắng lặng và siêu thoát từ cội cây bô-đề sau khi thành đạo quả Chánh Đẳng Giác; nghĩa là ngài không còn thỏa thích, hoan hỷ với bất cứ lợi lộc, phẩm vật cúng dường nào của chư thiên hoặc loài người. Và dĩ nhiên, Đức Phật giờ đã Niết bàn rồi thì Ngài không còn hoan hỷ với những lễ phẩm cúng dường cũng là điều chắc thật. Ngoại đạo nói vậy là đúng, nhưng lời chỉ trích của chúng đã phản tác dụng, vô tình đã nói lên sự thực về Đức Đạo Sư. Vì Đức pháp chủ Xá-lợi phất đã từng thuyết như sau: "Đức Thế Tôn không có sự hoan hỷ với những phẩm vật cúng dường của chư thiên và nhân loại, nên những ai cúng dường đến ngài sẽ được quả báu nhiều vô số kể." Tâu đại vương, vậy thì luận điểm tuyên truyền của ngoại đạo rằng là "không hoan hỷ tất không có phước báu, không có phước báu tất là có tội" chính là tà kiến, là sự thấy biết lầm lạc không phù hợp với chân lý!
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Nghe thì có lý nhưng sự y cứ của đại đức không đáng tin cậy. Tại sao vậy? Ngài Xá-lợi phất thì biện minh cho Đức Thế Tôn, đại đức thì dựa vào ngài Xá-lợi phất thì có khác nào cha con khen ngợi và tâng bốc lẫn nhau? Chính đại đức phải tự giải thích, phân tích sao cho đúng pháp, đúng với chánh lý để giải trừ những tà kiến nguy hại kia chứ không phải là trích dẫn những câu có sẵn!
- Đúng như thế, tâu đại vương! Những người cận sự nam nữ họ đều cung kính, lễ bái, cúng dường Xá-lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật...; mặc dầu biết rằng Đức Phật đã nhập diệt, ngài không có thỏa thích hoan hỷ gì trong những lễ phẩm ấy; nhưng nhờ vậy, họ tưởng nhớ đến Đức Thế Tôn, tưởng nhớ đến những pháp lớn, pháp nhỏ mà Đức Thế Tôn đã từng dạy bảo để tu tập. Nếu như sự tu tập ấy được kiên trì, với nhiếp tâm, với tinh cần thì họ có thể được thiện sanh làm người, làm trời, cao hơn là chứng đắc bốn đạo quả và Niết bàn không, hở đại vương!
- Có thể là như vậy, nhưng trẫm muốn nghe bằng ví dụ cụ thể, dễ hiểu kìa!
- Vâng, người ta hay dùng lửa để đốt cháy cỏ khô, cây khô hoặc những vật uế tạp. Khi cỏ khô, cây khô hoặc những vật uế tạp đã được thiêu hủy rồi thì lửa ấy có còn chăng, đại vương?
- Dĩ nhiên, khi không còn vật dẫn cháy thì lửa cũng tắt theo.
- Vậy khi muốn dùng lửa trở lại, người ta làm sao để có lửa, đại vương?
- Người ta lấy cây khô cọ xát với cây khô, đặt bùi nhùi là vật dẫn cháy thì sẽ có lửa.
- Trí tuệ được ví như lửa vậy, tâu đại vương! Đức Phật đã Niết bàn rồi, trí tuệ ngài không còn nữa, nhưng những đệ tử của ngài đã theo lời dạy của ngài, tu tập theo những pháp lớn, pháp nhỏ của ngài; cũng dùng cây khô cọ xát với cây khô, cũng đặt bùi nhùi dẫn cháy để phát sanh trí tuệ. Như vậy, Đức Phật thuở tại tiền không hoan hỷ lễ phẩm cúng dường, khi Niết bàn cũng không hoan hỷ lễ phẩm cúng dường; nhưng những người Phật tử cung kính, lễ bái, cúng dường xá lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật; đã hằng ngày tự mình nhắc nhở, hằng ngày tự mình hành thiền, hằng ngày đã dùng phương pháp lấy lửa để thành tựu trí tuệ; nên kết quả của việc làm ấy được phước báu vô lượng vô biên, là chứng đắc ba thứ đạo quả: quả người, quả trời và quả Niết bàn, tâu đại vương!
- Thật là thông đạt, nhưng trẫm muốn nghe thêm ví dụ?
- Vâng, ví như một ngày mùa hạ khí trời oi bức, một cơn gió mát mẻ thổi qua làm cho mọi người đều khoan khoái. Nhưng khi cơn gió qua rồi, lúc nóng nực, người ta không biết làm sao để chống nóng, phải không đại vương?
- Người ta có thể làm gió được, thưa đại đức! Người ta dùng lá thốt nốt và tre kết thành một tấm lớn đặt trên trần nhà, có dây kéo, thế là có thể có gió quạt mát cho cả nhà. Cũng có thể dùng nan tre, dán giấy để cầm tay quạt mát cho từng người, thưa đại đức!
- Gió qua rồi nhưng người ta có thể làm gió được, ấy là từ miệng đại vương nói ra. Đức Phật với giác ngộ, với trí tuệ, với từ bi hỷ xả... có mặt trên thế gian này, quả là một cơn gió lớn, thanh lương và mát mẻ vô cùng. Cơn gió ấy đã thổi vẹt vô minh và si mê trên trần thế. Cơn gió ấy đã xua tan biết bao sân hận, hung dữ, bạo tàn, ác độc... của con người. Cơn gió ấy đã làm cho hằng sa thế giới chấn động, ma vương sợ hãi và chúng sanh thì được tẩm mát, được an lạc và thanh bình. Làn gió của Đức Thế Tôn đến như vậy, an trú như vậy và ra đi như vậy - nói hoan hỷ hoặc không hoan hỷ đều không đúng - nhưng rõ ràng là ích dụng và lợi lạc cho vô số chúng sanh. Đức Thế Tôn nhập diệt rồi, gió ấy đã qua rồi, nhưng người ta có thể làm gió được, bằng nổ lực cá nhân, bằng lá thốt nốt, nan tre và giấy; bằng sự cung kính, lễ bái cúng dường xá lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật... để quạt mát, đem lợi lạc, hạnh phúc, an vui đến cho mình và mọi người, tâu đại vương!
- Ví dụ ấy cũng khá chính xác, nhưng trẫm muốn nghe thêm ví dụ khác để hiểu thêm về nhiều mặt của một vấn đề!
- Vâng! khi muốn nghe tiếng trống, đại vương phải làm sao?
- Trẫm sai lực sĩ đánh. Đánh mạnh thì âm thanh lớn vang xa, đánh nhẹ thì âm thanh nhỏ vang gần.
- Vậy khi không đánh thì âm thanh kia đi đâu?
- Nó diệt rồi!
- À, té ra âm thanh đã mất hẳn, không còn nữa!
- Không, nó diệt chứ không mất! Đại đức nghĩ thế là sai rồi! Bởi khi cần âm thanh, ta sẽ có cách làm cho âm thanh có mặt trở lại!
- Phải làm sao?
- Trẫm sai lực sĩ đánh trống! Đại đức nên nhớ rằng cái trống chỉ là nhân, cái trống không tự nó phát ra âm thanh, một nhân không thể thành quả. Nhân phải có hỗ trợ duyên, một duyên hay nhiều duyên mới trổ thành quả. Cũng vậy, cái trống cần phải có dùi trống, người đánh trống trợ duyên mới phát ra âm thanh được.
- Vậy là chính đại vương đã giải tan những nghi vấn của đại vương! Đức Phật gióng lên Tiếng Trống Bất Tử ở giữa đời, Đức Phật nhập diệt rồi nhưng tiếng trống không hẳn đã mất đi vĩnh viễn. Cái trống còn đó, Pháp bảo còn đó; nếu có người đánh trống thì âm thanh kia vẫn vang lên như thường.
- Xin thưa, đồng ý Pháp bảo dụ như cái trống, nhưng cây bồ-đề, xá lợi, kim thân Phật đâu phải là Pháp bảo? Vậy cung kính lễ bái, cúng dường những hình tượng ấy có thể nào lại vang lên âm thanh của Pháp bảo?
- Rất là chính xác. Tuy nhiên, tâu đại vương, cái trống tự nó không phát ra âm thanh mặc dầu có người đánh trống; [*] cũng vậy, Pháp bảo và người gióng trống Pháp bảo không cũng chưa đủ, nó phải cần có nhiều duyên hỗ trợ. Cúng dường, lễ bái xá lợi, kim thân Phật nó chính là trợ duyên cho chúng sanh nhớ tưởng đến ân đức, trí hạnh của Đức Phật mà tu tập, phải thế không đại vương?
[*] Vì còn thiếu dùi trống
- Hay lắm!
- Lúc Đức Thế Tôn diệt độ, ngài dạy rằng: "Khi Như Lai Niết bàn rồi, pháp và luật là thầy của các ngươi." Pháp và luật chính là tam tạng, chính là Pháp bảo, chính là giới định tuệ, chính là 37 trợ đạo phẩm. Vậy thì cái trống Pháp bảo luôn còn ở đấy, chỉ thiếu người đánh trống và dùi trống nữa mà thôi. Khi nào có dùi trống, có người đánh trống, gióng lên tiếng trống Pháp bảo thì chắc hẳn rằng đức tin, phước báu, từ bi, trí tuệ, giác ngộ, giải thoát sẽ có mặt ở đời này, phải thế không đại vương?
- Phải vậy!
- Thế thì lời nói của ngoại đạo là ngoa ngôn, xảo ngôn, là hư ngụy, là không thật, là tà kiến...; chính chúng muốn cho các hàng Phật tử không có nơi nương tựa, không có nơi hướng về, không có nơi tôn kính, không có nơi lễ bái...; làm cho Phật tử hoang mang, sợ hãi, đức tin bị lung lay... Đại vương có thấy thế không?
- Đúng vậy! Nhưng còn sự hoan hỷ và không hoan hỷ?
- Đức Phật đã nhập diệt rồi, đặt vấn đề hoan hỷ và không hoan hỷ chỉ là trò chơi của sự lập ngôn! Chính sự khởi tâm khi thành kính, lễ bái, cúng dường... đã thành tựu phước báu rồi! Tiếng trống có hoan hỷ và không hoan hỷ cũng là trò hý lộng ngôn ngữ! Âm thanh của tiếng trống là tùy thuộc vào sức yếu mạnh của người lực sĩ. Pháp bảo được giác ngộ sâu cạn là tùy căn cơ, trình độ, sự lãnh hội cùng túc duyên của người tu Phật. Người tu theo đức tin, người theo tinh tấn, người theo trí tuệ cũng do từ kho tàng Pháp bảo cùng căn cơ trình độ mà ra, từ cá biệt duyên của mỗi người mà ra!
- Trẫm đã thông suốt, đã tỏ tường, tuy nhiên, trẫm còn muốn nghe thêm về sự hoan hỷ!
- Được thôi! Trên quả đất rộng lớn này biết bao nhiêu là kỳ hoa, dị thảo; biết bao nhiêu là giống cây cùng nứt hạt, nẩy mầm và lớn lên làm cho xanh tươi, mát mẻ, đẹp đẽ và phong phú! Tâu đại vương, quả đất có hoan hỷ không, mà cây cối, muôn hoa nẩy nở và phát triển như thế?
- Chúng hoan hỷ gì đâu! Chúng nương nhờ từ đất, đón nhận nước, không khí, ánh sáng mà trở nên sum suê, tươi xanh đấy chứ!
- Cũng vậy, Đức Thế Tôn còn sống hay đã Niết bàn, ngài cũng chẳng hoan hỷ gì cả; nhưng tứ chúng, chư thiên và nhân loại nương nhờ nơi ngài, đón nhận giáo pháp của ngài; tạo phước báu, tu tập từ bi, hỷ xả, tu tập để đắc các tầng Thánh quả. Nói cách khác, đức tin và nghe pháp là hạt giống, giới là gốc rễ, định là thân cây, tuệ là lá hoa và giác ngộ, giải thoát các tầng Thánh là quả, tâu đại vương!
- Đúng là không cần có sự hoan hỷ mà chính do tâm tạo thiện nghiệp, học hỏi giáo pháp và tu tập. Phước báu phát sanh ở đó.
- Còn nữa, ví như những loại vi trùng sống nhờ nơi thân, trong bụng chúng sanh như voi, ngựa, trâu, bò, dê, lừa, lạc đà...; các loài động vật ấy chúng không hề hoan hỷ, thỏa thích các loài vi trùng ấy, nhưng vi trùng vẫn lớn lên, sinh con đẻ cháu hàng hàng lớp lớp.
- Vâng, quả vậy. Trường hợp này có lẽ là do nghiệp duy trì, nuôi dưỡng.
- Đúng thế! Ví như con người thường phát sanh chứng bệnh channavuti. Dẫu con người có hoan hỷ hay không hoan hỷ thì bệnh channavuti vẫn phát sanh, tồn tại và hành hạ con người. Tại sao như thế, đại vương?
- Dĩ nhiên là do nhiều nguyên nhân, nhưng nói ngắn gọn là do ác nghiệp sanh ra.
- Lại ví như dạ xoa Nanda có tâm ác độc, đánh mạnh vào đầu đức pháp chủ Xá lợi phất, sau đó dạ xoa Nanda bị quả đất rút. Đại vương nghĩ như thế nào, đức pháp chủ có hoan hỷ khi dạ xoa Nanda bị ác báo ấy không?
- Dẫu cõi trời, cõi người có tiêu hoại đi, mặt trời, mặt trăng có bị rơi xuống đất, núi Tu di bị vỡ tan tành... đức pháp chủ Xá lợi phất cũng không có tâm địa ấy đâu!
- Vậy dạ xoa Nanda bị quả đất rút do nguyên nhân nào?
- Do năng lực của nghiệp mà dạ xoa kia đã làm.
- Đúng vậy! Còn bốn người nữa làm hại Đức Phật bị quả đất rút là nàng Cincà, Đức vua Suppabuddha, ông Devadatta, kẻ trộm Udameyyaka... thì đại vương nghĩ như thế nào, Đức Phật có hoan hỷ về điều đó không?
- Đức pháp chủ không có tâm địa ấy thì dĩ nhiên Đức Phật cũng hoàn toàn không! Chính chúng gây nhân ác thì bị ác báo.
- Vâng! Gây nhân thiện thì quả báo lành, tốt, gây nhân ác thì bị quả báo dữ, xấu. Đấy là định luật. Đức Phật dẫu đã Niết bàn rồi, không có hoan hỷ về việc Phật tử cung kính, cúng dường, lễ bái xá lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật; nhưng lạc báo, thiện báo, phước quả sẽ trổ sanh cho người ấy, do thiện tâm của người ấy. Trái lại, Đức Phật, đức pháp chủ Xá lợi phất không có hoan hỷ về việc những người làm hại mình bị quả đất rút nhưng khổ báo, ác báo, tội báo vẫn lôi những kẻ ấy vào địa ngục a-tỳ như thường. Như vậy, lời nói của ngoại đạo là rỗng không, không có y cứ vào định luật nhân quả, không thấy không biết sự vận hành của nhân quả; không biết rằng tác ý là nghiệp...! Luận cứ của chúng là tà kiến, không đúng với chân lý. Đại vương là bậc có trí, hãy từ đó mà suy gẫm thêm!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ, hết lời tán dương trí tuệ phá nghi của đại đức Na-tiên, rồi kết luận:
- Lời xuyên tạc, phá hoại của chúng ngoại đạo từ nay đã tiêu tan, vô hiệu quả, nhờ tuệ đức của ngài vậy.
* * *
91. Đức Phật có toàn giác không?
[Hơi khác với câu hỏi 60]
- Bạch đại đức! trẫm có một mối nghi rất to lớn, là Đức Thế Tôn không phải là bậc Toàn Giác!
- Tại sao?
- Thưa, đọc trong kinh, trẫm thấy rằng, có rất nhiều trường hợp Đức Thế Tôn "hướng tâm" đến mới biết, không hướng tâm đến thì không biết. Như vậy, sao gọi là "toàn giác" được?
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn đúng là bậc Toàn Giác, ngài biết rõ tất cả các loại tâm. Duy nhất chỉ có Đức Thế Tôn mới thông suốt, mới biết rõ sự hiện hữu và sự vận hành các tướng tâm ấy!
- Các tướng tâm ấy như thế nào?
- Thứ nhất là tướng tâm tham dục, sân hận, si mê, thường dính mắc bởi ái luyến và phiền não. Cái tâm ấy gọi là trì độn, chậm chạp, không có tu tập, tức là loại tâm chưa được tiến hóa. Cái tâm ấy được ví như một cây tre chằng chịt từ đầu đến ngọn bởi những mắc, những gai nè phức tạp, vô phương tháo gỡ, tâu đại vương!
- Đấy là tâm của tất cả chúng sanh, nhất là những chúng sanh đang lặn hụp, đau khổ trong bốn đường dữ, phải thế không đại đức?
- Vâng, loại tướng tâm thứ hai là tâm của những chúng sanh đã ra khỏi bốn ác đạo ấy. Đấy là tâm của những vị Thánh Tu-đà-huờn, kẻ đã cắt đứt ba sợi dây ràng buộc là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. Loại tướng tâm này đã vượt khỏi trì độn, đã bước vào dòng tiến hóa, đã thật sự có tu tập, đã có đức tin chơn chánh vào con đường và giáo pháp diệt khổ của Đức Thế Tôn, tâu đại vương!
- Xin cho nghe ví dụ.
- Ví như cây tre có mười đốt chằng chịt gai nè của chúng sanh ở tướng tâm thứ nhất, đã được trẩy sạch ba mắc cùng những gai nè dính mắc, ràng buộc ở nơi ba mắt ấy. Cây tre như vậy là đã được tháo gỡ và kéo ra được một đoạn ba đốt, tâu đại vương. Ấy là tướng tâm thứ hai.
- Vâng, trẫm đã hiểu, còn tướng tâm thứ ba?
- Là tâm của vị Thánh Tư-đà-hàm, kẻ đã làm nhẹ bớt thêm hai sợi dây ràng buộc là tham dục và sân hận. Ví như cây tre có mười đốt ở trên, sau khi đã trẩy sạch ba mắc cùng với gai nè, vị này đã trẩy thêm được một ít gai nè ở hai mắc kế nữa, tâu đại vương!
- Thế là tướng tâm thứ ba, chưa trẩy sạch hẳn tất cả gai nè trên năm mắc, năm đốt ấy?
- Vâng, đến tướng tâm thứ tư, tâm của vị Thánh A-na-hàm mới trẩy sạch trọn vẹn, trơn tru cả năm mắc, năm đốt, tâu đại vương.
- Xin cho trẫm nghe tướng tâm thứ năm?
- Là tướng tâm của vị A-la-hán, bậc đã cắt đứt luôn năm sợi dây ràng buộc còn lại là sắc ái; vô sắc ái, ngã mạn, phóng tâm và vô minh, tâu đại vương. Ví như năm đốt cùng với gai nè còn lại trên cây tre, vị này đã trẩy sạch, cây tre đã dễ dàng lấy ra, không còn vướng mắc gì nữa. Đây gọi là bậc vô sanh, vô lậu, giải thoát, tâu đại vương! Còn tướng tâm thứ sáu là tâm của vị Độc Gíac Phật, là bậc tự tu, tự chứng, tự mình giác ngộ, giải thoát.
- Có gì khác nhau giữa tâm giải thoát, tuệ giải thoát của một vị A-la-hán và một vị Độc Giác Phật, thưa đại đức?
- Về giải thoát, vô lậu ấy thì giống nhau nhưng về sự sâu cạn của tâm, của tuệ thì khác nhau. Ví như, vị Độc Giác Phật có thể biết tâm của vị A-la-hán, còn vị A-la-hán không biết tâm của vị Độc Giác Phật.
- Vâng, còn về tâm thứ bảy, có lẽ đó là tâm của vị Phật Toàn Giác. Thưa, tâm và tuệ của ngài khác với vị Độc Giác Phật như thế nào?
- Ví như một người đàn ông dũng cảm có thể dễ dàng bơi qua sông lớn lúc nửa đêm, nhưng khi đối diện với biển cả, ông ta lại cảm thấy sợ hãi, thiếu tự tin. Một vị Độc Giác Phật so sánh với đấng Toàn Giác cũng y như thế. Đức Toàn Giác thường có đầy đủ bốn tuệ và mười tám pháp (Buddha dhamma) vô ngại, vô lượng, bất khả tư nghì. Chẳng ai so sánh được. Đó là thấy mọi việc quá khứ, hiện tại, vị lai, khả năng tư duy, ngôn ngữ, trí nhớ, trực giác, thiền định, ý chí, nghị lực, giải thoát, thắng tuệ, tự do, thanh tịnh, định tĩnh, chú ý, tĩnh thức, quan tâm đến người khác. Nhờ có đầy đủ 18 pháp ấy nên Đức Thế Tôn rất dễ dàng thấy biết tâm của chúng sanh, dễ dàng thấy biết mọi việc để hóa độ chúng sanh, tâu đại vương!
- Sự dễ dàng ấy như thế nào, thưa đại đức?
- Ví như một tay xạ thủ thiện xảo, có mũi tên tốt, cái cung tốt, nhắm bắn vào một tấm vải được căng sẵn. Đại vương nghĩ thế nào, mũi tên kia sẽ được xuyên suốt qua tấm vải có dễ dàng không?
- Thưa, rất dễ dàng.
- Đức Toàn Giác dễ dàng và mau chóng quán xét sự việc gì cần biết như ý muốn, còn nhanh hơn người đàn ông cầm một vật gì từ bàn tay phải đặt sang tay trái, dễ dàng hơn viên lực sĩ co duỗi cánh tay, tâu đại vương.
- Thưa đại đức, trẫm vẫn còn nghi ngờ Đức Thế Tôn không phải là bậc Toàn Giác. Vì sao vậy? Vì còn quán tâm, còn hướng tâm thì rõ ràng còn tìm kiếm. Còn tìm kiếm thì nhất định còn điều chưa thấy, chưa biết - thì sao được gọi là "biết hoàn toàn" được ?
- Đại vương! Ví như có nhà phú hộ giàu có muôn kho, đầy ắp tài sản, của cải, ngũ cốc, mật ong, đường, sữa v.v... Nếu như có người muốn xin một nắm gạo để nấu cháo, thì cháo ấy có sẵn ngay hay không?
- Cháo ấy không thể có sẵn để ăn ngay. Phải vào lấy gạo trong kho, bỏ vào nồi nước và đun nấu một thời gian nào đó, thưa đại đức.
- Trí giác của Đức Thế Tôn cũng giàu có, thịnh mãn như vị phú hộ kia; muốn sử dụng thứ gì, thuộc "cái biết" nào thì phải vào kho mà lấy ra, cũng y như thế! Tuy nhiên, ví dụ cái kho của ông phú hộ là hữu hạn, là giới hạn; ví dụ vào kho để lấy gạo rồi nấu cháo để ăn là phải tốn một thời gian. Cái kho hiểu biết của Đức Thế Tôn là vô hạn định, vô hạn lượng; và muốn biết việc gì, điều gì ngài chỉ cần hướng tâm đến là biết ngay tức khắc với thời gian còn nhanh hơn cái chớp mắt, với thời gian chỉ có một niệm, tâu đại vương!
- Thưa, cái niệm ấy như thế nào?
- Ví như đức vua Chuyển luân Thánh vương vừa nghĩ đến xe báu thì tức khắc xe báu hiện ra. Một niệm là một móng tâm, một khởi tâm, một hướng tâm, một ý nghĩ, tâu đại vương!
- Bây giờ thì trẫm không còn lý do gì để nghi nan nữa. Đức Thế Tôn đích thực là đấng Toàn Giác vậy.
* * *
92. Đức Thế Tôn có tâm Đại bi hay không?
- Thưa đại đức, Đức Thế Tôn hằng đem lại điều lợi ích cho chư thiên và nhân loại; ngài có tâm đại bi, hằng tế độ cho chúng sanh trời, người, nam, nữ... là điều chắc thật đấy chứ ạ?
- Quả đúng vậy.
- Đề-bà-đạt-đa chính do Đức Thế Tôn cho xuất gia?
- Phải rồi, Đề-bà-đạt-đa được Đức Phật cho xuất gia một lần cùng với năm vị khác trong hoàng tộc là Bhaddiyà, Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimabila! Có thêm người thợ hớt tóc Upàli nữa là bảy người, tâu đại vương!
- Thưa đại đức, Đức Thế Tôn là bậc Toàn Giác, không có việc gì trên thế gian mà ngài hướng tâm đến lại không biết; thế khi Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia, ngài có biết rằng sau này Đề-bà-đạt-đa âm mưu chia rẽ tăng chăng?
- Đức Thế Tôn có biết rõ như vậy, tâu đại vương!
- Trẫm có nghe rằng, trong pháp và luật của Đức Thế Tôn, là tỳ khưu ni, sa di hoặc sa di ni đều không thể chia rẽ Tăng được, chỉ có tỳ khưu mới chia rẽ tăng được, có phải vậy chăng?
- Đúng vậy! Chỉ có tỳ khưu cùng cộng trú, cùng làm lễ phát lồ mới hội đủ điều kiện chia rẽ Tăng. Không phải là tỳ khưu không thể chia rẽ Tăng được. Đại vương hiểu rất chính xác.
- Người chia rẽ Tăng thì ác nghiệp, tội báo sẽ như thế nào, thưa đại đức?
- Bị đọa địa ngục chịu thống khổ chừng một kiếp.
- Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia làm tỳ khưu, Đức Thế Tôn lại rõ biết sau này vị tỳ khưu ấy chia rẽ Tăng. Thế Đức Thế Tôn có biết là sau khi tạo ác nghiệp chia rẽ Tăng rồi, Đề-bà-đạt-đa sẽ bị đốt cháy trong địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp chăng?
- Đức Thế Tôn càng biết rõ điều ấy.
- Thưa đại đức! Chính đại đức đã xác định rằng Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia, xuất gia rồi ông ta sẽ chia rẽ Tăng, chia rẽ Tăng ông ấy tạo ác nghiệp chịu quả báo bị thiêu đốt ở địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp. Ở đây, vấn đề này sẽ nẩy sinh hai khía cạnh mà ngoại đạo sẽ đem ra dị luận, có hại cho Đức Thế Tôn. Thứ nhất, nếu Đức Thế Tôn chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho Đề-bà-đạt-đa trong tương lai - thì rõ Đức Thế Tôn không phải là "bậc Toàn Giác". Thứ hai, nếu Đức Thế Tôn biết rõ quả báo thống khổ mai sau của Đề-bà-đạt-đa thì Đức Thế Tôn tuy là bậc Toàn Giác nhưng ngài lại thiếu tâm đại bi. Vậy cái gọi là Đức Phật có mặt ở đời hằng đem đến hạnh phúc và an vui cho chư thiên và loài người, là điều hoàn toàn cần phải xét lại! Xin đại đức hãy vì người học Phật trong mai hậu, dùng trí tuệ mà đem đèn sáng đặt vào bóng tối để xóa tan mọi nghi nan của trẫm thì trẫm tri ân lắm vậy!
- Đại vương, những nghi nan của đại vương là có cơ sở, tuy nhiên, vì Đức Thế Tôn là bậc Toàn Giác, ngài có sự thấy biết về quá khứ, vị lai là bất khả tư nghì. Ngài thấy biết rằng, nếu Đề-bà-đạt-đa mà sống đời tại gia thì y sẽ tạo ác nghiệp với khổ báo không thể nghĩ lường. Đề-bà-đạt-đa xuất gia, được gieo duyên với giáo pháp, được phước báu thanh tịnh hỗ trợ; nên khi bị trả quả chia rẽ Tăng, ông ta chỉ thọ báo quả địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp, sau đó ông ta sẽ đắc quả Độc Giác Phật hiệu là Atthisara. Trái lại, nếu Đề-bà-đạt-đa không tu tỳ kheo thì ông ta sẽ bị thiêu, bị nấu từ địa ngục này sang địa nguc khác; hết khổ địa ngục, ông ta rơi vào hàng trăm kiếp làm ngạ quỉ, rồi làm a-tu-la với thời gian không đếm được. Và do đó, được thiện báo thọ sanh làm người đã khó khăn huống hồ chứng quả Phật Thánh. Đại vương nghĩ thế nào, vậy bậc Toàn Giác là bậc đại bi hay không phải đại bi?
- Quả đúng vậy, nếu sự thật như thế thì tâm đại bi của Đức Thế Tôn là bất khả tư lường. Tuy nhiên, ngoại đạo cũng có cách nói của họ mà sự hữu lý xem ra ta chẳng nên xem thường...
- Đại vương cứ nói!
- Vâng, ngoại đạo sẽ châm biếm, mỉa mai rằng: "Ông Phật Tổ Cồ đàm khéo thật! Ông đánh Đề-bà-đạt-đa sưng mày sưng mặt rồi ông kêu lại, dịu dàng đấm bóp, xoa dầu cho! Ổng xô Đề-bà-đạt đa té sấp, té ngữa rồi đến dỗ dành, ẵm bồng ra chiều từ ái. Ổng giết Đề-bà-đạt-đa chết rồi cho tái sanh làm người mới! Ổng để cho Đề-bà-đạt-đa thọ khổ chán chê rồi sau đó mới cho hưởng hạnh phúc, an vui!" Đại đức sẽ trả lời thế nào về điều ấy?
- Dễ dàng thôi, tâu đại vương! Cứ lý ấy của ngoại đạo sẽ bị tác dụng ngược lại khi ta chỉ cần đặt cho họ vài câu hỏi.
- Vâng, trẫm đang chú tâm lắng nghe đây.
- Đại vương hãy hỏi họ rằng: khi người mẹ dùng roi đánh đứa con một của mình - thì do bà ấy thương con hay ghét con?
- Thưa, người mẹ nào lại không thương con, nhất là đứa con một thì tình thương kia lại càng dạt dào, vô lượng. Sở dĩ bà phải đánh con là mong nó chừa bỏ một vài tật hư, tánh xấu nào đó; chỉ mong nó trở nên người lành, người tốt mà thôi!
- Tâm đại bi của Đức Thế Tôn đối với chúng sanh, đối với Đề-bà-đạt-đa cũng như người mẹ đối với con một của mình đấy, tâu đại vương!
- Hay lắm! Đại đức hãy cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Vâng, ví như đại vương là bậc minh quân của thiên hạ, trí bi gồm đủ; xử phạt, khen thưởng đều nghiêm minh, công bằng; tình lý đều cân phân, trọn vẹn. Bần tăng có nghe rằng, trong các khung hình phạt của đại vương đặt ra, có một tội ác được gọi là "tội nên cảnh cáo, tội nhằm để ngăn ngừa", bần tăng không rõ lý do làm sao mà đại vương đặt ra khung hình phạt ấy?
- Thưa, đấy là phạt tội nhẹ để ngăn ngừa tội nặng, ví như cắt xẻ một cái ung nhỏ, thà đau đớn chút ít nhưng ngăn ngừa được cái bệnh chết người trong mai hậu!
- Cũng vậy là Đức Phật cho phép Đề-bà-đạt-đa xuất gia, biết chia rẽ Tăng sẽ đọa địa ngục. Thà để cho Đề-bà-đạt-đa chịu đau khổ chút ít mà ngăn ngừa được khổ báo nặng nề nếu ông ta sống đời tại gia, tâu đại vương! Giới và định trong thời gian Đề-bà-đạt-đa xuất gia sẽ giúp cho ông ta sớm thoát khỏi khổ ách và sẽ thành Phật Độc Giác trong ngày vị lai.
- Đại đức còn ví dụ nào về điều ấy nữa không?
- Có chứ! Ví như có một tội nhân thụ án phải bị chặt đầu. Khi ấy có một vị quan thân tín của đại vương, được đại vương sủng ái, tin cậy, thường được đại vương ban cho nhiều đặc ân; tỏ vẻ tội nghiệp cho tội nhân ấy, bèn xin đại vương tha cho tội xử trảm, chỉ chặt một tay của người ấy thôi. Tâu đại vương! Theo ý đại vương thì vị quan ấy có thiện tâm hay ác tâm? Có tội lỗi hay không có tội lỗi?
- Y là người tốt sao gọi rằng có tội được!
- Đức Thế Tôn cũng ví như vị quan ấy, vì không nỡ để Đề-bà-đạt-đa thọ khổ lâu dài, tội báo kinh khiếp nên ngài tạo hoàn cảnh cho ông ta chỉ trả quả đau khổ chút ít. Vị quan là người tốt, có lòng từ thì Đức Thế Tôn quả là có tâm đại bi, tâu đại vương!
- Thật ra, ví dụ là để hiểu rõ thêm vấn đề thôi, chứ theo định luật nhân quả thì ai làm người ấy chịu, có phải thế không, đại đức?
- Đúng thế, tâu đại vương! Tuy nhiên, những hỗ trợ duyên bên ngoài cũng tác động và quyết định cho nhân kia được thành quả hay không được thành quả; có quả lớn hoặc quả nhỏ, quả được tăng trưởng hay quả bị hủy hoại! Kẻ tội phạm kia theo lẽ bị chặt đầu nhưng do nghịch duyên, có vị quan kia can thiệp nên quả trổ bị nhẹ đi. Đề-bà-đạt-đa đáng lẽ ra phải bị tội báo nặng hơn, nhưng nhờ giới định một thời hỗ trợ; vào phút cuối cùng lại có tâm hướng thiện hồi đầu, niệm ân đức của Đức Phật, đặt đức tin nơi Đức Phật; do vậy, thiện quả sẽ trổ sanh trong ngày vị lai cũng không lạ lùng gì. Sự vận hành ấy đúng với định luật nhân, duyên và quả cả vậy. Đại vương có nghi ngờ gì nữa chăng? Và ngoại đạo còn có thể dùng lý lẽ gì để xuyên tạc nữa chăng?
- Về câu hỏi này thế là đã được giải đáp một cách trọn vẹn, thưa đại đức. Bọn ngoại đạo thật không còn kẻ hở nào để chúng thò lý luận của chúng vào đấy được nữa!
* * *
93. Nghi vấn về sự Bố thí ba-la-mật
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng, quả địa cầu này bị rung chuyển, chấn động do tám nhân và tám duyên, có phải thế chăng?
- Đúng vậy.
- Ở một chỗ khác, khi nói đến sự bố thí ba-la-mật của bồ tát Vessantara, Đức Thế Tôn lại nói rằng: "Quả địa cầu rung chuyển và chấn động ở ngoài tám nhân và tám duyên ấy"; tức là một hiện tượng phi thường, đặc biệt, không nằm trong các điều kiện tự nhiên, bình thường!
- Quả đúng vậy!
- Thế thì trẫm không hiểu tại sao Đức Thế Tôn thuyết trước sau không như một?
- Đại vương! Vì tâm bố thí của bồ tát Vessantara là một sự kiện hy hữu, có năng lực vĩ đại làm cho quả địa cầu chấn động bảy lần; điều ấy vượt ngoài tầm hiểu biết của phàm phu, ở ngoài hiện tượng bình thường thuộc tám nhân và tám duyên, chớ có gì phải nghi vấn đâu!
- Vậy thì đó có phải là một sự kiện phi thời? Đại đức có thể cho nghe ví dụ được chăng?
- Được thôi! Ví như mỗi năm có 3 mùa: mùa nắng, mùa mưa và mùa lạnh. Mùa nắng thì trời nắng, mùa mưa thì trời mưa, mùa lạnh thì có tuyết rơi. Ấy là chuyện bình thường. Nhưng giả dụ không phải là mùa lạnh mà tuyết lại rơi, ấy là chuyện bình thường hay bất thường hở đại vương?
- Là bất thường.
- Vậy hiện tượng tuyết rơi bất thường ấy là đúng thời hay phi thời?
- Thưa, là phi thời!
- Cũng như thế ấy là chuyện bồ tát Vessantara, ngài bố thí ba-la-mật làm cho quả đất chấn động bảy lần là một hiện tượng phi thời ở ngoài tám nhân và tám duyên ấy, tâu đại vương!
- Đại đức cho nghe ví dụ nữa!
- Vâng, đại vương có biết chừng bao nhiêu sông to, sông nhỏ, sông đầy, sông cạn... phát xuất từ Hy-mã-lạp-sơn?
- Thưa, chừng năm trăm con sông như thế.
- Nhưng thật sự thì có chừng bao nhiêu con sông được gọi là sông?
- Thưa, có mười con sông được gọi là sông, đó là các sông Gangà, Yamunà, Aciravati, Sarabhù, Mahì, Sinadhu, Sarasavati, Etabhavatì, Itamsà, Chandabhàgà!
- Tại sao chỉ mười con sông ấy được gọi là sông?
- Vì mười con sông ấy có nước chảy thường xuyên, còn các sông còn lại, nước chảy không thường xuyên, thưa đại đức.
- Đại vương! Vì không thường xuyên nên gọi là phi thời. Bồ tát Vessantara với tâm đại thí cũng là hiện tượng phi thời nên ở ngoài tám nhân và tám duyên!
- Tức là không được liệt vào tám nhân và tám duyên bình thường ấy?
- Đúng thế.
- Đại đức cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Vâng, bần tăng xin hỏi thử đại vương: một vị Chuyển luân Thánh vương thường có chừng bao nhiêu quan lại?
- Thưa, không nhất định, có thể là hai trăm, có thể là ba trăm!
- Trong số ấy có bao nhiêu vị được gọi là quan đại thần?
- Chỉ có sáu thôi. Đó là vị giữ bảo kiếm, vị giữ cái lọng, vị giữ kho, vị thanh tra, giám sát, vị chính trị, quốc phòng, vị tướng lãnh cầm binh!
- Đại vương! Ngoài sáu vị quan đại thần đặc biệt ấy, các vị quan còn lại không được liệt vào chức danh đại thần như thế nào - thì việc quả đất rung chuyển bảy lần cũng thuộc loại đặc biệt, không được ghép vào tám nhân, tám duyên ấy. Sáu vị quan đại thần là sáu vị quan hy hữu, không phải là quan lại bình thường thì tâm đại thí của bồ tát Vessantara cũng thuộc loại hy hữu, phi thường! Bây giờ đại vương đã thông suốt chưa?
- Trẫm đã hiểu, nhưng còn muốn nghe thêm ví dụ về cái gọi là phi thời, đặc biệt và phi thường ấy.
- Vâng, ví dụ một người bố thí, cúng dường, được phước báu nhãn tiền, được kể là đặc biệt hay không đặc biệt?
- Dĩ nhiên đấy là cái gì thật phi thường.
- Đại vương có nhớ trong thời Phật, có những ai bố thí, cúng dường mà được phước báu nhãn tiền không?
- Thưa, có nhớ, chỉ có bảy người. Đó là người trồng hoa tên là Sumana, ông bà-la-môn Ekasàdaka dâng cái choàng tắm, hai người giúp việc là Punna và Punna, bà hoàng hậu Mallika, bà Gopala Màtadevi và bà cận sự nữ Suppiyà, thưa đại đức!
- Tại sao bảy người ấy có được phước báu đặc biệt, thù thắng như thế?
- Có lẽ là do tâm cúng dường của họ quá cao thượng chăng?
- Đúng vậy! Tâm đại thí của bồ tát Vessantara còn đặc biệt và thù thắng hơn cả bảy người kia, tâu đại vương! Cái tâm ấy có một năng lực phi thường, tạo một tác động mãnh liệt làm cho quả địa cầu phải bị chấn động. Ví như cái xe chở quá nặng; quá với sức tải của nó thì gọng và căm xe sẽ bị gãy, bánh sẽ bị cong và khung, sườn sẽ bị lệch đi. Ví như mưa quá nhiều và gió bão quá lớn thì bầu khí quyển sẽ có những âm thanh vang động. Đấy là một loại định luật ở ngoài các định luật thường nhiên, tâu đại vương!
- Cái tâm kia được tạo bởi cái gì mà tựu thành các năng lực phi thường như thế?
- Thưa, vì cái tâm ấy ở ngoài mọi sự chi phối của các thế lực. Cái tâm ấy không dẫn đến thế lực của tham ái, sân hận, si mê ngã chấp, tà kiến. Cái tâm ấy không nghĩ đến thỏa thích, an lạc cho riêng mình; chỉ cầu mong sự hoan hỷ vui tươi đến cho kẻ khác, tức là những người nhận được vật thí.
Thứ đến, cái tâm ấy lại được trưởng dưỡng, nung đúc, huân tập, tựu thành bởi các công đức và các thiện pháp sau đây: sự tự chủ, sự chế ngự, đức nhẫn nhục, sự thu thúc, sự kiểm soát, không sân hận, không hủy hoại, chơn thật, tinh khiết, có lòng từ.
Lại nữa, cái tâm ấy không miệt mài tìm kiếm ái dục, không thỏa thích tử sanh luân hồi, không còn mê đắm dục giới, sắc giới, vố sắc giới. Cái tâm ấy lại còn cầu mong cho chúng sanh hãy có lòng từ với nhau, đừng làm khổ lẫn nhau, có tài sản, được trường thọ. Khi bồ-tát Vessantara đại thí, ngài không mong lợi ích cho riêng mình, chẳng mong kết quả đời sau, chẳng tìm kiếm thêm của cải, lợi lộc, danh vọng, tiếng tăm, lời khen, được sức mạnh, chức phận, con cái, sanh mạng...! Đúng như Phật ngôn: "Này các thầy tỳ khưu! Khi Như Lai làm bồ tát Vessantara, bố thí hai con là Jàli và Kanhà cùng vợ Madalì tuyệt đỉnh thương yêu; Như Lai chẳng nghĩ đến kết quả Đế thích, Phạm thiên hoặc các pháp hữu vi nào khác. Sự thành tựu bồ đề tuệ là nguyện vọng duy nhất của Như Lai."
Nói tóm lại, bồ tát Vessantara thắng kẻ sân hận bằng không sân hận, thắng kẻ bất tịnh bằng thanh tịnh; thắng người keo kiệt, bỏn xẻn bằng xả ly, bố thí; thắng người giả dối bằng sự chân thật, thắng người ác bằng những pháp lành cao thượng...
Bởi tất cả cớ ấy, tất cả nguyên nhân ấy, tất cả pháp cao cả ấy phát sanh năng lực vĩ đại tác động giữa không gian tạo nên gió bão lớn. Gió bão lớn nên có âm ba vang động, làm cho sóng nước trong bốn biển dâng cao, mặt đất rung chuyển như địa chấn. Các loài động vật sống trên đất sợ hãi, ngơ ngác. Mèo buông chuột, rắn không cắn mồi, muông thú không còn có tâm cấu xé ăn nuốt lẫn nhau. Các loài thủy tộc cũng trong tình trạng y như thế...
Đại vương! Ví như người ta đun lửa nấu cơm, nước trong nồi sôi lên, sủi bọt như thế nào; thì bồ tát đại thí với tâm ba-la-mật cũng làm cho đất, nước, lửa, gió sôi lên và sủi bọt y như thế. Cả tứ đại đều chao động, chấn động.
Ví như tất cả các loài ngọc quí trên thế gian như ngọc Indanila, ngọc Mahànila, ngọc Jotirrassa, ngọc Bidùraya, ngọc Ummàra Pupphà, ngọc Manoharà, ngọc Sùriyakanda, ngọc Candakanda, ngọc Vajìra, ngọc hoàng thạch Pusarà, ngọc có vân, ngọc xích châu v.v... đều không quý bằng ngọc màni của Chuyển luân Thánh vương, tất cả sự bố thí của mọi người đều không bằng sự bố thí của bồ tát Vessantara. Sự bố thí ấy là vô lượng, vô biên, cao cả, thù thắng, vĩ đại, làm cho quả đất chuyển động bảy lần, ở ngoài tám nhân, tám duyên bình thường, ở trên sự hiểu biết, tư lường của trí óc phàm phu, tâu đại vương! Vậy ngài còn nghi ngờ gì điều ấy nữa không?
- Hoàn toàn thông suốt, tri ân đại đức.
* * *
94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
- Thưa đại đức! Trẫm nghe Đức Thế Tôn có thuyết rằng, đức vua Sìvi do móc hai mắt của mình bố thí cho người đến xin nên có được thiên nhãn! Điều này trẫm nghi ngờ lắm! Móc đi hai mắt, nghĩa là không còn tròng mắt, chẳng có con ngươi, thì không rõ thiên nhãn phát sanh chỗ nào?
- Đại vương! Đây là loại câu hỏi vượt ngoài tầm mức của lý trí, ở ngoài các định luật tự nhiên, không rõ đại vương có đầy đủ đức tin để lãnh hội chăng?
- Đại đức cứ nói.
- Vâng, có hai ba-la-mật là chân thật (sacca) và nguyện lực (adthitthàna) ở trong mười ba-la-mật, đại vương có biết chăng?
- Thưa, có biết.
- Nếu hai ba-la-mật này được kết hợp thành một khối nhất như, gọi là "nguyện lực chân thật" thì bất cứ chuyện gì trên thế gian này cũng đều được thành tựu như ý muốn, thưa đại vương!
- Xin đại đức nói cụ thể hơn một chút.
- Khi trời không có mưa thì với "nguyện lực chân thật" này, cầu cho trời có mưa, tức khắc mưa rơi xuống. Như lửa đang cháy, với “nguyện lực chân thật" cầu cho lửa tắt thì lửa sẽ tắt. Thậm chí bị chất độc họa hại sinh mạng, với “nguyện lực chân thật" thì chất độc cũng không còn. Nếu một dòng sông chảy xuôi, với "nguyện lực chân thật", nước có thể chảy ngược dòng! Điều ấy quả là khó tin phải không đại vương?
- Với mọi người thì khó tin, nhưng trẫm thì trẫm tin.
- Hay lắm! Đức vua Sìvì cũng như thế đó, tâu đại vương! Với “nguyện lực chân thật" nó tạo ra một năng lực siêu nhiên, năng lực siêu nhiên ấy làm cho đức vua phát sanh thiên nhãn. Chuyện khó tin nhưng có thật đấy, tâu đại vương!
Suy nghĩ một lát, đức vua lại hỏi:
- Những chuyện mà đại đức vừa nói, như mưa rơi xuống, lửa tắt, tiêu tan chất độc, dòng sông chảy ngược... Nói tóm lại là do nhân gì, duyên gì?
- Chính "nguyện lực chân thật" ấy là nhân, cũng chính "nguyện lực chân thật" ấy là duyên, tâu đại vương!
- Trong kinh có trường hợp nào cụ thể phát sanh năng lực siêu nhiên bởi nhân duyên "nguyện lực chân thật" ấy chăng, thưa đại đức?
- Thưa có! Đức vua danh hiệu là Cina, trị vì xứ Cina, có tâm mong muốn được dong xe ngựa ngao du trên biển cả, ngài bèn phát nguyện "nguyện lực chân thật" ròng rã bốn tháng trường như thế với tâm kiên trú bất thối. Hôm kia, bằng vào một niềm tin không lay động, đức vua dong ra biển trên một cổ xe có bốn ngựa kéo. Đức vua xứ Cina rất lấy làm thỏa thích, kể lại rằng, cỗ xe bốn ngựa ngao du trên biển xa chừng một do tuần, các làn sóng tạt lên gọng xe như nước tạt trên lá sen mà thôi. Đó là một chuyện, tâu đại vương.
- Trẫm muốn nghe thêm ví dụ cụ thể nữa.
- Đức vua Dhammasoka, hôm nọ, cùng với quân hầu ngự ra khỏi hoàng thành, thấy con sông nước chảy cuồn cuộn, chợt khởi lên ý nghĩ lạ thường rồi nói với quân hầu rằng:"Này các khanh, các khanh có thấy hoặc có biết ai trên thế gian này có khả năng làm cho con sông này nước chảy ngược lại chăng?"
Lúc ấy, ở bên sông có người kỹ nữ nghe được, cô ta bèn phát ngôn bằng "nguyện lực chân thật" như vầy: "Tôi đây làm nghề kỹ nữ, bốn mùa bán thân nuôi miệng, sở dĩ như vậy là vì tôi chỉ muốn duy trì mạng sống chứ không có lý do nào khác. Điều ấy là hoàn toàn chân thật. Nếu lời tôi nói đây là chân thật thì xin dòng sông này chảy ngược ngay bây giờ, ngay trước mặt cho đức vua Dhammasoka trông thấy!" Lời cô kỹ nữ vừa dứt, dòng sông tức khắc chảy ngược, đức vua kinh ngạc quá đổi, không rõ nguyên nhân tại sao!
Khi biết rõ dòng sông chảy ngược là bởi do cô kỹ nữ, đức vua kêu lại phán hỏi: "Cô là dạ xoa hay long vương mà có oai lực như thế?" Cô kỹ nữ kính cẩn thưa: "Đấy là do sức mạnh của sự nói thật, chứ không phải do oai lực của một phi nhân nào cả, tâu đại vương!" Đức vua không tin, bảo rằng: "Có gì ở nơi ngươi, mà ngươi bảo rằng "chơn ngôn" (lời nói chân thật)? Ngươi là người không có trí tuệ, bốn mùa chơi bời, dâm ô, không có nết hạnh! Ngươi chỉ biết cám dỗ tình dục mọi người, làm cho bao nhiêu đàn ông hư hỏng phải mê đắm, tan cửa nát nhà! Vậy có gì là đạo đức, hiền thiện ở nơi ngươi đâu mà dám bảo là "nguyện lực chân thật". Hãy nói cho trẫm nghe xem!" Cô kỹ nữ bèn đáp: "Tâu đại vương! Chính do tiện nữ nói thật nên "nguyện lực chân thật" kia mới tựu thành năng lực phi thường như thế!"
Nghe xong câu chuyện, đức vua Mi-lan-đà trầm ngâm:
- Qua các ví dụ của đại đức, bây giờ trẫm đã tin là đức vua Sìvi quả có phát sanh thiên nhãn do bố thí hai mắt bằng "nguyện lực chân thật" của mình. Thật là kỳ diệu vậy!
* * *
95. Hoài nghi về sự thụ thai
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: “Tất cả chúng sanh, ví dụ là người nữ, muốn thụ thai phải hội đủ ba yếu tố: cha mẹ giao hợp, đến kỳ bà mẹ có kinh nguyệt và chúng sanh đầu thai nương gá. Thiếu một trong ba yếu tố ấy thì không thể thụ thai." Có phải vậy chăng?
- Đúng vậy.
- Nếu thế thì trẫm nghi lắm. Cũng trong kinh, có kể trường hợp thụ sanh của đạo sĩ Singa và đạo sĩ Sankicca. Mẹ của hai đạo sĩ ấy là một con nai cái, do vì ăn cỏ có dính tinh từ nước tiểu của một đạo sĩ ẩn tu mà có thai rồi sinh ra. Trường hợp này thì có hai yếu tố sau, thiếu yếu tố đầu tiên, thế sao việc thụ thai vẫn xảy ra?
- Cha mẹ giao hợp là để có tinh xuất, nhưng trường hợp nai cái ăn cỏ có dính tinh cũng kể vào yếu tố thứ nhất ấy, tâu đại vương!
- Thưa, nai ăn cỏ có dính tinh, tinh ấy vào dạ dày, tiêu hóa theo đường ruột thì đâu có liên hệ gì ở bộ phận cấu sanh của phôi thai? Điều ấy trẫm không hiểu!
- Bần tăng cũng không hiểu. Nhưng bần tăng nghĩ rằng đây là trường hợp cá biệt, có thể có một sự cấu tạo đặc biệt nào đó ở cơ thể của nai cái chăng? Điều ấy không phải là không thể xảy ra, tuy nhiên, có tinh, được kể là yếu tố thứ nhất, tâu đại vương!
- Tạm thời trẫm đồng ý như vậy. Và đấy có phải cũng tương tự như trường hợp thọ sanh của ngài Ca diếp đồng tử (Kumàra kassapa)?
- Đúng vậy! Tỳ khưu Udàyi vì thấy dung sắc của một vị tỳ khưu ni, phát tâm luyến ái, thỏa thích làm cho tinh xuất, dính vào y ca-sa. Tỳ khưu ni ấy lại lấy tinh nhét vào tử cung, nhét vào miệng vô cùng khoái lạc nên đã thụ thai, hạ sanh trẻ Kassapa mà sau này được tôn xưng là ngài Ca diếp đồng tử. Trường hợp ấy cũng xem như hội đủ ba yếu tố đấy, tâu đại vương!
- Thế còn chuyện đạo sĩ Màtanga chỉ rờ rẫm nơi bụng một nữ bà-la-môn mà làm cho nữ bà-la-môn kia mang thai, sanh con, đặt tên là Mandabya thì sao?
- Trường hợp này cũng như trường hợp đạo sĩ Dukala sờ vào bụng nữ đạo sĩ Pàrikà mà thụ thai, sinh ra đức Sàma không khác. Cả hai trường hợp trên đều hội đủ ba yếu tố, nhưng chúng ta phải hiểu là còn có thêm năng lực bên ngoài hỗ trợ nữa.
- Xin đại đức kể cho nghe trường hợp ấy.
- Vâng! Chuyện khá dài đấy, không rõ đại vương nghe có mệt chăng?
- Không sao, nghe giáo pháp vừa là "thức thực" vừa còn có hỷ lạc nữa đấy, thưa đại đức.
- Đạo sĩ Dukala và đạo sĩ Pàrika vốn là hai vợ chồng nhưng họ tình nguyện rời bỏ ngũ dục vào rừng sâu kết cỏ làm nhà, xuất gia phạm hạnh. Họ ở mỗi người mỗi mơi riêng biệt, giữ giới luật nghiêm túc, tinh cần thiền định. Vua trời Đế thích với thiên nhãn của mình, thấy đời sống tịnh tu của họ, ngài vô cùng ái mộ, sớm chiều thường hiện xuống cung kính hầu hạ. Hôm kia, trời Đế thích quán xét biết rằng, trong tương lai cả hai vị đạo sĩ tôn kính này sẽ bị mù lòa, do vậy việc kiếm tìm trái cây nuôi mạng sẽ vô cùng khó khăn. Với tâm bi mẫn và lòng từ vô lượng, trời Đế thích cung thỉnh hai đạo sĩ nên sinh một đứa con để làm chỗ nương tựa cho tuổi già mai hậu. Hai vị đạo sĩ kiên quyết giữ phạm hạnh không chịu phá giới. Lần thứ hai, trời Đế thích ân cần thưa thỉnh, tiết lộ hoàn cảnh tương lai khó khăn của hai người, nếu không con thì hòan cảnh sẽ khốn đốn. Hai vị đạo sĩ khăng khăng chối từ. Lần thứ ba, trời Đế thích đã mất công vô ích mà còn được hai vị đạo sĩ phân trần về chí nguyện của họ. Họ nói rằng:”Này bạn, không những bạn khuyên chúng tôi làm một việc không có lợi ích mà còn tai họa đến phạm hạnh của chúng tôi nữa. Bạn biết không, cái gì đến thì nó cứ tự đến, chúng tôi không hề sợ hãi tránh né bao giờ, dù là tổn nguy đến sanh mạng. Lòng từ ái của bạn là rất tốt nhưng quả thật nó đã được đặt không nhằm chỗ. Mặt trời, mặt trăng kia có thể rơi xuống, quả đất này có thể sụp đi, núi Tu di kia có thể tan vỡ như hạt bụi - nhưng phạm hạnh của chúng tôi thì chẳng ai có thể phá hủy được. Chúng tôi rất cảm ơn bạn, nhưng xin bạn hãy đi đi, ở đây không phải là nơi để bạn lui tới nói những lời trống không, phù phiếm như thế."
Biết không lay chuyển được chí nguyện sắt đá của hai vị đạo sĩ, trời Đế thích bèn hiện ra thân tướng trang nghiêm, chói sáng, uy nghi rồi thú thật mình chính là Đế thích Thiên vương. Hai vị đạo sĩ vô cùng kinh ngạc. Đế thích cũng chẳng dấu diếm gì nữa, nói rằng, ngài có khả năng biết chuyện quá khứ, vị lai; biết rằng trong nay mai cả hai vị đạo sĩ sẽ bị mù cả hai mắt, thật không dễ gì kiếm vật thực nuôi mạng. Thiện chí của ngài hoàn toàn không phải vì mục đích phá hủy phạm hạnh của họ, chỉ mong họ có người để nương tựa lúc tuổi già mù lòa sức yếu mà thôi. Lời chí tình của Đế thích cũng không thể làm cho hai vị đạo sĩ lay động tâm. Cuối cùng, Đế thích phải năn nỉ, rằng chỉ cần đạo sĩ Dukala đặt tay lên bụng của nữ đạo sĩ Pàrikà vào kỳ kinh nguyệt - thì ngài có khả năng làm cho họ được sinh con! Thấy một vị Thiên vương chí tôn mà phải hạ mình cầu khẩn chí tình như thế, đạo sĩ Dukala không nỡ chối từ nữa, nghĩ rằng chỉ cần đặt tay lên bụng, phạm hạnh dẫu có bị hoen ố nhưng chưa phải là hoàn toàn bị phá hủy, nên nhận lời...
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Rồi sau đó, bồ tát Sàma của chúng ta giáng sanh ư ?
- Thưa, chẳng phải đơn giản như thế. Được sự ưng thuận của hai vị đạo sĩ rồi, Đế thích trở lại thiên cung, dùng thiên nhãn quán xét xem thử vị trời nào có nhiều công đức ba-la-mật, nhiều trí tuệ mà tuổi thọ sắp mãn, có khả năng lai sanh bất cứ nơi nào... Chỉ gặp được một vị trời hội đủ nhiều yếu tố như thế, Đế thích lại một phen nữa lao đao vất vả đến mời thỉnh vị thiên tử ấy giáng phàm...
- Và đấy chính là đức Sàma!
- Phải rồi! Nhờ lúc ấy bồ tát Sàma biết tuổi thọ mình sắp mãn, đang quan sát trong bốn châu thiên hạ xem có chỗ nào nên hạ sanh. Đế thích trình bày hoàn cảnh của hai đạo sĩ mù nay mai trong rừng sâu, rồi thỉnh nguyện Bồ tát thai sinh để bổ túc ba-la-mật của mình. Bồ tát Sàma nhận lời. Và sau khi hẹn ngày, nữ đạo sĩ Pàrikà có kỳ kinh nguyệt, đạo sĩ Dukala đưa tay sờ vào bụng, tức khắc bồ tát Sàma đầu thai cấu sanh. Như vậy, thai sinh ấy vẫn hội đủ ba yếu tố, nhưng ở đây có năng lực hỗ trợ của trời Đế thích, tâu đại vương!
- Vậy thì trẫm hiểu rồi! Nếu không có năng lực thần kỳ của trời Đế thích thì làm sao mà giải thích cho kẻ phàm phu hiểu được. Nhưng ngoài nguyên nhân ấy còn có nguyên nhân nào về sự đầu thai của chúng sanh nữa chăng?
- Thưa, tất cả chỉ có bốn nguyên nhân, tâu đại vương! Ây là nguyên nhân do sức tác động của nghiệp, do cách sanh và chỗ sanh khác nhau, do chủng loại, dòng họ khác nhau, và thứ tư là do được thỉnh mời.
- Thế nào là do sự tác động của nghiệp, thưa đại đức?
- Dĩ nhiên, nghiệp quyết định tất cả các cảnh thú tái sanh trong sáu đường, nhưng ở đây chỉ muốn nói đến hạng chúng sanh có thiện căn, tích trữ nhiều phước báu; họ có khả năng đến chỗ nào y như ước muốn, y như quyết tâm mong mỏi, tâu đại vương! Ví dụ họ muốn hóa sanh lên các cõi trời, sanh vào dòng vua chúa uy quyền cao sang hay sanh vào các gia đình bà-la-môn danh vọng, giàu có v.v... đều có thể được, không trở ngại gì!
- Có thể dễ dàng như thế sao?
- Vâng, rất dễ dàng. Ví như có một người giàu nứt đố đổ vách, châu báu ngọc ngà, tài sản, kho đụn chẳng biết để đâu cho hết. Đại vương nghĩ thế nào, nếu người giàu có ấy muốn mua một xóm nhà lớn, xóm nhà nhỏ, muốn mua tôi trai hoặc tớ gái thì có dễ dàng thỏa nguyện chăng?
- Dĩ nhiên là được!
- Cũng như thế là người có nhiều công đức, phước báu, có nhiều thiện pháp; họ muốn sanh xứ chỗ nào, gia tộc nào đều dễ dàng như ước muốn, tâu đại vương!
- Cái gọi là cách sanh, chỗ sanh là như thế nào, thưa đại đức?
- Nguyên nhân này kỳ lạ lắm, tâu đại vương! Chỉ có bậc Toàn Giác mới thấy rõ, biết rõ. Ví như có chúng sanh được sanh ra từ bụng, từ âm xứ của người nữ, của giống cái; có chúng sanh - như chư thiên - thì hốt nhiên hóa sanh, kẻ thì từ vườn hoa, kẻ trong bảo điện, kẻ ở chỗ ngồi, kẻ thì ở xung quanh hoặc từ phòng riêng của vị thiên tử v.v... Ví như con gà khi cấu sanh phải có sự hỗ trợ của gió. Ví như con cò, con vạc khi cấu sanh phải có sự hỗ trợ của sấm sét v.v... Thật là thiên hình vạn trạng, khó biết hết, khó thấy hết. Đại vương cứ thử tưởng tượng loài người sinh sống trên mặt đất, màu da, sắc phục, hình tướng, cách trang điểm khác nhau, phong phú như thế nào thì chỗ sanh, cách sanh cũng phong phú và đa dạng như thế ấy.
- Thế chủng loại, dòng họ là thế nào, thưa ngài?
- Điều này thì đại vương biết rồi, đấy là noãn thai, thấp, hóa, tức là được sinh ra từ trứng, từ thai bào, chỗ ẩm thấp hoặc được sinh ra do hóa mà sanh tức là tự hiện ra. Noãn sanh là như gà, chim... Thai sanh như người và các loài thú bốn chân: hươu, nai, heo, bò v.v... Thấp sanh như rệp, rận, quăn v.v... Hóa sanh như chư thiên các cõi trời... Nếu chúng sanh ở chủng loại, dòng họ nào thì hành tướng, sanh nghiệp đều thuộc về chủng loại, dòng họ ấy. Ví dụ thuộc loài từ trứng sanh thì phải có nghiệp, có tướng tương đồng. Các chủng loại, dòng họ khác nhau cũng y như thế đó, tâu đại vương!
- Cuối cùng là do thỉnh mời, như trường hợp bồ tát Sàma của chúng ta. Nhưng trẫm không rõ trường hợp nào được thỉnh mời, có điều kiện nào cho việc thỉnh mời ấy thành tựu? Và cuối cùng là lợi ích thù thắng của nó ra sao?
- Câu hỏi này rất hay, thưa đại vương! Trường hợp được thỉnh mời phải đầy đủ ba điều kiện mới thực sự thành tựu và thực sự đem đến lợi ích lớn. Thứ nhất là người thỉnh mời phải có nhiều oai lực, nhiều phước báu, nhiều tâm từ. Thứ hai, người được thỉnh mời phải là vì thiên tử đầy đủ công đức ba-la-mật, nhiều trí tuệ và có nguyện lực tái sanh độ thế. Thứ ba là gia tộc được chọn lựa để đầu thai phải có giới đức thanh tịnh, đức tin tròn đủ, đã tu tạo nhiều thiện pháp. Nếu thiếu một trong ba điều kiện ấy thì việc thỉnh mời sẽ bất thành, tâu đại vương!
- Đại đức có ví dụ cụ thể nào chăng?
- Thưa có, tâu đại vương. Ví như có một người làm ruộng giỏi giang, biết chăm chuyên cần mẫn, lựa hạt giống tốt, gieo vào thửa ruộng tốt, phân nước đầy đủ; đến khi gặt hái thì năng suất lúa sẽ bội thu, có phải thế không, thưa đại vương?
- Đúng vậy.
- Người làm ruộng được ví như trời Đế thích, hạt giống tốt ví như bồ tát Sàma của chúng ta và thửa ruộng tốt được ví như đạo sĩ Dukhala và nữ đạo sĩ Pàrikà. Đầy đủ các điều kiện tốt ấy thì có lợi ích cho chư thiên và nhân loại không, thưa đại vương?
- Dĩ nhiên là quá nhiều phước lành do duyên kết hợp ấy.
- Phưóc lành do sự kết hợp ấy quả là hy hữu, tâu đại vương! Từ xưa đến nay, trời Đế thích chỉ thỉnh mời có bốn người, đấy là đức vua Kusa, đức vua Mahàpahànàda, bồ tát Suvanna Sàma trong câu chuyện vừa rồi và bồ tát Vessantara là kiếp áp chót của Phật Thích ca mà thôi!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ, bèn tán thán:
- Thật là thù thắng làm sao là sự giải đáp tận tình, cặn kẽ của đại đức! Trẫm rất lấy làm thỏa thích và sung sướng vậy.
96. Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại
- Thưa đại đức! Khi Đức Thế Tôn cho phép nữ giới vào tu, ngài có nói là giáo pháp chỉ còn tồn tại năm ngàn năm. Nhưng khi sắp Niết bàn, Đức Thế Tôn lại nói với Subhaddà rằng: chừng nào chư tỳ khưu đệ tử của Như Lai, có đức tin đầy đủ, biết thực hành đúng đắn giáo pháp của Như Lai thì chừng ấy trong thế gian sẽ không mất quả vị A-la-hán! Thưa đại đức! Tại sao Đức Thế Tôn thuyết lời nói sau lại ngược với lời nói trước? Tại sao Đức Thế Tôn lại thuyết hai lời, trước sau không như một, làm cho kẻ hậu học không xiết nghi ngờ; và kẻ ngoại đạo sẽ lấy lý do ấy để dị luận, tiếu đàm giáo pháp của đức Tôn Sư?
- Tâu đại vương! Quả là hai lời ấy Đức Thế Tôn đều có thuyết. Và quả thật, Phật ngôn ấy ý nghĩa không đồng nhau, có ý nghĩa khác nhau, văn tự, ngữ nghĩa đều khác nhau. Nó xa nhau, khác nhau và cách biệt nhau lắm. Ví như đất và trời, ví như bảo điện chốn thiên cung và hỏa lò nơi địa ngục; ví như vui với khổ, như tội với phước, như có đức và thất đức v.v... Bần tăng xin xác nhận sự thật ấy!
- Thế ra đại đức cũng đồng ý sự mâu thuẫn giữa hai Phật ngôn của Đức Tôn Sư?
- Đại vương, đại vương hiểu thế nào, khi Đức Thế Tôn tuyên bố giáo pháp chỉ còn tồn tại năm ngàn năm, là ngài tiên tri về thời gian giáo pháp tiêu hoại hay là ngài có ý ngăn cấm sự giác ngộ đạo qủa?
- Dĩ nhiên Đức Tôn Sư chỉ nói đến thời hạn giáo pháp tiêu hoại thôi.
- Đúng thế, Đức Thế Tôn nói đến thời kỳ tiêu hoại giáo pháp như là ranh giới không có phần dư, nhưng "phần còn lại" thì Đức Thế Tôn chưa nói đến, tâu đại vương!
- Cái gì là "phần còn lại" thưa đại đức?
- Ví như có một người gia chủ biết rằng tài sản của mình ba năm nữa là tiêu hoại, nhưng y không thối chí, ngã lòng, ăn tiêu cần kiệm, cố gắng làm ăn tích lũy thì thời hạn ba năm ấy có đúng chăng, đại vương?
- Sẽ kéo dài, và thời kỳ tiêu hoại sẽ lâu hơn.
- Nhưng giả dụ y cứ tiếp tục phung phí, ăn tiêu xa xỉ thì thế nào hở đại vương?
- Thời gian tiêu hoại sẽ rút ngắn lại.
- Cũng vậy là ý nghĩa đằng sau lời tuyên bố của Đức Thế Tôn. Giáo pháp năm ngàn năm nữa là tiêu hoại, nhưng nếu chư tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam nữ chuyên tâm tu thiền định, thiền quán, tu tứ vô lượng tâm, cần cầu sự giác ngộ, giải thoát thì thời hạn kia chắc chắn sẽ được kéo dài, phải thế không, đại vương?
- Đúng thế.
- Và nếu tứ chúng đệ tử sống buông lung, phóng dật, chẳng chịu tu tập gì cả thì thời hạn kia sẽ thế nào, hở đại vương?
- Dĩ nhiên là giáo pháp sẽ nhanh chóng tiêu hoại hơn thế nữa.
- Vậy thì hai lời tuyên bố của Đức Thế Tôn ở trên mặc dù văn tự khác nhau, ngữ nghĩa khác nhau, dường như nó mâu thuẫn nhau, nhưng lại bổ túc ý nghĩa cho nhau, tâu đại vương!
- Thưa, trẫm đã hiểu nhưng trẫm còn muốn nghe ví dụ nữa.
- Vâng, ví như một cái hồ với sức chứa như vậy, mạch nước rỉ ra hằng ngày như vậy thì khi mùa hạ đến, chừng vài tháng là hồ cạn; nhưng nếu năm, bảy ngày lại có những trận mưa lớn thì thời hạn cạn nước của cái hồ kia sẽ thế nào, hở đại vương?
- Dĩ nhiên là có thể kéo dài thêm một tuần, hai tuần hoặc một tháng, hai tháng nữa cũng chưa biết chừng!
- Cái hồ chính là giáo pháp, thời hạn khô nước chính là giáo pháp đến thời phải tiêu hoại, nước mưa tuôn đổ thêm chính là phẩm hạnh tu tập của tứ chúng. Nếu tứ chúng tu hành đúng đắn, thực hành trọn đủ và nghiêm túc về giới, về định, về tuệ thì giáo pháp sẽ lâu dài hơn năm ngàn năm; và bốn đạo, bốn quả, sẽ còn tồn tại trên thế gian lâu dài hơn thời hạn giáo pháp bị tiêu hoại, có phải vậy không, đại vương?
- Vâng, đúng thế!
- Lại nữa, ví như một đống lửa lớn được cháy bởi củi khô, lá khô, rác khô! Đống lửa ấy sẽ tàn nếu như củi lá và rác ấy bị cháy hết. Nhưng nếu thỉnh thoảng ta bỏ vào đống lửa ấy thêm rác, thêm củi, thêm lá thì đống lửa ấy sẽ lâu tàn hơn, phải vậy không, đại vương?
- Thưa vâng!
- Đống lửa này được ví là giáo pháp. Thời gian tiêu hoại của giáo pháp ví như đống lửa tàn sau khi hết nhiên liệu. Củi, lá, rác được bỏ thêm vào được ví là những giới đức, phẩm hạnh, sự tinh cần tu tập của tứ chúng. Và như thế thì dẫu giáo pháp năm ngàn năm bị tiêu hoại, nhưng nếu tứ chúng thực hành chánh pháp một cách nghiêm túc, có hiệu quả thì quả vị A-la-hán sẽ còn tồn tại lâu dài! Đại vương còn hoài nghi gì nữa chăng?
- Vâng, trẫm không còn hoài nghi gì nữa. Trẫm chỉ còn một thắc mắc nhỏ chưa hiểu rõ mà thôi, ấy là sự tiêu hoại của chánh pháp. Nói cho dễ hiểu là chánh pháp bị tiêu hoại được biểu hiện bởi những tiêu hoại gì?
- Vâng, sự thắc mắc của đại vương rất chính xác. Có ba sự tiêu hoại cả thảy. Ây là tiêu hoại sở đắc, giác ngộ. Thứ hai là tiêu hoại về hạnh kiểm, giới luật. Thứ ba là tiêu hoại về tăng tướng, phẩm mạo, tâu đại vương.
- Xin đại đức giảng cho nghe thế nào là tiêu hoại sở đắc, giác ngộ?
- Vâng! Ây là khi mà tứ chúng không còn kiên tâm trì chí thực hành giáo pháp cho đến nơi đến chốn. Chúng chỉ thực hành cho có lệ, được chút gì hay chút ấy, vì vậy chúng không còn có khả năng chứng ngộ đạo quả. Điều ấy được gọi là sự tiêu hoại sở đắc, giác ngộ, thưa đại vương!
- Trẫm đã hiểu. Còn thế nào là tiêu hoại hạnh kiểm, giới luật?
- Đấy là vào thời mà tứ chúng khinh thường những giới điều nhỏ, không thực hành, không tôn trọng những giới cấm lớn. Chúng mất tư cách, thiếu phẩm hạnh, thiếu hạnh kiểm, phá giới luật ... như vậy được gọi là sự tiêu hoại giới luật, hạnh kiểm, tâu đại vương!
- Thế còn điều thứ ba: Sự tiêu hoại tăng tướng, phẩm mạo?
- Tâu đại vương! Đến một lúc nào đó, Tăng chúng không còn mặc y cà-sa nữa. Chúng viện cớ phương tiện, việc cớ đi lại khó khăn, việc cớ "phá tướng", nên không còn thích mặc y cà-sa vướng víu ở trên người, chúng thích mặc áo thế tục. Đến lúc ấy, chiếc y cà-sa màu vàng chỉ còn là một mảnh vải vàng tượng trưng, vắt qua lỗ tai mà thôi. Rồi đến lúc, chút vải vàng ấy cũng không còn nữa, ấy được gọi là tiêu hoại tăng tướng, phẩm mạo, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ:
- Cảm ơn đại đức đã giàu lòng bi mẫn, với nhiều câu ví dụ thiện xảo đã phá nghi cho trẫm.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:47:02 GMT -5
97. Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn đắc thành vô thượng bồ đề tuệ, ngài thiêu hủy tất cả ác pháp "một cái một" phải không? Hay là ác pháp còn dư sót chút ít?
- Đức Tối-thượng-giác đã tận diệt tất cả mọi nguyên nhân của nghiệp ác, không còn dư sót, ngài dứt "một cái một", tâu đại vương rõ!
- Không còn dư sót bất cứ một nghiệp ác nào, như vậy có nghĩa là ngài chẳng còn bị trả qủa đau khổ, dẫu là một chút ít, có phải thế không, thưa đại đức?
- Đau khổ chút ít ở nơi thân thì có - còn ở nơi tâm thì hoàn toàn không!
- Xin đại đức cho ví dụ cụ thể.
- Vâng! Thưa đại vương! Như một lần nọ, khi Đề-bà-đạt-đa xô tảng đá từ trên núi xuống cố ý làm hại Đức Phật; tảng đá ấy va đụng tảng đá khác, một mảnh nhỏ đã văng trúng chân Đức Phật làm cho chân ngài bị bầm máu sưng lên. Như vậy là Đức Phật bị đau chân. Ngài đau chân, tức là đau ở nơi thân, còn tâm giải thoát của ngài thì chẳng bị đau bao giờ. Một lần khác, tại xứ Veluvana, Đức Phật bị bệnh ra máu, sau đó có ông thầy thuốc dâng thuốc cầm máu cho ngài. Lần khác nữa, do phong đại thịnh, Đức Phật bị bệnh, ngài Ànanda dâng nước nóng cho Đức Phật uống. Cả hai trường hợp sau Đức Phật đều chỉ bị đau chút ít ở nơi thân mà thôi, tâu đại vương!
- Thưa đại đức! Trẫm không đồng ý như thế! Có thọ khổ chút ít vậy tức là còn khổ rồi. Nếu Đức Thế Tôn đã chấm dứt tất cả ác pháp để thành Phật Chánh Đẳng Giác - thì làm gì còn ác nghiệp để phải bị trả quả đau khổ, dầu là chút ít? Trẫm nghi ngờ lắm. Nghi ngờ rằng Đức Thế Tôn thiêu hủy tất cả ác pháp để thành Phật quả là không đúng chăng? Nghi ngờ rằng Đức Chánh Đẳng Giác mà còn thọ khổ bệnh là không đúng chăng? Hai mối nghi ấy mâu thuẫn nhau, là hai khía cạnh chống đối nhau. Vậy nhờ đại đức hãy phá nghi cho trẫm.
- Không có mâu thuẫn đâu, thưa đại vương! Sự thọ khổ do ác nghiệp ở nơi Đức Thế Tôn đã hoàn toàn được tận diệt, đó là điều chắc thật. Còn những thọ khổ khác nó còn có bảy nguyên nhân phát sanh, không phải do quả của nghiệp, thưa đại vương!
- Ây là những nguyên nhân gì?
- Thưa, đó là phát sanh bởi gió, bởi mật, bởi đàm, cơ thể bị chi phối bởi nhiều tâm trạng, bởi thời tiết thay đổi, bởi oai nghi không đều, bởi cơ thể bị nhiều sự co thắt v.v...
- Làm thế nào để phân biệt được sự thọ khổ nào là phát sanh bởi nghiệp và sự thọ khổ nào là không phát sanh bởi nghiệp, thưa đại đức?
- Có thể phân biệt được, tâu đại vương! Sự thọ khổ do bảy nguyên nhân kể trên nó chỉ phát sanh trong hiện tại, còn sự thọ khổ do ác nghiệp nó liên hệ từ quá khứ đến vị lai.
- Xin đại đức giảng giải cho rõ ràng hơn.
- Vâng, ví dụ sự thọ khổ phát sanh bởi gió. Vì phát sanh bởi gió nên nó chỉ phát sanh trọng hiện tại. Trong hiện tại thì sự thọ khổ ấy bị tác động do lạnh quá, do nóng quá, do thọ dụng quá độ, do đứng lâu quá, do ngồi lâu quá, do chạy nhiều quá, do nằm nhiều quá, do làm việc nhiều quá, do cố gắng quá sức .v.v... Sự thọ khổ ấy chỉ phát sanh trong hiện tại, không phát sanh từ quá khứ đến vị lai nên không phải là quả của ác nghiệp, tâu đại vương!
- Sự thọ khổ phát sanh do mật, do đàm, do thời tiết đổi thay, do oai nghi không đều - đều y như thế?
- Thưa, vâng! Nói tóm lại, sự thọ khổ phát sanh do nghiệp quả thì ít hơn, còn sự thọ khổ phát sanh do nhiều nguyên nhân khác trong hiện tại thì nhiều hơn, thưa đại vương!
- Thưa đại đức! Trẫm đã hiểu sự thọ khổ chút ít của Đức Thế Tôn do gió, do mật, do đàm ... là phát sanh trong hiện tại, không phải quả của ác nghiệp. Nhưng trường hợp Đề-bà-đạt-đa xô tảng đá xuống làm Đức Phật chảy máu chân, bầm tím và đau ... chúng ta phải hiểu thế nào, do ác nghiệp hay do nguyên nhân khác?
- Đại vương! Trước khi muốn hiểu cho thấu đáo trường hợp ấy, đại vương có thể cho bần tăng biết, nghiệp là gì không?
- Thưa, nghiệp chính là tác ý, là khởi tâm!
- Đề-bà-đạt-đa lăn đá làm hại Phật là tác ý của Phật hay là tác ý của Đề-bà-đạt-đa?
- Của Đề-bà-đạt-đa!
- Đúng vậy! Và giả dụ Đề-bà-đạt-đa kết oan trái với Phật từ quá khứ thì đấy là nghiệp của Đề-bà-đạt-đa hay nghiệp của Phật?
- Của Đề-bà-đạt-đa!
- Đại vương! Vậy là đại vương đã tự trả lời! Đề-bà-đạt-đa gây nhân dữ thì bị quả xấu - còn Đức Thế Tôn vì đã chấm dứt tất cả mọi ác nghiệp nên không còn bị khổ báo nữa, đấy là sự thật hiển nhiên vậy.
- Nhưng dù sao thì Đức Thế Tôn cũng bị thọ khổ, thưa đại đức!
- Tâu đại vương! Vì Đức Thế Tôn còn mang thân xác hữu vi nên những thọ khổ ấy là những tác động đương nhiên của các định luật nhiên giới, không thể bảo là thọ khổ do ác nghiệp được!
- Đại đức có ví dụ nào về điều ấy chăng?
- Vâng, có! Ví như có một người làm ruộng. Người ấy được có kẻ cho ruộng và có kẻ cho lúa giống! Khi ruộng đã được cày bừa xong, người kia gieo lúa giống vào đám ruộng ấy. Thời gian sau, lúa ấy không phát triển được tốt, vậy là lỗi do người cho ruộng hay là lỗi do kẻ cho lúa giống hở đại vương?
- Thưa, thật khó nói là do lỗi của ai, thật khó nói là do nguyên nhân nào!
- Vâng, đúng thế! Lại nữa, ví như có người ăn vật thực vào, cảm thấy không được an vui vì tức hơi, đầy bụng! Có thể nào người ấy lại đổ lỗi cho cái bụng, hoặc đổ lỗi cho vật thực, hở đại vương!
- Thật không thể!
- Vậy thì tại sao sự thọ khổ ở nơi thân chảy máu của Đức Thế Tôn, đại vương lại dám bảo do một nguyên nhân là ác nghiệp?
- Vâng, thật không thể!
- Đại vương! Sống giữa cõi đời này, còn mang thân xác tứ đại, còn cảm thọ, còn tri giác ... nên phải nhận chịu các định luật tương tác ở chung quanh của nhiên giới, của xã hội và con người. Những chuyện trái ý nghịch lòng, được mất, hơn thua, khen chê ... rơi xuống thân tâm chúng ta cũng giống như những viên đá từ hư không rơi ruống mặt đất. Mặt đất đâu có tạo nghiệp gì mà phải bị như thế, hở đại vương?
- Mặt đất làm sao lại tạo nghiệp được!
- Cũng dường như thế ấy là viên đá làm chảy máu chân Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn chẳng tạo nghiệp gì từ trước cả và chính khi bị viên đá làm chảy máu chân, Đức Thế Tôn vẫn với tâm giải thoát, tuệ giải thoát đấy, đại vương! [*]
- Thưa, vậy chính là do Đề-bà-đạt-đa tự gây nhân ác?
- Vâng, y gây nhân ác thì chính y phải chịu quả khổ chứ chẳng liên hệ gì Đức Thế Tôn cả.
- Vâng, giờ thì trẫm đã hiểu rồi!
- Đại vương! Đức Thế Tôn có thuyết trong kinh Samyutta Nikàya như là cái dấu ấn của đức vua để minh thuyết cho lời bần tăng vừa nói. Đó là: "Này bà-la-môn Sivaka! Tất cả những thọ khổ ở nơi thân hoặc do gió phát sanh hoặc do đàm phát sanh hoặc do mật phát sanh hoặc do thời tiết thay đổi v.v... Tất cả thọ khổ ấy ngươi phải cần thấy như thật, rằng là, có thể chúng là nhân, có thể chúng là duyên, hỗ trợ, tương tác mà thành. Sự thọ khổ ấy đừng vội quy kết là do nghiệp, như một số sa môn, bà-la-môn vì không thấy rõ các định luật tự nhiên mà tuyên bố rằng: "Người đời hằng thọ vui, thọ khổ hoặc không vui không khổ, tất thảy đều do nghiệp đã làm từ trước!". Các sa môn, bà-la-môn ấy đã chạy vượt quá sự hiểu biết của mình, đã không có trí tuệ lại tự xưng là có trí tuệ, họ đã sai lạc và rơi vào tà kiến vậy".
- Cảm ơn đại đức đã mở con mắt sáng cho trẫm.
[*] Theo bộ chú giải Apàdàna, phần Budthapadàna, thời quá khứ Bồ tát xô đá giết chết em trai của mình. Nên đây là nghiệp còn dư sót.( chỗ này dường như có mâu thuẫn)
* * *
98. Đức thế tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa?
- Thưa đại đức! Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, nghe nói Đức Thế Tôn còn nhập định ở đấy ba tháng [*] nữa phải chăng?
- Thưa vâng!
- Đã là bậc Chánh Đẳng Giác, nghĩa là ngài đã thành tựu trọn vẹn và viên mãn tất cả mọi công hạnh, thế thì ngài còn nhập định ba tháng để làm gì nữa? Ngài còn tu tập, còn tự huấn luyện mình như thế nghe có kỳ dị chăng, có mâu thuẫn chăng, thưa đại đức? Trẫm có nghe rằng, người không đau thì không cần thuốc, người không đói thì không cần ăn cơm? Ở đây chẳng lẽ nào đấng Toàn Tri Diệu Giác không đau, không đói mà vẫn dùng thuốc, dùng cơm? Đã hoàn tất mọi công hạnh, phận sự thế mà ngài vẫn tu tập, vẫn huấn luyện mình là nghĩa làm sao, trẫm không hiểu được?
- Câu hỏi của đại vương xác đáng lắm! Tuy nhiên, nếu đại vương hiểu được ân đức của thiền thì đại vương sẽ không đặt những câu hỏi như thế đâu!
- Nghĩa là ngài có nhập thiền ba tháng đấy chứ?
- Thưa, có!
- Và khi giác ngộ dưới cội bồ đề, Đức Phật đã thành tựu tất cả mọi công hạnh, đã hoàn tất cả mọi phận sự trên đời này?
- Thưa vâng!
- Vậy xin đại đức hãy lý giải cho trẫm nghe về sự mâu thuẫn ấy?
- Đại vương! Không phải chỉ Đức Phật Thích Ca, mà là tất cả vị Phật quá khứ, sau khi chứng ngộ đạo quả, các ngài đều nhập định ba tháng như thế. Và trong khi nhập thiền, các ngài không tu tập, hoặc huấn luyện gì đâu! Các ngài nghĩ tưởng đến ân đức vô cùng cao thượng của thiền nên các ngài trú thiền để thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả, tâu đại vương!
- Ý đại đức nói là chư Phật nhập thiền là do nghĩ tưởng đến ân đức cao cả của thiền?
- Vâng, đúng vậy!
- Xin đại đức giảng giải rộng cho nghe?
- Đại vương! Ví như đại vương có một viên quan mẫu mực, chăm chuyên mọi bổn phận một cách tuyệt hảo; thấy vậy đại vương ban thưởng cho nhiều vật phẩm, tiền bạc, lợi lộc sang cả. Vị quan ấy rất cảm kích ân đức của đại vương, nên thường lui tới thăm viếng, cung kính hầu hạ đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, viên quan ấy hằng lui tới thăm viếng, cung kính, hầu hạ đại vương do tri ân đại vương; việc làm ấy của viên quan kia là xứng đáng, là phải lẽ chăng?
- Rất là phải đạo vậy!
- Cũng thế, tâu đại vương! Chư Phật quá khứ cũng như Đức Thích Ca vì nhận được ân huệ của thiền, ân đức cao cả của thiền nên các ngài trở về lại trú xứ ấy để tri ân thiền - như viên quan đến hầu thăm đại vương vậy thôi!
- Vâng, cũng có thể là như vậy, nhưng đại đức còn ví dụ nào rõ nghĩa hơn chăng?
- Có thể được, ví như có người mắc bệnh nan y, thường chịu nhiều cơn đau thống khổ, may nhờ có người thầy thuốc giỏi trị cho người kia lành bệnh. Cảm kích vị lương y đã cứu mạng sống mình, người kia thường hay trở lại nhà người thầy thuốc để thăm viếng và tri ân. Điều ấy là phải lẽ hay không phải lẽ, hở đại vương?
- Rất phải lẽ!
- Chư Phật quá khứ và Phật Thích Ca nhập thiền để thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả ... cũng là một cách tri ân giống như người bệnh đến nhà vị lương y kia vậy, tâu đại vương!
- Ân đức cao thượng của thiền như thế nào, ghê gớm như thế nào mà đến nổi chư Chánh Đẳng Giác phải tri ân, thưa đại đức?
- Nói tóm gọn là các ngài thọ hưởng lạc về thiền, thọ hưởng lạc về quả, nhưng nếu nói rộng ra thì thiền có cả thảy hai mươi tám ân đức!
- Xin ngài giảng giải cho thật đầy đủ.
- Vâng, đại vương hãy nghe đây. Thiền có cả thảy hai mươi tám ân đức sau đây:
Một là, bảo vệ, giữ gìn thân thể được khang kiện. Hai là, công năng tăng tuổi thọ. Ba là, tăng sức mạnh. Bốn là, đóng hẳn tội lỗi. Năm là, không cho mất danh dự, danh vọng.
Sáu là, đem lại danh dự, danh vọng. Bảy là, làm cho tiêu mất sự "không hoan hỷ". Tám là, làm cho phát sanh sự hoan hỷ. Chín là, dứt hẳn sự sợ hãi. Mười là, tăng lòng dũng cảm.
Mười một là, dứt trừ lười biếng. Mười hai, phát sanh tinh tấn. Mười ba, dứt trừ tham luyến. Mười bốn, dứt trừ sân hận. Mười lăm, dứt trừ si mê.
Mười sáu, dứt trừ ngã chấp. Mười bảy, dứt trừ suy nghĩ. Mười tám, làm cho tâm nhứt hành (định). Mười chín, làm cho tâm ưa thích nơi thanh vắng. Hai mươi, làm cho phát sanh sự tươi vui.
Hai mươi mốt, phát sanh phỉ lạc. Hai mươi hai, làm tăng thêm sự tôn kính. Hai mươi ba, làm cho phát sanh lợi lộc (lợi lộc phát sanh quả). Hai mươi bốn, làm cho vừa lòng. Hai mươi lăm, giữ gìn đức nhẫn nhục.
Hai mươi sáu, dứt hẳn lậu hoặc hữu vi. Hai mươi bảy, không cho tạo nhân tái sanh trong tam giới. Hai mươi tám, được kết quả của sa môn.
Hai mươi tám ân đức của thiền đầy đủ là như thế đó, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là to lớn và quảng đại vậy thay! Nhưng trẫm còn một hoài nghi: Tại sao không nghe nói tới ân đức vô lậu, vô vi mà ở đấy dường như chỉ là hữu lậu, hữu vi, thưa đại đức?
- Đã gọi là thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả thì đều là hữu vi, tâu đại vương!
- Thế thì chư Phật không nhập thiền để thọ hưởng hạnh phúc giải thoát sao?
- Có chứ, nhưng nếu đã giải thoát thì không còn dính cả hai mươi tám ân đức hữu vi ở trên, tâu đại vương!
- Ồ, thật là thâm diệu dường bao!
- Tuy nhiên, tâu đại vương! Các chư Phật xuất hiện ở đời là vì sự lợi lạc cho chư thiên và loài người - nên các ngài thường nhập thiền, thường lui tới cõi thiền còn vì bốn nguyên nhân khác nữa. Bốn nguyên nhân này là nhằm để nêu gương tốt, nhằm giáo hóa chúng sanh, tâu đại vương!
- Xin đại đức bi mẫn cho nghe bốn nguyên nhân ấy?
- Thứ nhất, các ngài thường thân cận với thiền, vui thích với thiền vì thiền đem đến sự an lạc. Thứ hai, thiền thường tăng trưởng những đức tính tốt, cao quý, các tội lỗi không có cơ hội dấy sinh. Thứ ba, nếu có đắc một vài tầng thánh đạo rồi thì nhập thiền thường có công năng tiến hóa thêm trong các thánh đạo cao hơn. Bốn là, chư Phật hay ngợi khen những ai thường an trú trong thiền!
Tâu đại vương! Nếu đại vương lãnh hội hai mươi tám ân đức và bốn nguyên nhân của thiền như trên rồi - thì đại vương sẽ không còn nghĩ rằng Đức Phật là còn tu tập, còn rèn luyện, còn tự huấn luyện nữa. Chư Phật đã là bậc thầy trong tam giới, các ngài đã giác ngộ và giải thoát trọn vẹn rồi, công hạnh đã viên mãn rồi; các cấu uế phiền não đã tận diệt rồi thì mọi phận sự đã được buông bỏ xuống, mọi bổn phận với chính mình đã được giải quyết xong! Đại vương đã liễu thông điều ấy chưa?
- Thưa, liễu thông rồi! Nghĩa là vì còn thân tứ đại, còn ở trong hữu y dư nên chư Phật phải nuôi dưỡng thân tâm này trong thiền lạc, thiền quả vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người, phải vậy không đại đức?
- Thật là chính xác, cảm ơn đại vương!
- Không dám, cảm ơn đại đức!
[*] Ghi chú của Dịch giả: Thật ra, không phải ba tháng mà chỉ có 7 tuần:
- Tuần 1: Đức Phật thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, ngày cuối tuần Ngài suy niệm về thập nhị nhân duyên, chiều xuôi và chiều ngược.
- Tuần 2: Đức Thế Tôn đứng nhìn cây bồ đề suốt một tuần lễ không chớp mắt: Ngài tri ân cây bồ đề!
- Tuần 3: Ngài dùng thần thông tạo một con đường bằng ngọc giữa hư không rồi đi kinh hành suốt cả tuần trên ấy.
- Tuần 4: Ngài suy niệm về tạng Vi điệu pháp.
- Tuần 5: Ngài thọ hưởng hạnh phúc giải thoát. Cuối tuần, gặp một người Bà-la-môn ngã mạn và Ngài đã thuyết giáo đến cho người Bà-la-môn ấy. Theo chú giải Túc sanh truyện, trong tuần này, ba người con gái của Ma vương là Tanhà, Aratìvà, Ragà dùng nhan sắc quyến rũ Phật, nhưng thất bại.
- Tuần 6: Chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Có trận mưa rất lớn và Mãng xà vương quấn xung quanh Đức Phật 7 vòng để che mưa cho Ngài.
- Tuần 7: Chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát.
* * *
99. Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "Tứ như ý túc" để duy trì thọ mạng?
- Thưa đại đức! Đại đức biết rõ "Tứ như ý túc" phải chăng?
- Vâng, biết, biết rất rõ về Tú như ý túc (Tứ thần-túc)! Đấy là dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, tâm như ý túc và tuệ như ý túc, tâu đại vương!
- Thế có phải Đức Đại giác đã từng thuyết rằng: "Này Ànanda, Như Lai đã tiến tu Tứ như-ý-túc, đã lập đi lập lại nhiều lần, đã thực hành Tứ như-ý-túc một cách toàn diện, đã lấy Tứ như-ý-túc làm chỗ ngồi, chỗ nằm, chỗ nương tựa, đã tạo trữ chắc chắn nó ở trong tâm. Khi Tứ như-ý-túc ở nơi Như Lai đã viên mãn như thế, nếu Như Lai mong muốn tuổi thọ lâu bền một kiếp [*] hoặc nhiều hơn một kiếp cũng rất là dễ dàng, không khó khăn gì!". Đấy có phải là lời của Đức Thế Tôn không, thưa đại đức?
[*] 1 Kappa: chừng 100 năm. Tuy nhiên, có nhiều chỗ giải thích 1 kappa là một kiếp của quả địa cầu!
- Đúng là Đức Phật có tuyên thuyết như vậy!
- Rồi cũng chính Đức Thế Tôn có thuyết với ngài Ànanda như sau: "Này Ànanda! Tuổi thọ của Như Lai kể từ nay chỉ còn ba tháng nữa thôi. Đến thời hạn ấy Như Lai sẽ xả báo thân để Tịch diệt Niết bàn!".
- Lời ấy cũng chính Đức Thế Tôn thuyết, tâu đại vương!
- Trẫm không hiểu - Đức vua Mi-lan-đà cất giọng chậm rãi - là tại sao một bậc Đại giác lại thuyết hai lời không giống nhau, lại đối chọi nhau? Một bên thì bảo có khả năng kéo dài tuổi thọ hơn một kiếp nữa, một bên thì tuyên bố tuổi thọ chỉ còn ba tháng nữa? Nếu câu này đúng thì câu kia không đúng. Nếu tuyên bố này là chơn thật thì thuyết ngôn kia là hư dối! Dám mong đại đức bi mẫn phá vỡ mối hoài nghi ấy để chúng ngoại đạo khỏi xuyên tạc!
- Tâu đại vương! Chẳng có điều nào là hư dối, chẳng có gì là mâu thuẫn giữa hai lời tuyên bố trên. Nếu đại vương hiểu rõ ân đức của Tứ như-ý-túc thì đại vương đã tự giải nghi cho chính mình rồi. Sở dĩ Đức Thế Tôn ca tụng sức mạnh và năng lực của Tứ-thần-túc như thế là vì ngài đã tấn tu Như ý túc không gián đoạn. Ngài nói rằng, Tứ như-ý-túc đã vững chắc trong tâm của ngài, khi cần ngài có thể làm thuyền để đi, làm xe để dong ruỗi hoặc lấy Tứ như-ý-túc làm chỗ ngồi, chỗ nằm .v.v... Với sức mạnh Tứ như-ý-túc của ngài, ngài có thể kéo dài thọ mạng hơn một kiếp là điều chắc thật, không ngoa ngôn vậy.
- Trẫm cũng chưa nắm rõ vấn đề!
- Ví như đại vương có một con ngựa thần kỳ. Đại vương thường ca tụng con ngựa thần kỳ trước mặt các quan đại thần, các trưởng giả và các bà-la-môn gia chủ rằng: Con ngựa quý báu của trẫm nó chạy rất mau, giống như bay giữa hư không; nó có thể phi được trên nước, có thể chạy theo sông ra tới biển cả rồi trở lại hoàng cung chỉ trong thời gian khảy móng tay! Thưa đại vương! Đức Phật khen ngợi uy lực của Tứ như - y - túc cũng giống như đại vương khen ngợi sức thần kỳ của con ngựa kia vậy.
- Ý đại đức nói là Đức Thế Tôn khen ngợi uy lực của Tứ-thần-túc có khả năng kéo dài tuổi thọ chứ không phải ngài khen ngợi uy lực của chính mình - như trẫm khen ngợi con ngựa có sức thần kỳ chứ không phải trẫm tự khen ngợi mình, phải vậy chăng?
- Đúng như vậy!
- Nhưng có gì khác nhau đâu, thưa đại đức? Năng lực của Tứ như-ý-túc là pháp mà Đức Thế Tôn chứng đắc, sử dụng được, sao ngài không sử dụng nó kéo dài thọ mạng để lợi ích lâu dài cho chư thiên và loài người?
- Đức Đại giác biết rõ căn cơ trình độ của chúng sanh, biết rõ lúc nào là giáo pháp hưng thịnh lúc nào giáo pháp tiêu hoại, biết rõ lúc nào nên xuất thế, lúc nào nên Niết bàn, tâu đại vương!
- Có thể là như vậy, nhưng chúng ta là kẻ hậu học, chúng ta có quyền hoài nghi chứ? Giá mà Đức Phật dùng Tứ như-ý-túc để kéo dài thọ mạng thì lợi lạc cho chúng sanh biết bao nhiêu, phải thế không đại đức?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Đại vương nghĩ thế nào, khi Đức Thế Tôn thuyết như vầy: "Này các thầy tỳ khưu! Phẩn, dù chỉ có tí chút, nhưng mùi hôi thối của nó cũng đáng nhờm gớm lắm. Ai thấy phẩn cũng đều muốn xa lánh chứ chẳng có ai ưa thích cả, phải vậy chăng? Cũng vậy, Như Lai nhờm gớm sinh tử luân hồi, nhờm gớm tam giới là cõi thấp hèn, hạ liệt, chẳng ưa thích ở trong đó dù với thời gian khảy móng tay! Các thầy cần phải biết như vậy mà tinh cần, chuyên niệm để mau thoát khỏi lưới tử sinh đau khổ buộc ràng!".
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Như vậy thì cõi sinh tử luân hồi đáng ghê tởm như phẩn thối, cho nên Đức Phật khi thấy mình hết thọ mạng, hết bổn phận là ngài tức tốc ra đi không có luyến tiếc?
- Đúng thế, tâu đại vương! Nếu Đức Thế Tôn kéo dài thọ mạng thì làm sao khỏi để cho ngoại đạo dị luận: Ông Cồ-đàm chán sinh tử luân hồi mà lại muốn ở lại cõi sinh tử luân hồi! Ông Cồ đàm thuyết về sự bất tịnh của thế gian mà lại duy trì cái thân để sống tham luyến trong thế gian! Ông Cồ đàm thích ở lại cõi đời để thọ hưởng tài lợi, vật thực, địa vị, danh vọng ... chứ nào có muốn xuất ly chúng bao giờ!
Đức vua Mi-lan-đà ngẫm ngợi hồi lâu:
- Lập ngôn ấy là chính xác! Và Đức Thế Tôn tùy thời, tùy xứ, tùy căn, tùy cơ, tùy nhân, tùy duyên ... mà đến và đi chứ không thể tùy ước muốn của chúng sanh được!
- Ngay chính sự cứu độ cũng vậy. Không phải ai Đức Thế Tôn cũng độ được. Vào mỗi buổi sáng, cuối canh ba, Đức Thế Tôn thường dùng thiên nhãn nhìn khắp thế gian, thấy ai có duyên với Phật đạo, ngài mới ôm bát trì bình đến để hóa độ!
- Ý đại đức muốn nói là sau khi Đức Thế Tôn đã diệt độ rồi, từ lúc ấy đến thời hậu lai, chẳng chúng sanh nào là có duyên với ngài nữa cả?
- Vâng, tuy không có duyên với Đức Phật, nhưng chúng sanh còn có duyên với Đức Ca-diếp, Đức Ànanda ... tương tục tiếp nối cho đến các bậc thầy tổ của bần tăng bây giờ, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Và cả chính vị đại đức thông tuệ trước mặt trẫm đây nữa chứ?
- Không dám, bần tăng chỉ mới là kẻ sơ tu! Đại vương, đại vương còn hoài nghi gì về Tứ như-ý-túc nữa chăng?
- Thưa, đã mãn nguyện lắm rồi!
* * *
100. Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được toàn hảo?
- Thưa đại đức, trẫm thấy rằng, dường như chánh pháp của Đức Thế Tôn thuyết ra, có vẻ không được toàn hảo?
- Tại sao đại vương lại nói vậy!
- Thế tam tạng, tức là kho tàng chánh pháp gồm có những gì thưa đại đức?
- Là tạng kinh, tạng luật và tạng vi-diệu-pháp.
- Tạng kinh toàn hảo chứ?
- Tạng kinh là từ sự thật, từ chân lý; từ sự thấy chắc, biết chắc, thấy đúng và biết đúng mà nói ra - thì sao lại không toàn hảo được?
- Thế tạng vi-diệu-pháp?
- Tạng này là do Đức Thế Tôn thấy rõ tâm vương, tâm sở, sắc pháp và niết-bàn mà nói ra thì chắc chắn là toàn hảo!
- Còn tạng luật?
- Là tạng mà Đức Thế Tôn dựa theo những lỗi lầm từ nhẹ đến nặng, từ cách đi đứng nằm ngồi, mặc áo, khất thực, độ thực, cách thu thúc, sự gìn giữ thân khẩu ý v.v... của Chư Tăng hoặc tùy từng trường hợp vi phạm mà chế định ra. Tạng luật ấy rất thực tiễn, rất cụ thể, rất dân chủ, rất đạo đức, rất phạm hạnh ... nhờ vậy Tăng chúng mới có được đời sống kỷ cương và hiền thiện! Vậy thì theo bần tăng, tạng luật cũng rất là toàn hảo, tâu đại vương!
- Thưa, toàn hảo nghĩa là hoàn toàn tuyệt hảo chẳng ai có thể thêm bớt hoặc sửa đổi dẫu là tí chút, phải vậy không đại đức?
- Đúng thế!
- Thế sao Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này Ànanda! Sau khi Như Lai diệt độ rồi, nếu Chư Tăng có sự mong cầu là nên bỏ bớt một số giới điều nhỏ nhặt không cần thiết - thì nên vì ước nguyện của Chư Tăng mà bỏ bớt đi". Thưa đại đức! Câu nói ấy của Đức Phật chứng tỏ giới luật chưa toàn hảo. Mà giới luật chưa được toàn hảo có nghĩa là chánh pháp chưa được toàn hảo! Xin đại đức hãy soi sáng cho trẫm ở điểm này?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Đại vương! Trước khi giải nghi vấn đề ấy, đại vương hãy cho bần tăng được hỏi một điều!
- Xin vui lòng!
- Đại vương hiện đang cai quản một quốc độ mênh mông như thế này, ví dụ đến khi đại vương tuổi đã lớn, mệnh trời sắp hết, đại vương bèn gọi thái tử kế vị tương lai đến để dạy rằng: "Này con! Lãnh thổ của vương triều ta quá rộng lớn, nếu sau này con không quản lý và bảo vệ nổi thì con cứ tùy nghi bỏ bớt những phần đất nhỏ nhít ở các biên trấn xa xôi xét thấy là không cần thiết". Đại vương, nếu có trường hợp như thế xảy ra, và nếu trường hợp thái tử là người con có chí, có hiếu, biết thương yêu thần dân và tổ quốc thì thái tử sẽ xử sự ra sao khi đại vương mệnh chung?
Đức vua Mi-lan-đà đáp:
- Có thể trẫm sẽ nói như vậy vì muốn tôn trọng sự tự do của Đức vua tương lai, nhưng suy bụng ta ra bụng người, trẫm biết là con trẫm vì thương yêu thần dân và mãnh đất của phụ vương đã dày công máu xương và hãn mã; sẽ không bỏ bớt bất cứ một phần đất nhỏ nào mà còn ra công gầy dựng, chinh phục để mở rộng thêm đất đai, lãnh thổ! Ý trẫm là vậy, thưa đại đức!
- Đấy cũng là câu trả lời của bần tăng, thưa đại vương! Chư tỳ khưu Tăng đương lai vì tôn kính Đức Phật, tôn kính giáo pháp; đã không ban bố thêm giới điều thì thôi, chớ nào dám bỏ bớt một số giới điều dầu nhỏ nhặt mà Đức Đạo Sư đã dày công bi mẫn chế định vì tương lai của phạm hạnh, của nếp sống kỷ cương cho tăng-già thời hậu lai!
Đức vua Mi-lan-đà nhè nhẹ gật đầu:
- Nghe có vẻ thuyết phục lắm! Nhưng trẫm còn muốn hỏi thêm. Kinh và vi diệu tạng, là y cứ vào chân lý, vào sự thật mà nói lên, "như thị thuyết"; còn tạng luật chỉ là chế định, chế định là cái tạm thời có thể tùy nghi thay đổi theo thời gian, quốc độ. Đúng ra là có thể thêm thắt hoặc bỏ bớt nếu thấy không còn đúng, không còn hợp thời nữa, phải vậy không đại đức!
- Đại vương có ví dụ cụ thể chăng?
- Vâng, có thể được. Ví như trong luật ấn định rằng chư tỳ khưu phải mười lăm ngày tắm một lần, nếu chưa đủ mười lăm ngày mà tắm là phạm "ưng-đối-trị"!.
- Đúng vậy mà cũng không phải vậy, thưa đại vương! Điều luật ấy chỉ áp dụng ở xứ trung Ấn Độ, là nơi thường hạn hán, nước khan hiếm. Nên điều luật còn ghi chú rằng: những xứ khác, nước nhiều, tắm nhiều lần không phạm tội!.
- Thế rõ ràng giới luật có thể thay đổi!
- Đại vương - Đại đức Na-tiên nhấn mạnh - bần tăng hoàn toàn đồng ý về cách hiểu của đại vương, là các pháp chế định có thể tùy nghi thay đổi; nhưng bần tăng đã nói rồi, là vì kính trọng Đức Thế Tôn và kính trọng giáo pháp, chư Tăng thời hậu lai sẽ không bao giờ bỏ bớt một học giới nào!
- Cả những giới điều nho nhỏ như phạm tác ác cũng không thể bỏ ư?
- Những giới điều nhỏ nhặt như phạm tác ác ấy, đại vương có nhớ rõ những giới điều nào không?
- Thưa, không nhớ rõ lắm!
- Đại vương! Phần lớn những giới điều thuộc tội tác ác ấy nằm trong bảy mươi lăm điều "ưng học pháp", là những pháp mà tỳ khưu cũng như sa di đều phải thực hành. Nói tóm, chúng là những cách thức về việc mặc y thế nào cho nghiêm trang; đi đứng, nói năng, ăn uống phải thế nào cho nghiêm túc, đứng đắn v.v... Một vị tỳ khưu trong Phật giáo không thể ăn mặc luộm thuộm cẩu thả; không thể đi tới đi lui mà khua tay, múa chân; chẳng thể muốn đến nhà cư sĩ, vào xóm làng lúc nào cũng được; chẳng thể nói cười tự do vung vít; chẳng thể ngồi đứng ưỡn ẹo, thân mình lắc lư; chẳng thể ăn uống khua muỗng, khua bát, húp canh sột soạt, mắt láo liên ngó chỗ này chỗ kia .v.v... Đại vương! Những giới điều nhỏ nhặt về tội tác ác ấy có thể bỏ đi được chăng?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Nếu bỏ đi thì còn đâu là tăng tướng mô phạm làm y chỉ cho chúng sanh. Nhưng trẫm nghe rằng có những học giới không thuộc tác ác mà thuộc ưng đối trị, xem ra cũng nhỏ nhặt như để muối cách đêm, xế bóng hai ngón tay còn ăn được, tọa cụ không có bìa, thọ dụng tiền bạc chút ít để đi đây đi đó v.v... Những giới điều ấy xét ra nghiêm khắc và tiểu tiết quá. Đức Thế Tôn nhập diệt đã năm trăm năm rồi, thời đại đó xưa rồi, vậy nên thay đổi chút ít cho hợp với hoàn cảnh mới, được chăng?
- Đại vương! Những giới điều nhỏ nhặt mà đại vương nêu ra đó, thuộc bốn trong mười điều lầm lạc mà kỳ kết tập kinh điển lần thứ hai, chư Thánh Tăng A-la-hán bảy trăm vị đã chỉnh lại bởi những sai phạm của một phe nhóm tỳ khưu sa đọa. Và nếu cứ vậy, cứ qua mỗi thời thay đổi một ít, sữa đổi một ít thì chừng một ngàn năm sau, giới luật bậc Thánh của đạo giác ngộ sẽ trở thành giới luật của ngoại đạo mất thôi! Đây là hiểm họa, đại vương nên phóng tầm mắt nhìn xa thấy rộng hơn một tí nữa. Trong kỳ kết tập lần thứ nhất, khi ngài Ànanda kể lại Đức Thế Tôn có cho phép bỏ bớt những giới điều nhỏ nhặt, ngài Ca-diếp hỏi lại rằng: "Vậy thì hiền giả có hỏi Đức Thế Tôn những điều nhỏ nhặt ấy là những học giới nào không?" Ngài Ànanda bảo là không có hỏi. Đức Ca-diếp bèn quyết định giữ nguyên tạng luật như thuở Đức Phật còn sanh tiền!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm đã hiểu rồi. Giữ nguyên như thế là tốt hơn nhiều. Quả chư Thánh Tăng đã nhìn xa thấy rộng. Thật là toàn hảo.
* * *
101. Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tôn làm thinh không trả lời?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn đúng là một bậc thầy lỗi lạc trong tam giới, hằng giáo huấn, dạy dỗ chúng sanh không mệt mỏi phải chăng?
- Thưa vâng!
- Và Đức Thế Tôn dạy đạo là luôn với bàn tay mở ra chứ không phải là với bàn tay nắm lại? Ngài chẳng có bao giờ cố ý che giấu pháp, tiết kiệm pháp, phải vậy chăng?
- Thưa vâng!
- Bạch đại đức! Thế tại sao có vị đại đức con một nữ bà-la-môn tên là Màlanghà đến hỏi đạo Đức Thế Tôn, ngài lại im lặng không trả lời? Có thể Đức Thế Tôn không thông hiểu vấn đề chăng? Hoặc là câu hỏi ấy hóc búa ngài không giải đáp nổi chăng? Hoặc là ngài cố ý che giấu ý nghĩa, che giấu pháp, tiết kiệm pháp chăng?
- Chẳng phải thế đâu, đại vương! Không thể hiểu đơn giản, là khi có người đặt câu hỏi, Đức Phật sẽ trả lời hoặc không trả lời! Chính Đức pháp chủ Xá-lợi-phất có dạy rằng, một câu hỏi có thể được trả lời bằng một trong bốn cách khác nhau:
* Một là, có câu hỏi phải giải đáp ngay tức thời, giải đáp ngay "một cái một"!
* Hai là, có câu hỏi thì phải chia chẻ ra để giải đáp từng phần.
* Ba là, có câu hỏi - phải cần hỏi lại rồi mới giải đáp.
* Bốn là, có câu hỏi không nên trả lời mà phải làm thinh!
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Đại đức có ví dụ nào về câu hỏi phải giải đáp ngay tức thời, đáp ngay một cái một?
- Thưa vâng, ví dụ câu hỏi: Danh sắc là thường hay vô thường? Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường? Các loại câu hỏi ấy là phải đáp ngay "một cái một", tâu đại vương!
- Vâng, trẫm hiểu rồi. Thế các loại câu hỏi nào phải chia chẻ ra để giải đáp từng phần?
- Thưa, ví dụ câu hỏi: Thế nào là tiến trình sinh diệt của ngũ uẩn? Câu hỏi ấy muốn cho người ta hiểu rõ thì phải cắt nghĩa, trình bày về hành tướng của sắc, xong rồi mới đến thọ, đến tưởng, đến hành, đến thức. Phải nói rõ chức năng và hoạt dụng của từng tâm sở, sau đó mới giải thích được tiến trình sinh diệt của ngũ uẩn đó ra sao!
- Hay lắm! Còn loại câu hỏi phải hỏi ngược lại, đại đức có thể cho nghe ví dụ chăng?
- Vâng, có thể được. Ví dụ loại câu hỏi: Người ta có thể cảm nhận được trần cảnh qua con mắt phải chăng? Thưa đại vương, vì câu hỏi ấy mơ hồ, không rõ nghĩa - nên cần phải được hỏi lại. Ví dụ, sẽ hỏi lại: Ông có thể cho biết cái gì là trần cảnh? Ví dụ, người kia trả lời: Các hình tướng, sắc pháp mà mắt cảm nhận được gọi là trần cảnh! Khi được trả lời như vậy ta có thể hỏi lại: Thế âm thanh, mùi vị ... không phải là trần cảnh sao?... Tất cả các câu hỏi ấy nhằm để cho người hỏi hiểu rõ rằng tất cả ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, đều là trần cảnh. Và cảm nhận trần cảnh ấy không phải chỉ có con mắt mà còn có tai, mũi, lưỡi và thân nữa!.
- Cảm ơn đại đức! Chẳng có sự giải đáp nào rõ nghĩa hơn thế nữa. Nhưng còn loại câu hỏi thứ tư, tại sao phải im lặng!
- Thưa, vì các loại câu hỏi ấy là rỗng không, phù phiếm, hý luận ... chỉ đưa đến não hại chứ không đưa đến lợi ích nên phải làm thinh!
- Xin đại đức cho ví dụ.
- Vâng! Ví dụ: Thế giới hữu biên hay vô biên? Sanh mạng và thân thể là một hay là hai? Sau khi Niết bàn rồi Như Lai còn hay mất?!... Tâu đại vương! Đấy là những câu hỏi mà ta phải im lặng vì chính chúng là rỗng không, phù phiếm, hý luận ... không đưa đến ly tham, giác ngộ, giải thoát ..., nghĩa là chỉ làm mất thì giờ, có hại và không có lợi vậy!
- Trẫm chấp nhận trọn vẹn tất cả mọi kiến giải của đại đức!
* * *
102. Chúng sanh sợ hãi diêm chúa?
- Thưa đại đức, có phải Đức Phật thuyết rằng: "Tất cả chúng sanh hằng rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến oai lực của diêm chúa, của tử thần" ?
- Đúng như thế.
- Và cũng chính Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Bậc A-la-hán là bậc đã chấm dứt hoàn toàn sợ hãi" ?
- Đúng như thế.
- Đại đức có thấy là câu pháp ngôn trước mâu thuẫn với câu pháp ngôn sau chăng?. Nếu "tất cả" chúng sanh đều khiếp sợ sự tai hại và khiếp sợ sự chết - thì tại sao các vị A-la-hán lại không khiếp sợ sự tai hại và không khiếp sợ sự chết? Đại đức có thể giải nghi vấn đề ấy cho trẫm được không?
- Tâu đại vương! Bậc A-la-hán đâu phải là chúng sanh? Các ngài đã cắt đứt con đường trở lại với tam giới, không còn cấu sanh, đã dứt tuyệt vô minh phiền não, không còn nhân quả chi phối; đã ở ngoài thiện ác thế gian, đã cắt đứt trọn vẹn mọi trói buộc - thì các ngài đâu còn sanh khởi tâm niệm luyến ái trần thế - mà lại gọi là chúng sanh được?
- Đành rằng thế, nhưng tại sao Đức Tôn Sư lại bảo là "tất cả"!. "Tất cả" nghĩa là không loại trừ một ai, thì sao lại loại trừ các bậc A-la-hán khi các ngài còn mang thân tâm hữu vi này?
- Đại vương! "tất cả" nhưng có loại trừ là một lập ngôn bình thường, đại vương cũng không hiểu sao?
- Trẫm chưa hiểu lập ngôn như thế? Đại đức có thể cho nghe ví dụ chăng?
- Có thể được, tâu đại vương! Ví như đại vương có những vị quan trung thành, mẫu mực, liêm khiết, là người đáng tin cậy. Hôm kia, có việc về tài chánh và quốc phòng, đại vương ra thông cáo cho nhân dân trong quốc độ rằng: "Tất cả mọi người dân trong quốc độ, tùy theo tuổi tác, chức vụ, nghề nghiệp ... ai ai cũng phải đóng thuế đinh, thuế thân, thuế chi phí quốc phòng .v.v... Nếu ai bất tuân mà trốn thuế, khai man, lậu thuế hoặc cưỡng lệnh, hay nộp không đúng kỳ hạn thì phải bị trọng hình!". Lệnh được ban ra, sau đó, đức vua cắt cử những vị quan thanh liêm của đại vương phân bố đi các nơi để thâu thuế. Đại vương nghĩ thế nào? Tất cả nhân dân, nghĩa là ai ai cũng phải đóng thuế, nhưng những vị quan của đại vương họ có đóng thuế chăng?
- Họ đi thâu thuế thì sao họ lại phải đóng thuế? Phải loại trừ họ ra chứ?
- Vậy, dầu đại vương bảo là "tất cả" nhưng tại sao ở đây lại "loại trừ" những vị quan liêm khiết của đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà nín lặng.
- Lại nữa - Đại đức Na-tiên nói tiếp - khi lệnh của đại vương được ban ra, tất cả nhân dân đều khiếp sợ uy lực của đại vương, khiếp sợ trọng hình - nhưng những vị quan của đại vương có khiếp sợ uy lực của đại vương, có khiếp sợ trọng hình chăng?
- Họ đi thi hành nhiệm vụ thì làm sao lại sợ hãi như vậy được!
- Và như vậy, dầu nói là "tất cả" nhưng vẫn có trường hợp "loại trừ" đấy - Đại vương đã hiểu rõ cách lập ngôn bình thường ấy chưa?
Đức vua Mi-lan-đà cười vui vẻ:
- Rất là chết lý, chẳng tranh cãi với đại đức chỗ nào được cả. Nhưng giá như đại đức tìm cho trẫm một ví dụ cụ thể nữa thì trẫm mới thật sự khâm phục!
- Có thể được, tâu đại vương! Ví như có ông xã trưởng kia muốn triệu tập một cuộc họp tại hội trường lớn, bèn cho người thông báo rằng: "Yêu cầu toàn dân đều phải đi họp đông đủ, bất kể gái trai, già trẻ, nếu ai bất tuân sẽ bị phạt". Sau khi thông báo rồi, mọi người trong xã lũ lượt kéo đến đầy đặc cả hội trường. Những người có trách nhiệm bèn nói với ông xã trưởng rằng: Thưa ngài, tất cả dân chúng trong thôn đều đã tụ họp đầy đủ rồi, ngài hãy bắt đầu cuộc họp là vừa phải lẽ!
Tâu đại vương! Cuộc họp ấy thế là đầy đủ tất cả mọi người trong thôn, chẳng hay có "ngoại trừ" người nào không?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Chắc là phải có "ngoại trừ" chứ! Đó là các ông già, bà lão đi không nổi, các ấu nhi, trẻ sơ sinh, một số người do bận việc coi nhà cửa, số người khác đi vắng, lại còn người tật nguyền và ốm bệnh nữa. Rõ là rất nhiều kẻ phải "ngoại trừ" vậy, dầu là cuộc họp đầy đủ "tất cả" toàn dân!
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười:
- Cảm ơn đại vương! Thế là đại vương đã nắm rất rõ vấn đề! Đại vương đã hiểu rõ "tất cả" chúng sanh, nhưng "ngoại trừ" các bậc A-la-hán không kể vào trong nhóm chúng sanh ấy.
- Thế nhưng trẫm vẫn còn một sự thắc mắc khác nữa!
- Xin sẵn lòng hầu đáp đại vương!
- Tất cả chúng sanh đều phải khiếp sợ sự tai hại, khiếp sợ uy lực của tử thần, ngoại trừ các bậc A-la-hán. Nhưng các chúng sanh hiện sống trong địa ngục thì sao, họ có sợ hãi diêm chúa không?
- Chúng sanh ở địa ngục vẫn sợ hãi diêm chúa đấy, tâu đại vương!
- Chẳng lẽ nào! Những chúng sanh ở địa ngục họ đã chịu đựng quá nhiều đau khổ rồi. Kẻ thì bị thiêu đốt, kẻ thì bị nấu trong chảo dầu sôi, kẻ thì bị co quắp thân thể vì đau đớn do bàn chông, do lũ đầu trâu mặt ngựa hành hạ! Ôi! Vô vàn sự thống khổ mà chúng sanh ở địa ngục phải chịu đựng. Đáng lẽ họ mong được chết sớm, chết mau, vì chết đi để khỏi bị hành hạ nữa, khỏi phải bị thọ khổ nữa. Họ mà còn sợ hãi diêm chúa là điều mà trẫm không thể hiểu được, thưa đại đức!
- Thắc mắc của đại vương cũng có lý, tuy nhiên, năng lực của sự sợ hãi tử thần nó kinh khiếp hơn tất cả mọi sự sợ hãi khác.
- Thưa, đấy là những sợ hãi gì?
- Ví như sợ hổ cắn, sợ voi dữ, sư tử dữ, cọp dữ, gấu dữ, trâu bò dữ, sợ tai ương, sợ hoạn nạn, sợ luật vua, sợ phép nước, sợ lửa, sợ nước, sợ chông gai, sợ ma-ya, sợ đói, sợ tật bệnh, sợ mộng dữ, sợ bão tố, sợ thiên tai bệnh dịch v.v... Tất cả những sợ hãi ấy, so với sự sợ hãi tử thần thật không đáng kể! Sự chết có một oai lực vô song, thậm chí ở địa ngục thống khổ như vậy mà chúng sanh ở đấy vẫn sợ sự chết như thường!
- Đại đức hãy cho nghe ví dụ, may ra trẫm hiểu được điều phi lý ấy!
- Thưa vâng, ví như có một người bị mụt nhọt to lớn, đau nhức hành hạ ngày đêm. Thầy thuốc bảo rằng, cái mụt nhọt ấy phải mổ mới lành bệnh được. Xong, ông thầy thuốc lấy đồ nghề giải phẩu ra. Ông ta lấy ra một con dao bén ngọt, sắc lạnh. Ông ta mài con dao trên đá năm, bảy lần rồi hơ trên lửa ... ông ta tay nắm chặt con dao đỏ rực từ từ bước tới chỗ bệnh nhân, đưa tay trái nắm chặt xung quanh chỗ mụt nhọt ấy. Lưỡi dao sáng loáng đưa lên! Tâu đại vương! Khi ấy không biết người bị mụt nhọt có cảm thấy sợ hãi không?
- Chắc ai cũng có sự sợ hãi, thưa đại đức!
- Người mụt nhọt bị hành hạ đau đớn ngày đêm ấy cũng tương tự như chúng sanh bị trả quả kinh khiếp trong địa ngục vậy. Mặc dầu mổ hết đau, nhưng thấy mổ vẫn sợ hãi như thế nào - thì địa ngục cũng như thế: Chết thì hết khổ nhưng vẫn sợ chết như thường, tâu đại vương!
- Trẫm đã thông mọi lẽ rồi - nhưng vẫn còn muốn nghe thêm ví dụ nữa.
- Thưa vâng, ví như có người bị rắn độc cắn, đau đớn dữ dội, thân hình co quắp, mặt xám xanh, miệng sùi bọt mép. Có ông thầy rắn có bùa phép, điều khiển được rắn độc như ý muốn. Ông ta sau khi làm phép, con rắc độc ngoan ngoãn bò đến người bị nạn, thò miệng vào vết thương để hút nọc độc ra! Đại vương nghĩ thế nào, dù nạn nhân bị đau đớn dữ dội, nếu hút được nọc độc ra là giải thoát được cơn đau ấy, nhưng khi thấy rắn độc bò đến, thò miệng vào vết thương của mình, người kia có sợ hãi không?
- Thưa, lẽ thường thì cũng cảm thấy sợ sệt vậy.
- Chúng sanh ở địa ngục cũng thế, tâu đại vương! Tuy chết là hết khổ, nhưng vẫn hãi sợ tử thần với lưỡi hái đến cướp mạng sống thê thảm của họ đi!
- Hoàn toàn đồng ý với kiến giải lẫn những ví dụ cụ thể, sống động của đại đức.
* * *
103. Tụng kinh Paritta thật không có lợi ích!
- Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Dù trong động thẳm hang sâu, trong những bảo điện kiên cố với tường sắt vây quanh, giữa hư không bao la, sâu thẳm, giữa đáy đại dương hoặc trong lòng muôn trượng của quả đất - chẳng có nơi nào thoát khỏi lưỡi hái của tử thần!". Điều ấy là chân lý chắc thật phải không đại đức?
- Chẳng có lời nào của Đức Đại Giác là không hợp với chân lý, với sự thật!
- Nếu là vậy thì tại sao Đức Tôn Sư lại nói rằng, người nào tụng kinh hộ trì an lành (kinh Paritta) thì sẽ thoát khỏi uy lực của tử thần? Rõ ràng là lời thuyết này đâm xóc lời thuyết kia? Rõ ràng là lời thuyết sau phá vỡ chân lý của lời thuyết trước? Và, chẳng lẽ nào Đức Đại Giác lại nói ra hai lời nghịch nghĩa như mâu với thuẫn, như nước với lửa, như sáng với tối như thế? Đại đức phải có bổn phận và trách nhiệm phá nghi cho người học Phật thời hậu lai và chống đỡ búa rìu của phường ngoại giáo nhiều môi lắm mép!
- Dĩ nhiên là phải thế, tâu đại vương! Và dĩ nhiên là Đức Đại Giác chẳng bao giờ nói hai lời nghịch nghĩa! Sở dĩ có sự hiểu lầm là vì người ta chưa hiểu năng lực của kinh hộ trì an lành đó thôi!
- Xin đại đức giảng cho nghe về năng lực đó.
- Thưa vâng, đại vương, ngài nghĩ thế nào, ví như có một cái cây già cỗi đã nhiều năm, ruột bộng, bên trong hoàn toàn khô kiệt nhựa và mủ; nghĩa là cái cây ấy không còn sự sống, nó đã chết, đã chấm dứt tuổi thọ. Có người khởi lên vọng tưởng muốn cho cây được sống lại, được đâm chồi nẩy lộc; bèn tưới nước, thêm phân; ngày nào cũng siêng năng tưới tắm, bảo vệ, giữ gìn ... những mong cái cây ấy được sống lại! Đại vương nghĩ thế nào, với nỗ lực của người ấy, chăm chuyên tưới nước, săn sóc nó từ ngày này sang ngày nọ - cái cây chết khô kia có vì vậy mà nẩy tược, đâm chồi, mọc lá xanh tươi trở lại hay không?
- Thưa, thật là việc làm vô ích của người ngu; cây đã chết rồi, đã chấm dứt tuổi thọ rồi thì chẳng có năng lực gì, nỗ lực nào làm cho sống lại được!
- Cũng tương tự như thế đó, tau đại vương! Một người khi mà thân xác khô kiệt, tim đã ngừng đập, máu không còn chảy nữa, sự sống đã lìa khỏi thân xác, tuổi thọ đã cáo chung; thì dù tụng kinh với nhiều oai lực như kinh hộ trì an lành Paritta, tụng năm biến, ngàn biến, hay tụng cả bỏ ngủ quên ăn, không vì vậy mà người kia sống lại được, tâu đại vương! Khi mà tử thần đã khua lưỡi hái cướp đi sanh mạng của chúng sanh rồi thì chẳng còn uy lực nào chống đỡ hoặc ngăn cản được đội binh sấm sét và bất khả chiến bại của thần chết, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Thế là đại đức đã đồng ý với trẫm, là tụng kinh Paritta thật vô ích, kinh Paritta ấy chẳng thể nào ngăn cản uy lực của tử thần được!
- Đúng thế, nhưng mà đại vương hãy nhẫn nại thêm một tí nữa.
- Thưa vâng,
- Đại vương! Ví như có một bệnh nhân thọ bệnh trầm kha, cả lục phủ ngũ tạng đều nát bét, tim và mật đều không còn làm việc. Có một vị lương y đại tài với quyết tâm chữa trị cho bằng được, bao nhiêu thuốc thang, kinh nghiệm, phương dược bí truyền đều mang ra hết. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có chút may nào sống lại chăng?
- Bệnh nhân ấy chuẩn bị quan tài là vừa, thưa đại đức!
- Đúng thế, khi sự sống đã rời khỏi thân, khi thọ mạng đã bước ra khỏi cửa - thì việc làm của vị lương y trứ danh kia chẳng khác việc làm của người điên! Lúc ấy, diêm chúa và tử thần ái ngại nhìn vị lương y rồi nói rằng: "Sanh mạng của người kia đã ở trong tay chúng ta rồi, ngươi muốn tụng kinh Paritta để hộ trì an lành và thọ mạng cho y thì chẳng khác nào phỉ báng Đức Phật và phỉ báng cả kinh Paritta!".
- Hay lắm! dí dỏm lắm! Thế là thêm một lần nữa, đại đức đã đồng ý với trẫm.
- Là vậy mà không là vậy, tâu đại vương! Xin ngài hãy nhẫn nại cho một tí nữa!
- Xin sẵn lòng!
Nghỉ hơi một lát, đại đức Na-tiên nói tiếp:
- Đại vương, ví như người điền chủ kia có một đám ruộng xanh tốt, đến thời, hạt lúa vàng nặng trĩu đầy cành. Nhưng vì tâm tham, người điền chủ muốn năng suất lúa phải bội thu hơn nữa, nên ngày nào y cũng thêm nước, rải phân! Đại vương nghĩ thế nào, với việc làm của người điền chủ, có vì thế mà hạt lúa nảy sanh thêm được chăng?
- Thật không thể.
- Cũng dường thế ấy, đại vương! Cây lúa già hạt trĩu đầy cành, vàng óng, là báo hiệu cây lúa sắp chết. Con người khi mà thân xác đã già, thọ mạng sắp ngưng dứt thì dẫu có thêm nước thêm phân, tụng kinh Paritta thảy đều vô ích, thọ mạng của người ấy không thể kéo dài ra, phát triển thêm được đâu.
- Trẫm hoàn toàn đồng ý.
- Trở lại với các trường hợp trên thử xem. Ví dụ là cái cây cằn cỗi do thiếu phân, thiếu nước; nghĩa là tuổi thọ chưa chấm dứt, sự sống hãy còn; nếu ta chăm bón và nước nôi đầy đủ thì cái cây kia chắc hẳn là phải xanh tươi, phát triển cành lá sum suê chứ, đại vương?
- Đích thị.
- Cũng vậy là một người sanh mạng chưa chấm dứt, sự sống vẫn còn, nhưng do tiều tụy héo mòn bởi phiền não, bởi nhiều sự tai hại, não hại mà ảnh hưởng đến thân và tâm. Nếu kẻ ấy không có đức tin, hoàn toàn đổ sụp tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng - thì tử thần có dễ dàng lê bánh xe của thần chết đến để nghiền nát sinh mệnh của người kia không, hở đại vương?
- Chắc chắn là vậy rồi!
- Nhưng trái lại, nếu người ấy có quy y, tinh thần được khởi động để có niềm tin nơi Tam bảo, tin vào oai lực kinh Paritta có thể ngăn ngừa được thần chết, nên không mỏi mệt tụng kinh Paritta - thì thần chết có làm được gì kẻ kia không, nếu thọ mạng và sự sống ông ta hãy còn?
- Lúc ấy thì có thể thoát khỏi lưỡi hái của diêm chúa.
- Thế kinh Paritta lúc ấy có thật sự lợi ích không hở đại vương!
- Thật sự có lợi ích!
- Đại vương, thế là đến ngang đây, đại vương đã tự bác bỏ câu phát ngôn đầu tiên của mình rồi!
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu:
- Có thể có một chút gì đó khá đúng. Nhưng ngài có thể cho nhiều ví dụ nữa để trẫm tiếp tục suy gẫm xem?
- Vâng! Nếu có người bệnh, bệnh không nặng lắm - nếu uống đúng thuốc, đúng liều lượng, biết kiêng cử thì bệnh sẽ lành chứ, đại vương?
- Vâng,
- Và khi ấy, thuốc ấy thật sự lợi ích chứ?
- Vâng!
- Một người khi có bệnh chút ít, tuổi thọ chưa chấm dứt, nếu người ấy có quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc mà tụng kinh Paritta - thì có ngăn được tử thần không, đại vương?
- Có thể được! Vì có lòng tin nên kinh Paritta sẽ phát sanh năng lực!
- Thế là đại vương đã cùng chấp nhận quan điểm, là tụng kinh Paritta phát sanh năng lực rồi!
- Vâng, trẫm chấp nhận! Thế thì kinh Paritta chỉ hộ trì được những người có đức tin, những người thọ mạng chưa chấm dứt mà thôi, phải thế?
- Thật là chính xác, tâu đại vương! Cho nên kinh Paritta có nghĩa là "kinh hộ trì an lành"! Hộ trì nghĩa là bảo vệ, che chở! Bảo vệ và che chở những người có đức tin, những người còn thọ mạng, nên ngăn chặn được tử thần không cho đến sớm! Chứ không phải kinh Paritta có năng lực bảo vệ và che chở những người không có đức tin, những người thọ mạng đã chấm dứt, tâu đại vương!
- Bây giờ thì trẫm hoàn toàn hiểu rồi!
- Đại vương, quả thật vậy, những người có đức tin nơi Tam bảo, có đức tin vào năng lực kinh Paritta, tin về những đức lành của kinh Paritta; dốc lòng trì tụng kinh Paritta thì có thể tiêu trừ tất cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn; lại có công năng hộ trì an lành, ngăn ngừa được lưỡi hái của tử thần là điều chắc thật!
- Đại đức có bằng cớ chăng?
- Thưa, có. Tại thành Vesàli, đại đức Ànanda đã tụng kinh Paritta, cả đêm, trọn ba vòng thành; tất cả chư thiên trong nhiều cõi giới ta bà đều hoan hỷ, và sau đó tất cả sự kinh sợ như bệnh dịch, phi nhơn và sự đói khát của nhân dân trong thành Vesàli đều được tai qua nạn khỏi!
- Trẫm cũng có đọc qua đoạn kinh ấy, sau đó, dường như có một trận mưa lớn nên nhân dân thoát khỏi nạn dịch hoành hành, nhờ mưa lớn nên mùa màng ruộng vườn tránh khỏi cái khô hạn! Hết dịch, hết đói cũng vì thế. Còn nhờ sao mà phi nhơn hết quấy phá nữa thì trẫm không hiểu.
- Chính nhờ sự mát mẻ, an lành từ oai lực kinh Paritta nên các trạng thái tâm nóng nảy, hung dữ ... lắng dịu lại, tâu đại vương!
- Rất là chí lý. Nhưng oai lực kinh Paritta còn diệu dụng nào kỳ lạ nữa chăng?
- Vâng, có, tâu đại vương! Các vị Thánh Tăng, Cao Tăng thường truyền tụng rằng, nếu chuyên trì tụng kinh Paritta thì rắn độc phải lặng lẽ cúi đầu bỏ đi, không dám có ý định cắn mổ nữa. Kẻ trộm vừa giơ gậy muốn đánh, nghe kinh Paritta, phải dịu dàng bỏ thỏng tay xuống. Voi số mạch (nổi cơn dục) rất hung dữ, chạy đến muốn chà đạp người, nghe kinh Paritta, chúng sững lại, hiền lành ngoan ngoãn bỏ đi. Dùng lửa cháy cực mạnh đốt người - đang trì tụng kinh Paritta, lửa ấy không hại người ấy được. Dùng thuốc độc cũng không hại người tụng kinh Paritta .v.v...
- Thật lạ lùng làm sao!
- Chưa đâu đại vương! Lại có trường hợp một con công quyết tâm tụng kinh Paritta để tự bảo vệ mình, có người thợ săn kiên trì đơm bẫy tới bao nhiêu năm cũng không bắt được. Đến khi con công ấy sầu muộn vì luyến ái một con công mái mà quên không tụng kinh Paritta, trong một ngày thôi thì đã bị dính bẫy người thợ săn.
- Trẫm cũng có biết câu chuyện ấy, nói tóm lại là kinh Paritta có năng lực bảo vệ, hộ trì; nhưng trẫm thắc mắc là kinh ấy bảo vệ, hộ trì cho tất cả chúng sanh, tất cả mọi người hay cho một loài, một nhóm, một số người nào đó thôi?
- Không thể hộ trì cho tất cả được.
- Tại sao thế, đại đức?
- Đại vương, ngài nghĩ thế nào, vật thực có hộ trì cho sanh mạng tất cả chúng sanh chăng?
- Thưa, có người hộ trì được, có người không thể.
- Tại sao lại như vậy?
- Ví như có người ăn vật thực quá độ, chất lửa trong bao tử không thể tiêu hóa được, sẽ đầy hơi tức bụng mà chết. Trường hợp ấy gọi là vật thực không thể hộ trì.
Đại đức Na-tiên hỏi lại:
- Thế thì vật thực không thể hộ trì sanh mạng chúng sanh chỉ có hai nguyên nhân:
Thứ nhất, thọ dụng vật thực quá độ. Thứ hai, do chất lửa trong bao tử non nên không tiêu hóa vật thực được.
- Đúng như thế, thưa đại đức!
- Vật thực vốn là món nuôi sanh mạng chúng sanh, nhưng bởi lẽ chúng sanh tham ăn tham uống quá độ, không biết thọ dụng chừng mực, vừa phải - nên nó trở thành thủ phạm giết hại sanh mạng chúng sanh, phải vậy không đại vương?
- Thật là chính xác!
- Kinh Paritta cũng như vật thực vậy, tâu đại vương! Kinh Paritta có người hộ trì được, có người không! Những người mà kinh Paritta không thể hộ trì được có ba lý do sau:
Một là, do năng lực nghiệp ác cản trở. Hai là, do nhiều phiền não phát sanh ở trong tâm. Ba là, do người đọc tụng mà không có đức tin, không trì chí, không quyết tâm, chỉ tụng đọc vẹt nơi miệng!
Đấy là ba cản trở lớn làm cho Paritta không thành tựu, tâu đại vương!
- Như vậy là do chính lỗi lầm, sái quấy của người tụng đọc chứ không phải do kinh Paritta!
- Đúng thế, tâu đại vương! Vật thực cũng như kinh, vốn không có tội gì.
- Đại đức có khả năng cho ví dụ về điều ấy không?
- Thưa được! Ví như có bà mẹ sanh đứa con một, biết bao công lao ẵm bồng, bú mớm, dọn phân, dọn nước tiểu. Lớn hơn chút nữa, lại phải áo quần, trang điểm, giáo dưỡng, dạy bảo nhiều bề. Tuy nhiên, giả dụ như sau này đứa con sinh hư, phạm tội với luật pháp. Người mẹ đau khổ, tìm cách đến công đường cố xin ân xá tội cho con! Tâu đại vương, nếu là đại vương thì đại vương có xá tội cho người con ấy không?
- Người mẹ ấy cũng đáng thương, nhưng luật pháp nghiêm minh, nếu tha thứ cho một người thì nhân dân sẽ khinh nhờn mà phạm nhiều tội khác nữa.
- Vâng, như thế có nghĩa là ai làm nấy chịu, nghiệp ai kẻ ấy phải thọ quả báo! Người mẹ kia không thể xin tội cho con như thế nào - thì kinh Paritta cũng không thể hộ trì cho những người đã bị ba lý do nêu trên cản ngăn!
Đến đây, đức vua hết lòng khen ngợi:
- Quả là biện tài. Quả là đại đức có khẩu ngôn thiện xảo. Cách trả lời với nhiều ví dụ, so sánh của ngài làm cho càng lúc chính đề càng thêm sáng tỏ. Hoài nghi đã chấm dứt. Mắt mờ đã được sáng. Lưới tà kiến đã được tháo gỡ. Trí tuệ của đại đức thật là siêu việt vậy.
- Không dám! Với những câu hỏi của đại vương, bần tăng cũng toát mồ hôi khi cố đưa ra những kiến giải non nớt, nông cạn, mong đại vương hỷ xả cho!
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Không cần thiết phải khiêm tốn như thế, đại đức! Chúng ta đối thoại với nhau, ngay từ đầu đã xác định là cách đối thoại của bậc trí giả mà! Vậy khách sáo với nhau làm gì.
Đức Na-tiên cũng mỉm cười ý nhị.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:47:53 GMT -5
104. Oai lực của Đức Phật thua ma vương?
- Bạch đại đức! Đức Đại Giác đã tròn đủ các công hạnh ba-la-mật, nhờ trong vô lượng kiếp ngài đã tích lũy biết bao nhiêu công đức và phước báu; nên kiếp cuối cùng này chắc ngài cũng viên mãn tài lộc, viên mãn lợi danh, viên mãn về tứ sự như y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men ... phải vậy không đại đức?
- Tâu vâng!
- Chuyện khác thì không nói, chỉ nói đến vật thực. Nếu đại đức bảo rằng phước báu về vật thực của Đức Thế Tôn là rất lớn, rất viên mãn, luôn luôn dư thừa, không bao giờ thiếu thốn; thế tại sao một lần nọ, khi ngài đi trì bình tại nhà người bà-la- môn Panca Sàla, ngài không nhận được vật thực, đành phải ôm bát không mà đi ra? Đại đức nghĩ sao về trường hợp ấy?
- Rồi đại vương sẽ sáng tỏ thôi. Đức Thế Tôn chẳng bao giờ thiếu thốn vật thực đâu. Sở dĩ tại nhà người bà-la-môn Panca Sàla, Đức Phật phải ôm bát không trở ra là do ma vương quậy phá. Ma vương đã dùng thần lực che mắt người bà-la-môn đấy, tâu đại vương!
- Thưa, chuyện ấy mà có thì phát sanh hoài nghi khác nữa. Hoài nghi rằng, công năng vô lượng phước báu ba-la-mật của Đức Thế Tôn ở đâu - mà khi ấy nó không trổ quả?
- Chẳng phải thế đâu, đại vương! Lúc ấy vì ma vương có tâm ác rất mãnh liệt đã tìm cách che mắt ông bà-la-môn không cho thấy Đức Thế Tôn.
- Nếu thế thì phát sanh nghi vấn to lớn hơn nữa. Rằng là điều ác đã thắng điều thiện? Rằng là tâm ác mãnh liệt của ma vương đã chiến thắng sự toàn thiện của Đức Thế Tôn? Rằng là sức mạnh, uy đức của Đức Thế Tôn do viên mãn ba-la-mật vẫn không bằng sức mạnh, ác đức của ma vương? Rồi người ta lại còn mỉa mai, biếm nhẽ rằng: Ồ! Té ra ngọn cây mà nặng hơn gốc cây? Tà đạo mà thắng chánh đạo? Người xấu xa, độc ác, người hung dữ, tham sân vẫn thường là kẻ có nhiều sức mạnh hơn người hiền thiện, người tốt, người khiêm nhu và đức hạnh! Chẳng lẽ nào lại có cái sự thật đau lòng trên thế gian này như thế, thưa đại đức?
- Chánh bao giờ cũng thắng tà. Gốc bao giờ cũng nặng hơn ngọn, thiện bao giờ cũng thắng ác. Đại vương chẳng cần phải bi quan như thế. Sức mạnh dẫu là ác tâm của ma vương cũng chẳng bao giờ có thể thắng nổi Đức Thế Tôn toàn thiện đâu! Đại vương phải hiểu rằng, lúc ấy ma vương với ác tâm mãnh liệt đã tìm cách che mờ mắt của người bà-la-môn không cho thấy Đức Thế Tôn. Tâm ác mãnh liệt là khác mà che mờ mắt là khác, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe điều ấy?
- Đại vương! Điều này đại vương có thể hiểu được qua một ví dụ. Ví như cung điện của đại vương có nhiều cổng thành ra vào, mỗi cổng thành như vậy thường có một số quân lính túc trực cùng với một viên võ tướng chỉ huy canh gác. Vì đại vương thương yêu thần dân như con nên hằng ngày có một số người hay mang đến mật ong, sáp ong, cơm nước thượng vị vào dâng cho đại vương vì lòng tôn kính và sự ngưỡng mộ. Có một viên võ tướng chợt sanh tâm ganh ti với đại vương, khi người ta mang vật phẩm đến, viên võ quan ấy chặn lại, xét hỏi rắc rối không cho vào, làm cho đại vương không nhận được vật phẩm ấy. Đại vương nghĩ thế nào? Đại vương không nhận được vật phẩm là bởi sức mạnh, uy lực của đại vương không bằng sức mạnh và uy lực của người gác cửa hay sao?
- Tên gác cửa ấy nếu trẫm bảo chết, nó sẽ chết - thì làm sao lại có sức mạnh, uy lực hơn trẫm được!
- Đúng thế! Vì tâm ganh tỵ của tên võ quan quá lớn nên sinh ra việc ngăn người ta vào, chứ sức mạnh uy lực làm sao bằng được đại vương? Cũng vậy, vì ma vương tâm ác quá mạnh, che mờ mắt người bà-la-môn, chứ sức mạnh, uy lực của ma vương làm sao bằng Đức Thế Tôn được! Đại vương nên hiểu như vậy.
- Vâng, vậy là trẫm hết nghi rồi.
Đại đức Na-tiên chợt hỏi:
- Thế hằng ngày đại vương cũng thường nhận được vật phẩm như vậy hay sao? Có khi nào những tên gác cổng ngăn chặn tất cả cổng thành làm cho đại vương mất phần lợi lộc?
- Làm sao lại mất được, đại đức. Biết bao nhiêu là cổng, biết bao nhiêu người vào! Lại nữa, tên võ quan kia chỉ trực cổng, ngày hôm sau đã đổi viên võ quan khác. Vật phẩm của trẫm không bao giờ thiếu, thưa đại đức quý trọng!
- Hay lắm! Đức Thế Tôn cũng y như thế. Trưa hôm ấy tuy Đức Thế Tôn ôm bát không từ nhà người bà-la-môn đi ra, do từ phước báu quá khứ của ngài làm cho chư thiên nóng ruột. Khi quán xét biết sự việc ấy, quá nhiều chư thiên đã hối hả làm vô số món ăn từ cõi trời, xuống dâng cúng cho Đức Thế Tôn . Thế đó, sức mạnh của ma vương không thể hơn sức mạnh của Đức Thế Tôn, tà không thể hơn chánh, ngọn không thể nặng hơn gốc, ác không thể thắng thiện. Và công đức, phước báu của Đức Thế Tôn bao giờ cũng dư thừa, viên mãn - tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Thôi, đồng ý là sức mạnh, uy lực ma vương không bằng được Đức Phật, đồng ý là phước báu của Đức Toàn tri lúc nào cũng viên mãn! Nhưng trẫm vẫn còn thấy cái gì đó ẩn đằng sau câu chuyện này. Là dù sao, khi ma vương che mắt người bà-la-môn Panca Sàla, làm cho Đức Phật ôm bát không đi ra, là ma vương đã đạt được tâm nguyện rồi, đã vừa ý muốn của mình rồi. Chẳng lẽ nào Đức Chánh Đẳng Giác với bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp ba-la-mật, bao nhiêu giác, minh, tuệ, thần thông mà không nâng đỡ được mình sao, để cho ma vương đắc ý mỉm cười, có phải thế không? Để cho ma vương đem đến sự tai hại cho Đức Thế Tôn, dù là chút ít? Đại đức có thể nào phá nghi điều ấy cho trẫm không?
- Có thể được, đại vương hãy chú tâm nghe. Về vấn đề bố thí, cúng dường vật thực của thí chủ đến cho người thọ thí, có thể có bốn sự tai hại ngăn trở làm cho sự cúng dường không thành tựu:
Thứ nhất, tai hại khi thí chủ chưa thấy người thọ thí. Tiếp đến, tai hại khi thí chủ đã sẵn có chủ tâm làm vật thực dâng cúng. Sau nữa, tai hại khi thí chủ đã sửa soạn vật thực xong rồi. Cuối cùng, tai hại khi thí chủ dâng cúng vật thực rồi - và người thọ thí đang thọ dụng.
Tâu đại vương ! Trường hợp ma vương ngăn trở che mắt người bà-la-môn, thuộc loại tai hại thứ nhất. Đấy là vì ông bà-la-môn không thấy Đức Thế Tôn, người đến thọ thí tại nhà mình. Đấy là sự tai hại bình thường, vì ông bà-la-môn chưa thấy Phật nên chưa khởi tâm gì cả. Ma vương chỉ có khả năng đem đến sự tai hại ngăn trở loại thứ nhất này mà thôi!
- Thưa, các loại ngăn trở sau là thế nào ạ?
- Thưa, loại tai hại thứ hai là khi thí chủ rắp tâm, chủ tâm sửa soạn vật thực để dâng cúng, thì có người đến với ác tâm phá hoại, tìm cách ngăn cản đi. Ví dụ, người kia dùng lời khôn khéo nói sao cho gia chủ thối thất thiện tâm, làm cho gia chủ chán nản, mệt mỏi, làm cho gia chủ không cảm thấy hứng thú trong việc cúng dường, hoặc có thể rủ gia chủ đi chơi chỗ này chỗ kia hấp dẫn, vui vẻ hơn v.v...
- Vâng, trẫm đã hiểu, còn loại tai hại thứ ba là thế nào?
- Thưa, mặc dầu vật thực đã sửa soạn xong, nhưng người thọ thí chưa đến, kẻ khởi ác tâm phá hoại bèn lân la bên cạnh thí chủ tìm cách nói sao cho gia chủ phân vân, hoài nghi. Ví dụ, cúng dường có phước báu gì đâu, thà để cho chồng con cháu chắt thọ dụng tốt hơn. Hoặc, người thọ thí ấy có tu hành gì đâu, ông ấy là một người xấu, không có đức hạnh. Hoặc, cúng dường đệ tử ông Cù đàm thì các giáo phái khác người ta ghét, người ta sẽ thù hằn, đố kỵ.v.v... Sự lập tâm của người ngăn trở là làm cho gia chủ phân vân, lưỡng lự, hoài nghi ... để gia chủ bỏ hẳn sự cúng dường ấy đi. Đây là điều tai hại thứ ba, tâu đại vương. Còn điều tai hại thứ tư, là khi đang thọ thực, kẻ ác tâm đến, tìm cách ngăn trở bằng cách nói với người thọ thực rằng: Thưa ngài, ngài dùng vật thực này không thanh tịnh do gia chủ có ác tâm với ngài. Cơm bánh ngài dùng là do gạo dơ, nước dơ. Những gia vị ngài dùng có tẩm độc tinh vi, lâu ngày mới phát tác, coi chừng ngài sẽ thọ bệnh, sau một năm nữa sẽ vỡ cửu khiếu ra mà chết .v.v...
Tâu đại vương! Ma vương chỉ làm loại tai hại thứ nhất đến Đức Thế Tôn, còn ba loại tai hại sau; bần tăng không thấy trong tam giới, trời và người, ma vương, phạm thiên, sa môn hoặc bà-la-môn nào có khả năng làm ba loại tai hại ấy đến Đức Phật. Kẻ nào mà ngu si làm ba loại tai hại ấy đến ngài - thì cái đầu của người ấy sẽ bể tan làm bảy mảnh, tâu đại vương!
Lại nữa, một Đức Chánh Đẳng Giác thường có bốn điều bất khả xâm phạm; không ai với uy lực nào có thể đem đến tai hại hoặc phá hoại được, ấy là:
Thứ nhất, bất cứ lợi lộc gì, phẩm vật gì, tứ sự gì mà thí chủ đã khởi tâm hoặc đã sửa soạn cúng dường đến Đức Phật - thì sự cúng dường ấy ắt hẳn thành tựu, không ai với uy lực nào có thể phá hoại được.
Thứ hai, Đức Thế Tôn có hào quang sáu màu thường tỏa sáng xung quanh, bán kính chừng một sải tay - chẳng có ai với uy lực nào có thể làm cho lu mờ hoặc phá hỏng hào quang ấy.
Thứ ba, tuệ giác của Đức Phật rỡ rỡ quang minh, tịch nhiên, viên chiếu, xuyên chiếu, bao trùm, chẳng ai có khả năng tung bóng tối vô minh xâm phạm được.
Thứ tư, sanh mạng của Đức Thế Tôn, chẳng có uy lực ma quân nào động đến được.
Tâu đại vương! Nếu đại vương thông hội thêm bốn điều bất khả xâm phạm ấy thì đại vương sẽ không bao giờ dám đem sức mạnh và uy lực của ma vương để so sánh với uy lực và sức mạnh của Đức Thế Tôn, phải vậy chăng? Việc ma vương che mắt người bà-la-môn là việc làm ẩn khuất, dấu diếm, chứ ma vương nào dám trực diện với Đức Thế Tôn? Việc làm của ma vương chẳng khác gì người đàn bà ngoại tình vụng trộm, hành động lén lút, dấu diếm đức lang quân của mình. Nếu ông chồng mà bắt được vợ mình làm việc vụng trộm ấy, dẫn đến đại vương thì đại vương xử trị ra sao?
- Làng xã thôn ấp người ta cũng trị được, nói đến luật nước tối cao làm gì. Người ta thường hành hạ, đánh đập, gọt tóc, bôi tro vào mặt, bêu rếu giữa xóm làng rồi sau đó cho làm kẻ gia nô, nô lệ!
- Ma vương hành động lén lút cũng dường như thế, nếu mọi người biết mọi người sẽ khinh bỉ. Còn riêng Đức Thế Tôn, dù ma vương có tâm xấu với ngài, có lẽ tâm ngài vẫn là tâm giải thoát như hư không, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã rọi đèn sáng vào khắp các hang hóc tối tăm của câu chuyện, trẫm không hề còn một mảy may nghi! Chỉ có trí tuệ quảng bác, uyên áo, sắc bén của ngài mới giải nạn cho những vấn nghi mà thế gian này không ai làm nổi. Một lần nữa tri ân đại đức vậy.
Đức vua Mi-lan-đà hân hoan quá bèn quỳ sát đất đảnh lễ rồi tán thán:
- Trẫm xin tôn kính đảnh lễ ngài, đại đức Na-tiên cao quý và trí tuệ vô song!
* * *
105. Vì Đức Phật thuyết pháp mà làm cho sáu mươi vị tỳ kheo hộc máu chết!
- Thưa đại đức - có lần trẫm đọc một đoạn kinh nói rằng Đức Thế Tôn thuyết một thời pháp làm cho sáu mươi vị tỳ khưu hộc máu chết hay là họ treo cổ tự vẫn gì đó không rõ! Có phải trẫm nhớ lầm không hở đại đức?
- Có đấy! Bần tăng cũng nhớ là họ hộc máu mà chết khi Đức Thế Tôn thuyết về kinh ... "Lửa của ngũ uẩn"!
- Như thế thì đức Thập Lực Tuệ làm hại họ rồi! Ngài hằng đem điều hạnh phúc đến cho chúng sanh, nhưng ở đây, sao ngài lại đem đến điều tai hại, làm cho sáu mươi sanh mạng phải lìa đời? Đấy là một nghi vấn trọng đại, mong đại đức chỉ giáo cho?
- Tâu đại vương! tất cả sáu mươi vị tỷ kheo ấy vì phạm trọng giới, nhất là những giới bất cộng trụ. Sau khi nghe pháp họ thấy được tội của mình nên ray rứt ăn năn, ruột như bị lửa đốt. Sức nóng như lửa ấy ở bên trong thiêu đốt nên máu trào vọt ra thất khiếu mà chết - thì đâu có phải do Đức Thế Tôn thuyết thời pháp ấy. Họ chết bởi tâm ăn năn, ray rứt của chính họ vậy.
- Đại đức lý luận vậy thật không đủ sức mạnh để thuyết phục trẫm, vì Đức Thế Tôn thuyết pháp đến họ, họ mới hộc máu chết, nếu ngài không thuyết thời pháp ấy, đâu có chuyện gì xảy ra? Sáu mươi vị tỳ khưu chết, nguyên nhân chính là do thời pháp của Đức Thế Tôn! Đại đức không thể biện hộ nữa rồi!
-Như thế là đại vương cương quyết kết tội Đức Đạo sư?
- Đúng như vậy! Đại đức hãy nghe đây. Nếu như có người đàn ông cần dùng đất ổ mối, ông ta lấy cuốc, lấy xẻng vào cái hang lớn. Khi đào lấy đất, mặc dầu người ấy không cố lấp cửa hang, nhưng đất đã sập xuống, bịt chặt miệng hang làm cho những con rắn trú ngụ ở trong ấy ngộp thở mà chết. Thử hỏi đại đức, có phải vì người đàn ông lấy ổ mối là nguyên nhân làm cho những con rắn chết phải chăng?
- Đúng thế, người ta ai cũng có thể kết luận vậy.
- Thì trường hợp của Đức Thập Lực Tuệ nào có khác gì? Ngài dầu không cố ý nhưng chính thời pháp của ngài là nguyên nhân giết hại sáu mươi mạng người, tội ấy không nhỏ đâu.
- Tâu đại vương! Nghe nói thì chí lý lắm, nhưng Đức Đại Giác thuyết pháp đâu phải chỉ riêng cho sáu mươi vị tỳ khưu ấy; ngài thuyết pháp với tâm rộng khắp, bao trùm, hàng ngàn hạng vạn chúng sanh, trời và người, ngài đâu có phân biệt thân và sơ, đâu phân biệt sáu mươi vị tỳ khưu kia giữa hàng ngàn hàng vạn người thính pháp?
- Vẫn không thuyết phục được, đại đức!
- Tâu đại vương! Người nào nghe pháp rồi nghĩ mình đã thực hành tốt, thực hành đúng thì tâm họ sẽ hoan hỷ, thanh tịnh, nhờ vậy mà chứng ngộ đạo quả. Có người nghe pháp rồi thấy mình thực hành sai, hối hận, ruột bị lửa đốt mà đi xuống, xa rời chánh đạo - thì làm sao bắt lỗi được Đức Thế Tôn hở đại vương! Ai làm nấy chịu chứ? Tâm ai sao thì cảnh của họ vậy chứ? Tâm niệm, tư tưởng, ý nghĩ, hành động của mỗi người như thế nào - thì quyết định nghiệp hoặc cảnh thú cho người ấy theo định luật nhân quả không hề sai trật vậy.
- Đại đức có ví dụ cụ thể được điều ấy chăng?
- Vâng, thưa được! Người kia có cây xoài quý, thuê người đến chăm sóc, canh giữ, bảo vệ. Đến khi xoài chín, người kia ra xem, thấy một số trái chín mọng, ngon ngọt trĩu đầy cành; ngoài ra khá nhiều trái rụng xuống đất do sâu đục, chim mổ, dơi cắn. Người chủ cây xoài bắt lỗi người giữ vườn, tại sao không bảo vệ, canh giữ cho chu đáo để đến nỗi xoài rụng nhiều như thế? Đại vương nghĩ thế nào? Lời bắt tội của người chủ cây xoài có hữu lý không?
- Thưa không, hữu lý sao được khi xoài xanh tốt không có sâu sia, dơi chim phá thì nó tốt, chín mọng, đẹp. Trái lại thì nó rụng là điều tự nhiên thôi!
- Cũng vậy là thời pháp của Đức Thế Tôn, tâu đại vương! Xoài chín mọng, ngọt ... là do bản thân nó hoàn hảo, kiện toàn, trái rơi rụng là do bản thân nó có mầm giống tiêu hoại bởi sâu bệnh. Cũng thời pháp ấy mà có người đi lên, hay chứng ngộ đạo quả là do tâm họ tốt, thực hành tốt. Trái lại, có người đi xuống, rơi xuống là do tâm họ xấu, thực hành sai! Đại vương bắt lỗi Đức Thế Tôn khác nào đại vương bắt lỗi người canh giữ xoài! Cả hai đều không liên hệ gì đến tác ý của Đức Thế Tôn cả!
- Nghe có vẻ hữu ý lắm, thưa đại đức! Và như thế chính tác ý mới quan trọng sao?
- Tâu đại vương! Tác ý mới chính là vấn đề! Tác ý là hướng tâm, khởi tâm đến, điều ấy đại vương hiểu rồi. Khởi tâm của Đức Thế Tôn là quảng đại, bi mẫn, với lòng từ vô lượng, thuyết pháp đến chúng sanh để chúng sanh tự thấy những sai lầm của mình để tu sửa, để hướng thượng, để giải thoát khổ đau. Vậy những khởi tâm với các trạng thái tâm ấy là có tội sao hở đại vương?
- Thế Đức Thế Tôn vô tình mà làm cho sáu mươi vị tỳ khưu kia chết, và vô tình là không có tội phải chăng? Ví như người nông phu làm ruộng, trước khi gieo giống, lấy trâu bò cày sâu đám ruộng của mình. Khi làm vậy, người nông phu chỉ khởi tâm cho đám ruộng được tốt, thu hoạch được nhiều lúa. Nhưng những nhát cày của ông ta đã làm chết bao nhiêu cây cỏ, làm chết bao nhiêu côn trùng! Đấy là vô tình, và vô tình là không có tội sao? Trong nhân quả trùng trùng, trực tiếp và gián tiếp, xét cho kỹ vẫn có tội như thường! Ví như người kia ép mía, khởi tâm để có nước ngon ngọt uống, nhưng máy ép mía của y đã ép chết biết bao nhiêu kiến sâu ở trong. Thế không có tội sao, đại đức? Hoặc nếu đại đức nói Đức Thế Tôn thuyết pháp là chỉ để dành cho những chúng sanh có trí, có căn cơ bậc thượng còn kẻ ngu si hạ liệt thì không cần đến; ví như người thợ đẽo, chỉ lựa lấy những khoảng gỗ cần dùng, cái nào xấu hoặc không cần thì đẽo bỏ đi! Như thế có được chăng, có đúng chăng? Khi Đức Thế Tôn thuyết pháp để người lành thì đi lên, người xấu thì đi xuống, việc làm ấy của Đức Thế Tôn chẳng khác gì người đẽo gỗ kia vậy! Xin đại đức giải nghi vấn nạn ấy cho!
- Quả là lời buộc tội rất hùng hồn, rất đanh thép, tuy nhiên trường hợp Đức Thế Tôn không phải là vô tình như ông nông phu kia, như người ép mía nọ. Cũng không phải như ông đẽo gỗ chỉ lựa thứ gỗ mình dùng được! Đức Thế Tôn ở ngoài và ở trên mọi lượng ước, nghĩ nghì của chúng ta, đại vương hãy từ từ, cố gắng lắng nghe.
- Thưa vâng.
- Đại vương, ví như một trận mưa lớn xuống một vùng dân cư và đồng ruộng, vườn tược; cây lớn thì hứng được nước nhiều, cây con thì hướng nước ít; người trỉa bắp thì vui mừng, người phơi lúa thì khổ sở. Việc xảy ra như vậy thì cây con hứng ít nước và người phơi lúa có trách trận mưa làm ác không hở đại vương?
- Không thể trách được!
- Đức Thế Tôn thuyết pháp đến chúng sanh, hoàn toàn với tâm bình đẳng như trận mưa ấy. Chúng sanh căn cơ bậc thượng như cây lớn thì hứng nước nhiều, như căn cơ bậc hạ, cây con thì hứng nước ít. Có người đắc pháp thì vui mừng như người trỉa bắp, kẻ khổ như người phơi lúa là sáu mươi vị tỳ kheo kia, hộc máu chết, lẽ nào lại trách Đức Thế Tôn và thời thuyết pháp của Đức Thế Tôn cho được, hở đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ một hồi:
- Ví dụ này của đại đức thật là xác đáng, là sít sao với chủ đề vậy. Đúng, thời pháp chính là một trận mưa bình đẳng, là pháp vũ! Đúng, là nói vô tình cũng sai vậy. Xin đại đức cho nghe tiếp.
- Thời pháp ví như mưa thì thời pháp cũng được ví như nắng. Nắng chiếu xuống nhân gian cũng bình đẳng như thế! Cây lớn ngoài khoảng trống thì hứng được nắng nhiều. Những cây nhỏ trong một khu rừng chằng chịt thì cố vươn ra mà đón nhận một vài tia nắng để chuyển hóa nhựa luyện và sức sống ...! Cứ suy ra thêm nữa thì nắng đâu có tội tình gì, phải thế không đại vương?
- Vâng, đúng là không có tội!
- Ngoài ra, điều này mới là bất khả tư nghì hơn, tâu đại vương! Đức Thế Tôn có cả thảy tám minh, do vậy, ngài biết rõ, thấy rõ căn, cơ, nhân, quả, nghiệp, duyên, báo ... của sáu mươi vị tỷ kheo kia hơn chúng ta chứ?
- Thưa vâng!
- Vậy thì như trường hợp Đề-bà-đạt-đa đọa địa ngục là tốt hơn, thì sáu mươi vị tỷ kheo kia, chết đi như thế không tốt hơn cho họ hay sao? Nếu họ không nghe pháp, họ sống si mê, lầm lạc với tội lỗi của mình, sẽ còn trầm luân khổ đau bao nhiêu kiếp nữa? Còn họ nhờ nghe pháp, tâm tàm quý [*] khởi sanh, họ bắt đầu biết mình tội lỗi nặng nề. Tâm tàm quý ấy quá mạnh làm cho họ hộc máu, đoạn lìa sự sống. Có thể họ sẽ bị trả quả khổ, nhưng chính tâm tàm quí mạnh mẽ kia sẽ là pháp hỗ trợ, nâng đỡ họ trong các kiếp sống sau này. Điều ấy có thể xảy ra không, đại vương?
[*] hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi.
- Có thể lắm, đại đức!
- "Có thể", nghĩa là chúng ta chưa vội quy kết, kết luận cái "không thể", phải vậy không đại vương?
- Chí lý!
- Thế sao trước đây, đại vương sớm đổ tội cho Đức Thế Tôn và thời thuyết pháp của ngài làm tai hại đến sáu mươi vị tỷ kheo?
Đức vua Mi-lan-đà cúi đầu xuống:
- Vâng, trẫm thấy trẫm còn quá ư nông nổi.
Chưa dừng ngang đó, đại đức Na-tiên còn hùng hồn thuyết giảng thêm:
- Đại vương! chúng sanh có mặt trên đời này, có kẻ đi xuống, kẻ đi lên, kẻ vui, kẻ khổ, kẻ trầm luân, người giải thoát đều do duyên nghiệp, ngu trí quyết định. Ở đây, nhân quả nó làm việc rất bình đẳng, rất phân minh, chẳng thiên vị ai và bỏ quên ai bao giờ!
Đại vương hãy nghĩ xem ! Thuốc độc đâu phải lúc nào cũng làm chết người? Thuốc bổ đâu phải luôn luôn là cứu người? Thuốc trường sanh bất tử đâu phải ai uống vào cũng bất tử - mà đôi khi có kẻ chết sớm vì thuốc trường sanh bất tử ấy! Vật thực nuôi mạng chúng sanh, nhưng vật thực cũng giết chết rất nhiều chúng sanh ... Trọng tâm, sợi chỉ đỏ của mấy ví dụ bần tăng nêu ở trên chỉ quy kết về một điều: ngoại cảnh chỉ là duyên, là trợ duyên, thuận duyên hoặc chướng duyên; nó sẽ tác động thuận chiều hay nghịch chiều, lợi hay hại, vui hay khổ, tốt hay xấu ... vào bên trong cái nhân, từ trong tâm của chúng sanh; mà cái tâm ấy là nơi tích lũy vô lượng hạt giống từ quá khứ; vậy chúng ta không thể nào quy kết một hiện tượng là xấu hay tốt được, là lợi hay hại được! Phải thế không đại vương?
- Vâng, điều này rất sâu xa, nan tư nghì vậy.
- Đúng thế, căn, cơ, nhân, quả, duyên, báo ... của chúng sanh, chúng ta làm sao mà hiểu, mà thấy, mà biết hết được!
- Thưa, chỉ có đấng Toàn Giác!
- Vậy thì sáu mươi vị tỳ khưu kia hộc máu chết, đại vương không còn quy kết Đức Thế Tôn đem đến họa hại cho họ nữa chứ?
- Một trăm lần cái chết như thế vẫn chưa đánh đổi được môt lần tỉnh thức hoặc nghe được một thời pháp chơn chánh, thưa đại đức!
Đại đức Na-tiên chợt hô "sàdhu", lành thay, rồi vui vẻ nói lớn:
- Cảm ơn đại vương đã hoàn toàn nắm vững vấn đề!
- Trẫm còn cảm ơn đại đức nhiều lần hơn thế nữa!
* * *
106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?
- Thưa đại đức! "Người đắc pháp xuất thế gian là vô cùng cao quý, xứng đáng để cho chư thiên và nhân loại đảnh lễ, cúng dường". Lời của Đức Đại Bi thuyết cho Setthà nghe như thế có đúng chăng?
- Thưa đúng.
- Thế tại sao sau đó, Đức Thế Tôn còn thuyết rằng: "Những tại gia cư sĩ đắc quả thánh Tu-đà-huờn rồi, họ chỉ còn nghiệp rất nhẹ, không còn đọa vào bốn đường ác, đức tin Tam Bảo đã vững chắc, là người đã thấy rõ pháp; tuy nhiên, những tại gia cư sĩ đắc quả Thánh Tu-đà-huờn ấy, khi gặp chư tỳ khưu Tăng bất kể thánh hay phàm, đều phải đứng dậy, mời ngồi, lễ bái và cúng dường". Lời thuyết này cũng đúng chăng, thưa đại đức?
- Vâng, cũng rất đúng!
- Vậy thì lời thuyết sau phủ định lời thuyết trước? Lời thuyết sau bắt các vị Thánh đã đắc quả xuất thế gian phải lễ bái, cúng dường những vị phàm Tăng thế gian sao? Nghe có lọt tai không chứ?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Rất lọt tai là khác, nếu như đại vương biết rõ những pháp cao thượng mà những vị phàm Tăng kia đang thực hành, đang y chỉ, đang bảo lưu, gìn giữ, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy lật đứng dậy những cái gì khuất lấp ở trong cái đầu óc u mê của trẫm!
- Đại vương đừng quá tự khiêm, bần tăng sẽ nói đây! Là những vị phàm Tăng ấy, tâu đại vương, họ hằng có hai mươi pháp hành cao thượng của sa môn. Ngoài ra, còn hai pháp cao thượng nữa thuộc về phẩm mạo, tăng tướng nhằm hỗ trợ, nâng đỡ cho hai mươi pháp cao thượng nêu trên. Như vậy, tất cả có hai mươi hai pháp mà họ đang y chỉ, thực hành, đáng để cho các vị Thánh cư sĩ Tu-đà-huờn ngưỡng mộ, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, tâu đại vương! Hai mươi pháp ấy như sau:
Một là, tâm bi mẫn và sự chơn thật; Hai là, hỷ hoan trong đời sống thanh cao; Ba là, đang thực hành pháp; Bốn là, tứ vô lượng tâm; Năm là, thu thúc lục căn;
Thứ sáu, thu thúc trong giới bổn pàtimokkha; Thứ bảy, nhẫn nhục; Thứ tám, vắng lặng; Thứ chín, thỏa thích trong chánh pháp; Thứ mười, thực hành pháp cao thượng;
Mười một, thường thích ở ẩn; Mười hai, hổ thẹn tội lỗi; Mười ba, ghê sợ tội lỗi; Mười bốn, tinh tấn; Mười lăm, không giải đãi (dễ duôi);
Mười sáu, biết học hỏi giáo pháp; Mười bảy, biết giảng giải giáo pháp; Mười tám, thỏa thích trong giới đức; Mười chín, không tham muốn, không chất chứa, không luyến tiếc; Hai mươi là, đầy đủ tất cả các điều học.
Và hai pháp cao thượng thuộc phẩm mạo, tăng tướng là:
Thứ nhất, thọ dụng y cà-sa; Thứ hai, đầu cạo trọc.
Đại vương thấy thế nào, hai mươi hai pháp ấy có cao thượng chăng?
- Thưa, đồng ý là cao thượng, nhưng dẫu sao cũng mới chỉ là pháp cao thượng chứ không phải là người cao thượng!
- Nhưng mà chư tỳ khưu Tăng có vị đã chứng, đang chứng, và sẽ chứng, tâu đại vương!
- Xin đại đức tuần tự giảng cho nghe. Thật là đáng khâm phục trí tuệ biện tài của đại đức nếu như đại đức giảng trôi nạn vấn của trẫm!
- Vâng, đại vương nghĩ thế nào, nếu có vị tỳ khưu thọ trì đầy đủ hai mươi hai pháp ấy; thực hành không cho hư hỏng hai mươi hai pháp ấy, thực hành trọn vẹn hai mươi hai pháp ấy; có thể tiến từ bậc hữu học lên bậc vô học, đắc quả A-la-hán thì vị cư sĩ Thánh quả Tu-đà-huờn kia nên đứng dậy mời chào, lễ bái, cúng dường các vị tỳ khưu ấy không?
- Rất xứng đáng!
- Tại sao lại xứng đáng?
- Vì dù sao Thánh cư sĩ Tu-đá-huờn đâu có được hai mươi hai pháp ấy? Một vì tỳ khưu đắc Tu-đá-huờn, quả vị tuy bằng người cư sĩ nhưng sẽ cao thượng hơn người cư sĩ vì vị tỳ kheo còn có hai mươi hai pháp quý báu ở bên mình, đáng được trọng nể hơn vậy? Nhưng nếu vị tỳ khưu thọ trì hai mươi hai pháp, có thực hành nhưng chưa thành tựu đầy đủ hai mươi hai pháp ấy; chưa đạt địa vị hữu học hoặc vô học thì làm sao vị Thánh cư sĩ lại lễ bái, cúng dường được, đại đức?
- Thưa, vẫn rất xứng đáng lễ bái, cúng dường - vì vị Thánh cư sĩ sẽ nghĩ rằng: "Dầu sao, các ngài tỳ khưu cũng là môn đệ bậc cao của Đức Phật, đã thọ trì giới bổn thanh tịnh, đã từng thuyết giới bổn thanh tịnh. Các ngài đều có khả năng làm những việc mà những cư sĩ bậc Thánh không thể làm được, là có khả năng cho những người xuất gia thọ sa đi giới và thọ cụ túc giới. Ngoài ra có vị tỳ khưu, dẫu là phàm Tăng, nhưng, chính họ là người kế thừa, bảo lưu, giữ gìn hạt giống bồ-đề làm cho Phật giáo được hưng thịnh lâu dài". Tâu đại vương! Nếu vị Thánh cư sĩ suy nghĩ như thế ở trong tâm, vị ấy có đứng dậy, mời ngồi, lễ bái, rót nước, dâng vật thực đến cho chư tỳ khưu phàm Tăng chăng?
- Thưa, suy nghĩ ấy rất chánh đáng, rất thuyết phục, xứng đáng đảnh lễ, cúng dường lắm! Nhưng, ngoài ra, các vị tỳ khưu có thọ trì hai mươi hai pháp ấy, nhưng khuyết tật hoặc hư hỏng hai mươi hai pháp ấy - thì chắc chắn không xứng đáng rồi!
- Vẫn rất xứng đáng, tâu đại vương! Vì bậc Thánh cư sĩ sẽ suy nghĩ rằng: "Họ hư hỏng, khuyết tật nhưng họ vẫn đang trong tăng tướng và phẩm mạo cao thượng; họ đang đi trên con đường phạm hạnh, họ ăn một bữa, họ thiểu dục, tri túc; họ thường sống nơi tịch mịch, xa chỗ huyên náo ồn ào, xa chỗ ngũ dục thấp hèn! ... Còn ta là gì? Ta là cư sĩ áo trắng, dù đắc quả Tu-đà-huờn, nhưng ta vẫn có gia đình với vợ và con, bạc tiền, của cải, danh vọng, địa vị, nghề nghiệp nuôi sống. Ta không cắt móng tay, không cạo râu tóc, vẫn trang điểm, vẫn thoa vật thơm, y phục lành tốt, thọ hưởng ngũ dục, ăn ngon, mặc ấm, giường cao, nhà rộng v.v... Chỉ nguyên nhân ấy thôi, ta đã phải lễ bái, cúng dường đến các ngài rồi. Huống hồ các ngài, chư phàm Tăng ấy còn có khả năng dạy giáo pháp, truyền giới luật cho người tại gia, người xuất gia? Đấy là những việc mà không một Thánh cư sĩ siêu phàm nào làm được". Đại vương! nếu khi mà vị Thánh cư sĩ suy nghĩ như thế - thì vị ấy có đứng dậy tiếp rước, mời ngồi với hai tay chấp lại thành kính không, hở đại vương?
- Ồ! nếu mà suy nghĩ vậy thì quả thật trẫm đã thua xa trí tuệ thấu suốt ngọn ngành của đại đức rồi!
- Không dám!
- Chắc chắn là vậy! Vì sự gợi ý sáng suốt của đại đức mà trẫm có được một ví dụ như sau: "Trẫm có một vị hoàng tử, trẫm cho đi học văn chương, triết học ... nơi một thầy bà-la-môn, là một bậc giáo thọ lớn. Nhờ sự giáo huấn của thầy bà-la-môn lỗi lạc, con trẫm được nên người, thành tài. Nếu sau này mà con trẫm có lên vương, thì trẫm cũng phải hằng nhắc nhở con trẫm rằng: Con nên hằng đến thăm thầy, kính trọng, đảnh lễ thầy, vì nhờ thầy mà bây giờ con đã trở nên một vị vua xứng đáng". Thưa đại đức! Cũng vậy là vị Thánh cư sĩ kia, mặc dầu ở địa vị cao hơn, quý báu hơn; nhưng dù sao cũng nhờ các vị tỳ khưu phàm Tăng, là bậc thầy dạy đạo cho mình, cho mình thọ trì tam quy, ngũ giới, dạy pháp học, pháp hành ... để mình có cơ hội tiến tu và nhập vào dòng Thánh ngày hôm nay! Chỉ ngay cái sự tri ân ấy thôi cũng xứng đáng lễ bái, cúng dường rồi, phải vậy không đại đức?
- Rất là chính xác! Đại vương có thể suy diễn cả những điều mà bần tăng đang định nói ra, chứng tỏ đại vương có thể đi đến một sự nhất trí về kết luận của bần tăng như sau: "Không kể phàm, không kể thánh - chỉ ngay cái phẩm vị tỳ khưu - đã là phẩm vị cao thượng, xứng đáng cho trời và người lễ bái, tôn trọng, cúng dường".
- Rất đồng ý!
- Cho nên, vị Tu-đà-huờn cư sĩ lễ bái, cúng dường phẩm vị tỳ khưu là phải lẽ. Cho chí một vị cư sĩ A-la-hán, muốn bảo toàn phẩm hạnh thanh cao của mình, đắc quả A-la-hán trong ngày nào [*] thì phải xuất gia phẩm vị tỳ khưu trong ngày ấy. Nếu quá một ngày không gặp đủ số Tăng hội, thì vị cư sĩ A-la-hán ấy đành phải Niết bàn! Cho hay, phẩm vị tỳ khưu cao thượng, quý báu dường ấy mà ít người hiểu cho trọn vẹn, thưa đại vương!
[*] Đôi chỗ nói là bảy ngày.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hóm hỉnh:
- Gặp được bậc thiện trí thức thông tuệ như đại đức đây, hôm nay, đã làm cho tâm tư trẫm mát mẻ, rỗng không nghi vấn - dẫu trẫm là vị đế vương sang cả, quyền uy vô tận; đại đức chỉ là một công dân thôi, trẫm cũng phải cung kính, đảnh lễ như thường!
- Đại vương quả là bậc thiện trí!
- Không dám!
* * *
107. Giáo hội của Đức Tôn Sư có bị phân ly, chia rẽ không?
- Thưa đại đức! Nghe nói rằng, giáo hội của Đức Tôn Sư có tinh thần dân chủ, trật tự và kỷ cương nhất trên thế gian. Các môn đệ của ngài sống tương kính, tương ái, đoàn kết và hòa hợp, không ở đâu có được! Phải vậy không đại đức!
- Thưa vâng.
- Thế sao Đề-bà-đạt-đa lại chia rẽ được giáo hội ấy? Ông ta đã dẫn năm trăm vị tỳ khưu lên núi Kên kên để thành lập một giáo hội riêng? Vậy ra lời nói giáo hội của Đức Tôn Sư đoàn kết, hòa hợp là không đúng ư? Giáo hội của Đức Tôn Sư rồi cũng bị ly tán, phân ly, chia rẽ hay sao? Câu hỏi này đối với trẫm thật đau nhức vì chúng ngoại đạo lấy lý do đó để đàm tiếu. Xin đại đức hãy thi thố sức mạnh trí tuệ để giải đáp cho xong mối nghi này, trẫm tri ân đại đức lắm vậy!
- Đại vương! Trên thế gian này có cái gì mà không bị phân ly, ly tán, tụ mà không tan, hợp mà không lìa được, hở đại vương? Tất cả pháp hữu vi dầu lớn như núi Tu di, dù nhỏ như mảnh hư trần đều bị sự tác động của các định luật mà thành, trụ, hoại, không - ấy là lẽ thường! Tất thảy vũ trụ vạn hữu đều bị định luật vô thường biến hoại chi phối. Cho nên, đến một lúc nào đó, mẹ cũng phải xa con, chồng phải xa vợ, anh trai, em gái, quyến thuộc, bạn hữu ... cũng vậy, chẳng bao giờ được ở vĩnh viễn bên nhau. Chiếc thuyền ra khơi kia được đóng một cách vững chắc, kiên cố - nhưng chỉ cần một cơn sóng to đánh vào là đã bị tan vỡ, gỗ lìa theo gỗ, buồm rã theo buồm! Trái cây kia có quả rất ngon ngọt nhưng chỉ cần một thân dây đắng quấn quanh, ngon ngọt của trái cây kia đâu còn nữa? Bạc vàng lóng lánh sáng đẹp nhưng trộn với đồng thì màu sắc tất phải biến dị!
Tâu đại vương! Đức Thế Tôn có thuyết về tam tướng, và đấy là định luật tất yếu của mọi hiện hữu. Vậy thì ai nói rằng môn đệ của Đức Như Lai không phân ly, không ly tán là không đúng sự thật, không đúng với pháp, không đúng với chân lý. Nhận thức ấy không phù hợp với cái thấy biết của bậc trí tuệ. Lời khen ngợi ấy thật không đẹp lòng, vừa ý bậc trí giả đâu!
Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên:
- Vậy là ngược lại, giáo hội Đức Tôn Sư là giáo hội không hòa hợp, không đoàn kết, luôn luôn phân ly, tan rã?
- Chẳng phải thế đâu, đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà lại ngỡ ngàng:
- Thế là sao ạ? Trẫm không nắm bắt được điều đại đức muốn nói?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Tâu đại vương! phân ly, ly tán, tụ tan, tan tụ, thay đổi, biến hoại là định luật tất yếu của pháp hữu vi. Giáo hội của Đức Tôn Sư cũng phải bị định luật ấy chi phối. Tuy nhiên, Đức Tôn Sư có dạy rằng: "Nơi nào mà Tăng chúng sống thuận hòa, tương ái, tương kính với nhau; nơi nào mà Tăng chúng sống với nhau bằng tinh thần lục hòa và tứ nhiệp - thì nơi ấy tất sẽ có được sự đoàn kết, hòa hợp, không phân ly, không chia rẽ!" Đại vương phải hiểu cho thật đúng là như thế.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- À, ra trẫm đã hiểu.
- Lục hòa, tứ nhiếp chính là pháp hỗ trợ, nâng đỡ cho môn đệ của Đức Tôn Sư. Lục hòa là để các môn đệ sống với nhau được lợi ích, thuận hòa, an lạc. Tứ nhiếp là để sống trong tương quan giữa thầy và trò, giữa Đức Phật và môn đệ, giữa người xuất gia và kẻ tại gia, nói rộng ra là với nhân quần xã hội.
- Xin đại đức giảng rộng cho nghe.
- Thưa vâng, đại vương có từng nghe ở đâu mà Đức Phật và Chư Tăng, hoặc Chư Tăng sống với nhau mà thường lấy vật không cho của kẻ khác? Sống với nhau mà nói lời khiếm nhã, cộc cằn, thô lỗ? Sống với nhau mà ích kỷ, tư kỷ hoặc có những hành động đưa đến hại người, không có lợi cho người? Hoặc sống với nhau, ăn ở với nhau mà không bình đẳng với nhau, có giai cấp, có địa vị?
- Thưa không, đại đức! Đức Phật và môn đệ của ngài sống với nhau chưa hề nghe có những việc như vậy xảy ra, mà ngược lại. Họ không bao giờ lấy vật không được cho mà họ còn san sẻ, chia sớt, giúp đỡ nhau những tài vật có được. Họ sống với tâm xả ly, với hạnh không dính mắc. Họ nói lời từ hòa, hiền thiện, thuận tai và mát mẻ đôi tai của mọi người. Họ luôn luôn khuyến thiện, hành động thiện để cùng lợi mình lợi người. Họ bình đẳng trong ăn, ở, vui, khổ, không có giai cấp này phục vụ giai cấp kia ...
Đại đức Na-tiên gật đầu:
- Đúng vậy, tâu đại vương! Chính nhờ vậy, chính nhờ Đức Phật và môn đệ sống như vậy giữa nhau và giữa mọi người; luôn lấy bốn pháp tế độ: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự làm thước đo, làm kim chỉ nam, làm pháp hộ trì nâng đỡ; nên đã được thế gian tán thán: "Giáo hội của Đức Phật, Chư Tăng và các môn đệ sống đoàn kết, hòa hợp, không có phân ly, không có chia rẽ ... mà sống trong một trật tự, kỷ cương, hòa bình và tương kính, tương ái lẫn nhau", cũng không ngoa vậy!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm đã hoàn toàn thông hiểu rồi, những nhức đau bây giờ đã trở nên mát mẻ và lành lặn!
* * *
108. Tỳ kheo tạo nghiệp do không biết, tại sao lại không có tội?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Người nào không biết rõ ác nghiệp mà tạo ác nghiệp như sát sanh, trộm cắp v.v... thì bị tội nặng". Một chỗ khác, Đức Thập Lực Tuệ lại thuyết ở trong luật rằng: "Tỳ khưu tạo ác nghiệp do không biết thì không phạm tội". Thế thì nếu ta tin theo lời thuyết trước thì không thể tin theo lời thuyết sau. Hai lời thuyết đó như hai con đường không thể gặp nhau hoặc như cách nhau một cái biển mênh mông khó vượt qua! Mong rằng đại đức hãy giải nghi cho trẫm.
- Thật dễ dàng thôi, tâu đại vương! Người nào không biết rõ ác nghiệp mà tạo ác nghiệp - có nghĩa là không biết rõ ác nghiệp nhưng đã tạo ác nghiệp ấy do cố ý, do cố tình, do tưởng biết, do tâm tạo tác - nên phải bị tội báo nặng, đó là điều dĩ nhiên. Nhưng trong luật, Đức Thế Tôn nói rằng, chư tỳ khưu tạo ác nghiệp do không biết, không phạm tội! Không biết mà tạo ác nghiệp, có nghĩa là có tạo ác nghiệp nhưng do không cố ý, không cố tình, do không tưởng biết, do tâm không tạo tác - nên không có tội!
Nói tóm lại, nếu đại vương để ý một bên là có tác ý, cố ý - một bên là không tác ý, không cố ý thì đại vương sẽ rõ biết đâu có tội, đâu không tội, và như thế thì đại vương sẽ không còn thắc mắc nữa.
- Vâng, vâng! Trẫm hiểu rồi! quả là đơn giản.
* * *
109. Đức Thế Tôn có lãnh đạo, bảo quản giáo hội tỳ khưu không?
- Thưa đại đức, trẫm nhớ không lầm thì có lần Đức Thế Tôn tâm sự với ngài Ànanda rằng: "Này Ànanda, có người nghĩ rằng Như Lai sẽ bảo quản, lãnh đạo chư tỳ khưu Tăng hoặc giáo hội tỳ khưu Tăng sẽ tùy thuộc vào Như Lai! Này Ànanda, Như Lai không nghĩ rằng có người nào phải lãnh đạo giáo hội các tỳ khưu hoặc giáo hội phải tùy thuộc một người nào!".
- Tâu đại vương! Đúng là Đức Đại Giác có thuyết như thế!
- Rồi ở đâu đó, khi Đức Phật tán dương những đức tính của vị Bồ-tát đương lai sắp thành Phật Di lặc, lại thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Đức Phật Di lặc đương lai có công hạnh rất lớn, ngài bảo quản và lãnh đạo chư tỳ khưu Tăng đông đến hằng trăm ngàn vị, còn hiện nay Như Lai bảo quản và lãnh đạo chư tỳ khưu Tăng chỉ hằng ngàn vị mà thôi!".
- Đúng là có vậy, tâu đại vương!
- Tại sao có sự mâu thuẫn thế, thưa đại đức? Một bên bảo là không bảo quản, lãnh đạo, một bên là xác định có bảo quản, lãnh đạo? Lời và ý sao chống chỏi nhau đến vậy, hay ý Đức Thế Tôn nói khác, thưa đại đức?
- Đúng là vậy đó, đại vương, lời tuyên bố trên là sự thật, đồng thời nó có ý nghĩa khác nữa! Chính vào thời ấy, chúng ngoại đạo tưởng rằng, Đức Thế Tôn thành lập giáo hội Tăng-già để ngài làm giáo chủ và biến giáo hội ấy thành sở hữu của mình. Lại nữa, Đề-bà-đạt-đa manh tâm thay Phật lãnh đạo giáo hội và muốn giáo hội tùy thuộc nơi ông ta!
Tâu đại vương! Đức Đại Giác có mặt ở trên đời là vì lợi ích cho chư thiên và loài người, ngài đã dứt bỏ trọn vẹn mọi thằng thúc trói buộc, đã rời xa những ảo giác, ảo tưởng về cái gọi là Ta và của Ta! Do vậy, vì nhân duyên mà có giáo hội, vì nhân duyên mà phải bảo quản, lãnh đạo - chứ không phải "chấp thủ", "dính mắc" vào cái giáo hội giả danh ấy! Ngài thường dạy rằng, chính mỗi thầy là một hòn đảo cho chính mình, là nơi nương tựa cho mình, đừng nương tựa vào bất cứ ai, nương tựa vào những cái ở bên ngoài mình! Ngài có mặt ở trên đời là chỉ cho tất cả chúng sanh phải tự thành tựu thiện pháp, phải biết rằng chúng sanh nào cũng có khả năng thành Phật. Và cho dầu công đức ngài có lớn lao ngài cũng không nghĩ rằng ngài đã tạo công đức cho chúng sanh, chúng sanh nương nhờ ngài! Tâm và tuệ của bậc Đại Giác, chúng ta không thể tư lường được. Những ý niệm Ta và của Ta chính là trọng tâm mà Đức Thế Tôn muốn giáo huấn môn đệ phải thấy rõ, nó hàm ẩn vi tế ở trong hai dẫn chứng của đại vương đưa ra! Ấy là pháp ngũ uẩn trong thường ngữ đấy, tâu đại vương!
- Đại đức có thể cho nghe ví dụ được không?
- Thưa vâng, ví như mặt đất lớn rộng này là nơi trú xứ, nơi nương gá của tất cả chúng sanh. Mặt đất ấy không khởi tâm hoan hỷ hay bất bình đối với chúng sanh nào cả. Và mặt đất cũng không nghĩ rằng chúng sanh là của mình hay không phải của mình. Tâm mặt đất luôn luôn trạm nhiên, thanh tịnh và bình đẳng. Mặt đất không có ý niệm ngã và ngã sở như thế nào thì Đức Thế Tôn cũng y như thế, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Vâng, ví như đám mưa lớn rơi xuống cho người, loài vật, thảo mộc; đám mưa thật sự đã nuôi dưỡng quả đất, nuôi dưỡng chúng sanh, nhưng đám mưa không hề có tác ý nhận lấy bất kỳ một ân huệ nào của chúng sanh cả. Đức Thế Tôn cũng vắng bặt tất cả mọi tạo tác phước hữu lậu và vắng bặt tất cả mọi chấp thủ ngã và ngã sở cũng như vậy đó, tâu đại vương!
* * *
110. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc lục căn?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Sự thu thúc tốt lắm. Thu thúc thân, thu thúc khẩu, thu thúc ý và thu thúc tất cả thì tốt đẹp biết bao nhiêu!" Đức Thế Tôn đã không hết lời khen ngợi về sự thu thúc như thế, nhưng một lần nọ, giữa đầy đủ tứ chúng và cận sự nam nữ hai hàng, ngài đã không giữ được sự thu thúc tốt đẹp ấy.
- Đại vương cứ nói tiếp tục.
- Vâng, lần ấy quả là Đức Thế Tôn đã không biết mắc cỡ, đã lò nam căn ra để khắp chư thiên và nhân loại cùng xem! Lại nữa, ngài lại còn chơi cái trò kỳ dị là le luỡi đụng tới lỗ mũi và hai lỗ tai, rồi lại đưa cái lưỡi lên che kín cả vừng trán! Thưa đại đức, ngài nghĩ thế nào, một Đức Chánh Đẳng Giác, một bậc thầy mô phạm cao quý của trời và người mà lại làm cái việc không thích đáng, một việc làm mà ai cũng cười chê như thế hay sao?
- Đại vương! Đức Thế Tôn sở dĩ phải hiện tướng nam căn và tướng lưỡi rộng dài là để tạo duyên lành cho ông bà-la-môn Sela, cốt ý chỉ để cho ông bà-la-môn Sela thấy, chứ tứ chúng, cận sự nam nữ hai hàng và chư thiên không thể thấy được, tâu đại vương!
- Trẫm không tin điều đó, đại đức!
- Rất có lý khi đại vương không tin, vì thứ nhất là đại vương không thể biết được tâm, tuệ cùng các khả năng thần thông bất khả tư nghị của Phật. Thứ hai là đại vương không biết được tâm của bà-la-môn Sela!
- Chuyện ấy thì có liên hệ gì hở đại đức?
- Sao lại không liên hệ! Ví như có một người bị đau khổ, đại vương có thể nào biết được sự thọ khổ trong tâm của người ấy ra sao không?
- Thưa, không thể biết.
- Cũng như vậy là việc làm của Đức Tôn Sư! Chỉ có Đức Tôn Sư là biết rõ việc làm của Ngài, là để tạo duyên lành cho bà-la-môn Sela. Và chính bà-la-môn Sela mới biết rằng ông ta đã nhận được duyên lành ấy. Còn đại vương, vì không thấy, không biết nên đại vương nghi ngờ, có đúng thế chăng?
- Có thể như vậy.
- Ví như ma qủy nhập vào một bệnh nhân, chỉ có bệnh nhân ấy mới biết rõ ma quỷ đã làm gì ở trong thân tâm mình, còn người khác thì không thể biết được. Cũng thế là trường hợp Đức Thế Tôn. Bà-la-môn Sela sau khi quan sát Đức Thế Tôn bằng đôi mắt của một bậc thầy tướng pháp, ông ta thấy Đức Thế Tôn hầu như có đủ ba mươi hai quý tướng cùng tám mươi vẻ đẹp của bậc đại nhân - chỉ thiếu có hai tướng là tướng nam căn mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài. Đức Thế Tôn biết rằng, nếu bà-la-môn Sela thấy thêm được hai tướng ấy, ông ta sẽ phát khởi lòng tin, và đấy là duyên lành để cho ông ta chứng ngộ đạo quả sau này! Vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã dùng thần thông hiện tướng cái bóng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài. Việc làm ấy chỉ có Đức Thế Tôn biết và ông bà-la-môn Sela thấy, và lợi ích của nó ra sao chỉ có bà-la-môn Sela cảm nhận được mà thôi!
- Nếu Đức Thế Tôn dùng thần thông thì trẫm có thể tin được. Và ý của đại đức nói là Đức Thế Tôn đã dùng trí tuệ thiện xảo, tạo duyên lành cho ông bà-la-môn kia sau này thấy được giáo pháp cao siêu hay sao?
- Thưa vâng, trí tuệ thiện xảo - là cụm từ mà đại vương đã dùng rất hay - để chỉ cho phương tiện giáo hóa tùy căn cơ, tùy duyên, tùy căn, tùy cảnh mà Đức Thế Tôn thường dùng để hóa độ chúng sanh! Vậy là đại vương đã bắt đầu hiểu rõ vấn đề.
- Chưa đâu, xin đại đức cho nghe về cái gọi là trí tuệ thiện xảo ấy!
- Đức Thế Tôn là bậc có cơ trí thiện xảo vô song. Như một vị lương y đại tài, Người biết bệnh này phải cho uống thuốc xổ, bệnh kia phải cho thêm thuốc bổ, bệnh này nên mổ xẻ, bệnh nọ nên dùng tí độc mới trị được độc v.v... Lại còn phải biết gia giảm liều lượng tùy thời tiết gió mưa, nóng lạnh; tùy thân thể người nam hay nữ, trẻ hay già, người khỏe mạnh hay người huyết hư, suy kiệt v.v... Căn cơ trình độ chúng sanh giữa thế gian này vốn sai khác dị đồng; tâm bệnh, phiền não đều phức tạp, đa diện và rất khó phân, nếu Đức Thế Tôn không dùng nhiều phương cách trị liệu khác nhau thì sao có thể đạt hiệu quả cao, và được gọi là bậc Toàn Tri, Diệu Giác hở đại vương?
- Vâng, đúng thế!
- Vì tâm bi mẫn đối với chúng sanh, vì muốn giáo hóa chúng sanh nên Đức Thế Tôn đâu có nề hà gì trong việc hiện tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài cho người bà-la-môn thấy? Như người đàn bà sinh con, vì mong mỏi có đứa con thì người đàn bà đâu có mắc cỡ với bà mụ vào đỡ đẻ, phải thế không hở đại vương?
- Thưa vâng!
- Còn nói về trí tuệ thiện xảo giáo hóa của Đức Thế Tôn thì đại vương hãy thử nhớ lại trường hợp Ngài độ Đức Nandà, trường hợp Ngài độ vị tỷ kheo ba tháng không học thuộc được câu kệ ngôn, trường hợp Ngài độ kẻ cướp Anguli-màla...
- Trẫm không nhớ đâu, xin đại đức hãy cho nghe một vài câu chuyện để trẫm được mở rộng kiến văn.
- Vâng, đại vương có nhớ hoàng tử Nandà là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật, trong ngày cưới của Nandà với vị công nương xinh đẹp, Đức Phật đã thản nhiên đến dự, rồi sau đó dẫn hoàng tử Nandà đi xuất gia luôn! Tuy kính nể ông anh mà xuất gia nhưng Nandà không ngớt tơ tưởng đến hình ảnh của người vợ diễm kiều nên sinh ra tương tư sầu khổ, tiều tụy, võ vàng! Dùng thần thông và trí tuệ thiện xảo, Đức Phật đã dẫn Nandà lên cõi trời, cho Nandà trông thấy những thiên nữ thiên kiều bá mị, để rồi khi ngoảnh nhìn lại sắc đẹp của vị công nương hôn thê của mình - Nandà chợt nảy sự so sánh và thấy vợ mình chẳng khác gì con khỉ cái già bị lửa rừng thiêu trụi lông và đuôi!
Đức Phật nói: "Này Nandà! Nếu ông cố gắng tu tập thì Như lai hứa là ông sẽ có được năm trăm vị thiên nữ như thế".
Khi Đức Nandà dụng công tấn tu thì thường bị bạn bè, đồng đạo chê cười vì mục đích hạ liệt; mắc cở quá, Ngài không hướng đến năm trăm thiên nữ nữa mà tâm lại có xu thế hướng về đạo quả cao siêu. Cuối cùng, Ngài đắc được Thánh quả!
Đại vương nghĩ thế nào về phương tiện giáo hóa ấy, Đức Thế Tôn có dùng trí tuệ thiện xảo không?
- Rất là thiện xảo!
- Vị tỷ kheo tên là Culapanthaka, ba tháng không thuộc được câu kệ ngôn, muốn hòan tục; Đức Phật quán căn duyên, trình độ của ông ta nên chỉ đưa cho một cái khăn tay! Cuối cùng, nhờ quán cái khăn thay đổi, biến dị từ sạch qua dơ... mà vị tỷ kheo chứng ngộ được sự vô thường, đắc Thánh quả, luôn cả lục thông!
Đại vương thấy thế nào, trường hợp ấy nếu không phải là trình độ của bậc Tòan Giác - thì ai có khả năng làm cho vị tỷ kheo dốt đặc thành một vị thánh phi phàm?
- Đúng thế!
- Lại có trường hợp một bà-la-môn tên là Moghàràja đến hỏi đạo Đức Thế Tôn. Cả ba lần hỏi, Đức Thế Tôn đều im lặng không trả lời. Thế mà nhờ vậy, bà-la-môn kia tiêu trừ được ngã chấp; bố thí xả ly tất cả tài sản, của cải, xuất gia tỳ kheo, tiến tu định tuệ, đắc quả thánh và thuần thục luôn cả lục thông! ...
- Trẫm đã hiểu rồi, thưa đại đức! Vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh, vì để giáo hóa chúng sanh, vì muốn trao pháp mầu cho chúng sanh mà Đức Phật đã tùy nghi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau... Trẫm và mọi người vì quá nhiều bụi cát trong mắt mà nghi ngờ như thế này thế kia, quả là ngu si! Trẫm đã có được con mắt sáng rồi, thưa đại đức!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:49:04 GMT -5
111. Sao Đức Thế Tôn lại có lời nói khiếm nhã?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn là đấng Toàn Thiện nên luôn luôn có thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh và ý thiện hạnh, phải thế chăng?
- Vâng, đúng thế!
- Lời Ngài nói ra bao giờ cũng dịu ngọt, hòa nhã, từ ái, làm mát mẻ đầu óc của mọi người, làm hoan hỷ đôi tai của mọi người, phải thế không, đại đức?
- Quả vậy!
- Thế tại sao khi tỳ khưu Sudinna hành dâm với người vợ cũ, Đức Thế Tôn cấm chế điều luật bất cọng trụ, Ngài đã nguyền rủa tỳ khưu Sudinna là người trống rỗng. Đại đức có biết người trống rỗng là từ rất nặng lời chăng? Ấy là lời khiếm nhã, khinh bỉ, miệt thị... mà người ta chỉ sử dụng khi chiến tranh bằng binh khí miệng lưỡi! Do vậy, khi nghe Đức Thế Tôn mạt sát mình bằng lời người trống rỗng, tỳ khưu Sudinna khuôn mặt tái xanh, run rẫy, sợ hãi...
Thưa đại đức, như thế rõ ràng Đức Thế Tôn đã ác khẩu, đã nói lời như gai đâm trong óc, như lửa đốt trong tai, chứ từ hòa, hiền dịu, mát mẻ ở chỗ nào? Đại đức hãy cố biện minh cho Đức Thế Tôn thử xem?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Bần tăng sẽ không biện minh, chỉ nói ra sự thật cùng những ý nghĩa từ sự thật ấy. Ngoài ra, đại vương sẽ có cơ hội biết thêm một vài trường hợp trí tuệ thiện xảo mà Đức Thế Tôn đã sử dụng để giáo hóa chúng sanh!
Đức vua Mi-lan-đà cũng mỉm cười:
- Có lẽ đại đức đang bắt đầu một cuộc biện minh thiện xảo rồi đấy! Trẫm đang cố gắng lắng nghe!
- Vâng, tâu đại vương! Nhóm từ Mogha purisa mà người ta dịch là "người trống rỗng" thực ra mang ý nghĩa về giáo pháp chứ không phải lời miệt thị, khinh bỉ như thế gian thường hiểu. Mogha purisa là người trống rỗng, nghĩa là trong con người của y trống rỗng tri thức, trống rỗng trình độ, trống rỗng pháp lành, trống rỗng trí tuệ, nói chính xác hơn là trống rỗng về sự thấy biết khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ! Nói cách khác, đó là sự trống rỗng về nhận thức tứ đế. Người nào mà trống rỗng nhận thức về tứ đế sẽ dễ có những hành động lầm lạc, ngu si; và dẫu cho họ có tu hành, bố thí, làm phước - thì sự tu hành ấy cũng không đi đến đâu. Tỳ khưu Sudinna là một con người như vậy nên Đức Thế Tôn đã nói lên sự thật, đã ghép y vào loại người trống rỗng, điều đó đúng với sự thật, chứ Đức Tôn Sư nào phải ác khẩu, khiếm nhã, khinh miệt ai bao giờ!
- Rất cao siêu là cái nghĩa ấy, nhưng thưa đại đức, mấy ai hiểu được ý nghĩa cao siêu như đại đức! Người ta vẫn hiểu theo thường ngữ, "người trống rỗng" là người ngu si, hèn hạ, là người đáng phỉ nhổ, khinh bỉ mà thôi. Người cư sĩ tại gia nói riêng, và người đời nói chung chỉ hiểu đó là lời chưởi mắng cộc cằn, thô lỗ. Dù sự thật như thế nào, tỳ khưu Sudinna có tội như thế nào - thì Đức Thế Tôn cũng đã mắng chưởi người ta; ấy là một việc làm không thích đáng, là khẩu trược hạnh, chẳng xứng phẩm hạnh của một Đấng Toàn Thiện như Đức Thế Tôn!
- Cũng được - đại đức Na-tiên mỉm cười - hiểu theo nghĩa thế gian cũng được, hoặc hiểu theo nghĩa thường thường cũng được. Ví như đại vương là một bậc minh quân thiên hạ, đại vương thấy có một vài viên quan hành động ngu si, sai trật, có tội. Khi thấy như vậy, đại vương có kêu những viên quan ấy đến gần một bên rồi nói lời từ hòa, mát mẻ, dịu ngọt, êm ái lỗ tai ... và sau đó ban thưởng nhiều vàng bạc, phẩm vật quý giá?
- Ban thưởng sao được, đối với những viên quan hư hỏng, tồi tệ ấy, trẫm sẽ kêu lại mắng chửi, phạt tù hoặc phạt cảnh cáo... để chúng sợ hãi mà trở nên người tốt hơn - chứ ai nào lại kêu tới mà dịu ngọt, mà từ ái, mà ban thưởng! Họa là đồ điên!
- Đức Thế Tôn cũng xử sự tương tự như đại vương vậy! Tỳ khưu Sudinna có tội bởi tư cách hành động sái quấy của y. Con người y đáng bị khiển trách. Đức Thế Tôn kêu lại, Ngài không mắng chửi, miệt thị - mà chỉ dùng từ "trống rỗng" để nói lên sự thật, để chỉ thẳng vào sự thật nơi con người y. Thế thôi, Đức Thế Tôn cũng chưa quát mắng, phạt cảnh cáo hoặc phạt tù như ý nghĩ của đại vương! Trường hợp ấy, lẽ nào Đức Thế Tôn lại nói lời hoan hỷ đầu óc, mát mẻ đôi tai, từ hòa, ngon ngọt... đối với tỳ khưu Sudinna, phải thế không đại vương?
- Lý luận của đại đức không có kẻ hở, trẫm rất tín phục!
- Không dám!
- Và nhờ vậy, trẫm hiểu thêm một điều là, Đức Thế Tôn là bậc Toàn Thiện, luôn luôn thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh; nghĩa là thân khẩu ý của Ngài không còn bị điều động, thúc phược bởi tham sân, phiền não. Thân khẩu ý của Ngài đã diệt tận chúng, đã đoạn lìa chúng tận gốc rễ. Nhưng khi giáo hóa chúng sanh thì Ngài chỉ nghĩ đến lợi ích cho chúng sanh, tùy nghi, tùy lúc mà sử dụng thân, khẩu, ý ấy. Cốt ý là chỉ để cho chúng sanh tự thấy lỗi của mình, thấy rõ đâu trược, đâu thanh... để lần hồi cải thiện bản thân cho đúng với pháp, với sự thật...
Thưa đại đức, đến ngang đây, trẫm liên tưởng đến câu hỏi trước, rằng Đức Phật lại tùy bịnh cho thuốc, không biết có đúng chăng?
- Hoàn toàn đúng, tâu đại vương! Ví như một bệnh nhân có nhiều đàm, thầy thuốc cho uống thuốc xổ đàm là dứt bệnh. Chúng sanh tham sân tích lũy lâu ngày, cái tâm của của chúng sanh cũng bị uất chướng, đầy hơi... nên những loại đàm như hận, tật, xan, hối, dục, bỏn xẻn, keo kiệt, mạn v.v... đã trở nên trầm kha bất trị! Vì tâm bi mẫn đối với chúng sanh, vì muốn cứu độ chúng sanh, nếu thuốc xổ kia khó uống quá, đắng quá, chát quá... thì có vì thế mà chúng ta nghĩ rằng Đức Thế Tôn không có lòng từ, không có lòng bi chăng hở đại vương?
- Thật không thể!
- Và giả dụ Đức Thế Tôn có dùng lời pharusa - tức là hơi cộc cằn thô lỗ - như vị thuốc quá đắng cay, cốt dứt trừ bệnh cho chúng sanh, thì có khả thứ không hở đại vương?
- Được lắm chứ!
- Nhưng ở đây không như thế, Đức Thế Tôn không dùng lời pharusa mà chỉ dùng lời hơi nghiêm khắc - thì ta có vì vậy mà bảo rằng Đức Thế Tôn đánh mất tâm từ, tâm bi không hở đại vương?
- Cảm ơn đại đức, trẫm hiểu rồi.
- Ví như sức nóng có khả năng làm cho các đồ vật dính liền với nhau, làm cho vật mềm lại - những lời nói của Đức Thế Tôn có tỏa ra sức nóng, thì sức nóng ấy cũng chỉ cốt làm cho chúng sanh sợ hãi mà lìa xa ác hạnh, trược hạnh mà thôi! Một người cha có tâm từ mẫn với con cái thì dù có la rầy, mắng nhiếc, nghiêm khắc chăng nữa, cũng chỉ mong cho con được nên người, phải thế không đại vương?
- Thưa vâng.
- Thế gian truyền rằng hễ ai uống nước trường sanh bất tử vào thì cả thân tâm đều mát mẻ, hưởng được an vui hạnh phúc thiên niên. Giáo pháp năng diệt khổ của Đức Thế Tôn cũng y như thế, ai uống vào rồi thì những ác nghiệp lần hồi nhẹ bớt, phiền não lần hồi tiêu tan... và đến lúc nhân duyên đủ đầy thì thọ hưởng được hạnh phúc giải thóat cuối cùng. Đấy là kết quả do giáo pháp và do tâm bi mẫn giáo hóa độ sinh của Đức Thế Tôn. Như một cánh hoa nhẹ nhàng rơi lên thân thể, giáo pháp và tâm bi mẫn của Đức Thế Tôn cũng y như thế, lẽ nào lại có thể làm người khác đau đớn được, hở đại vương?
- Vâng, đúng thế. Trẫm rất tán dương và hoan hỷ lời giải đáp của đại đức. Quả thật, Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời là vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người! Giáo pháp và tâm bi mẫn của Ngài đủ để chứng minh cho sự thật ấy!
- Cảm ơn đại vương!
* * *
112. Cái cây có tâm ý không?
- Thưa đại đức! Trẫm không nhớ là ở đoạn kinh nào, Đức Thế Tôn có thuyết cho một người bà-la-môn như sau: "Này ông bà-la-môn, ông là người có học thức, siêng năng học hỏi; ông biết rõ cái gì tốt, cái gì xấu... thì tại sao ông tìm kiếm sự an lạc bằng cách nói chuyện với cái cây, là vật không có tâm ý? Việc làm ấy của ông có thích đáng không, có xứng đáng là kẻ có trí thức không?" Thế rõ là cái cây không có tâm ý, phải vậy không đại đức?
- Thưa vâng!
- Thế nhưng tại sao ở một chỗ khác, khi nói chuyện với bà-la-môn Bhàradvàja, Đức Thế Tôn lại bảo: "Này ông bà-la-môn, hãy đi hỏi cái cây Phandano ấy đi, cái cây ấy đáp như thế nào thì lời của Như lai cũng như thế ấy?"
Thưa đại đức, vậy là sao ạ? Ở trên thì Đức Thế Tôn bảo cái cây không có tâm ý, dưới thì Đức Thế Tôn bảo là cái cây trả lời, tức là cái cây có tâm ý? Chẳng lẽ nào Đấng Đại Giác lại nói hai lời, trước sau bất nhất như vậy?
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn chẳng bao giờ nói hai lời, trước sau không nhất quán đâu! Cái cây vốn không có tâm ý là sự thật. Trường hợp sau, Đức Thế Tôn bảo cái cây biết nói chuyện cũng là sự thật, chẳng có gì sai ngoa cả!
- Trẫm không hiểu.
- Rất dễ hiểu đấy, đại vương! Trên cái cây ấy Đức Thế Tôn biết có vị thọ thần ở. Khi bà-la-môn Bhàradvàja hỏi, vị thọ thần ấy sẽ trả lời. Người đời thường không thấy, không biết nên truyền với nhau rằng: cái cây biết nói chuyện, cái cây biết trả lời!
- À ra thế!
- Đấy cũng là cách nói bình thường trên thế gian. Ví như cái xe chở lúa làm bằng gỗ, thế nhưng vì chở lúa nên người ta không gọi là xe gỗ mà gọi là xe lúa, tâu đại vương!
- Đúng thế.
- Ví như bao vải người ta làm bằng bông vải, nhưng khi đựng sắn, khoai người ta không còn gọi là bao vải nữa mà người ta gọi là bao sắn, bao khoai - tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Vì người đời thường nói theo với thấy biết của họ, có tính cách ước lệ, cốt trao đổi thông tin với nhau - nên trong khi thuyết giảng, Đức Thế Tôn cũng nói theo cách nói của đại chúng - để mọi người dễ lãnh hội. Điều ấy đại vương đã lãm tường rồi chứ?
- Thưa vâng, trẫm nhờ đại đức mà thấy thêm được một mặt nữa về trí tuệ vô lượng của Đức Tôn Sư!
* * *
113. Bữa cơm của Cunda có vấn đề!
- Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng, người thợ rèn Cunda dâng vật thực cho Đức Thế Tôn thọ thực lần cuối cùng trước khi Ngài Niết bàn. Và, lần thọ thực ấy Đức Thế Tôn bị nhiễm bệnh lỵ huyết trầm trọng gần dứt sinh mạng, có phải thế không ạ?
- Thưa vâng.
- Vì thọ vật thực của Cunda dâng cúng mà Đức Thế Tôn bị nhiễm bệnh gần dứt sanh mạng - thế mà Đức Thế Tôn lại nói với ngài Ànanda rằng: "Ông hãy nói cho tứ chúng biết rằng, bữa ăn của nàng Sujàtà dâng Như Lai trước khi thành tựu đạo quả, và bữa ăn của Cunda dâng cúng trước khi Như Lai Niết bàn; cả hai bữa ăn ấy đem lại phước báu bằng nhau, tạo quả bằng nhau; và quý báu, cao thượng hơn tất cả sự cúng dường khác. Nghiệp tốt của hai bữa ăn ấy sẽ trổ quả hạnh phúc nhiều đời, tuổi thọ cao, tài sản, danh vọng đều thịnh mãn, thường hưởng được phước báu cảnh trời hoặc cảnh vua chúa quyền quý cao sang!"
Thưa đại đức! Bữa cơm cúng dường của nàng Sujàtà thì có thể, nhưng bữa cơm của Cunda thì không thể, nó tồn tại nhiều nghi vấn, khúc mắt! Phước báu cao thượng cái kiểu gì mà làm cho Đức Thế Tôn gần chết? Phước báu cao thượng là do Cunda trộn lẫn thuốc độc gì chăng? Phước báu cao thượng là vì Cunda đã làm cho nhắm lại con mắt của loài người, của Đế Thích, của phạm thiên chăng?
Đại đức hãy giải nghi vấn nạn ấy đi! Nếu không giải nghi được - thì chúng ngoại đạo sẽ nói to, miệng truyền miệng, tai truyền tai rằng: Ông Cồ Đàm già rồi mà còn tham vật thực quá độ, đã thọ thực quá nhiều, sức nóng của tâm tham và bao tử thiêu đốt nên ra máu gần chết!
Vậy xin đại đức hãy sử dụng trí tuệ biện tài mà giải đáp cho, trẫm mang ơn lắm vậy!
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn vốn là Đấng Toàn Tri Diệu Giác nên ngài biết rõ nhân, quả, duyên, báo của chúng sanh hơn những người khác chứ?
- Thưa vâng!
- Thế những tin truyền của ngoại đạo có thẩm quyền về sự thật không? Có đáng tin và nghe theo không? Có phản ánh đúng nhân, quả, duyên, báo... như trình độ tuệ giác của đấng Tòan Tri không?
- Thưa không!
- Vậy thì sự lo lắng của đại vương không có cơ sở! Vì Đức Thế Tôn thấy rõ nhân, quả, duyên, báo... của chúng sanh nên ngài nói rằng, bữa ăn dâng cúng của nàng Sujàtà trước khi Như Lai thành đạo và bữa ăn dâng cúng của người thợ rèn Cunda trước khi Như Lai Nhập Diệt; có phước báu đồng nhau, trổ quả giống nhau và quý báu hơn tất cả sự cúng dường khác; ấy là lời nói dựa theo sự thật, dựa theo sự thấy, biết của Đức Tôn Sư!
- Có thể là như thế, nhưng bữa ăn của ông Cunda, giả dụ có trộn thuốc độc làm Đức Phật thọ bệnh... cũng phước báu cao thượng hay sao?
- Đại vương, Đức Thế Tôn nói "bữa ăn trước khi Như Lai thành đạo và bữa ăn trước khi Như Lai Niết bàn" chứ không liên hệ đến chuyện "trong bữa ăn ấy có món gì, sang hay hèn, thượng vị hay hạ vị, cứng hoặc mềm, có chất bổ hay có thuốc độc"!
- Xin đại đức giảng cho nghe điều đó!
- Vâng, ví như món ăn của nàng Sujàtà là cơm trộn sữa, món ăn của Cunda là thịt heo rừng hay một loại nấm, món ăn của chư thiên có mỹ vị tuyệt hảo; tức là các món ăn có ngon dở có khác nhau nhưng quả và phước vẫn đồng đều, tâu đại vương!
- Sao lại có chuyện món ăn chư thiên ở đây!
- Vâng, chuyện ấy đại vương không hiểu và cũng rất nhiều người không hiểu, là ngày Cunda dâng cúng bữa ăn cuối; chư thiên rất hoan hỷ nên họ đã cùng nhau dâng vật thực mỹ vị cõi trời, trộn chung với vật thực của Cunda! Và chính chư thiên ấy, sau này, cũng hưởng được phước quả đồng đẳng với Cunda, với Sujàtà!
- Vâng, nhưng cho đến giờ này trẫm vẫn chưa nghe xuôi tai về món ăn của Cunda làm Đức Phật nhuốm bệnh!
- Nhuốm bệnh lại là chuyện khác nữa, tâu đại vương! Nhuốm bệnh của Đức Phật không liên hệ gì đến phước quả của Cunda cả, tâu đại vương!
- Tại sao lại thế được?
- Tại vì có thân ắt có bệnh, già lão thì cơ thể suy nhược, khí kém, huyết hư là chuyện thường. Cơ thể Đức Thế Tôn đã già yếu, lại đã nhuốm bệnh cách đó ít lâu, sau khi an cư mùa mưa tại vườn xoài của cô Ampapàli chứ không phải tại bữa cơm của Cunda. Bữa cơm của Cunda chỉ như là giọt nước cuối cùng để cho cái bát đầy nước tràn đổ ra ngoài, đại vương có hiểu điều đó không?
- Trẫm chưa hiểu lắm!
- Tâu đại vương! Ví như một dòng nước chảy bình thường chỉ tạo nên một khe rãnh nhỏ, nhưng nếu trời đổ thêm nhiều trận mưa lớn, dòng nước sẽ chảy mạnh, khe rãnh nhỏ kia sẽ bị xé thành rãnh lớn hơn, thành khe sâu, thành vực! Kim thân Đức Thế Tôn đã già yếu, đã suy kiệt, lại vừa bị bệnh chưa lành hẳn, thì bữa cơm của Cunda là nguyên nhân cuối cùng, ví như giọt nước cuối cùng ở trên - đã làm cho Đức Tôn Sư lâm trọng bệnh, cũng là lẽ thường thôi, phải không đại vương?
- Thưa vâng!
- Ví như có đống lửa lớn, có người đem cỏ khô và bổi nhuyễn bỏ thêm vào - thì đống lửa kia sẽ cháy dữ dội hơn bội phần. Cũng thế, cơ thể Đức Thế Tôn đã già lão, suy yếu, đã bệnh... ăn thêm bữa cơm của Cunda sẽ làm cho sự già lão, suy yếu tăng thêm, bệnh tình sẽ tăng thêm, cũng là điều dễ hiểu thôi, phải không đại vương?
- Thưa vâng!
- Ví như một người đau bụng từ trước, bây giờ ăn thêm ít vật thực lạ vào, bụng lại sình chướng, đau đớn hơn lúc trước một cách dữ dội. Nhục thân của Đức Đại Giác cũng y như thế đó, tâu đại vương!
- Bây giờ thì trẫm đã thông tỏ nhờ những ví dụ của đại đức! Tuy nhiên, phước báu đồng nhau và trả quả giống nhau, trẫm vẫn chưa hiểu lý do tại sao?
- Tâu đại vương! Sở dĩ phước báu đồng nhau và trả quả giống nhau là do từ hai bữa ăn ấy có liên hệ đến pháp!
- Xin đại đức hãy giảng giải cho trẫm được thông suốt.
- Vâng, từ bữa ăn của nàng Sujàtà, Đức Thế Tôn thành đạo, đắc quả Chánh Đẳng Giác, ngài nhập cửu định, đi cả chiều thuận và chiều nghịch. Từ bữa cơm của Cunda, Đức Thế Tôn Niết bàn, ngài cũng nhập cửu định, đi từ chiều xuôi đến chiều ngược, tâu đại vương!
- Thế ra trong khoảng thời gian bốn mươi lăm năm hoằng hóa của Đức Thế Tôn, ngài chưa nhập cửu định, chiều thuận và chiều nghịch lần nào nữa hay sao?
- Thưa không. Chỉ có hai lần ấy thôi. Nhờ phước báu đưa đến pháp nhập định thuận, nghịch như vậy, nên nó sẽ trổ quả cao thượng, thù thắng bằng nhau; và nó quý báu hơn bất kỳ sự cúng dường nào trong suốt cuộc đời của Đức Thế Tôn, tâu đại vương!
- Bây giờ thì trẫm đã phủi được lớp bụi trong mắt mình rồi, thưa đại đức!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Thật ra, mắt đại vương vốn không có bụi đâu, có sự tưởng lầm nào đấy chăng?
- Thật là chí lí!
Đức vua Mi-lan-đà lòng đầy hoan hỷ.
|
|