|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:49:51 GMT -5
114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai?
- Thưa đại đức! Có phải trước khi nhập diệt, ở Kusinàrà, dưới hai cây song thọ, Đức Thế Tôn có dạy ngài Ànanda rằng: "Các ngươi không nên mất công tốn sức, phí thì giờ tìm kiếm lễ vật để cúng dường nhục thân của Như Lai; cho chí xá-lợi của Như Lai sau này, các ngươi cũng không nên quan tâm quá đáng vào việc lễ bái, cúng dường..." ?
- Đúng là Đức Thế Tôn có thuyết như thế, tâu đại vương!
- Rồi sau đó, Đức Tôn Sư lại thuyết rằng: "Này Ànanda! Nếu các hàng cận sự nam nữ trong cõi người hoặc chư thiên trong các cõi trời, biết lễ bái, cúng dường nhục thân Như Lai hay xá-lợi của Như Lai thì họ sẽ có được nhiều phước báu, nhất là được thiện sanh vào các cõi trời an vui, hạnh phúc." Phải thế không, đại đức?
- Thưa vâng! Đó chính là lời Đức Tôn Sư thuyết.
- Vậy thì hai Phật ngôn ấy có gì ngược nhau không? Một bên thì ngăn không cho tìm kiếm lễ phẩm cúng dường, một đằng thì khuyến khích, sách tấn lễ bái, cúng dường? Hay Đức Đại Giác huấn thị như vậy là có lý do khác?
- Tâu đại vương! Lý do ấy rất là chính đáng, hợp với giáo pháp, hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi nhóm thành viên đệ tử của Đức Tôn Sư!
- Xin đại đức bi mẫn giảng cho trẫm nghe.
- Thưa vâng, điều ấy giản dị, dễ hiểu thôi! Các hàng xuất gia tu tập theo Giới, Định, và Tuệ. Tu tập theo Giới, Định, Tuệ là bổn phận, là chức năng, là nhiệm vụ của người xuất gia. Vậy thì các hàng xuất gia phải sống đời giới hạnh trang nghiêm, biết thu thúc lục căn, biết quán tưởng vật thực, biết tu Tứ niệm xứ để thấy rõ vô thường, vô ngã của pháp, phải thành tựu tuệ vô lậu để giải thoát khổ đau, phiền não. Việc làm ấy của bậc xuất gia là bổn phận thích đáng, xứng với phẩm hạnh của mình. Ngoài ra, các công việc khác dẫu là trọng đại, tôn quý... như việc cung kính, lễ bái, cúng dường nhục thân hoặc xá lợi của Đức Thế Tôn - cũng không nên làm!
Còn các hàng cư sĩ tại gia, chư thiên và nhân loại, họ tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền. Tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền là bổn phận, là chức năng, là nhiệm vụ của hàng cư sĩ tại gia! Vậy thì các hàng tại gia muốn tạo trữ phước báu, muốn tích lũy công đức, muốn hưởng quả hạnh phúc, an vui ở cõi người và trời - họ phải tu tập, bố thí, cúng dường. Việc các hàng cư sĩ tại gia lễ bái, cúng dường lễ phẩm, hương hoa đến nhục thân hoặc xá lợi của Đức Thế Tôn là bổn phận thích đáng, xứng với chức năng của họ. Ai có công việc nấy, đừng xen vào công việc của nhau - nói rõ là như thế, tâu đại vương!
- Trẫm không đồng ý với luận điểm của đại đức, mặc dầu mới nghe qua thì rất hợp lí. Nếu các bậc xuất gia mà tu tập thêm bố thí, cúng dường, không tốt hơn sao? Khi mà được phước báu hỗ trợ, có lẽ họ sẽ dễ dàng, thuận duyên hơn cho việc tu tập của mình, phải thế chăng, đại đức?
- Bần tăng cũng vậy, luận điểm của đại vương nghe rất hữu lí nhưng bần tăng vẫn thấy không thuận tai! Tại sao vậy? Ví như đại vương có một hoàng tử kế vị, muốn cho hoàng tử ấy sau này trở thành một bậc minh quân trị vì thiên hạ, oai danh bốn biển, vang lừng sử sách thì đại vương sẽ có một chương trình học tập cho hoàng tử như thế nào?
- Thưa đại đức, thì cũng như chương trình học tập của trẫm thuở nhỏ vậy thôi, nghĩa là phải trang bị cho hoàng tử những kiến thức hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Hoàng tử phải thành thục, thông thuộc binh pháp, binh thư, võ nghệ; phải biết cưỡi voi, cưỡi xe, cưỡi ngựa, biết sử dụng mọi loại binh khí để chiến đấu trên sa trường. Nói gọn, là hoàng tử phải có tài làm tướng. Ngoài ra, hoàng tử phải học cách trị thiên hạ, đòi hỏi nhiều kiến thức uyên bác; ví dụ triết học, toán học, thiên văn, địa lý, âm nhạc, y khoa, khảo cổ, lịch sửu, vật lý, văn học, thi ca v.v... Ngay cả thần chú, chiêm tinh, tử vi, bói toán; một vị hoàng tử cũng phải rành rẽ để sử dụng khi hữu sự, để khỏi bị các quan và dân chúng lừa bịp!...
Đại đức Na-tiên mỉm cười hỏi tiếp:
- Thế các việc như làm ruộng, làm vườn, buôn bán, nghề mộc, nuôi tằm, ươm tơ, chăn nuôi gia súc v.v..., vị hoàng tử không học sao?
- Không, hoàng tử sẽ không học, không đi sâu vào các nghề của dân chúng. Hoàng tử chỉ nghiên cứu thoáng qua cho biết vậy thôi. Bởi, ai có việc nấy, xen vào việc của nhau thì còn ra thể thống gì nữa? Hoàng tử mà đi học cày, còn nông phu thì học cách trị nước, nghe lọt tai sao được, đại đức?
- Cảm ơn đại vương đã trả lời câu hỏi của chính đại vương! Thật là còn "thể thống" gì nữa cho giáo pháp, khi mà bậc xuất gia thì đi làm cái việc của người cư sĩ, còn người cư sĩ lại đi làm cái việc của bậc xuất gia!
Đức vua Mi-lan-đà cười ha hả:
- Hay lắm! Thật chẳng có câu nói nào xác đáng hơn!
- Còn nữa, đại vương! Ví như một con trai gia chủ bà-la-môn, muốn trở thành một bà-la-môn hữu danh trong tương lai thì cần phải học những thứ gì cho thật sự thích hợp và thật sự lợi ích?
- Thưa đại đức! Họ cần học nhiều thứ lắm, những điều hữu ích và kể cả những điều dường như vô ích... Họ phải thông thuộc Tam-phệ-đà, biết phúng tụng, lễ nghi, đàn tế. Biết xem tướng, biết hướng ngồi ăn cơm và hướng đại tiểu tiện. Biết xem hướng nhà, xem hướng đất. Biết rành về các loại gỗ. Biết từ nguyên, cú pháp, văn phạm. Biết tiếng kêu của thú. Biết ngọn ngành, chi tiết của sáu nghề chính trong xã hội. Biết hướng mặt trời, mặt trăng chỗ nào là tốt xấu. Biết rõ lúc nào là nhật thực, nguyệt thực. Biết sao nào sanh ra chư thiên, sanh ra chiến tranh. Biết lúc nào sao chổi rơi. Biết tia lửa từ hư không rơi xuống rồi lại bay lên khỏi mặt đất sẽ báo điềm xấu gì. Biết xem khi nào trái đất xảy ra tai biến. Biết rõ mặt trời đỏ là hướng này hạnh phúc, hướng kia bất hạnh, tai họa. Biết rõ tất cả những bộ sách đời (thế học). Biết rõ phép bói "mitta cakkam"! Biết đoán chiêm bao, biết rõ tướng bí ẩn. Biết đoán mộng cát, hung. Biết đoán những hiện tượng tốt xấu xảy ra chung quanh. Biết xem và trị bệnh mắt. Nghe tiếng chim biết chuyện lành, dữ v.v...
Thưa đại đức! Những con trai gia chủ bà-la-môn hữu danh phải siêng năng học tập, nghiên cứu rành rẽ rất nhiều môn học, như thế mới xứng đáng ở trong tập cấp ấy.
- Vâng, còn người dân dã hạ tầng thì không thể học tập như vậy, phải không đại vương?
- Đúng thế, các tập cấp dưới chỉ thích hợp với các nghề bán buôn, làm ruộng, lập vườn, chăn nuôi trâu bò và các công nghệ khác.
- Cũng vậy, phận sự của các vị sa môn là thọ trì những điều học, phải tinh cần, chuyên tâm tu niệm, hành minh sát tuệ để giác ngộ, giải thoát. Còn phận sự của các hàng cư sĩ là lễ bái, bố thí, cúng dường... Vì lẽ ấy, Đức Thế Tôn ngăn cấm các vị xuất gia làm công việc của hàng tại gia... Các bậc xuất gia phải thực hành bổn phận mình, tức là tiến tu, chỉ tịnh, quán minh thì tốt hơn; nếu không muốn nói đấy là cách cúng dường quý báu, cao thượng hơn hết thảy: cúng dường tinh thần hay là cúng dường Pháp Bảo! Còn việc cúng dường vật chất hãy để dành cho các hàng tại gia. Có như vậy, Tăng Bảo mới duy trì Giáo Pháp lâu dài trên thế gian; và cư sĩ nam nữ lại hộ trì, hộ độ Tăng Bảo... thì đấy là lợi ích thù thắng mà Đức Tôn Sư muốn giáo giới, tâu đại vương!
- Trẫm rất hoan hỷ những lời giải đáp ấy, thưa đại đức!
* * *
115. Quả đất dường như có tâm thức?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn ngự đến một quốc độ nào, một xứ sở nào - thì ở đấy mặt đất dường như có tâm thức? Chỗ nào đất thấp, khuyết lõm... tự dưng lại đầy bằng, dường như có ai đó mới đổ đất thêm! Chỗ nào gò cao, gồ lên thì chợt dưng phẳng lại như mặt trống lớn, tựa như ai mới cào bằng hoặc lấy đất đi! Chuyện ấy không biết có thực không, hay chỉ là giai thoại, là hư truyền, thưa đại đức?
- Điều ấy có thật, tâu đại vương!
- Nếu vậy thì trẫm rất hoài nghi. Trẫm hoài nghi rằng, đất thuộc đại địa, đá cũng thuộc đại địa; vậy sao đất dường như có tâm thức, mà đá lại không có tâm thức khi Đức Thế Tôn ngự đến, hở đại đức?
- Ý đại vương muốn nói gì?
- Vâng, ý trẫm muốn nói là, tại sao cục đá chạm vào chân Đức Tôn Sư lại không có tâm thức? Nếu nó có tâm thức thì phải như đất kia, gồ cao hoặc lõm xuống, phải tự biết để làm cho phẳng lại. Cũng vậy, lẽ ra cục đá ấy phải biết tránh né hoặc thụt lùi trở lại chỗ cũ của mình. Vậy, đại đức có lầm lẫn chăng khi bảo đại địa dường như có tâm thức ở trong trường hợp sau?
- Đất hay đá đều không có tâm thức, tâu đại vương! Sở dĩ đất chỗ khuyết lõm thì đầy lên, chỗ gò nỗng thì bằng phẳng xuống - không phải do đại địa có tâm thức mà bởi năng lực ba la mật bất khả tư nghì của Đức Thế Tôn, tâu đại vương!
- Có thể trẫm tin năng lực ba la mật phi thường của Đức Đại Giác đã làm cho mặt đất phẳng lại. Thế còn chuyện cục đá chạm chân làm Đức Tôn Sư chảy máu thì sao? Làm thế nào để giải thích về chuyện cục đá khó hiểu ấy?
Đại đức Na-tiên chợt mỉm cười:
- Thế đại vương không nhớ là Đề-bà-đạt-đa đã khởi tâm hung ác muốn hại Phật đó sao?
- Thưa, nhớ chứ!
- Ông ta đã tự kết oan trái với Đức Tôn Sư trước đây đã trăm nghìn kiếp rồi, tâu đại vương! Vì tham vọng mù quáng muốn thay Đức Tôn Sư lãnh đạo Giáo hội mà Đề-bà-đạt-đa đã lăn một tảng đá rất lớn từ sườn núi cheo leo, cốt ý là để giết Phật.
- Thưa, thế thì năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư khi ấy ở đâu mà không đến để bảo vệ ngài?
- Có chứ, tâu đại vương! Khi tảng đá lớn từ sườn núi rơi xuống, thì năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư làm cho hai tảng đá khác, lớn hơn, vụt trồi khỏi mặt đất, ngăn chặn và đỡ lấy tảng đá kia. Hai tảng đá ấy dường như có tâm thức, đỡ lấy và làm cho dính chặt tảng đá của Đề-bà-đạt-đa như dây leo quấn chặt cây! Không vậy thì như long vương đang lội trong biển, chợt nổi lên phùng mang, há miệng đớp lấy tảng đá của Đề-bà-đạt-đa! Hai tảng đá ấy do nhờ năng lực ba la mật nên dũng cảm như sư tử, làm cho tảng đá của Đề-bà-đạt-đa phải sợ oai, thu mình bẹp dí không dám động cựa nữa. Hoặc như bà mẹ khi thấy con mình sắp ngã, đã nhanh nhẹn một tay nắm cánh tay con, một tay xách hỏng thân con lên! Nếu không vậy thì như bạn bè sinh tử có nhau, khi bạn bị hoạn nạn không nỡ rời bỏ mà thường cận kề một bên để giúp đỡ, hộ trì bạn! Hoặc giống như một viên quan mẫu mực, trung thành; luôn túc trực sẵn sàng bên cạnh đức vua để tiếp rước, hộ giá, phụng sự bất kể ngày hay đêm. Cũng có thể giống như chư thiên chưng lọng vàng, lọng xanh, tràng hoa, thiên nhạc... để cung nghinh trời Đế Thích. Nếu không thế thì như các vị trời phạm thiên cao quý, hành trình trong thiền để đến chầu hầu đức Đại Phạm Thiên tôn quý, v.v...
Tâu đại vương! Hai tảng đá lớn do năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư vụt hiện lên, chặn đứng tảng đá của Đề-bà-đạt-đa, cốt bảo vệ cho Đức Tôn Sư cũng như những ví dụ nêu trên vậy!
- Trẫm có thể tin như thế lắm! Nhưng nghe nói rằng, tảng đá của Đề-bà-đạt-đa to bằng cái nhà, còn hai tảng đá do năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư thì to bằng hai quả núi nhỏ. Như vậy thì tại sao hai tảng đá như hai quả núi nhỏ kia, vốn đã ngăn được tảng đá to như cái nhà, lại không ngăn được mảnh đá nhỏ làm chân Phật chảy máu? Kỳ lạ không chứ?
- Có gì kỳ lạ đâu đại vương! Đấy là chuyện bình thường thôi! Ví như người ta dùng bàn tay để hứng nước, nước sẽ lọt qua kẽ tay. Ví như người ta dùng bàn tay để vốc cát, một số ít cát sẽ lọt qua kẽ hở. Ví như dùng tay mà vốc một nắm cơm rời, thì sẽ có một số ít hạt sẽ rơi vãi. Hai tảng đá to chặn được tảng đá nhỏ, do sự va chạm, hàng chục mảnh nhỏ vỡ ra, có mảnh lọt qua kẽ hở và trúng nhằm chân Đức Tôn Sư! Chắc đại vương hiểu rồi chứ ạ?
- Vâng, hiểu! Nhưng do năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư - thì dường như cả đại địa đều có tâm khi ngài ngự đến. Thế tại sao hai tảng đá lớn lại có tâm, biết nâng đỡ tảng đá nhỏ để bảo vệ cho Đức Tôn Sư, còn mảnh đá nhỏ lại không có tâm, không biết cung kính tránh xa bàn chân của Đức Tôn Sư, hở đại đức?
- Nói có tâm chỉ là cách nói - còn đất đá vô tri làm sao lại có tâm được, đại vương! Đất đá không có tâm thì làm sao nói đến chuyện không biết cung kính Đức Tôn Sư được, đại vương! Không biết cung kính Đức Tôn Sư, trên thế gian này có mười hai loại người, tức là không phải đất đá vô tri, vô giác - thưa đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Vâng, mười hai loại người ấy là:
người quá nhiều tham luyến, người quá nhiều sân hận, người quá nhiều si mê, người quá kiêu căng, ngã chấp, người không có đức hạnh cao quý, người quá cứng cỏi, không biết nhu thuận, người xấu xa, hèn hạ, đê tiện, người chuyên làm việc tội lỗi, người nhiều tâm ác, người nhiều hận thù, người bị ham muốn đê hèn chi phối, người quá tham lợi.
Đấy mới đúng là mười hai hạng người không biết cung kính, còn mảnh đá vô tri đụng vào chân Phật chỉ là năng lực tự nhiên thôi. Ví như một ngọn gió thổi mạnh cuốn hút lá khô, tung vào không gian, lá khô kia không biết sẽ rơi vào hướng nào; cũng như thế ấy, những mảnh đá nhỏ do năng lực va chạm cũng không biết là nó sẽ rơi vào đâu, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm sẽ không thắc mắc về điều ấy nữa.
* * *
116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường?
- Thưa đại đức! Có lần Đức Thế Tôn thuyết về đề tài "Như Lai cũng cày ruộng" để độ cho ông bà-la-môn Bhàradvàja, sau đó, Đức Thế Tôn đã không thọ nhận vật thực do người bà-la-môn ấy dâng cúng. Ngài cấm chế điều học rằng: "Vật thực phát sanh do thuyết kệ ngôn, thầy tỳ khưu không được thọ nhận". Điều ấy có đúng chăng, đại đức?
- Thưa, đúng ạ!
- Thế tại sao khi thuyết cho hàng cư sĩ tại gia, ở đâu, Đức Thế Tôn cũng tuần tự nói về bố thí, về phước quả của sự bố thí, cúng dường, sau đó mới nói về trì giới... Chư thiên và loài người khi nghe Đức Thế Tôn thuyết về phước báu của sự bố thí, họ phát tâm hoan hỷ, ùn ùn kéo đến bố thí tứ sự cho Đức Thế Tôn. Rồi Chư Tăng đệ tử của Đức Tôn Sư cũng thuyết về bố thí, trì giới... do vậy, đời sống của Đức Phật và Chư Tăng thường thịnh mãn về y áo, vật thực, chỗ ở, thuốc men...
Thưa đại đức! Ở trên thì ngăn vật thực sau khi thuyết pháp, ở dưới thì thuyết pháp để nhận sự cúng dường? Hai đằng sao lại mâu thuẫn nhau đến vậy? Rồi, sự cố ý thuyết về bố thí để cho hai hàng cư sĩ tại gia bố thí cho mình, dường như là đã rơi vào phi pháp, vào tà mạng, không đúng với việc làm của một giáo hội cao cả! Trẫm hoài nghi và khó hiểu điều ấy lắm, mong đại đức bi mẫn chỉ giáo cho!
- Vâng, câu hỏi của đại vương hay lắm. Có lẽ nhờ câu hỏi của đại vương mà bần tăng sẽ phá nghi cho tất thảy người học Phật thời hậu lai!
Tâu đại vương! Pháp bao giờ cũng phải được thuyết tuần tự, thứ lớp; ấy là thông lệ của chư Phật từ quá khứ chứ không riêng gì Phật Thích Ca. Khi quán nguyên nhân đau khổ của chúng sanh, chư Phật thấy rõ rằng, có những đau khổ thô thiển do thiếu thốn vật chất mà sinh nghèo nàn, đói khổ, thiếu cơm, rách áo...! Lại có những đau khổ vi tế thuộc về lãnh vực tinh thần như giận ghét, bực bội, bỏn xẻn, tham muốn, hận thù v.v...
Chư Phật thấy phần đông nhân loại đau khổ do thiếu thốn vật chất, vì rất nhiều kiếp họ không biết bố thí, xả ly mà là sống bỏn xẻn, keo kiệt, rít róng,tư lợi, ích kỷ v.v... Muốn giúp họ có một đời sống khá hơn, đầy đủ vật chất hơn, được làm người, làm trời, an vui, hạnh phúc hơn - nên chư Phật phải thuyết về bố thí, rồi sau mới thuyết về trì giới. Tại sao vậy? Vì sự hỗ trợ phước báu rất cần thiết cho chúng sanh, là món quà tặng mà chúng sanh thường rất yêu thích. Ví như đứa trẻ thích chơi đồ chơi, an vui, sung sướng vì đồ chơi ấy - nên cha mẹ chúng phải cho chúng đồ chơi! Chư Phật dạy cho chúng sanh bố thí để có nhiều phước báu, cũng giống như mua sắm cho đứa trẻ cái cày nhỏ, cái nồi cơm nhỏ, con búp bê, chén bát nho nhỏ và những cái đồ dùng nho nhỏ xinh xinh! Lại còn mua sắm thêm những đồ chơi như cái ná, cái xe v.v..., cốt ý cho trẻ ham vui mà đừng khóc. Khi đứa trẻ lớn lên một tí, các đồ chơi kia chúng không yêu thích nữa thì cha mẹ mới dạy cho chúng cách học ăn, học nói, học lễ phép, học chữ nghĩa v.v... Cũng vậy, sau khi dạy chúng sanh bố thí, chư Phật sẽ thuyết về trì giới, nghĩa là thọ năm giới rồi tám giới. Khi chúng sanh căn cơ đã khá hơn, chư Phật mới dạy về tham thiền!
Ví như một vị lương y chữa bệnh cho một bệnh nhân khí huyết suy kiệt. Nếu bệnh nhân khí huyết suy kiệt mà cho uống thuốc trị liệu, bệnh nhân sẽ chết ngay. Phải cần cho bệnh nhân uống thuốc bổ khí, bổ huyết trước đã rồi mới cho thuốc trị bệnh. Cũng vậy, chư Phật thấy chúng sanh đau khổ trầm kha nên phải bốc vài thang thuốc bổ cho chúng sanh thọ hưởng chút ít an lạc, hạnh phúc, bằng cách thuyết về bố thí, cúng dường rồi sau đó mới thuyết về ngũ giới, bát giới; như những phương thuốc trị liệu vậy.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Vấn đề ấy có thể tạm ổn, nhưng việc ngăn vật thực thì sao, trẫm vẫn chưa hiểu.
- Vâng, sở dĩ Đức Thế Tôn không thọ vật thực sau khi thuyết kệ ngôn là để ngăn ngừa những tệ trạng có thể xảy ra trong hàng Tăng lữ sau này, tâu đại vương!
- Ý đại đức nói là chư phàm Tăng có thể sinh ra tà mạng, làm hoen ố cộng đồng Tăng lữ?
- Vâng, vì vậy cho nên ngài đã thuyết giảng rằng thân cử động có hai, đó là: thân cử động có tội và thân cử động vô tội!
- Thế nào là thân cử động có tội?
- Tâu đại vương! Có một số phàm Tăng ôm bát đến nhà cư sĩ, họ không hề để ý giờ nào nên đến, đường nào nên đi, chỗ nào nên đứng. Họ đã làm mất thể thống oai nghi, có thể làm cho hàng cư sĩ chê cười. Nhận vật thực để thọ dụng trong trường hợp ấy là thân cử động có tội! Nuôi mạng như vậy thật đáng bị chê trách, khinh bỉ, không đáng được kính trọng, không xứng gọi là tỳ kheo trong giáo pháp của Đức Thế Tôn!
- Còn thế nào là thân cử động vô tội?
- Là cung cách ôm bát đi khất thực của các bậc thánh nhân hoặc của những vị tỳ kheo nghiêm túc, đoan trang về giới hạnh. Họ cũng cử động thân, cũng đi đường lớn, đường nhỏ, cũng đứng trước cửa mọi nhà; nhưng bao giờ lục căn cũng thu thúc, bao giờ cũng chánh niệm, tỉnh giác, giữ oai nghi, tác phong phải lẽ. Đấy gọi là thân cử động không tội, tâu đại vương! Sự nuôi mạng như vậy đáng được cung kính, quý trọng, đáng được hoan hỷ, tán dương, đáng được khen ngợi, đấy là cách nuôi mạng của bậc thánh.
Còn về sự ngăn ngừa tà mạng trong tương lai thì Đức Thế Tôn không những quy định sau khi thuyết kệ ngôn mà còn quy định để ngăn ngừa bất kỳ sự cử động nào của khẩu, trong điều học được gọi là khẩu cử động có tội và khẩu cử động vô tội, tâu đại vương!
- Thế nào là khẩu cử động có tội?
- Ở đây nói về những vị tỳ kheo đi vào nhà các cư sĩ rồi "mở miệng" xin các vật dụng khác nhau, ví dụ: y bát, sàng tọa, thuốc men! hoặc nói ướm cách này cách kia để người ta dâng cúng vật thực vừa lòng! Khẩu cử động vì tà mạng như vậy không hợp giới luật của bậc thánh, là phi pháp, đáng bị khiển trách, chê bai; là gây nhân tội lỗi, nên gọi là khẩu cử động có tội, tâu đại vương!
- Về khẩu chỉ có bấy nhiêu thôi ư?
- Không, còn nữa, nó rộng rãi hơn nhiều. Ví dụ như thầy tỳ khưu mà cố ý xem bói để được lợi lộc, được nhiều vật thực. Hoặc nói tốt cho người để người hoan hỷ mà cúng dường. Hoặc nói xấu, dữ khiến người ta sợ hãi mà phải làm phước để hồi hướng, để tiêu trừ ách nạn. Hoặc xem hướng nhà, hướng cửa, chỗ đất... để đoán kiết, hung v.v... Tất thảy "sự mở miệng" ấy đều được nằm trong điều học khẩu cử động có tội, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Còn nữa, các bậc thánh, dầu "mở miệng vô tình" mà có được vật thực, các ngài cũng không thọ dụng. Ví như bậc Tướng Quân Chánh Pháp, một lần nọ bị bệnh đau bụng dữ dội, Ngài Mục-kiền-liên thấy vậy bèn hỏi: "Thuở còn làm người tại gia, mỗi lần lên cơn đau cường liệt như vậy, tôn huynh thường sử dụng thuốc gì?" Đức Xá-lợi-phất đáp: "Mỗi lần lên cơn đau như thế, mẹ tội thường dùng cơm nấu với sữa tươi không có lẫn nước, uống vào là bệnh dứt ngay". Chư thiên nghe được lời nói vô tình của Ngài, nên khi Ngài Mục-kiền-liên đi bát, chư thiên đã ngầm mách thí chủ đặt món ăn như vậy vào bát cho Ngài. Khi Đức Mục-kiền-liên mang món ăn cơm sữa đến, Đức Xá-lợi-phất biết rằng, thuốc trị bệnh này đã do mình "mở miệng" mà có, là tà mạng nên không thọ dụng...
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Đúng là giới luật của bậc thánh, dầu mở miệng vô tình chứ không cố ý mà cũng không thọ dụng! Thuốc trị bệnh mà cũng ngăn huống hồ là vật thực, huống hồ là vật thực có được sau khi cố ý thuyết kệ ngôn! Trẫm đã hiểu điều ấy rồi, thưa đại đức! Còn thế nào là khẩu cử động không tội?
- Khi thí chủ yêu cầu Chư Tăng cho biết những nhu cầu về tứ sự, ví dụ: các ngài cần thuốc men gì, vật thực gì v.v..., trường hợp ấy gọi là thọ dụng do yêu cầu của thí chủ - thì không có tội! Tỳ khưu đau ốm thực sự, mở miệng xin thuốc men ở chỗ thí chủ hoan hỷ và sẵn sàng dâng cúng - cũng là khẩu cử động vô tội, tâu đại vương.
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ một lát:
- Trẫm còn một hoài nghi, là khi Đức Thế Tôn quán căn duyên của bà-la-môn Bhàradvàja, xét thấy là ông bà-la-môn ấy có thể độ được - nên Đức Phật mới ôm bát đến gần thửa ruộng của ông ta. Ý của trẫm muốn nói rằng, cái tâm của Đức Thế Tôn lúc ấy là muốn độ người chứ đâu phải là vì vật thực mà Ngài lại ngăn vật thực? Vả lại, biết đâu sau thời Pháp, ông bà-la-môn hoan hỷ cúng dường thì sao? Lẽ nào Đức Thế Tôn lại ngăn luôn sự hoan hỷ của chúng sanh?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Câu hỏi ấy vi tế, sâu sắc lắm đấy! Nhưng thưa đại vương, nếu không ngăn thì sau này hàng trăm, hàng ngàn vị tỳ kheo còn phàm, ham muốn lợi dưỡng - nhân cớ ấy để đi từ nhà này sang nhà khác, mở miệng thuyết pháp, đọc kệ ngôn để kiếm tìm lợi lộc, đầy đủ tứ sự cho riêng mình. Họ sẽ không "mở miệng" xin vật dụng, vật thực nữa - mà họ được dịp mở miệng đúng Pháp - là mở miệng để dạy đạo, dạy Pháp cho người! Điều ấy không nguy hại cho Giáo Hội sao?
- Thưa vâng! Thế còn việc ngăn "hoan hỷ" thì sao?
- Biết đâu, ngăn hoan hỷ lúc ấy mà tín tâm, trí tuệ sau này của người bà-la-môn được tăng trưởng, được thành tựu vững chắc thì sao, hở đại vương?
- Vâng, có thể như vậy! Còn chư thiên họ dâng vật thực cho Đức Thế Tôn thì có liên hệ gì về thân, khẩu cử động không? Và họ chỉ dâng một lần khi Đức Thế Tôn thọ thực món thịt heo rừng của người thợ rèn Cunda, hay đã dâng nhiều lần như thế?
- Chư thiên họ dâng vật thực cho Đức Thế Tôn trong suốt cả bốn mươi lăm năm ngài hoằng Pháp, dâng tất cả những bữa ăn. Chư Thiên họ dâng không liên hệ gì về thân, khẩu cử động cả; họ tự ý làm, và làm một cách chăm chuyên, cần mẫn... rất khác với loài người, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Vâng, họ không dâng một lần mà họ để vật thực vào trong mỗi miếng ăn của Đức Thế Tôn. Ví như đại vương có người hầu bếp tận tụy, trung thành. Khi đại vương ngự dụng, người hầu bếp gắp bỏ cho đại vương từng miếng ăn ngon, chờ cho đại vương ăn xong miếng này, người hầu bếp bỏ thêm món khác. Chư Thiên hầu hạ, phục vụ từng bữa ăn cho Đức Thế Tôn cũng như thế ấy, với tất cả tấm lòng như đứa con hiếu thảo đối với cha mẹ vậy. Vào hạ thứ mười hai, lúc Đức Thế Tôn an cư mùa mưa tại Veranjà, nhằm khi đói kém, ngài phải dùng vật thực của ngựa; nhưng chư thiên cũng đem trộn vật thực của cõi trời vào trong đấy, nên kim thân của Đức Thế Tôn lúc nào cũng tươi nhuận, hồng hào...
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là kỳ diệu. Nhờ đại đức mà trẫm được mở rộng kiến văn.
* * *
117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắc đạo?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp rằng:
- Đức Thế Tôn đã trải qua bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp tu tập công hạnh Ba-la-mật - là do động cơ nào thúc đẩy, thưa đại đức?
- Vì thấy chúng sanh chịu mọi đau khổ trong ba cõi, sáu đường - nên Đức Thế Tôn phát tâm bi mẫn tìm phương thuốc để cứu độ chúng sanh, tâu đại vương!
- Nếu vì tâm đại bi muốn cứu độ chúng sanh là chính đáng, là nguyên động lực thúc đẩy - thì tại sao sau khi chứng ngộ đạo quả vô thượng dưới cội bồ đề, Đức Thế Tôn lại ngần ngừ không muốn Chuyển Pháp Luân? Có phải tâm Đức Thế Tôn đã chùn lại, chẳng còn hăng hái như thuở mới phát nguyện? Hay ngài đã quên hẳn nguyện lớn từ xưa? Hoặc Đức Thế Tôn đã trở nên tiêu cực, muốn an hưởng quả vị giải thoát Niết bàn cho khỏe?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Cái gọi là ngần ngừ, chùn lại, không còn hăng hái, quên nguyện lớn từ xưa hoặc tiêu cực, thụ động v.v... làm sao lại có thể có mặt trong tâm và tuệ của một đấng Đại Giác được, tâu đại vương!
- Thế tại sao ngài lại do dự, không chịu chuyển bánh xe Pháp để cứu độ chúng sanh? Ví như một công dân muốn phụng sự tổ quốc, y đã bỏ hết quãng đời niên trẻ, bôn ba tìm thầy học nghề cung nỏ. Khi thành tài, người công dân kia ứng thí và đỗ đầu chức võ quan. Trẫm tin cậy viên võ quan thiện xạ ấy lắm. Nhưng khi lâm trận, gặp địch, viên võ quan tài giỏi ấy có cái tâm chùn lại, có cái tâm tiêu cực, hãi sợ, rụt rè... không dám giương cung để cự địch. Thái độ của Đức Thế Tôn cũng giống như thái độ của viên võ quan ấy chứ nào có khác gì?
Lại ví như người học võ, ngày đêm tập luyện không mệt mỏi với nguyện vọng ngày kia sẽ vô địch trên các võ đài. Nhưng khi lên võ đài gặp đối thủ, người kia sợ hãi đến xanh mặt, cái tay chùn lại, cái chân run rẩy, quả tim trống đánh đổ hồi... rồi vì khiếp sợ mà y đã thối chí, không dám đương cự với địch thủ nữa; và ước muốn trở thành vô địch, ý chí quyết thắng ban đầu chợt tiêu tan như mây khói. Đức Thế Tôn với bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp tu tập bằng chí nguyện sắt đá, thành tựu công hạnh Ba-la-mật, đem ánh sáng trí tuệ soi đường chỉ lối cho chúng sanh đang bị vô minh che phủ trong đêm trường tăm tối...; nhưng khi thành tựu đạo lớn rồi, ngài lại thối chí, ngã lòng - chẳng khác gì người học võ ở ví dụ trên? Nếu vậy thì Đức Thế Tôn tu tập để làm gì? Thành tựu mười Ba-la-mật để làm gì? Ngài bố thí vật ngoại thân là tài sản, của cải, ngọc ngà, châu báu... là để làm gì? Lại còn bố thí cả vật nội thân như con mắt, quả tim, tay, chân... và luôn cả đầu, cổ, cả sanh mạng... là để làm gì mới được chứ?
Thưa đại đức! Đấy là những vấn nạn của trẫm, những vấn nạn nhức đau, khó hiểu, có ẩn bóng tối; mà chúng ngoại đạo dễ phanh ra để đàm tiếu, để bôi nhọ phẩm hạnh của Đức Đạo Sư, tâm và tuệ của ngài. Mong đại đức bi mẫn thương tưởng đến trẫm cùng những người học Phật thời hậu lai mà ra tay vén mở cho thì trẫm cám ơn lắm vậy!
- Tâu đại vương - đại đức Na-tiên chậm rãi nói - Xin đại vương hãy nhẫn nại, bình tĩnh, đâu còn có đó; rồi những nghi vấn của đại vương sẽ lần hồi được sáng tỏ, đại vương hãy từ từ mà nghe đây.
- Thưa vâng!
- Lời đầu tiên bần tăng muốn xác định là tâm Đức Thế Tôn vẫn khắng khít với lời phát nguyện ban đầu, nghĩa là tâm bi mẫn muốn cứu độ chúng sanh vẫn không suy giảm. Sở dĩ Đức Thế Tôn do dự không muốn thuyết pháp độ đời, là vì giáo pháp mà ngài vừa đại ngộ cao sâu quá, nhiệm mầu quá, vi tế quá, chỉ ngại chúng sanh vì vô minh, ái dục, vì chấp kiến quá sâu dày mà khó biết, khó thấy thôi!
- Dù sao, Đức Thế Tôn cũng đã do dự!
- Vâng, do dự và phân vân nữa! Nhưng là một sự do dự và phân vân hữu lý, vì ngài không ngờ rằng "sự thực" mà ngài chứng ngộ khác xa với dự tưởng thuở ngài còn là bồ tát!
- Vậy là có khác rồi, thay đổi rồi!
- Vâng, không khác, không thay đổi sao được, khi bồ tát thì còn vô minh mà bậc Chánh Đẳng Giác đã diệt tận vô minh? Tâm và tuệ của bồ tát khác xa với tâm và tuệ của vị Phật, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng rộng cho nghe.
- Thưa vâng, có thể trong thời gian trải qua bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bồ tát tu tạo công hạnh ba-la-mật với ý nghĩ rằng: sau khi thành Phật, ta sẽ cứu độ tất thảy chúng sanh! Nhưng khi thành Phật rồi, tâm và tuệ của ngài không còn giống với trình độ tâm và tuệ thuở còn là bồ tát - mà nó sâu sắc hơn, vi tế hơn, lợi thắng hơn. Nghĩa là Đức Phật có những khả năng mà bồ tát không có! Ngài có những sự thấy biết mà bồ tát khó thấy biết. Ví dụ như Đức Phật thấy, biết rằng: "Chúng sanh có những căn cơ sai khác dị, đồng rất khó mà giáo hóa; trình độ chúng sanh đa phần ngu si, tăm tối... khó mà cho chúng thấy được Giáo Pháp cao siêu mầu nhiệm ấy"! Tâu đại vương, điều mà bần tăng vừa trình bày đó nghe có hữu lý không?
- Có thể là hữu lý! Ý đại đức nói rằng, thuở còn là bồ tát thì tưởng là dễ độ chúng sanh; nhưng khi thành Phật, chứng ngộ Pháp rồi - thì thấy rằng Pháp ấy không dễ gì mà mang ra cho tất thảy chúng sanh cùng thấy, cùng biết được.
- Vâng!
- Nếu quả như vậy thì sự phân vân, do dự của Đức Thế Tôn là sự phân vân, do dự của bậc đại trí - trẫm hiểu rồi!
- Ví như một lương y đại tài thường không cau mày trước bất kỳ một bệnh nào. Nhưng hôm kia, vị lương y gặp phải một căn bệnh kỳ quái, hiểm nghèo mà suốt đời vị ấy chưa từng biết qua. Trường hợp ấy, vị lương y đại tài kia phân vân, do dự - có hữu lý không hở đại vương?
- Thưa, hoàn toàn hữu lý.
- Cũng giống như thế ấy, khi còn vô minh, còn tu tập mười công hạnh ba-la-mật, bồ tát nghĩ rằng có thể cứu độ tất thảy chúng sanh. Nhưng khi thành Phật rồi, hết vô minh rồi - ngài lại ngần ngừ, do dự trước những căn bệnh trầm kha của chúng sanh đấy, tâu đại vương!
- Hoàn toàn chính xác!
- Ví như có một vị hoàng tử trẻ tuổi, tài cao, chí lớn, thường suy nghĩ rằng: "Sau này làm vua, ta sẽ là một đấng minh quân. Ta sẽ trừng trị những tay gian thần, nịnh thần. Ta sẽ nghiêm khắc với chính mình, đối xử chừng mực, phải lẽ với hoàng hậu, thứ phi, cung nga, thể nữ. Ta sẽ ban thưởng trọng hậu cho các quan thanh liêm, chính trực, những bề tôi lương đống và kẻ có công. Ta sẽ thương dân như con. Ta sẽ bảo ban sau trước tất cả mọi công việc, chăm lo làm sao cho dân giàu, nước mạnh v.v..." Nhưng khi lên làm vua rồi, vị vua trẻ mới thấy rằng, không dễ gì thực hiện những ý nghĩ thuở còn hoàng tử được. Và không dễ gì trong một lúc mà làm hết các công việc như dự kiến ban đầu. Muốn làm đấng minh quân đâu phải chỉ trong một sớm, một chiều? Việc gì cũng phải cẩn thận, dè dặt, vì mỗi người là mỗi tâm, mỗi tánh, sở thích, tham muốn... khác nhau! Tâu đại vương, sự phân vân, cẩn thận, dè dặt của vị vua trẻ kia có hữu lý không?
- Thưa, rất hữu lý.
- Sự phân vân, do dự của Đức Thế Tôn sau khi đạt quả vị cũng như thế ấy.
- Vâng, trẫm đã thông suốt lắm rồi! Nhưng sau đó, tại sao phải đợi đến lúc vị Đại Phạm thiên thưa thỉnh ba lần, Đức Thế Tôn mới xuống núi độ đời, lăn bánh xe Pháp? Chuyện ấy có ý nghĩa gì không, thưa đại đức?
- Có ý nghĩa chứ, tâu đại vương! Một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm việc gì cũng đều quán căn, cơ, duyên... của chúng sanh cả! Đại Phạm thiên thưa thỉnh ba lần, đây là thông lệ của chư Phật quá khứ, tâu đại vương!
- Xin đại đức tuần tự mở thông lỗ tai cho trẫm.
- Thưa vâng! Sở dĩ chư Phật đợi đến lúc Đại Phạm thiên thưa thỉnh mới chuyển Pháp luân, là vì Đại Phạm thiên là bậc Tối Thượng Tôn, là bậc có quyền năng vô hạn theo truyền thuyết nhân gian và theo cả tín ngưỡng, lòng tin cổ truyền của người theo Bà-la-môn giáo. Không những loài người, mà cho chí chư thiên và các vị phạm thiên đều quy ngưỡng, kính trọng bậc Đại Phạm thiên. Vậy khi mà bậc Đại Phạm thiên ấy đến quỳ năm vóc sát đất, quy ngưỡng và cung thỉnh Đức Thế Tôn xuống núi độ đời, thì chắc hẳn sự lợi lạc cho Giáo Pháp, tăng tưởng lòng tin cho chư thiên và loài người như thế nào, chắc là đại vương có thể hiểu được rồi!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Đúng vậy, khi ông vua mà quy phục rồi thì bọn bề tôi dưới trướng phải nhất mực tuân theo. Lại nữa, khi mà ông vua cung thỉnh thuyết pháp, thì pháp ấy chắc hẳn phải tốt đẹp, phải lợi ích cho cả chư thiên và loài người, thưa đại đức!
- Lại nữa, tâu đại vương! Khi mà vị Đại Phạm thiên thưa thỉnh ba lần hợp pháp rồi, Đức Thế Tôn mới quán căn duyên của chúng sanh. Ngài thấy rằng, như hoa sen nở ở trong hồ, cái đang còn chìm ẩn trong bùn, cái đang còn chìm dưới nước, cái đã trồi ngang mặt nước, cái thì đã vươn lên khỏi mặt nước để đón nhận ánh sáng mặt trời, phô thắm sắc và tỏa ngát hương. Cũng vậy, chúng sanh ngu trí khác nhau. Có loại chúng sanh đang bị chìm sâu trong bùn dơ ngũ dục. Có loại chúng sanh tuy đã ra khỏi bùn nhưng còn chìm trong nước. Có loại chúng sanh đã trồi ngang mặt nước. Có loại chúng sanh căn cơ thượng đẳng, đã vươn lên khỏi mặt nước. Loại chúng sanh này ít bụi cát trong mắt, có thể phủi sạch để thấy được Giáo Pháp mầu nhiệm cao siêu, đón nhận được ánh sáng tuệ giác để giải thoát sinh tử trầm luân!
Tâu đại vương! Ý nghĩa thưa thỉnh ba lần của vị Đại Phạm thiên có duyên cớ và ý nghĩa thù thắng như thế, thì kẻ nhiều bụi cát trong mắt làm sao biết được, hiểu được, phải không đại vương?
- Vâng, vâng! Trước thì đầu óc trẫm rất nặng, đại đức đã làm cho nhẹ đi! Trước thì nghi kiến của trẫm rất rối ren, đại đức đã tháo gỡ cho từng dây, từng mối. Trẫm rất tịnh tín với đại đức, đại đức có biết thế không?
- Cảm ơn đại vương.
* * *
118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn?
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Thưa đại đức! Trẫm nhớ không lầm là sau khi thành đạo, trên đường về vườn Lộc giả, Đức Phật có tuyên bố với một đạo sĩ thuộc phái Ni-kiền-tử rằng: "Như Lai không có ai là thầy tổ. Khắp trên thế gian này, Như Lai không thấy ai, dầu trong hàng chư thiên, ma vương hay phạm thiên, hay giữa loài người như sa môn, bà-la-môn... lại có thể sánh với Như Lai, hoặc là có ai đó có thể ngang bằng với Như Lai...!"
Rồi sau này, lúc thuyết pháp đến Chư Tăng ở đâu đó, Đức Thế Tôn lại nói rằng: "Này các thầy tỳ khưu, đạo sĩ Àlàrà thuộc dòng Kàlàma là người có học vấn, thông minh, là bậc thiện trí thức, là thầy của Như Lai"!
Thưa đại đức! Tại sao Đức Tôn Sư lại thuyết hai lưỡi? Nếu không thuyết hai lưỡi thì là thuyết hai lời đối chọi nhau? Nếu câu này đúng thì câu kia sai, và nếu thế thì làm sao biết được lời nào là đúng sự thật?
Đại đức Na-tiên đáp:
- Chỉ một hiểu lầm nhỏ thôi mà sinh ra vậy. Nghĩa là sau khi thành Phật rồi, Đức Thế Tôn không có ai là thầy; nhưng khi còn là Bồ Tát, chưa thành Phật, Ngài vẫn có nhiều vị thầy chứ, tâu đại vương!
- À ra thế! Chỉ đơn giản vậy thôi! Trẫm hiểu rồi.
- Cuộc đời Đức Tôn Sư từ nhỏ đến khi thành đạo, Ngài có năm vị thầy tất cả, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy kể cho trẫm nghe.
- Vâng, khi Ngài vừa đản sanh, tám vị thầy bà-la-môn đến làm lễ phúc chúc rồi đoán tướng cho Ngài, đó là những vị thầy đầu tiên. Đến khi tuổi vừa đi học, người bà-la-môn thông thái tên là Sabbanimitta dạy cho Ngài ba bộ kinh Phệ-đà cùng những môn học khác, đó là vị thầy thứ hai. Khi Bồ tát dạo chơi bốn cửa thành, chư thiên hiện hình làm người già, bệnh, chết và vị sa môn trong phẩm mạo xuất gia cao thượng, đó là những vị thầy thứ ba. Đạo sĩ Alàrà thuộc dòng Kàlàma hướng dẫn Bồ tát đắc thiền vô sở hữu là vị thầy thứ tư. Và cuối cùng, đạo sĩ Uddaka con dòng Ràma hướng dẫn Bồ tát thiền chứng phi phi tưởng là vị thầy thứ năm!
Tâu đại vương! Năm vị thầy ấy thuộc về thế gian. Dầu hai đạo sĩ sau cùng dạy Bồ tát chứng đắc thiền định cõi vô sắc giới thì cũng còn nằm trong tam giới. Còn pháp siêu thế, xuất thế gian là tự Đức Thế Tôn chứng nghiệm, tìm ra, quả thật không có ai là thầy Ngài cả. Đại vương đã tỏ tường chưa?
- Vâng! Trẫm đã tỏ tường!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:50:24 GMT -5
119. Thế nào gọi là Sa-môn?
- Thưa đại đức! Có phải Đức Tôn Sư có thuyết rằng: "Bậc Thánh nhơn là người đã diệt tận phiền não, người diệt tận phiền não được gọi là sa-môn"?
- Thưa, đúng vậy!
- Ở nơi khác, Đức Thế Tôn lại thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Người nào có đầy đủ bốn pháp:
- có sự nhẫn nhục, - biết tri túc về vật thực, - dứt bỏ sự đam mê, - không vướng bận,
thì Như Lai gọi là sa-môn!"
Thưa đại đức! Ở trên thì diệt tận phiền não gọi là sa-môn; còn ở dưới, chỉ đầy đủ bốn pháp nêu trên cũng được gọi là sa-môn? Đầy đủ bốn pháp ấy thì một phàm tăng có tâm tu học, chưa chứng Thánh quả cũng có thể thành tựu được! Vậy thì biết tin định nghĩa nào là đúng, thưa đại đức?
- Định nghĩa nào cũng đúng cả, tâu đại vương!
- Thưa, không thể như vậy được. Một bên là diệt tận phiền não, một bên thì còn phiền não - sao đều cùng chung một tên gọi cao quý là sa-môn? Trẫm không đồng ý như thế!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Tâu đại vương! Trong các loài hoa có mặt trong quốc độ của đại vương, theo ý đại vương thì loài hoa nào quý báu hơn cả?
- Thưa, có lẽ bạch liên hoa là quý phái, sang trọng, tinh khiết và quý báu nhất!
- Quý báu, sang trọng nhất - cũng chỉ được gọi tên là hoa như các loài hoa tầm thường khác thôi sao, đại vương?
- Đấy là tên gọi gom chung lại, có tính tổng quát, thưa đại đức!
- Cũng như thế, sa-môn chỉ là tên gọi gom chung lại, có tính tổng quát như tên gọi hoa vậy, tâu đại vương! Cứu cánh của sa-môn hạnh là diệt tận phiền não, nên những ai diệt tận phiền não thì được gọi là sa-môn. Nhưng những vị tỳ khưu đang đi trên con đường ấy, kẻ thành tựu được bốn pháp, kẻ đang và sẽ thành tựu bốn pháp - đều được gọi là sa-môn cả thảy.
Nếu như trong loài hoa, bạch liên hoa là cao quý nhất, thì cũng thế, trong hàng sa-môn, các sa-môn diệt tận phiền não rồi - là cao quý nhất!
- Trẫm đã hiểu.
- Ví như trong quốc độ của đại vương có rất nhiều loại gạo, nhưng gạo Sàli ngon nhất, thơm nhất, quý báu nhất. Cũng vậy, bậc hữu học sa-môn đang tu tập bốn pháp để diệt phiền não không cao quý bằng bậc vô lậu sa-môn đã diệt tận phiền não - nhưng họ đều có tên chung là sa-môn cả, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức.
* * *
120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết ở trong nhiều kinh, nhất là kinh Brahmajàla (Phạm võng), lúc Ngài ngự giữa thành Vương Xá và xứ Na-lan-đà, cố ý dạy cho Chư tỳ khưu Tăng, rằng: "Này các thầy, nếu có ai đó tán dương, khen ngợi Như Lai hoặc khen ngợi và tán dương Pháp và Tăng, các thầy đừng có hoan hỷ, thỏa thích, đừng để tâm rung động, xao động, bởi những lời khen ngợi ấy. Vì sao vậy? Bởi vì nếu các thầy hoan hỷ, thỏa thích, đắm trước vào những sự tán dương, khen ngợi, tâng bốc của người đời - thì tâm các thầy sẽ lao xao, rối loạn; và như thế các thầy khó an trú tâm, khó đắc định, khó chứng ngộ những pháp cao siêu là các đạo và các quả." Điều ấy có đúng không, đại đức?
- Tâu, đúng là lời của Đức Tôn Sư!
- Thưa, nếu đúng là lời của Đức Tôn Sư, thì lại càng khó hiểu khi Đức Thế Tôn lại tự tán dương, khen ngợi mình, có vẻ khoe khoang quá đáng trước mặt người ngoại đạo là bà-la-môn Sela rằng: "Giữa chốn chư thiên, ma vương, phạm thiên và loài người, Như Lai là bậc Tối Thượng Tôn, là bậc pháp vương cao quý. Không có ai có công đức bằng Như Lai. Như Lai đã chuyển Pháp luân toàn hảo ở chặng đầu, toàn hỏa ở chặng giữa và toàn hảo ở chặng cuối để cứu độ tất thảy chúng sanh, trời và người. Không ai có thể so sánh tương tợ với Như Lai, huống nữa là ngang bằng với Như Lai!"
Thưa đại đức! Một đằng thì Đức Thế Tôn cấm Chư tỳ khưu Tăng không được hoan hỷ, thỏa thích bởi những lời tán dương, khen ngợi. Đằng khác, Đức Thế Tôn lại tự khen ngợi, tự tán dương mình! Trẫm nghi lắm. Trẫm nghi rằng có cái gì đó rất mâu thuẫn, không được thích đáng cho lắm ở ngôn và hành của Đức Đạo Sư!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Lý do tại sao Đức Thế Tôn giáo giới không cho Chư tỳ khưu Tăng hoan hỷ, thỏa thích trước những lời khen ngợi, tán dương - đại vương có biết chăng?
- Thưa, vì ngại tâm Chư tỳ khưu bị xao động, khó an trú tâm, khó đắc định và khó đắc đạo quả!
- Đúng vậy! Còn đối với những người đã khéo an trú tâm, đã đắc định, đã chứng đắc Thánh quả - thì Đức Thế Tôn có cần thiết giáo giới như thế không?
- Dĩ nhiên là không cần thiết, thưa đại đức! Ví như kiêng cử không nên ăn món này, không nên ăn món kia và uống thuốc để chữa bệnh, nhưng bệnh lành rồi thì uống thuốc và kiêng cử làm gì nữa, đại đức?
- Vâng, Đức Thế Tôn cũng thế. Ngài đã an trú tâm, đã đắc định và đã đắc quả vị Chánh Đẳng Giác - thì lời khen, tiếng chê có ảnh hưởng gì đến tâm Ngài đâu, đại vương!
- À, đúng thế!
- Lại nữa, Đức Thế Tôn thuyết không phải mong được kẻ khác tôn trọng, không phải thuyết để tìm kiếm lợi lộc, danh vọng; không phải thuyết để tìm kiếm kẻ tùy tùng, đệ tử. Ngài thuyết chỉ vì lợi ích cho chúng sanh.
Đại vương! Đại vương có biết rằng, sau thời pháp mà đại vương bảo là Đức Thế Tôn tự khen ngợi và tự tán dương mình ấy, bà-la-môn Sela đã tăng trưởng đức tin, pháp nhãn phát sanh và chứng ngộ Sự Thật. Và ba trăm người nữa có mặt hôm ấy cũng chứng đắc đạo quả cao siêu! Đại vương nghĩ thế nào, thời pháp ấy là thù thắng hay không thù thắng?
- Thưa, rất vi diệu.
Đại đức Na-tiên nhấn mạnh:
- Đức Thế Tôn có "khoe khoang quá đáng" như lời đại vương khiển trách - thì mục đích cũng nhắm vào căn cơ của người đối thoại, nhắm vào lợi ích của chúng sanh thôi, tâu đại vương!
- Trẫm không dám nói thế nữa đâu!
* * *
121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn thường thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy phải có tâm bi mẫn đối với chúng sanh, nên nói lời từ hòa, mát mẻ, phải thương xót chúng sanh mới xứng giữ phẩm hạnh cao thượng trong giáo pháp của Như Lai."
Một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại thuyết: "Này các thầy tỳ khưu! Trong thế gian này cái gì đáng bị ngược đãi thì Như Lai ngược đãi, cái gì đáng được cất nhắc thì Như Lai cất nhắc! Cái gì đáng bị cắt tay, cắt chân thì Như Lai cắt tay, cắt chân! Cái gì đáng bị trói buộc thì Như Lai cho trói buộc! Cái gì đáng giết thì Như Lai bảo giết!"
Sao Đức Tôn Sư lại có thứ ngôn ngữ lạ lùng như thế? Ngôn ngữ ấy có xứng với phẩm hạnh của bậc Thánh? Đấy chính là ác khẩu, ác ngữ mà một hiền nhân trong thế gian này cũng không bao giờ sử dụng, huống nữa là Đức Đại Giác! Xin đại đức hoan hỷ phá nghi điều ấy cho trẫm!
- Tâu đại vương! Khi Đức Tôn Sư dạy rằng các thầy tỳ khưu phải có lòng từ, phải có lòng bi mẫn thương xót chúng sanh, ấy là lúc Ngài dùng thường ngữ, ai cũng có thể hiểu được. Nhưng khi Đức Tôn Sư dạy rằng, cái gì đáng bị ngược đãi thì Như Lai ngược đãi, cái gì đáng được cất nhắc thì Như Lai cất nhắc v.v..., ấy là lúc Ngài dùng Pháp ngữ. Pháp ngữ nghĩa là ngôn ngữ của Pháp! Xin đại vương hiểu cho như thế để khỏi hiểu lầm Pháp nghĩa mà Đức Tôn Sư muốn gởi gắm!
- Pháp ngữ, Pháp nghĩa ấy là thế nào, hở đại đức?
- Xin thưa! Ví dụ như chúng sanh hoặc chư vị tỳ khưu nào có tâm phóng dật, buông lung... thì hãy nên đè nén, ngược đãi, chế ngự, áp chế tâm ấy. Đó là Pháp ngữ, Pháp nghĩa của câu "Cái gì đáng bị ngược đãi thì nên ngược đãi (áp bức, đè nén...)".
Ví dụ, chư tỳ khưu hoặc chúng sanh nào có trạng thái tâm yên tĩnh, không bị lao xao, được vắng lặng thì nên cất nhắc, làm cho tốt hơn, viên mãn hơn, thanh tịnh hơn. Ấy là Pháp nghĩa, Pháp ngữ của câu "Cái gì đáng được cất nhắc thì cho cất nhắc".
Tương tự như thế, các trạng thái tâm bất thiện thì nên đè nén, áp chế...; các tâm thiện thì được cất nhắc. Khi khởi tâm đến đối tượng một cách sai lạc, không chân thực, không đúng với chân lý, sự thật thì nên ngược đãi, đè nén nó. Khi khởi tâm đến đối tượng một cách trong sáng, chân thật, đúng với chân lý, sự thật thì tâm ấy nên được cất nhắc, khen ngợi, làm cho phát triển.
Người nào thực hành giáo pháp sai thì nên đè nén, chế ngự... Người nào thực hành giáo pháp đúng thì nên cất nhắc, khen ngợi, tán dương, làm cho sung mãn v.v...
Tương tự như thế, kẻ ăn trộm thì cho đè nén, người không ăn trộm thì được cất nhắc!
Tất cả những điều ấy đều phải hiểu theo Pháp ngữ, pháp nghĩa cả, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà nhăn mày:
- Thưa, đoạn trên thì trẫm hiểu, nhưng đoạn dưới, nơi chỗ "ăn trộm" thì trẫm không hiểu tới; "đè nén kẻ ăn trộm" phải được hiểu như thế nào, đại đức?
- Tâu, ở đây, phải hiểu thêm lý nhân quả, tùy tội trạng của tên ăn trộm ấy nữa. Ví như có những tên phạm pháp ăn trộm, tùy theo mức nặng hay nhẹ mà đại vương xử phạt. Có tội nhẹ thì khiển trách, tội đáng trói để răn đe thì nên trói để răn đe, tội đáng lưu đày thì lưu đày, tội đáng giết thì nên giết... Không ăn trộm thì không giết. Luật pháp thế gian là vậy, còn luật pháp của bậc thánh, khi nói như thế thì phải được hiểu theo Pháp ngữ, mong đại vương tỏ tường!
- Thưa, "đáng giết thì nên giết, giết phứt" đúng là câu nói của Đức Tôn Sư hay câu nói của đại đức?
- Tâu, Đức Thế Tôn không nói, mà bần tăng cũng không nói thế đâu!
- Vậy chữ "giết" kia do đâu mà có?
- Do nhân quả mà có. Ví dụ người ấy gây nhân quá nặng, đáng bị trọng hình, đáng bị giết - thì chính người ấy phải bị quả báo dữ! Chính quả báo dữ giết người ấy, tâu đại vương!
- Thưa, tạm thời trẫm hiểu, nhưng "không ăn trộm thì không giết" là nghĩa thế nào?
- Đại vương có khi nào sai lính đi lùng bắt những người dân lương thiện, những người vô tội... rồi đem về tra khảo, hành hình không?
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Có ông vua nào lại làm điều phi lý như thế!
- Cũng thế, những chúng sanh không làm điều sai quấy, không làm điều ác, điều dữ... thì quả báo nào lại đi lùng bắt kẻ ấy, phải thế không đại vương?
- Vâng.
- Tất cả những từ như đè nén, ngược đãi, cất nhắc, giết, ăn trộm... chúng ta phải hiểu theo Pháp ngữ, tâu đại vương!
- Trẫm hiểu rồi, cảm ơn đại đức!
* * *
122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận!
- Đức Thế Tôn chắc hẳn không còn sân hận, bất bình, phải không đại đức?
- Tâu, vâng!
- Thế sao có lần khi Đức Xá-lợi-phất và Đức Mục-kiền-liên dẫn năm trăm đệ tử đến hầu thăm Đức Thế Tôn; vì nhóm đệ tử ấy vừa mới xuất gia, thân khẩu ý chưa được kiểm soát, còn rất thô tháo nên đã tạo nên sự ồn ào, huyên náo... Đang độc cư thiền định, nghe thế, Đức Thế Tôn đã không chịu nổi, bảo Ngài Ànanda đuổi họ đi! Hành động ấy không phải do bất bình, sân hận là gì? Đuổi mà đuổi cả hai vị đại đệ tử, hai bậc thượng thủ của giáo hội thì đâu phải là chuyện bình thường? Đâu phải chuyện nói mà chơi? Đâu phải đuổi thế mà bảo là không bất bình, nổi sân một chút nào? Hay là Đức Thế Tôn đã đuổi bằng tâm từ ái, hoan hỷ? Có lẽ vậy mới phải lý, phải lẽ, phải nhân, phải quả chăng?
- Tâu đại vương! Có khi nào đại vương thấy quả đất có tâm bất bình, sân hận? Hoặc giả quả đất có tâm thương yêu hay thù oán chăng?
- Dĩ nhiên là không thể có.
- Vậy, ví như có người đi trên đất, bị té trên đất, gặp đá bị sưng đầu, vỡ trán - thì do người ấy bất cẩn hay do đất tạo tội hở đại vương?
- Chỉ tại người ấy chứ quả đất nào có tội gì!
- Tâm Đức Thế Tôn cũng an nhiên, bình lặng, không hoan hỷ, không thù oán, không bất bình, không hận, không thương, không ghét - ví như quả đất vậy. Người kia bất cẩn bị té sưng đầu, vỡ trán như thế nào thì năm trăm tỳ khưu có tội bị Đức Phật đuổi đi cũng như thế ấy, tâu đại vương!
- Ví dụ ấy không tương hợp rồi, thưa đại đức! Quả đất không khởi tâm, Đức Phật có khởi tâm, làm sao có thể giống nhau được?
- Tâu đại vương! Ngài phải hiểu rằng Đức Thế Tôn thường trú tâm xả. Tâm xả ấy thường bình lặng và an nhiên như quả đất vậy. Còn khi mà Đức Thế Tôn có khởi tâm - là khởi tâm muốn tế độ chúng sanh. Ngài đuổi họ là vì lợi ích cho họ chứ đâu phải do sân hận hoặc bất bình?
Ví như biển lớn không bao giờ dung chứa tử thi dù hàng trăm hằng ngàn tử thi bồng bềnh trôi nổi giữa đại dương, sóng cũng tìm cách đánh dạt những tử thi ấy vào bờ cho bằng được! Biển không hề có tâm hận, tâm hỷ, thương hoặc ghét như thế nào - thì Đức Thế Tôn khi đuổi năm trăm tỳ khưu vì hạnh động sái quấy của họ - cũng y như thế ấy.
- Vâng, nhưng nghe nói rằng, sau đó, Phạm thiên Sahampati và những người Thích tử đã đến qùy lạy xin Đức Thế Tôn đừng đuổi họ nữa.
- Quả vậy, nhờ thế, sau đó họ biết chăm chú nghe Pháp, tinh tấn thiền quán và năm trăm tỳ khưu kia đã đắc Thánh quả cả.
- Ồ! Hy hữu vậy thay. Còn trường hợp hai vị thượng thủ thì sao?
- Hai ngài Đại Đệ tử từ rày phải ý thức thêm trách nhiệm của mình: là phải tìm cách giáo giới nghiêm túc những kẻ sơ tu hơn nữa!
- Vâng, vậy thì trẫm không còn ngờ oan về tâm sân của Đức Thế Tôn nữa. Nhưng như vậy không có nghĩa là không còn mối nghi khác trong câu chuyện này.
Đại đức Na-tiên nói:
- Thôi được rồi, hẹn đại vương hôm khác.
* * *
123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:
- Đồng ý là Đức Thế Tôn không có tâm sân hận, bất bình rồi; nhưng người ta có thể nghĩ rằng Ngài không có tâm bi mẫn, thưa đại đức.
- Tại sao đại vương lại nói thế?
- Có chứng cớ hẳn hòi, thưa đại đức. Trẫm còn nhớ, khi Đức Thế Tôn đuổi hai vị thượng thủ cùng năm trăm vị tỷ kheo, thì đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma đã lần lượt đến quỳ bên chân Đức Đạo Sư để năn nỉ, xin xỏ cho họ được ở lại. Họ đã nói rằng, năm trăm tỳ kheo ấy còn non dại, chưa biết gì, thật là tội nghiệp. Họ đã ví von rằng, như hạt mầm non trẻ, nếu thiếu nước, thiếu ánh sáng, thiếu đất tốt thì nó sẽ dần dần bị tiêu hoại; như những con nghé con, nếu thiếu bú mớm, thiếu chăm sóc, nuôi dưỡng thì những nghé con kia sẽ chết; và cũng vậy, năm trăm tỳ kheo kia mới sơ tu, họ cần phải được yết kiến Đức Thế Tôn, cần được nghe Pháp, dạy dỗ..., may ra họ mới được trưởng thành, lớn khôn trong Giáo Pháp của bậc Thánh! Sau đó, họ xin Đức Thế Tôn khởi lòng bi mẫn xót thương cho năm trăm vị tỷ kheo. Thưa đại đức, điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn, mà chính vị đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma mới có tâm bi mẫn!
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài là thầy của chư thiên và loài người, Ngài đã dạy giáo pháp cho chư thiên và loài người. Vậy thì cái tâm bi mẫn của phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma, họ học được từ đâu?
- Dĩ nhiên là họ học được từ Đức Thế Tôn.
- Đúng vậy. Họ học được tâm bi mẫn của Đức Thế Tôn, thế sao đại vương dám bảo Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?
- Khi ấy có lẽ Đức Thế Tôn đã quên tâm bi mẫn của mình, đợi đến khi Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử Càtuna nhắc lại, Ngài mới nhớ chăng?
Đại đức Na-tiên bèn đưa ra ví dụ:
- Ví như có một người chồng vì thương vợ, bèn sắm đầy đủ các loại ngọc quý cho vợ trang sức. Lâu lâu, người vợ muốn làm vui lòng chồng, lấy đồ trang sức ấy trang điểm cho mình. Thấy vậy, người chồng có vui tươi, hoan hỷ không hở đại vương?
- Dĩ nhiên là phải vui chứ!
- Cũng như thế đó, đại vương! Tâm bi mẫn ấy do Đức Thế Tôn giáo huấn, dạy dỗ; và rất nhiều pháp khác nữa, Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma học được từ Đức Thế Tôn. Lâu lâu, họ lấy giáo pháp ấy nói lại, trang điểm cho mình, làm cho Đức Thế Tôn cũng hoan hỷ, Ngài phải thốt lên rằng: "Sàdhu, lành thay!".
- Hay lắm!
- Lại nữa, ví như có người cận thần thân tín của đức vua, vào kho của đức vua lấy những ngọc ngà châu báu, những vòng kim cương, lưu ly để trang điểm ngai vàng cho đức vua, những mong cho đức vua thỏa thích, vừa dạ. Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma cũng lấy giáo pháp của Đức Thế Tôn, những đoản ngôn, những ví dụ của Đức Thế Tôn... để nói lại - thì đâu có khác gì vị cận thần thân tín kia của đức vua?
- Vâng, hay lắm!
- Lại nữa, ví như có người học trò hầu hạ một vị hòa thượng, thường đem những lời hay ý đẹp mà vị hòa thượng ấy từng dạy bảo, nói lại cho hòa thượng nghe, làm cho vị hòa thượng vô cùng hoan hỷ, đẹp dạ. Đức Thế Tôn nghe lại giáo pháp của ngài do từ miệng của Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử thì cũng vừa lòng đẹp dạ như vậy đó, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà bất giác mỉm cười:
- Đại đức bênh vực cho Đức Đạo Sư thật là hùng hồn; biết là có cái gì đó không được đúng lắm, nhưng trẫm cũng không biết y cứ từ kẻ hở nào mà tranh luận!
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười:
- Khi mà đấng Minh quân đã nói vậy thì rõ là không có chỗ nào sai sự thật rồi!
- Có lẽ vậy, cảm ơn đại đức!
* * *
124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào?
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Thưa đại đức! Trước đây trẫm có cơ duyên hầu chuyện với trưởng lão Àyupala, được biết rằng, bậc xuất gia hay người tại gia đều có thể đắc quả cao thượng giống nhau. Mà chính Đức Tôn Sư cũng có thuyết như thế. Điều này trẫm còn có chỗ hoài nghi.
- Xin đại vương cứ nói.
- Thưa, người tại gia thọ dụng ái dục, ăn mặc bằng những y phục màu trắng có thêu hoa, nằm ngủ với vợ, mưu sinh bằng đủ mọi cách để nuôi vợ con; họ nhồi phấn, thoa vật thơm, trang sức, trang điểm mỹ lệ, chải chuốt mái tóc cho láng lẩy, gom góp tài vật đủ loại... Nghĩa là họ hưởng thụ dục lạc một cách đầy đủ, thỏa mãn...
Còn các bậc xuất gia phải cạo bỏ râu tóc, mặc những thứ vải thô, xấu, lại còn phải nhuộm nước chát cho ố màu đi. Họ còn phải thọ trì nghiêm khắc hai trăm hai mươi bảy giáo điều, mười ba pháp đầu đà khổ hạnh... Nghĩa là họ phải có một đời sống cơ cực, thiếu thốn đủ mọi bề...
Đại đức Na-tiên nói:
- Đúng như thế. Nhưng đại vương nghi ở chỗ nào?
- Thưa, thứ nhất là ai thực hành giáo pháp tốt cũng đắc đạo quả cao siêu. Vậy thì dại gì đi tu cho khổ, cho cơ cực, thà ở nhà hưởng thọ ngũ dục còn hơn vậy?
- Tâu đại vương! Sự thật là thế, nhưng người tại gia thực hành giáo pháp khó khăn hơn nhiều. Có thể nào một người cư sĩ thọ dụng ngũ dục, sống giữa cõi trần luôn luôn bị lửa tham sân thiêu đốt lại có thể chứng ngộ giáo pháp ly dục cao siêu được, hở đại vương?
- À ra thế!
- Còn các bậc xuất gia, do nhờ ghép mình vào các điều học, thọ mười ba pháp đầu đà, thu thúc lục căn thanh tịnh; nghĩa là luôn luôn sống đời lánh xa ngũ trần, tham sân ít có cơ hội thiêu đốt; nên bao giờ cũng dễ dàng chứng ngộ được giáo pháp ly dục, tâu đại vương!
- Vâng, vâng!
- Tuy nhiên, dẫu là xuất gia, nhưng họ buông lung phóng dật, không chịu thực hành những đề mục chỉ tịnh, quán minh - thì làm sao mà thấy được đạo quả hở đại vương?
- Vâng, vâng!
- Do vậy, phẩm mạo xuất gia hay tại gia quan trọng ở chỗ thực hành và không thực hành, tâu đại vương!
- Vâng! Và như vậy rõ ràng là bậc xuất gia vẫn cao thượng hơn tại gia! Nhưng trẫm không rõ là nó cao thượng đến cỡ nào?
- Không ai có thể định giá được ngọc ma-ni, tức ngọc như ý như thế nào, thì sự cao thượng của phẩm mạo xuất gia cũng y như thế, cái đức của bậc xuất gia cũng dường thế ấy!
- Các vị tỳ kheo trong giáo hội của đại đức thường giáo giới đến cận sự nam nữ hai hàng rằng đức của Chư Tăng như biển lớn, là ý đó chăng?
- Vâng, vì rằng biển rộng và sâu đến chừng nào thì chưa có ai đo lường được; thì sự cao thượng, cao siêu của phẩm mạo xuất gia cũng như biển vậy, khó lượng, khó dò!
- Thưa, vậy thì do đâu mà có được cái đức ấy, sự cao siêu, cao thượng ấy?
Đại đức Na-tiên nói:
- Dường như do đâu thì đại vương đã hiểu rồi.
- Xin đại đức cứ nói lại, có phải là do nhờ đời sống ghép mình vào giới hạnh?
- Vâng, sự thành tựu cao siêu ấy, thành tựu các đức lớn ấy là do đời sống viễn ly của chư tỳ khưu, chẳng hạn:
- Thiểu dục (ít ham muốn), - Tri túc, - Ưa thích nơi thanh vắng, - Không thích đám đông, phe nhóm, - Không chất chứa, không luyến tiếc, - Sống đời vô trú, - Đầy đủ giới hạnh, - Biết rành rẽ giá trị, sự lợi ích trong việc thực hành các pháp đầu đà, v.v...
Tâu đại vương! Khi mà bậc xuất gia thực hành nghiêm túc các điều như đã kể ở trên, họ sẽ thành tựu đạo quả cao siêu rất dễ dàng, mau lẹ...; cũng giống như người kia xuống sông tắm, dễ dàng và mau lẹ kỳ cọ thân thể mình cho sạch sẽ vậy.
- Thật là rõ ràng, trẫm hiểu được do đâu mà cao thượng rồi.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:51:06 GMT -5
125. Đời sống Sa-môn vô tru, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất liêu?
- Đại đức vừa nói là các bậc xuất gia sống đời vô trú, không nên có chỗ ở nhất định, không nên lưu luyến chỗ ở, nên sống nơi thanh vắng, v.v... Đấy cũng là điều Đức Phật thường khuyên răn, giáo giới đến các bậc xuất gia, phải vậy chăng?
- Thưa vâng!
- Thế tại sao, ở chỗ khác, Đức Tôn Sư lại thuyết: "Các hàng thí chủ nên tạo chùa, thất liêu để cho Chư Tăng có chỗ ngụ cư an vui, dễ dàng, vì họ là những bậc đa văn, những bậc nâng đỡ Tam Tạng, những bậc làm cho giáo pháp được hưng thịnh, trường tồn..."?
Đức Đạo Sư đã thuyết lưỡng nghĩa, hai lời, nếu chỗ trên đúng thì chỗ dưới sai hoặc trái lại! Vậy biết đâu là lời giáo giới đúng đắn, chân chính của Đức Đạo Sư?
- Đức Thế Tôn chẳng bao giờ thuyết hai lời, lưỡng nghĩa, mâu thuẫn nhau đâu, tâu đại vương! Trong giáo hội của Đức Tôn Sư, Ngài cho phép Chư Tăng tùy duyên, tùy sở thích mà chọn chỗ ngụ cư cho mình; không nhất thiết là rừng, nghĩa địa, chùa hay thất liêu. Ngài chưa hề cấm Chư Tăng sống ở chùa, thất liêu hoặc khuyến khích nên sống ở rừng hay nghĩa địa. Vấn đề quan trọng là sống sao để khỏi dính mắc, lưu luyến chỗ ở của mình; phải thường xuyên thay đổi từ chỗ này sang chỗ khác. Chính đời sống không dính mắc, không lưu luyến mới là phải lẽ cho Sa-môn, nghiêm trang cho Sa-môn, thích hợp với Sa-môn, là cảnh giới của Sa-môn, nên dành cho Sa-môn, là nơi mong mỏi của Sa-môn.
Tâu đại vương! Ví như loài hươu nai sống ở trong rừng, chúng tự do, thảnh thơi đi từ chỗ này sang chỗ khác, không nhất định ở một nơi nào cả, hoàn toàn theo ý muốn, sở thích của mình, chư tỳ kheo cũng nên sống đời vô trú như hươu nai vậy.
Tâu đại vương! Còn vấn đề xây dựng chỗ ở, tạo chùa chiền, am thất cho Chư Tăng mà Đức Phật thường tán thán là vì lợi ích cho giáo pháp, lợi ích cho hàng cư sĩ tại gia. Công đức, phước báu xây dựng cảnh già lam cho Chư Tăng có chỗ ngụ cư dễ dàng để tu học thật là vô biên vô lượng, là nhân sanh cảnh trời, cảnh người phú túc và sang cả. Ngoài ra, đó còn là nhân để thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, chứng quả Niết bàn Vô sanh.
Lại nữa, tâu đại vương! Nếu mà chư tỳ khưu đều sống ở rừng, nghĩa địa, nơi hoang sơn cùng cốc; ai cũng lìa xa nơi phố thị, làng mạc cả thì cận sự nam nữ hai hàng lấy đâu để nghe giáo pháp, để thọ trì quy giới, để cúng dường, bố thí, để tạo phước báu, để tăng trưởng tín, giới, văn, thí, tuệ cho mình?
Lại nữa, tâu đại vương! Nếu không có chùa chiền, am thất thì vua chúa, các vị đại thần, thương gia, các giáo chủ bà-la-môn, những người có tâm cầu mong thấu hiểu giáo pháp sẽ biết tìm đến đâu để học hỏi, trao đổi, thảo luận? Những người muốn tu sẽ tìm đến nơi nào để tu? Và Chư Tăng làm sao để học hỏi giáo pháp, phổ biến giáo pháp, kế tục giáo pháp để lưu hậu, truyền thừa?
Đại vương! Dám mong đại vương giải đáp dùm cho những câu hỏi ấy của bần tăng!
- Vâng, trẫm không dám nữa đâu! Sở dĩ mà trẫm còn nghe được giáo pháp hôm nay là cũng nhờ có cảnh già lam mà cận sự nam nữ đã dày công kiến tạo!
- Cám ơn đại vương!
- Trẫm không ngờ một câu hỏi bắt bí bình thường - mà lối giải đáp của đại đức lại sâu xa, vi diệu như thế! Ôi! Một câu hỏi tưởng như khó khăn, mà đại đức đã tháo gỡ rất dễ dàng! Ôi! Đại đức đã làm cho phân minh, sáng sủa những điều tối tăm, đã bẻ gãy vỡ vụn những luận điệu mà chúng ngoại đạo có thể xuyên tạc trong nay mai! Quả thật, đại đức đã đem đến ở đây một con mắt của chư Phật để soi tỏ, nhìn ngắm mọi vấn đề, vì lợi ích cho vô lượng nhân thiên trong thời mạt pháp vậy!
* * *
126. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:
- Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy nên siêng năng trì bình khất thực nuôi mạng, chẳng nên giải đãi quên mình; phải nên thu thúc cái bụng, chẳng nên thọ thực quá độ." Vậy thì việc thu thúc cái bụng quả là rất quan trọng phải không đại đức?
- Tâu, đúng vậy. Câu Phật ngôn ấy là lời dạy phổ thông không những cho các hàng tỳ khưu hữu học mà còn cho các bậc Thinh văn, Độc giác và cả đấng Tòan Giác nữa, tâu đại vương!
- Nó quan trọng đến độ như vậy sao? Nguyên nhân là vì sao, thưa đại đức?
- Bởi vì với cái trí thấy rõ thế gian, Đức Thế Tôn thấy rằng, do nguyên nhân cái bụng mà chúng sanh giết hại mạng sống của nhau. Vì nguyên nhân vị ngon, ngọt, béo, bùi của khẩu dục và no đầy cái bụng mà con người cướp đoạt tài sản của nhau. Cũng từ cái bụng mà sinh ra không biết bao nhiêu tội lỗi, khổ đau; bao nhiêu giới phạm như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu, v.v... Thậm chí, có chúng sanh vì cái bụng mà giết cha mẹ mình, giết hại A-la-hán, chia rẽ Tăng, chích máu Phật... Gương Đề-bà-đạt-đa cũng vì lợi dưỡng, không thu thúc cái bụng mà hại Phật, phá hoại sự hòa hợp của Tăng-già, đến nỗi bị quả đất rút, bị lửa địa ngục a-tỳ thiêu đốt đến một kappa!
Tâu đại vương! Các hàng xuất gia nhờ thu thúc cái bụng nên ngăn ngừa được tất cả các tội lỗi, khổ đau nêu trên. Ngoài ra, nhờ sống đời biết tri túc cái bụng nên họ dễ dàng thấy rõ Khổ Đế, thấy rõ Tập Đế, thực hành Đạo Đế để thành tựu Diệt Đế là cứu cánh của Sa-môn hạnh. Lại nữa, không những họ viên thành các Sa-môn quả mà còn dễ dàng chứng đắc bốn tuệ phân tích, tám định và sáu thần thông...
Lại nữa, tâu đại vương! Lợi ích thù thắng của sự thu thúc cái bụng không những dành cho con người, các bậc xuất gia phạm hạnh, mà còn cho các loài động vật nữa. Ví như trong tích truyện tiền thân Phật, có con chim két tên là Suvanna Otaka, thu thúc cái của bụng mình mà làm cảm động cả thế gian, rung động đến cõi trời Đao-lợi, khiến cho vua trời Đế thích nóng nảy, ngồi đứng không yên, phải hiện xuống trần gian hộ độ cho chim két.
Tâu đại vương! Đức Thế Tôn vì thấy rõ nhân quả, ai không thu thúc cái bụng thì sẽ bị đau khổ; ai thu thúc cái bụng thì được an vui, nên Ngài giáo giới điều ấy là vì xuất phát từ tâm bi mẫn với hằng muôn sanh loại!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Quả thật là chí lý khi biết thu thúc cái bụng...! Cái lợi ích của nó thật không ai dám bàn cãi nữa. Thế nhưng tại sao, một lần nọ, Đức Thế Tôn có nói với tỳ kheo Udàyi rằng: "Này Udàyi, có khi Như Lai độ vật thực chừng bằng miệng bát, có lúc lại đầy hơn". Đừng nói rằng cái bát khất thực thời Phật tại tiền nhỏ hơn cái bát bây giờ! Cái bát vào thời nào cũng có thể làm no hai hoặc ba vị tỳ khưu cả!
Thưa đại đức! Đức Thế Tôn thọ thực như thế là đầy căng cái bụng rồi, chẳng biết thu thúc cái bụng rồi! Thế mà đại đức dám bảo rằng thu thúc cái bụng là lời giáo giới phổ thông, không những cho các hàng tỳ khưu hữu học mà còn dành cho các bậc Thinh văn, Độc giác và cả Tòan Giác nữa. Liệu đại đức sẽ bênh vực ra sao cho Đức Bổn Sư đây? Hay là đoạn văn kia được kết tập lầm lẫn, ngoại đạo xen câu đó vào để phá hoại niềm tin của các hàng cận sự nam nữ?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Không đâu, chính Đức Thế Tôn có thuyết lời ấy với tỳ kheo Udàyi!
- Thế là đại đức xác nhận rằng Đức Thế Tôn không biết thu thúc cái bụng rồi!
- Tâu Đại vương! Trước khi đả thông vấn đề, bần tăng xin được hỏi đại vương vài điều?
- Vâng, đại đức hãy tùy nghi!
- Thu thúc cái bụng có được lợi ích gì?
- Thưa, để ngăn ngừa tội lỗi, khổ đau; để tiêu diệt phiền não; để thành tựu dễ dàng Sa-môn quả cùng những năng lực thù thắng khác!
- Đúng vậy - đại đức Na-tiên nói - Thế Đức Thế Tôn đã tiêu diệt khổ đau phiền não ấy chưa? Ngài đã thành tựu Sa-môn quả, tuệ phân tích và các thần thông thắng trí chưa, thưa đại vương?
- Dĩ nhiên, Đấng Toàn Giác đã thành tựu trọn vẹn và viên mãn tất cả những điều trên.
- Nói cách khác, Đức Thế Tôn là người đã tiêu diệt tất cả mọi nguyên nhân gây bệnh, là người không còn bệnh, trái lại là người có sức khỏe rất kiện toàn, phải không đại vương?
- Đúng vậy.
- Người bệnh thì phải uống thuốc, người vô bệnh, sức khỏe hoàn hảo thì có cần uống thuốc không, hở đại vương?
- Vô bệnh thì uống thuốc làm gì!
Đại đức Na-tiên chợt cười nhẹ:
- Cảm ơn đạivương! Chính Đại vương đã tự "biện hộ" cho Đức Tôn Sư! Đại vương đã biện hộ rằng "Đức Thế Tôn là người dã tiêu diệt hết phiền não rồi, đã thành tựu trọn vẹn Sa-môn Quả, tuệ phân tích cùng những năng lực thù thắng khác - nên Ngài thu thúc để làm gì - như người vô bệnh thì uống thuốc để làm gì!"
- Trẫm hiểu.
- Đại vương đã "biện hộ hơi quá" khi bảo rằng Đức Thế Tôn không cần phải thu thúc - nhưng thật ra, một đôi khi thôi (appekadà)! Theo ý bần tăng thì Đức Thế Tôn luôn luôn thu thúc. Vì thật ra, thu thúc hoặc không thu thúc, bao giờ Ngài cũng vắng lặng tham sân, phiền não, bao giờ Ngài cũng với tâm giải thoát, tuệ giải thoát viên minh, vô thượng! Ví như ngọc mani không tỳ vết, ánh sáng rực rỡ, hào quang chói lọi... thì ai lại mất công vô ích khi ngồi cặm cụi mà lau chùi, mài giũa, đánh bóng, phải vậy không đại vương?
- Vâng - đức vua Mi-lan-đà gật đầu - Trẫm rất bằng lòng và hoan hỷ về lời giải đáp của đại đức. Đối với bậc đã giải thóat, vô nhiễm rồi thì họ không còn bị ràng buộc bởi sự thu thúc hoặc không thu thúc ấy nữa. Tuyệt diệu lắm!
* * *
127. Đức Phật muốn che dấu Pháp?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Pháp và Luật nếu được công khai thuyết dạy đến đâu thì sẽ làm cho Chánh Pháp được hưng thịnh và rực rỡ đến đấy. Nếu Pháp và Luật bị che dấu, không được thuyết ra thì đến lúc nào đó, Chánh Pháp sẽ lu mờ, bị tiêu hoại...". Điều ấy có đúng chăng, đại đức?
- Tâu, rất đúng ạ!
- Thế sao trong tạng Luật, Đức Thế Tôn lại giáo giới rằng: "Các thầy tỳ khưu khi tụng giới bổn Pàtimokkha trong ngày phát lồ (uposatha), phải tụng nơi kín đáo, có Sìma ngăn, không được cho các hàng sa di và cận sự nam nữ hai hàng bước vào trong địa giới hoặc trong phạm vi nghe được"? Tại sao lại cố ý che dấu, không mở rộng việc truyền tụng giới luật cho tất thảy cùng nghe để được tăng trưởng kiến thức, phát khởi và củng cố đức tin? Như thế, rõ ràng Đức Thế Tôn đã cố ý khuyên Chư Tăng che dấu Pháp và Luật, không cố ý mở mang giáo pháp để lợi lạc cho những người học Phật được nếm ý vị, pháp vị, giải thóat vị của Đạo Giác Ngộ.
Vậy xin đại đức bi mẫn giải thích khúc mắt ấy cho trẫm được tỏ tường.
- Chẳng phải là che dấu Pháp và Luật đâu, tâu đại vương. Đức Thế Tôn bao giờ cũng thuyết pháp với bàn tay mở ra chứ không phải với bàn tay nắm lại. Bao giờ Ngài cũng muốn cho giáo pháp được mở rộng, phát triển, hưng thịnh; được quảng bá sâu rộng giữa nhân gian để cứu độ cho nhiều người.
Riêng về giới bổn Pàtimokkha mà chư tỳ khưu Tăng đọc tụng trong các ngày phát lồ, sở dĩ phải tụng nơi kín đáo, có Sìma ngăn, không thể cho các người chưa tu lên bậc trên bước vào hay nghe được, là bởi những lý do sau đây:
Một là, truyền thống của chư Phật từ ngàn xưa truyền lại cho đến ngày nay, bao giờ giới bổn Patimokha cũng chỉ được phép đọc tụng giữa chư tỳ khưu Tăng với nhau mà thôi.
Hai là, cần phải tỏ ra tôn trọng luật, cung kính giới bổn, không để cho những sa di và cư sĩ xem thường, xem nhẹ.
Ba là, phải tôn trọng phẩm mạo và địa vị của tỳ khưu trong giới luật của bậc Thánh.
Vì ba lý do như vậy nên phải đọc tụng giới bổn nơi kín đáo, có Sìma ngăn - tâu đại vương rõ.
- Thế nào là do dòng giống của Chư Phật truyền thừa hở đại đức?
-- Ví như đại vương là dòng dõi vua chúa, thái tử của đức vua tương lai cũng sẽ được làm vua. Nếu có trường hợp là đại vương phải giáo giới, la rầy thái tử về một vài tư cách, hạnh kiểm không tốt của thái tử thì đại vương sẽ dạy bảo thái tử nơi kín đáo, hay là đại vương sẽ giáo giới thái tử giữa chỗ tai mắt bá quan cùng dự bàn hay cho bá tánh cùng nghe?
- Dòng vua thì phải biết bảo vệ dòng vua chứ! Làm sao chuyện giáo giới thái tử lại mang ra chỗ tai mắt đông người!
- Tâu, phép của Phật từ ngàn xưa cũng như thế ấy. Khi chư tỳ khưu Tăng tụng đọc giới bổn Pàtimokkha với nhau, đó chính là lúc họ sửa sai, sám hối, kiện toàn những học giới cho nhau. Chuyện ấy làm sao lại đem ra chỗ tai mắt đông người mà phẩm bình, phê bình được? Dòng dõi, tông chủng tỳ khưu thì phải biết bảo vệ giống dòng, tông chủng của tỳ khưu chứ?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Có lý lắm!
- Ví như những tay đô vật nhà nghề, họ thường giữ riêng những ngón nghề không truyền cho kẻ khác; những người thợ vàng, thợ bạc, thợ ngọc, thợ làm dây chuyền giữ riêng bí quyết cho gia đình mình, dòng họ mình; những người có tài nghệ đặc biệt thường dấu tài nghệ không bao giờ phổ biến ra giữa đám đông - thủ tục ngàn xưa của Chư Phật để tỳ khưu chỉ đọc tụng giới bổn với tỳ khưu cũng như thế ấy, tâu đại vương!
- Vâng, trẫm hiểu rồi. Còn lý do thứ hai: tôn trọng luật, cung kính giới bổn, chẳng nên để cho những người khác xem thường, xem nhẹ là sao ạ?
- Giới bổn Pàtimokkha là giới bổn cao thượng, làm cho những người thọ trì được cao đẹp, thánh thiện và tôn quý. Người thực hành giới bổn Pàtimokkha trong sạch và viên mãn sẽ dễ thành tựu các tầng thánh quả và chứng ngộ Niết-bàn. Sự thu thúc giới bổn là pháp căn bản, giềng mối cho những hạnh phúc siêu thê; chỉ riêng tỳ khưu tăng mới thọ trì, y chỉ, thực hành. Nó giống như cái lõi chiên đàn quý báu, chỉ thích đáng dành cho các hàng vua chúa, hoàng hậu, công chúa sử dụng. Người dân thường không dễ gì biết lõi chiên đàn là quý; nếu họ nắm trên tay họ cũng xem như que củi, chẳng giá trị gì. Giới bổn Pàtimokkha cũng quý báu như lõi chiên đàn kia vậy, chỉ có chư tỳ khưu Tăng mới biết thọ trì, đọc tụng; còn các hàng sa di, cư sĩ hai hàng cũng sẽ xem thường, xem nhẹ như người dân thường đối với lõi chiên đàn kia thôi!
Do vậy, vì tôn trọng, cung kính giới bổn cũng như tôn trọng, cung kính cái gì thiêng liêng, cao đẹp nên việc không để cho sa di, cư sĩ dự thính khi đọc tụng là điều hoàn toàn cần thiết.
- Trẫm lãnh hội được rồi, vậy còn lý do thứ ba: tôn trọng phẩm mạo và địa vị của tỳ khưu trong giới luật của bậc thánh là thế nào?
- Tâu, phẩm mạo tỳ khưu, tức là phẩm mạo của bậc xuất gia, nó cao thượng như thế nào thì đại vương đã biết rồi. Là cái gì không thể độ chừng được, so sánh được, đo lường được; chẳng có cái gì tương tợ, ngang bằng được. Ví như biển sâu chưa ai đo lường, ví như ngọc mani vô giá chẳng có vật báu thế gian nào so sánh - giới bổn Pàtimokkha hằng tạo nên phẩm mạo của bậc xuất gia, cũng y như thế đó. Nó là tài sản riêng của Tăng, đồ dùng riêng của Tăng, nó sanh ra chỉ để dành riêng cho Chư Tăng - không có ai khác sử dụng được. Ví như thảm trải giường, các đồ ngự dụng, vật thoa, vật thơm, voi báu, ngựa báu, ngọc nữ,, hầm bạc, hầm vàng... được sanh lên là do nhờ công đức, phước báu của Chuyển luân Thánh vương! Chỉ có Đức vua Chuyển luân mới thích đáng quản thủ, sử dụng tài sản ấy; những vị vua ít phước báu, những người địa vị thấp thỏi đâu có xứng đáng dự phần, phải vậy không đại vương?
- Thưa, đúng thế!
- Giới bổn Pàtimokkha cũng như thế ấy, chẳng thể để cho những người ít học giới, ngoài chư tỳ khưu Tăng xen vào, dự phần được. Đức Thế Tôn điều chế giới bổn để cho chư tỳ khưu đọc tụng với nhau ở trong Sìma ngăn, không cho sa di và cư sĩ dự thính là còn để cho thế gian biết tôn trọng, cung kính tỳ khưu; vì tỳ khưu Tăng là ruộng phước vô giá, là nơi cho chư thiên và nhân loại cung kính, lễ bái, cúng dường... Sự tôn trọng phẩm mạo và địa vị của chư tỳ khưu Tăng còn là sự bảo lưu Chánh Pháp, lưu hậu Chánh Pháp tồn tại nhiều ngàn năm về sau nữa, tâu đại vương!
- Quả thật là thích đáng. Cảm ơn đại đức đã mở sáng con mắt cho trẫm nhìn xa trông rộng hơn.
Đại đức Na-tiên kết luận ý nhị:
- Vậy là Đức Thế Tôn che dấu giáo pháp mà lại làm cho giáo pháp hưng thịnh dài lâu đấy, tâu đại vương!
- Rõ là trẫm sử dụng ngôn lời chưa chính xác, trẫm hiểu tội của mình rồi!
- Nhờ cái tội của đại vương mà các thế hệ mai sau chấm dứt được hoài nghi, như thế cũng nên làm tội lắm!
Đức vua Mi-lan-đà bất giác cười xòa.
* * *
128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối!
- Bạch đại đức! Trẫm có đọc sơ về tạng Luật, không thông suốt lắm, nếu Trẫm nhớ không lầm thì Đức Thế Tôn có thuyết rằng: Thầy tỳ khưu nói dối, nói dối do cố ý, có hiểu, có biết (sampajàna) thì phạm tội bất cọng trụ (pàràjika)! Ở một chỗ khác, ngài lại chế định rằng: Điều nói dối dầu cố ý, có hiểu, có biết (sampajàna) chỉ phạm tội nhẹ, không phạm tội nặng; là tội có thể trị được, tha thứ được, có thể cứu chữa được (satekicchà), có thể sám hối được (desanapatti)! Tại sao hai điều chế định ấy lại mâu thuẫn nhau, nghịch nghĩa nhau hở đại đức?
- Tâu đại vương! Về chuyện đúng hay sai, chính xác hay chưa chính xác của điều mà đại vương vừa dẫn chứng, bần tăng sẽ bàn sau. Bây giờ chúng ta chỉ nói đến tội nói dối. Quả thật, có tội nói dối mà thầy tỳ khưu nào đã phạm rồi thì bị "bất cọng trụ" (pàràjika); nhưng cũng có tội nói dối dẫu đã phạm rồi, nghĩa là nói dối do cố ý, do có hiểu, có biết - vẫn chỉ phạm tội nhẹ, là tội có thể trị được, tha thứ được, cứu chữa được, sám hối được!
- Trẫm nghe chưa lọt tai, thưa đại đức!
- Bần tăng có thể nói điều ấy bằng ví dụ. Ví như có người phạm tội giết vua, một người khác phạm tội giết dân thường. Hai tội giết người ấy đều phạm án giống nhau phải không đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Chẳng thể giống nhau được, thưa đại đức! Người giết hại dân thường tùy theo mức độ, có thể định án là ở tù chung thân, bị phạt hoặc bị tử hình. Còn người giết vua thì bị đại tội. Kinh khiếp lắm! Luật nhà vua về tội giết vua thật là nghiêm trọng: người ấy sẽ bị chặt bỏ cả tay cả chân, tịch thu gia sản, của cải nhập công khố; sẽ bị giết chết dần dần rất thê thảm; giết luôn cả thân quyến của người ấy, phía họ cha giết đến bảy đời và phía họ mẹ cũng giết đến bảy đời...!
- Tâu đại vương! Tại sao cũng là tội giết người, tự tay giết, cố ý, cố tình giết mà một bên nặng, một bên nhẹ khác nhau một trời, một vực như thế?
- Tội nặng nhẹ khác nhau, lý do như thế nào chắc đại đức đã hiểu rồi: Đức vua là đấng chí tôn của một nước, còn người dân thường là kẻ ở trong các địa vị thấp hèn. Khinh, trọng thế nào thì pháp luật thế gian không có nơi nào biệt lệ!
- Tội giết người có khinh trọng thì tội nói dối cũng có khinh trọng như thế, tâu đại vương! Bần tăng sẽ kể sơ lược ra đây một số tội nói dối tùy theo mức độ nặng, nhẹ của nó:
Thầy tỳ khưu chưa đắc pháp bậc cao nhơn [*] mà nói dối để cho kẻ hiểu biết tin rằng mình đắc pháp bậc cao nhân là tội nói dối nặng, bị phạt "bất cọng trụ", tức là bị đuổi ra khỏi hàng ngũ Tăng già, suốt đời không còn có thể "cọng trú" với Tăng được nữa. Nhưng nếu nói đến người không hiểu, không biết thì chỉ phạm "trọng tội". Nói mé, nói ngụ ý hoặc ám chỉ mình có đắc pháp cũng phạm "trọng tội"; nhưng nếu nói ám chỉ, nói mé dến người không hiểu, không biết thì chỉ phạm "tác ác".
[*] Các pháp bậc cao nhơn: 4 thiền hữu sắc, 4 thiền vô sắc, lục thông, 4 đạo, 4 quả và Niết bàn.
Thầy tỳ khưu nói dối vô cớ, cáo gian tỳ khưu khác phạm "bất cọng trụ" thì phạm "Tăng tàn". Nói dối vô cớ, cáo gian tỳ khưu khác phạm "Tăng tàn" thì phạm "ưng đối trị". Nói dối, cáo gian kẻ khác làm quấy thì phạm "tác ác"... v.v...
Nói tóm lại là các tội nói dối thuộc bất cọng trụ là tội rất nặng, phải xả giới hoàn tục. Tội nói dối thuộc Tăng tàn phải trình Tăng để xử theo luật định. Các tội nói dối khác thuộc ưng đối trị, trọng tội hoặc tác ác là những tội nhẹ, có thể trị được, tha thức được, có thể cứu chữa được (satekicchà), có thể sám hối được (desanapatti).
Tâu đại vương! Các tội nói dối có khinh, có trọng như thế, nhưng vì đại vương đã không nắm rõ, biết chắc nên sinh ra ngộ nhận đấy thôi!
- Rất cám ơn đại đức!
* * *
129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử của mình?
- Thưa đại đức! Rất nhiều lần Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Như Lai là bà-la-môn cao quý, xứng đáng cho chư thiên và nhân loại đảnh lễ, xứng đáng để cho kẻ khác xin rửa tay dâng phẩm vật cúng dường; là bậc tối thượng trong tam giới, là bậc chỉ còn kiếp sống cuối cùng, không còn quẩn quanh trở lại trong tam giới nữa; là bậc tôn quý, vô thượng... không ai sánh bằng.". Câu Phật ngôn ấy có chính xác không?
- Tâu, khá chính xác!
- Thế sao ở một chỗ khác, khi khen ngợi tỳ khưu Bàkula, Đức Thế Tôn có tuyên bố như sau: "Trong hàng thinh văn đệ tử của Như Lai, tỳ khưu Bàkula là người thiểu bệnh, có phước báu tuyệt đỉnh, là đệ nhất ưu hạng, là người cao quý không ai sánh bằng...". Câu thuyết ngôn này có chính xác không, thưa đại đức?
- Tâu, cũng rất đúng.
- Và chính xác nữa! Vì Đức Thế Tôn bị bệnh đến bốn lần, còn tỳ khưu Bàkula suốt cả cuộc đời dường như vô bệnh. Như thế có nghĩa là, phước báu của tỳ khưu Bàkula là tối thượng, ưu hạng, là tuyệt đỉnh không ai sánh bằng, kể cả Đức Tôn Sư!
- Sao có thể lý luận như vậy được, đại vương!
- Vậy thì đại đức có thể minh giải điều ấy được chăng?
- Vâng, dễ dàng thôi. Chẳng cần phải giải minh, bần tăng chỉ nói lên sự thật thì đại vương có thể hiểu rõ cách khen ngợi của Đức Thế Tôn. Khi một vị tỳ khưu giỏi, thông suốt một lĩnh vực nào thì Đức Thế Tôn thường khen ngợi vị ấy là tối thượng, là đệ nhất ưu hạng về lĩnh vực ấy. Chẳng hạn, Đức Thế Tôn khen ngợi đại đức Upàlì là ưu hạng đệ nhất về tạng Luật, đại đức Mahà Kassapa đặc biệt ưư hạng về Vi-diệu tạng, đại đức Ànanda thì tối thắng, ưu hạng đệ nhất về tạng Kinh, v.v... Từ đó, ta có thể hiểu rõ, tại sao có vị Đức Thế Tôn khen ngơi là đệ nhất về thuyết pháp, có vị được khen là đệ nhất về thiền định, đệ nhất về tinh tấn, đệ nhất về khổ hạnh, đệ nhất về hạnh độc cư, thanh tịnh v.v... Nói tóm lại, Đức Thế Tôn khen ngợi, tán dương các đệ tử của Ngài là cao quý, cao thượng, là ưu hạng, là đệ nhất... không có nghĩa là họ cao quý, cao thượng, tối thắng hơn cả Đức Tôn Sư!
- Như thế có nghĩa là, Đức Thế Tôn chỉ ca ngợi phước báu của tỳ khưu Bàkula về phương diện "vô bệnh" mà thôi?
- Vâng, chỉ riêng có lĩnh vực ấy, bởi chẳng ai có thể so sánh với Đức Tôn Sư ở nhiều phương diện khác. Họ chỉ là đệ nhất ở trong hàng thinh văn đệ tử của Ngài! Làm thế nào mà trong hàng ngũ của chư thiên, loài người, phạm thiên, sa-môn, bà-la-môn... lại có kẻ cao quý, ưu hạng, tối thượng bằng một vị Chánh Đẳng Giác? Ai mà có thể so sánh về giới, định, tuệ, giải thóat và giải thóat tri kiến với Đức Tôn Sư? Liệu ai có thể có mười sức mạnh tuệ giác, mười tám tuệ dũng mãnh vượt qua sinh tử ái hà như Bậc Vô Thượng? Quả thật, chẳng ai có thể so sánh được với Đức Đại Giác.
- Đại đức cho nghe ví dụ được chăng?
- Vâng. Ví như trong quốc độ của đại vương, vốn có nhiều giai cấp, nghề nghiệp, dòng họ, thiên tư, hiểu biết, trí tài, khả năng khác nhau... Có người là đệ nhất về vàng bạc châu báu, tài sản. Có người là đệ nhất về đất đai, ruộng vườn. Có người là đệ nhất về kiến thức, hiểu biết... Đệ nhất về các học nghệ... Đệ nhất về tinh thông văn học, cú pháp, văn phạm... Đệ nhất về bùa chú, ngải nghệ... Đệ nhất về chế tạo cung tên, khí giới v.v... Ở mỗi lĩnh vực, trí tài nào đó, họ là đệ nhất; tuy thế, họ đều là thần dân của đại vương, phục vụ cho đại vương, phải tôn trọng, cúi đầu, thuần phục đại vương; chẳng ai có thể so sánh bằng đại vương, bởi đại vương mới chính là người ở trên hết, tối thượng tôn, cao quý nhất ở trong quốc độ của đại vương. Đức Thế Tôn so với hội chúng của Ngài, với các hàng thinh văn đệ tử cũng y như thế. Đừng nói chỉ một phước báu của Bàkula, mà hàng trăm phước báu của Bàkula... cho chí hai vị thượng thủ, đại đệ tử của Ngài, dẫu là những bậc cao quý vô song... cũng chẳng thể đem ra so sánh với Đức Thế Tôn được!
Đức vua Mi-lan-đà im lặng giây lâu rồi hỏi:
- Trẫm đã hiểu rồi. Nhưng về phương diện vô bệnh thì phước báu của tỳ khưu Bàkula vẫn là đệ nhất chứ? Không rõ do nhân duyên quá khứ như thế nào mà tỳ khưu Bàkula được hưởng quả thù thắng như thế?
- Tâu đại vương, quả là có nhân duyên thù thắng nên mới hưởng được quả thù thắng. Số là vào thời xưa, tỳ khưu Bàkula đã từng làm thầy thuốc, đã cúng dường y dược đến cho Đức Phật Anomadassì, Đức Phật Vippassì và luôn cả tỳ khưu Tăng sáu ngàn tám ức vị. Do duyên lành ấy nên đã rất nhiều đời, tỳ khưu Bàkula chẳng hề có bệnh tật hay đau ốm gì cả. Bởi vậy, Đức Thế Tôn mới khen ngợi, tán dương tỳ khưu Bàkula là cao quý, là ưu hạng không ai sánh bằng! Đại vương đã hiểu tự sự, đầu đuôi gốc ngọn rồi chứ?
- Vâng, vâng! Trẫm rất hoan hỷ, hoan hỷ đệ nhất!
* * *
130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đương cự nổi thần lực của kẻ giết ngài?
- Bạch đại đức! Trẫm có nghe rằng, Đức Thế Tôn thường tán dương thần thông của đức Mục-kiền-liên là tối thượng, là vô thượng, là bất khả tư nghì, chẳng ai trong hàng Thinh văn đệ tử có thể so sánh được, điều ấy đúng chăng?
- Tâu, rất đúng ạ!
- Vậy thì thần lực của bọn cướp giết ngài chắc phải tối thượng hơn thế? Nếu không, sao ngài lại để cho bọn cướp giết, băm vằm xác thân ngài hằng trăm mảnh như thế? Lúc ấy, thần thông bất khả tư nghì của ngài đâu mà không mang ra để đương cự với bọn ấy? Trẫm hoài nghi là đức Mục-kiền-liên chẳng có thần thông gì ráo? Hoặc nếu có cũng thua gươm, đao, đùi, gậy của bọn cướp? Xin đại đức bi mẫn giảng cho trẫm thông điều ấy.
- Đại vương! Thần thông có năng lực bất khả tư nghì mà nghiệp quả cũng có năng lực bất khả tư nghì!
- Đại đức có lạc đề không đấy?
- Không lạc đề đâu, đại vương hãy nhẫn nại.
- Vậy thì xin đại đức giảng rộng cho nghe.
- Vâng, đại vương hãy nghe đây. Có hai loại bất khả tư nghì (dve-acinteyya), đó là thần thông xuất thế gian (lokuttara iddhi), và năng lực của nghiệp quả (kamma vipàka iddhi). Thần thông xuất thế gian là thần thông của Phật Toàn Giác, của Phật Độc Giác và của Phật Thinh Văn Giác. Chỉ riêng thần thông của Phật Toàn Giác là không một năng lực nào có thể xâm phạm được dù là năng lực bất khả tư nghì của nghiệp quả. Thần thông của Phật Độc Giác và Phật Thinh Văn Giác còn non yếu, chưa toàn hảo nên khi nghiệp quả đến, sức mạnh bất khả tư nghì của nó có thể phá vỡ xâm phạm được. Đấy là trường hợp của Đại Mục-kiền-liên. Ngài dù có thần thông đệ nhất trong hàng Thinh Văn, thần thông ấy vẫn còn non yếu, chưa toàn hảo nên đã bị năng lực của quả nghiệp xâm phạm, phá vỡ. Chẳng hay đại vương đã thấy rõ điều ấy chưa?
- Ngài Mục-kiền-liên tạo tội gì mà quả nghiệp lại kinh khiếp, cường liệt như thế?
- Một kiếp quá khứ, ngài nuôi một bà mẹ mù lòa. Người vợ của ngài thấy bà mẹ chồng là một gánh nặng nên tìm cách hãm hại. Ngày này sang ngày khác, bà tìm cách ly gián, đâm thọc, vu cáo, xúc xiểm... rất là cay chua và độc ác. Bà đã biến mẹ của chồng từ một người hiền lành trở thành một bà già khó tính, ác đức trong mắt của chồng. Đến một lúc, vì tin vợ, ngài đã không còn chịu nỗi mẹ nữa, theo lời vợ, bỏ mẹ lên xe đem thả giữa rừng. Cũng theo kế của vợ, cả hai vợ chồng bèn giả kẻ cướp đón đường la hét, đánh đập rất là hung dữ. Người mẹ mù lòa trong cơn sợ hãi, không nghĩ đến bản thân mình, chỉ nghĩ đến đứa con, thương con bị đánh giết, nên đã la lớn lên rằng: "Tàta con ơi! Hãy chạy thoát thân đi, mẹ già rồi, hãy bỏ mặc mẹ, để mẹ đi theo nghiệp của mình. Con hãy chạy đi!". Xúc động trước tấm lòng của mẹ, ngài hối hận, đem mẹ về nuôi dưỡng như trước để đáp đền ân đức.
Vì nguyên nhân của ác nghiệp ấy mà Đại Mục-kiền-liên phải trả quả báo bị kẻ cướp đánh chết liên tục bốn trăm chín chín kiếp. Đến kiếp cuối cùng này, mặc dù đã đắc quả Thánh và có thần thông đệ nhất, vẫn không ngăn chặn nổi sức mạnh của nghiệp ác thuở trước còn dư sót.
Đức vua Mi-lan-đà bất giác thốt lên:
- Thật là khiếp!
- Vâng, thật là kinh khiếp. Ví như đức vua chí tôn trong một nước, oai lực bao trùm khắp quốc độ, bao trùm cả văn võ triều thần, quan quân, muôn dân bá tánh. Chẳng ai trong nước có oai lực bằng đức vua như thế nào thì thần thông xuất thế gian cũng có oai lực như thế ấy, chẳng có sức mạnh thế gian nào so sánh được. Tuy nhiên, khi đức vua ấy hết phước, nghiệp đến, thì oai lực của đức vua chẳng thể nào đương cự được với tử thần. Sức mạnh của tử thần phá vỡ, xâm phạm oai lực của đức vua như thế nào, thì sức mạnh của quả nghiệp cũng phá vỡ, xâm phạm năng lực thần thông y như thế đó, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Ví như có một tên cướp hung dữ, đã mất hết thiện tâm, nó giết người, cướp của, phá xóm, phá làng, chẳng ai có khả năng làm cho nó sợ hãi. Bà con, quyến thuộc, cha mẹ, anh chị, cô bác, xóm giềng không ai có thể khuyên răn, giáo dục cho nó cải ác tùng thiện được. Tuy nhiên, quan quân và pháp luật của đức vua có một oai lực lớn hơn, chẳng ai có thể ngăn cản đức vua bắt giữ và trị tội tên cướp ấy. Năng lực thần thông của Đại Mục-kiền-liên so với năng lực quả nghiệp hung dữ mà ngài đã tạo cũng y như thế đó, tâu đại vương!
- Năng lực của quả nghiệp hay là thần lực của bọn cướp, tâu đại vương?
- Khi nghiệp trổ quả, bọn cướp mới ra tay được, khi nghiệp chưa trổ quả thì một vạn lần như bọn cướp ấy có thể làm gì trước thần thông bất khả tư nghì của ngài?
- Vâng, trẫm rõ rồi!
* * *
131. Kiếp áp chót, tại cung trời Đẩu suất, Đức Bồ-tát quán xét thế gian để làm gì?
- Bạch Đại đức! Một bậc Toàn Giác sau khi công hạnh ba la mật sắp viên mãn, kiếp áp chót tại cung trời Đẩu-suất-đà sanh xuống thế gian, có lẽ ngài đã biết rõ: Phật phụ và Phật mẫu do nhân duyên nhiều đời đã chờ đợi sẵn?
- Tâu, vâng!
- Các bậc tối thượng Thinh Văn cũng y như thế?
- Tâu, vâng!
- Các vị đại thí chủ trong hàng vua chúa, triệu phú... cũng đã được nhân duyên sắp đặt?
- Tâu, vâng!
- Thế là các vị đại bồ-tát cái gì cũng biết trước do công hạnh ba la mật và nhân duyên nhiều đời. Nhưng sao trong kinh có nói rằng: Đức đại bồ-tát kiếp áp chót tại cung trời Đẩu-suất-đà trước khi giáng thế, ngài phải quán xét thế gian xem thử có hội đủ tám điều kiện như sau không:
Một là, Kàlamviloketi: xem xét thời kỳ thích hợp.
Hai là, Dìpam viloketi: xem xét trong bốn châu xem thử châu nào thích hợp (Nam Thiện bộ châu).
Ba là, Desam viloketi: xem xét quốc độ thích hợp (Trung Ấn độ).
Thứ tư, Kulam viloketi: xem xét giòng họ, gia tộc thích hợp.
Thứ năm, Janettim viloketi: xem xét Phật mẫu thích hợp (có phải là người mẹ nhiều đời đã có lời nguyện thành Phật mẫu hay không).
Thứ sáu, Ayum viloketi: tuổi thọ của chúng sanh thích hợp (khoảng một trăm tuổi thọ).
Thứ bảy, Màsam viloketi: ngày tháng giáng sinh thích hợp.
Và thứ tám, Nekkhamma viloketi: rừng núi nào sẽ xuất gia, tu tập thích hợp.
Đức đại bồ-tát đã biết trước rồi, thế thì tại sao lại còn quán xét tám điều kiện như đã nêu trên? Việc làm ấy có thừa không? Có vô ích không?
Đại đức Na-tiên đáp:
- Mặc dầu đại bồ-tát biết trước nhưng vẫn quán xét, tâu đại vương! Sự quán xét ấy là việc làm bình thường. Ví như một người bán hàng, vốn biết rõ trong gian hàng của mình còn những thứ gì, nhưng khi bán cũng phải xem xét, cẩn thận coi lại một lượt nữa. Ví như loài voi, biết và thấy rõ đường đi của nó, nhưng khi đi phải đưa cái vòi xem xét, rà soát lại. Ví như viên thuyền trưởng dong thuyền ra khơi, mặc dù dạn dày kinh nghiệm nhưng khi đi cũng phải xem xét phương hướng, luồng lạch cẩn thận. Ví như một người lái buôn vận chuyển hằng chục xe bò đường xa, qua sông nào, bến xuống, bến lên như thế nào, y nắm rất vững nhưng không phải vì thế mà không xem xét lại. Ví như vị lương y tài giỏi kia, sau khi hỏi về bệnh trạng, quan sát người bệnh; đã nắm chắc được bệnh tình, nhưng khi bốc thuốc cũng phải xem mạch lại mới quyết định. Ví như một con rắn độc từ hang bò đi, nó biết rõ miệng hang, nhưng khi đi, vẫn quay lại nhìn miệng hang một lần nữa. Ví như một vị tỳ khưu khi sử dụng tứ sự là vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vốn biết rõ chúng chỉ là vật tạm dùng, chỉ là phương tiện để tu tập, nhưng cũng phải tụng kinh quán tưởng v.v...
Tâu đại vương! Qua những ví dụ như trên để biết rằng, sự quán xét tám điều của đức bồ-tát là việc làm bình thường, cần thiết, chẳng phải vô ích, vô bổ như đại vương nghĩ đâu!
- Thưa vâng, cảm ơn trí tuệ quảng bác của đại đức!
* * *
132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?
-Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy đừng nên để cho thân các thầy rơi đi bằng phi pháp, nếu có rơi thì cũng nên để cho rơi bằng pháp". Lời tuyên bố ấy có đúng chăng? Và nghĩa của nó là thế nào?
- Tâu đại vương! Lời tuyên bố ấy chính là của Đức Tôn Sư. Và nghĩa của nó là như sau: rơi đi, té xuống, rơi xuống (pàtana) là câu nói thuộc về pháp ngữ; hàm chỉ cái thân của chúng sanh phải sanh lại, phải tái sanh! Nghĩa là nếu có sanh trở lại thì nên sanh bởi pháp chứ không nên sanh trở lại bằng phi pháp!
- Thế nào là không nên sanh lại bằng phi pháp, và nên sanh lại bằng pháp?
- Tâu, có pháp, bằng pháp nghĩa là có giới; phi pháp, không có pháp nghĩa là không có giới. Nói cách khác, Đức Thế Tôn muốn giáo giới chư tỳ khưu hãy tinh tấn hộ trì giới bổn, thu thúc lục căn, làm cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh - thì các đời sống trong tương lai sẽ được an vui, hạnh phúc; ấy là cách nói: "nên rơi đi bằng pháp". Nếu trái lại, sống mà không hộ trì giới bổn, không thu thúc lục căn; thân, khẩu, ý buông lung, phóng dật thì các kiếp hậu lai sẽ gặt lấy kết quả đau khổ, phiền não. Ấy là cách nói: "đừng rơi đi bằng phi pháp"!
- Giới quan trọng như vậy sao?
- Tâu, quả đúng như vậy! Giới có công năng diệt trừ tất cả mọi đau khổ phiền não của chúng sanh. Rải rác trong kinh, chỗ này chỗ kia, Đức Phật thường ví giới như một loại thuốc có thể diệt trừ tất cả mọi loại độc, nhất là độc phiền não. Giới như một loại thuốc trị bệnh, có công năng đối chứng trị liệu tất cả tâm bệnh phiền não của chúng sanh. Giới ví như một loại nước trong mát, có thể rửa sạch mồ hôi, bụi đất, đồ dơ bẩn dính ở nơi thân, tức là bụi bặm dơ uế của phiền não. Giới ví như ngọc ma-ni có tên gọi là ngọc như ý, có thể làm cho thành tựu tất cả mọi nguyện vọng, mong mỏi của chúng sanh. Giới ví như chiếc thuyền lớn, có thể vượt qua khỏi bốn dòng nước cuồng lũ - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như chiếc xe lớn có khả năng đi qua được bốn con đường hiểm trở cam go - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như một trận gió lớn có thể thổi tắt tức khắc ba loại lửa là lửa tham, lửa sân và lửa si. Giới ví như một đám mưa lớn có thể thỏa mãn được cho dân chúng trong mùa hạn hán. Giới ví như một bậc thầy sáng suốt, hiền đức luôn dạy học trò những việc thiện, những điều lành, tốt. Giới ví như một người chỉ đường có đầy đủ lương năng và tâm từ ái, luôn luôn vui vẻ đối với kẻ lạc đường; chỉ cho họ bỏ đường mê về với nẻo sáng, đường tà trở lại với đường chánh.
Tâu đại vương! Công năng của giới là vô lượng, vô hạn, bất khả tư nghì. Không những giới sẽ thành tựu những đức tính cao quý tốt đẹp cho con người, tạo nên y báo, chánh báo mỹ toàn và sang cả; mà còn giúp cho chúng sanh vượt thoát bốn nỗi sợ hãi to lớn của đời người tức là sanh, già, bệnh, chết nữa!
Đấy là những lợi ích của giới, tức là lợi ích của những người "hãy nên rơi đi bằng pháp" đấy, tâu đại vương!
- Thưa đại đức! Đức Đại Bi cấm chế giới luật vì những lợi ích thiết thực và thù thắng như thế, trẫm đã hiểu rồi. Có rơi đi, có chết đi, có sanh lại cũng bằng pháp chứ không phải bằng phi pháp. Cũng có nghĩa là các thầy tỳ khưu hãy hộ trì giới, nâng đỡ giới, đừng để cho giới hư hỏng, tiêu hoại; đúng như lời của Đức Ca-diếp đồng tử (Kumàra Kassapa) đã thuyết: "Các bậc sa-môn, bà-la-môn thực hành giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp hằng sống trong thế gian vì lợi ích cho mình và cho người khác".
- Đại vương đã hiểu rất đúng đắn.
- Nếu như có giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp, lợi ích cho mình và tha nhân như thế; tại sao Đức Thế Tôn lại còn thuyết về "cắt đứt sự rơi đi", nghĩa là cắt đứt sự sanh, già, đau, chết; nghĩa là chấm dứt sự tái sanh, sự trở lại thế gian dù sự trở lại ấy là tốt đẹp, là lợi ích cho mình và người?
- Đức Thế Tôn đã thuyết với pháp tuần tự, thứ lớp. Đầu tiên, ngài dạy chư tỳ khưu đừng cho rơi đi bằng phi pháp, sau đó là nên rơi đi bằng pháp. Rơi đi bằng pháp có lợi ích cho mình và tha nhân như đại vương đã hiểu. Tuy nhiên, cứu cánh của sa môn hạnh không phải dừng lại ở đó, vì "rơi đi bằng pháp" vẫn còn đau khổ, phiền não. Muốn được an vui tuyệt đối thì cần phải "cắt đứt luôn sự rơi đi"; nghĩa là không còn cả sự sanh kia nữa, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy giảng rộng điều ấy.
- Vâng. Còn rơi đi, còn sanh lại, là còn biết bao nhiêu cái khổ mà chúng sanh phải gánh chịu như là một cái gì tất yếu, lắm nghiệt ngả. Đại vương hãy nghe một số khổ kéo theo "Khổ sanh" (Jàtipi dukkhà):
Sự khổ do thân thể suy nhược, già yếu. Sự khổ do bệnh hoạn, ốm đau. Sự khổ do thân thể tan rã, hủy diệt, tử vong. Sự khổ do sầu khổ, thương nhớ. Sự khổ do khóc than, uất ức, yêu thương, chia lìa v.v... Sự khổ do trái ý, nghịch lòng v.v...
Ở một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại nói đến những cái khổ khác, theo cách khác:
Sự khổ do phải gần gũi, thân cận người mà mình không thích, tức là kẻ mà mình oán thù, kẻ nghịch hoặc người mình ghét (oán tăng hội khổ).
Sự khổ do xa cách, biệt ly người mình yêu thương ví như cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc (ái biệt ly khổ). Hoặc có sự não hại, hư hại, tai ương, hoạn nạn đến cho những người mình yêu thương cũng phát sanh sự khổ.
Vật sở hữu, của cải, tài sản, vật thực bị hư hao, mất mát... cũng phát sanh khổ.
Ngoài ra, còn rất nhiều sự khổ phát sanh do sợ hãi:
Sợ hãi do giới đã thọ trì bị hư hoại, sợ sẽ tái sanh trong khổ cảnh. Sợ hãi vi phạm luật vua, phép nước mà bị trọng tội, tù ngục, tử hình. Sợ hãi kẻ trộm cắp, cướp của, giết người. Sợ hãi nạn lửa. Sợ hãi nạn nước lũ phá nát ghe thuyền, nhà cửa ngập lụt, ruộng vườn tiêu hoại hoa màu ... Sợ hãi sóng to, thuyền đắm chìm mất của cải, hàng hóa. Sợ hãi cá sấu dữ. Sợ hãi chỗ nước xoáy. Sợ hãi cá đao, cá mập có răng dài. Sợ hãi vì lỡ nói lời sái quấy, xằng bậy, không chính đáng, phi pháp. Sợ hãi chấm dứt mạng sống. Sợ hãi bốn đường dữ.
Rồi còn những sợ hãi do bị cắt tay chân, bị nhục hình, tật nguyền... thật là vô số kể ở các kiếp sống trả vay, nhân quả trong sáu đường.
Tâu đại vương! Nói tóm lại, không biết bao nhiêu là thống khổ khi còn phải tái sanh trong thế gian này. Ví như dòng chảy từ Hy-mã-lạp sơn của con sông đại Hằng đã cuốn theo mình nó không biết bao nhiêu đất đá, cát sỏi, cành cây, rễ cây, gốc cây, rác rều, gỗ mục, xác chết sinh vật ... Cũng vậy, dòng sinh tử ái hà cuồng lưu chảy xiết ấy nó cũng đầy rẫy những nỗi thống khổ không thể đếm được. Chính những thứ sợ hãi lớn và vô lượng quả báo nghiệp mà chúng sanh phải gánh chịu khi còn phải quẩn quanh trong vòng luân hồi, nó tạo ra các sự thống khổ kia!
Tâu đại vương! Còn sanh, già, đau, chết là còn đau khổ, phiền não. Muốn chấm dứt đau khổ, phiền não, để đạt được hạnh phúc siêu thế là đạo quả Niết bàn thì phải cắt đứt sự sanh, diệt tắt sự tái sanh. Đức Thế Tôn dạy cho chư tỳ khưu Tăng, các hàng Thinh Văn vượt qua sanh, già, đau, chết là vì lẽ ấy.
Đại vương đã hiểu rõ tại sao lại "cắt đứt sự rơi" chưa?
- Thưa, rất rõ ạ! Như thế, Đức Thế Tôn đã thuyết về lý "vô sanh" theo cách khác, phải chăng?
- Tâu, vâng!
- Cảm ơn đại đức!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:51:42 GMT -5
133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại?
- Thưa đại đức! Có phải từ vô lượng tâm có một oai lực rất to lớn?
- Tâu, vâng!
- Có phải Đức Thế Tôn có thuyết rằng: Thầy tỳ khưu thực hành tâm từ, làm cho sung mãn tâm từ ... sẽ có được mười một quả báo sau đây:
Thứ nhất, ngủ được an vui. Thứ hai, thức được an vui. Thứ ba, không nằm thấy ác mộng. Thứ tư, được mọi người thương yêu. Thứ năm, phi nhân quí mến.
Thứ sáu, thường được chư thiên hộ trì. Thứ bảy, lửa, thuốc độc, khí giới không làm hại được. Thứ tám, tâm nhập thiền một cách mau lẹ. Thứ chín, sắc mặt trong sáng, tươi tỉnh. Thứ mười, được bình tĩnh lúc lâm chung.
Và thứ mười một, nếu chưa đắc đạo quả, lúc chết được sanh về cõi trời Phạm thiên.
Điều ấy có chắc thật không, thưa đại đức?
- Tâu, đúng thật là vậy.
- Thế sao có một lần, bồ-tát Suvanna Sàma ở trong Hy-mã-lạp sơn, tu tập từ vô lượng rất tinh tấn. Một hôm, đức bồ-tát đi múc nước dưới suối về nuôi cha mẹ, bị mũi tên độc của đức vua Kapila bắn trúng, đau đớn gần như chết rồi ngã ra bất tỉnh.
Thưa đại đức! Người niệm tâm từ vô lượng, lý ra có thể ngăn ngừa được mọi điều họa hại, nhưng ở đây, rõ ràng là tâm từ không có tác dụng, vô hiệu quả, không thể bảo vệ được sự an toàn sanh mạng. Vậy tu tập từ vô lượng xem ra không lợi ích gì cả.
- Xin đại vương hãy kham nhẫn, bần tăng sẽ giải thích. Trước đây đại vương là một vị danh tướng đã nhiều lần xông pha trận mạc, chắc đại vương thường hay mặc áo giáp chứ?
- Vâng, trước mũi tên hòn đạn, không có áo giáp làm sao bảo vệ mình được?
- Thế đại vương có thường xuyên măc áo giáp không?
- Chỉ khi ra trước trận mà thôi, còn khi ngủ nghỉ, ăn cơm... nghĩa là trong doanh trại của mình thì không cần thiết.
- Khi ấy nếu có kẻ địch bắn lén đại vương, chắc đại vương sẽ gặp nguy hiểm tánh mạng chứ?
- Vâng, chắc chắn là sẽ nguy.
Đại đức Na-tiên chậm rãi nói tiếp:
- Tâm từ cũng như mặc áo giáp vậy, tâu đại vương. Khi mặc áo giáp thì có thể bảo vệ được sự an toàn, nhưng khi không mặc áo giáp thì có thể bị hiểm nguy.
Bồ-tát Suvanna Sàma tu tập từ vô lượng, có thể tâm từ ấy rất sung mãn; nhưng khi ngài xuống suối múc nước, lối đi cheo leo hiểm trở, hũ nước lại nặng nên thân thể sẽ bị mệt mỏi, đau nhức. Và khi mà mệt mỏi, đau nhức khởi sanh thì tránh sao khỏi sự lơ là, thất niệm không còn an trú ở tâm từ vô lượng nữa? Như vậy, mũi tên độc của đại vương Kapila bắn ra khi bồ-tát Suvanna Sàma đã cởi "áo giáp tâm từ" nên bị họa hại là điều dĩ nhiên, tâu đại vương!
- Có thể là vậy lắm!
- Lại nữa, ví như tương truyền rằng ở cõi trời có một loại rễ cây kỳ lạ. Ai có rễ cây ấy thì biết tàng hình, đi giữa đám đông người không ai phát giác. Nó có công năng che mắt mọi người. Nếu khi không có rễ cây thì không thể tàng hình được.
Lại nữa, ví như một cái hang, một cái động có thể che mưa, đỡ nắng cho các hàng tu sĩ, đạo sĩ; nhưng nếu lìa khỏi hang động, ngồi giữa trời thì làm sao lại có thể tránh nắng, tránh mưa?
Tâm từ phải thường xuyên được tu tập, làm cho sung mãn, thường được an trú bất luận ngày hay đêm thì chắc chắn mười một quả báo thù thắng như đại vương nêu trên, nhất định sẽ trổ quả cho hành giả. Và những họa hại do lửa, thuốc độc, khí giới ... sẽ được bảo vệ, ngăn chặn. Công năng của tâm từ vô lượng ví như áo giáp ngăn tên, như rễ cây tàng hình, hang động che nắng mưa, chắc đại vương không còn hoài nghi nữa?
- Thưa vâng!
* * *
134. Quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng
- Thưa đại đức! Một nhóm người tạo thiện nghiệp, một nhóm người tạo ác nghiệp, khi lâm chung, quả báo của họ như thế nào? Bằng nhau, khác nhau, nhiều ít ra sao, đi chung đường hay khác đường? Xin đại đức bi mẫn chỉ giáo cho trẫm!
- Tâu! Người tạo thiện nghiệp, khi lâm chung thì hướng mặt đi đến cõi trời. Người tạo ác nghiệp, khi lâm chung thì rớt xuống bốn con đường đau khổ, nhất là địa ngục. Quả báo khác nhau rất rõ ràng, kẻ đi lên, người đi xuống, làm sao lại có thể chung đường được hở đại vương?
- Có thật vậy không, đại đức? Đọc kinh truyện, trẫm thấy quả của thiện, ác nghiệp ấy rất lạ lùng, không giản đơn như đại đức nghĩ đâu!
- Xin đại vương hãy dẫn chứng.
- Vâng! Chỉ nói riêng về Đức Phật và Đề-bà-đạt-đa thôi, cũng đã không thể hiểu rồi. Đức Phật và Đề-bà-đạt-đa là đại biểu cho hai thái cực: một bên đại thiện, một bên đại ác; một bên trong sáng cao đẹp, thanh khiết, một bên bụi bặm, xấu xa, dơ uế ... Theo lý nhân quả thì ai xuống, ai đi lên đã rõ ràng; ai được an vui, ai bị khổ thật không cần thiết phải đem ra minh chứng nữa. Nhưng ...
- Xin đại vương cứ tiếp tục!
- Vâng! Trong rất nhiều kiếp, Đề-bà-đạt-đa lại có chức phận lớn hơn Đức Phật; y báo, chánh báo đều tốt đẹp và sang cả hơn Đức Phật, có quyền hành, địa vị, sanh thú cao hơn Đức Phật ... là nghĩa làm sao? Có lạ lùng không chứ? Chẳng lẽ nhân quả thiện ác có chỗ bất minh?
- Xin đại vương cho ví dụ!
- Ví dụ như có kiếp Đề-bà-đạt-đa làm quân sư cho đức vua xứ Bàrànasì, bồ-tát của chúng ta sanh ở trong giai cấp hạ tiện Candàla, làm nghề trồng cây, có tài làm cho xoài có trái sái mùa. Vậy thì thiện nghiệp của bồ-tát ở đâu mà sanh thú lại thấp thỏi hơn Đề-bà-đạt-đa tạo ác nghiệp?
- Vâng, quả thật là có kiếp ấy.
- Vậy mà kiếp sau, Đề-bà-đạt-đa làm vua xứ Bàràn-asì, bồ-tát của chúng ta sanh làm con voi trắng có tên là "Hạnh phúc" để cho Đề-bà-đạt-đa cỡi trên lưng! Như thế đó!
- Tâu, quả có như vậy.
- Lại nữa, kiếp sau nữa, Đề-bà-đạt-đa sanh làm người, bồ-tát sanh làm con khỉ chúa!
- Vâng!
- Kiếp khác nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, còn bồ-tát sanh làm con voi chúa, có sáu ngà, tên là Chaddanta. Đề-bà-đạt-đa lại săn đuổi, bắn giết con voi chúa ấy để lấy ngà!
- Quả đúng vậy.
- Chưa hết đâu! Kiếp sau đó nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, bồ-tát sanh làm con chim đa-đa, bị Đề-bà-đạt-đa giết chết!
- Tâu, vâng!
- Kiếp nữa, Đề-bà-đạt-đa làm vua xứ Kàsì tên là Kalàbu, bồ-tát là một đạo sĩ tu hạnh nhẫn nhục, sau bị đức vua ấy giết!
- Đại vương nhớ túc sanh truyện vậy thay!
- Vâng, còn nữa. Đề-bà-đạt-đa tuy giết bồ-tát mãi như thế, nhưng sanh lại vẫn làm người, tu đạo lõa thể có tên là Korambhira. Còn bồ-tát thiện nghiệp tốt đẹp đâu không thấy, lại sanh làm long vương có tên là Candaraka!
- Xin đại vương cứ cho nghe tiếp.
- Vâng! Sau đó, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm đạo sĩ, có tên là Jalita, bồ-tát làm con heo lớn có tên là Dacchaka!
- Tâu, vâng!
- Một kiếp nữa, Đề-bà-đạt-đa làm vua, có tên là Uparipa, bồ-tát của chúng ta may mắn được làm người, dòng dõi bà-la-môn, có tên là Kapila.
- Tâu, vâng.
- Đề-bà-đạt-đa vẫn được làm người, có tên là Sàma, bồ-tát làm chúa loài thú có tên là Uru!
- Quả đúng vậy.
- Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, là thợ săn tên là Surà-ma. Bồ-tát sanh làm tượng vương? Tên thợ săn kia đã theo cưa sừng bồ-tát tới bảy lần!
- Thật là độc ác!
- Độc ác vậy nhưng kiếp sau Đề-bà-đạt-đa vẫn được làm vua, có tên là Lingàla. Bồ-tát may mắn được làm người trí thức trong quốc độ ấy, có tên là Vidhura!
- Bần tăng biết!
- Còn nữa. Sau đó, không biết tại sao Đề-bà-đạt-đa sanh làm voi, dẫm chết bồ-tát là con chim cút (đẻ trứng dưới đất).
- Tâu, vâng!
- Kiếp nọ, Đề-bà-đạt-đa lại làm vua xứ Brahmadatta, bồ-tát là hoàng tử, con của đức vua ấy, có tên là Paduma. Đức vua Brahmadatta đã quăng hoàng tử Paduma xuống hố sâu cho chết.
- Vâng!
- Đề-bà-đạt-đa ác độc thế nhưng tiếp tục làm vua có tên là Mahàpatàpa. Đức vua ấy lại tìm cách giết con mình, là đông cung thái tử, có tên là Dhammapàla, tức là bồ-tát của chúng ta.
- Vâng!
Đến đây, đức vua Mi-lan-đà chậm rãi nói:
- Người làm thiện được vui, người làm ác bị khổ - là hoàn toàn sai lầm. Qua mười sáu ví dụ trên, rõ là bồ-tát luôn luôn bị quả báo đau khổ hơn dù ngài làm việc đại thiện; còn Đề-bà-đạt-đa tuy làm ác nhưng vẫn nhởn nhơ sung sướng, vẫn ở trên bồ-tát, nắm quyền sinh sát bồ-tát! Đại đức nghĩ thế nào?
- Chắc vẫn có kiếp hai người sanh thú bằng nhau, địa vị ngang nhau chứ?
- Vâng. Một kiếp Đề-bà-đạt-đa làm dạ xoa có tên là Adhamma. Bồ-tát cũng làm dạ xoa, có tên là Sudhamma! Cái tên dẫu khác nhau, một bên là phi pháp (Adhamma), một bên là thiện pháp (Sudhamma) nhưng cũng chỉ là thân dạ xoa thôi!
- Tâu, vâng!
- Có kiếp Đề-bà-đạt-đa làm người chủ thuyền có năm trăm tùy tùng, bồ-tát của chúng ta cũng y như thế.
- Tâu, vâng.
- Kiếp kia Đề-bà-đạt-đa làm chúa đàn nai có tên là Sàkha, bồ-tát của chúng ta cũng là chúa đàn nai có tên là Nigrodha!
- Tâu, vâng!
- Kiếp nọ, Đề-bà-đạt-đa là chủ buôn xe bò có năm trăm tùy tùng; Bồ-tát cũng y như thế.
- Tâu, vâng!
- Thưa đại đức! Trẫm nghiên cứu tiền thân Phật không nhiều, nhưng chỉ đếm được bốn kiếp ấy là quả báo bằng nhau mà thôi. Quả báo bằng nhau trong lúc thiện và ác nghiệp khác nhau, không là điều đáng nghi vấn sao?
- Vâng, thế có kiếp nào đức Bồ-tát hơn Đề-bà-đạt-đa chăng?
- Không kể kiếp chót thành Phật - thì chỉ có hai kiếp.
- Cho xin nghe, tâu đại vương!
- Đó là một kiếp Đề-bà-đạt-đa làm tay thủ lãnh tên là Alàta, còn đức Bồ-tát làm vị Phạm thiên tên là Nàrada!
- Tâu, vâng!
- Và kiếp áp cuối khi Bồ-tát đại thí bổ túc ba-la-mật làm thái tử Vessantara thì Đề-bà-đạt-đa làm lão bà-la-môn ăn xin đến xin hai trẻ!
- Tâu, vâng!
- Còn kiếp cuối thì tương tự nhau thôi. Bồ-tát làm thái tử Siddhattha con vua Suddhodana, Đề-bà-đạt-đa làm hoàng tử con vua Suppabuddha. Đề-bà-đạt-đa xuất gia trong giáo hội của Đức Tôn Sư, đắc thế gian thiền, được ngũ thông, lại còn tìm cách giết Đức Phật, chia rẽ tăng già nữa.
Như vậy, rõ ràng Bồ-tát sinh ở đâu, Đề-bà-đạt-đa cũng sinh ra ở đó. Và chức phận, địa vị, sanh thú, tiền bạc, của cải, quyền lực của Đề-bà-đạt-đa luôn luôn là ở trên Bồ-tát, luôn tìm cách giết hại Bồ-tát, làm khổ Bồ-tát! Còn các kiếp Đề-bà-đạt-đa phước báu ít hơn hoặc ngang bằng thật không đáng kể. Nhưng các kiếp ấy bồ-tát cũng có ở yên với Đề-bà-đạt-đa đâu, vẫn bị Đề-bà-đạt-đa làm hại, làm khổ, bằng cách này hay cách khác!
Xin thưa, đại đức hãy giải nghi cho trẫm?
- Tâu, vâng! Đại vương, nếu đại vương có ở trên tay vài chục hạt cát, thì vài chục hạt cát ấy so với cát ở sông Hằng thì thế nào?
- Không thể so sánh được, vì cát của sông Hằng là vô lượng, vô biên không thể đếm được.
- Cũng thế là vài chục kiếp sống mà đại vương đưa ra so với vô lượng vô biên kiếp sống mà bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa trải qua. Đề-bà-đạt-đa không phải chỉ có làm ác ở trong các kiếp mà đại vương nêu ra, ông cũng làm thiện rất nhiều. Có nhiều kiếp ông làm kẻ thiện tâm, hằng giúp đỡ đến cho những người đói khổ. Vài kiếp, ông làm chức xã trưởng đạo đức, hiền thiện... đã giúp cho địa phương ấy phồn thịnh và hạnh phúc an vui. Đôi kiếp, ông cũng làm cầu, làm đường, làm nhà nghỉ tạm cho thập phương, lập bệnh xá từ thiện, đào hồ nước và làm giếng nước ở nơi công cộng. Lại còn biết cúng dường đến sa môn, bà-la-môn và bố thí cơm nước, vật thực đến người hoạn nạn, cơ bần ... nữa.
Như vậy, các kiếp mà đại vương nêu ra, không phải là những kiếp nối liền, nhân của kiếp này làm quả cho kiếp kia; ấy chỉ là một số kiếp hy hữu mà bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa gặp nhau, tạo oan trái với nhau. Như một con rùa mù ở giữa biển khơi, lâu lâu, trăm năm, ngàn năm mới gặp được một phiến gỗ nổi, một bọng cây nổi... Sự gặp gỡ giữa bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa cũng hy hữu như thế. Bồ-tát gặp Đề-bà-đạt-đa chỉ có vài chục kiếp, trong lúc bồ-tát gặp đức Xá-lợi-phất đến hằng ngàn hằng vạn kiếp; khi thì làm cha con, anh em, ông cháu, bạn bè, thân quyến ... thật không thể đếm hết được. Như thế, bồ-tát trong các kiếp sinh tử quẩn quanh, không những chỉ gặp Đề-bà-đạt-đa mà còn gặp Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, các vị trưởng lão ... nói chung, là cả hội chúng của ngài nữa. Ở đây gồm người tốt, người xấu, kẻ thương yêu vừa lòng, người ngỗ nghịch ghét bỏ, hạng độc ác khó dung, bậc thiện hiền đáng kính. Đủ cả. Ví như dòng nước từ non cao chảy xuống biển khơi, đâu phải dòng nước ấy chỉ gặp những xác chết sinh vật hôi thối, mà còn gặp đá sạn, củi rều, trầm hương, gỗ mục, cành lá, trái cây, chùm hoa, rong rêu ... đủ thứ, đủ loại.
Làm thiện được quả báo tốt lành, làm ác bị quả báo hung dữ, ấy là định luật nhân quả tất yếu không sai trật. Vì ta không thấy hết, không biết hết nên sinh ra hoài nghi. Ví như kiếp Đề-bà-đạt-đa làm dạ-xoa tên là Adhamma mà đại vương đã nêu ở trên. Dạ-xoa Adhamma là kẻ không trú trong pháp, là phi pháp (Adhamma), hành trược hạnh và ác đức; tuyên truyền, hướng dẫn kẻ khác thực hành trược hạnh và ác đức sái quấy như mình; hết kiếp ấy, dạ-xoa đọa địa ngục a-tỳ đến năm bảy koti và sáu vạn năm. Cùng kiếp ấy, bồ-tát làm dạ-xoa có tên là Sudhamma, là người trú trong pháp, khéo thực hành pháp (Sudhamma), làm việc thanh hạnh và thiện đức; rồi khuyên răn, hướng dẫn kẻ khác thực hành thanh hạnh và thiện đức như mình; hết kiếp ấy, dạ-xoa Sudhamma hưởng quả thiện báo ở cõi trời lâu chừng năm bảy koti và sáu vạn năm.
Đại vương! Đơn cử một ví dụ như thế để đại vương thấy rằng: đã vô lượng kiếp sau khi làm ác, Đề-bà-đạt-đa phải bị trả quả hung dữ, đau khổ như thường, nhưng Đức Phật không thể kể hết đó thôi. Đừng vì không thấy hết, không biết hết mà đại vương nghi ngờ định luật nhân quả rất công bằng và rất phân minh kia vậy!
Đức vua Mi-lan-đà im lặng giây lâu:
- Thế đức bồ-tát chuyên hành thiện mà sao vẫn bị quả dữ, thưa đại đức?
- Không, không phải vậy đâu. Bồ-tát tất là còn vô minh, phiền não. Còn vô minh, phiền não thì tránh sao được những hành động sai lầm? Do vậy, ngài phải bị trả quả đau khổ tương ứng với hành động sai lầm của mình. Đấy cũng là điều tất yếu.
- Đã rõ, thưa đại đức!
* * *
135. Sự tà hạnh của người nữ?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết với đại ý rằng: "Những người nữ trên thế gian này dễ làm điều đê hèn, thấp thỏi, tà hạnh nếu như họ có đủ điều kiện là thời gian, nơi kín đáo, có người đàn ông dụ dỗ, chọc ghẹo họ. Đừng nói là người trai có sắc đẹp, khỏe mạnh mà người trai xấu xí, tầm thường, người nữ vẫn bị quyến dụ như thường!". Có phải có điều ấy không ạ?
- Tâu, vâng!
- Nhưng khi thuyết về bổn sanh, nói về người vợ của bồ-tát Mahosatha là bà Amaràdevi, lại không phải thế. Bà Amaràdevi dầu không có mặt chồng ở trong phòng kín với người đàn ông dụ dỗ mình - theo kế thử lòng của bồ-tát Mahosatha - bà vẫn không tà hạnh. Xem thế, lời tuyên bố ở trên của Đức Thế Tôn có quá đáng chăng? Có hạ giá phẩm hạnh của người nữ chăng? Có đưa tay ra mà nắm cả bó đũa hay chăng? Có nghiêng lệch về một phía bởi định kiến của mình hay chăng? Mong đại đức giải nghi cho trẫm điều này?
- Tâu đại vương! Quả là Đức Thế Tôn có dạy rằng người nữ hành động xấu xa, thấp thỏi khi hội đủ ba điều kiện: thời gian, nơi kín đáo và có người đàn ông dụ dỗ, chọc ghẹo. Nhưng các điều kiện đưa đến phạm tội ấy cũng phải được hiểu cho chính xác, nếu không đại vương sẽ hiểu lầm lời tuyên bố của Đức Đạo Sư!
- Xin đại đức giảng cho nghe?
- Tâu, vâng! Ví như điều kiện thứ nhất là "thời gian"! Đại vương hiểu như thế nào về chữ "thời gian"?
- Có thể hiểu ngay! ví dụ như lúc rảnh việc, lúc không có ai thấy, lúc người khác không nghi ngờ, lúc người chồng đi vắng, lúc ban đêm hoặc lúc có thể dễ dàng nêu lý do vắng mặt v.v... nghĩa là vào lúc mà thời gian thuận tiện nhất. Có phải "thời gian" là vậy không đại vương?
- Rất chính xác. Nhưng nếu có người nữ không cung kính chồng, không tốt với chồng, không hề sợ chê bai, không sợ địa ngục, không biết thế nào là đúng pháp, thế nào là phi pháp, không có tàm quý thì họ có cần điều kiện "thời gian" như đại vương nêu ở trên không?
- Đối với hạng nữ nhân ấy thì lúc nào, thời gian nào họ cũng có thể tà hạnh!
- Vâng! vậy thì đối với hạng nữ nhân đầu, thời gian nghĩa là có lúc, có khi thuận tiện; đối với hạng nữ nhân sau, thì thời gian dường như lúc nào cũng được. Tất cả đều là nghĩa về "thời gian", tâu đại vương!
- Nó rộng nghĩa như vậy sao đại đức! Nếu thế thì có yếu tố "tâm" xen dự vào đấy rồi!
- "Thời gian" đầu, ám chỉ cho hạng nữ nhân có tâm xấu ít. "Thời gian" sau, ám chỉ cho hạng nữ nhân có tâm xấu nhiều, tâu đại vương!
- Thế còn "nơi kín đáo" là chỗ khuất mắt, khuất tai, không ai thấy biết, phải thế không đại đức?
- Cũng không đơn giản như đại vương hiểu đâu. Chỗ mọi người không thấy, không biết thì đúng rồi; nhưng nếu phi nhơn, chư thiên, quỷ thần hay biết thì sao?
- A! Té ra còn điều này nữa!
- Rồi lại còn các bậc đắc thắng trí thần thông, họ có tha tâm thông nên thấy, biết thì sao?
- Vâng, vâng!
- Trở lại vấn đề. Bà Amàradevi, vợ của bồ-tát Mahosatha dẫu bị người đàn ông dụ dỗ, có thời gian, trong phòng kín - kín với mọi người, nhưng không kín đối với bà - nên bà không thể tà hạnh được, tâu đại vương!
- Bà còn là người tốt chứ không phải là người xấu như hai hạng nữ nhân ở trên, thưa đại đức.
- Lại nữa, bà Amàradevi lại còn có người chồng tốt, trên thế gian không ai bằng được, cũng là lý do chính đáng để bà không tà hạnh, tâu đại vương!
- Xin đại đức kể rõ cho nghe?
- Vâng, đức bồ-tát Mahosatha có đầy đủ hai mươi tám pháp ưu thắng sau đây:
Một là, dũng cảm, nhiệt thành. Thứ hai, có sự hổ thẹn tội lỗi. Thứ ba, có sự ghê sợ tội lỗi. Thứ tư, có nhóm thiện hữu của mình. Thứ năm, có sự thương yêu của bạn bè.
Thứ sáu, đức nhẫn nhục. Thứ bảy, có giới hạnh. Thứ tám, nói lời chân thật. Thứ chín, có năng lực tâm lành bảo hộ. Thứ mười là, không sân hận.
Mười một, không biết khinh bỉ người khác. Mười hai, không ganh gỗ với người. Mười ba là tinh tấn. Mười bốn, vun bồi ba-la-mật. Mười lăm, là người tế độ đại chúng.
Mười sáu, biết chia phần của cải cho mọi người. Mười bảy, nói lời tử tế, hòa hợp. Mười tám, thân hành dịu dàng. Mười chín, nói lời nhỏ nhẹ, dịu ngọt. Hai mươi, không kiêu căng, không khoe khoang.
Hai mươi mốt, không lường gạt, giả dối, không làm bộ làm tịch. Hai mươi hai, hiểu biết các định luật tiến hóa. Hai mươi ba, thông hiểu nhiều lĩnh vực (nghề nghiệp, làm ra của cải, biết ngăn ngừa tai họa v.v...) Hai mươi bốn, có thanh danh. Hai mươi lăm, biết ban phúc cho người - nhất là biết săn sóc, chăm lo cho những người đang nương tựa mình.
Hai mươi sáu, là người mà đại chúng mong mỏi, tin cậy. Hai mươi bảy, có nhiều tài sản. Hai mươi tám, nhiều chức phận cao quý trong xã hội.
Tâu đại vương! Với hai mươi tám phẩm chất cao quý ấy, bậc trí thức, hiền đức là bồ tát Mahosatha là người tuyệt hảo của một ông chồng trong gia đình; là người tuyệt hảo trong thôn lân, xã hội, quốc độ, không một người nữ nào không coi là bậc lang quân lý tưởng; lại nữa, yếu tố "thời gian" và yếu tố "chỗ kín đáo" không hội đủ, thì làm sao bà Amàradevi có thể bị dụ dỗ tà hạnh đươc, hở đại vương?
- Đúng vậy, dẫu đàn bà xấu tâm, xấu nết cũng không thể phạm tội, huống hồ bà Amàradevi là người đàn bà tốt, lại có được một người chồng như thế!
- Tâu, vâng!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:52:26 GMT -5
136. Các vị A la hán còn sợ hãi?
- Thưa đại đức! Trẫm có nghe đại đức nói nhiều lần rằng bậc A-la-hán không còn một sự sợ hãi nào trên thế gian này, kể cả sợ hãi sự chết! Vì các nguyên nhân của sợ hãi các ngài đã chấm dứt, đã tuyệt diệt, có phải thế không ạ?
- Tâu, vâng!
- Trẫm có đọc một đoạn kinh , đại ý rằng: khi Đức Thế Tôn, năm trăm vị A-la -hán cùng đại đức Ànanda đi vào thành Vương-xá để khất thực, Đề-bà-đạt-đa với ác tâm, bèn thả con voi dữ uống rượu say cố ý giết Phật. Năm trăm vị A-la-hán thấy con voi như điên cuồng lao tới, các ngài sợ hãi quá bỏ trốn hết; chỉ có đại đức Ànanda là không sợ hãi gì cả, bước đến, đứng chắn phía trước, cố ý thà chết để bảo vệ cho Đức Thế Tôn! Phải vậy không, thưa đại đức?
- Tâu, vâng!
- Sao kỳ lạ như thế! Năm trăm vị A-la-hán đều là bậc vô lậu, đã chấm dứt mọi nguyên nhân của sợ hãi; lại tham sống sợ chết, thấy voi dữ, bỏ trốn hết, để Đức Thế Tôn đứng đấy một mình! Còn đại đức Ànanda là bậc hữu học, phiền não còn nhiều, nguyên nhân của mọi sợ hãi chưa được cắt đứt; thế mà ngài lại không hề sợ hãi, chẳng tiếc sanh mạng của mình, hy sinh cái thân giả tạm để che chắn cho Đức Đạo Sư? Hay năm trăm vị A-la-hán ấy tò mò, muốn biết, muốn thấy Đức Thế Tôn sử dụng thần thông, phép lạ ra sao? Lý nào lại thế được?
- Vâng, chẳng có lý nào mà năm trăm vị A-la-hán còn tò mò, khởi tâm muốn thấy, muốn biết phép lạ, thần thông
của Đức Thế Tôn. Quả thật không hề có chuyện đó xảy ra!
- Nếu là không có lý thì đại đức phải giải thích cho minh bạch chứ?
- Vâng! Quả đất hoặc như tối đại sơn là đỉnh Sineru có khi nào lay động, sợ hãi bởi điều gì không, hở đại vương?
- Dĩ nhiên là không! dù cho ai cuốc, ai đào, ai đánh, ai đập, ai dùng lửa đốt, thì quả đất hoặc núi Tu-di vẫn không lay động, không sợ hãi bao giờ.
- Quả đất hoặc núi chúa không lay động, không xao động, không sợ hãi bất cứ một điều gì; cũng giống như tâm bất động, trạm nhiên của các bậc A-la-hán vậy, tâu đại vương. Dù có một số đông người, tay nắm xà-mâu sắc bén, vây quanh một vị A-la-hán với thái độ rất hung dữ, đằng đằng sát khí, muốn giết vị A-la-hán ấy; cũng không vì vậy mà vị A-la-hán tỏ ý khiếp sợ hoặc có một sự dao động, xao động nào ở trong tâm. Đại vương nên hiểu như vậy.
- Nói thế cũng không biện hộ được cho thái độ hèn nhát, khiếp nhược của các vị A-la-hán khi họ tham sống, sợ chết, bỏ trốn lấy thân mình mà bỏ mặc Đức Đạo sư ở lại đấy với voi dữ!
- Đại vương nói như vậy hơi nặng lời! Đại vương hãy sám hối đi là vừa! Đại vương có biết khi ấy các vị A-la-hán suy nghĩ gì không?
- Thưa, không biết!
- Không biết thì đừng võ đoán! Hoặc chỉ nhìn thấy bên ngoài, chưa thấy sự thật ở bên trong thì đừng vội quy kết! Năm trăm vị A-la-hán đều là bậc lậu hoặc đã tận, mọi nguyên nhân của cái gọi là hèn nhát, khiếp nhược gì đó đã chấm dứt. Khi thấy voi dữ xông đến, các vị ấy tâm ý tương thông, đồng khởi niệm như sau: "Đức Ànanda suốt đời tận tụy, kính cẩn, thương yêu phục vụ, hầu hạ Đức Thế Tôn, thật trong hàng đệ tử chẳng ai dám sánh. Rõ là đức Ànanda sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để bảo vệ cho Đức Thế Tôn mà chẳng khởi lên một tí sợ hãi nào. Vậy tất cả chúng ta hãy lánh đi, để bố cáo những đức tính cao quý sáng rỡ như mặt trời, mặt trăng của đức Ànanda; cho tứ chúng cùng tất thảy mọi người trong nhiều quốc độ được thấy, được biết! Còn việc đối trị với voi dữ chỉ là trò trẻ con đối với Đức Tôn sư! Chỉ có Đức Tôn sư mới biết rõ ngài nên làm gì!"
Đức vua Mi-lan-đà giật mình, kinh sợ:
- Quả các ngài ấy đã nghĩ như vậy sao?
- Quả đúng thế, đại vương!
- Vậy là trẫm có tội rồi! Làm sao sám hối cho hết cái tội võ đoán, loạn ngôn, lộng ngữ của trẫm đây, đại đức?
Đại đức Na- tiên mỉm cười:
- Nói thế chứ đại vương không có tội! Bần tăng hiểu rõ tâm ý của đại vương, là chẳng có sự khi mạn nào đối với các bậc Thánh Tăng! Sở dĩ đại vương lập ngôn, lập ngữ như thế là lợi ích cho phần đông, có vậy mới lột tả được cái "phản diện" của vấn đề!
Đức vua chợt thốt "Sàdhu, lành thay" rồi quỳ xuống đảnh lễ thật cung kính:
- Chỉ có sự thông tuệ của đại đức mới hiểu được dụng tâm sâu kín cuả trẫm!
- Không dám!
* * *
137. Đức Phật dạy cắt đứt sợ hãi?
(Tương tự câu hỏi 125)
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn dạy chư tỳ kheo chấm dứt nguyên nhân của sợ hãi, rồi sau đó, dạy cho hai hàng cận sự nam nữ đem nguyên nhân sợ hãi đến cho chư tỳ kheo là nghĩa làm sao?
- Đại vương nói gì bần tăng không hiểu?
- Thưa, đây là câu hỏi đã hỏi rồi, nhưng trẫm đã lý giải để hỏi theo cách khác.
- Đại vương cứ dẫn chứng cho đầy đủ.
- Vâng. Có lần Đức Bổn Sư thuyết rằng: "Này các thầy tỳ kheo! Sự sợ hãi chỉ xảy đến cho các thầy khi các thầy còn tham luyến chỗ ở, quyến niệm trú xứ của mình. Vậy muốn chấm dứt sợ hãi, các thầy phải sống đời không dính mắc, như hươu nai được tự do đi lại trong rừng sâu!"
- Quả đúng thế!
- Nhưng khi dạy cho cận sự nam nữ, Đức Tôn Sư lại thuyết rằng: "Người nào cúng dường, tôn tạo chùa, thất, liêu, chỗ ngự cho tỳ khưu Tăng sẽ có phước báu lớn, lợi ích lớn.Tại sao vậy? Vì rằng các ngài là con mắt sáng của thế gian, là bậc đa văn, quảng kiến; là người thông suốt tam tạng, là người hằng đem đến lợi ích, phước báu cho chư thiên và loài người."
- Cũng đúng như thế!
- Một bên thì dạy đừng nên có chỗ ở, một bên thì dạy nên tạo chỗ ơ ? Tham luyến chỗ ở đem đến sợ hãi, thế mà còn dạy người ta nên tôn tạo chùa, thất, liêu; điều ấy không phải là sự mâu thuẫn lạ lùng sao, hở đại đức?
Đại đức Na- tiên im lặng một lát rồi hỏi:
- Đại vương có thấy, là nếu chư tỳ khưu sống hạnh không dính mắc chỗ ở, sống đời ta-bà vô trú như hươu nai tự do, tự tại giữa rừng sâu có lợi ích chăng?
- Dĩ nhiên là lợi ích.
- Còn nếu các hàng cư sĩ phát tâm cúng dường, tôn tạo chùa thất đến cho tỳ khưu Tăng, thì có lợi ích chăng?
- Dĩ nhiên là lợi ích.
- Xin đại vương cho nghe tôn ý? Chúng có những lợi ích gì?
- Thứ nhất là giúp cho chư Tăng có nơi để hành đạo. Thứ hai là cận sự nam nữ dễ dàng lui tới học đạo, nghe pháp, làm phước cúng dường, thọ trì quy giới v.v... Thứ ba là có nơi để cho chư Tăng học hành, nghiên cứu, trao đổi kinh, luật, luận. Thứ tư là để cho kẻ ngoại giáo, vua chúa, quan lại... có chỗ lui tới để vấn đạo, học đạo...
- Đúng vậy. Và những lợi ích ấy có thiết thực, hữu ích cho nhân quần, xã hôi không hở đại vương?
- Rất thiết thực. Tuy nhiên, nó vẫn là nguyên nhân đem đến sự sợ hãi trong hàng tăng lữ, thưa đại đức?
- Nguyên nhân ấy là gì?
- Là sự tham luyến chỗ ở.
- Vậy thì vấn đề là sự tham luyến và không tham luyến, tâu đại vương!
- Ồ! trẫm đã sai rồi!
* * *
138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng?
- Thưa đại đức! Trẫm còn thắc mắc về một câu hỏi trước đây, khi Đức Thế Tôn khen ngợi rằng tỳ khưu Bàkula cao quý không ai sánh bằng... Đại đức có thể trả lời cho trẫm những câu hỏi liên quan đến vấn đề ấy chăng?
- Tâu, vâng, đại vương cứ hỏi.
- Đức Thế Tôn là vị lương y, chữa trị tất cả mọi căn bệnh cho chúng sanh; nhưng chính ngài là người lại đau ốm luôn, ít ra là bốn lần. Trị bệnh cho chúng sanh mà chính mình lại bị bệnh, đấy không là điều đáng ngạc nhiên sao?
- Đại vương lầm rồi, hay chính đại vương giả vờ đặt ra câu hỏi ấy? Những căn bệnh thống khổ của chúng sanh là tham sân, phiền não, luân hồi tử sinh... chứ không phải là bệnh tật thông thường, tâu đại vương! Ngài đã thuyết pháp, giảng giải con đường đi đến Niết bàn, nơi diệt tận những điều thống khổ ấy nên thế gian tôn ngài là vị lương y. Còn sở dĩ tỳ khưu Bàkula cao quý không ai sánh bằng là do vị ấy thiểu bệnh hơn các vị Thanh văn khác, chỉ có thế thôi.
- Vậy thì Đức Tôn Sư ám chỉ sự cao quý gì trong lời thuyết: "Như Lai là bậc bà-la-môn tối thượng, xứng đáng để cho kẻ khác xin rửa tay dâng vật phẩm cúng dường, không có ai sánh bằng!"? Trong lúc vô bệnh thì ngài không bằng tỳ khưu Bàkula, phước vật thực thì không bằng đại đức Sìvali, đầu đà khổ hạnh thì không bằng ngài Mahà Kassapa v.v... Ngoài ra, các vị Thinh văn đệ tử Phật, thọ thực ngày một lần, có vị dù chết cũng không thọ thực hai lần một ngày; còn Đức Tôn Sư thọ thực ngày một lần, ngày hai lần hoặc ngày ba lần cũng có. Vậy thì trẫm e rằng phẩm hạnh của Đức Thế Tôn không cao quý bằng chính đệ tử của mình rồi.
- Tâu đại vương! Như bần tăng đã trình bày hôm trước, Đức Thế Tôn cao quý không ai sánh bằng ở phương diện tâm, phương diện tuệ và phương diện giải thoát. Tức là những pháp mà ngài đã chứng đạt và chứng ngộ. Cụ thể hơn, Đức Thế Tôn có những pháp tối thượng sau đây:
Thứ nhất, giải thoát tri kiến (Vimutti nànadassana); Thứ hai, thập lực tuệ và bốn tuệ dũng cảm (Vesàvajjanàna); Thứ ba, mười tám pháp Phật (Buddha Dhamma); Thứ tư, sáu tuệ không phổ thông (Àsàdhàranàna); Thứ năm, tất cả pháp trình độ của Phật (Buddhavisaya Dhamma).
Cho nên, dù Đức Thế Tôn có bệnh hay không bệnh, thọ thực một bát hay thọ thực hai bát, thọ đầu đà hay không thọ đầu đà; thì tất cả chíng sanh trong tam giới, chúng sanh không chân hay hai chân, có bốn chân hay nhiều chân, có thân hình hoặc không có thân hình, có tâm tưởng hoặc không có tâm tưởng v.v..., chẳng chúng sanh nào có thể cao thượng, cao quý để so sánh với Đức Tôn Sư!
- Thưa đại đức! Trẫm không còn nghi ngờ gì về điều ấy nữa.
* * *
139. Đức Thế Tôn là người khai sáng Đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa?
- Thưa đại đức! Đạo vốn có sẵn tự ngàn xưa phải chăng?
- Vâng, có tự ngàn xưa, do chư Phật quá khứ đã khai sáng, đã tìm ra.
- Thế sao Đức Thế Tôn của chúng ta lại nói rằng "Như Lai là người làm cho Đạo chưa phát sanh được phát sanh"? Vậy ra lời nói sau lại nghịch ngôn, mâu thuẫn với lời nói trước.
- Chẳng có hai lời sái nghĩa đâu, tâu đại vương! Đạo xưa ấy là nói về Bát chánh đạo, con đường có tám chi; đấy là con đường đi đến giải thoát, chấm dứt sinh tử luân hồi. Chính chư Phật quá khứ sau khi giác ngộ con đường, đã tán dương, tuyên thuyết con đường ấy cho chúng sanh thực hành, noi theo. Nhưng khi các ngài nhập diệt, Bát chánh đạo ấy cũng theo thời gian mà khuất lấp đi, chẳng còn ai biết đến để tu tập nữa. Đến thời Phật Thích Ca, do công hạnh ba-la-mật sâu dày, ngài đã vén mở con đường xưa cũ; đã phát hiện lại con đường, đã phát quang lại con đường, tu tập theo con đường, giác ngộ con đường... cho nên gọi là làm cho con đường được phát sanh! Lý nghĩa ấy thì có gì mâu thuẫn đâu, tâu đại vương?
- Thưa đại đức! Phát sanh là chưa có mà bây giờ lại có, lại sanh ra. Còn Đạo vốn là cái có sẵn nên không thể lập ngôn như vậy được!
- Đại vương nói rất có lý. Nhưng đại vương nghĩ thế nào trong trương hợp viên ngọc mani với đức Chuyển luân Thánh Vương? Phước đức của đức Chuyển luân Thánh Vương từ ngàn xưa có công năng làm cho ngọc mani xuất hiện, gọi là ngọc mani phát sanh đến cho đức Chuyển luân Thánh vương. Nhưng đến khi đức Chuyển luân Thánh vương mãn tuổi thọ, ngọc mani ấy cũng bị biến mất, đến trú ẩn nơi đỉnh núi Vikula. Nhiều đời sau, đức Chuyển luân Thánh vương khác lại ra đời trên thế gian, ngọc mani xuất hiện, lại tìm đến cho đức vua ấy. Thế có thể lập ngôn là ngọc Mani phát sanh đến cho đức Chuyển luân Thánh vương không hở đại vương?
- Có thể được.
- Nghĩa là đức vua ấy không thể tạo ra ngọc mani mà mani ấy vốn có sẵn?
- Đúng vậy.
- Chữ "phát sanh" mà Đức Thế Tôn dùng cũng nằm trong ngữ nghĩa ấy. Đức Thế Tôn không tạo ra Đạo mà Đạo vốn là có sẵn.
- Trẫm hiểu rồi.
- Ngọc mani xưa thần bí, ẩn tàng không ai có thể thấy được, chẳng ai có khả năng làm cho nó lộ diện, chỉ có công năng phước báu của đức Chuyển luân Thánh vương mới làm cho nó phát sanh. Tương tự như thế, Bát chánh đạo sâu kín, mầu nhiệm, khó thấy, khó tìm; chẳng ai trong tam giới có khả năng làm cho Bát chánh đạo hiện hữu; chỉ có công hạnh ba-la-mật sâu dày, trí tuệ vô thượng của Đức Phật mới có công năng làm cho Bát chánh đạo phát sanh giữa cuộc đời.
- Trẫm đã hiểu.
- Lại nữa, ví như người nữ sanh con. Trong bụng người nữ có con mới gọi là người nữ sanh con. Nếu trong bụng người nữ không có con thì người nữ có sanh con được không hở đại vương?
- Chẳng thể nào.
- Đức Phật giác ngộ Bát chánh đạo từ ngàn xưa, ở trong tâm, rồi nói ra bát chánh đạo ấy; cũng như người nữ có con trong bụng, rồi sanh đứa con ấy ra, tâu đại vương!
- Hay lắm!
- Lại nữa, ví như một người đàn ông giàu có, của cải tài sản, châu báu được chôn giấu nhiều nơi; do chiến tranh, loạn lạc, vật đổi, sao dời, người đàn ông không tìm ra tài sản ấy nữa. Sau đó, do cố gắng, do kiên trì, do trí nhớ, ông ta đã tìm lại được. Ấy có thể gọi là làm cho tài sản phát sanh trở lại không, hở đại vương?
- Có thể được.
- Lại nữa, ví như một người đàn ông nọ tự ý vào rừng, nhắm hướng đông tây nam bắc rồi chặt bỏ bụi bờ, gai góc, làm sạch một con đường, thì tình cờ phát hiện một con đường xưa cũ bộ hành qua lại. Tương tự như thế, Đức Thế Tôn cũng là một người đi vào một khu rừng, phát quang bụi bờ gai góc, chợt tìm ra con đường Bát chánh đạo mà chư Phật quá khứ đã đi qua, vốn đã bị thời gian khuất lấp. Trường hợp ấy cũng cùng một ý nghĩa cả, tâu đại vương!
- Trẫm đã hết nghi ngờ rồi, thưa đại đức!
* * *
140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn?
- Thưa đại đức! Có phải Đức Thế Tôn đã tinh tấn thực hành khổ hạnh để diệt trừ phiền não, hủy diệt ma quân? Và sự tinh tấn thực hành khổ hạnh ấy trên thế gian không ai bằng được?
- Tâu, vâng!
- Cũng do sự tinh tấn thực hành khổ hạnh ấy mà thân thể ngài trở nên suy nhược, gầy yếu...; nếu tiếp tục, có thể đưa đến tử vong, nên ngài đã cương quyết từ bỏ, trở lại ăn uống bình thường. Nhờ vậy mà ngài đã đắc vô thượng Bồ đề tuệ! Có đúng thế chăng?
- Tâu, vâng!
- Thế sao ở một chỗ khác, khi thuyết giáo cho chư đệ tử, Đức Thế Tôn lại khuyên nên thực hành hạnh tinh tấn, tức là con đường sai lầm mà trước đây ngài đã chán nản, từ bỏ?
- Đại vương nói thế có chứng cứ gì không?
- Có chứ! Đức Thế Tôn có thuyết với đại ý như vầy: "Này chư tỳ khưu! Các ngươi hãy tinh tấn, hãy ra khỏi phe nhóm, đừng ở trong phe nhóm. Hãy là người tri túc, sống đời nhẹ nhàng. Hãy đi vào rừng, thọ đầu đà ở trong rừng hay tìm đến một côi cây nào đó. Hãy tinh tấn tiến tu chỉ tịnh, quán minh. Hãy dứt bỏ quân binh của diêm chúa. Hãy như voi chúa lớn sổ mạch (dậy tình) phá đổ tất cả nhà cửa, dũng mảnh tinh tấn để đạp nát thành lũy của ma quân. Dẫu trường hợp nào cũng phải thực hành tinh tấn, đừng bỏ tinh tấn cho đến lúc giác ngộ, giải thóat hẳn thôi!"
- Đúng là Đức Tôn Sư đã có thuyết như vậy.
- Cái đại nguyện tinh tấn ấy, cái siêng năng mãnh liệt ấy, khi hành đại khổ hạnh, chính Đức Thế Tôn đã thấy rõ nó có hại, không đưa đến yểm ly, ly tham, giác ngộ, Niết bàn nên ngài đã chán nản và từ bỏ. Vậy mà bây giờ ngài lại khuyên đệ tử nên thực hành theo sự sai lầm của mình! Than ôi!
- Đại vương đã hiểu sai đoạn kinh ấy rồi!
- Trẫm chưa hiểu ý của đại đức.
- Đại vương chưa hiểu thế nào là khổ hạnh, thế nào là tinh tấn! Chẳng lẽ nào tinh tấn và khổ hạnh lại giống nhau, hở đại vương?
-- Xin đại đức giải thích cho!
- Tâu đại vương! Tinh tấn dõng mãnh, cường liệt để thực hành chỉ tịnh và quán minh, nó rất khác biệt so với sự tinh tấn, dõng mãnh, cường liệt để thực hành khổ hạnh! Cũng là đại tinh tấn, nhưng hai sự tinh tấn ấy, dù có sự quyết tâm hạ thủ công phu tương tợ nhau, nhưng đối tượng thì lại hoàn toàn khác biệt nhau!
- Trẫm chưa hiểu.
- Tâu, khi tinh tấn để thực hành khổ hạnh, trong sáu năm lầm lạc, Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: "Ta phải thực hành khổ hạnh cho thế gian này không ai có thể thực hành bằng ta, hơn ta! Ta phải phát nguyện cho đại tinh tấn tốt hơn nữa, bằng cách cương quyết thọ thực ngày một ít dần đi, phải giảm thiểu cho đến lúc không cần cả ăn, cả uống, cả đại tiểu tiện... và cả hơi thở nữa!". Và chính do đại tinh tấn khổ hạnh ấy mà Đức Thế Tôn sút giảm sức khỏe, tiều tụy thân thể... cho đến lúc mạng sống sắp lâm nguy! Sự hành thân hoại thể ấy chỉ đưa đến việc chấm dứt sự sống chứ không thể chấm dứt phiền não, giải thoát sinh tử khổ đau!
- Điều ấy thì trẫm đã có nghe.
- Sau khi từ bỏ đại tinh tấn khổ hạnh, Đức Phật thọ thực ngày một bữa, rồi khởi tâm đại tinh tấn quay sang đề mục chỉ tịnh và quán minh. Nhờ vậy ngài mới chứng đắc vô thượng Bồ đề tuệ. Nói cách khác, ngài từ bỏ khổ hạnh ép xác, chứ không phải từ bỏ đại tinh tấn, tâu đại vương! Với đại tinh tấn thì ai muốn chấm dứt khổ cũng phải thực hành y chỉ, tuân theo ! Vật thực nuôi mạng chúng sanh trong các cõi như thế nào, thì đại tinh tấn cũng nuôi mạng tuệ giác cho tất cả Chư Phật quá khứ, hiện tại , vị lai cũng y như thế ấy.
- Xin đại đức cứ giảng thêm.
- Vậy, tội không phải là tội của sự tinh tấn, mà là tội của khổ hạnh, ép xác, tâu đại vương!
- Vâng!
- Đức bồ tát muốn mau đắc thành Chánh Đẳng Giác mà ép xác khổ hạnh, cũng tương tợ như người đi đường muốn đến đích nhanh, cố gắng chạy, rán sức chạy cho đến lúc kiệt quệ. Muốn nhanh lại trở thành chậm vậy.
- Tại sao?
- Vì rằng, đến lúc kiệt lực, chân tay rã rời, nhấc không nổi thì làm sao mà đi được? Trái lại, có kẻ chạy bình thường, liên tục, đều đặn, biết duy trì hơi thở; thì tuy thấy chậm, còn ở đằng sau, nhưng sẽ đến đích nhanh hơn. Có phải thế không, đại vương?
- Vâng!
- Trường hợp người kia đến đích chậm hoặc kiệt lực nằm dài ở dọc đường... thì lỗi ở đôi chân, lỗi ở con đường, lỗi ở mặt đất hay lỗi ở đâu, đại vương?
- Thưa, lỗi do tâm nóng nảy muốn mau đến đích mà sanh ra. Lỗi do không biết duy trì sức lực mà làm cho kiệt lực.
- Đức bồ tát sáu năm khổ hạnh do thiếu trí tuệ mà ép xác cho đến kiệt lực cũng y như thế. Tội là do si mê ép xác khổ hạnh chứ không phải do tinh tấn, tâu đại vương!
- Thưa, vâng!
- Ví như một người mặc áo quần quá dơ bẩn, không biết cách giặt, không có thuốc tẩy lại đổ lỗi cho nước, có được không, đại vương?
- Nước vốn không có lỗi như thế nào thì tinh tấn cũng không có lỗi như thế ấy, đại đức!
- Một người nấu cơm bị khê, bị cháy, lại không tự trách mình mà đi đổ lỗi cho lửa, có được không, đại vương?
- Không thể do lửa được.
- Cũng là đại tinh tấn, nhưng biết sử dụng đại tinh tấn cho chỉ tịnh, quán minh thì được tuệ giác; còn sử dụng đại tinh tấn cho ép xác, khổ hạnh thì si mê chồng chất si mê, có được gì đâu! Đại vương đã thấu đáo vấn đề chưa?
- Bây giờ thì trẫm đã hoàn toàn lãnh hội rồi.
* * *
141. Tại sao có sự đắc quả nhanh, chậm khác nhau?
- Thưa đại đức! Đức Toàn-thắng-ma có dạy rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy phải biết sợ hãi luân hồi, phải thoát ra khỏi sự ràng buộc của cấu uế, dơ bẩn, phiền não. Phải thỏa thích trong pháp xa lánh cấu uế, tìm an lạc trong pháp xa lánh cấu uế!". Pháp ấy được gọi là Nippapanca. Trẫm không hiểu Nippapanca là gì?
- Tâu đại vương! Nippapanca dhamma là pháp nhằm thoát ly ra khỏi mọi nhơ bẩn, cấu uế của tâm; hàm chỉ bốn quả vị của bốn bậc thánh: Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na- hàm và A-la-hán quả.
-Thế Đức Đạo Sư muốn dạy bảo đệ tử phải tu tập để chứng đắc tứ quả thánh?
- Tâu, vâng.
- Nhưng rải rác chỗ này, chỗ kia, Đức Thế Tôn không dạy chứng quả ngay như thế; mà ngài dạy phải bố thí, cúng dường..., dạy phải học kinh, học kệ thi, học văn phạm, học túc sanh truyện, học phi thường pháp v.v..., thế là sao nhỉ?
- Tâu đại vương! Chư tỳ khưu phải học và hành tuần tự thứ lớp cho đầy đủ như thế, nhưng mục đích cuối cùng cũng đều phải đắc pháp Nippapanca giống nhau. Người đắc pháp Nippapanca ngay, thoát ly mọi cấu uế nhơ bẩn, được trong sạch không phải là một cái gì chợt đến một cách tức khắc; mà là do sự huân tu lâu đời, duyên ba-la-mật già dặn từ nhiều kiếp trước. Những kẻ ấy, trong đời này, sẽ đắc quả nhanh, không chậm trễ, chỉ một sát na tâm là họ nhập vào dòng thánh rồi. Trường hợp trái lại, những tỳ khưu đang còn phàm, chưa có huân tu sâu dày, duyên ba-la-mật chưa đủ, muốn đắc Nippapanca cũng phải học và hành tuần tự thứ lớp, tinh tấn mỗi khi mỗi ít, đến một lúc nào đó, dù chậm trễ, họ cũng sẽ đắc quả Thánh!
- Trẫm hiểu rồi, nhưng đại đức có ví dụ cụ thể nào về hai trường hợp ấy chăng?
- Tâu, vâng! Ví dụ có người nông dân cần mẫn, chăm lo làm ăn. Mấy năm trước ông ta khai phá một mảnh ruộng, làm hàng rào rất chắc chắn. Ngoài ra, ông ta còn siêng năng nhổ cỏ, thêm phân, thêm nước thường xuyên cho đám ruộng của mình. Đến mùa, đám ruộng ấy được bội thu, nuôi sống mình và gia đình... Tâu đại vương! Hạt gạo của người nông phu ấy, tức khắc được làm ra, nó có ngay, hay phải trải qua thời gian lâu dài?
- Thưa, họ phải tốn biết bao công sức, thời gian cùng sự chăm chuyên cần mẫn mới có được !
- Đúng là vậy. Lại có một người nông dân khác, quanh năm đói nghèo do tính chậm lụt, thiếu quyết tâm, ít siêng năng, chịu khó; luôn luôn than thở mình thiếu phước, đến nhà người ''nông dân giàu'' để vay gạo, nói rằng: ''Tôi thiếu gạo, anh dư gạo, hãy cho tôi vay gạo!'' Người kia đáp: ''Không ai là người thiếu gạo cả, chỉ tại anh làm biếng, không có chí, không có đầu óc, không biết siêng năng, chịu khó mà thôi!". "Vậy anh hãy dạy tôi!". "Hãy cầm lấy cái cuốc, vào ven suối làm một đám ruộng, rồi tuần tự làm những việc như tôi đã làm, thời gian sau sẽ có gạo ăn!". Nguời nông dân nghèo nghe lời bạn dạy bảo, quyết tâm khởi lên, cầm lấy cái cuốc, chí thú, tinh cần...; thời gian sau, anh ta có đủ gạo ăn! Tâu đại vương! Người nông dân này cho ta một ví dụ về sự đắc quả chậm, người nông dân trước cho ta ví dụ về sự đắc quả nhanh; nhưng ai cũng phải trải qua thời gian khởi tâm, quyết tâm, chí thú, tinh cần cày bừa và gieo hạt. Có gạo ăn được ví cho Nippapanca, các công đoạn làm ruộng thì ví cho sự học và hành tuần tư, thứ lớp, tinh tấn mỗi ngày một ít, tâu đại vương!
- Vâng, thế đại đức còn ví dụ nào nữa không?
- Tâu, vâng. Ví như có hai người đi vào rừng để kiếm trái cây. Một người gan dạ dũng cảm, có trí. Một người nhác nhớm, lề mề, chậm chạp, không có gan lại thiếu trí. Người đầu tiên nhanh tay nhanh mắt, xông xáo tìm ra một cây nhiều trái ngon; bèn xắn gọn quần áo, lựa thế leo lên. Thế là anh ta hái được rất nhiều trái cây. Người thứ hai rất lâu sau mới tìm được cây có trái, thấy cây cao và thân cây to quá, anh ta sợ hãi không dám leo. Sau một hồi suy nghĩ bèn chặt cây rừng làm thang, bắt thang vào khi ấy mới leo lên được. Thế là anh ta cũng hái được trái nhưng mất thời gian hơn anh thứ nhất rất nhiều. Phàm việc tu hành, đắc quả nhanh chậm cũng y như thế. Người có trí, nhậm lẹ, chịu khó, có sức mạnh nội tâm, tinh cần, nhiều nỗ lực bao giờ cũng đắc quả sớm hơn người thiểu trí, người yếu đuối, đầy mặc cảm sợ hãi, thiếu tinh cần, chuyên niệm, thiếu nỗ lực huân tu, tâu đại vướng!
- Vâng, trẫm rõ rồi.
- Lại nữa, ví như hai người cùng làm một việc giống nhau. Một người tự nguyện làm, hiểu công việc của mình. Một người thiếu tự nguyện, không biết rõ công việc của mình, nên phải được nhắc nhở, khuyên bảo; đôi khi phải cho họ bạc tiền, lắm lúc còn la mắng, đánh đập, kẻ kia mới thành tựu công việc được, nhưng lại chậm hơn rất nhiều. Tương tự như thế, kẻ có căn cơ Nippapanca và kẻ có căn cơ anavajja - tuần tự thứ lớp - giống như những ví dụ trên, không hai, không khác.
- Cảm ơn đại đức.
* * *
142. Về cư sĩ A-la-hán
- Thưa đại đức! Dường như đại đức có nói với trẫm rằng, một vị cư sĩ đắc quả A-la-hán trong ngày nào thì phải xuất gia ngay trong ngày ấy; nếu trong ngày ấy [*], vì một lý do nào đó mà không xuất gia được, thì vị ấy bắt buộc phải nhập Niết bàn. Điều ấy có đúng thế không ạ?
[*] Đôi nơi bảo là một tuần lễ.
- Tâu đại vương! Hoàn toàn đúng như vậy.
- Họ có thể tự cạo bỏ râu tóc, mặc y cà sa, nghĩa là tự tu lấy; hay là phải cần có thầy tiếp dẫn, thầy hòa thượng tế độ, chứng minh?
- Không thể tự ý được, mà phải có thầy, tâu đại vương! Tự tu là trộm phẩm mạo, tăng tướng, cách tu ấy không có mặt trong giáo pháp của Đức Tôn sư!
- Thế có nghĩa là sau khi người cư sĩ đắc quả, các vị thầy tiếp dẫn, tế độ là những bậc có thần thông, tức khắc hiện đến và làm lễ xuất gia ngay cho người cư sĩ ấy chăng?
- Có thể có trường hợp ấy, tâu đại vương!
- Giả dụ họ đến muộn một, hai ngày không được sao?
- Dĩ nhiên là không được! Chính vị cư sĩ đắc quả phải đi tìm vị thầy tế độ cho mình ở trong vùng, ở trong trú xứ ấy. Nếu tìm không ra, đến lúc mặt trời lặn của ngày ấy, vị cư sĩ phải nhập Niết bàn.
- Đã đắc quả rồi mà tại sao còn nôn nóng chấm dứt sinh mạng như thế? Hay có lý do bí ẩn nào chăng?
- Tâu đại vương! Chẳng phải do nôn nóng, cũng chẳng phải có lý do bí ẩn nào. Phẩm mạo cư sĩ thấp thỏi quá, thật không xứng đáng với quả vị A-la-hán mà người ấy đã đắc, do vậy phải thay đổi phẩm mạo xúất gia. Chính phẩm mạo xuất gia mới tương ứng, xứng đáng với quả vị A-la-hán.
- Về lý do thì tạm thời trẫm chấp nhận kiến giải của đại đức, nhưng nếu có những ví dụ cụ thể để chứng minh, có lẽ dễ thuyết phục trẫm hơn, thưa đại đức.
- Vâng, bần tăng sẽ đưa ví dụ. Ví như có người vào buổi đói kém chẳng có vật thực để nuôi mạng, phải nhịn đói lâu ngày. Hôm kia có vị bá hộ thương tình cho người ấy ăn thỏa thích những món ăn thượng vị. Do không biết tiết độ, người ấy ăn một bụng căng, chất lửa không có đủ để tiêu hóa, cơ thể nhịn đói lâu ngày không chịu đựng nổi, người ấy bội thực mà chết. Tâu đại vương! Trường hợp ấy có nên bắt tội "vật thực" không?
- Vật thực không có tội gì, thưa đại đức!
- Thế sự chấm dứt sanh mạng của người kia là do nguyên nhân nào?
- Thưa, do nhịn đói lâu ngày, cơ thể quá suy yếu, không đủ lửa để tiêu hóa.
- Cũng vậy, tâu đại vương! Phẩm mạo cư sĩ tại gia quá suy yếu, quá thấp thỏi, thật không đủ sức tiêu hóa món ăn thượng vị - là quả vị A-la-hán tối thượng - nên bắt buộc người ấy phải xuất gia; nếu không xuất gia kịp thời, phải chấm dứt mạng sống bằng cách nhập Niết bàn thôi.
- Hay lắm! Ví dụ ấy có hình ảnh cụ thể, dễ nắm bắt lý nghĩa hơn.
- Ví như một lùm cỏ nhỏ, thật không đủ sức chịu đựng nổi một tảng đá lớn dằn lên trên.
- Vâng!
- Quả vị A-la-hán là tảng đá mà phẩm mạo cư sĩ chỉ là lùm cỏ nhỏ.
- Trẫm đã hiểu.
- Ví như một người bần tiện, hạ liệt, ngu si, mà người ta đặt để cho y một quả lớn - ngôi vua chí tôn chẳng hạn - thì sẽ xảy ra chuyện gì hở đại vương?
- Thưa, không khốn đốn, nguy hại đến cho y thì thế gian cũng loạn lạc. Không phát sinh lo âu, sợ hãi... thì kẻ khác cũng giết y, chấm dứt mạng sống của y để chiếm ngôi. Thiếu đức, thiếu tài, thiếu phước mà an ngự ở địa vị quá lớn là mầm mống của họa hại, diệt vong... thôi, thưa đại đức!
- Không phải lỗi do vương vị chứ?
- Vương vị không có tội gì! Chỉ tội do kẻ không xứng đáng với vương vị!
- Cũng thế, tâu đại vương! Quả A-la-hán không có tội gì, chỉ tội cho phẩm mạo cư sĩ không tương xứng, không xứng đáng với quả vị A-la-hán đó thôi!
- Hay lắm!
- Chính phẩm mạo xuất gia như kẻ có đức, có trí, có tài, nhiều phước báu, mới xứng đáng với quả vị A-la-hán. Phẩm mạo xuất gia có thể được ví như một bảo cái lớn rộng, có khả năng che chở cho quả vị A-la-hán, tâu đại vương!
- Sàdhu, lành thay! Thật chẳng có chỗ nào để mà hoài nghi nữa.
* * *
143. Tại sao bồ tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ?
- Thưa đại đức Na-tiên! Có lần Đức Thế Tôn thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Vào thời quá khứ, Như Lai hành trì ba-la-mật không mệt mỏi, luôn luôn tinh cần, nỗ lực để bổ khuyết ba-la-mật cho chính mình. Một kiếp nọ, dù năng lực ba-la-mật của Như Lai còn non yếu, còn khiếm khuyết, đấy là kiếp làm người có tên là Avihe Dhaka - nhưng Như Lai cũng đã không lấn hiếp, đe dọa hoặc cướp đoạt mạng sống của bất cứ chúng sanh nào." Lời tuyên bố ấy của Đức Đạo Sư có đúng chăng, đại đức?
- Đại vương có trí nhớ rất tốt.
- Không dám. Bồ tát kiếp làm người có tên là Avihe Dhaka, tuy ba-la-mật còn non yếu, lại không hề giết một sanh mạng nào; nhưng sau đó, nhiều kiếp về sau, dĩ nhiên là ba-la-mật sung mãn hơn, lại đang tâm giết rất nhiều sanh mạng để cúng dường đại tế, là nghĩa làm sao, thưa đại đức?
- Xin đại vương nói cho rõ hơn.
- Vâng, đấy là kiếp bồ tát làm vị đạo sĩ tên là Loma Kassapa. Đạo sĩ vì nghe lời nàng Cinda Vatì đã giết hại rất nhiều chúng hữu tình dùng cho việc tế lễ. Điều này chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng, lời Đức Thế Tôn không như một. Đã không như một lại phơi bày sự thật hiển nhiên, rằng là, ba-la-mật ít lại không sát sanh, ba-la-mật nhiều lại sát sanh? Sự mâu thuẫn không thể lý giải này làm cho người học Phật đời sau như rơi vào mê lộ tối tăm, chẳng tìm đâu ra ánh sáng nữa. Mong đại đức chỉ giáo cho.
Đại đức Na tiên chợt mỉm cười:
- Câu hỏi của đại vương như một cái thòng lọng, nhúc nhích một cái là bị siết chặt vào cổ ngay! Hay lắm, chúng ta sẽ cố gỡ xem sao.
- Tất cả chỉ nhờ vào trí tuệ của đại đức.
- Không dám, bần tăng sẽ cố gắng cùng với đại vương xem thử lý do nó nằm ở đâu. Chắc đại vương biết rõ là bồ tát Loma Kassapa thuở ấy chưa đắc quả Thánh chứ?
- Dĩ nhiên là chưa đắc.
- Thế có nghĩa là vẫn còn dục ái chứ?
- Vâng.
- Và dục ái thì cho chí bậc thánh Tu-đà-huờn, Tu-đà-hàm vẫn còn bị chi phối, đến bậc thánh A-na-hàm dục ái mới hoàn toàn yên lặng.
- Vâng.
- Thế thì bồ tát Loma Kassapa bị dục ái chi phối mà sát sanh thì cũng là chuyện không lạ lùng lắm. Năng lực của dục ái, luyến ái đến độ cường liệt thì nó che mờ tất cả mọi thiện pháp, làm nguội tắt tất cả năng lực ba-la-mật! Vì yêu nàng Cinda Vatì, vì luyến ái, mê đắm nàng Cinda Vatì mà bồ tát Loma Kassapa đã phạm tội sát sanh, tâu đại vương!
- Trẫm nghe rằng, sát sanh có tám lý do:
Sát sanh do năng lực dâm dục; Sát sanh do sân hận; Sát sanh do si mê; Sát sanh do ngã chấp; Sát sanh do tham lam; Sát sanh do nuôi mạng; Sát sanh do ngu si, không có trí tuệ, không thấy tội, phước, lợi, hại v.v...; Sát sanh do các quy luật tự nhiên.
Vậy thì bồ tát Loma Kassapa sát sanh là do một trong tám lý do thông thường ấy chăng?
- Nó là một trong tám lý do ấy nhưng cũng ở ngoài tám lý do ấy!
- Tại sao?
- Tâu, cũng là luyến ái nhưng luyến ái ấy quá cường liệt, quá mạnh mẽ đã che mờ hết tâm trí; hành động do năng lực luyến ái ấy chẳng khác gì hành động của người điên, tâu đại vương!
- Xin đại đức giải thích cho trẫm nghe.
- Vâng. Một người điên thì có dẫm chân lên một đống than đỏ rực cũng không sợ hãi, bắt rắn độc bỏ lên tay cũng không ngán, dù gặp voi sổ mạch (voi động dục) hung dữ hắn ta cũng có thể liều mạng bắt cỡi được. Biển cả sâu và lớn rộng không thấy mé bờ, người mất trí ấy cũng có thể nhảy ùm xuống và lội qua. Đối với các loại thú dữ như cọp, beo, tê giác, trâu rừng v.v..., y cũng có thể đến gần đùa chơi mà không sợ nguy hiểm. Cả một rừng cây gai chằng chịt hắn cũng có thể ung dung đi vào! Nói tóm lại, người điên chẳng sợ núi cao, vực sâu; chẳng hề thấy vật đáng nhờm gớm; chẳng hề biết mắc cở, hổ thẹn khi trần truồng trước mắt mọi người. Việc gì y cũng có thể làm được. Trong đầu người điên không có chuyện thiện ác, phải trái, an nguy, lạnh nóng, khôn dại, đúng sai, xấu đẹp, được mất, hơn thua, khen chê v.v...
Đạo sĩ Loma Kassapa của chúng ta khi thấy sắc thân nàng Cinda Vatì, tâm luyến ái phát sanh, lửa dục thiêu đốt; nên hành động của vị ấy chẳng khác gì hành động của người điên, tâu đại vương! Vậy đối với người điên hư hỏng tâm tính, đánh mất nhân cách; nếu có hành động nào sái quấy xâm phạm đến pháp luật quốc gia, đại vương sẽ xử tội như thế nào?
- Thưa đại đức, người điên nếu phạm tội tử hình, luật pháp của trẫm cũng không thể giết được. Dẫu phạm tội nặng thế nào, vì an nguy cho mọi người xung quanh, trẫm cũng chỉ bắt trói hoặc nhốt y lại là cùng.
- Đại vương không ghép vào tội tử hình, chỉ bắt trói hoặc nhốt lại thôi! Nhưng sau đó? Giả dụ người điên kia tỉnh lại thì đại vương làm sao nhỉ?
- Thì phải thả người ta ra.
- Thế đại vương có xét lại những tội lỗi mà y đã làm từ trước?
- Thưa, không thể xét lại được, hoàn toàn tha bổng.
Đại đức Na-tiên chậm rãi nói:
- Trường hợp đạo sĩ Loma Kassapa cũng y như thế đó, tâu đại vương! Khi lửa dục thiêu đốt, đạo sĩ làm những điều sai lầm, càn quấy giết hại loài hữu tình do năng lực nàng Cinda Vatì xúi giục. Đại vương không bắt tội người điên như thế nào thì cũng không nên luận tội đạo sĩ Loma Kassapa theo lý giải thường tình. Người điên sau khi hết điên, đại vương tha bổng, cho người ấy trở lại đời sống bình thường. Tương tự thế, đạo sĩ Loma Kassapa sau khi " hết điên", có "trí nhớ" trở lại, "tỉnh táo" trở lại; đã trở về với sinh hoạt tâm linh bình thương, đã tiến tu, đã đắc thiền và đắc ngũ thông, hết tuổi thọ được sanh vào cõi Phạm thiên.
- Ồ! hy hữu vậy thay!
- Người điên khôngthể luận phải trái, thiện ác, đúng sai... như thế nào, thì đạo sĩ Loma Kassapa khi bị lửa dục thiêu đốt, cũng không thể luận ba-la-mật non hay già, tâm từ ít hay nhiều, sát hay không sát...; chỉ coi là sự đột khởi điên loạn nhất thời, chẳng thể xác định phẩm hạnh hoặc tư cách trọn vẹn của một con người được.
- Vâng, vâng!
- Hãy dùng tuệ giác mà ngắm nhìn vấn đề, đại vương! Dùng đạo đức, luân lý của thế gian hay tôn giáo mà nhìn ngắm vấn đề sẽ đưa đến cục bộ, giới hạn. Dùng tuệ giác mà soi chiếu, đại vương sẽ tỏ tường, thông suốt, xuyên thấu vấn đề hơn, tâu đại vương!
- Thật là tri ân đại đức!
* * *
144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa - mà bồ-tát Jotipàla lại nhiếc mắng "sa môn trọc đầu"?
- Đại đức chắc nhớ chuyện voi chúa Chaddanta, là tiền thân của Đức Phật Thích Ca chứ?
- Đấy là chủ đề "cung kính y cà sa" mà đại vương sẽ nói chuyện hôm nay?
- Vâng.
- Vậy thì xin đại vương hoan hỷ kể chi tiết câu chuyện cho nghe, bần tăng chỉ nhớ đại lược.
- Cung kính chẳng bằng tuân mệnh, trẫm sẽ kể đây:
Bồ tát của chúng ta, một kiếp kia sinh làm Tượng vương, có tên là Chaddanta, ngài là voi chúa cai quản một đàn voi, thường gặp những sa môn mặc y cà sa đang hành thiền định hoặc lui tới trong khu rừng. Thấy màu vàng của y cà sa, tượng vương Chaddanta với trí nhớ tiền kiếp, biết đây là những bậc tu hành cao thượng nên hết sức cung kính. Tượng vương Chaddanta dạy bảo đàn voi, theo gương mình, quỳ xuống đảnh lễ.
Ngày qua tháng lại, có người thợ săn theo dấu đàn voi để săn ngà, thấy voi chúa và cả đàn voi cung kính lễ bái những vị sa môn mặc y cà sa vàng. Mưu kế nảy sinh, người thợ săn kiếm vải nhuộm vàng bằng nước chát, trùm lên người giả làm sa môn rồi tập ngồi thiền định dưới một cội cây to.
Hôm nọ, voi chúa và đàn voi đi qua, thấy vị "sa môn", đồng quỳ xuống đảnh lễ rất cung kính, cúi đầu, thụt lùi mấy bước mới tiếp tục lộ trình. Khi cả đàn voi đi khuất, chỉ còn con voi chậm chạp sau cùng; người thợ săn tay nhanh như điện, lấy ngọn giáo sắt, tẩm độc cực mạnh đâm chết con voi, thiêu hủy thịt, lấy ngà đem bán. Hành động ấy của gã thợ săn kéo dài chưa được bao lâu thì voi chúa đã khởi tâm nghi ngờ: "Dường như có sự thiếu vắng của một số con voi quen thuộc? Vậy thì một số voi đã mất, bị giết hại ở đâu và do đâu? Trên lộ trình kiếm tìm thức ăn, sự nguy hiểm có thể xảy ra tại nơi nào? Chỗ kiếm tìm thức ăn không có, những chỗ bước đi không có! Vậy thì phải bắt đầu từ chỗ quỳ xuống đảnh lễ các vị sa môn rồi bước đi! Sự nguy hiểm phải được quan sát từ đó!"
Sau khi suy nghĩ chu đáo, buổi sớm, tượng vương cho cả đàn voi đi trước, mình đi sau cùng. Trên đường đi, gặp sa môn y cà sa màu vàng, voi chúa và đàn voi đều quỳ xuống cung kính đảnh lễ như mọi hôm, nhưng không có gì xảy ra. Đến chỗ "sa môn" giả dạng, sau khi đảnh lễ, voi chúa cảnh giác đi sau cùng. Thấy voi chúa với sáu chiếc ngà vàng to lớn, thợ săn rất sung sướng nghĩ mình sắp giàu có đến nơi. Với động tác quen thuộc và rất chính xác, gã thợ săn nhích tay lao ngọn sắt tẩm độc ra. Lạ lùng làm sao, y đã nhanh mà chiếc vòi của voi chúa còn nhanh hơn. Khi mũi giáo vừa thò ra khỏi chiếc y màu vàng thì trọn vẹn thân thể và hai tay của tên thợ săn đã bị vòi voi quấn chặt rồi nhấc lên cao!
Giữa sát na ấy, khi voi chúa định quật nát thân thể gã thợ săn, màu vàng của chiếc y đã làm cho tâm của voi chúa chùn lại. Voi chúa nghĩ: "Y cà sa màu vàng là lá cờ chiến thắng, quý báu, cao thượng của chư vị A-la-hán, chư vị Chánh Đẳng Giác! Tuyệt đối ta không thể xâm phạm. Dẫu tên thợ săn này đã có tâm ác độc, đã giết hại đồng loại của ta, nhưng tội y làm thì y sẽ lãnh chịu. Một ngàn lần sanh mạng của ta dầu bị phanh thây, chặt đầu..., ta cũng không dám đụng chạm đến chiếc y cà sa màu vàng linh thiêng ấy."
Ý nghĩ đi liền theo hành động, voi chúa thay vì quật nát tên thợ săn, đã nhẹ nhàng đặt y xuống, thò vòi lấy ngọn giáo sắt bẻ vụn, quăng ra xa. Voi chúa nhìn tên thợ săn đang co rúm, da mặt tái xanh đầy sợ hãi, bằng cái nhìn nghiêm khắc, rống to một tiếng đầy uy vũ, vang động cả rừng già rồi bỏ đi!
Chuyện voi chúa cung kính y cà sa là vậy đó, tâu đại đức. Khi kể, trẫm có thêm bớt một tí cho nó liền lạc câu chuyện.
Nghe xong, đại đức Na-tiên nói với giọng cảm khái:
- Thật là một bài thơ đẹp và hùng tráng biết bao!
- Quả là vậy! Nghĩa cử ấy thật là tuyệt vời!
- Tâu, từ câu chuyện ấy, đại vương sẽ dẫn đến nội dung gì?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Vâng! Cũng là bồ tát mà kiếp ấy voi chúa kính trọng y cà sa, kính trọng phẩm mạo xuất gia của các bậc sa môn; nhưng kiếp khác, khi làm thanh niên bà-la-môn, có tên là Jotipàla, lại nói lời thô bỉ xâm phạm đến Đức Phật Kassapa, như nguyền rủa Đức Phật Kassapa là "sa môn đầu trọc". Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ hai khía cạnh và hai ý nghĩa khác nhau, chỗ thì tôn trọng, chỗ thì phỉ báng trong hai tiền thân của Đức Phật. Xin đại đức giải minh mối nghi cho!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Vâng, nhưng xin đại vương vui lòng cho bần tăng nghe câu chuyện "sa môn đầu trọc" ấy chứ? Ít ra cũng có hoàn cảnh, bối cảnh như thế nào? Nhân và quả của sự việc như thế nào chứ?
- Vâng, trẫm sẽ kể đây:
Thuở Đức Phật Kassapa tại thế, ngài có một Thánh đệ tử cư sĩ làm nghề thợ gốm. Ông ta có đức tin bất động với Tam Bảo, thường hay cúng dường đến Đức Phật Kassapa và Tăng chúng. Ông ta cũng thường hay dẫn dắt ngoại đạo đến nghe Pháp, quy y với Đức Phật. Trong số ấy có thanh niên Jotipàla, là một thanh niên có học thức, có trí nhưng cứng đầu. Không biết bao nhiêu lần, người thợ gốm tìm cách dẫn thanh niên Jotipàla đi nghe thuyết pháp, nhưng thanh niên ấy đều từ chối, nói rằng: "Đến sa môn trọc đầu xấu xa ấy mà làm gì, ta không đi."
Hôm kia, rủ bạn đi tắm sông, gần tịnh xá của Đức Phật Kassapa; người thợ gốm lựa thế nắm chỏm tóc của thanh niên Jotipàla, kéo và lôi bằng sức mạnh, buộc Jotipàla đến chỗ Đức Phật nghe pháp cho bằng được. Thanh niên Jotipàla, ban đầu, chưởi toáng lên, luôn miệng phỉ báng "sa môn đầu trọc" và người bạn thợ gốm; nhưng sau đó, y chợt tỉnh: "Bạn ta vốn là người từ tốn, ôn nhu, đức hạnh; chưa bao giờ bạn ta có lời nói hay hành động thất lễ với một đứa con nít, mà sao bây giờ lại tỏ thái độ như vậy đối với ta? Lại nữa, bạn ta biết rõ ta là dòng dõi bà-la-môn cao quý, thượng đẳng; còn bạn ta thuộc vào giai cấp thợ thuyền, hạ liệt? Chắc phải có lý do gì bức thiết, quan trọng, bạn ta mới nắm chỏm tóc ta, kéo và lôi bằng sức mạnh, vô lễ đối với ta như vậy."
Thưa đại đức! Đấy là câu chuyện, là lý do, là bối cảnh phát sanh từ lời phỉ báng. Như vậy chứng tỏ gì? Chứng tỏ những câu nói rải rác trong kinh điển: "Hễ vị bồ tát sinh trong kiếp nào cũng đều cung kính Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng"... là sai! Câu chuyện kia quả là một minh chứng hùng hồn vậy.
- Đại vương kết luận hơi sớm. Câu chuyện thanh niên Jotipàla dường như chưa chấm dứt mà.
- Vâng. Sau khi nghe pháp xong, trí tuệ phát sanh, thanh niên Jotipàla quay sang bạn, cất giọng ngạc nhiên: "Với những thời pháp cao siêu, vi diệu như thế này, tôi không hiểu tại sao, cho đến bây giờ bạn chưa xuất gia trong giáo pháp của Đức Đạo Sư!" Rồi sau đó thanh niên Jotipàla xuất gia, không bao lâu, đắc thiền và thắng trí, cuối đời, mãn thọ, hóa sanh vào phạm thiên giới.
Đại đức Na-tiên chợt nói:
- Như vậy, chứng tỏ gì? Chứng tỏ từ thâm sâu, thanh niên Jotipàla đã có sẵn căn cơ vững chắc, có đức tin, sự kính trọng Tam Bảo không chỉ ở bình diện cạn cợt của năm bảy kiếp sống. Còn sự phỉ báng ở đầu môi, như "sa môn đầu trọc, xấu xa đê tiện v.v..." thì còn phải xét ở thói quen, sự tạp nhiễm, truyền thống gia tộc, phương cách giáo dục...; nghĩa là trong bối cảnh toàn diện mà thanh niên Jotipàla đang sống, khi ấy may ra mới đủ thẩm quyền xác định tư cách trọn vẹn của một con người. Tâu đại vương! Đại vương đã có cái nhãn quan tổng thể ấy chưa?
Đức vua Mi-lan-đà cảm thán:
- Đại đức quả là thông tuệ, mở rộng tầm nhìn cho trẫm. Tuy nhiên, lập ngôn của đại đức quá cô đọng, hãy từ từ mở phơi vấn đề cho trẫm thấy, thì trẫm cảm ơn lắm vậy!
- Thật là hân hạnh khi được bậc chí tôn tán thán. Bần tăng xin mạo muội đưa ra vài câu hỏi, đại vương hiểu như thế nào thì xin đáp cho thế ấy.
- Thưa, vâng!
- Một gia đình bà-la-môn giàu có, sang trọng như gia đình thanh niên Jotipàla thời đó, sẽ nói về giòng giống của mình, sẽ dạy cho con cái của họ như thế nào?
- Thưa, sẽ nói rằng, họ là chủng tộc cao quý, thượng đẳng, sanh ra từ miệng đấng Phạm thiên; là người cầm muỗng trong các chiếu tiệc tùng, là con mắt sáng của thế gian; là tập cấp tôn quý đứng đầu xã hội, cho chí giai cấp quý tộc, vua chúa cũng phải cúi đầu, cung kính, lễ bái, cúng dường. Các tập cấp trong xã hội phải có bổn phận cung phụng tất cả mọi nhu cầu ăn ở cùng tiện nghi sinh hoạt. Họ là trí tuệ, là tri thức của loài người; chỉ có họ mới đủ tư cách thiêng liêng nói chuyện, trao đổi với thần linh v.v...
Với truyền thống như thế, với sự giáo dục như thế, thanh niên Jotipàla hít thở, ăn nói, đi đứng... mang sự hãnh diện và tự hào của một tập cấp cao quý lâu đời. Vậy thì từ cửa miệng của thanh niên Jotipàla, khinh chê tập cấp khác, hoặc phát ngôn câu "sa môn đầu trọc, xấu xa, đê tiện" là lời phát ngôn bình thường hay do ác khẩu, ác ngữ?
Đức vua Mi-lan-đà có vẻ suy nghĩ mới đáp:
- Nói rằng "ác khẩu, ác ngữ" thì hơi vội quy kết, võ đoán. Có lẽ là do thói quen, tự hào của tập cấp mình mà sinh ra thế!
- Vậy là đại vương đã tự trả lời. Cái tâm của Jotipàla có lẽ không do định kiến sâu dày, không do ác kiến, chỉ là sự phát ngôn bừa bãi ở bên ngoài mà thôi.
- Vâng!
- Nước của trái amata vốn ngọt, nhưng nếu trộn với nước rau má nhiều, nước ngọt kia sẽ trở nên đắng. Nước rau má đắng, nhưng nếu trộn nhiều nước amata ngọt, nước đắng kia sẽ trở thành ngọt. Thanh niên Jotipàla bản chất tốt, hạt giống Bồ đề lâu đời ở trong tâm, nhưng một mình sống giữa tập cấp bà-la-môn, sự lây nhiễm hoặc mất cả mùi vị cũng là điều dĩ nhiên vậy.
- Vâng!
- Nước nhiều, lửa phải thua nước. Lửa nhiều, nước phải thua lửa.
- Vâng!
- Người có tâm lành, nhưng thường hay thân cận, giao tiếp quá nhiều với bạn ác, thì tâm lành, tốt kia lần hồi sẽ bị biến chất. Người có tâm ác, nhưng bạn bè, gia đình, quyến thuộc đều là người hiền lương, thì không bao lâu, kẻ có tâm ác kia sẽ được cảm hóa.
- Thưa, vâng!
- Thanh niên Jotipàla dẫu tu tập nhiều đời, nhưng trí tuệ chưa già dặn, chàng lại còn non trẻ; nói năng đi đứng, hiểu biết... đều bị uốn nắn theo đức tin của ngoại giáo, tà kiến. Chúng ta có thể nào quy chụp thanh niên Jotipàla là ác khẩu, ác ngữ, sân tâm, ác tâm, nói lời thô bỉ, mạ lỵ với định kiến sâu dày được chăng?
- Thật không thể.
- Khi thanh niên Jotipàla còn một mình, nghe pháp, chàng tức khắc xuất gia, như vậy chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng trái amata ngọt đã trở lại nguyên trạng trái amata ngọt; chàng đã trở lại với căn cơ, tâm tuệ vốn có sẵn từ nhiều kiếp trước.
- Vâng!
- Đến đây ta có thể kết luận rằng: tự thâm sâu, chàng Jotipàla vẫn cung kính, tôn trọng Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, được không hở đại vương?
- Kết luận ấy không hời hợt, không vội vã, không nông cạn chút nào!
- Cảm ơn đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà sảng khoái, cười ha hả.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:53:00 GMT -5
145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm?
- Thưa đại đức! Chuyện của người thợ gốm, Thánh đệ tử cư sĩ của Đức Phật Kassapa vẫn chưa xong ạ!
- Đại vương cứ hỏi! Chẳng lẽ đại vương có những hoài nghi nào đó liên quan đến vị Thánh cư sĩ này chăng?
- Thưa, vâng!
- Chuyện ấy ra sao, đại vương cứ kể ra và cứ đặt câu hỏi, hy vọng rằng bần tăng sẽ góp được một vài ý kiến chăng!
Đức vua Mi-lan-đà bắt đầu kể:
- Trẫm có nhớ rằng, người thợ gốm có tên là Ghàtikàra, sống đời cư sĩ nhưng giữ giới luật của bậc Thánh. Vị ấy tuy làm thợ gốm nhưng không dám tự tay đào đất lấy sét vàng, sét trắng. Vị ấy đã phải bỏ nhiều thời gian đi từ cánh đồng này sang cánh đồng khác tìm những hang, những lỗ do chuột, chồn, cáo đào, bới vương vãi ra. Vị ấy chỉ dùng loại đất sét ấy về lọc mịn, nhồi, nắn thành thau, chậu, nồi, chén, bát... rồi đặt vào lò nung, sau đó đem bán cho mọi người. Vì giữ giới luật của bậc thánh, vị ấy không nhận tiền, vàng, bạc hoặc cất giữ tiền, vàng và bạc; chỉ nhận và trao đổi theo giá trị của mặt hàng để lấy ngũ cốc, rau cải, muối, vải vóc v.v... Bằng cách sống và làm việc như vậy, vị ấy nuôi mình, nuôi cha mẹ mù lòa cùng hộ độ Đức Phật Kasspa và Tăng chúng. Đặc biệt, vị Thánh cư sĩ luôn đặt bát cho Đức Phật Kassapa vào mỗi buổi sáng.
Hôm kia, vì công việc đi tìm đất sét khó khăn, xa xôi, vị Thánh cư sĩ phải đi rất sớm. Từ khi sao mai còn tinh rạng trên bầu trời, vị Thánh cư sĩ đã lo cơm canh và nước uống cho cha mẹ, lại còn chuẩn bị chu đáo phần để bát cho Đức Phật theo lệ thường.
Vị Thánh Ghàtikàra dặn lại với cha mẹ mù lòa:
- Thưa cha mẹ! Sáng nay con không thể tự tay đặt bát cho Đức Thế Tôn, thật là có lỗi, nhưng con tin là Đức Thế Tôn hiểu lòng dạ của con. Vậy thì khi cha mẹ nghe tiếng "đằng hắng" ở nơi cửa - nhất định đấy là Đức Phật - thì cha mẹ sẽ thưa lại với ngài như sau: "Bạch Đức Thế Tôn! Con trai của con đã đi vắng, nhưng đứa con trai của con vẫn mong muốn cúng dường vật thực vào mỗi buổi sáng. Vậy xin Đức Thế Tôn hoan hỷ, hãy tự ý đi vào bếp; thức ăn khô, thức ăn nước, con của con đã đậy đằng sẵn ở trong cũi, cơm trộn sữa, con của con đang để sẵn ở trong chảo."
Và quả đúng, sau đó, chuyện xảy ra y như vậy. Đức Thế Tôn Kassapa chẳng chấp nhất gì, đi vào bếp và tự tay đổ cơm và canh vào bát cho mình. Người cư sĩ thánh thiện cùng cha mẹ mù lòa của vị ấy sung sướng, hỷ lạc vô cùng.
Lại hôm khác, mưa xuống, tịnh thất của Đức Phật bị dột rất nặng, chẳng có chỗ nào khô ráo để Đức Thế Tôn an ngự. Ngài nói: "Này chư tỳ kheo! Hãy đi tìm tranh hoặc cỏ để lợp lại cốc cho Như Lai. Hãy đến nhà cư sĩ Ghàtikàra xem sao!" Khi các vị tì kheo đi về, Đức Phật hỏi: "Thế nào, ở đấy có tranh hoặc cỏ không?" Chư tỳ kheo thưa: "Dạ có, nhưng nó ở trên mái!" Đức Thế Tôn phán: "Cứ có tranh là được, bất kỳ ở đâu, hãy lấy tranh ấy về!"
Vâng lời Đức Phật, chư tỳ kheo đến nhà cư sĩ Ghàtikàra, leo lên mái và gỡ tranh ra. Hôm ấy, cư sĩ đi vắng. Cha mẹ mù lòa của ngài cư sĩ, nghe tiếng người xôn xao, với tiếng tranh bị gỡ ở trên mái, bèn ngạc nhiên hỏi: "Các người là ai?" "Thưa, chúng tôi là tỳ kheo!" "Các vị làm gì vậy?!" "Thưa, cái cốc của Đức Thế Tôn bị mưa dột, chúng tôi gỡ tranh này về lợp lại cái cốc cho Đức Thế Tôn!"
Cha mẹ mù lòa của cư sĩ Ghàtikàra nghe vậy, hỷ lạc dâng khắp đầy người, rối rít nói: "Vậy là tốt, vậy là có phước báu lắm, vậy các ngài hãy gỡ đi, cứ gỡ hết đi, về lợp lại tịnh thất cho Đức Thế Tôn".
Người cư sĩ thánh thiện đi công việc về, thấy nhà trống không, chẳng có mái che, bèn hỏi: "Tại sao cái nhà toang hoác, thấy trời vậy, thưa cha mẹ?" Cha mẹ cư sĩ kể lại. Thế là hỷ lạc dâng khắp đầy trong tâm vị cư sĩ suốt một tuần mới chịu tan đi.
Câu chuyện kể đến ngang đây, Đức vua Mi lan đà ngưng hơi nghỉ một lát. Đại đức Na tiên tiếp lời:
- Thế là bắt đầu hôm ấy, cái mái nhà trống không ấy của ngài cư sĩ, mưa nắng gì cũng không lọt vào được, suốt ba tháng như thế?
Đức vua gật:
- Đúng vậy. Và các vấn đề, những mối nghi cũng bắt đầu từ đấy.
- Đại vương cứ nói!
- Nước mưa hoặc nắng không thể lọt vào nhà suốt trong ba tháng hẳn là điều phi thường, nhiệm mầu, lạ lùng! Ôi! oai lực của vị cư sĩ kia quả là to lớn! Cũng phải thôi! Người cư sĩ kia có ngũ giới trọn vẹn, có bát quan trai giới tuyệt hảo, lại còn có thêm giới luật của bậc thánh. Ngoài ra, ông ta có thiện căn sâu dày, hiếu thảo phụng sự nuôi dưỡng cha mẹ mù lòa, hộ độ Đức Phật và Tăng chúng, có đức tin trong sạch, bất thối với Tam Bảo, với thiện pháp... Người như thế thì phước báu như thế. Nhân như vậy thì quả phải thù thắng. Nhà không phải lợp bằng cỏ tranh bình thường mà rõ ràng là được lợp bởi giới, bởi đức tin thuần khuyết, bởi công đức cao vợi, bởi tâm hiếu thảo, bởi sự cúng dường không mệt mỏi! Trên thế gian này chẳng ai có oai lực để so sánh bằng...
- Đại vương cứ nói tiếp.
- Vâng, cho chí Đức Thế Tôn Kassapa cũng chẳng có oai lực được như thế, mưa dột mái phải kiếm tranh lợp lại như mọi người trong thế gian này? Thưa đại đức! Đấy là những câu hỏi của trẫm, những mối nghi của trẫm vậy!
- Nói tóm lại, đại vương muốn hỏi: "Tại sao oai lực của Đức Thế Tôn không bằng oai lực của vị Thánh đệ tử?"
- Vâng, vâng!
- Và, tại sao, Đức Phật Kassapa lại vô ngại đến độ, đi vào bếp nhà người ta, tự ý lấy cơm canh đổ vào bát của mình?
- Vâng, vâng!
Đại đức Na-tiên im lặng giây lát:
- Tâu đại vương! Về oai lực chư Phật thì quả là vô biên giới, vô hạn lượng, vô hạn định, không có mé bờ. Đức Phật là tối thượng trong tam giới, là thầy của chư thiên và nhân loại, không có oai lực nào trên thế gian khả dĩ so sánh với oai lực của ngài được. Cốc của Đức Phật bị dột, thế ra ngài sợ bị dột ư? Ngài sợ nước ư? Không phải thế đâu! Hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn nước ấy; hằng ngàn hằng triệu mưa, nắng, gió ấy... cũng chẳng thể làm gì ngài được đâu! Núi Tu di vẫn bất động trước cơn gió hung bạo, cuồng nộ thổi trăm chiều và cho dù sức mạnh của trăm ngàn cơn gió ấy cọng lại, núi Tu di vẫn không lay chuyển.
Ví như biển cả sâu thẳm và mênh mông, hằng trăm hằng ngàn con sông Hằng tuôn đổ vào, không vì thế mà biển cả đầy hơn. Trái lại, hằng trăm, hằng ngàn con sông Hằng, hằng ngày rò rỉ nước, không vì vậy mà biển cả vơi đi chút nào. Núi Tu di và biển cả được ví như đức lớn của Đức Phật vậy, nó ở ngoài và ở trên mọi oai lực, không có oai lực phi thường nào đụng đến ngài được. Huống hồ là oai lực của vị cư sĩ! Huống hồ là các oai lực của tự nhiên như nắng, mưa, gió, bão... tâu đại vương! Có lẽ là đại vương chỉ giả vờ hỏi khó bần tăng đấy thôi!
- Không dám! Cách giải thích của đại đức như thế đã tạm ổn, tuy chưa có minh chứng cụ thể. Đức Phật nhập diệt lâu rồi, chúng ta chỉ còn thấy oai lực ấy hiện hữu trên ngôn ngữ và lý luận. Ở đấy cần phải có đức tin mới giải tan vấn đề được, phải vậy không, đại đức?
- Đúng thế. Và bần tăng biết, bần tăng có đức tin ấy.
Đức vua Mi lan đà cười xòa:
- Trẫm cũng có, đại đức chớ có lo! Vậy còn mối nghi thứ hai và thứ ba?
- Tâu, việc dâng cúng vật thực thành tựu là do ở tâm, ở tác ý quyết định. Chính Đức Phật Kassapa biết tác ý kính thành, trong sạch của người cư sĩ, nên đã vô ngại đi vào bếp. Nhờ vậy, người cư sĩ và cha mẹ của người cư sĩ sẽ hoan hỷ hơn. Vì hoan hỷ nên phước báu sẽ lớn hơn. Giúp cho chúng sanh nhiều phước báu, tạo thêm duyên cho chúng sanh biểu hiện tấm lòng, tăng trưởng đức tin, không là việc đáng làm sao, hả đại vương!
- Trẫm đồng ý với kiến giải này.
- Việc gỡ mái nhà cũng y như thế. Đức Thế Tôn biết gia đình ấy sẽ sung sướng, hỷ lạc; và niềm hỷ lạc sẽ đến cho họ cả tuần lễ, nên ngài mới làm. Chuyện ấy là thường tình thôi. Ví như đại vương là bậc cao quý, tự đến nhà một bề tôi trung thành, thân tín, là niềm hãnh diện cho người bề tôi ấy. Giả dụ đại vương lấy ở nhà ấy một vật gì, người bề tôi ấy hẳn là sung sướng lắm. Có phải thế không ạ?
- Vâng.
- Có người còn hỏi: "Tại sao Đức Phật không sử dụng oai lực thần thông để che kín mái nhà của mình? Thảng hoặc, sai Đế thích hoặc Tứ đại thiên vương bảo thần mưa, thần nắng đừng có phạm đến mái nhà?" Đại vương có muốn trả lời điều này chăng?
- Thưa, không cần thiết. Thần thông là thế gian pháp, bất đắc dĩ chư Phật mới sử dụng. Khi các câu hỏi ở trên đã thông rồi thì các điều còn lại, trẫm sẽ tự giải nghi cho mình. Làm phiền đại đức vậy là đã quá nhiều. Chư Phật độ người là quan trọng, biểu diễn thần thông phép lạ là việc làm không thích dáng vậy.
- Cảm ơn đại vương đã thông hội vấn đề nhặm lẹ.
- Thưa, cũng thường thôi!
* * *
146. Tại sao có lúc Đức Phật xưng mình là bà-la-môn, có khi xưng mình là vua?
- Thưa đại đức! Bà-la-môn là giai cấp tu sĩ ngoại đạo, tôn thờ thần linh, có gia đình hoặc xuất gia, thuộc về giáo phái tà kiến... có phải thế không ạ?
- Tâu, vâng!
- Thế sao Đức Đạo Sư tối thượng của chúng ta, đôi chỗ lại tự xưng mình là bà-la-môn, ví dụ như ngài nói: "Như Lai là một bà-la-môn, cũng đi trì bình khất thực, xin cơm của thí chủ để nuôi mạng...", điều ấy có đúng chăng? Có cần thiết phải hạ mình như thế chăng? Ngài không ngại thế gian hiểu lầm chăng?
- Tâu đại vương! Đức Phật tự xưng mình là bà-la-môn, điều ấy có thật, chẳng phải là sự hạ mình, chẳng phải là đề cao một giáo phái ngoại đạo. Đấy là cách nói chuyện thân mật, gần gũi của Đức Phật nhằm hóa độ có hiệu quả mọi tầng lớp trong xã hội.
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Khi nói chuyện với người nông dân, Đức Đạo Sư của chúng ta sẽ nói: "Này người nông phu! Như Lai cũng là một nông dân, Như Lai cũng cày, cũng cuốc, cũng bừa, cũng gieo mạ! Cày bừa ấy là đức tin, tinh tấn, gieo mạ ấy là những hạt giống thiện pháp. v.v..." Khi nói chuyện với một thương gia, Đức Thế Tôn sẽ nói: "Này người thương gia, Như Lai cũng là người đi buôn, Như Lai có tiền bạc, Như Lai duỗi ngựa đường xa, Như Lai mua những món hàng chỗ này chỗ kia! Tiền bạc của Như Lai là tín, là giới; ngựa của Như Lai là tinh tấn v.v..."
Đại vương nghĩ thế nào, với cách nói chuyện như vậy, dẫn đề như vậy, sự thuyết phục, hóa độ cụ thể, có dễ dàng, có tạo thêm sức mạnh hay chăng?
- Chắc chắn thế rồi!
- Lại nữa, tâu đại vương! Trường hợp ngài xưng mình là bà-la-môn còn có tính hóa độ sâu sắc hơn thế!
- Trẫm xin rửa tai để lắng nghe.
- Đại vương nên hiểu rằng, bà-la-môn vào thời Đức Phật tại tiền, đã thoái hóa, đã biến chất, đã suy đồi, đã phản bội lý tưởng ngàn xưa của tiền nhân họ. Kinh sách cổ xưa của bà-la-môn nói về giới hạnh, tu tập, thiền định... là để thực hành con đường nhằm có thể đến cọng trú với phạm thiên. Phạm thiên là cảnh giới cao quý, thanh tịnh, chói sáng; nơi đã thoát ly mọi ô nhiễm, cấu uế của ngũ trần dục giới. Đại phạm thiên, vị vua của cõi trời này có rất nhiều oai lực nên bà-la-môn giáo rất ngưỡng vọng, tôn thờ.
Đại vương nên biết rằng, trong tiếng Phạn, phạm thiên là brahmà, và bà-la-môn là brahamano (brahamana). Vậy một brahmano muốn đuợc gọi là một brahmano thì phải thực hành con đường đi đến cõi brahmà; con đường ấy được gọi là brahmacariya, tức phạm hạnh. Chữ "phạm hạnh" mà Đức Phật thường dùng là để chỉ đến giới hạnh cao thượng của hàng ngũ xuất gia.
Tâu đại vương! Vậy một bà-la-môn chơn chính vốn rất cao quý, cao thượng chứ không phải tầm thường đâu. Đức Phật rõ là muốn hóa độ những người bà-la-môn trở về với ý nghĩa bà-la-môn đích thực của mình, chứ không phải bà-la-môn thoái hóa, nhãn hiệu, thiếu thực chất, xa cội nguồn, sống đời lợi dưỡng, xa hoa trong truyền thống tập cấp của họ.
- Hay lắm! Bây giờ trẫm mới được hiểu. Khi Đức Phật nói: "Như Lai cũng là một bà-la-môn..." tức là muốn nói đến bà-la-môn chơn chính ấy.
- Vâng!
- Xin đại đức cho nghe thêm một số đức tính cao thượng của bà-la-môn!
- Như đại vương đã hiểu, một người bà-la-môn xuất gia chơn chính phải lấy việc khất thực làm phương tiện nuôi mạng, không được nuôi mạng bằng buôn bán, các nghề nghiệp, xem thiên văn, địa lý, bói toán, tử vi, bốc xăm, xem hướng nhà... để lấy tiền của thiên hạ. Khi đi khất thực phải giữ tâm bình đẳng, thanh tịnh trước người giàu, kẻ nghèo, vật thực ít hay nhiều, ngon hay dở. Phải chánh niệm, tỉnh giác, khoan thai; nuôi dưỡng tâm từ, tâm xả v.v... Tâu đại vương, đi khất thực nuôi mạng như vậy có được gọi là cao thượng chăng?
- Rất là cao thượng.
- Thứ hai, nếu được gọi là bà-la-môn thì bà-la-môn ấy phải nuôi dưỡng đức tin trong sáng cho mọi người bằng cách sống đời xuất gia phạm hạnh; phải có kiến thức về pháp học để tiêu trừ nạn vấn, nghi nan cho nhiều người. Đức Thế Tôn là bậc thầy trong tam giới, ngài phải phá nghi cho nhân loại, Đế thích, phạm thiên, diêm chúa, dạ xoa, a tu la. v.v...
- Ôi! Cao quý thay!
- Thứ ba, bà-la-môn phải sống đời dứt bỏ, xả ly mọi bất tịnh trần cấu dục uế; phải cô đơn một mình như loài tê giác trên lộ trình ấy, chẳng có ai là bạn, chỉ có mình tự giải quyết vấn đề của chính mình. Đức Thế Tôn cũng chỉ đơn độc một mình, dứt bỏ, xả ly mọi bất tịnh trần cấu của cả ba cõi; giải thoát sanh già bệnh chết, tận tuyệt vô minh, phiền não; chiến thắng tất cả ma quân để đến nơi vô sanh bất diệt!
- Trẫm hiểu rồi.
- Thứ tư, một bà-la-môn chơn chính luôn luôn nuôi dưỡng thiện pháp, sống và hành theo thiện pháp, còn Đức Thế Tôn thì đã đạt đến nơi toàn thiện.
Thứ năm, một bà-la-môn chơn chính phải thông hiểu Tam phệ đà, giữ gìn truyền thống tốt đẹp lâu đời về giới hạnh, về kỷ luật, về kinh điển, về giáo dục... rồi truyền lại cho thế hệ hậu lai. Đức Thế Tôn cũng y như thế... trong việc dạy dỗ pháp học, pháp hành đến cho tứ chúng; chế định luật giới cho mỗi chúng, không mệt mỏi giáo huấn người, trời, Đế thích, phạm vương, a tu la, dạ xoa v.v...
Thứ sáu, bà-la-môn chuyên tâm về thiền định, Đức Phật cũng chuyên tâm về thiền định. Khi muốn nghỉ ngơi, Đức Phật thường trú định phạm thiên, tịnh cư!
Thứ bảy, bà-la-môn hằng biết rõ sự thực hành để đi đến các cảnh giới cao cả; đâu là cõi nhỏ cảnh giới cao cả, đâu là cõi lớn cảnh giới cao cả. Đức Thế Tôn cũng hằng biết như thế, nhưng lại mênh mông và vô lượng hơn nhiều.
- Trẫm biết rõ.
- Vậy, danh hiệu bà-la-môn ấy chẳng phải do sự tôn xưng của Phật phụ, Phật mẫu, thượng tộc Thích ca vương, đại thần, quân binh, bằng hữu v.v... cũng chẳng phải do sự tôn xưng của chư thiên, long vương, dạ xoa... Đức Đạo Sư là bậc Toàn thắng ma, là bậc Thập lực tuệ, có sức mạnh vô úy, tối thượng, ở trên và ở ngoài ba cõi, thật chẳng có sự tôn xưng nào xứng đáng hoặc xứng danh được. Chí đến mười hồng ân tôn xưng ngài cũng chưa đủ, huống hồ là danh hiệu bà-la-môn, dẫu là cao quý nhưng cũng chỉ thực hành con đường phạm hạnh (brahmacariya) để đi đến cõi phạm thiên, đại phạm thiên - là cảnh giới nhỏ, là học trò của ngài mà thôi vậy.
- Vâng, quả đúng như vậy! Bà-la-môn là danh hiệu khả dĩ để đối thoại, đàm thoại... với chúng bà-la-môn để họ trở về được với phẩm hạnh bà-la-môn chơn chính của mình.
- Đúng thế! Là phương tiện giáo hóa ở một xã hội bà-la-môn giáo thịnh hành.
- Thưa, vâng! Vậy danh hiệu ấy trẫm đã hiểu rồi, nhưng còn danh hiệu vua? Có lần Đức Thế Tôn nói rằng: "Này đại vương, Như Lai cũng là vua, cũng là người nâng đỡ mười vương pháp." Điều này được hiểu ra sao? Trong mười hồng ân không có, vậy ta phải hiểu cách hiểu bà-la-môn sao?
- Đúng thế! Đại vương là bậc thông tuệ, ngài có thể từ danh hiệu bà-la-môn mà giải thích về danh hiệu vua do Đức Phật tự xưng, về nhân và quả của nó, được chăng?
- Có thể được. Nhưng có chỗ nào không khế hợp hoặc thiếu sót, xin đại đức bổ thuyết cho!
- Đại vương không cần phải tự khiêm!
Đức vua cười cười trong mắt, rồi nói:
- Thưa đại đức! Từ xưa tới nay được làm vua do nhiều nguyên nhân khác nhau. Có kẻ do cha truyền con nối. Có kẻ do đầu óc, có chí lớn, có tài làm tướng, đánh bại và chinh phục đất đai, lãnh thổ thiên hạ mà xưng làm vua. Có kẻ do có tài, có đức được dân chúng tôn phục, kính mến mà suy cử lên ngôi vua. Có kẻ do soán đoạt, giết cha, giết anh mà chiếm vương vị. Có kẻ do sự bất công xã hội, sự áp bức của giới cầm quyền mà nổi dậy đánh bại kẻ ác mà xưng làm vua v.v... Tuy nhiên, dẫu làm vua kiểu nào, vị vua ấy cũng có các quan tham mưu đưa ra một chính sách để cai trị muôn dân; có một đường lối giáo dục theo kiến thức, quan niệm và chủ trương của vị vua ấy để tuyên dương, quảng bá chế độ của mình đến cho bá tánh. Đức Thế Tôn cũng y như thế, ngài tu tập nhiều đời kiếp, đạt quả vị Chánh Đẳng Giác, làm vua một quốc độ lớn rộng mênh mông, ở ngoài giới hạn của ba cõi; ngài cũng có một chính sách, ấy là kinh luật luận, hằng tuyên dương, quảng bá, giáo dục tất cả chúng sanh trời, người, Đế thích, phạm thiên, long vương, dạ xoa v.v... biết quay về với chánh pháp, sống và hành theo chánh pháp.
Thưa đại đức! điều thứ nhất ấy trẫm vụng về đưa ra, ngài đừng chê cười nhé!
- Chẳng dám đâu, đại vương! Nó rất hay là khác, lỗ tai của bần tăng rất hoan hỷ và mát mẻ.
Rất hùng hồn, đức vua Mi lan đà tiếp:
- Điều thứ hai, đức vua khôn khéo áp dụng vương pháp, tuy cũng là pháp luật nhưng pháp luật này mềm dẻo, thấu tình đạt lý để cai trị muôn dân. Người trong hoàng tộc không thể ỷ y mình là lá ngọc cành vàng để sống đời vinh hoa phù phiếm. Vương pháp sẽ không tha cho họ. Bọn phản nghịch, nổi loạn sẽ có tinh binh uy dũng đánh phạt; tùy theo tội nặng nhẹ mà tử hình, chung thân, phạt tiền, phạt trượng, cảnh cáo hoặc tha bổng. Kẻ trộm cắp, giết người, bất chánh, lừa đảo v.v... đều có chung hình phạt tương tự. Người có công được khen thưởng rất xứng đáng. Người tài hiền được nâng đỡ, đón mời, thỉnh vào triều với chức cao trọng vọng cho bá tánh y chỉ, nương nhờ. Các ngành nghề lao động, thủ công... được khuyến khích, đề cao, hỗ trợ. Kinh thư thánh hiền được dạy dỗ cho muôn dân v.v...
Nói tóm, đức vua tối thượng ấy ngồi dưới chiếc lọng trắng tinh sạch, trang nghiêm, uy vũ - tượng trưng cho quyền lực của vương pháp - luôn thương yêu và chăm lo cho dân, làm cho dân giàu nước mạnh, sống thuận hòa, ấm áp, chứa chan tình người và đạo nghĩa.
Đức Tối thượng sư của chúng ta cũng y như thế và còn hơn thế nữa. Vương pháp tức là chánh pháp. Kẻ trong hoàng tộc chính là thân tộc Thích ca vương, cũng phải được dạy dỗ nghiêm khắc, giúp họ biết bố thí, cúng dường, nghe pháp; cho xuất gia kể cả hoàng tử, thái tử, hoặc ngay cả con ruột của mình. Muôn dân chính là tứ chúng, bá tánh chính là chúng sanh ba cõi. Kẻ sái quấy, thực hành không đúng pháp thì đã có giới luật định tội, trục xuất hoặc khinh trọng tùy theo giới phạm mà răn dạy. Tất cả đều phú túc, phú cường trong một giáo pháp toàn hảo ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối. Vô lượng kẻ đạt ngộ đạo quả bốn bậc. Vô lượng kẻ giải thoát tử sanh. Vô lượng kẻ thuyết pháp, đầu đà, tinh thông một tạng, hai tạng, ba tạng. Vô lượng kẻ phước báu trời, người. Cõi trời thênh thang mở rộng cho tất cả mọi người một cách đồng đẳng, vô phân biệt. Đức Tối thượng sư ngồi dưới chiếc lọng trắng thanh khiết - tượng trưng cho pháp mầu giải thoát - điều ngự và sách tấn ba cõi, bốn loài đồng đăng giác ngạn.
Nghĩa lý thứ hai ấy, thưa đại đức kính mến, lỗ tai nghe của ngài có nóng nảy, khó chịu không?
- Tâu, nó nổi da gà và rần rần hỷ lạc; như ru võng êm, như tẩm nước mát. Thật là toàn hảo vậy.
- Cảm ơn đại đức!
- Xin đại vương cho nghe thêm điều thứ ba?
- Đức vua được dân chúng tôn trọng, cung kính, thương yêu, ngưỡng mộ, thì Đức Phật cũng được chư thiên và nhân loại cung kính, lễ bái, cúng dường...
- Đúng thế!
- Người tốt, người hiền, kẻ có công thì đức vua ban thưởng chức tước, lộc hàm, phẩm vị, vàng bạc v.v... , việc này đối với Đức Phật cũng y như thế. Trong tứ chúng, người nào có sự tu tập tinh cần, đúng đắn; giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh, nỗ lực xa lìa chấp thủ, tham đắm; Đức Phật sẽ lần lượt ban cho từng quả vị như Tu đà huờn, Tư đà hàm, A na hàm, A-la-hán v.v... Ấy là những phần thưởng cao quý nhất, tối thượng nhất. Bằng không được vậy, mà ai đó chỉ có đức tin, biết giữ giới cấm, biết bố thí, xả ly... thì người ấy, cũng được khen thưởng những phước báu trời, người hạnh phúc, sang cả.
Trái lại, người xấu ác, kẻ phạm luật, phạm pháp bị đức vua xử theo pháp luật quốc gia, thì Đức Phật cũng thế; ngài xử theo giới luật đã được chế định, đồng thời định luật nhân quả còn làm việc một cách công minh, không bao giờ thiên vị.
Ngoài ra, đức vua ban hành mười vương pháp để cho quốc độ được hạnh phúc và trường tồn, thì Đức Phật cũng hằng giáo hóa tứ chúng làm lành, tích trữ điều lành, sống theo chánh pháp để chánh pháp được tồn tại dài lâu trên thế gian này!
Thưa đại đức! Đó là trẫm chỉ nêu đại lược những điểm then chốt, cơ bản;... chứ thật ra còn rất nhiều oai đức, sự ích lợi tại thế và xuất thế, những pháp tương tự giữa đức vua và Đức Phật. Nhưng kiến thức trẫm có hạn, thời gian cũng không cho phép, mong đại đức thông cảm cho.
Đại đức Na tiên tán thán:
- Vậy là đã quá đủ. Vậy là đã quá vi diệu. Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này tỳ kheo! Thật là vô số, vô số nguyên nhân về bà-la-môn, về vua chúa; cho dẫu có một tỳ kheo thông minh, thông tuệ, có ngôn ngữ lưu loát, kiến thức thâm sâu, diễn đạt nhanh nhạy... nói về điều ấy trong suốt một kiếp cũng không thể nói hết". Vậy thì đại vương tự khiêm mà làm gì. Chúng ta chỉ cần nghe và hiểu những cái chính mà thôi, có phải thế không ạ?
- Thưa, vâng!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:53:49 GMT -5
147. Tại sao không có hai Đức Phật xuất hiện một lần?
- Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng, các Đức Phật giác ngộ những điều giống nhau, thuyết những pháp giống nhau, giới luật ban hành cũng giống nhau..., có phải thế không ạ?
- Tâu, vâng!
- Một vị Phật xuất hiện ở thế gian như thế, cuộc đời sẽ rất đẹp, hoàn thiện và tươi sáng thêm lên, có phải thế không ạ?
- Tâu, vâng!
- Thế tại sao hai bậc Toàn Giác không xuất hiện một lúc để cùng hỗ trợ cho nhau, tương trợ nhau để xiển dương chánh pháp? Nếu vậy thì cuộc đời này sẽ tốt đẹp gấp đôi, hoàn thiện gấp đôi, và xán lạn tươi đẹp cũng gấp đôi! Và như thế thì đạo Phật sẽ huy hoàng, lan tràn trong hoàn vũ, tế độ được gấp bội chúng sanh trời, người hơn nữa. Xin đại đức chỉ giáo cho điều này?
- Tâu đại vương! Đức Phật dạy rằng, thế gian này có mười ngàn thế giới. Mười ngàn thế giới ấy chỉ có khả năng nâng đỡ một vị Phật mà thôi. Nói cách khác, mười ngàn thế giới chỉ có thể chịu đựng sự hiện hữu của một vị Phật. Nếu hai vị Phật cùng xuất hiện một lúc thì mười ngàn thế giới này sẽ bị chấn động, bị rung chuyển, bị nghiêng lệch đi, sẽ bị hủy diệt, bị tiêu vong!
Ví như một chiếc thuyền nhỏ chỉ chở được một người, nếu hai người cùng quá giang thì thuyền ấy sẽ không chở nổi, sẽ bị chìm. Chiếc thuyền chính là mười ngàn thế giới, khách quá giang là một vị Phật. Ví dụ này đại vương nên hiểu để tự trả lời và tìm hiểu lý do tại sao cho câu hỏi của mình.
- Thưa, vâng.
- Ví như hai chiếc xe chất hàng hóa với trọng tải vừa đủ để chuẩn bị cho lộ trình xa. Với lý do nào đó, người ta lấy bớt một xe, sớt hàng hóa xe ấy sang xe kia. Đại vương thấy thế nào? Một chiếc xe mà chở nặng một số hàng hóa với trọng tải gấp đôi, thì số phận chiếc xe ấy sẽ như thế nào?
- Bánh xe ấy sẽ gãy hoặc trục xe ấy sẽ vỡ lìa từng đoạn!
- Mười ngàn thế giới này cũng sẽ gãy đổ hoặc vỡ lìa tan nát ra như thế, nếu sức nặng của hai vị Phật đồng ngự đến một lần, tâu đại vương?
- Trẫm đã hiểu nhờ hai ví dụ ấy.
- Ngoài ra, biết bao điều tai hại do tranh chấp, do chia rẽ, do chấp thủ, do bảo vệ, rằng là "đây là Phật của tôi, kia là Phật của anh"; và thế là phân thành hai nhóm, sẽ tranh đấu với nhau bằng binh khí miệng lưỡi, binh khí đao gậy. Nói tóm là những điều nguy hại cho giáo pháp sẽ xảy ra.
- Vâng! Ví như trong triều đình của trẫm đây, nếu trẫm có hai vị quan cận thần có tài đức và công lao ngang nhau, đều được trẫm sủng ái. Quan lại trong triều đều phân làm đôi ủng hộ hai vị quan ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra? Dĩ nhiên là sẽ có chuyện tranh chấp cãi cọ lôi thôi, sẽ có sự chia rẽ, mất hòa khí khi "ông quan này của chúng tôi, ông quan kia của các anh!" Thật là khó xử cho trẫm đấy. Trong triều không thể để cho hai ông quan có tài đức ngang nhau, công lao ngang nhau, quyền lực ngang nhau... như thế nào thì mười ngàn thế giới này cũng không nên tồn tại hai vị Phật, thưa đại đức!
- Vâng, mong rằng đại vương đã hiểu. Và có thể có những tế toái, phức nhiễu khác nữa. Ngay chính những hồng ân, danh hiệu, sự tôn xưng của thế gian đối với chư Phật sẽ có cái gì không được ổn cho lắm.
Ví dụ, Đức Phật là bậc tối thượng giữa muôn loài. Chữ tối thượng kia phải xét lại. Tối thượng là chỉ có một người, duy nhất, tại sao ở đây lại có hai người?
Lại ví dụ, Đức Phật là bậc đáng tôn trọng, cao quý nhất trong tam giới. Dùng chữ cao quý nhất ấy không còn thích đáng nữa.
Cũng thế, chẳng hạn, Đức Phật là bậc tiến hóa đệ nhất giữa chốn chư thiên và loài người. Chữ "đệ nhất" ấy cũng sẽ không còn dùng được.
Ngoài ra, tỉ như, Vô thượng sĩ, Thế Tôn, Thiên nhân sư v.v... đều phải sửa đổi lại.
Còn nữa, tâu đại vương! Trên đời này, những cái to lớn, vĩ đại thường chỉ có một: quả đất, mặt trời, mặt trăng, biển cả, hư không, núi Tu di, Hy mã lạp sơn... Còn các giống hữu tình lớn như ma vương, Đế thích, đại phạm thiên cũng chỉ có một. Tương tợ thế ấy, giữa thế gian chỉ có một đức Chánh Đẳng Giác mới gọi ngài là vĩ đại, quý báu, tôn quý, cao thượng, vô thượng, tối thượng v.v... Như thế, trong một thời kỳ nhất định, giữa mười ngàn thế giới này chỉ có một vị Phật đản sanh, không thể có hai vị được, tâu đại vương!
* * *
148. Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội thanh tịnh của Đức Bổn Sư!
- Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng giáo hội của Đức Tôn Sư trong sạch, quý báu, cao thượng lắm phải chăng?
- Tâu, vâng.
- Trong giáo hội ấy, tất cả Tăng chúng và Ni chúng đều là người đã chứng đắc các quả vị thanh tịnh cả chăng?
- Tâu, không hẳn thế. Có rất nhiều vị đắc quả Tứ thánh. Có nhiều vị đang trên đường. Có nhiều vị còn ít phàm tính. Có nhiều vị còn nhiều phàm tục, lắm tham, sân, si v.v...
Các bậc thanh tịnh, cao quý đã chứng đắc quả Thánh thì sẽ làm cho giáo hội trang nghiêm, đẹp đẽ, tôn quý hơn lên, chúng ta không đề cập ở đây. Những vị đang trên đường kiên trì, tinh tấn thực hành giáo pháp thì trước sau cũng đạt được mục đích tối thượng, chúng ta cũng không đem ra bàn. Trẫm chỉ hỏi đến hai hạng người cuối: những vị nhiều phàm tính và ít phàm tính - những vị ấy có khả năng chứng ngộ đạo quả chăng? Hoặc trong tương lai, họ sẽ ra sao?
- Tâu, có thể có người đạt quả vị nhỏ hoặc không đắc đạo quả nào cả. Có vị không đắc đạo quả nào nhưng được phước báu trời, người. Có vị chỉ như là gieo duyên cho vô lượng kiếp về sau. Cũng có nhiều vị như muỗng canh ở trong nồi canh, chẳng nếm được hương vị của giáo pháp, cho dẫu nhiều đời họ khoác phẩm mạo sa môn. Có nhiều vị sau khi tu không được gì, họ hoàn tục; như ngựa quen đường cũ, tật nào tánh nấy, sống đâu cũng hư dối, gian ác, tham lam, lọc lừa... Như thế là trong giáo hội còn có rất nhiều người hư, xấu, chứ không phải ai cũng tốt đẹp cả đâu.
- Những kẻ như thế mà sao Đức Tôn Sư vẫn để họ tồn tại trong giáo hội? Đức Phật không sợ người ta chê bai, phỉ báng giáo hội, rằng giáo hội ấy quả là rất xấu xa nên có người xuất gia cũng rất xấu xa! Tại sao Đức Thế Tôn không ngại họ làm nhơ uế giáo hội?
- Những vị tỳ kheo xấu xa, nhơ uế ấy có liên quan gì đến sự thanh tịnh của giáo hội đâu!
- Tại sao không liên quan? Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Con sâu làm rầu nồi canh. Lý nó vậy làm sao đại đức biện hộ được?
- Đại vương nghĩ thế nào, ví như có một chiếc hồ trong vắt, mát mẻ, có người con trai mình đầy bụi đất muốn đến đấy tắm cho sạch sẽ, nhưng y vừa lội xuống đã vội bước lên. Thế là bụi đất ở trên người y vẫn còn nguyên. Có người thấy vậy, không chê chàng thanh niên mà lại chê cái hồ nước: "A! Cái hồ nước ấy quả là bất tịnh, nó dính đầy dơ uế, bụi đất". Lời chê trách ấy có đúng chăng, đại vương?
- Ai lại chê cái hồ bao giờ! Có chê là chê chàng thanh niên làm biếng, không chịu kỳ cọ tắm rửa thân thể cho sạch sẽ.
- Cũng thế, ai lại chê trách giáo hội bao giờ, đại vương! Có chê là chê vị tỳ kheo không chịu rửa ráy tâm mình bằng giới luật cho sạch sẽ, không chịu thiền định để cho tâm được tĩnh lặng, bình hòa, an ổn. Lỗi ở ai thì đại vương biết rồi!
- Vâng!
- Giáo hội của Đức Bổn sư vốn không có dơ bợn, bao giờ cũng quý báu, cao thượng, trong sạch. Tuy nhiên, cũng rất là thường tình khi trong giáo hội ấy có những phàm phu tục tử vào tu không phải với mục đích cao thượng, chỉ nhắm đến những mục đích hạ liệt như: kiếm miếng cơm manh áo, tích lũy tứ sự cúng dường, được thân cận bậc quyền quý, cao sang, tìm chỗ nhàn hạ, thảnh thơi, tham vọng lãnh đạo tăng chúng v.v... Với hạng người ấy, đa phần là những kẻ lười biếng tu tập; chỉ có ăn và ngủ, nhìn ngắm nữ giới, chọc ghẹo nữ giới; chẳng theo pháp học, pháp hành; không chịu thọ đầu đà, không thọ trì giới luật dù lớn dù nhỏ; tà mạng lang thang nhà thí chủ này, thí chủ kia để xin vật này, vật nọ. Khi tích lũy, tom góp được của cải, tài sản rồi; những kẻ ấy mang về cho gia đình, quyến thuộc, vợ con; hoặc nếu chưa có vợ con thì đem cho những người nữ, quyến rũ những người nữ để lợi dụng dâm dục, làm việc bất tịnh, xấu xa. Chúng ẩn mình trong chiếc y cà sa, lợi dụng tín tâm của nhiều người để thỏa mãn tham vọng, mưu đồ, để thỏa mãn tham muốn thấp hèn. Chúng ở đâu cũng phóng túng, bừa bãi, ăn nói lố lăng, đi đứng vung vãi; không hề biết hổ thẹn với đám đông, với mọi người v.v...
Tuy nhiên, tâu đại vương! hiện tượng ấy cũng tự nhiên như vàng ngọc thì ít nhưng đá sỏi đất cát thì nhiều. Đá sỏi đất cát nhiều, vàng ngọc càng quý hiếm như thế nào, thì các bậc xa rời trần cấu càng trở nên quý báu, cao thượng chừng ấy! Không thể chê trách hồ nước, chỉ nên chê trách chàng thanh niên ở trong hồ nước sạch mà không chịu tắm rửa. Giáo hội và những người xuất gia phàm phu tục tử cũng y như thế. Đức Phật là bậc Toàn Giác, thấy rõ thế gian, thông suốt thế gian, ngài biết rằng: những kẻ xấu xa bất tịnh ấy, vài ba kiếp về sau, ngàn kiếp về sau, hoặc lâu xa hằng vạn kiếp quả địa cầu, chúng cũng sẽ được cứu độ, tâu đại vương!
- Thật là kinh khiếp! Trẫm hiểu rồi, nhưng còn muốn nghe ví dụ.
- Vâng, ví như có một bệnh nhân ở gần nhà một vị lương y đại tài. Vị lương y ấy sau khi xem bệnh, chẩn bệnh, kê cho một toa thuốc, bốc thuốc rồi dặn bệnh nhân ấy rằng: "Thuốc này chữa được bệnh của anh, nếu uống mười thang như thế. Vậy hãy lấy siêu đổ vào ba chén nước, sắc còn tám phân, lần thứ hai, đổ vào hai chén rưỡi nước, sắc còn sáu phân, trộn chung lại, chia làm hai lần mà uống. Khi uống thuốc xong, phải kiêng cử không nên ăn vật này, vật nọ." Bệnh nhân nghe nhưng không sắc, không uống. Cũng có thể có sắc, có uống nhưng không đúng liều lượng như vị lương y đã chỉ bày. Cũng có thể có sắc, có uống đúng liều lượng nhưng không chịu kiêng cử. Thế là bệnh nhân không lành. Trường hợp ấy thì nên trách thầy thuốc hay trách bệnh nhân?
- Trách ai thì trẫm hiểu rồi.
- Bệnh nhân kia không uống thuốc, hoặc có uống nhưng không đúng liều lượng, có uống nhưng không biết kiêng cử; tương tự như các hàng xuất gia phàm phu tục tử trong giáo hội của Đức Bổn Sư đấy, tâu đại vương!
- Vâng!
- Ví như có người nghèo đói nọ không có cơm cháo ăn, một người giàu có, nhiều thiện tâm, thấy vậy nói rằng: "Vậy mỗi ngày hãy đến nhà tôi ở đầu phố, mang theo đồ đựng vật thực, cơm cháo tôi để dành sẵn nơi cái bàn ở mái hiên, mang về ăn để chiến thắng cái đói." Nhưng người nghèo đói kia làm biếng, ngại đường xa, không chịu đi lấy cơm cháo. Chuyện ấy biết trách ai bây giờ đại vương!
- Làm biếng thì rán chịu đói, kẻ ấy dù có chết cũng chẳng ai thương. Người ta còn khen sự thiện tâm của người giàu có: "Cơm cháo để dành sẵn cho kẻ đói nghèo." Tương tự thế, kẻ xuất gia ngu si không nếm được hương vị của pháp, nuôi dưỡng tâm tính hạ liệt, nhiều bợn nhơ, cấu uế; trong lúc giáo pháp của Đức Tôn Sư luôn dành sẵn "cơm cháo thơm ngon, bổ dưỡng" cho đủ mọi căn cơ trong xã hội. Người ta không chê trách giáo hội mà còn khen giáo hội luôn mở rộng cửa kho tàng cho những ai siêng năng, đến đấy lấy "vật thực nuôi tuệ mạng" cho mình. Đúng là giáo hội có lòng từ, có tâm bi mẫn đối với chúng sanh vậy.
- Ngợi khen, tán dương không có lý nghĩa gì đối với Đức Tôn Sư, nhưng thế gian, những người có trí họ sẽ ngợi khen tán dương giáo hội là chuyện có thật!
Đức vua Mi-lan-đà ngẫm ngợi giây lát:
- À, cái gọi là "vị ngon ngọt, bổ dưỡng", để "nuôi dưỡng tuệ mạng" là những gì vậy, thưa đại đức?
- Tâu, đại vương hãy nghe đây. Vật thực, đồ ăn ngon bổ thường mang đến sự tham đắm, tham luyến. Vật thực, đồ ăn ấy không chỉ là những thứ dùng để ăn nơi miệng mà còn mang nghĩa rộng hơn: đấy là tất cả "vật thực ngũ trần" mà ngũ căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân) muốn ăn!
Tham đắm, tham luyến ngũ trần thường dẫn đến hành động xấu xa tội lỗi. Người xuất gia trong giáo hội thường được Đức Phật dạy về pháp môn Tứ niệm xứ - tức là bốn chỗ quán niệm: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Niệm thân bất tịnh là đề mục đầu tiên, sơ cơ nhất cho mỗi hành giả. Phải thấy rõ sự bất tịnh của thân, thường dành cho những người nhiều tham, nhiều dục, nhiều mê đắm!
- Tâu đại đức! Tại sao thân lại bất tịnh?
- Tâu, nó bất tịnh, vì cái gọi là thân ấy chỉ là tổng hợp của tóc, lông, móng, răng, da, đàm, dãi, bao tử, ruột non, ruột già, nước mắt, phẩn, ghèn v.v..., nói đủ là ba mươi hai thể trược.
Người nào chuyên niệm thân đầy những uế trược ấy, thấy rõ được uế trược ấy; sẽ nếm thưởng được những vị ngon ngọt, cao quý, những phần thưởng cao quý:
Thứ nhất là, được uống nước cam lồ của thiên cung (ý nói phước báu cảnh trời).
Thứ hai là, nếu niệm thân mà có định, khi lâm chung, khỏi rơi vào 4 đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la)
Thứ ba là, nếu niệm thân được tốt, ái dục và phiền não tương đối yên lặng (có định), hành giả phát triển tuệ quán: quán thân đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi v.v..., đấy được gọi là "nuôi dưỡng tuệ mạng", vì nó là con đường của tuệ giác, giác ngộ, giải thoát.
Tâu đại vương! Đấy là hàm nghĩa "cứu đói", "ngon ngọt bổ dưỡng" cũng như "nuôi dưỡng tuệ mạng"! Xin đại vương hãy suy gẫm.
- Thưa, rõ ràng lợi ích thứ ba ấy cao quý nhất. Từ niệm thân mà sang quán niệm có thể xuất ly cả ba cõi: dục, sắc và vô sắc; có thể chấm dứt sinh tử luân hồi, vĩnh ly phiền não và đắc quả Niết bàn! Ôi! ngon ngọt bổ dưỡng đến thế là cùng. Tuy nhiên, thưa đại đức, trẫm lại phát sanh thêm một hoài nghi.
- Xin tự nhiên cho!
- Vâng. Tại sao Đức Tôn Sư và các vị Thánh Tăng không dạy cho cư sĩ thực hành ngang chỗ ấy; chỗ thấy rõ thân bất tịnh, cấu uế; ngũ trần bất tịnh, cấu uế? Hãy cho họ đặt được bàn chân đầu tiên trên lộ trình của giáo pháp, cho họ uống được tí xíu ngon ngọt bổ dưỡng của hương vị pháp mầu rồi hãy cho họ xuất gia? Nếu được như thế thì giáo hội của Đức Tôn Sư sẽ hoàn hảo xiết bao? Hoàn hảo và hoàn toàn trong sạch, cao quý, cao thượng!
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Đại vương quả có lòng tốt cho giáo hội, nhưng việc "bảo vệ" ấy xem ra có gì không ổn, đại vương biết chăng?
- Xin đại đức bi mẫn chỉ dạy?
- Vì lòng thương yêu bá tánh không có chỗ tắm rửa sạch sẽ, đại vương cho làm một cái hồ lớn, nước trong mát mẻ. Sợ nước hồ dơ bẩn do quá nhiều người đến tắm, muốn bảo vệ nước hồ sạch, đại vương ra một bảng cáo thị: "Ai đến đây tắm cũng được, nhưng mọi người hãy tắm sơ sơ ở đâu đó, rửa tay, rửa chân, kỳ cọ thân thể cho bớt dơ bẩn, ít đất bụi mới cho phép xuống hồ!" Cái bảng cáo thị ấy nghe có lọt tai không, đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà đưa tay gãi đầu:
- Ờ... ờ! Quả là không được nhỉ!
- Dạy cho người cư sĩ tại gia bớt cấu uế mới cho xuất gia, có khác gì tắm trước mới cho xuống hồ, hở đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà cười xòa:
- Thật không có ví dụ nào sít sao hơn!
- Cái mà chúng ta gọi " rửa ráy cho sạch sẽ sơ sơ, kỳ cọ tắm rửa cho bớt cấu uế, nếm tí xíu vị ngon ngọt của pháp, đặt được bàn chân đầu tiên trên lộ trình của giáo pháp" - những nhóm từ ấy nghe thì thường thường - nhưng thực ra, phải tu nhiều đời nhiều kiếp, căn cơ sâu dày mới được vậy, đại vương hiểu chăng?
- Thưa, chưa rõ.
- Đấy là cách nói khác của quả vị Thánh nhân đầu tiên: là khai mở tuệ nhãn, là đã bắt đầu đi vào dòng Thánh, là đặt được bàn chân đầu tiên trên mảnh đất bất tử - là ám chỉ quả vị Tu đà huờn, tâu đại vương!
- À, ra thế!
- Những bậc ấy, những vị ấy, dù họ có tu hay không tu, dù họ xuất gia hay tại gia; sáu, bảy kiếp lưu lạc cõi trời và người nữa thôi, họ sẽ đắc quả Bất hoàn hoặc Vô sanh A-la-hán, tâu đại vương!
- Xin ghi vào lòng!
- Nếu Đức Phật và chư vị Thánh Tăng đại Trưởng Lão, dạy cư sĩ được ngang chỗ ấy - chỗ bắt đầu đi vào dòng Thánh ấy - thì việc xuất gia còn có nghĩa lý gì với họ nữa mà nói chuyện xuất gia, phải không đại vương?
- Thưa phải!
- Đắc quả Thánh đầu tiên có nghĩa là mọi phận sự họ đã làm, và làm tốt, rồi từ từ họ sẽ giảm bớt cấu uế! Thấy được bệnh, đã uống thuốc và đã lành bớt bệnh mà còn đến nhà thầy thuốc xin chẩn bệnh là việc làm của người ngu đấy, tâu đại vương!
- Đúng thế! Có bệnh mới đi tìm thầy thuốc. Bớt bệnh thì cứ vậy mà uống, tịnh dưỡng, nghỉ ngơi, kiêng cử, thời gian sau sẽ lành thôi.
- Tương tự thế, những người đã đắc quả Tu-đà-huờn, xuất gia không có nghĩa lý gì với họ nữa, trước sau gì, ở đâu, họ cũng giác ngộ, giải thoát thôi!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Người có bệnh mới đi tìm thầy thuốc. Cũng thế, Đức Phật sẽ không ngăn cấm người tại gia nhiều cấu uế, nhiều bệnh; cứ để cho họ xuất gia trong giáo pháp của ngài.
- Vâng, đúng thế. Ví như đại vương thấy xóm làng kia thiếu ăn, đại vương cho người nấu rất nhiều cơm, cả hàng trăm phần, rồi bố cáo rằng: "Ai đói thì cứ đến lấy cơm ăn theo ý muốn." Người muốn thì đến lấy cơm ăn, người không muốn thì họ sẽ không đến lấy ăn, giản dị vậy thôi.
- Quả vậy.
- Đức Thế Tôn từ bi tế độ chúng sanh, như đại vương bố thí cơm vậy. Sẽ có một số người đến xin xuất gia, số người khác sẽ không đến, hoàn toàn tự do, tùy ý. Trong số xuất gia ấy, có một số biết làm bổn phận của mình và làm tốt bổn phận của mình, đã đi vào dòng Thánh hay đang trên đường đi vào dòng Thánh. Số ấy thường ít. Còn số đông không biết bổn phận của mình, không làm tốt bổn phận của mình hoặc phá hoại, xem thường bổn phận của mình, tâu đại vương!
- Thưa, vậy chính số đông phàm phu tục tử, ngu si ấy làm nhơ bẩn, cấu uế giáo hội đấy, đại đức!
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Giáo hội không bao giờ cấu uế, bất tịnh đâu, đại vương chớ lo về điều ấy. Nó có mấy lý do. Thứ nhất, một thời gian ngắn, những kẻ ấy cũng hoàn tục, trở lại nếp sống cũ trước đây của họ. Thứ hai, những kẻ xấu xa ấy ở trong phẩm mạo tăng tướng sa môn, nếu họ không hoàn tục sớm cũng hoàn tục muộn; vì họ sẽ nóng nảy, bất an, khoác chiếc y mà như khoác cái lò lửa! Thứ ba, những kẻ đầy cấu uế họ sẽ được giáo pháp cảm hóa chút chút, họ sẽ sống tốt hơn thuở xưa!
Đại vương có biết tại sao phát sanh ba trường hợp nêu trên không?
- Thưa, không rõ!
- Tâu, vì có năm đức tính quý báu, cao thượng của bậc xuất gia, của tăng tướng sa môn. Chính nhờ năm đức tính ấy mà nó "đẩy" người xấu hoàn tục sớm, "đẩy" người xấu hoàn tục muộn hoặc cảm hóa, thấm nhuần kẻ xấu cho được tốt hơn.
- Trẫm rất muốn nghe năm đức tính cao thượng vi diệu ấy.
- Tâu, năm đức tính ấy là:
Trước tiên, bậc xuất gia là phẩm mạo sang cả, có địa vị lớn, phước báu lớn, chức năng, chức danh lớn.
Tiếp đến, bậc xuất gia có trạng thái trong sạch lớn, thanh tịnh lớn.
Thứ ba, bậc xuất gia không thân cận với người xấu ác (ác tâm, uế tâm).
Thứ tư, bậc xuất gia sẽ đắc những pháp cao siêu, cao thượng rất khó khăn, thế gian khó thấy, khó hiểu, khó biết được.
Thứ năm, bậc xuất gia luôn có Tứ thanh tịnh giới làm đất đứng, chỗ tựa vững chắc, làm sức mạnh cho mình.
- Xin đại đức hoan hỷ giảng cho từng điểm một, cho sáng rõ ý nghĩa: Giáo hội không bao giờ cấu uế, bất tịnh?
- Vâng. Chúng ta sẽ đi từ điểm thứ nhất: "Bậc xuất gia là phẩm mạo sang cả, có địa vị lớn, chức danh, chức năng lớn, phước báu lớn" là tại sao?
Bậc xuất gia ví như ngôi vua chí tôn, chỉ để dành cho những người đã có tích trữ phước báu sâu dày. Phước báu là tên gọi chung chỉ cho y báo và chánh báo. Y báo và chánh báo cũng mới chỉ là tên gọi chung để chỉ cho tất cả những phước báu thọ hưởng trên đời này, đó là: địa vị, chức tước, phẩm hàm, phú quý, tiền bạc, công danh, vợ con, gia sản, quyến thuộc, kiến thức, dung mạo, trí tuệ v.v... Trên thế gian, phước báu của vua là đệ nhất. Phước báu ấy nó phù hợp với ngôi vua ấy, đức vua ấy.
Giả dụ một người ít phước báu hoặc không có phước báu, nghĩa là một người nghèo hèn, ngu dốt, đui què mẻ sứt, vô học... mà đặt lên địa vị ngôi vua thì chuyện gì sẽ xảy ra, đại vương?
- Sẽ phát sanh rất nhiều sự nguy hại, tai hại xảy ra cho chính đức vua ấy. Có thể bị tẩn suất, bị giết, bị các quan đại thần khinh bỉ, thế gian cười chê. Cuối cùng, y không thể ngồi yên trên ngai vàng, luôn cảm thấy nóng nảy, bất an; nếu không bị ai giết thì y cũng cảm thấy xấu hổ, đau khổ, và tự động rút lui, xin trở về làm thường dân!
- Cũng tương tợ thế, kẻ ít phước báu, nghĩa là kẻ đần độn, si mê, xấu ác... mà xuất gia trong giáo pháp của Đức Tôn Sư sẽ bị Tăng lữ khinh bỉ, mọi người cười chê; cuối cùng y sẽ nóng nảy, bất an; cảm thấy đau khổ, xấu hổ... mà xin hoàn tục, trở về với cuộc đời!
Đức vua Mi-lan-đà cảm thán:
- Ôi! Chính nhờ năng lực của đức tính thứ nhất này, nó "đẩy" người xấu kia ra khỏi giáo hội! Lạ lùng thay mà cũng vi diệu thay! Xin đại đức cho nghe điều thứ hai?
- Tâu: "phẩm mạo xuất gia vốn hàm tàng sự trong sạch lớn, thanh tịnh lớn"! Tại sao lại như thế? Đại vương! Ngài nghĩ như thế nào! Ví như những giọt mưa, những hạt sương rớt trên lá sen, chúng chỉ chạy lướt qua, lăn trôi đi, rơi đi chứ không thể dính trên lá sen hoặc ngấm sâu vào lá sen được! Tại sao thế? Tại vì lá sen trơn láng, trong sạch; nó đẩy đi tất cả những thứ gì có thể bám dính vào! Giáo hội của Đức Tôn sư, phạm hạnh của bậc xuất gia bản chất cũng giống như lá sen ấy. Những kẻ lạm mạo tăng tướng, xuất gia trong giáo pháp này mà có tâm địa không tốt, lường láo, khoe khoang, gian manh, xảo trá, phá giới - sẽ tự mình chuốc lấy sầu khổ - một lúc nào đó cũng phải trượt đi, rơi đi... không tồn tại trong giáo pháp kia được, phải hoàn tục thôi. Đây là năng lực vi diệu có từ đức tính thứ hai này.
- Vậy cho trẫm nghe tiếp điều thứ ba, tức là "đức tính không thân cận bậc xấu ác", thưa đại đức?
- Tâu, vâng! Ví như biển cả trong sạch, vốn không bao giờ dung chứa vật bất tịnh, bất cứ xác chết nào lớn hoặc nhỏ, người hoặc thú; nếu trôi xuống biển lớn, một lúc nào đó sóng sẽ đánh dạt những tử thi ấy vào bờ. Biển luôn luôn dọn sạch những vật bất tịnh để giữ gìn sự thanh khiết cho mình. Cũng tương tự thế, những kẻ bất tịnh, xấu xa, ác tâm, tà tâm, hung dữ, thô bỉ, trược hạnh, lười biếng, ngu tối... sẽ không thể tồn tại lâu dài trong giáo hội của Đức Tôn Sư. Phẩm mạo xuất gia và giáo hội ấy không thể làm bạn, gần gủi kẻ xấu ác được. Biển đẩy, sóng xô lên bờ các vật bất tịnh như thế nào thì bản chất thanh khiết của phẩm mạo xuất gia cũng đẩy, cũng xô chúng đi như thế. Đấy là ý nghĩa thứ ba, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu, xin cho nghe tiếp điều thứ tư.
- Tâu, vâng! Ví như một người căn cơ chậm lụt, ngu đần, chẳng học được văn chương, hay võ nghệ, chỉ đeo đuổi cái nghề bắn cung mà thôi. Nhưng nghề bắn cung cũng không dễ gì. Người thầy chỉ dạy cho kiến thức cơ bản: tay cầm, mắt nhắm, chỗ đứng, hướng gió v.v..., nhưng y cũng không thể nào bắn trúng mục tiêu. Chán nản quá, y bỏ đi, không học nữa, trở thành kẻ vô công rồi nghề, ăn bám xã hội. Loại người này do thiếu phước, do nhiều kiếp tạo nghiệp ác, nên kiếp này si mê, đần độn, ngu xuẩn, ăn nói bập bẹ, phều phào, nước dãi chảy đầy mồm miệng, hay quên, hay lẫn... chẳng làm được bất cứ một việc gì trên đời này. Những kẻ ấy không thể học được nghề bắn cung thì làm thế nào có khả năng, trí tuệ để học hỏi giáo pháp Tứ diệu đế nhiệm mầu, cao siêu - đòi hỏi tinh tấn, kiên trì, chú tâm, tỉnh giác - là những đức tính mà không bao giờ y có thể có được. Người học bắn cung chán nản bỏ đi như thế nào, thì người ngu si kia cũng sẽ hoàn tục, bỏ đi như thế!
- Rõ ràng lắm! Đại đức hoan hỷ cho nghe thêm điều thứ năm: "Bậc xuất gia có Tứ thanh tịnh giới làm nền tảng, làm đất đứng, là sức mạnh của mình."?
- Ví như một đám quân rời rạc, yếu ớt, không có dũng cảm... bước vào chiến trận, nhìn xung quanh thấy quân địch bao vây hàng hàng lớp lớp, gươm giáo sáng lòa, đồng loạt xông tới. Sợ hãi quân địch, đám quân ấy run rẩy, khiếp sợ, bèn vội quăng giáo, đua nhau chạy trốn. Cũng vậy, những kẻ xuất gia trong giáo hội này có tâm địa tráo trở, làm việc xấu xa, tà hạnh, bất chánh... sẽ có tâm sợ hãi, khiếp nhược... khi sống giữa hội chúng thanh tịnh. Năng lực thanh tịnh của phẩm mạo xuất gia toát ra một sức mạnh, một hùng lực... bao vây lớp lớp xung quanh, làm cho kẻ xấu ác run rẫy, sợ hãi, quăng y, quăng bát, trở về hoàn tục cũng giống như thế.
- Thật là hay lắm vậy. Tất cả những kẻ xuất gia xấu xa ấy, rốt lại, bị đẩy ra ngoài hết, bản chất của giáo hội thanh tịnh thì vẫn là thanh tịnh.
- Đúng thế! Ví như hoa sen là cao quý, hương thơm ngát so với trăm hoa, sắc màu tinh khiết, nhã đạm. Ai cũng ưa và ai cũng thích. Đại vương bảo thuộc hạ trồng một hồ sen để thưởng thức. Hôm kia rảnh rỗi, bệ hạ ra hồ sen ngắm cảnh cho thư thái tâm hồn. Sắc hoa sen đẹp và hương thơm ngạt ngào. Nhưng ngắm kỹ, có khá nhiều hoa bị sâu đục, cắn đài hoặc khóet nhụy, bệ hạ tức giận lắm. Sau bình tĩnh nghĩ lại, biết bắt tội ai bây giờ? Bắt tội người trồng, không thể, bắt tội sâu, không thể. Bắt tội những cây sen bị sâu khóet đục, cũng không thể. Giữa đất trời này có gì là hoàn hảo? Vả, hồ sen vẫn khoe sắc và tỏa hương! Dẫu có những đóa bất toàn nhưng không vì vậy mà hồ sen thiếu sắc, thiếu hương!
Giáo hội của Đức Tôn Sư, phẩm hạnh của bậc xuất gia dẫu không được như ý muốn của đại vương; dẫu có những kẻ bị sâu đục khóet, nhưng giới đức, định đức, tuệ đức, giải thoát đức vẫn khoe sắc và tỏa hương ngào ngạt. Những sa môn đệ nhất quả, đệ nhị quả, đệ tam quả, đệ tứ quả, biện tài, thần thông, tuệ phân tích, thuyết pháp, đầu đà, mật hạnh, thiền định... vẫn tỏa sáng như những ngôi sao giữa bầu trời trong vắt, đại vương có thấy thế chăng?
- Quả đúng vậy.
- Lại nữa, ví như có người trồng lúa Sàlilohitaka [*], nó có đặc tính: hễ nơi nào có lúa Sàlilohitaka, thì nơi ấy, lúa Sàlikarumabaka cũng mọc lên chen dày không có chỗ hở. Nhưng lúa Sàlikarumabaka không thể làm hư hại lúa Sàlilohitaka, vì nó mọc lên ở đâu thì nó bị diệt mất, tiêu hoại ở đấy. Cũng thế, những người vào tu trong giáo hội, không được hưởng chút hương vị nào của giáo pháp, hoàn tục trở lại cuộc đời. Như thế, chúng cũng "mọc" lên như lúa Sàlikarum-abaka, chúng cũng tự tiêu hoại như lúa Sàlikarumabaka, không hai, không khác.
[*] Tên một loại lúa, thơm ngon và quý nhất.
- Ví dụ hay lắm.
- Lại nữa, ví như ngọc ma ni làm cho thành tựu mọi điều mơ ước con người, gọi là ngọc như ý. Không tỳ vết, gọi là ngọc như ý, có tỳ vết chút ít, cũng gọi là ngọc như ý, cũng thành tựu mơ ước cho mọi người giống nhau. Những người xấu xa xuất gia trong giáo hội, làm cho giáo hội thanh tịnh có tỳ vết. Có tỳ vết, hay không có tỳ vết thì giáo hội vẫn thanh tịnh, vẫn tỏa hương thơm ngào ngạt, vẫn thành tựu mơ ước cho mọi người, vẫn lợi ích cho chư thiên và nhân loại.
- Đúng thế!
- Lại nữa, ví như chiên đàn đỏ. Chiên đàn đỏ toàn hảo, không bị sâu ăn, không bị hư mục..., nó tỏa hương thơm ngào ngạt. Nhưng chiên đàn đỏ khiếm khuyết, hư lủng, bị sâu ăn... vẫn tỏa hương thơm ngào ngạt. Dẫu những tỳ khưu xấu tồn tại trong giáo hội hoặc hoàn tục về nhà, giáo hội ấy vẫn là chiên đàn đỏ; những phẩm mạo xuất gia trong phạm hạnh ấy, toàn thể ấy, hương thơm ấy vẫn xông ngát đến bốn cõi Tứ đại thiên vương!
Đấy là tất cả mọi kiến giải ngu hèn và vụng về của bần tăng, mong đại vương chỉ giáo thêm cho.
- Không dám. Ai mà làm thế thì cái đầu của hắn sẽ bị vỡ thành bảy mảnh.
- Mô Phật!
* * *
149. Thân thọ khổ, tâm có thọ khổ chăng?
- Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
- Xin đại vương nói rõ hơn một tí nữa.
- Thưa, có nghĩa rằng, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ở nơi thân, còn phàm phu thì thọ khổ cả thân lẫn tâm?
- Đúng thế.
- Vậy khi thân A-la-hán đau, tâm vị ấy không đau sao?
- Tâu, vâng!
- Có nghĩa là thân và tâm vị A-la-hán không liên hệ gì với nhau cả!
- Không phải thế, nó tương quan liên hệ với nhau.
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Đại đức không cảm nghe là kiến giải ấy mâu thuẫn nhau ư? Thân và tâm liên quan, nhưng khi thân thọ khổ mà tâm không thọ khổ? Lý lẽ ấy chẳng thuyết phục chút nào?
Đại đức Na tiên cũng mỉm cười:
- Vì đại vương chưa chứng nghiệm điều ấy nên đại vương hoài nghi. Vì đại vương chưa làm chủ được tâm mình nên không thấy rõ tâm của các vị A-la-hán. Các bậc ấy làm chủ được tâm nên khổ thọ của thân không chi phối tâm của các ngài được. Đơn giản chỉ có vậy.
- Điều ấy nghe thì có vẻ đúng, nhưng suy nghiệm kỹ cũng không hợp lý. Tại sao? Đáng ra, khi các ngài làm chủ tâm, thì các ngài làm chủ được cả thân mình chứ?
- Thân không làm chủ được, tâu đại vương!
- Tại sao?
- Khi thân đau, đại vương có thể bảo "thân đừng đau" được không?
- Không thể.
- Khi cái thân bị già, yếu, tâm có thể bảo rằng: "Thân! mày đừng già, yếu" được chăng?
- Thưa, thật không thể.
- Không những chỉ có già, đau, chết... mà còn nóng, lạnh, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện, buồn ngủ v.v... hằng đi theo thân, chi phối thân khắp ba cõi sáu đường - mà tâm chẳng làm gì được, chẳng sai bảo, nhắc nhủ gì được. Nghĩa là tâm không thể làm chủ thân được.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Trẫm tạm thời chấp nhận như vậy, nhưng tại sao trong giới luật của Tăng-già thường hay nhắc nhở: thu thúc thân?
- Thân không làm chủ được nhưng thu thúc được. Thu thúc nghĩa là rút lại, bó buộc lại... đừng cho thân manh động mà tạo nên những thân ác nghiệp như sát sanh, trộm cắp v.v... Mong đại vương hiểu cho: "làm chủ" và "thu thúc" là hoàn toàn khác biệt nhau.
- Vâng! Quả là không làm chủ được, chỉ ngăn cấm được chút ít, thế đại đức có thể nêu ví dụ cụ thể được chăng?
- Được chứ! Tâm nương nhờ thân để ăn nói, nằm ngồi, đi đứng, như con người nương nhờ quả đất mà làm nhà cửa, đường sá, làm ruộng, làm rẫy; xây dựng quốc gia nhỏ, quốc gia lớn v.v... Tuy nhiên, tâm chỉ có thể sai khiến thân, bó buộc thân, thu thúc thân trong chừng mực có thể - vì thân do kết hợp của tứ đại, còn chịu sự ràng buộc của tứ đại, ảnh hưởng tụ tan của tứ đại, sự quân bình của tứ đại v.v... ; nên nó chịu sự chi phối bởi các định luật tự nhiên của nhiên giới. Cũng thế, con người nương nhờ nơi quả đất mà sinh sống, nhưng con người chỉ có khả năng rất chừng mực là có thể cải tạo đất đai, khơi dòng sông dẫn nước, làm đê, làm hồ, đường sá, lấp eo biển v.v... chứ không thể làm chủ hoàn toàn quả đất, bắt quả đất phục vụ cho tất cả ý muốn của con người! Vì sao vậy? Vì quả đất cũng là tứ đại, nó phải bị chi phối bởi các định luật tự nhiên của trời đất, tâu đại vương!
- Thật là hay lắm vậy! Đấy là thường nhân, là phàm phu; còn các bậc A-la-hán cũng không làm chủ được thân ư? Phải có chứ? Ví như khi thân đau, thân nóng, thân lạnh; tâm các vị ấy làm chủ cái đau, cái nóng, cái lạnh?
- Nhưng như vậy không có nghĩa là tâm làm chủ thân. Chữ "làm chủ thân" không áp dụng ở đây được. Phải nói là do tâm quý ngài đã được huấn luyện, đã được buộc chặt nên sự đau, sự nóng, sự lạnh... không ảnh hưởng đến tâm của các ngài được.
- Còn phàm phu vì tâm chưa được huấn luyện nên khi thân đau, bị chi phối bởi cái đau ấy, tâm đau một cách tức khắc?
- Vâng. Ví như một con bò bị chủ buộc bằng giây thừng, ngăn không cho vật thực là nước và cỏ. Bò kia thấy nước và cỏ, bị chi phối bởi đói và thèm muốn nên bò vùng vẫy, kêu rống... Và thế là bò càng bị giây siết chặt, càng đau khổ hơn. Đấy là hình ảnh của chúng sanh trên thế gian này. Bò là chúng sanh. Cỏ và nước là ngũ trần. Chúng sanh cũng do tìm kiếm ngũ trần, thỏa mãn ngũ trần mà thọ các khổ. Cũng kêu rống, cũng vùng vẫy, nhưng càng vùng vẫy, kêu rống, càng thọ thổ nhiều hơn. Chúng sanh, tất cả phàm phu, khi tâm chưa được huấn luyện, đều y như thế: dẫu vùng vẫy kiệt sức cũng không thoát khỏi khổ.
Ngựa Àjànaya, tức là ngựa thuộc dòng giống tốt, đã được huấn luyện thuần thục rồi sẽ không vùng vẫy, kêu rống... như chú bò ở trên kia; nó sẽ ở yên, nằm yên dẫu bị buộc chặt, dẫu chủ chưa cho cỏ và nước.
Tương tự như thế, tâm các vị A-la-hán đã được huấn luyện thuần thục rồi, nên các sự thọ khổ ở nơi thân, dẫu thân bị nóng, lạnh, đói, khát v.v... tâm các ngài cũng không lay động. Vì các ngài đã tự buộc tâm vào một cái thạch trụ kiên cố, vững chắc - ấy là Định, nhờ vậy, thân dù thọ khổ, tâm các ngài không thọ khổ, tâu đại vương!
- Trẫm mới hiểu được sơ sơ.
- Vậy để hôm khác, chúng ta tiếp tục.
- Thưa, vâng.
* * *
150. Giải thêm về "tâm không động"
- Xin đại đức giảng thêm ở chỗ "tâm không động"? Thân động mà tâm không động quả là phi thường! Thế ngài có ví dụ nào cụ thể, dễ hiểu chăng?
- Có chứ! Ví như có một đại cổ thụ, gốc to lớn đến mười người ôm không xuể, tàng lá cành nhánh của nó sum suê, che phủ cả một vùng. Những cơn gió từ hướng đông, tây, nam, bắc thổi đến; cành nhánh lá lay động, có thể cành nhánh gãy, lá rụng, nhưng gốc đại thụ vẫn an nhiên không nhúc nhích. Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ cành nhánh lá lay động nhưng không thể lay động gốc, nếu rễ ken dày, sâu ở trong đất, kiên cố, vững chắc như một thạch trụ! Thân ví cho cành nhánh lá mà tâm có Định ví như gốc cây kia vậy, tâu đại vương!
- Gió dù lớn cũng không lay động, nhưng giả dụ bão lớn thì sao? Có những trận bão lớn không những lay động gốc mà còn bật tung cả gốc rễ? Ví dụ của đại đức không tương hợp, không áp dụng được ở đây rồi!
- Vẫn áp dụng được, vẫn tương hợp được, tâu đại vương! Cái tâm bị bật gốc ví cho những người mà tâm định chưa kiên cố, chưa vững chắc. Cái tâm ấy nếu bị những cơn bão, tức là những đối tượng ngũ trần lôi cuốn, quyến rũ cường liệt, thì nó cũng không thể chịu đựng nổi, bị rung động, rung chuyển hoặc bật gốc ngay! Đấy là cái tâm định từ sơ thiền đến bát thiền, rất kiên cố, nhưng vẫn có thể bị bão lay động. Chỉ có định của bậc A-la-hán mới tự tại, an nhiên và bất động đúng nghĩa. Thân vị ấy có thể bị các cảm thọ đau đớn chi phối, nhưng tâm vị ấy luôn rỗng rang, trạm nhiên, giải thoát.
- Cảm ơn đại đức đã mở mắt lớn cho trẫm.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:54:20 GMT -5
151. Người đã phạm "bất cộng trụ", xin tu lại, có đắc được đạo quả không?
[*] Bất cộng trụ: Hành dâm, trộm cắp, giết người, khoe pháp bậc cao nhân. Là giới luật tỳ kheo.
- Thưa đại đức! Người đã phạm "Bất cộng trụ", xin tu lại, nhưng y không biết gì về tội bất cộng trụ, không hay mình phạm tội bất cộng trụ, không có ai nhắc nhở, chỉ bảo đấy là bất cộng trụ. Và chính người xin tu lại ấy không nghĩ rằng mình phạm bất cộng trụ, cứ nghĩ mình tốt, trong sạch; vẫn tinh tấn, kiên trì để hy vọng giác ngộ đạo quả cao siêu. Nhưng người ấy có thể nào chứng đắc đạo quả cao siêu không thưa đại đức?
- Tâu đại vương! Đã phạm và đang phạm bất cộng trụ dẫu vì lý do nào, cũng không thể chứng đắc đạo quả cao siêu! Họ nỗ lực, tinh tấn mấy cũng vô ích mà thôi!
- Đại đức phải giải thích chứ?
- Tâu, vâng. Đạo quả cao siêu là pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế gian chỉ phát sanh đến cho những người có giới đức trong sạch, phẩm hạnh thanh khiết. Người mà đã phạm, đang phạm bất cộng trụ thì giới và phẩm hạnh đã bị hoen ố, hư hỏng, pháp xuất thế gian không thể phát sanh đến cho người ấy.
- Đồng ý là thế, nhưng thưa đại đức, vẫn có những trường hợp khác nhau chứ? Người đã phạm mà cố ý phạm, biết rằng mình đã phạm và đang phạm, biết rằng đấy là tội nặng, là giới trọng... thì tâm sẽ ăn năn, ray rứt, nóng nảy. Chính trạng thái ray rứt, ăn năn của tâm làm cho những pháp xuất thế gian cao siêu không phát sanh được, trường hợp này là đúng.
Nhưng có trường hợp khác. Đấy là người phạm mà không cố ý phạm, không biết rằng mình đã phạm, không nghi ngờ mình đã phạm, không thấy biết đó là tội nặng, là giới trọng; vẫn cứ nghĩ mình trong sạch, thanh tịnh, nên tâm họ không ray rứt, ăn năn, không nóng nảy. Những người như thế ấy thì làm sao mà không đắc đạo quả cao siêu được?
- Câu hỏi ấy hay lắm, tuy nhiên, đại vương hãy nghe đây. Có người nông phu lựa chọn giống lúa tốt, gieo trên thửa ruộng tốt thì chắc chắn đám ruộng ấy cho năng xuất cao chứ?
- Thưa vâng.
- Cũng cùng giống lúa ấy mà cho gieo trên đám ruộng xấu thì thế nào?
- Dĩ nhiên là năng xuất sẽ kém hơn.
- Giả dụ, cũng lúa ấy, lại đem gieo trên núi đá thì sao nhỉ ?
- Ai lại làm thế được? Gieo trên núi đá thì làm sao nẩy mầm được?
- Đúng thế, tâu đại vương! đám ruộng tốt ví cho giới trong sạch, thanh tịnh, là nơi sanh trưởng nảy nở của các pháp xuất thế gian, những đạo quả cao siêu. Những đám ruộng vừa ví cho người có giới chưa được hoàn toàn, nhưng có tâm tu, cũng đạt được một vài thành quả lợi ích. Còn núi đá tượng trưng cho đám ruộng không sử dụng được, do vậy, không thể nẩy mầm những pháp cao siêu ở nơi những người có giới hư hỏng, ác nghiệp nặng, phạm giới như bất cộng trụ!
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Nghe thì rất có lý nhưng vẫn có cái gì đó chưa được tương hợp, thích đáng, chưa được thuyết phục cho lắm. Đại đức có ví dụ nào sít sao hơn thế chăng?
- Có thể được! Ví như đại vương lấy những vật có ít hoặc nhiều trọng lượng như cục đá, khúc cây, miếng gỗ v.v... đại vương quăng lên hư không rồi xem thử chuyện gì xảy ra?
- Chẳng cần xem làm gì! Một hạt cát nhỏ cũng có trọng lượng, có sức nặng, vậy những vật kia sẽ rơi xuống đất thôi!
- Chúng không thể dính vào hư không được sao?
- Không thể, vì chẳng phải nhân chẳng phải quả.
- Vật có trọng lượng không thể dính vào hư không được vì chẳng phải nhân, chẳng phải quả ; cũng vậy, những người phạm bất cộng trụ, tội nặng dĩ nhiên là phải rơi xuống các cảnh giới đau khổ, thấp hèn. Chúng làm sao với tới, bay lên, chứng đạt được các cảnh giới cao siêu, vì nhân quả không thích hợp, không tương ứng, tâu đại vương!
- Hay lắm!
- Lại nữa! Ví như người ta nhen một đống lửa lớn trên một đám đất khô ráo, lửa sẽ cháy sáng rực rỡ phải không, đại vương?
- Đúng vậy!
- Trái lại, kẻ kia muốn có đám lửa sáng rực rỡ như thế, bèn nhen một đống lửa lớn, nhưng lại nhen ở trong nước. Thử hỏi đại vương, người kia có đạt được ý nguyện của mình chăng?
- Thưa, không thể. Đấy chẳng khác gì việc làm của người ngu, y chẳng thấy đâu nhân, đâu quả.
- Đúng vậy, những kẻ muốn có đạo quả cao siêu, trí tuệ chói sáng rực rỡ mà thân tâm bị chìm đắm trong nước bùn đen của dục ái, tham ái, ác giới; mới nhen lên đã tắt ngấm ngay, việc làm ấy quả là si mê, chẳng thấy nhân quả vậy. Nhân đã tắt, đã diệt thì quả làm sao thành?
- Thưa có thể đúng đối với trường hợp người kia biết mình làm ác, biết mình phạm bất cộng trụ, biết thân tâm mình bị chìm đắm trong nước ái dục; còn đối với trường hợp sau, họ làm ác với tâm tự nhiên, chẳng nghĩ rằng đó là giới trọng, bất cộng trụ; họ hoàn toàn chẳng nghi ngờ gì cả, không hề nghĩ đấy là hư hỏng, xấu xa, giới phạm; tâm họ trong sáng, hồn nhiên, chẳng ăn năn, ray rứt, nóng nảy gì cả. Trường hợp ấy thì sao họ không thể chứng đạt đạo quả cao siêu, nếu họ cố gắng kiên trì tu tập?
- Đại vương! Một người ăn phải thuốc độc, nhưng họ không biết đấy là thuốc độc, không nghi ngờ đấy là thuốc độc, thì người ấy có bị ngộ độc mà chết không?
- Đã là thuốc độc thì biết hay không biết cũng chết thôi!
- Một người bị rắn độc cắn nhưng y không biết đấy là rắn độc, không nghi đấy là rắn dộc, thì kết quả thế nào, tâu đại vương?
- Tất sẽ chết!
- Việc xấu ác, phạm trọng giới bất cộng trụ là những tội nặng, biết hay không biết nó cũng đã ngấm vào tâm rồi, như thuốc độc đã ngấm vào cơ thể vậy. Biết hay không biết, thuốc độc cũng mang hậu quả chết người. Cũng vậy, biết hay không biết, nhưng xấu ác, trọng giới, tội nặng - tất phải chịu trả quả đau khổ thôi. Chỗ tội báo nặng nề ấy không thể là vùng đất thanh cao, khô ráo cho các pháp xuất thế gian nảy sinh, đại vương nên hiểu cho như vậy.
- Thưa, vâng.
- Lại nữa, ví như đức Chuyển luân Thánh vương Kàlinga có con bảo tượng cao quý, nó di chuyển vô ngại giữa hư không. Hôm kia, đức Chuyển luân Thánh vương khởi ý chu du thiên hạ trên bảo tượng của mình. Con bảo tượng sau khi bay qua nhiều quốc độ, bay qua núi non, sông suối, rừng rậm, thị trấn, làng mạc; đến một con sông nhỏ, chợt khựng lại, không thể lướt qua được. Xuống ngựa, đức Chuyển luân Thánh vương quan sát, xem phương hướng, vị trí, xác định điểm dừng, thì thấy một cây đại thụ Bồ đề to lớn: chỗ ngồi thành đạo của Đức Phật! Chính cây Bồ đề này toát ra một năng lực siêu nhiên, dù bảo tượng có nhiều thần lực cũng không thể vượt qua, lướt trên đầu cây Bồ đề ấy. Thí dụ này như thế nào thì đại vương cũng nên hiểu câu hỏi của đại vương theo nghĩa ấy. Biết hay không biết cũng không thể chứng ngộ đạo pháp cao siêu do giới hạn của trọng tội, ác giới, phạm bất cộng trụ!
- Những ví dụ thiện xảo của đại đức mở mang rất nhiều cho trí óc của trẫm.
* * *
152. Cư sĩ phá giới và sa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao?
- Tu hành mà phá giới tất là tội nặng rồi, phải không đại đức?
- Hẳn vậy.
- Một người cư sĩ phá giới và một sa môn phá giới, ai tội nặng hơn ai?
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Đại vương thử phát biểu ý mình xem sao!
- Vâng, theo trẫm, cả hai cùng phá giới, ắt sa môn sẽ tội nặng hơn!
- Tại sao?
- Vì sa môn ăn cơm của thí chủ, sàng tọa, y áo, thuốc men đều là nợ của thập phương. Sa môn còn giữ gìn phẩm hạnh để làm gương, để dạy dỗ thiện tín, môn đồ... Chỉ chừng ấy thôi, trẫm đã xác định là sa môn phải mang tội nặng, tối thiểu là gấp đôi so với cư sĩ.
- Lời của đại vương chỉ đúng một nửa và cũng sai một nửa. Một nửa đúng là phá giới phải mang tội. Một nửa sai là do đại vương không biết rõ những phước báu của phẩm mạo sa môn.
- Xin đại đức giảng cho nghe!
- Tâu, vâng. Người cư sĩ phá giới thì mang tội, nhưng mang tội ấy chỉ hại cho mình nhưng chẳng được lợi ích cho ai. Còn sa môn phá giới, tuy có hại mình nhưng còn giúp ích cho rất nhiều người khác, đại vương có biết thế không?
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Phá giới mà còn lợi ích cho người khác! Quả thật trẫm nghe chưa lọt tai, phải nói là chối tai, nhức tai nữa là khác!
- Rồi đại vương sẽ thuận tai ngay khi nghe đến những đức tính của phẩm mạo sa môn, dù y đã phá giới.
- Xin cho nghe!
- Tâu đại vương! Một sa môn phá giới nhưng y còn trong phẩm mạo sa môn, y còn đức tin với Tam Bảo, y có pháp học; tiếng nói của y có giá trị trong hàng Tăng lữ... thì chúng ta không nên xem thường, vì sao, vì y được bảo trợ, nâng đỡ bởi mười đức tính sau đây:
Thứ nhất, y biết cung kính Đức Phật. Thứ hai, y biết cung kính Đức Pháp. Thứ ba, y biết cung kính Đức Tăng. Thứ tư, y biết cung kính các bậc phạm hạnh. Thứ năm, y biết dạy Pàli và chú giải.
Thứ sáu, y có học pháp, nghe pháp nhiều. Thứ bảy, dẫu đã phá giới nhưng khi đi đâu y cũng giữ gìn tư cách, phẩm hạnh; biết thu thúc thân khẩu, không để cho bất cứ ai cười chê tư cách của mình. Thứ tám, y có khả năng hướng dẫn và lãnh đạo chúng đồ. Thứ chín, hoàn cảnh nào y cũng giữ được phẩm mạo sa môn, Tăng tướng; còn là kẻ dìu dắt, hướng dẫn, nâng đỡ các hàng xuất gia hậu học. Thứ mười, dẫu phá giới nhưng y làm chỗ khuất lấp không cho ai hay biết.
Tâu đại vương, chính nhờ mười đức tính ấy mà sa môn phá giới tốt hơn cư sĩ phá giới nhiều. Sa môn phá giới hội đủ mười đức tính trên, y sẽ còn mang đến lợi lạc rất nhiều cho thiện nam tín nữ. Nói rõ hơn, sa môn phá giới cũng làm cho thành tựu quả bố thí, cúng dường của đàn na thí chủ. Tất thảy có mười trường hợp lợi ích:
Một là, do phẩm mạo tăng tướng bên ngoài trong sạch, vô tội, nên sẽ phát sanh tâm trong sạch cho thí chủ.
Hai là, đang trong phẩm mạo sa môn, đang đi trên lộ trình của pháp lành, dẫn đường cho thí chủ bước theo để họ biết bố thí, cúng dường.
Ba là, vẫn làm cho sự bố thí của thí chủ có kết quả, do thực hiện pháp nhỏ, pháp lớn của Tăng sự, thực hành mọi phận sự do sự chỉ định của Tăng.
Bốn là, vẫn còn các pháp nương nhờ do qui y Tam Bảo, là lý do làm cho việc bố thí của thí chủ được thành tựu.
Năm là, do còn thọ trì những pháp đã thọ, không ở lâu một nơi, không dính mắc trú xứ.
Sáu là, có nghiên cứu học hỏi giáo pháp nên vẫn là đám ruộng tốt cho thí chủ bố thí gieo hạt giống lành.
Bảy là, đem kết quả bố thí cho thí chủ vì giảng thuyết pháp cao thượng đến cho mọi người.
Tám là, do còn pháp là nơi nương nhờ, bảo trợ, nên sự cúng dường của thí chủ vẫn mang lại phước báu tốt lành.
Chín là, do đức tin, tri kiến thấy rõ Đức Phật là bậc tối thượng, cao thượng, quý báu nhất trong tam giới, không ai sánh bằng.
Mười là, có công đức quét dọn nơi làm lễ phát lồ nên sự cúng dường của thí chủ kết quả vẫn tốt đẹp.
Tâu đại vương! Ngài hãy quay ngược lại tri kiến của mình, thay đổi quan niệm của mình, vì sa môn phá giới vẫn cho kết quả thù thắng cho những ai bố thí, cúng dường. Đừng theo lý lẽ và sự hiểu biết chung chung của người đời. Họ không biết rõ sự thật đâu.
- Vâng, vâng!
- Nước không được tinh sạch, không uống được nhưng cũng có thể rửa sạch vật dơ, bụi đất, mồ hôi đấy, đại vương!
- Thưa, vâng.
- Nước sôi sùng sục cũng có thể rưới tắt đống lửa được đấy, đại vương!
- Thưa, vâng.
- Vật thực dù mất hương vị cũng có thể làm no những kẻ đói lòng!
- Thưa, vâng!
- Tóm lại, người nam nữ cư sĩ nào trú trong ngũ giới, bát giới; thọ trì giới rất tốt, rất kiên trì; lại có tâm trong sạch, vật bố thí chánh mạng, hợp pháp đến cho sa môn phá giới nhưng biết tin nghiệp, tin quả, thì chắc chắn sẽ thành tựu phước quả như y muốn. Sa môn phá giới vẫn làm cho dakkhinà (vật cúng dường) của thí chủ được kết quả, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng ngưỡng mộ nên hết lời tán thán:
- Thật phi thường thay là những lời giải đáp này. Đại đức đã làm cho tỏ lộ những pháp vị sâu kín, xứng đáng để nghe và học hỏi. Trẫm hoan hỷ mà ai nghe cũng phải hoan hỷ.
Đại đức! Khi trao một món thịt, người đầu bếp bình thường chỉ làm được một món; còn người đầu bếp thiện xảo sẽ kiếm gia vị, rau cải để nấu canh, chiên, xào, hấp nướng... chế biến thành hàng chục món ăn cũng từ một món thịt ấy thôi. Cũng thế, trẫm chỉ trao một câu hỏi, mà đại đức đã chiên, xào, nấu... thêm gia vị... để cho trẫm được ăn một bữa thịnh soạn xiết bao! Trẫm cảm ơn lắm. Trẫm đã hết nghi rồi!
* * *
153. Nước có sanh mạng chăng?
- Thưa đại đức! Nước có sanh mạng chăng?
- Tâu đại vương! Nước vốn không có tâm, không có thức, không có sự sống, làm sao lại có sanh mạng được!
- Thưa, theo trẫm được hiểu, những người ngoại đạo quan niệm rằng, nước lạnh là nước sống, nước nóng là nước chết, nên họ chỉ uống nước nóng thôi. Họ chê trách các sa môn Thích tử uống nước lọc, nước lạnh là giết hại chúng sanh. Điều ấy phải nên giải thích như thế nào?
- Đấy là tà kiến, thấy sai, hiểu lầm, tâu đại vương! Nước không có sanh mạng nên chẳng phải là chúng sanh.
- Vâng, trẫm cũng biết thế, nhưng họ bảo rằng, nước có sanh mạng, là chúng sanh; vì khi đun nước, nước đau quá nên nước sôi lên, nước kêu lên, nước sủi bọt; chứng tỏ nước có tâm, có thức biết cảm giác như tất cả giống hữu tình khác.
- Chẳng phải thế đâu, đại vương! Nước bị lửa đốt, nóng thì kêu lên, đấy là chuyện nhân quả xảy ra rất tự nhiên!
- Nhưng họ bảo, vì nóng nên nước kêu lên; kêu lên, chứng tỏ nước có cảm giác, có tâm thức.
- Thế gặp những năm hạn hán, nước trong hồ, trong giếng, sông rạch đôi khi khô cạn sao nước ấy lại không kêu? Nước ở sông, giếng, ao hồ không có sanh mạng sao?
- Vì nước ấy không nóng sôi như nước nấu!
- Tâu, nóng sôi thì kêu nhiều, nóng ít thì kêu ít! Nếu có tâm thức thì ít ra nước cũng phải kêu lên chứ, vì mặt trời thêu đốt cho đến nỗi nước khô cạn mà!
- Vâng, lẽ ra phải thế!
- Tuy nhiên, nước kêu bằng nhiều giọng khác nhau cũng không phải là nước có sanh mạng! Vì sao! Nước suối kêu, nước thác đổ kêu, nước biển kêu ì ầm năm này sang năm nọ, đâu phải vì nóng sôi mà kêu! Nó lạnh, mát là khác!
- Vâng!
- Nước nấu sôi do nóng mà kêu. Nước suối, nước thác kêu là do đổ xuống chỗ thấp, va đập vào đá; nước biển kêu là do gió thổi tạo thành làn sóng. Làn sóng này đập vào làn sóng kia, sóng đập vào bờ, vào chân núi nên có tiếng kêu. Nói tóm là do tác động của sức nóng, của gió, do va đập mà kêu chứ đâu phải nước có sanh mạng, có tâm, có thức, tâu đại vương!
- Vâng!
- Lại nữa, ví như nước nóng bốc hơi lên giữa hư không kết tụ làm mây, gió thổi đưa đám mây ấy tan tác, rơi chỗ này, chỗ kia gọi là mưa. Mưa ấy rơi xuống đất, một phần ngấm trong đất sau thành nước mạch, nước giếng, một phần thành hồ, thành ao, thành sông... rồi thành biển. Chỗ nước lặng, không kêu, không nổi thành sóng là nước trong vại, trong chum, không có sức nóng đốt và không có gió. Chỗ nước sôi động, kêu là do có sức nóng, do va đập, do gió. Đơn giản chỉ có vậy. Cho nên, nước nóng hay lạnh đều không có tâm, có thức, có sanh mạng!
- Thưa vâng!
- Người ta căng da trống, đánh lên, trống kêu đâu có sanh mạng gì đâu, đại vương!
- Vâng,
- Con voi lấy vòi hút nước uống, vì vòi voi dài, rỗng nên nước kêu lên chứ đâu phải là vì có tâm thức!
- Thưa, vâng.
- Thuyền chở hàng, căng buồm vượt biển lớn, sóng vỗ vào mạn thuyền mà kêu, tâu đại vương!
- Vâng!
- Có những loài cá to lớn sống dưới biển, thường hay đùa giỡn, hút nước phun lên giữa hư không; nước qua miệng và răng chúng nên kêu lên, chứ có sanh mạng nào ở đó, tâu đại vương! Vậy lời của ngoại đạo, sự chấp kiến của ngoại đạo hoàn toàn sai lầm.
- Trẫm đã thấy rồi!
* * *
154. (Trùng với câu hỏi 141)
* * *
155. Trên thế gian này cái gì không sanh?
- Thưa đại đức! Trên thế gian này, từ những bậc thượng đẳng như Đức Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác, Phật Thinh Văn Giác... tuy được gọi là Vô sanh, nhưng quả thật những vị ấy đã có mặt giữa thế gian, đã sanh ra từ thế gian!
- Vâng, bần tăng đồng ý.
- Các đức Chuyển luân Thánh vương, vua chúa, chư thiên, loài người... đều được sanh ra như thế?
- Tâu, vâng.
- Nói rộng ra, người có của hoặc người không có của, là khổ hoặc vui, là nữ hay nam, có phước, có tội... tất thảy... đều y như thế?
- Tâu, vâng.
- Chúng sanh các loại, từ noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh... cũng vậy nữa?
- Quả vậy.
- Loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân. Các loại dạ xoa, ma da, cưu bàn trà (kumbhanda), a tu la, càn thát bà, cẩn na la, rồng, đại bàng, voi, ngưa, trâu, bò, lạc đà, lừa, dê, cừu, nai, heo, sư tử, cọp beo, gấu, chó sói, chó nhà, chó rừng... hẳn cũng đều được sanh ra giống nhau.
- Dĩ nhiên rồi!
- Rồi, cả kim, ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não, ngọc ma ni, hột xoàn, đồng đen, đồng đỏ, đồng trắng, đồng vàng... cho chí vải, gấm vóc, lụa là... cũng đều là vật được sanh?
- Tâu, vâng!
- Ngoài những thứ ấy, có cái gì, có vật gì... mà nó "không sanh", thưa đại đức?
- Có ba cái "không sanh", tâu đại vương!
- Xin kể nghe?
- Những vật có tâm lý, có tác ý, có sinh khí, có cảm giác, là chúng sanh hữu tình đều là cái có sanh ra. Cho chí những vật được cấu tạo, hữu cơ hoặc vô cơ; chúng sanh vô tình như thảo mộc, hoặc đất đá vô tri... vẫn được sanh ra. Tất cả chúng phải nằm trong định luật già chết hoặc biến hoại, tiêu diệt. Vậy cái "không già, không chết, không biến hoại, không đổi khác" không được sanh ra trong thế gian, tâu đại vương!
- Hay lắm! Vậy cho trẫm nghe cái "không sanh" thứ hai?
- Tâu, vâng. Theo ngôn ngữ chế định, qui ước của thế gian thì gọi người, voi, gạo, ngọc, chanh, khế v.v... nhưng theo đệ nhất nghĩa đế, thắng nghĩa pháp, siêu lý thì "không có cái gì là người, voi hay ngựa cả!" Vậy cái "không phải người, voi, ngựa v.v..." cái không thuộc ngôn ngữ chế định, cái siêu lý, cái đệ nhất đế... chúng không sanh ra, không bị sanh, không được sanh trong thế gian, tâu đại vương!
- Thật vi diệu.
- Thứ ba: Tất cả hành đều vô thường, thay đổi không bền vững! Vậy cái "trường tồn, chân thường, vững bền", chúng "không sanh" trong thế gian, chúng không thể có mặt, hiện hữu trong thế gian, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Đại đức đã hé cánh cửa cho trẫm thấy những pháp siêu thế, thật cao siêu, mầu nhiệm vậy. Rất tri ân đại đức.
* * *
156. Bậc A-la-hán còn phạm giới?
- Bậc A-la- hán còn si mê không đại đức?
- Tâu, đã xa lìa hẳn si mê rồi.
- Thế các ngài còn phạm giới không?
- Có đôi khi còn giới phạm, tâu đại vương!
- Giới phạm do trường hợp nào, lý do nào?
- Tâu, các bậc A-la- hán phạm giới thường là do vô tâm, vô ý hay không biết. Tất cả có bốn trường hợp:
Thứ nhất: vô tâm, vô ý (hình thức thì có phạm nhưng nội dung, tính chất thì không, vì vị ấy không cố ý, không tác ý). Thứ hai: do không phải thời (phi thời) mà tưởng là thời. Thứ ba: ngăn vật thực rồi mà tưởng là chưa ngăn. Thứ tư: đồ dùng không phải dư mà tưởng là dư (không phải xả mà xả)
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Trẫm không đồng ý như thế. Bốn lý do đại đức đưa ra có thể tóm thành hai lý do: phạm giới do vô tâm, không lưu tâm, tất là không chú tâm, không chánh niệm; và tội do không biết, là si mê. Một vị A-la- hán không thể nào si mê và thiếu chú tâm, thiếu chánh niệm được!
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Chí lý lắm. Nhưng đại vương hãy nghe đây. Giới của Đức Thế Tôn đặt ra gồm có hai loại: những giới thuộc về thế gian, tức là những giới nằm trong định luật nhận quả, có khen chê, có tội phước. Loại giới thứ hai, Đức Thế Tôn chế định chỉ riêng cho bậc xuất gia mà thôi.
Những tội thuộc về thế gian gọi là Loka vajja.
Những tội thuộc về giới chế định gọi là Pannatti vajja.
Những tội thuộc về thế gian, ví du nhự thập ác nghiệp: cư sĩ hoặc tỳ khưu đều phải thọ trì.
Những tội thuộc về giới chế định chỉ dành cho hàng xuất gia: ví dụ ăn sái giờ, nhổ cỏ, đào đất v.v... Loại chế định này, cư sĩ không thọ trì, họ phạm không có tội, nhưng tỳ khưu phạm thì tội. Các vị A-la- hán tuyệt đối không phạm các tội thuộc về thế gian (loka vajja) ví dụ mười ác nghiệp. Nhưng các tội thuộc về chế định, đôi khi vô tâm, vô ý hoặc không biết, nên phạm phải cũng là lẽ thường thôi. Đại vương đừng nên đem chuyện thiếu chánh niệm và si mê áp dụng vào đây!
- Xin đại đức giảng rộng hoặc ví dụ cho nghe về sự vô tâm, vô ý hoặc không biết ấy.
- Tâu, vâng. Ví dụ có một vị A-la- hán trước đây là một nông phu, vị ấy chỉ biết về pháp hành, giác ngộ, giải thoát, ngoài ra, vị ấy có biết gì nữa không đại vương?
- Vị ấy biết về gieo hạt, trồng tỉa, những chuyện liên quan về cày bừa, gặt hái v.v...
- Thế thì thiên văn, địa lý, sử truyện, văn phạm, cú pháp v.v... vị ấy có biết không?
- Dĩ nhiên là không biết.
- Không biết ấy có phải là si mê không?
- Thưa, cái biết ấy thuộc về kiến thức thế gian, thuộc về trí thế gian, không gọi là si mê được!
- Đúng thế. Khi không thấy biết tham, sân của mình, hành động theo tham sân, đắm đuối trong ngũ trần mới gọi là si mê. Vậy tại sao đại vương dám khẳng định vị A-la- hán không biết, là si mê?
- Vâng, trẫm biết mình sai rồi.
- Lại nữa, ví dụ có vị A-la- hán sau khi đi khuất thực về, chánh niệm, tỉnh giác, lựa tìm một cội cây. Vị ấy chánh niệm, tỉnh giác soạn y bát ra, chánh niệm, tỉnh giác độ vật thực, chánh niệm tỉnh giác nhai, nuốt. Sau khi ăn xong, vị ấy dọn dẹp rửa ráy, cất đặt cũng hoàn toàn chánh niệm, tỉnh giác. Cũng chánh niệm tỉnh giác vị ấy đứng dậy hoàn toàn không hay biết, hoàn toàn không để ý lúc ấy đã quá ngọ. Như thế, vị ấy dùng vật thực phi thời (quá ngọ) - tức là phi thời mà tưởng là thời! Vị ấy đã phạm giới do vô tâm, vô ý không biết; nhưng tâm thái hoàn toàn sáng suốt, định tĩnh, chứ đâu có lơ là, dễ duôi, thất niệm hoặc si mê, hở đại vương!
- Trẫm biết rồi!
- Ngăn vật thực rồi, mà tưởng là chưa ngăn; y áo, vật dụng không phải là dư thừa mà xả đi, cũng do vô ý, vô tâm như trên cả, tâu đại vương!
- Vâng!
- Ngoài ra, còn rất nhiều điều vị ấy chưa biết nên thực hành sai, nói sai, phạm vào những giới cấm thuộc về chế định (Pannatti vajja) - cũng là thường thôi! Chỉ có một điều vị ấy biết chắc chắn, đó là sự giải thoát và biết những gì mình đã kinh nghiệm qua, thực hành, học hỏi hay thói quen trước đây. Vị ấy không thể biết gì ngoài trình độ và sự chứng đắc của mình. Những vị biết về một thông, hai thông, ngũ thông... cũng vậy. Những vị thuộc lòng một tạng, hai tạng, ba tạng... cũng y như thế. Sở học, chứng đắc ngang đâu thì biết ngang đó. Tất cả các vị A-la-hán đều có sự khiếm khuyết về kiến thức, về tâm, về tuệ. Chỉ có Phật Toàn Giác mới hoàn toàn mọi phương diện. Đại vương nên hiểu như vậy.
- Xin Đại đức bi mẫn tha thứ cho những hiểu lầm của trẫm.
- Không có chi!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:55:11 GMT -5
157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh?
- Thưa Đại đức! Tất cả những gì được sanh ra trong thế gian này đều do nhân, nghiệp hay thời tiết. Đấy là điều mà trẫm được học hỏi. Vậy thì có cái gì được sanh ra mà không do nghiệp, nhân hay thời tiết không?
- Có chứ, tâu đại vương! Hư không và Niết bàn không sanh ra bởi nhân, nghiệp hay thời tiết.
- Cái gì biết thì đại đức nói biết, cái gì không biết thì đại đức nên nói là không biết, chứ đừng nói những điều phản lại lời dạy của Đức Tôn sư!
- Tại sao đại vương nói nặng lời với bần tăng như thế?
- Thưa, vì Đức Toàn Giác dạy rằng: "Đạo này là nhân sẽ làm cho thấu rõ Niết bàn". Như thế, Niết bàn là có nhân sanh hẳn hòi, còn ngài lại bảo Niết bàn không do nhân sanh!
Đại đức Na tiên nói:
- Nhân làm cho thấu rõ Niết bàn và nhân sanh Niết bàn hoàn toàn khác nhau. Về nhân làm cho thấu rõ Niết bàn thì Đức Thế Tôn từng nói đến hằng trăm nhân, hằng ngàn nhân; nhưng nhân sanh Niết bàn thì Đức Thế Tôn chưa bao giờ thuyết. Xin đại vương hiểu cho như thế!
Đức vua Mi-lan-đà không đồng ý:
- Đại đức lý giải thật lạ lùng. Thế gian này là chỗ mê, tối. Niết bàn là nơi giải thoát, quang minh, xán lạn. Nếu không thể tạo nhân chỗ mê tối để đi đến chỗ sáng thì chúng ta tu hành để làm gì? Chúng ta muốn thoát khỏi chỗ tối này để lại rơi vào chỗ tối khác chăng? Chúng ta muốn lìa khỏi rừng gai rậm bít bùng này để rồi đâm đầu vào rừng gai rậm bít bùng khác sao? Cách của ngài nói như là xác định không thể tạo nhân để đi đến Niết bàn vậy!
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Chính ví dụ của đại vương đã phản bác lý luận của đại vương rồi. Niết bàn nếu được sanh ra bởi nhân và do nhân, chính là chỗ tối mà tìm về chỗ tối, là rừng rậm bít bùng để đi đến rừng rậm bít bùng khác. Tại sao vậy? Tại vì gây nhân thì phải gặt quả. Và thế là dù khổ dù vui, dù phước dù tội... đã gây nhân là chúng ta phải sanh lại để thọ quả ấy; cứ thế, chìm nổi mãi giữa luân hồi sinh tử, vào ra mãi nơi ba cõi sáu đường, không bao giờ thoát khổ được. Nếu ông nội sinh ra cha, cha sinh ra con, con sanh ra cháu, cháu sinh ra chắt v.v... thì cứ sinh mãi cho đến vô cùng tận. Nếu hột mầm sinh ra cây, cây sinh hạt, hạt nảy mầm... thì nhân quả kia muôn đời còn tương tục mãi.
Đại vương nên hiểu rằng, Đạo là con đường, Đạo là Bát chánh đạo, tức là con đường có tám chi. Đức Phật dạy rằng, Đạo là nhân làm cho thấu rõ Niết bàn, lộ trình ấy, sẽ thấy rõ Niết bàn, sẽ giác ngộ Niết bàn ấy ở trong tâm! Chứ không phải Đạo là nhân để sanh quả là Niết bàn. Bát chánh đạo, tự nó, là Bát chánh đạo, tự nó không sanh ra cái gì cả; phải có người thực hành, thực nghiệm, kiên trì tinh tấn lên đường. Bát chánh đạo chỉ là bản đồ, là con đường, quan trọng là phải theo bản đồ ấy để lên đường, tâu đại vương!
- Trẫm đã lãnh hội lờ mờ, chưa rõ lắm, mong đại đức giải thích thêm cho.
- Tâu, vâng! Trước khi ví dụ, đại vương nên hiểu cho: Niết bàn không do nhân sanh, không phải là điều kiện kết hợp. Nó là nơi vắng lặng ái dục và chấp thủ, nơi vượt ngoài lý luận và ngôn ngữ chế định của thế gian, là pháp siêu thế không thể nghĩ bàn.
- Vâng, điều ấy thì trẫm cũng đã có học.
- Bây giờ trở lại ví dụ. Có người muốn đi đến Hy-mã-lạp-sơn mà không biết đường, đại vương đưa cho người ấy một bản đồ rồi chỉ bày cặn kẽ. Người kia nghiên cứu bản đồ ấy rất kỹ: đi như thế nào, đường bộ, qua sông, núi lớn, núi nhỏ, thời gian... như thế nào y đều kể vanh vách. Tuy thế, người ấy không đi, không lên đường... thì có bao giờ người ấy thấy Hy-mã-lạp-sơn không, đại vương?
- Thật không thể.
- Đúng vậy. Có bản đồ trong tay, có Đạo trong tay, nghiên cứu Đạo rất kỹ - những không thể thấy rõ Niết bàn được - vì Đạo ấy không phải là nhân sanh Niết bàn!
- Ồ! Hay lắm!
- Có người khác, cũng thế, nhưng sau khi đại vương trao cho bản đồ, y nghiên cứu rất kỹ rồi với hành lý, vật thực, y lên đường. Sau những ngày vất vả, y lên được Hy-mã-lạp-sơn, thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn. Trường hợp ấy có thể nói: con đường là nhân sanh Hy-mã-lạp-sơn được chăng, đại vương?
- Dường như không ổn. Con đường chỉ là con đường thôi, như trường hợp thứ nhất ở trên. Trường hợp thứ hai, còn biết bao nhiêu là nhân khác: hành lý, vật thực, sự gian lao vất vả, trải qua ngày đêm v.v... Thiếu tất cả chúng đều không thể đến Hy-mã-lạp-sơn được!
- Thế ra đại vương cũng đồng ý có rất nhiều nhân?
- Vâng! Đại đức nói đúng. Có rất nhiều nhân làm cho thấu rõ Niết bàn nhưng không có nhân sanh Niết bàn.
- Nhưng cọng tất cả nhân ấy có sanh Niết bàn không hở đại vương?
- Chắc được chứ!
- Không, Đại vương lầm rồi. Cọng tất cả nhân ấy lại, chúng ta có thể thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn, chứ không thể sanh ra Hy-mã-lạp-sơn được, phải thế không?
- Ồ!
- Lại nữa, ví như có người bơi thuyền để sang bờ sông bên kia, người ấy bỏ thuyền lại, lên bờ, thấy rõ bờ kia; chứ đâu phải chiếc thuyền sanh ra bờ kia, phải không đại vương?
- Chắc hẳn thế rồi!
- Đạo là nhân sanh làm cho thấy rõ Niết bàn chứ không phải nhân sanh Niết bàn - đại vương cũng nên hiểu như thế!
- Tâu vâng!
- Niết bàn là vô vi pháp, không có điều kiện, không có nhân sanh, không có tạo tác, đại vương nên hiểu như thế!
- Thế không thể nào ví dụ hay nói năng gì về Niết bàn cả sao, đại đức!
- Tâu, có thể ví dụ, có thể nói năng để gợi ý, mở phơi, khái niệm về Niết bàn chứ không thể ví dụ, nói năng làm cho người ta thấy Niết bàn, đại vương!
- Tại sao lại như thế?
- Tâu, Niết bàn ở ngoài văn tự, ngôn ngữ; nó không thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai. Chúng ta không thể thấy Niết bàn bằng con mắt, nghe Niết bàn bằng lỗ tai, ngửi Niết bàn bằng lỗ mũi, nếm Niết bàn bằng cái lưỡi, sờ Niết bàn bằng cái thân, biết Niết bàn bằng cái ý, đại vương!
- Trời đất! Niết bàn không phải do nhân sanh, không phải tự sanh, ở ngoài ngôn ngữ văn tự, nó không thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai; chúng ta không thể biết Niết bàn qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý được! Thế rõ là Niết bàn không có rồi!
- Đại vương khẳng định như thế là không được. Tại sao thế? Ví dụ như đại vương ngồi đây nghiêm cứu rất kỹ con đường đến Hy-mã-lạp-sơn, nhưng đại vương không lên đường, chỉ lý luận về con đường, giảng nói về con đường, lại còn nói rất rõ về Hy-mã-lạp-sơn nữa. Việc làm ấy có giúp đại vương thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn chăng?
- Không đúng, phải đến tận nơi mới biết được.
- Giả dụ đại vương đến rồi, đã thấy rồi, trở về, đại vương có thể nói cho mọi người nghe để mọi người có thể thấy rõ Hy-mã-lạp-sơn như đại vương đã từng thấy rõ chăng?
- Thưa, chính họ cũng phải đến tận nơi thôi! Nói cách chi cũng không diễn tả hết được.
- Hy-mã-lạp-sơn hiện hữu sờ sờ ra đấy mà phải đến tận nơi mới thấy rõ được, huống hồ Niết bàn là pháp siêu thế, làm sao có thể biết được qua văn tự ngữ ngôn, qua mắt tai mũi lưỡi thân ý được đại vương!
- Tâu, vâng!
- Niết bàn phải được chứng nghiệm bằng tâm, phải trải qua con đường thực hành chân chánh, lìa xa chướng ngại, ràng buộc, giới định kiên trì, thanh tịnh; khi nào không còn nhiễm ô, cấu uế, chấp trước, khi ấy ta sẽ thấy rõ Niết bàn, tâu đại vương!
- Đồng ý thế rồi! Nhưng đại đức đưa ra ví dụ Hy-mã-lạp sơn là không tương hợp rồi. Mặc dù không thấy rõ Hy-mã-lạp sơn nhưng ta cũng có thể nói sơ sơ về dài, ngắn, rộng, hẹp, to nhỏ, cây cối ở Hy-mã-lạp sơn được kia mà!
- Thì ví dụ khác. Là gió. Gió trong thế gian này có lẽ không có, đại vương nhỉ?
- Gió tại sao lại không có được?
- Thế đại vương có thể chỉ rõ cho bần tăng thấy: gió có màu sắc, hình dáng gì, nó to nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp ra sao chăng?
- Không thể được!
- Có thể sờ đụng, bắt bằng tay, được chăng?
- Cũng không thể..
- Vậy thì rõ ràng, gió không có rồi!
- Gió có chứ. Đây này, trẫm đang hít thở và cảm giác rõ ràng gió đi vô đi ra nơi buồng phổi, cuống phổi, lỗ mũi của trẫm; nhưng tiếc thay, trẫm không diễn tả cho đại đức hiểu được.
- Cũng thế, tâu đại vương! Niết bàn cần phải được chứng nghiệm ở trong tâm, chẳng thể thấy nó bằng màu sắc hay hình dáng, chẳng thể diễn tả bằng ngôn ngữ hay văn tự được!
- Thế là rõ lắm rồi! Cảm ơn đại đức đã có quá nhiều ví dụ thiện xảo cho trẫm và người đời sau dễ lãnh hội.
* * *
158. (Trùng với câu hỏi 157)
* * *
159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa?
- Thưa đại đức! Dạ xoa cũng là một loại chúng sanh hiện sống trong thế gian này chứ?
- Tâu, vâng!
- Dạ xoa cũng sanh, cũng già, cũng chết như chúng ta chứ?
- Tâu, vâng!
- Dạ xoa cũng sanh, cũng chết, sao sau khi chúng chết, không ai thấy tử thi của chúng, hở đại đức! Tất cả chúng sanh như người, trâu, bò, gà, vịt, chim, rắn, khi chết thì tử thi sình thối, hôi hám...; còn xác tử thi của dạ xoa đâu mà không ai nhận biết, hay xác tử thi của dạ xoa không bốc mùi xú uế?
- Tâu đại vương! Dạ xoa có ba loại là, chư thiên dạ xoa, quỉ dạ xoa và có loại dạ xoa khi làm quỉ, lúc làm chư thiên tùy theo nghiệp của chúng. Tất cả dạ xoa đều thuộc loại hóa sanh - tức là biến hóa thân mà sanh - chứ không phải thuộc loại noãn, thai hoặc thấp sanh. Chúng sanh thuộc noãn, thai và thấp sanh thì mang thân xác tứ đại thô nên sự sanh, sự chết của chúng, mắt thường chúng ta cảm nhận được, thấy được. Còn loại hóa sanh thì thân xác tứ đại vi tế, mắt chúng ta không thấy được. Dạ xoa thuộc hóa sanh thì khi chúng chết, chúng ta không thấy tử thi và không cảm nghe mùi hôi cũng đúng thôi.
Sanh thú dạ xoa cũng tùy theo nghiệp của chúng đã tạo. Dạ xoa có thể sanh lại làm người, làm chư thiên, cũng có thể sanh lại làm cào cào, châu chấu, giòi bọ, chim rắn v..v..
- Thế những khi chúng ta cảm nhận có mùi thơm rất lạ phảng phất mà không phải có từ bông hoa, trái cây hay hương trầm? Lại có khi chúng ta cảm nghe mùi hôi thối... mà không phải từ xác chết sinh vật hay phân của thú, chim hay cóc nhái các loại, là tại sao?
- Thỉnh thoảng những lúc tâm an tịnh thế nào đó, chúng ta bắt được mùi thơm hay thối từ những chúng sanh có thân xác tứ đại vi tế ấy. Vậy mùi thơm, có thể là của chư thiên hay thọ thần; mùi thối có thể là mùi của sự chết hay xú uế dơ dáy của các loại quỉ, loại ma hay dạ xoa ở chung quanh, tâu đại vương!
- Vi diệu thay.
- Thật ra còn nhiều vi diệu hơn thế nữa mà vì thân tâm ta bị bít bùng vây hãm trong thế giới uế trược, cho nên những cảm giác tinh tế, nhạy bén lần hồi mất đi, tâu đại vương
- Cảm ơn đại đức!
* * *
160. Tại sao Đức Thế Tôn không cấm chế giới luật một lần?
- Thưa đại đức! Theo lịch sử y học thì từ xưa đến nay, có bảy vị đại lương y, làm nghề thầy thuốc giỏi. Đó là các vị Nàrada, Dhamma Tarika, Angì Rasa, Kapilà, Kanda Ratti Kàma, Atula, Pubbà Kacchayana. Cả bảy vị ấy, nghe đồn rằng, họ hiểu rõ nguyên nhân phát sanh của bệnh, biết sự biến chuyển đổi khác hay tăng trưởng của bệnh; biết thể trạng của bệnh qua các thời kỳ, biết rõ nhiều phương pháp chữa trị, biết bệnh này bao lâu thì lành, bệnh kia sẽ không lành v..v.. Ngoài ra, các vị ấy đoán bệnh, xem bệnh chỉ một lần, không đợi phải xem lần thứ hai. Các vị đại lương y ấy, tài giỏi cho đến nổi, chẩn bệnh mà như nhìn cuốn chỉ quay quanh cái trục, chỉ cần nắm cái đầu mối, là có thể phanh ra cả cuộn chỉ!
Thưa đại đức! Cả bảy vị thầy thuốc kia không phải là Đức Phật Toàn Giác, chỉ nhìn xem bệnh nhân một lần là có thể biết nguyên nhân bệnh, sự biến chuyển bệnh qua các thời kỳ, biết chữa lành hay không chữa lành! Còn Đức Thế Tôn thì sao nhỉ? Là Đấng Toàn Giác mà ngài không biết rõ những căn bệnh nào xẩy ra trong giáo hội? Không biết rõ bệnh gì phát sanh và bệnh gì không phát sanh? Không biết rõ những căn bệnh sẽ biến chuyển qua các thời kỳ như thế nào? Lại càng không biết rõ bệnh nào sẽ chữa lành, bệnh nào không chữa lành?
Nói rõ hơn, Đức Toàn Giác của chúng ta, khi trong tăng chúng xảy ra điều xấu ác nào thì ngài chế ra điều luật để ngăn ngừa, hay ngăn cấm điều xấu ác ấy. Một vài vị tỳ khưu nào đó có lời nói hay việc làm quá thô bỉ, trược hạnh, bị mọi người mỉa mai, chê trách... thì lúc ấy Đức Thế Tôn mới chế ra điều học, đưa ra cấm giới. Điều đó chứng tỏ gì? Chứng tỏ Đức Tôn Sư không biết rõ căn bệnh nào sẽ phát sanh, không biết rõ các căn bệnh biến chuyển ra sao qua các thời kỳ. Làm các việc xấu ác là bệnh, giới cấm là thuốc, phải thế chăng? Thuốc của Đức Thế Tôn cho uống, có chắc bệnh nào lành và bệnh nào không lành? Bất khả, chẳng thể biết được, có phải vậy chăng?
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Đức Thế Tôn quả là Đấng Toàn Giác đấy, tâu đại vương! Mười ngàn, trăm ngàn bậc lương y ấy đoán bệnh, chữa bệnh... cũng không thể so sánh với sự hiểu biết thâm sâu, vô lượng của Đức Đạo Sư. Ngài biết rõ tất cả, biết rõ, biết nhiều hơn tất cả sự khôn ngoan, minh triết của tất thảy nhân loại từ xưa đến nay. Vì biết quá rõ tất cả những căn bệnh nên ngài đã có cách chữa trị riêng của ngài, mà trí óc phàm phu không hiểu nổi, tâu đại vương!
- Thưa, nếu biết rõ, thế tại sao Đức Toàn Giác không nêu ra tất cả căn bệnh rồi kê toa, cho phương thuốc trị liệu một lần? Ví dụ có hai trăm căn bệnh thì Đức Phật đưa ra hai trăm phương thuốc. Sau này, ai mắc bệnh nào thì y cứ vào phương thuốc ấy mà trị liệu. Có tiện hơn không? Là Đấng Toàn Giác, ngài thiết lập, chế phạm, tùy theo nặng nhẹ mà xử phạt. Nếu làm được như vậy thì tất cả bệnh đều được ngăn ngừa từ trong trứng nước, thì làm gì có chuyện bị thế gian cười chê, đàm tiếu; mọi người khinh bỉ, mỉa mai do một số tỳ khưu xấu ác, thô bỉ đã ăn nói bậy bạ hoặc hành động càn rỡ?
- Xin đại vương hãy nhẫn nại. Sở dĩ Đức Thế Tôn thấy phát sanh điều xấu xa nào mới đưa ra giới điều để đối trị; chứ không cấm chế tất cả bằng một bộ luật một trăm giới hoặc một trăm năm mươi giới - là vì có hai lý do quan trọng sau đây. Nếu đại vương biết rõ hai lý do ấy, thì chắc đại vương phải tán thán, chấp hai tay lên đỉnh đầu để thốt lên: "Ồ! Đúng là trí tuệ của bậc Toàn Giác, bậc thấy rõ thế gian và thông suốt thế gian!"
Đức vua Mi-lan-đà rất hoan hỷ:
- Vậy thì đại đức cho nghe!
- Thứ nhất, tâu đại vương! Ví như có một người sơ tu, căn cơ thấp thỏi, hiểu biết nông cạn, phàm tính còn nhiều, bản chất yếu đuối - khi đến xin xuất gia vào trong giáo hội; vị thầy A-xà-lê bèn đưa ra bộ luật một trăm năm mươi điều, hai trăm điều rồi nói rằng "Đây là mười giới, đây là ba mươi giới, đây là bảy mươi lăm giới. Còn nữa, còn hơn một trăm giới dành riêng cho tỳ khưu nữa. Ngươi hãy cố gắng thọ trì." Nếu điều ấy xảy ra, thì kẻ xin tu kia sẽ có thái độ ra sao?
- Thưa, y chắc không dám tu đâu. Nghe giới nhiều như thế chắc tóc y sẽ dựng ngược lên, hốt hoảng bỏ về ngay tức khắc.
- Đúng thế. Và đây là lý do thứ nhất, tâu đại vương. Chính giới quá nhiều sẽ làm cho kẻ sơ tu sợ hãi. Và có lẽ còn hằng trăm, hằng ngàn người thấy vậy cũng đâm ra ớn, chẳng dám gia nhập vào một giáo hội nghiêm khắc như thế. Vô hình trung, không biết bao nhiêu là nguy hại, đau khổ cho chúng sanh!
- Cái gì là nguy hại, đau khổ ở đây, thưa đại đức?
- Tâu, giới luật nhiều, người ta sợ hãi không vào tu. Có nghĩa là giáo hội ấy không chịu mở cửa cho chúng sanh đi vào các cõi trời và người. Tại sao lại như thế? Vì trong số xin xuất gia ấy, chưa nói đến chuyện chứng đạt những đạo quả cao siêu - thì họ cũng gieo được duyên lành với Phật đạo, có đức tin, có ít giới luật, có thắng phước do phẩm mạo sa môn - đấy là nhân lành cho họ thọ hưởng phước báu trời, người trong mai hậu.
Còn nữa, trong số xin xuất gia ấy, nếu không được tu, không được gieo duyên lành; họ trở về nếp sống cũ, theo thói quen tạo những nghiệp ác về thân, về khẩu, về ý. Thế là cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la sẽ được mở ra!
Vì lý do ấy, giới luật nhiều, đã được soạn thảo sẵn, chế định trước, do nguyên nhân gần và xa: đã mở cửa bốn đường ác và đóng cửa trời và người đấy, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà thốt lên:
- Thật là kinh khiếp! Ôi! Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng xiết bao!
- Thế đại vương không chê nữa sao?
- Thật không dám thế. Xin đại đức cho nghe tiếp lý do thứ hai?
- Tâu, vâng! Cái mà đại vương chê là khi một tỳ khưu có hành động càn rỡ, thô tháo, xấu ác, bị Tăng lữ cười chê, người đời mỉa mai; Đức Thế Tôn mới chế ra học giới, chính là dụng tâm rất là sáng suốt của Đấng Toàn Giác. Không phải là Bậc Giác Ngộ thì không thể minh triết được vậy! Tại sao? Vì khi ấy, Đức Thế Tôn mới gọi vị tỳ khưu ấy đến, hỏi rằng: "Ông làm việc ấy ai cũng cười chê đấy, ông biết không?" Vị tỳ khưu sẽ trả lời:"Dạ, con biết, vì làm vậy là xấu, không nên". Đức Thế Tôn sẽ hỏi tiếp:"Ông biết là xấu, vậy hành động ấy nên được tiệp tục hay phải chừa bỏ?" Vị tỳ khưu sẽ trả lời:"Đã xấu thì không nên làm xấu nữa, bạch Đức Thế Tôn."
Cuộc đàm thoại sẽ xảy ra tương tự thế, đại vương có cảm nhận gì không?
- Trẫm là vua một nước, chẳng bao giờ nói chuyện mang tinh thần tự do, dân chủ với tội nhân như thế bao giờ! Đức Thế Tôn quả là biết tôn trọng nhân cách của con người. Trẫm phục lắm!
- Tâu, cảm nhận của đại vương là đúng, nhưng chưa phải là cái cốt tử, cái tinh yếu của vấn đề. Khi vị tỳ khưu thấy rõ hành động của mình là xấu, y sẽ tự nguyện không làm xấu nữa! Quan trọng là ở chổ ấy. Vị tỳ khưu vì thấy rõ tội nên sẽ không làm tội nữa. Tinh thần ấy là tinh thần "thấy rõ điều xấu xa, giác ngộ điều xấu xa; từ ấy sẽ không còn mê muội tạo nên những hành động xấu xa, sai lầm nữa." Chính Đức Phật đã tạo cơ hội cho vị tỳ khưu tự giác ngộ bài học, tâu đại vương.
- Cảm ơn đại đức! Ngài đã khai mở con mắt tối tăm cho trẫm. Đức Thế Tôn quả là bậc Toàn Giác. Trẫm sẽ không còn dám nói gì về vấn đề này nữa
- Cái nhân quả của vấn đề, đôi khi rất thâm sâu đấy, đại vương!
- Thưa vâng!
* * *
161. Mặt trời có bệnh chăng?
- Thưa đại đức! Mặt trời có bị bệnh chăng?
- Tại sao đại vương lại hỏi thế?
- Bởi vì trẫm thấy rằng, mặt trời đôi khi chiếu sáng chói chang, tỏ ra sức lực rất mạnh mẽ; nhưng cũng có những khi tia sáng của nó rất yếu ớt, dường như không có hơi sức. Vậy không phải khi ấy mặt trời bị bệnh sao?
- À, nếu đại vương gọi đấy là bệnh thì mặt trời có bệnh thật. Bệnh của mặt trời làm cho có những khi nó chiếu sáng yếu ớt - là do mây, khói, mưa và nguyệt thực đấy, đại vương!
- Nghĩa là do, mây, khói, mưa, nguyệt thực che ám, lấn hiếp nên mặt trời mới bị bệnh?
- Tâu, vâng!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Ôi! Mặt trời oai lực như thế, phi thường như thế mà cũng bị bệnh, huống hồ là chúng sanh, đại đức nhỉ!
- Vâng, chúng sanh bị tham che ám, lấn hiếp, sân che ám, lấn hiếp... nên phát sanh lên không biết bao nhiêu là căn bệnh đấy, đại vương!
- Trẫm hiểu rồi.
* * *
162. Lại bệnh của mặt trời nữa!
- Đại đức đã giảng về bệnh của mặt trời thì giảng cho hết luôn! Có phải là mùa lạnh, mặt trời vô bệnh, còn mùa nắng, mặt trời hữu bệnh chăng?
- Tại sao đại vương lại suy ra thế?
- Thưa, vì thường mùa lạnh, tia nắng của mặt trời rất gắt, rất mạnh; còn về mùa nắng, tuy cảm nghe rất nóng nhưng tia nắng không gắt, không mạnh bằng mùa lạnh?
- À ra thế! Có hai lý do, đại vương! Vì hai lý do này mà mùa nắng, tia nắng không mạnh. Thứ nhất là do nắng nóng nên sông, biển, ao, hồ, mặt đất... hơi nước bốc lên, vì hơi nước bốc lên giữa hư không, tia nắng bị cản lại, bị giảm cường độ, nên tia nắng trở nên yếu. Thứ hai vì nóng nên không khí giản nở tạo nên gió, gió thổi những đám mây rời ra, bay tản mạn giữa hư không. Chính những đám mây tản mạn này che bớt tia nắng mặt trời đấy đại vương!
- Hay lắm! Vậy còn mùa lạnh, tại sao nắng lại gắt?
- Tâu cũng tương tự như lý giải trên. Vì lạnh nên sông, biển, ao hồ, mặt đất... nước không bốc hơi hoặc bốc hơi rất ít; do vậy, hoặc không hoặc có rất ít hơi nước bốc lên hư không, tia nắng không bị lực cản, bị che ám nên nó rất gắt, rất mạnh là đúng thôi. Còn nữa, những đám mây trên bầu trời vì lạnh nên nó đóng thành cụm lớn, không bị gió thổi lang thang, rời rạc giữa hư không. Đây là lý do thứ hai khiến tia nắng không bị che ám, tâu đại vương!
- Thưa, thế thủ phạm, kẻ nghịch chính là hơi nước và những đám mây lang thang - làm cho mặt trời bệnh. Hèn gì!
- Hay lắm! Đại vương đã tìm ra thủ phạm tạo nên căn bệnh cho mặt trời, thế còn thủ phạm tạo nên mọi căn bệnh của chúng sanh thì sao nhỉ?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Đại đức lái câu chuyện hay thật đấy! Hẳn thủ phạm chính là vô minh và ái dục rồi!
- Không sai!
* * *
163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con.
- Thưa đại đức tất cả bồ tát thuở trước đều phải trải qua hoàn cảnh bố thí vợ con, hay chỉ riêng bồ tát Vessantara của chúng ta thôi?
- Tâu, tất cả. Vị bồ tát nào hành ba-la-mật cũng đều bố thí vợ con như nhau cả thảy.
- Thế vợ con có hoan hỷ làm vật thí cho bồ tát Vessantara bố thí chăng?
- Tâu đại vương! Vợ thì hoan hỷ nhưng con thì không. Nếu trường hợp người con ấy lớn, hiểu biết về nhân quả, phước báu, hiểu rõ tâm nguyện của cha thì nó sẽ hoan hỷ; còn nếu nó nhỏ quá, chưa biết gì thường thì khóc than rất bi lụy.
Vua Mi-lan-đà trầm ngâm giây lâu rồi nói:
- Câu chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con, trẫm nghĩ ngợi rất nhiều. Nếu nói đấy là việc khó thì đúng là việc khó làm, thế gian không ai làm nổi, ngoại trừ bồ tát Vessantara! Nếu bảo đấy là sự nhẫn tâm, trái tim đã biến thành gỗ đá - thì chẳng ai có thể biện hộ dùm cho bồ tát Vessantara được, thưa đại đức!
- Đại vương xin cứ thẳng thắn cho. Lý do nào mà đại vương ghép tội bồ tát Vessantara như thế?
- Không dám. Trẫm đâu dám kết tội, nhưng rõ là trẫm có bảy điều muốn đem ra vấn nạn đại đức đây!
- Bần tăng xin rửa tai lắng nghe.
- Vâng! Đại đức hãy nghe đây:
Điều thứ nhất: Tại sao bồ tát lại đang tâm bố thí hai đứa con yêu của mình vốn là lá ngọc cành vàng - đến người bà-la-môn để làm tôi tớ cho gia đình hắn?
Điều thứ hai: Tại sao khi hai trẻ vùng khỏi sợi giây buộc của lão bà-la-môn, chạy đến bên bồ tát; khẩn cầu, van xin bồ tát giúp đỡ, hầu thoát khỏi bàn tay độc ác của lão ấy, bồ tát lại nguội lạnh, dửng dưng đến như thế?
Điều thứ ba: Trước đó, khi lão bà-la-môn cột trói hai trẻ, vừa lôi bừa đi, vừa đánh đập chúng trước mặt bồ tát, thế mà ngài chẳng động lòng? Chẳng động lòng, tim trơ trơ như gỗ đá thế kia, hay bảo đấy là ngài trú trong pháp xả ba-la-mật?
Điều thứ tư: Khi hai trẻ khóc than thống thiết rằng: "Cha ơi! Lão già bà-la-môn xấu xí kia đúng là quỷ dạ xoa! Con quỷ ấy xin hai con về là để ăn thịt. Vậy xin cha hãy cứu hai con!" Ôi! Con mình đau khổ như thế, van xin với nước mắt thống lụy như thế - mà bồ tát của chúng ta chỉ an ủi sơ sơ: Không có đâu, hai con, không có đâu, đừng sợ. Nói thế thì có được ích gì, chỉ như một nhát dao đâm sâu vào tình phụ tử đấy thôi.
Điều thứ năm: Khi đứa trẻ trai Jàli lăn lộn, vùng vẫy, ngã quỵ, gần bên chân bồ tát, ngước đôi mắt hoen đỏ, bi thảm, nưc nở tâu xin rằng: "Thưa cha, xin cho em gái Kanhà của con được ở lại, nó còn nhỏ dại quá, nó không chịu nổi sự đau khổ này đâu. Con xin gánh chịu tất cả, con sẵn sàng để cho quỷ dạ xoa kia ăn gan, uống máu, ăn thịt con! Phải cứu em gái tội nghiệp của con, cha ơi!" Ôi! Trước sự thống thiết của con trai như thế mà bồ tát chẳng xúc động, chẳng nói năng gì, thì kể cũng lạ đời!
Điều thứ sáu: Khi bị lão bà-la-môn đánh đập, cột trói rất chặt, kéo bừa hai trẻ lê trên đất như hai con heo; trẻ Jàli chồm lên, lấy thân đỡ roi cho em, không ngớt chửi mắng lão bà-la-môn hèn hạ; thế mà bồ tát lại giả vờ quay mặt đi, chẳng rầy trách lão bà-la-môn một tiếng là cớ làm sao?
Điều thứ bảy: Lão bà-la-môn lôi hai trẻ đi xa dần, vấp phải đá, đụng phải cây, thân thể chúng bầm dập, rách nát, tươm máu, tiếng khóc la thảm thiết từ núi rừng hoang vắng vọng lại! Thế đó. Làm cha, làm mẹ có chút thương con thì trái tim chắc cũng vỡ ra làm trăm mảnh; thế mà bồ tát cũng dường như không, bước vào cốc, đưa tay khép cửa lại!
Thưa đại đức! Dù bồ tát Vessantara phát đại nguyện bổ túc ba-la-mật đi nữa, muốn thành tựu vô thượng bồ đề tuệ đi nữa, ngài cũng phải có trái tim biết thương xót con mình chứ? Ai nỡ nào đang tâm để cho con mình kêu gào, la khóc như vậy chứ? Thật trẫm không hiểu nổi.
- Đại vương nên nhớ rằng, việc bố thí vợ con của bồ tát, nhất là bố thí con, mà đại vương bảo là đang tâm, nhẫn tâm, không có trái tim ấy - đã chấn động mười ngàn thế giới trong cõi sa bà này! Chấn động khắp các cõi trời, người, Đế thích, a tu la, long vương, phạm thiên, dạ xoa, ma vương v..v... Tất thảy, ai cũng nổi gai ốc, dựng tóc gáy; và ai cũng tán dương, khen ngợi không hết lời! Thế thì việc làm ấy là tốt hay xấu hở đại vương! Tốt hay xấu mà đại vương lại nghiêm khắc luận tội, trong lúc mười ngàn thế giới lại tán thán không hết lời?
- Trẫm hoài nghi về điều ấy!
- Vâng! Tốt hay xấu còn tùy thuộc cách nhìn cùng quan niệm riêng tư. Nhưng sự bố thí ba-la-mật của bồ tát có mười đức tính cao thượng, đại vương cũng nên biết, để từ đó rút ra kết luận cho mình.
- Xin cho nghe.
- Tâu, vâng. Mười đức tính ấy như sau:
Một là, sự bố thí siêu việt. Hai là, dứt trừ sự thương yêu (bởi tâm ái luyến). Ba là, thái độ dứt bỏ. Bốn là, không ăn năn, hối hận. Năm là, sự bố thí vi tế.
Sáu là, sự đoạn tuyệt. Bảy là, sự bố thí to lớn. Tám là, sự bố thí thế gian khó hiểu. Chín là, sự bố thí khó khăn. Mười là, sự bố thí chẳng ai so sánh được.
Sở dĩ mười ngàn thế giới rung động là do sức mạnh của mười đức tính ấy, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vẫn lắc đầu:
- Thưa, bao nhiêu đức tính cũng vậy thôi! Bao nhiêu sức mạnh cũng vậy thôi. Sự dứt bỏ, bố thí một cách cao thượng, siêu việt, được mười ngàn thế giới tán dương mặc dầu - trẫm vẫn nghi ngờ như thường! Sự bố thí mà không hề nghĩ đến sự đau khổ của kẻ khác, làm cho kẻ khác khóc than, la hét... mà có phước báu được sao? Đấy là con đường đi về cõi trời hay con đường đi vào địa ngục, đại đức?
- Tâu đại vương! Có thể điều ấy đúng khi ta chưa hiểu rõ lý nhân quả. Nhưng nếu ta hiểu rõ lý nhân quả rồi, đồng thời, thấy được cái đại nguyện và dụng tâm sâu kín của đức Bồ tát thì ta sẽ không nghi ngờ gì nữa.
- Đại đức cứ tiếp tục.
- Tâu, vâng. Ví như có một đạo sĩ tu tập trong rừng sâu, hằng ngày trú tâm từ vô lượng, toát ra một năng lực mát mẻ bao phủ cả một vùng. Thế rồi, các loài hươu, nai... đến gần đạo sĩ mà chúng không hề sợ hãi. Bất chợt, sáng hôm kia, đạo sĩ tỏ vẻ hung dữ cầm cây đánh đuổi hươu, nai đi chỗ khác. Đại vương thấy thế nào,vị đạo sĩ đánh đập chúng sanh, vậy là độc ác, vậy là không có lòng từ sao?
- Thưa, đánh đập như vậy là không được rồi!
- Tâu đại vương! Chính đánh đuổi như thế, vị đạo sĩ đích thực mới có tình thương đối với hươu, nai! Vì sao vậy? Vị đạo sĩ nghĩ rằng, nếu chúng tưởng mọi người ai cũng đều hiền lành, vô hại, tìm đến chơi một cách vô tư như thế - thì có lúc, sẽ bị bọn thợ săn làm hại! Điều này chứng tỏ gì? Chứng tỏ hiện tại dường như đau khổ nhưng tương lai, sẽ lợi ích cho nó, an vui cho nó hơn. Câu chuyện bố thí hai con của bồ tát, chúng ta nên suy xét theo chiều hướng này thì may ra ánh sáng mới được lộ ra, tâu đại vương!
- Thưa, chưa được thuyết phục lắm, nhưng đại đức cứ cho xin ví dụ nữa đi.
- Tâu, vâng. Ví như có một sa môn tu hành rất tinh tấn, có giới hạnh, bị té xuống hố gãy chân, gãy tay, máu ra rất nhiều. Có người thợ săn đi ngang, thấy vậy, khởi mối thiện tâm, muốn xuống cứu vị sa môn ấy. Vị sa môn nói rằng: "Tôi đau lắm, cứ để tôi chết ở đây!" Người thợ săn nói: "Ở đây tôi không có thuốc chữa, ngài hãy chịu khó, ráng chịu đau để tôi cõng về làng". Sau ba lần thuyết phục, vị sa môn không chịu. Người thợ săn quyết giữ ý mình, quyết cứu sa môn cho bằng được, bèn xuống hố cõng lên. Phàm tay gãy, chân gãy để yên thì ít đau, nhưng khi di chuyển, động cựa, các khớp xương sai lệch, đau đến tận xương tủy. Người thợ săn biết vậy, nhưng vì muốn cứu bậc tu hành, chẳng ngại đường xa vất vả, chẳng ngại tiếng rên la đau đớn của vị sa môn, lúc đi bộ, lúc đặt lên xe kéo, chuyển được về làng. Lúc sắp xếp lại các khớp xương, bó giẻ để cột lại, vị sa môn đau đớn bất tỉnh... Mấy ngày hôm sau, vị sa môn ngỏ lời cảm ơn. Người thợ săn nói: "Ngài chịu khó tịnh dưỡng ở đây vài tháng, tôi nuôi ngài được. Khi nào lành, chân tay hồi phục, tha hồ lên núi mà tu!".
Tâu đại vương! Câu chuyện xảy ra như thế, ta biết rõ đâu nhân đâu quả, đại vương không lên án nghiêm khắc người thợ săn bất nhẫn trước sự đau đớn quằn quại của vị sa môn chứ?
- Dĩ nhiên là không rồi. Chính nhờ chịu đựng được đau đớn ấy, vị sa môn mới được lành bệnh an vui!
- Việc làm của người thợ săn - dường như lạnh lùng trước sự đau đớn của vị sa môn - có được quả báo như thế nào? Y sẽ mở cửa thiên đường hay y mở cửa địa ngục?
- Khách quan mà luận nhân quả, có lẽ người thợ săn được phước báu rất lớn, rất vĩ đại thưa đại đức!
- Sự khổ sở, đau đớn của hai trẻ, và cái tâm dường như lạnh lùng của bồ tát, cũng tương tự như vị sa môn và người thợ săn vậy, tâu đại vương!
- Qua hai câu chuyện kể của đại đức, trẫm thấy nó có lý được một vài phần.
- Còn nữa, tâu đại vương! Ví như đại vương làm vua một nước, hôm nọ, đại vương muốn làm một công trình dẫn thủy nhập điền vĩ đại; sẽ có lợi ích rất lớn cho nông nghiệp, có thể đem đến hạnh phúc ấm no cho cả nước. Đại vương bèn ra một thông cáo rộng rãi là muôn dân phải đóng thuế bằng tiền, bằng lúa gạo hoặc bằng nhân công. Nếu ai không nộp sẽ bị trói, đánh đập hoặc bị giam cầm v.v... lệnh ban ra, mọi người rất sợ hãi, ai cũng than khổ, than không có tiền, than không có lúa gạo! Người không nộp thì bị đánh đập, bị bắt, bị trói, bị giam cầm... lời ta thán của muôn dân kể sao cho xiết!
Tuy nhiên, đại vương vẫn lạnh lùng, cương quyết làm công trình thủy lợi, dẫu trải qua biết bao gian lao, vất vả; lại còn bị hàm oan, bị nhân dân lên án là khắc nghiệt, là bạo chúa v.v...
Sau khi công trình làm xong, muôn dân hoan hỷ, sung sướng; từ rày về sau, ruộng đồng khỏi lo thiếu nước, lúa ngập khỏi lo úng nước v.v... Nông dân được mùa, mở hội ăn mừng!
Tâu, đại vương! Ví như đại vương làm việc ấy, đại vương quả thật là người không có trái tim, không xúc động trước sự ta thán của muôn dân, bá tánh nhỉ?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Chính cái kết quả sau cùng đã biện hộ giùm cho trái tim của trẫm rồi!
- Hay lắm - Đại đức Na tiên cũng mỉm cười. Chính kết quả sau cùng sẽ biện hộ giùm cho trái tim của bồ tát Vessantara, tâu đại vương!
- Thú thật với đại đức, câu chuyện kể của đại đức, mặc dầu là ví dụ, nhưng sao nó giống với vài công việc lớn mà trẫm thường làm cho quốc độ này. Ban đầu, vì không hiểu nên bá tánh rất ta thán, nhưng sau đó họ ca tụng không hết lời. Còn riêng phần trẫm, trẫm rất mãn nguyện. Kết quả mai sau, kiếp sau ra sao, trẫm cũng không biết nữa.
- Đều là phước báu trời, người rất vi diệu đấy, tâu đại vương!
- Thế giả dụ nhân dân đóng thuế rất sung mãn, trẫm lấy số tiền ấy mua vải cóc, lương thực, thực phẩm - để cúng dường, bố thí đến cho thập phương sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ, những người bần cùng đói khổ - thì có được phước báu không đại đức?
- Vẫn được rất nhiều phước báu, tâu đại vương! Thế đại vương còn hoài nghi gì về việc bố thí hai trẻ của bồ-tát Vessantara nữa chăng?
-Vẫn còn hoài nghi, đại đức! Việc làm của trẫm về dẫn thuỷ nhập điền, bố thí, cúng dường mà lấy tiền thuế - mới nghe thì từa tựa như chuyện bồ-tát bố thí hai trẻ: một bên thì bá tánh kêu than, một bên thì hai trẻ la khóc. Nhưng dù sao hai trẻ là con ruột của mình, đem cho đi thì hơi quá. Bố thí hai trẻ là việc làm quá trớn, quá đà, như quả cân nghiêng hẳn về một bên! Một bên là khối đá trơ lì, nặng nề, bên kia là trái tim nhẹ hẫng. Phước báu sau này thế nào không ai biết, nhưng chắc chắn thế gian thường tình không ai khen ngợi đâu, họ chê trách thậm tệ là dĩ nhiên vậy.
- Đại vương cứ nói nữa đi!
- Vâng! Đại đức hãy xem! Cái gì quá trớn, quá đà đều không tốt cả.
Cái xe chở nặng quá sức mình, trục, căm sẽ gãy. Ăn vật thực quá nhiều, trúng thực mà chết! Thuốc bổ quá liều, thành độc dược. Mưa quá nhiều, lúa ngập chết.
Người bố thí với hằng tâm, hằng sản... nhưng thỉnh thoảng cũng phải biết tính toán, xem lại sự chi tiêu, xem lại gia sản - nếu không, sẽ khánh tận.
Nắng quá gắt, quá nhiều, quả đất sẽ nứt nẻ. Người có lòng tham ái, tham dục qúa nhiều, có thể đưa đến điên loạn. Tham lam của cải, bạc tiền nhiều sẽ dẫn đến trộm cắp, cướp của, giết người. Người ham nói, nói nhiều, dễ bị lỗi lầm. Lũ lớn quá sẽ vỡ bờ.
Người học nhiều quá dễ loạn tâm, loạn trí. Người dũng cảm quá thì yểu thọ v.v... Thưa đại đức! Quá trớn, quá đà... đều đưa đến kết quả xấu, bố thí hai trẻ cũng là cái gì nằm trong định luật tất yếu ấy.
- Tâu đại vương! Cái gì quá trớn, quá đà, quá nhiều như đại vương kể thì chẳng đem đến kết quả tốt đẹp. Nhưng cũng có những cái quá nhiều, quá mạnh, quá to lớn... chúng không nằm trong "định luật tất yếu" của đại vương thì sao?
- Xin cho nghe!
- Tâu, vâng! Ví dụ như:
Người thắng cuộc cuối cùng qua các trận đô vật, được mọi người tán thưởng, chắn hẳn là tay đô vật mạnh nhất. Quả đất to lớn, vĩ đại - nhờ vậy, nó là nơi nương tựa, che chở, nơi sinh sống cho con người, muôn thú, cỏ cây! Hư không vĩ đại quá, nhờ vậy, nó mới bao dung được quả đất, trăng sao! Sư tử uy dũng quá nó mới làm chúa sơn lâm! Ngọc ma ni quý báu quá nó mới đứng đầu trân châu thất bảo, thành tựu được ước muốn của con người. Đức vua cao sang và thắng phước nên đứng đầu cả trăm họ, muôn dân! Kim cương cứng rắn quá, vật gì nó cũng cứa đứt được. Tỳ khưu giới đức cao thượng quá nên dạ xoa a-tu-la đều phải quỳ mọp dưới chân. Đức Phật tối thượng quá nên tam giới không có ai sánh bằng...
Đại vương, tương tự như thế, việc bố thí hai trẻ là việc khó làm, là chuyện quá hy hữu, quá vĩ đại, tạo nên năng lực quá lớn, quá mạnh - nên sẽ có phước đức rất thù thắng, rất vi diệu, chấn động cả mười ngàn thế giới, làm cho người, trời, Đế thích, phạm thiên, a-tu-la, long vương, dạ xoa v.v... không hết lời tán dương khen ngợi. Và việc bồ tát bố thí đặc thù, vô thượng ấy - quá đà, quá trớn ấy, chính là nhân duyên thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác đấy, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng thán phục:
- Trí tuệ của đại đức quả là vô biên, vô lượng. Những ví dụ của trẫm đưa ra dường như là đẩy đại đức đến chân tường; thế mà, cũng những ví dụ tương tự, đại đức lại tạo sức bật trở lại, làm cho trẫm không còn chỗ mà thối lui. Thật là khâm phục vậy.
Đại đức Mi-lan-đà khiêm tốn:
- Đại vương đừng làm cho bần tăng thêm hổ thẹn. Chính nhờ đại vương đã gợi ý cho bần tăng đấy thôi. Còn nữa, ý đại vương còn muốn xác định là bố thí không được quá trớn, quá trớn kết quả sẽ xấu. Bần tăng không nghĩ thế, tuy nhiên, vẫn có những giới hạn nhất định. Có những bố thí mà kết quả của nó sẽ là bốn đường ác đấy, tâu đại vương!
- Xin cho nghe.
- Tâu, vâng. Có mười trường hợp không nên bố thí như sau:
Một, cho người nữ đến người nam để thỏa mãn dâm dục. Hai, cho bò cái đến bò đực. Ba, cho rượu hoặc chất say. Bốn, cho hình ảnh, hình vẽ khiêu dâm. Năm, cho khí giới.
Sáu, cho thuốc độc. Bảy, cho xiềng xích để người ta trói, giam cầm kẻ khác. Tám, cho gà mái đến gà trống. Chín, cho heo cái đến heo đực. Mười, cho bàn tính sai, cân đo lường sai, để người ta lường gạt nhau!
Đấy là mười loại bố thí mà người trí thức không làm vì nó là chìa khóa mở cửa đi vào ác đạo. Còn các loại bố thí khác thì tùy sức, tùy nghi, phải thế không đại vương?
- Có lẽ vậy.
- Thế thì có ấn định một ranh giới nào nữa trong việc bố thí không đại vương?
- Trẫm không rõ lắm.
- Ví dụ như cơm nước, y phục, chỗ ở, chiếu đệm, gường ghế, vườn ruộng, tôi trai, tớ gái, trâu bò, gà, vịt... đều có thể bố thí được chứ?
- Thưa, vâng.
- Ví dụ cho tài sản, của cải, bạc tiền, một trăm đồng tiền vàng, một ngàn đồng tiền vàng v.v... hẳn là được chứ?
- Thưa, vâng. Có quyền bố thí cả tay, chân, tim, óc... và luôn cả sanh mạng mình nữa, thưa đại đức - nếu biết trú tâm vô lượng!
Đại đức Na-tiên nói:
- Đại vương bảo bố thí cả tay, chân, tim, óc và luôn cả sanh mạng đều được - thì sao bồ tát Vessantara bố thí vợ, con - Đại vương lại bảo là quá đà, quá trớn, không được?
- Đại đức cứ nói.
- Một người cha nợ nần, vì quá nghèo khổ túng bấn, bèn cho con đi ở thuê hoặc bán con cho người khác - là chuyện thế gian cũng thường lắm mà!
- Vâng!
- Thế có ai chê trách họ không?
- Có chứ! Nhưng rồi người ta cũng thông cảm họ hoàn cảnh quá đói nghèo.
- Cũng thế, tâu đại vương. Đức bồ tát tầm cầu vô thượng bồ đề tuệ, vì đói ba-la-mật, vì nghèo phước báu - nên phải bố thí vợ, con, đại vương cũng phải biết "thông cảm hoàn cảnh" của ngài chứ?
- Thưa, có lẽ vậy. Nhưng theo ý trẫm, bố thí cá nhân mình vẫn tốt hơn. Bố thí mình thì khỏi làm đau khổ vợ con, vẫn là biện pháp hay nhất.
Đại đức Na tiên giải thích:
- Người ta xin vợ, xin con mà mình lại đem cho mình là việc không hợp lẽ. Xin vật này mà đem cho vật khác là không hợp lẽ. Nhưng nếu có người xin chính mình thì ngài cũng không tiếc đâu. Giả sử không phải người mà là sư tử, cọp, beo, chó rừng... muốn xin ngài để ăn thịt, thì ngài cũng cho ngay, không hề tiếc sanh mạng. Đại vương nên nhớ rằng, đức bồ tát là miếng thịt chung cho tất cả chúng sanh đó sao?
Ví như trăm loài cây trong rừng đến mùa thì đơm hoa trổ trái, rồi xanh, rồi chín vàng. Trái cây chín vàng ngon ngọt ấy hằng để tự do cho muông thú, muôn chim, người đến đấy hái ăn tha hồ. Cũng như thế ấy là tâm của đức bồ tát khi phát nguyện ba-la-mật, tâu đại vương!
Trải qua hai mươi bốn vị Phật tổ, trải qua bốn a-tăng -kỳ và gần một ức kiếp như thế, bồ tát tu tập ba-la-mật vô lượng như thế; đã từng xả ly, dứt bỏ vô lượng ngai vàng, công danh, phú quý, tài sản, lúa gạo, xe cộ ruộng vườn, tôi trai, tớ gái, vàng ngọc... đến cho tất cả chúng sanh. Ngài lại bố thí tay, chân, tim, gan, mắt... và luôn cả sanh mạng mình nữa. Ngài cương quyết dứt bỏ, bố thí vật ngoại thân, cho đến nội thể, sanh mạng... cũng chỉ vì một mục đích vô thượng, đánh đổi bồ đề tuệ, Chánh Đẳng Giác, tâu đại vương!
Ví như một vị quan tốt, thanh liêm, chánh trực, có tâm thương yêu dân. Vị ấy ở trong một triều đình có ông vua tàn bạo, sống đời xa hoa, phù phiếm. Dân chúng bị sưu cao, thuế nặng, đói khổ nhưng của cải, lương thực, vàng bạc của cung điện chất đầy như núi.
Cũng vì mục đích cứu khổ cho bao người, vị quan tốt kia bèn bán tất cả ruộng vườn, gia sản, tôi trai, tớ gái... để mua vải vóc, lương thực, vật thực... để chẩn bần, cứu đói cho chỗ này chỗ kia. Tiếng lành đồn xa, nhân dân ái mộ; họ lật đổ triều đình và suy cử vị quan tốt kia lên làm vua. Sau khi lên ngôi, vị tân quốc vương kia không tiếc của kho, đem phân phát hết cho dân, nhờ vậy, đời sống trong quốc độ thoát khỏi đói nghèo, dần dần cường thịnh.
Tâu đại vương! Việc làm của vị quan tốt kia cũng tương tự như việc làm của bồ tát Vessantara. Muốn cầu ngôi vị Chánh Đẳng Giác để cứu khổ cho chúng sanh ba cõi bốn loài thì ngài đâu có tiếc thứ gì? Đâu phải vì không thương vợ, xót con mà ngài bố thí vợ con? Chính Đức Thế Tôn, sau khi giác ngộ, ngài đã có nói một câu kệ với đại ý rằng:
"Này các thầy tỳ kheo! Chính khi bố thí vợ con, không phải Như Lai không thương yêu vợ con. Hai trẻ Jàli và Kanhà thông minh và ngoan ngoãn hết mực, công chúa Maddì hiền thục, đức hạnh nhất trên trần hoàn. Có con như thế, có vợ như thế mà đem bố thí, ruột Như Lai cũng đứt từng khúc. Nhưng Như Lai phải hướng đến cái cao xa, cái rộng lớn hơn: đấy là ngôi vị Chánh Đẳng Giác, đấy là tình thương không bến bờ đối với tất cả chúng sanh!"
Đại vương nên nhìn xa, thấy rộng, lặn vào chiều sâu thăm thẳm của câu chuyện hơn thế nữa!
- Vâng, vâng! Trẫm đang suy nghiệm đây, đại đức cứ tiếp tục câu chuyện đi!
- Tâu, vâng! Đại vương chớ nên lên án bồ tát dửng dưng, lạnh lùng. Đức bồ tát trước cảnh tượng đứt ruột ấy, đã âm thầm chiến đấu với chính mình. Ngài nuốt sự nhẫn nại ấy, sự chịu đựng ấy, lửa đốt ấy vào bên trong, nên sóng lòng trào sôi dữ dội - Đại vương đâu có biết. Chính khi bồ tát bước vào thảo am, khép cửa lại, là nhằm ngăn bớt tiếng kêu khóc của hai con từ núi rừng xa xôi vọng đến. Ngài đã không chịu nổi, muốn bịt hai tai lại. Nỗi 'căm hận" lão bà-la-môn ác độc làm cho toàn thân ngài run lên, máu dồn dập, ngài phải thở bằng miệng, nước mắt tuôn tràn. Ồ! Không phải là nước mắt nữa mà chính là lệ máu rỉ ra vì xót thương hai con. Ngay khi ấy, một niệm sân khởi lên, một niệm sát khởi lên đối với lão bà-la-môn; nhưng bồ tát đã kịp thời xả ly, niệm tâm từ mát mẻ, một hồi lâu sau mới trấn tỉnh lại được!
Đại vương thấy đó. Đại vương thấy rằng, lòng xót thương hai trẻ của bồ tát đâu khác gì thế gian, đồng thời còn hơn cả thế gian nữa. Tại sao vậy? Vì khi bố thí dứt được hai trẻ thì chí nguyện của ngài sẽ thành tựu, đồng thời hai trẻ sẽ được sung sướng và hạnh phúc hơn. Một việc làm mà thành tựu hai lợi ích, đại vương có biết chăng?
- Đại đức hãy giảng giải thêm. Cái lợi ích thứ nhất, tức là thành tựu bố thí ba-la-mật thì trẫm rõ rồi; nhưng còn lợi ích thứ hai: sự sung sướng và hạnh phúc của hai trẻ, trẫm hồ nghi lắm! Cho con để làm tôi tớ mà gọi là sung sướng, hạnh phúc ư?
- Tâu đại vương! Hai trẻ vốn là cành vàng lá ngọc, ở trên nhung lụa thế mà phải sống đời ăn trái chua, củ sống, hẳn là rất khổ sở vậy. Do có thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, bồ tát biết rõ số phận tương lai của hai đứa trẻ. Thứ nhất là hai trẻ không thể làm tôi đòi hầu hạ ai. Thứ hai, rồi hai trẻ sẽ được gặp lại thái thượng phụ ở kinh thành, sẽ thóat khỏi cảnh đói khổ ở rừng sâu!
- Có thật thế không, đại đức?
- Thật ra, bồ tát còn biết nhiều hơn thế nữa. Ngài biết rằng rồi "ông nội" sẽ chuộc lại hai trẻ. Ngài biết rằng, vì lý do hai trẻ về kinh đô nên vua cha sẽ thỉnh ngài về để kế vị ngôi vương. Đó là cơ hội tốt để ngài lo cho hạnh phúc muôn dân, đồng thời bổ túc ba-la-mật cho mình. Ngài còn biết rằng, lão bà-la-môn tuổi thọ không còn được bao lăm, phước duyên ít, kiếp phận hèn hạ chẳng thể nào bắt hai trẻ làm tôi tớ, dù chỉ một ngày, tâu đại vương!
- Thưa, các việc trên là có thể, nhưng việc dưới, việc bồ tát biết lão bà-la-môn vì phước duyên ít, chẳng thể bắt hai trẻ làm tôi tớ dù chỉ một ngày, là sao ạ? Lấy gì làm bằng chứng?
- Tâu đại vương! Bằng chứng về lãnh vực này thì bần tăng đành chịu. Tuy nhiên bần tăng sẽ đưa ra ở đây rất nhiều ví dụ xoay quanh vấn đề ấy. Và có lẽ từ những ví dụ ấy đại vương sẽ tự giải đáp thắc mắc cho mình chăng?
- Trẫm đồng ý!
- Tâu, ví dụ như mặt trời, mặt trăng, nó to lớn, vĩ đại, nhiều oai lực; vậy ai trên thế gian này có khả năng lấy mặt trời, mặt trăng ấy đặt vào rương, vào thùng để làm đèn chiếu sáng không?
- Chẳng thể được đâu, đại đức!
- Lại nữa, ví như viên ngọc ma ni quí báu của đức Chuyển luân Thánh vương, rất to lớn, hào quang chói lọi, chiếu sáng vô ngại cả hằng do tuần; có người khởi tâm muốn ngăn hết hào quang của ngọc ma ni, bèn lấy một tấm vải bọc lại, hy vọng rằng làm như vậy ngọc ma ni sẽ không còn tỏa sáng nữa. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có thể đạt được ước nguyện chăng?
- Thật không thể, đại đức! Ngọc ma ni vẫn tỏa sáng hào quang như thường!
- Còn nữa, ví như voi chúa Uposatha có màu trắng như tuyết, thanh khiết, cao sang; được trang điểm châu báu rực rỡ, có thân hình uy nghi to lớn dị thường. Là báu vật chỉ phát sanh đến cho các bậc chân mạng đế vương hoặc cho các vị có phước đức thù thắng. Có người nghèo khổ kia khởi tâm muốn bắt bạch tượng ấy về nuôi ở nhà mình. Kẻ kia có làm được việc ấy không, đại vương!
- Thật là một ý nghĩ cuồng vọng, được sao mà được, đại đức!
- Còn nữa, ví như rồng chúa Nandopananda có oai lực lớn, sức mạnh lớn, nó to lớn cho đến đổi có thể quấn bảy vòng quanh núi Sineru. Có người sắm một cái đãy, định bắt nhốt rồng chúa kia. Việc làm ấy là thế nào hả đại vương?
- Thưa, có lẽ hắn ta là người điên!
- Tâu, đại vương! Lão bà-la-môn đến xin hai trẻ để về làm tôi tớ cho mình là việc làm của người ngu, kẻ cuồng vọng, là người điên... Tương tự như muốn lấy mặt trời mặt trăng đặt vào thùng, lấy vải bọc ngọc ma ni mong ngăn ánh sáng, bắt voi chúa Uposatha, về nhà nuôi, bắt rồng chúa Nandopananda nhốt vào đãy! Đấy là những việc làm không thể. Lão bà-la-môn ngu hèn, thiếu phước kia chẳng thể bắt hai trẻ làm tôi tớ dù chỉ một ngày, tâu đại vương!
- Thưa, các ví dụ kia nêu bật là những việc làm bất khả, nhưng ý nghĩa cuối cùng trẫm vẫn chưa lãnh hội.
- Tâu, vâng! Dĩ nhiên Hy-mã-lạp-sơn là vua của muôn núi, cao năm trăm do tuần, dài rộng ba trăm do tuần, tổng cộng có tám vạn bốn ngàn đỉnh cao. Nó cao đến chót vót tầng mây, là nơi rót đầy năm con sông lớn, hằng trăm ngàn, hàng ức triệu cây cối, thảo mộc, muôn thú... nương tựa để sinh sống...! Đại vương! đại vương nghĩ như thế nào, nếu phước đức của hai trẻ được tu tạo ba-la-mật từ vô lượng kiếp, khả dĩ làm con của vị đại bồ tát có thể được ví như Hy-mã-lạp-sơn kia?
- Điều này thì có thể hình dung được. Phước đức của hai trẻ, nếu chất chồng lại thì Hy-mã-lạp-sơn nọ còn nhỏ bé lắm, thưa đại đức?
- Vậy là rõ. Phước đức của hai trẻ vĩ đại như thế thì có thể nào làm thân tội mọi cho lão bà-la-môn nghèo hèn, hạ liệt, ít phước kia chứ?
- Nghe thì hữu lý nhưng vẫn chưa thuyết phục được trẫm, thưa đại đức.
- Thật ra, những ví dụ của bần tăng đại vương đã hiểu. Đại vương đã hiểu rằng, người hạ liệt, thiếu phước chẳng thể nào sử dụng những báu vật chỉ để dành cho người có phước đức thù thắng. Tuy nhiên, đại vương cố ý hỏi là hỏi cho phần đông - thì bần tăng nào dám không tuân!
Tâu đại vương! Từ khi bồ tát Vessantara bố thí bạc vàng, của cải, vải vóc, lương thực, voi thần, xe ngựa, tôi trai, tớ gái... thì danh tiếng và uy đức của ngài đã lan xa nhiều quốc độ. Chẳng những lan xa nhiều quốc độ mà còn vang động đến cõi trời Đế thích, phạm thiên, lan tỏa đến các cõi a -tu-la, càn-thát-bà, dạ xoa, long vương, cẩn-đà-la v.v... Tất thảy trời người và chúng sanh hữu tình ba cõi không ai là không biết. Vợ và hai con của bồ tát đi theo sống giữa rừng thiêng nước độc làm đau xót cả hằng vạn trái tim cũng không ai là không biết.
Lửa cháy trên một ngọn núi cao trong một đêm tối trời, người ở rất xa vẫn nhìn thấy thì hai trẻ đi theo cha cũng như thế.
Cây Long Hoa ở núi Hy-mã-lạp mỗi lần trổ hoa, hương thơm lan xa xung quanh, các hướng, xa đến mười hai do tuần - hương thơm và danh tiếng của hai trẻ cũng y như thế.
Cọng với phước đức hai trẻ là con vua cháu chúa, với danh tiếng lững lẫy như thế, lão bà-la-môn bắt hai trẻ làm tôi tớ cho mình được chăng?
Lại nữa, đây là quyết định, là lời giải đáp sau cùng, có tính thuyết phục nhất, đấy là bồ tát biết rõ là "ông nội" sẽ chuộc cháu cưng của mình, nên trước khi đi, bồ tát đã căn dặn trẻ Jàli: "Này con, về thành, cha biết là ông nội sẽ chuộc hai con. Khi ông nội hỏi giá cả tiền chuộc, chính con phải trả lời; con trai là một ngàn lượng vàng, con gái không những một ngàn lượng vàng - mà còn tôi trai, tớ gái ngựa xe, trâu, bò... mỗi thứ mỗi một trăm nữa".
Và sự việc sau đó xảy ra y như thế. Lão bà-la-môn dẫn hai trẻ về nhà, khi nghe đến thân thế hai trẻ, cô vợ trẻ của lão bà-la-môn hoảng sợ, bắt lão dẫn hai trẻ trả lại cho triều đình.
Lão bà-la-môn được phần thưởng trọng hậu, ở trong một tòa lâu đài bảy tầng với tôi trai, tớ gái, ngựa, xe, trâu, bò, mỗi thứ một trăm. Nhưng y sống được bao lâu? Tâu đại vương, chỉ ngày đầu tiên thôi, y ăn một bụng no, trúng thực và chết. Tài sản được niêm phong, triều đình gọi quyến thuộc đến nhận, nhưng chẳng có một ai. Người vợ của lão ta, sau đó cũng không tìm thấy. Rốt laị, tài sản được sung vào quốc khố!
Điều ấy chứng tỏ gì, đại vương?
Chứng tỏ người thiếu phước không thể sử dụng phần phước quá với phước đức của mình!
Tóm lại, bố thí vợ và hai trẻ là giọt nước cuối cùng làm thành tựu công hạnh ba-la-mật; chấm dứt cuộc lưu đày mười hai năm, vợ và hai con trở lại đoàn tụ trong một quốc độ thịnh trị, hùng cường; bồ tát tiếp tục sứ mạng bồ đề vô thượng. Nhân là vậy, sau trước viên dung! Đại vương còn mối nghi ngờ nào về chuyện bố thí vợ và hai con của bồ tát Vessantara nữa chăng?
- Hoàn toàn không! Tuyệt đối không! Cảm ơn đại đức vô cùng. Đại đức đừng có để tâm đến những câu hỏi khúc mắc của trẫm nhé. Trẫm cũng chỉ vì mình và mọi người đấy thôi!
- Tâu, vâng. Bần tăng hiểu.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:55:46 GMT -5
164. Chư Phật quá khứ có tu khổ hạnh không?
- Thưa đại đức! Đức Phật Thích Ca hành khổ hạnh sáu năm, thế các vị Phật quá khứ có trải qua giai đoạn khổ hạnh như vậy chăng?
- Có vị có, có vị không - tâu đại vương!
- Sao kỳ vậy? Hay chư Phật có ý kiến bất đồng, tâm và tuệ bất đồng?
- Tâu, quả có sự giống nhau và có sự khác nhau, nhưng cái đồng, cái dị ấy không như đại vương nghĩ đâu!
- Xin cho trẫm nghe điều đó.
- Tâu, đây là năm điểm khác nhau:
Điểm thứ nhất, khác do chọn dòng họ giáng sanh: vị thì sanh vào dòng bà-la-môn, vị thì sanh vào dòng vua chúa.
Điểm thứ hai, khác do thời gian hành ba-la-mật: vị hành ba-la-mật mười sáu a-tăng-kỳ cọng một ức kiếp; có vị thì tám a-tăng-kỳ cọng một ức kiếp; có vị bốn a-tăng-kỳ cọng một ức kiếp.
Điểm thứ ba, khác do tuổi thọ: có vị tuổi thọ ít, giống như Đức Phật Thích Ca; có vị tuổi thọ hơn thế nhiều.
Điểm thứ tư, khác do hình thể: có vị sắc thân nhỏ, có vị sắc thân rất cao lớn.
Điểm thứ năm, khác nhau do khổ hạnh: có vị hành, có vị không hành.
Tâu đại vương, đấy là năm điểm khác nhau của tất cả chư Phật; nhưng khi giác ngộ thành bậc Chánh Biến Tri rồi thì quí ngài lại có những điểm giống nhau như: giác ngộ, thiền chứng, giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực tuệ, mười bốn Phật tuệ, mười tám Phật pháp v.v...
- Đại đức giảng điều giống, điều khác của chư Phật như thế là rất hay, nhưng để làm gì? Có giải thích được tại sao đức Bổn Sư của chúng ta phải hành khổ hạnh đâu?
- Tâu đại vương! Có vị Phật, ba-la-mật già dặn rồi mới xuất gia còn Bồ-tát Gotama của chúng ta, khi xuất gia, ba-la-mật chưa viên dung, phải cần khổ hạnh sáu năm thì ba-la-mật và trí tuệ mới đầy đủ.
- Tại sao ba-la-mật chưa viên dung và trí tuệ chưa đầy đủ, mong đại đức giảng cho nghe điều ấy.
- Tâu, vâng. Sở dĩ như vậy là vì "tuệ nhàm chán" chưa chín muồi, phải vượt qua sự cám dỗ của ma vương, và biết dựa theo truyền thống tín ngưỡng đương thời.
- Xin cho nghe rõ ba lý do ấy?
- Đại vương nên nhớ rằng, bồ tát thành lập gia thất vào năm mười sáu tuổi, đến năm hai mươi chín tuổi mới xuất gia. Suốt mười ba năm sống trong nhung lụa, với vợ đẹp, hầu xinh, món ngon, vật lạ, tiệc tùng, xướng hát... Bồ tát không đắm say sao? Nếu không đắm say thì Bồ tát đã tìm cách thoát khỏi "ngục vàng" lâu rồi! Như thế thì ở trong bồ tát có những loại trí tuệ như "trí tuệ xuất ly", "trí tuệ nhàm chán" chưa phát sanh. Phải đợi đến khi trẻ Ràhula ra đời, đêm ấy cũng là đêm mà bồ tát mới chợt thấy: "cung nga thể nữ nằm ngủ ngỗn ngang, xiêm y lộ liễu, nước dải, nước miếng chảy ra, người mớ, người ngáy... như phơi bày ra đấy tất cả các sự thật bất tịnh của con người..." Nhờ thấy rõ như thế, "tuệ nhàm chán" mới phát sanh nơi bồ tát. "Tuệ nhàm chán" phát sanh, đồng thời, "tuệ xuất ly" phát sanh... Thế rồi, bồ tát mới cương quyết trốn đi xuất gia. Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ ba-la-mật của bồ tát chưa viên dung và trí tuệ chưa đầy đủ, cần phải bổ sung thêm, tâu đại vương!
- Hay lắm, rõ ràng lắm. Vậy cho trẫm nghe thêm điều thứ hai.
- Tâu, vâng! Thật ra, suốt mười ba năm sống trong đời sống ngũ dục, bồ tát đã bị sự quyến rũ của ngũ dục ma vương rồi. Chí xuất ly, tuệ xuất ly, xuất gia phát sanh thì bồ tát đụng đầu ngay với một loại ma vương khác, ấy là chư thiên ma vương!
- Xin cho nghe.
- Khi bồ tát vừa ra khỏi thành, chư thiên ma vương đã biết rõ; và càng biết rõ là thời gian sau, bồ tát sẽ đắc quả Chánh Giác, sẽ thoát khỏi quyền lực của ma vương; cũng có nghĩa là vô lượng chúng sanh sẽ giác ngộ đạo quả, sẽ cắt đứt lưới nô lệ, buộc ràng mà ma vương đã giăng bẫy cùng khắp. Vì thế, đại ma vương hiện thân lơ lửng trước mặt bồ tát, dụ dỗ rằng: "Này ông Sĩ-đạt-ta! sao ông ngu dại từ bỏ vương vị, vợ đẹp, con thơ? Tại sao lại điên cuồng đâm đầu vào cái khổ, sống đời xuất gia không cửa, không nhà, thiếu cơm, thiếu áo? Ông có biết không? Chỉ bảy ngày nữa thôi, oai đức và uy lực của ông sẽ bao trùm bốn châu thiên hạ. Chỉ bảy ngày nữa thôi, ông sẽ trở thành đức Chuyển luân Thánh vương vĩ đại nhất từ xưa tới nay. Xe báu "thiên ngọc luân" có ngọc thạch mắt mèo, có vành có trục đẹp tựa mặt trăng, từ giữa hư không hiện ra, đón ông lên vương vị chí tôn. Ông sẽ cai trị một vương quốc mênh mông gồm cả bốn châu lớn, mỗi châu như thế gồm có hai ngàn châu nhỏ. Con ông cũng có sắc thân xinh đẹp, tướng mạo khôi vĩ, trí tuệ tuyệt vời; có khả năng thay ông mà coi sóc vương quốc. Ông còn đòi gì nữa. Chỉ bảy ngày nữa là mọi phước báu vinh quang thù thắng sẽ đến với ông. Xuất gia gì cho khổ!"
- Đúng là lời quyến rũ khó chối từ! Thế rồi bồ tát của chúng ta trả lời ra sao?
- Tâu đại vương! Lúc ấy trí tuệ xuất ly đã phát sanh nơi bồ tát rồi thì có sự quyến rũ nào lọt vào tai được đâu? Trái lại, lời quyến rũ ấy giống như người cầm mũi
giáo bằng sắt cháy đỏ bị nó nung đốt suốt ngày đêm. Thế mà đã thôi đâu, lại còn có hai người đứng hai bên, cầm hai mũi giáo đâm vào hai bên lỗ tai trái và phải nữa. Chính bồ tát đã cảm nhận tương tợ thế khi lời quyến rũ của chư thiên ma vương lọt vào lỗ tai. Bằng không vậy thì như đống lửa lớn cháy đỏ rực đang thiêu đốt thân tâm, lại còn có kẻ dồn thêm từng đống, từng núi rác khô, bổi khô vào đấy nữa. Tâm bồ tát quả thật là đã chán ngấy, không còn chịu nỗi lời đường mật trở lại thế gian này, dù là vương vị chí tôn.
Còn nữa, thân tâm bồ tát lúc ấy tựa như mặt đất nhàm chán những trận mưa lấm láp dơ bẩn; lại còn chịu thêm một cơn mưa lớn liên miên đổ xuống bùn dơ, xú uế nữa. Trí tuệ nhàm chán và trí tuệ xuất ly nhờ vậy mà được củng cố thêm, tăng trưởng thêm.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu, sau đó chợt hỏi:
- Tuy nhiên, chỉ còn bảy ngày nữa thôi mà! Chỉ bảy ngày sau là "thiên ngọc luân" ngọc thạch mắt mèo, có vành có trục đẹp tựa mặt trăng, từ hư không hiện đến, thỉnh bồ tát lên làm Thánh vương! Sao Bồ tát không nán lại bảy hôm, chỉ bảy hôm thôi, xem thử thế nào cũng không muộn mà!
- Tâu đại vương! Mũi tên đã bật khỏi dây cung rồi, không thể quay trở lại, tương tự thế, trí tuệ nhàm chán và trí tuệ xuất ly đã phát sanh rồi thì bồ tát cũng sẽ không bao giờ quay lại thế gian. Chính sự quay lại mới là chuyện ngược đời!
- Xin cho nghe?
- Ví như nước tràn hồ, chảy ra sông, xuống biển. Vậy có khi nào nước từ biển cả chảy về sông rồi đổ lại vào hồ không, đại vương?
- Thật không thể.
- Bồ tát về lại cuộc đời cũng không thể như thế, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Đại đức lấy một ví dụ không thể có để so sánh với tâm cương quyết, bất thổi chuyển của bồ tát, có vẻ áp đặt, kết luận, thật không thuyết phục chút nào!
- Không áp đặt kết luận đâu, đại vương! Tại sao vậy? Vì bồ tát tu tập công hạnh ba-la-mật suốt bốn a tăng kỳ và gần một trăm ngàn kiếp rồi. Ba-la-mật ấy dẫu chưa viên dung tròn đủ - nhưng sức mạnh ẩn tiềm của nó mang một năng lực thật khủng khiếp. Kiếp sống chuyển tiếp của bồ tát từ cung trời Tusita, qua kiếp sống làm thái tử Sĩ-đạt-ta, đến năm hăm chín tuổi, là giai đoạn mà ba-la-mật ấy đang ẩn tiềm, chưa mở cửa để lộ diện. Hình ảnh cung nga diêm dúa, hở hang, nước dải, nước nhớt, mồ hôi nồng nặc... lồ lộ phơi bày bất tịnh... làm rung động kho tàng năng lực cũ, tạo ra một ba động đánh thức năng lực ba-la-mật ngủ ngầm kia! Đại vương, đại vương nghĩ thế nào, khi năng lực ba-la-mật được tích tụ từ bốn a-tăng-kỳ và gần một trăm ngàn kiếp ấy đột nhiên được mở tung?
- Dĩ nhiên sẽ tạo nên một sức bật khủng khiếp.
- Nó có thể dừng lại được chăng?
- Không thể.
- Trí tuệ nhàm chán và trí tuệ xuất ly, được tiếp sức bởi năng lực ba-la-mật được tích tụ bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp ấy, đã tạo cho bồ tát một sức bật khủng khiếp, một chí nguyện bất thối chẳng thể nào dừng lại được, dù là quả vị Chuyển luân Thánh vương, tâu đại vương!
- Cách diễn đạt có hình tượng, cụ thể ấy thật là quá hay!
- Với tâm bồ đề bất thối chuyển ấy - thì quả đất này dẫu có sụp đổ, trí tuệ xuất ly của bồ tát có vì vậy mà lung lay không đại vương?
- Không có nghĩa lý gì!
- Hằng trăm ngọn núi chớn chở cao tít tận mây xanh, đổ ập xuống, có đè bẹp được chí nguyện kiên cường do trí tuệ xuất ly mà có, của bồ tát , được không, đại vương?
- Nhằm nhò gì!
- Biển cả chứa vô lượng nước, bị một mặt trời, hai mặt trời, ba mặt trời... thiêu đốt, bốc hơi, khô cạn... khô cạn cho đến khi đọng được trên dấu chân con bò;... thử hỏi, có đốt cháy khô cạn trí tuệ xuất ly của bồ tát không đại vương?
- Chẳng thể nào!
- Ví như núi chúa Tu-di bị bể tan thành từng triệu triệu mảnh vụn, tâm xuất gia của bồ tát có bị bể được không, đại vương?
- Cái tâm lúc ấy của bồ tát làm vỡ kim cương thì có!
- Ví như hư không kia bị thu nhỏ lại bằng bàn tay, cái chí vô thượng bồ đề tuệ của bồ tát có thu nhỏ lại được như thế không, đại vương?
- Không thể!
- Ví như mặt trời, mặt trăng và cả hằng vạn tinh tú trên bầu trời kia trong một lúc đều bị rụng hết, tuệ xuất trần của bồ tát có vì vậy mà bị rơi theo không, đại vương?
- Thưa đại đức! Thế là đã rõ rồi! Tuệ xuất ly ấy là bất thối, bất khả chiến bại!
- Tâu, vâng! khi thoát ra khỏi "ngục vàng", tìm đường xuất gia, do năng lực xuất ly đã được tạo trữ từ bốn a-tăng-kỳ và gần một trăm ngàn kiếp; bồ tát biết rằng sẽ còn vượt qua từng giai đoạn... cam go, gian nan, thử thách. Còn sáu năm nữa mới đạt thành quả vị Chánh Đẳng Giác, thì sáu năm ấy phải cắt đứt trọn vẹn tất cả mối buộc ràng từ vô thỉ, đã giam giữ bồ tát giữa cõi tử sanh luân hồi thống khổ.
- Những ràng buộc ấy là gì, đại đức?
- Tâu, ràng buộc ấy có mười, đó là: mẹ, cha, vợ, con, thân quyến, bạn, tài sản, lợi lộc, chức quyền và ngũ dục; mười ràng buộc ấy thuộc về lưu luyến, ái luyến, quyến niệm, dục niệm... hằng giam giữ chúng sanh không chịu buông tha đâu, đại vương!
- Thưa, trẫm đã thông rồi. Tất cả những cái gọi là ba-la-mật chưa viên dung, trí tuệ chưa đủ đầy, trẫm đã tỏ tường. Tuy nhiên, đại đức có nói rằng, sáu năm nữa bồ tát sẽ đạt thành Phật quả. Con số sáu năm ấy - sáu năm - là thời gian tất yếu để chín muồi công hạnh. Thế sao bồ tát không chờ sáu năm nữa hẳn ra đi?
Nếu sáu năm nữa mới xuất gia, sẽ có hai điều lợi: Thứ nhất là, trước sau gì thì trí tuệ vẫn đầy đủ; thứ hai là, khỏi mất công thời gian khổ hạnh sáu năm, mà sau này Đức Thế Tôn bảo là sáu năm lầm lạc!
Đại đức Na-tiên thấy câu hỏi hay, bèn tán thán:
- Hay lắm! ngón tay của đại vương đã chỉ thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Bần tăng rất thú vị để cùng với đại vương đi nốt đoạn đường nạn vấn này!
- Rất vui lòng!
- Có những lý do mà ở tại vương vị không thể làm cho trí tuệ chín muồi được, tâu đại vương! Và chính nhờ sáu năm khổ hạnh lầm lạc ấy, bồ tát của chúng ta mới kiện toàn, viên dung được công hạnh, tâu đại vương!
- Xin cho nghe!
- Ở tại vương vị sáu năm là ở yên trong cạm bẫy của ma vương, là lý do thứ nhất. Không đi xuất gia ngay khi trí tuệ xuất ly đã khởi - thì sẽ bị thế gian chê bai, khinh miệt; họ sẽ ghép bồ tát vào một trong mười hạng người vô tích sự, thiếu phước... mà ai cũng khinh nhờn, thiếu tôn trọng...
- Cho trẫm nghe mười hạng người ấy?
- Tâu, vâng! Đó là:
Đàn bà góa...; Người kém sức, mất sức, yếu đuối; Người cô độc không có bạn bè, thân quyến; Người ham ăn; Người bệnh hoạn nặng; Người có bạn ác; Người nghèo hèn; Người đói; Người vô nghề nghiệp; Người già nua.
- Tại sao thế gian này gán ghép đức bồ tát vào mười hạng người ấy?
- Thật ra, bồ tát tự phản vấn chính mình, tự ghép mình vào mười hạng người ấy nếu thiếu quyết tâm lên đường xuất gia. Tại sao vậy? Vì bồ tát nghĩ rằng, sống đời hưởng thụ ngũ dục năm này sang năm nọ thì tránh sao khỏi sự lười biếng dễ duôi? Sơn hào hải vị lúc nào cũng đầy đủ, thừa mứa... không sinh ham ăn mê ngủ cũng sinh bệnh tật, ốm đau! Cứ mãi hoài bên vợ đẹp, hầu xinh, tiệc tùng, đờn ca, xướng hát... thì có khác gì kẻ vô công rỗi nghề, ăn bám tài sản, vật thực của muôn dân bá tánh nghèo khổ? Nếu không dứt khoát con đường thì quyết tâm, nỗ lực, tinh cần... sẽ càng ngày càng bị thui chột, sẽ trở nên hèn nhược yếu đuối ngay!
Tâu đại vương! Những điều suy nghĩ của bồ tát như thế có tương ứng phần nào mười hạng người kể trên không?
- Rõ là cùng một "giuộc"!
- Chính thị!
Đức vua Mi-lan-đà chậm rãi:
- Thôi được rồi! Coi như cho qua chuyện ở lại vương vị đi, sang chuyện sáu năm khổ hạnh lầm lạc. Sao biết lầm lạc mà bồ tát cũng tình nguyện bước vào? Sao sáu năm khổ hạnh ấy là nhân cho trí tuệ chín muồi? Điều ấy khó đấy, đại đức có cần khất lại câu trả lời, đợi ngày hôm sau chăng?
- Không cần thiết, cảm ơn đại vương đã tỏ dạ quan hoài, bần tăng sẽ trả lời ngay đây!
- Tâu đại vương! Đại vương còn nhớ lý do khổ hạnh là phải biết "dựa vào truyền thống của tín ngưỡng đương thời" mà chúng ta có đề cập ở phần trước không?
- Có nhớ!
- Và đại vương có biết rằng từ trí tuệ phàm nhân đã chín muồi, đã đầy đủ, đã viên dung, để bước sang Thánh tuệ, cần có bao nhiêu giai đoạn nữa không?
- Trẫm không rõ lắm đâu!
- Vậy thì đại vương hãy chú tâm nghe một lượt về tất cả những điều ấy.
- Thưa, vâng!
- Bồ tát phải hành khổ hạnh là vì truyền thống tín ngưỡng đương thời xem khổ hạnh là con đường tối thượng; khổ hạnh là phương pháp tu tập được thế gian tôn trọng, kính ngưỡng. Ai mà chưa tu khổ hạnh thì chưa được gọi là tu. Buổi đầu tiên xuất gia, bồ tát phải lựa chọn khổ hạnh, thứ nhất là vì muốn thử chí nguyện kiên cường, bất khuất của mình. Thứ hai, Đạo Phật có xuất hiện là cũng cho con người, là vì cuộc đời - nên không có lý do gì ngài lại phải đi ngược lại niềm tin và sự trọng vọng của thế gian! Vậy, đi theo con đường tinh tấn khổ hạnh như là cái gì tất yếu, phải chứng nghiệm, phải vượt qua!
- Có lý lắm, đại đức. Sau này khi hoằng pháp độ sanh, những kẻ ngoại đạo đã từng tu tập khổ hạnh đệ nhất, đệ nhị... tất phải khâm phục Đức Thế Tôn đã từng trải khổ hạnh tối thượng, đệ nhất cổ kim nữa kìa!
- Đúng thế!
- Vậy là thông suốt, thông suốt. Xin đại đức cho nghe thêm về chuyện sáu năm khổ hạnh là nguyên nhân cho trí tuệ chín muồi, cùng các giai đoạn từ phàm tuệ bước qua Thánh tuệ?
- Tâu, vâng!
Đại vương có biết rằng, ngay chính thiền định, định tâm, là cái mốc, là cái cơ bản, từ đó quán chiếu để phát sanh Thánh tuệ, phải chế ngự bao nhiêu trạng thái tâm trần luân, cấu uế chăng?
- Có biết, trẫm có biết nhưng không cách chi mà biết hết đâu.
- Vậy thì bần tăng xin làm con vẹt, đọc hầu cho đại vương nghe! Nó có hai mươi lăm pháp trầm luân, trở ngại sau đây:
Một, nóng giận, nóng nảy. Hai, cừu oán, hận thù. Ba, quên ơn, bạc nghĩa. Bốn, tự cao, tự đại. Năm, ganh tỵ, tật đố .
Sáu, bỏn xẻn, rít róng. Bảy, xảo trá, phỉnh gạt. Tám, khoe khoang, điệu bộ. Chín, cứng đầu, ương ngạnh. Mười, tranh tài, hiếu thắng.
Mười một, say đắm, sa ngã. Mười hai, khinh người. Mười ba, ngã chấp. Mười bốn, dễ duôi, buông thả. Mười lăm, hôn trầm, giải đãi.
Mười sáu, uể oải, lừ đừ. Mười bảy, lười biếng, nhác nhớm. Mười tám, yếu đuối, khiếp nhược. Mười chín, thân cận bạn ác, bạn xấu. Hai mươi, mê sắc, háo sắc.
Hai mươi mốt, đắm thanh. Hai mươi hai, đắm hương. Hai mươi ba, đắm vị. Hai mươi bốn, đắm xúc. Hai mươi lăm, đói cơm, khát nước.
Nếu có một trong hai mươi lăm trạng thái tâm trầm luân, cấu uế này thì khó mà trú định được, huống hồ là được Thánh tuệ, đắc được tuệ lậu tận.
- Vâng, trẫm nghe rõ rồi, giờ đại vương giải tỏa cho sự nghi nan sau cùng: tại sao lại nhờ sự khổ hạnh?
- Tâu đại vương! Trong sáu năm lầm lạc ấy, với sự đại tinh tấn khổ hạnh, Thánh tuệ vẫn không thấy phát sanh. Tất cả mười pháp ràng buộc dường như ngài đã cắt đứt hết rồi. Tất cả mọi loại thiền định ngài cũng đã tu tập hết rồi. Rà soát lại mười ba-la-mật thì không có ba-la-mật nào mà ngài còn khiếm khuyết!
Dường như càng nhịn thở, nhịn ăn, cho đến tuyệt thực, chấm dứt cả hơi thở thì cơ thể ngài càng suy yếu, có thể đưa đến chấm dứt mạng sống chứ không phải phát sanh tuệ giác!
Sau ngài nhớ lại, thuở còn ấu thơ, lúc bảy tuổi được bà nhủ mẫu ẵm bồng theo vua cha đi xem lễ hạ điền. Lúc ở dưới cội cây trâm, ngài đã dễ dàng trú định sơ thiền, quả thật không phải gắng sức quá lắm.
Chính nhờ tất cả những điều ấy, từng trải qua sáu năm, chiêm nghiệm tự thân, thực hành mọi phương pháp tu tập khó khăn; phàm tuệ nơi ngài mới quãng bác, thâm sâu, vi tế; nhờ vậy, khi ăn uống trở lại bình thường; ngài dễ dàng chứng quả vô lậu tận, tựu thành Thánh tuê, thấy rõ Tứ diệu đế, Vô sanh Niết bàn, tâu đại vương!
Đức vua xoa tay hoan hỷ nói:
- Làm phiền đại đức quá nhiều!
- Không có chi, tâu đại vương!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:56:30 GMT -5
165. Năng lực của thiện và ác nghiệp, cái nào mạnh hơn?
- Thưa đại đức! Năng lực của thiện nghiệp và năng lực của ác nghiệp, cái nào mạnh hơn?
- Tâu, năng lực của thiện nghiệp bao giờ cũng mạnh hơn năng lực của ác nghiệp!
- Thưa, trẫm không tin như vậy. Đại đức xem! Trên đời này, những kẻ giết người, cướp của, trộm heo, trộm gà; những kẻ tà hạnh vợ người, lường gạt, tước đoạt gia sản của người v.v... họ bị trả báo tức thì. Pháp luật của trẫm sẽ xử phạt những người ấy. Tùy theo mức tội nặng nhẹ mà trẫm sẽ căng nọc ra đánh bằng gậy, giam cầm, đôi khi cắt tay, cắt chân hoặc chém đầu nữa. Như vậy là rõ ràng ác nghiệp sẽ trổ quả nhanh do năng lực của nó mạnh. Có người bị trả quả tội báo ngay ngày hôm sau, có kẻ trả quả sau một tuần, nửa tháng, một hoặc hai năm v.v..., nghĩa là trước sau cũng sẽ trổ quả, ngay chính trên đời này!
Còn những người làm việc thiện thì sao nhỉ? Họ bố thí, trai tăng, làm phước, cúng dường ngày này sang ngày khác, đến một vị tỳ khưu, hai vị, bốn vị, một trăm vị, đến một ngàn vị...; ngoài ra, họ còn thọ trì tam quy, ngũ giới, bát giới, hành thập thiện... mà sao không thấy ai được quả báo trong hiện tại? Các vị tỳ kheo trong hàng ngũ của đại đức, bao giờ cũng nói, kiếp sau, kiếp sau nữa! Như vậy, chứng tỏ gì? Chứng tỏ năng lực của thiện nghiệp rất yếu, không có khả năng cho quả trong hiện tại, phải đợi đến bao nhiêu kiếp sau mới đủ sức trổ !
Đại đức hãy chứng minh đi! Rõ là sức mạnh của nghiệp thiện thua sức mạnh của nghiệp ác rất xa vậy!
- Hãy từ từ, đại vương! Hãy nhẫn nại, đại vương! Không bao giờ sức mạnh của thiện nghiệp lại thua ác nghiệp được. Và không phải không có trường hợp người làm thiện được quả báo ngay trên đời này!
- Xin cho nghe!
- Nói về người bố thí, trì ngũ giới hoặc bát quan trai giới, được quả báo nhãn tiền, có bốn người là:
Đức vua Sakkamandhàtu, Đức vua Nemi, Đưc vua Sàdhina, Chàng Tinapàla.
Đại vương có nghe đến tên họ không?
Đức vua Mi-la-đà lắc đầu:
- Thưa, không biết. Hoặc giả đại đức kể tên những người thuộc đời nảo, đời nao... ai mà biết được! Đại đức hãy kể tên những người hồi Đức Phật tại tiền, may ra trẫm có thể nhớ được chăng?
- Tâu, vâng! Vậy thì thuở Phật tại thế có sáu người làm lành, được quả báo nhãn tiền, như sau:
Thứ nhất, người giúp việc tên là Punnakedàso; Thứ hai là mẹ của người chăn bò; Thứ ba, cận sự nữ Suppiyà; Bốn là bà hoàng hậu Mallikà; Năm, người làm tràng hoa tên là Sumana; Thứ sáu, người bà-la-môn tên là Ekasàtaka.
Cả sáu người này đều được tài sản, chức tước, địa vị ngay trên đời đó, tâu đại vương!
- Thưa, xin đại đức cho biết rõ nhân quả của từng vụ việc như thế nào?
- Tâu, vâng, đại vương hãy nghe đây:
Trước hết, chàng giúp việc Punnakedàso dâng vật thực đến cho Tôn giả Xá-lợi-phất bèn được chức vị bá hộ giàu sang ngay chính trong ngày ấy.
Tiếp đến, mẹ của người chăn bò có đức tin trong sạch đối với thiện pháp, vì nghèo khổ quá nên đã tự cắt mớ tóc của mình, bán được tám xu tiền vàng, mua vật thực dâng cúng đến ngài Đại-ca-chiên-diên (Mahà Kacchàyam); bèn được đức vua Udena thương mến, kính trọng, phong cho làm hoàng hậu ngay trong ngày ấy.
Thứ ba, nàng cận sự nữ Suppiyà cắt lấy thịt bắp chân của mình, nấu cháo dâng đến cho một vị tỳ khưu bị bệnh; sáng sớm ngày hôm sau, nàng không còn tìm thấy dấu vết thương của mình.
Thứ tư, nàng Millikà chỉ dâng một cái bánh đậu đến Đức Phật, được trả quả báo ngay hôm ấy là làm hoàng hậu của đức vua Kosala.
Thứ năm, người thợ làm tràng hoa Sumana dâng tám nắm hoa lài, tung rãi cúng dường Đức Thế Tôn, được quả báo tức thì do nhà vua tặng rất nhiều của cải, tài sản.
Cuối cùng, ông bà-la-môn Ekasàtaka chỉ có một thước vải mặc, lấy tấm vải duy nhất ấy cúng dường Đức Phật, được phước quả hiện tiền, là tất cả đồ dùng, mỗi loại tám cái.
Đấy là nhân, là quả, năng lực thiện nghiệp trổ quả ngay hiện tại, tâu đại vương!
- Chỉ có bấy nhiêu thôi sao, đại đức?
- Vâng, theo những gì bần tăng có thể nhớ được, chỉ có sáu người ấy thôi!
Đức vua Mi-lan-đà bèn nói to:
- Đại đức dám bảo là năng lực thiện nghiệp có sức mạnh vĩ đại hơn năng lực của ác nghiệp, mà đại đức chỉ đưa ra được có sáu ví dụ, sáu người; trong lúc sức mạnh của ác nghiệp, có khả năng cho quả tức thời... thì trẫm có thể mang ra dẫn chứng nhiều không kể xiết, nào phải chỉ có hai mươi, năm mươi, một trăm, hai trăm mà thôi đâu!
Lại có khi sức mạnh của ác nghiệp trả quả tức khắc khi nhân vừa gây ra. Ví dụ như quan đại thần Bhaddapàla, hô đội quân dũng mãnh của mình chiến đấu với đội quân của vua Cadagutta! Hai bên vừa ra quân, đao vừa vung lên, đầu bèn rụng xuống...; và cứ thế, gươm giáo tung ngang xẻ dọc làm cho hằng trăm hằng người bỏ mạng. Trận chém giết ấy rõ là trả quả ngay tức khắc, chứng tỏ nghiệp ác có sức mạnh dường bao!
Thế là rõ! Thế là luận cứ của đại đức đã bị bẻ gãy rồi!
- Chưa đâu, tâu đại vương! Năng lực của ác nghiệp vẫn không mạnh bằng năng lực của thiện nghiệp. Sở dĩ ác nghiệp trả quả nhanh là vì quả ấy ít; còn thiện nghiệp trả quả chậm vì quả báu rất nhiều! Ví như có một loại lúa ở ngoài biên địa quốc độ của đại vương, lúa ấy nhẹ, hạt nhỏ, vãi xuống trong ruộng một tháng là chín ngay, nhưng năng suất kém. Trái lại, lúa Sàli đến năm, sáu tháng mới chín nhưng năng suất rất lớn. Ví dụ này như thế nào thì thiện nghiệp, ác nghiệp trổ quả ít nhiều như thế ấy, tâu đại vương!
- Trẫm vẫn chưa đồng ý đâu. Ác trả quả mau nhưng ít, thiện trả quả chậm nhưng nhiều - nghe vẫn chưa thuyết phục. Cái trổ quả nhanh chính là do năng lực lớn, mạnh. Cái trổ quả nhanh mới là điều quan trọng. Vì sao? Ví như một chiến sĩ can trường, mới vào trận đã xông xáo tìm bắt tên thủ lãnh. Y đã hàng động rất nhanh, nhờ nhanh tay bắt được tên thủ lãnh nên sớm quyết định thắng, bại ở chiến trường. Ví như một người bị rắn độc cắn được dẫn đến nhà thầy rắn để chữa trị. Người thầy rắn chẳng chần chờ phút giây nào, tức khắc tìm cách hút nọc rắn, nhanh tay cho thuốc uống, thuốc đắp. Nhờ lanh lẹ như thế, người bị rắn cắn thóat khỏi tử thần.
Còn nữa, ví như hai người cùng đang đếm một số lượng hàng hóa. Người nào đong lẹ, đếm nhanh người ấy chắc hẳn được hưởng phần lương cao hơn. Mà nếu phần lương không cao hơn thì y cũng còn được khoảng thời gian dư dã để làm công việc khác. Ai lợi hơn ai hẳn không cần phải trả lời.
Còn nữa, ví như hai tay đô vật vào cuộc. Có một tên chậm chạp, tay kia nhanh hơn, đã tìm cách quật ngã đối phương rất nhanh nên dành được chiến thắng lớn! Vậy đó, có sức mạnh thì bao giờ cũng nhanh. Ac có sức mạnh hơn thiện nên sẽ trổ quả mau hơn cũng là định luật tất yếu thôi, đại đức. Xin đại đức đừng đem chuyện nhiều và chuyện ít vào đây, nó không tương hợp đâu!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Tất cả những ví dụ của đại vương nghe thì có vẻ hay nhưng đều không áp dụng được. Vì sao? Vì tất cả những ví dụ ấy đều không tương hợp với định luật nhân quả.
Người chiến sĩ can trường ra tay nhanh, người thầy thuốc chữa bệnh rắn cắn nhanh, người đong đếm nhanh, người đô vật sức mạnh quật ngã đối thủ nhanh. Cái nhanh ấy là tốt, tốt cho nên trổ quả nhanh mới đúng chứ, sao đại vương nêu ra để chứng minh cho cái ác?
Có người ăn uống nhanh bị nghẹn họng, cạo đầu nhanh bị đứt da đầu, viết chữ nhanh khiến chữ xấu v.v... Ở đây, cái nhanh ấy lại là xấu, ác; thế thì phải nói cái ác trả quả nhanh sao?
Lại nữa, những ví dụ khác của đại vương về tội cướp của, giết người v.v... bị pháp luật của đại vương xử trị ngay, đại vương y cứ vào đó để bảo rằng ác trổ quả nhanh! Thế rõ là đại vương đang nắm trong tay định luật nhân quả đó chăng? Định luật nhân quả phải xảy ra một cách lạnh lùng, không thiên vị. Ở đây, đại vương đã nghiêng về phía trừng trị kẻ ác rồi! Còn người làm điều thiện trong quốc độ của đại vương thì sao nào? Đại vương sẽ trả quả báo chậm cho họ hay sao? Hay là đại vương lý luận, để chứng tỏ người làm thiện không được phước báu gì hết?
Ác thì đại vương chặt đầu, treo cổ; còn những người giữ ngũ giới, bát giới, chẩn bần người đói khổ, cứu giúp người hoạn nạn... đại vương đã ra luật định ban thưởng cho họ như thế nào chăng? Không à? Chưa à? Thế ra đại vương không phải là người nắm định luật nhân quả, chi phối trọn vẹn vận mệnh con người ở trong quốc độ của đại vương hay sao? Đại vương hãy trả lời đi!
Những câu hỏi dồn dập của đại đức Na-tiên làm cho đức vua Mi-lan-đà bối rối không ít.
Đức vua đáp:
- Trẫm biết trẫm sai rồi, cái nhìn của trẫm ngắn và gần quá, chỉ ở trước mắt, hay chỉ từ những điều mà trẫm suy nghĩ được!
- Tâu đại vương! Cho chí các bậc thượng thủ A-la-hán như ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cũng không có khả năng thấy rõ sự vận hành của lý nhân quả, ngoại trừ bậc Toàn Giác. Việc trổ quả nhanh hay chậm của thiện và ác, các bậc đại A-la-hán cũng không thấy rõ được. Nhân quả nó xảy ra ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ là nhân, hiện tại là quả. Hiện tại là nhân, vị lai là quả. Trong chừng mực nào đó, chúng ta hiểu vậy - nhưng thật sự chúng ta không dám xác quyết cái gì là nhân, cái gì là quả chắc chắn đâu. Cái nhân bây giờ đôi khi chỉ là cái quả của quá khứ, và quả từ quá khứ đôi khi lại là nhân từ hiện tại. Nó trùng trùng duyên khởi, không thấy đầu, không thấy đuôi, đại vương ạ!
Lại nữa, bần tăng nói, năng lực thiện nghiệp có sức mạnh hơn năng lực của ác nghiệp, điều ấy không còn hồ nghi, tuy nhiên, ta cũng phải hiểu trong ý nghĩa tương đối. Vì sao vậy? Vì có những kẻ làm ác, như phạm vào ngũ nghịch đại tội [*], thì kẻ ấy có khi phải bị trả quả báo nhãn tiền, tâu đại vương!
[*] Giết cha, giết mẹ, chích máu Phật, giết A-la-hán, chia rẽ Tăng.
- Vâng, trẫm rõ rồi!
- Lại nữa, ví như tướng cướp Angulimàla là tay khét tiếng giết người, sau vào tu trong giáo pháp của Đức Thế Tôn, chứng ngộ đạo quả. Đáng ra, tội giết người kinh khiếp của Angulimàla sẽ bị ác báo nặng nề! Nhưng không, Angulimàla nhờ chứng ngộ đạo quả cao siêu, pháp xuất thế gian, là tối thượng thiện pháp - nhờ năng lực ấy nâng đỡ nên trả quả rất nhẹ. Thế điều này không chứng tỏ năng lực của thiện mạnh hơn năng lực của ác sao, đại vương?
- Chính thị! Thôi cảm ơn đại đức đã xua tan sự u tối cho trẫm.
* * *
166. Hồi hướng phước có hiệu quả không?
- Thưa đại đức! Khi người cư sĩ làm được một phước sự như trai Tăng, bố thí, cúng dường, rồi họ hồi hướng đến cho ân nhân, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc đã quá vãng từ nhiều đời, không biết quả lành của sự hồi hướng đó có kết quả gì không?
- Có số được, có số không, tâu đại vương!
- Xin cho biết nguyên cớ?
- Tâu, vâng! Nếu cha mẹ, ân nhân, thân bằng quyến thuộc... sau khi chết, sanh vào các cõi trời, đọa sanh địa ngục, sanh làm muông thú... thì quả lành của sự hồi hướng không đến với họ được.
Còn nữa, các loại a-tu-la, ngạ quỷ đói, ngạ quỷ bị lửa thiêu cháy... cũng không hưởng được phần phước. Chỉ có loại quỷ Paradattù pajìvì - tức là loại ngạ quỷ sống nhờ vào sự bố thí của người khác - mới thọ hưởng được quả lành của sự hồi hướng ấy. [*]
[*] Thật ra, có một số chư thiên, thọ thần hoan hỷ phước, tùy hỷ phước - thì sự hồi hướng vẫn có hiệu quả (Dịch giả).
- À, hóa ra là vậy. Thế thì nếu cha mẹ, ân nhân, thân bằng quyến thuộc của mình không sanh làm ngạ quỷ Paradattù pajìvì thì sự bố thí, cúng dường, tốn tiền bạc, tốn công sức sẽ trở nên vô ích, phải vậy không, đại đức?
- Không, vẫn có lợi ích. Phước báu ấy sẽ không tiêu mất. Chính người làm phước được hưởng phước báu ấy.
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Tâu, vâng! Ví như có người sửa soạn một mâm vật thực gồm có rượu thịt cơm bánh v.v... để đãi đằng bà con quyến thuộc của mình. Vì một lý do nào đó, những người kia không đến, thì mâm vật thực ấy sẽ thuộc về phần ai, đại vương?
- Hoàn về cố chủ.
- Lại nữa, ví như có người đi vào cửa trước của ngôi nhà, tìm đến cửa sau để đi sang một chỗ khác. Cửa sau không tìm thấy, thì người kia đi trở ra bằng lối nào hở đại vương?
- Lối cũ thôi!
- Cũng tương tự thế. Phước báu gởi đi các nẻo không được, không ai thọ nhận thì phải trở về lối cũ, trở về chủ của nó, đại vương!
- Rõ lắm rồi. Sàdhu!
* * *
167. Hồi hướng "ác" có được không?
- Thưa đại đức! Hồi hướng thiện báo, thiện quả thì trẫm thông rồi. Nhưng còn ác báo, ác quả thì sao? Ví như có người tạo ngũ nghịch đại tội như giết cha, giết mẹ v.v... rồi hồi hướng đến cho cha mẹ, ân nhân, quyến thuộc... hoặc cho kẻ thù nghịch đã quá vãng từ nhiều đời, có được không, đại đức? Người được hồi hướng có nhận được ác quả, ác báo ấy chăng?
Đại đức Na-tiên ngạc nhiên:
- Thật là câu hỏi lạ lùng, bần tăng chỉ mới nghe lần đầu. Tuy nhiên, bần tăng sẽ trả lời ngay: việc ác không thể hồi hướng được, tâu đại vương!
- Tại sao lại không được? Thiện hồi hướng được thì ác cũng phải hồi hướng được chứ! Thiện có nơi nhận được thì ác cũng phải có nơi nhận được chứ? Pháp vốn bình đẳng mà!
- Câu hỏi tại sao này, thật khó trả lời! Và có lẽ đại vương cũng không nên đặt những câu hỏi như thế.
- Tại sao?
- Vì câu hỏi ấy cũng tương tự như những câu hỏi sau đây: Chanh, tại sao mày chua? Ớt, tại sao mày cay? Những câu hỏi ấy có thể trả lời được không, đại vương?
- Đã trả lời không được, mà còn vô ích nữa.
- Cũng tương tự như thế là câu hỏi của đại vương!
- Trẫm thấy chúng chẳng có gì giống nhau cả! Thật ra, trẫm không cố ý tìm câu hỏi hiểm hóc để bắt bí đại đức. Sở dĩ trẫm hỏi như thế là vì thế gian sẽ có người đặt những câu hỏi tương tự. Mục đích mà trẫm muốn nhắm đến là lợi ích cho phần đông và lợi ích cho các thế hệ hậu lai. Đại đức nên thông cảm.
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Bây giờ đại vương thử trả lời những câu hỏi của bần tăng xem sao! Rồi từ những câu hỏi ấy, chúng ta sẽ trở lại vấn đề, được chăng?
- Thưa vâng.
- Có người lấy ống nước - nghĩa là bên trong có lỗ bộng - để thổi nước đi xa; họ có làm được không, đại vương?
- Được chứ!
- Vậy nếu có một hòn núi - bên trong cũng có lỗ bộng -có thể thổi nước đi xa được không, đại vương?
- Không thể được!
- Còn nữa, người ta thường đốt đèn bằng dầu, có người bắt chước, lại thay dầu bằng nước, thế có đốt đèn được không, đại vương?
- Không được!
- Ví như có người nông phu khai nước thông từ hồ vào ruộng, làm được vụ mùa phát tài; có người bắt chước, dẫn nước biển vào ruộng, thế y có thu hoạch được gì không, đại vương?
- Lúa chết hết còn gì!
Đến đây, đại đức Na-tiên trầm ngâm giây lát rồi mới cao giọng nói:
- Mỗi loài, mỗi vật, mỗi pháp trên thế gian này đều có những đặc tính, tính chất khác nhau, không ai có thể trả lời tại sao chúng có hình dáng, tính chất ấy. Chanh có vị chua, mít có vị ngọt. Chua, ngọt là đặc tính, tính chất của chanh, của mít. Cũng tương tự thế, ống hút nước có công dụng, chức năng của ống hút nước, cái ngọn núi bộng kia không thể làm chức năng của ống hút nước được. Dầu dùng để đốt vì nó có tính chất dẫn cháy, nước không thể thay thế dầu được. Nước ngọt giúp cho việc trồng lúa, nhưng nước mặn lại làm lúa chết! Tất cả những điểm mà bần tăng đưa ra ở trên, nghe có đúng không, đại vương?
- Không sai!
- Trở lại vấn đề đầu tiên, là thiện và ác. Thiện, ác là hai pháp, mỗi thứ có một tính chất, một đặc tính, công dụng và chức năng khác nhau. Tương tự như mít thì ngọt mà khế thì chua: người làm việc thiện thì tâm mát mẻ, người làm điều ác thì tâm nóng nảy. Mát mẻ hay nóng nảy là phản ứng tất yếu của thiện và ác; chúng không thể trao đổi trạng thái và phản ứng cho nhau được. Pháp nào bảo tồn và duy trì tính chất của pháp ấy! Đại vương đã nắm vững điều này chưa?
- Trẫm còn lờ mờ lắm đấy!
- Dầu thì đốt được, còn nước không đốt được vì dầu mang tính chất của vật dẫn cháy. Cũng tương tự thế, thiện hồi hướng được, ác không hồi hướng được là do tính chất của nó như vậy, chúng không thể làm khác tính chất của chúng, ta cũng không thể áp đặt bảo chúng phải khác đi!
Nói rộng hơn tí nữa, bản chất của thiện là lan tỏa, càng thắp càng sáng, càng hồi hướng thì càng được nhiều. Bản chất của ác là co rút, cô đặc, không lan tỏa, người nào làm thì người ấy chịu thôi, chẳng thể chia xẻ được cho ai! Đại vương nghĩ thế nào?
- Thưa, đã bắt đầu sáng ra rồi đấy.
- Thiện có quả nhiều, ác có quả ít; đó là bản chất, tính chất của nó, là một cái gì cố hữu, tất yếu vậy, đại vương!
- Nhiều và ít ấy như thế nào, đại đức?
- Một giọt nước có thể rơi thấm được mười sào đất, hai mươi sào đất không, đại vương?
- Không thể.
- Thế một trận mưa to, rất lớn, rất lâu - thì sao đại vương?
- Không những thấm nhuần cả một vùng mà còn đầy giếng, khe, suối, sông, rạch... nữa là khác!
- Cũng tương tự như thế! Việc thiện mà người nào đã làm thì có thể thấm nhuần, chia sớt đến cho rất nhiều người, vì thiện vốn có quả nhiều. Còn ác thì không thể như vậy vì nó có quả rất ít, tâu đại vương!
- Vâng!
- Khi làm việc lành, tốt thì tâm người ta hoan hỷ, mát mẻ, phỉ lạc. Khi làm việc xấu thì tâm người ta nóng nảy, ăn năn, hối hận. Cái tâm hoan hỷ, mát mẻ, phỉ lạc ấy sẽ được lan tỏa, tươi nhuần, tuôn chảy đến nhiều người. Cái tâm nóng nảy, ăn năn, hối hận ấy sẽ co rút, cô đặc, khô cháy nên không thể tuôn chảy đến đâu được. Đấy là lý do thiện quả, thiện báo thì hồi hướng được, còn ác báo, ác quả thì không hồi hướng được, tâu đại vương!
- Thật là kiến giải của bậc thông tuệ, trẫm xiết bao tâm phục.
* * *
168. Tại sao có chiêm bao?
- Thưa đại đức, hôm nay chúng ta bàn về giấc mộng nhé! Tại sao có người mộng lành, có người mộng dữ? Tại sao có người chiêm bao thấy cảnh, người hay vụ việc đã có từ trước? Có người lại chiêm bao thấy cảnh, người hay vụ việc chưa hề có? Lại có người nằm thấy chuyện hạnh phúc, vui tươi; có người nằm thấy chuyện sợ hãi, khiếp đảm? Lại có người thấy một việc mình đã làm, người khác lại thấyviệc mình chưa hề làm? Rồi lại còn mộng thấy gần, thấy xa; có kẻ lại thấy chuyện đâu như hằng ức kiếp? Tất cả các loại chiêm bao ấy - nguyên cớ do đâu, đại đức?
- Tâu đại vương! Tất cả các loại chiêm bao ấy đều do từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, do chất gió (phong đại) trong cơ thể dấy động. Thứ hai, do mật tác động. Thứ ba, do đàm tác động. Thứ tư, do bệnh, nóng (sốt) hay lạnh (hàn) tác động. Thứ năm, do chư thiên, quỷ hay ma tác động. Thứ sáu, những chủng tử có sẵn trong tâm do mình đã tạo tác từ quá khứ.
Trong sáu nguyên nhân kể trên, chỉ có nguyên nhân thứ sáu là thật. Chiêm bao do nhân thứ sáu này tác động là chiêm bao có thật. Còn ngoài ra, các giấc chiêm bao do những nguyên nhân khác đều không thật.
- Ý đại đức muốn nói, chiêm bao có thật này do cảnh, vật, người hay vụ việc mình đã tạo trữ từ trước hiện tồn trong dòng tâm hữu phần (Bhavangacitta) hay sao?
- Tâu, đúng thế! Đúng là nó được tàng trữ trong hữu phần tâm. Tuy nhiên, nói tâm tạo ra nó là không đúng, mà nói nó tự hiện ra cũng không phải.
- Thưa đại đức! Đã bắt đầu khó hiểu rồi đây!
- Không khó đâu, ví dụ là đại vương hiểu ngay. Ví như cái hình và bóng ở trong gương, nói cái gương tạo ra bóng là không được mà nói bóng tự hiện ra cũng không được. Tuy nhiên, muốn có bóng thì phải có hình, hình soi vào gương mới có bóng. Trước đây, chúng ta làm một việc gì đó (hình), việc đó lưu bóng ở trong tâm (gương). Chiêm bao chính là thấy lại cái bóng ấy ở trong gương (bhavangacitta). Đơn giản chỉ có vậy.
- Vâng, trẫm hiểu rồi! Nhưng có khi nào người nằm mộng thấy chiêm bao này là tốt, chiêm bao kia là xấu không, đại đức?
- Người chiêm bao không thể biết chiêm bao ấy xấu hay tốt. Có thể kể lại chiêm bao ấy cho những người đoán mộng nghe, họ có thể biết được. Nó ví như những nốt ruồi đen hay đỏ ở trong cơ thể, chúng ta không thể biết được chúng mọc ở chỗ nào là tốt, chỗ nào là xấu, chỗ nào có tiền tài, chỗ nào nghèo khổ, chỗ nào họa hại, chỗ nào may mắn. Chỉ có những ông thầy tướng pháp mới có thể biết được điều đó, tâu đại vương!
- Thế thì lúc chiêm bao, người ấy ngủ hay thức?
- Ngủ hay thức đều không thể chiêm bao. Nói rõ hơn, ngủ say quá hoặc tỉnh táo quá đều không thể chiêm bao được; chỉ khi nào nửa tỉnh, nửa mê, nghĩa là ngủ mà không say đắm, tỉnh nhưng mà mơ mơ màng màng; chính ở giữa trạng thái ấy, chiêm bao mới xuất hiện.
- Vâng!
- Nói có tính giáo nghĩa, kinh điển, thì khi ngủ say, ngủ thật ngon, tất cả lục căn (mắt, tai, mũi lưỡi, thân, ý) đều đóng cửa, hoàn toàn không hay biết gì về lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) bên ngoài. Lúc ấy chỉ còn duy trì sự sống qua sự trôi chảy của hữu phần tâm (bhavangacitta). Ý thức (ý), lúc ấy cũng chìm vào hữu phần tâm này, nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Lúc này không thể chiêm bao!
Còn khi ngủ mà giấc ngủ chưa sâu, chưa ngon - thì ý thức lúc ấy chưa chìm vào hữu phần tâm - nên nửa tỉnh, nửa mê! Ngũ căn lúc ấy, nếu bị thế giới ngũ trần tác động mạnh, họ có thể tỉnh lại, hoặc có thể nhận biết! Chính đấy là thế giới mà chiêm bao hiện hữu.
- Đại đức có thể nêu ví dụ chăng?
- Tâu, vâng. Trở lại cái gương soi hồi nãy. Nếu cái gương để ở chỗ tối thì có thể thấy bóng một cách dễ dàng không?
- Không thể.
- Khi ý thức chìm vào dòng hữu phần tâm,như chìm hoàn toàn vào bóng tối, thì ta không thấy bóng; chiêm bao cũng y như thế.
- Vâng!
- Cũng y như có phần đất trên quả địa cầu này, mặt trời không rọi đến được, giấc ngủ sâu không hay biết gì, không thấy gì - là thế!
- Những ai có được giấc ngủ sâu này, đại đức?
- Người vô tâm, vô tư, người mà thế giới ý thức ít làm việc... thường có được giấc ngủ sâu này. Ngoài ra, những người có thiền định, các bậc thánh nhân thường có giấc ngủ ngon lành như thế!
- Còn trạng thái tâm nửa tỉnh nửa mê, nghĩa là đang còn mơ mơ màng màng - tại sao chiêm bao lại xuất hiện?
- Tâu, khi đó, người ấy không còn ghi nhận rõ những hình ảnh thực của ngoại trần; nói cách khác, nó hiện ra nửa thực, nửa hư, mà đa phần hư nhiều hơn thực. Chính trong lúc ấy, những điều được lưu giữ trong ký ức tiền kiếp hoặc được lưu giữ từ quá khứ lại hiện ra, cọng với hình ảnh hư hư thực thực trong hiện tại, chúng tương tác, trộn lẫn... mà làm nên giấc chiêm bao.
- Vâng, thế sao họ lại chiêm bao?
- Giấc chiêm bao có nhiều biểu hiện khác nhau, nhưng đa phần phản ảnh ước mơ thầm kín của chủ nhân. Trong đời sống thường nhật, họ có những nguyện vọng, những ước mơ, những mong muốn không thể thực hiện được. Chính bởi những ràng buộc áo cơm, sự cấm đoán của luân lý, đạo đức xã hội, những thực tế khó khăn không đáp ứng được trong đời sống... mà chúng được tái hiện trong giấc mơ, tâu đại vương!
- Hay lắm, giấc ngủ sâu quá thì không biết gì, tỉnh quá thì giao tiếp với thế giới thường nhật rồi. Vậy chiêm bao chỉ xảy ra ở khoảng giữa hai tình trạng ấy, điều này rất đúng!
- Đại vương đã lãnh hội rất tốt.
- Vâng. Nói tóm lại, khi thức, tâm ý lăng xăng chuyện này chuyện kia nên chiêm bao không thể đến được.
- Đúng vậy. Ví như một tỳ khưu phá hủy chánh mạng thanh tịnh giới, không nuôi mạng chơn chánh, sống thân cận với bạn ác, chuyên hành trược hạnh, rời khỏi sự tinh cần; lười biếng, ham ăn, mê ngủ - thì pháp trợ bồ đề sẽ không bao giờ đến được với họ. Tương tợ như thế, người có làm việc ác hoặc tâm ý lăng xăng, nghĩ ngợi lung tung, hoặc thế giới óc não làm việc nhiều, hoặc lo toan, hoặc mưu tính - thì đêm đêm thường khó ngủ, cứ chiêm bao mộng mị - thật khó khăn để có được giấc ngủ ngon, giấc ngủ sâu, đóng trọn vẹn sáu cửa để cho ý thức được chìm vào hữu phần tâm, tâu đại vương!
- Rất rõ vậy. Và dường như đại đức cố ý phân chia giấc ngủ ra làm ba giai đoạn: đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối?
- Đúng thế!
- Đại đức có thể giảng giãi rõ ràng chăng?
- Vâng. Đoạn đầu là lúc chuyển từ giai đoạn đang thức sang giấc ngủ. Đấy là tâm trạng lờ đờ, mệt mỏi, ngáp, cơ thể mệt nhừ, muốn nằm và muốn ngủ.
Đoạn thứ hai, tuy nằm ngủ mà vẫn còn nhận biết thế giới xung quanh, nghĩa là có ngủ nhưng vẫn còn chút thức, ngủ mà ý thức chưa hoàn toàn đóng cửa.
Giai đoạn cuối là lúc ngủ ngon, ngủ sâu, ý thức chìm hẳn vào dòng Bhavanga!
- Cảm ơn đại đức! Thế trạng thái ngủ chút chút ấy, nói cụ thể là như giấc ngủ của con khỉ, nó làm cho phát sanh chiêm bao. Và rõ ràng sự kiện chiêm bao ấy là không tốt. Vậy người tu hành - ý nói bậc chân tu có tinh cần, có giới hạnh - sẽ đối trị với nó ra sao?
- Câu hỏi hay lắm! Muốn đối trị với nó, cần thiết phải trang bị những thứ khí giới sau đây: tỉnh thức, chánh niệm, kiên trú trong pháp. Khi làm được thế, hành giả không bị chi phối bởi ngoại cảnh bên ngoài và những tư tưởng, ý niệm khởi động bên trong, tâm được an chỉ. Tuy nhiên, từ an chỉ dễ đưa đến nhất hành (ekagggatà) - nhất hành này tương tự như nhập vào dòng bhavanga - vị ấy không nhập vào nhất hành mà quán chiếu để thấy rõ vô thường, khổ não, vô ngã để đắc Thánh quả! Như thế, rõ ràng vị ấy không phải ngủ mà cũng chẳng phải thức, cũng chẳng phải ngủ như giấc ngủ con khỉ , tâu đại vương!
- Khi chánh niệm, tỉnh thức, kiên trú trong pháp, rõ ràng vị ấy đang còn thức mà!
- Tâu, thức, nhưng không như cái thức của phàm nhân là bị chi phối bởi mọi cái ồn ào, phức nhiễu ở xung quanh, nên không thể gọi là thức bình thường được!
- Nếu vị ấy không nhập vào bhavanga, tức là còn đang ở giai đoạn thứ hai - nghĩa là ngủ chút chút như con khỉ - thì rõ là vị ấy sẽ chiêm bao!
- Tuy không nhập vào dòng bhavanga nhưng vị ấy không mơ mơ màng màng, không ngủ chút chút như con khỉ, vì ý thức đã yên lặng, tâm đã an lạc. Do vậy, vị ấy không có chiêm bao, tâu đại vương!
- Thế còn giai đoạn cuối, các vị ấy ngủ ngon, ngủ sâu chứ?
- Dĩ nhiên rồi. Các ngài chánh niệm, tỉnh thức ở giai đoạn một; an lạc, vắng lặng ở giai đoạn hai nên đi vào giấc ngủ ở giai đoạn ba rất dễ dàng!
- Thế có khác giấc ngủ ngon của phàm nhân không?
- Không khác. Nhưng phàm nhân lâu lâu mới có được giấc ngủ ngon như thế, vì họ còn mộng mị, chiêm bao; còn các bậc Thánh nhân bao giờ cũng ngủ ngon và không bao giờ còn chiêm bao nữa!
- Hay thật! Khi thức không phải thức, khi ngủ không phải ngủ, ở chỗ chiêm bao mà không phải chiêm bao; bao giờ cũng an lạc, vắng lặng, ngủ lúc nào cũng ngon - thì thật là hạnh phúc tuyệt vời trên cõi trần này, thưa đại đức!
- Chí phải!
* * *
169. Chết đúng thời và chết không đúng thời
- Thưa đại đức! Sinh ra trên đời ai cũng phải chết. Nhưng có người lại chết trẻ, có người lại chết già, tại sao như thế?
- Tâu, vì có người chết đúng thời và có người chết không đúng thời!
- Xin đại đức giảng cho.
- Vâng, ví như xoài ra hoa rồi kết trái. Đúng lý ra, đúng thời, đúng tiết, đúng độ thì xoài chín vàng mới rụng. Nhưng đại vương không từng thấy có trái đang non đã rụng, trái còn xanh đã rụng, trái mới hườm hườm đã rụng, hay sao?
- Trẫm có thấy.
- Xoài rụng khi chưa đúng thời có nhiều lý do khác nhau. Có trái do sâu đục, trái do chim mổ, trái do gió thổi mạnh. Gẫm con người sinh ra ở đời cũng như thế nào có khác gì?
- Ý đại đức muốn nói đến các sự chết, nhiều cách chết của con người khi chưa đến tuổi thọ phải không?
- Đúng thế. Con người sống cho đến già, có bệnh, bệnh nhẹ hoặc vô bệnh mà chết, ấy gọi là chết đúng thời. Còn những người do hành trình của nghiệp, tác động của nghiệp, do phản ứng đoạn lìa của nghiệp - mà chết khi chưa hết tuổi thọ - đều gọi là chết phi thời, tâu đại vương!
- Điều ấy nghe thì có lý - nhưng lấy đâu làm mốc, làm căn cứ để biết tuổi thọ của mỗi người là bao nhiêu? Giả dụ đứa bé đang còn trong bụng mẹ mà chết, có thể nói rằng, tuổi thọ của nó chỉ chừng đó thì sao? Tương tự thế, năm tuổi, mười tuổi, hai mươi tuổi mà chết - thì phải được hiểu tuổi thọ ngang chừng đó, nên gọi là chết đúng thời, không được sao? Suy từ luận cứ đó, tất cả mọi người chết ở độ tuổi nào cũng đúng thời cả, chứ không thể có cái gọi là chết phi thời, thưa đại đức!
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Đại vương, những người mà năm tuổi, mười tuổi, hai mươi tuổi... chết... là những người chết thọ nhỉ?
- Không, họ chết yểu!
- Thế những người tám mươi, chín mươi mới chết thì gọi là chết sao nhỉ?
- Gọi là chết thọ!
- Thế là đại vương đã tự xác nhận cái mốc "chết thọ" của đời người là bảy mươi, tám mươi, chín mươi v.v... Vậy chúng ta có thể hiểu rằng, chết đúng thời là chết thọ. Còn tất cả những ai chưa đến tuổi thọ, chết đang còn thanh niên, còn ấu thơ, chết bằng cách này hay cách khác - thì đều gọi là chết phi thời cả, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà cười:
- Không sai được. Thế đại đức có thể tóm lược cho nghe có bao nhiêu cách chết phi thời ấy, ví như trái xoài rụng do sâu đục, do chim mổ, do gió thổi?
Đại đức Na tiên lắc đầu:
- Nhiều lắm, tâu đại vương! Thật là không thể kể hết tất cả những cách, những kiểu, những trường hợp chết vào loại phi thời này. Nó thiên hình vạn trạng. Tuy nhiên, hằng trăm hằng ngàn cách chết phi thời - đều có thể quy về một chữ, đó là nghiệp. Do nhân quả, báo ứng của Nghiệp mà tạo nên phi thời tử, tâu đại vương!
- Vâng, thế đại đức có thể kể cho nghe một số trường hợp tượng trưng được chăng?
- Tâu, có thể được! Bần tăng xin nêu ra đây một số cách chết không đúng thời:
Chết do đói, Chết do khát, Chết do rắn cắn, Chết bởi độc dược, Chết cháy, Chết nước, Chết bởi khí giới v.v...
Ở đây đa phần là nghiệp dữ, nghiệp nặng...! Ngoai trừ chết đói, chết khát xẩy ra từ từ, còn năm cách chết sau, đều là chết dữ tợn, chết có đổ máu, chết bị hành thân hoại thể, chết tức khắc - nên người đời thường gọi là chết bất đắc kỳ tử đó, tâu đại vương!
- Vâng, cũng đều là nghiệp nhưng do tội báo quá nặng, phải chăng? Đại đức trình bày đại lược cho nghe một vài ví dụ liên hệ về nhân và quả của các cách chết ấy?
- Tâu vâng! Kiếp này có người chưa đến tuổi thọ mà chết, do đói, nguyên nhân là bởi một quá khứ lâu xa đã bắt bỏ đói một chúng sanh nào đó, hoặc do cướp giật thực phẩm, hoặc do phá hoại mùa màng, nương rẫy của kẻ khác, hoặc do thù oán mà đốt lương thực, thực phẩm v.v... - Do nhân như vậy nên người kia đã bị chết đói nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong bốn đường ác. Nghiệp còn dư sót, tuy được sanh làm người nhưng quả báo vẫn còn chạy theo! Nếu quả nghiệp theo kịp lúc thiếu niên thì bị chết đói lúc thiếu niên. Quả nghiệp theo kịp lúc trung niên thì bị chết đói lúc trung niên. Nhân quả vận hành một cách chính xác, không thiên vị, thiên lệch bao giờ!
Tương tự như thế, do nhân từng làm cho chúng sanh bị chết, chết do độc dược, do đốt cháy, do dìm nước, do đâm chém giết hại v.v... nên sau khi bị quả báo đau khổ trong bốn ác đạo, sanh làm người, vẫn bị trả quả báo dữ, bị đoạn lìa sanh mạng khi chưa đến tuổi thọ!
Phi thời tử là vậy, tâu đại vương!
- Chung quy là do nghiệp ác nặng, trẫm đã hiểu. Nhưng nếu chết do bệnh thì sao? Có người bệnh lương ương cả đời không chết? Có người bạo bệnh chết. Có người bệnh nặng, chạy thầy chạy thuốc hết cả gia sản mới lành. Có người bệnh sơ sơ, dưỡng vài ngày là khỏi. Tất cả những bệnh ấy, chết và không chết có phải là do nghiệp không?
- Có cái do nghiệp, có cái không do nghiệp. Tâu đại vương!
- Tại sao?
- Tâu, nghiệp phải được hiểu là do hành động đã làm, đã tạo tác từ kiếp trước gọi là nghiệp nhân, kiếp này bị trả quả gọi là nghiệp quả. Định luật báo ứng nhân quả ấy gọi là nghiệp. Vậy những người chết do nhân quá khứ đã làm gọi là chết bởi nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều trường hợp do tạo nhân từ kiếp này mà chết - nên không được gọi là bởi nghiệp, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho thí dụ.
- Vâng, ví dụ như có một người không biết giữ gìn cơ thể đối với thời tiết bất thường xảy ra ở xung quanh. Đại loại như trời nóng quá, trời lạnh quá, gió nhiều quá; hay nói cách khác, phong đại, thủy đại, hỏa đại... ở bên ngoài thịnh quá, tác động vào tứ đại của con người mà sinh bệnh... Cái ấy không bởi nghiệp quá khứ mà do nhân hiện tại, tâu đại vương!
- À, trẫm hiểu rồi.
- Ví dụ như có người làm việc quá độ, do thức ngủ quá độ, do lười biếng quá độ... làm cho tứ oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm... không điều hòa, mà sinh bệnh; ấy cũng là do nhân hiện tại, tâu đại vương!
- Vâng!
- Ví dụ có người ăn uống bất thường, hoặc dùng thứ này nhiều, thứ kia không có, hoặc quá ít mà sinh bệnh tiêu chảy, táo bón, ung thư - hoặc mật nhiều, đàm nhiều, hoặc thiếu máu hoặc dư máu... đều là bệnh mà mình tự tạo trong kiếp này - nên không thể gọi là nghiệp, tâu đại vương!
Cơ thể con người sinh bệnh còn do nguồn nước uống, không khí để thở, các định luật tự nhiên xung quanh tác động, ảnh hưởng nữa; đều là nhân của kiếp này cả, tâu đại vương!
- Thế là quá rõ. Đối với những bệnh không chết thì không nói. Còn tất cả bệnh mà chết, dù nhân quá khứ hay nhân hiện tại cũng đều gọi là phi thời tử cả sao?
- Đúng thế. Đúng tuổi thọ mới chết gọi là đúng thời, chưa đến tuổi thọ mà chết, do nhân thế nào đều gọi là chết không đúng thời cả!
- Những điều này có ví dụ cụ thể không nhỉ? Đại đức!
- Có chứ. Ví như đốt một đống củi khô, bổi khô, lá khô... Khi lửa cháy hết đống củi khô, bổi khô, lá khô ấy, lửa tự động tắt - ấy gọi là lửa tắt đúng thời, tâu đại vương!
- Đây chỉ cho trường hợp những người sống hết tuổi thọ của mình mới chết, là chết đúng thời!
- Vâng. Còn đống củi khô, bổi khô, lá khô ấy... đang cháy nửa chừng, bị một trận mưa ập xuống làm tắt lửa; ấy gọi là lửa tắt không đúng thời, tâu đại vương!
- Đây chỉ trường hợp những người bị nghiệp nặng hay bệnh nặng đến phải chết khi họ sống chưa hết tuổi thọ của mình, gọi là phi thời tử đây?
- Đúng vậy.
- Nghiệp nặng hoặc bệnh nặng giống như mưa đổ ập xuống làm tắt lửa, dứt sanh mạng; còn trường hợp mưa ấy bị gió thổi tan đi, hoặc mưa sơ sơ không đủ tắt lửa thì sao, đại đức?
- Những người sống hết tuổi thọ mà vô bệnh hoặc bệnh nhẹ thì như trời quang mây tạnh, không có mưa! Những người cũng sống hết tuổi thọ nhưng bệnh nặng rồi lành, hoặc bệnh liên miên - như trời có mưa, nhưng gió thổi tan mưa đi, hoặc có mưa nhỏ không đủ tắt lửa. Những người nghiệp nhẹ hoặc có bệnh nhưng không chấm dứt tuổi thọ đều y như thế!
- Vâng!
- Những người bị rắn cắn, chất độc mạnh, bị hành thân xác, nhưng thầy rắn chữa lành, không đoạn mạng sống được, cũng y như thế.
- Vâng!
- Ví như tên lìa khỏi giây cung, không bị chướng ngại cản trở sẽ đến được mục tiêu, nếu bị chướng ngại cản trở sẽ không đến được mục tiêu. Mũi tên đến được mục tiêu là đúng thời, mũi tên bị cản trở, rớt giữa chừng, gọi là phi thời, tâu đại vương!
- Nghe rõ!
- Ví như một người đánh trống đồng, âm vang đi rất xa - là đúng thời; nhưng vừa đánh lên, có kẻ đưa hai tay bịt mặt trống, ngăn lại, âm thanh ngưng dứt, không vang đi được - ấy gọi là không đúng thời, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu rồi!
- Những người không bị nghiệp nặng đoạn lìa sanh mạng, nhưg bị bệnh do thời tiết tác động, do ăn quá độ, do làm việc quá độ, do ảnh hưởng nước và không khí ở xung quanh... thuốc thang không chữa được...đều phải được hiểu là phi thời tử y như thế, không khác.
- Vâng!
- Lúa cấy trong đám ruộng mưa thuận gió hòa, chăm sóc chu đáo, đến mùa gặt hái được dồi dào lương thực. Nhưng nếu đám ruộng ấy bị trời nắng hạn, thiếu nước, thiếu phân, chắc hẳn lúa sẽ khô chết hoặc thâu hái chẳng được bao nhiêu hạt, phải thế không đại vương.
- Vâng.
- Lúa khô chết ấy là đúng thời hay phi thời?
- Tất là phi thời!
- Nếu do hạn hán mà chết, do sâu đục thân, do chuột cắn nát, do châu chấu tàn hại... thì có phi thời chăng?
- Dĩ nhiên là phi thời.
- Đám ruộng phân nước đầy đủ, sâu không ăn, chuột không phá, châu chấu không làm hại, nhưng nếu bị một trận mưa đá dập xuống thì sao?
- Cũng tiêu luôn. Cũng là phi thời!
- Nói tóm lại, những ai vô bệnh, thiểu bệnh, bệnh nặng mà chữa lành; nghiệp nặng mà do phước bảo trợ được vượt qua, nhiều tai nạn nhưng may mắn thoát chết - sống hết tuổi thọ của mình mới lìa đời - gọi là hợp thời tử! Những ai bị bắt đắc kỳ tử, bị ác nghiệp quá khứ còn dư sót, bị nhân quá khứ hoặc nhân hiện tại tác động mà sinh bệnh, đoạn lìa mạng sống khi còn non trẻ, trung niên v.v... Tất cả đều được gọi là phi thời tử, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật thiện xảo, phong phú thay là những ví dụ của đại đức; sự giải đáp nhiều mặt của đại đức, trên thế gian này, ai mà không hiểu được, quả là cô phụ tấm lòng của bậc đại trí vậy.
* * *
170. Tại sao nhập Niết bàn lại có hiện tượng phi thường?
- Thưa đại đức! Tất cả các vị A-la-hán khi Niết bàn, thi thể hỏa táng của các ngài đều có hiện tượng phi thường xảy ra phải chăng?
- Có vị có thần thông phép lạ xuất hiện, có vị không có gì cả, tâu đại vương!
- Tại sao lại như thế, đại đức?
- Tâu đại vương! Thần thông phép lạ hay là hiện tượng phi thường xảy ra nơi thi thể hỏa táng của các bậc A-la-hán Niết bàn, là do một trong ba điều kiện sau đây:
Thứ nhất, có vị A-la-hán sắp Niết bàn, vì muốn đem đến lợi ích cho những người đến lễ bái, cúng dường; nên chú nguyện rằng: "Xin cho thi thể này hiện ra những năng lực phi thường." Nguyện như thế xong, Niết bàn, thi thể hỏa táng của vị ấy sẽ xảy ra thần thông phép lạ.
Thứ hai, một số chư thiên có thần thông biết rằng, lễ bái, cúng dường thi thể hỏa táng của các bậc A-la-hán được rất nhiều phước báu cao thượng. Các vị chư thiên ấy muốn làm cho chư thiên trong các cõi và nhân loại phát sanh tín tâm trong sạch; nên họ đến nơi hỏa đài phát lời chú nguyện: "Xin cho thi thể hỏa táng của bậc A-la-hán này hiện ra những năng lực phi thường để tăng trưởng đức tin cho phần đông." Chư thiên nguyện thế xong, sau đó, thần thông phép lạ sẽ xảy ra ngay nơi chỗ hỏa táng ấy.
Thứ ba, có những nam, nữ cư sĩ là bậc trí thức, có trí tuệ, giàu đức tin... họ cúng dường vật thơm, tràng hoa hay vải vóc đến lễ đài hỏa thiêu rồi phát nguyện: "Mong cho thi thể hỏa táng của bậc A-la-hán này phát sanh năng lực mầu nhiệm vì lợi ích cho chư thiên và loài người."
Lời cầu nguyện ấy sẽ được ứng nghiệm.
Nghe xong đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Nếu không có ba trường hợp chú nguyện ấy thì sẽ không có phép lạ sao, đại đức?
- Tâu, vâng!
- Đến các vị đại A-la-hán thuần thục lục thông, nếu không chú nguyện cũng không có hiện tượng phép lạ xuất hiện sao?
- Tâu, vâng.
- Như vậy rõ ràng là trường hợp nào cũng vì lợi ích cho chư thiên và loài người cả. Đáng ngưỡng mộ làm sao!
* * *
171. Chúng sanh nào có khả năng đắc đạo?
- Thưa đại đức! Tất cả chúng sanh bất cứ cõi nào, nếu có đức tin trong sạch, có sự thực hành chơn chánh và tinh cần - thì thảy đều có thể đắc thánh quả cả chứ?
- Có loài, có loại đắc, có loài, có loại không thể đắc, tâu đại vương!
- Những chúng sanh nào không thể đắc, xin đại đức kể cho nghe.
- Tâu đại vương, có mười lăm loài, loại chúng sanh không thể đắc đạo quả cao siêu được, đó là:
Súc vật, cầm thú; Loài khẩn-na-la (Kinnara) - chúng sanh phi cầm, có đầu giống người; Các loài rồng; Ngạ quỷ; Người tà kiến;
Trẻ chưa đủ bảy tuổi; Người phạm tội giết cha; Người phạm tội giết mẹ; Người phạm tội giết A-la-hán ; Kẻ chích máu Phật ;
Người chia rẽ Tăng; Người phạm giới trộm mạo Tăng tướng hoặc tỳ khưu hành theo ngoại đạo; Kẻ hãm hiếp tỳ khưu ni hoặc tỳ khưu phạm Tăng tàn mà không thọ lãnh hình phạt; Người bán nam bán nữ; Người có hai sanh thực khí.
Mười lăm hạng chúng sanh này dù đức tin trong sạch, thực hành chơn chánh, tiến tu chỉ tịnh, quán minh cũng không thể vào dòng Thánh chủng được.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Trẫm không hề nghi ngờ về điều ấy, chỉ thắc mắc một điểm nhỏ thôi!
- Đại vương cứ tự nhiên hỏi.
- Vâng! Ở nơi điểm thứ sáu, trẻ dưới bảy tuổi, không thể đắc quả, trẫm rất nghi ngờ. Tại sao vậy? Vì trẻ dưới bảy tuổi, tâm hồn rất trong trắng, chẳng ngã chấp, tà kiến, chẳng tư duy về ái dục, chẳng độc ác, sân hận, chẳng đố kỵ, kiêu căng, chẳng buông lung, phiền não. Với nhân tố tốt đẹp như vậy, nếu chăm chuyên thực hành chánh pháp, tại sao lại không đạt đạo?
- Đại vương! Với sức mạnh bình thường của con người, có thể bưng được núi Tu di không?
- Hẳn nhiên là không thể.
- Tại sao thế?
- Tại núi Tu di quá to mà sức người thì có hạn!
- Cũng như thế đó, tâu đại vương! Đạo quả là pháp xuất thế gian, nó quá vĩ đại, quá cao siêu so với trí tuệ bình thường của con người. Trẻ dưới bảy tuổi, thể xác non yếu, kiến thức và tư duy đều chưa được chín chắn, đức tin chưa vững mạnh, trí tuệ còn quá non nớt - thì làm thế nào đủ điều kiện, năng lực để thực hành và thâm ngộ đạo lớn được hở đại vương!
- Ồ! Có thể là vậy lắm.
- Ví như một giọt nước nhỏ có thể thấm ướt cả quả đất được chăng, đại vương?
- Dĩ nhiên là không thể rồi!
- Tại sao như thế?
- Vì quả đất lớn quá.
- Cũng như thế đó, đại vương hãy hiểu cho, mảnh đất của đạo quả cũng rộng lớn mênh mông; tất cả hiểu biết, đức tin, trí tuệ của trẻ dưới bảy tuổi đều nhỏ nhít, tí tẹo thì làm sao có thể thâm nhập cảnh giới của Thánh nhân được hở đại vương?
- Thưa vâng!
- Lại nữa, ví như có người lấy cây đèn nhỏ mà muốn rọi sáng cho thấy cả quốc độ, y có thể làm thế được không, đại vương?
- Thật không thể.
- Tại sao?
- Vì vùng chiếu sáng của ngọn đèn chỉ trong một giới hạn nhỏ, còn quốc độ thì to lớn quá.
- Cũng như thế đó là trí tuệ non nớt của trẻ dưới bảy tuổi so với thế giới giác ngộ của bậc Thánh nhân.
- Vâng!
- Ví như có loại sâu Kini chuyên đục thân lúa Sàlì, con sâu ấy có thể nào ăn một con voi cao bốn thước không, đại vương?
- Chẳng thể nào!
- Vì sao?
- Vì khả năng con sâu không thể làm việc ấy.
- Cũng như thế đó là tổng cộng mọi năng lực của trẻ dưới bảy tuổi, nó không có khả năng thành tựu được Thánh đạo đâu, đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã ân cần giảng giải.
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:57:05 GMT -5
172. Niết bàn có xen lẫn khổ?
- Thưa đại đức! Niết bàn là duy nhất an lạc hay có lẫn sự khổ?
- Sao lại khổ được, đại vương hỏi chi lạ lùng!
- Thưa, không lạ lùng mà là sự thật. Đại đức không thấy sao? Những người tu hành để tìm kiếm Niết bàn như đại đức, không biết bao nhiêu là khổ thân và khổ tâm. Này nhé! Thứ nhất là hành thân cho khổ. Đi đứng nằm ngồi đều phải tỉnh thức, chánh niệm. Nói cách khác, đi cũng rán giữ đề mục thiền, đứng cũng không dám lơ là đề mục thiền, ngồi cũng phải chăm chăm đề mục thiền, nằm cũng không dám quên đề mục thiền. Thế không khổ thân là gì?
Thứ hai, nói rộng ra một tí - là ăn cũng phải quán tưởng từ miếng một, uống nước cũng phải quán tưởng từng hớp. Thế nhưng, có dám ăn no đâu, sợ Phật quở. Ngủ cũng thế, ngủ chỉ được chút ít thôi, chẳng no mắt. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều được xiềng xích cột chặt, không cho sờ đụng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp! Cái ấy gọi là sống à? Có chút vui nào đâu hay chỉ là khổ thôi? Rồi còn bỏ cha me, thân quyến, bạn bè; đi xin ăn chỗ này, chỗ kia, mặc y vải bó tử thi, vào rừng, vào nghĩa địa hoang vắng để sống cô độc hiu quạnh một mình. Thế chưa đủ gọi là khổ sao?
Đại đức Na tiên trầm tĩnh nói:
- Đại vương cứ tiếp tục cho.
- Vâng! Những người trên thế gian này họ đâu dại gì mà chịu khổ như thế, họ sống vui thích, sướng khoái là khác. Đại đức hãy nghe đây:
Thứ nhất, họ ở nhà cao cửa rộng, trang trí vật dụng bằng vàng, bằng bạc, tất cả tiện nghi thứ gì cũng thích mắt. Họ chọn vợ đẹp, nàng hầu xinh xắn, mủm mỉm dễ thương. Họ sống khoái lạc, thỏa mãn trong thế giới sắc tướng đầy quyến rủ ấy.
Thứ hai, họ đắm chìm, mê man trong thế giới đàn ca xướng hát, âm thanh trầm bỗng, dìu dặt mê ly như đưa hồn người vào cõi hoan lạc của thiên đường.
Thứ ba, họ ướp trầm, xông hương, trăm loại hoa hương tỏa ngát đêm ngày, những hương liệu nồng nàn được tỏa ra từ các loại chiên đàn, già la; từ mái tóc, áo quần, từ da thịt nõn nà; từ bột hương, nhụy hương, từ khăn thơm, chăn màn, gối, đệm v.v... Đâu đâu cũng thơm mê ly như đưa con người vào cõi hương bồng bềnh, vi diệu.
Thứ tư, họ còn thụ hưởng bao nhiêu thứ ngon vật lạ, sơn hào hải vị, của cây cỏ, sông hồ! Biết bao nhiêu là vị béo bùi, bỗ dưỡng, ngọt thanh cao, cay dễ chịu, nồng váng vất say, ngon trôi vào cổ họng v.v...
Thứ năm, họ thụ hưởng biết bao nhiêu là xúc chạm vừa lòng, êm ái từ thân thể nữ nhân; từ gối, nệm, từ chỗ ngồi, chỗ nằm, từ kiệu xe nhún nhẩy, mịn màng, mượt như tơ, láng như ngọc chuốt v.v...
Tất cả năm loại dục ấy họ đều thỏa mãn no đủ, khoái lạc. Còn ý dục của họ luôn nghĩ đến năm loại thỏa thích sung sướng kia! Ồ! Sống như vậy mới sống chứ?
Còn các ngài thì sao nhỉ? Các ngài muốn Niết bàn đâu phải dễ dàng gì. Cả sáu loại dục ở trên các ngài thèm lắm, muốn lắm - nhưng vì tu hành là cao thượng nên các ngài cắn răng, bịt mắt giả vờ không ngó tới. Nhưng nội tâm của các ngài thì sao nhỉ? Tâm các ngài như lửa đốt, lòng các ngài bứt rứt, khó chịu! Vậy cũng đúng thôi. Các ngài tự rào bít mình lại, tự làm cho khô héo sự sống, tự cắt đi mạch tiến hóa tự nhiên của trời đất, của chúng sanh có thức giác hữu tình! Ôi thật đúng làm sao khi kẻ ngoại đạo tên là Màgandiya đã chê trách Đức Bổn Sư và giáo hội rằng:"Đấy là một tôn giáo không thỏa hiệp với sự sống, cắt đứt dòng tiến hóa."
Lời phê phán ấy quả là không ngoa, thưa đại đức! Niết bàn của quí ngài không thấy an lạc đâu mà chỉ thấy đi ngược dòng đời, đâm đầu vào sự khổ, xa lìa các niềm vui trên trần thế!
Sau câu hỏi ấy mọi người đều im lặng. Đại đức Na tiên tự nghĩ: "Đức vua minh triết này, có lẽ vì lợi ích cho phần đông, vì muốn lợi lạc cho các thế hệ học Phật mai sau - mới đặt những câu hỏi ngớ ngẩn cùng với những lý lẽ sặc mùi tục lụy như thế! Bản thân của đức vua vốn biết sự nguy hiểm của ngũ dục, ở đó vui ít khổ nhiều, tối tăm, uế trược, chỉ để dành cho hạng chúng sanh ngu si, thiểu trí, hạ liệt! Âu ta cũng vì phương tiện, vì tấm lòng bao la như trời biển của đức vua mà thuyết giảng cho rành rẽ ngọn ngành vậy!"
Nghĩ thế xong, đại đức Na-tiên bèn nói:
- Tâu đại vương! Những điều mà đại vương nói, ví như nói rằng: Đạo giác ngộ đi ngược dòng đời, sống phải thu thúc lục căn, chánh niệm trong từng bước đi, hơi thở, quán tưởng tứ vật dụng; đi đứng ngồi nằm đều chú tâm vào đề mục thiền; ít ngủ, ít ăn, sống hạnh khất thực, ở nghĩa địa cội cây, rừng v..v... đều hoàn toàn đúng với sự thật. Tuy nhiên, Niết bàn là một cái gì đó ở ngoài, ở xa dự niệm phác tưởng của đại vương! Nói Niết bàn là an lạc chỉ là cách nói cho người trần thế dễ lãnh hội, chứ nó đâu có phải là thế. Sự tìm kiếm Niết bàn cũng phải trải qua công phu hành trì, tinh cần, nỗ lực ngày đêm... Dĩ nhiên phải gian lao, vất vả; quả thật là khổ vậy. Đại vương nói không sai. Tuy nhiên, tầm cầu là khác, lên đường là khác - nhưng chứng đạt Niết bàn, an trú Niết bàn lại hoàn toàn khác nữa, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Tâu, vâng! Chỉ lấy đại vương làm thí dụ thôi. Hiện tại, đại vương đang làm vua, ngôi vị ấy có đem đến an vui, hạnh phúc cho đại vương chăng?
- Phải nói là hạnh phúc tuyệt vời!
- Chắc có lẫn sự khổ chứ?
- Vâng, có khổ là khi quân thù đem quân xâm lược, chém giết dân chúng, đốt phá xóm làng, cướp bóc của cải, tài sản của mọi người ở vùng biên địa. Thế là phải kêu gọi thanh niên trai tráng đầu quân, bỏ vợ, bỏ con lên đường tòng chinh chiến đấu.
Chiến tranh thì có khi thắng, khi bại; nhưng thắng hay bại đều hao binh tổn tướng, máu xương phơi đầy núi, đầy sông. Ồ! Khổ thì quả thật là khổ đấy, nhưng khi thái bình an lạc thì khác rồi, thưa đại đức!
- Ý đại vương nói là khi quốc độ nguy vong, không những muôn dân đều khổ mà chính đức vua cũng phải hao tổn tâm cơ, ngày đêm nhăn trán, nhíu mày tìm phương kế đối phó...
- Vâng.
- Và khi xung quanh không còn kẻ thù quấy nhiễu nữa thì đại vương hoàn toàn sung sướng, hạnh phúc?
- Chính thế!
- Thế thì con đường tìm kiếm, cần cầu Niết bàn vô thượng cũng phải trải qua, vượt qua gian khổ; phải đánh bại tất cả thù địch, ma quân cả bên trong, bên ngoài chứ nào khác gì? Vậy, có những vị tỳ khưu sống đời thu thúc lục căn, ít ngủ, ít ăn, chấp nhận đời sống bần hàn vô sản; tinh cần chỉ tịnh, quán minh, xa lìa ngủ dục thấp hèn - cũng nhằm đến mục đích an lạc như ngôi vua chí tôn của ngài vậy - thì sự khổ ấy cũng thường tình, như là một cái gì tất yếu vậy, phải thế không đại vương?
- Có lý lắm.
- Một người muốn học nghề thành tài để sau này khả dĩ nuôi sống được vợ con - thì hắn phải lập tâm, lập hạnh như thế nào, hở đại vương?
- Tâm phải kiên trì, kiên quyết; hạnh phải hiền thục, ngoan ngoãn, dễ dạy. Ngoài ra còn phải biết tôn sư trọng đạo, phải biết lễ nghĩa, hầu hạ thầy. Những việc lặt vặt như nấu trà nước, nấu nước tắm, tăm xỉa răng và nước súc miệng, đấm bóp chân tay cho thầy v..v...cũng phải quan tâm chăm sóc cho chu đáo. Khi học, khi thực hành phải chú tâm quan sát lắng nghe v.v...Nói tóm lại, là muốn thành tài, cũng phải biết chịu đựng và vượt qua rất nhiều gian khổ vậy.
- Niết bàn là cái tối thượng, hy sinh chút ít, chịu khổ chút ít, để đem đến cho mình một thứ hạnh phúc ngoài thời gian, vô điều kiện - thì sự đánh đổi ấy quá rẻ, tâu đại vương!
- Vâng!
- Lập ngôn của đại vương: "Niết bàn lẫn lộn sự khổ" không đứng vững được rồi!
Đức vua Mi-lan-đà cất tiếng cười sảng khoái:
- Đứng còn không được thì lấy đâu mà vững, đại đức?
Đại đức Na tiên cũng cười vui.
* * *
173. Tại sao không diễn tả Niết bàn một cách cụ thể?
Hôm đó, khi vừa gặp đại đức Na tiên, không biết trong tâm của đức vua nghĩ ngợi gì mà ngài cứ mỉm cười hoài! Sau đó, đức vua không mở đề như thường lệ, mà buông lời như trống không, vô nghĩa.
- Gẫm cũng thú vị quá, đại đức nhỉ?
- Ý đại vương muốn nói gì?
- Ô! Đức Phật đó! Giáo hội đó! Chư Tăng đó! Tất cả sa môn trong hàng ngũ của đại đức đấy!
- Bần tăng vẫn không hiểu gì!
- À, là thế này! Niết bàn ấy mà! Ai cũng nói Niết bàn là vô thượng, tối thượng, là hạnh phúc, là an lạc. Nhưng khi diễn tả Niết bàn cho mọi người cùng thấy, cùng biết... thì quý vị cứ ởm ờ, trả lời vòng quanh, trườn uốn như con lươn! Này nhé, đại đức hãy nghe đoạn đối thoại sau đây:
"- Thưa đại đức, Niết bàn có sắc tướng không?"
- Không, không có sắc tướng, không phải kết hợp do tứ đại.
- Thế ra nó phải có một diện tích, một cảnh, một cõi, một xứ, một nơi chốn nào đó?
- Không, hoàn toàn không phải là như vậy!
- Cũng không có bộ phận, chi tiết gì cả sao?
- Không, không có!
- Có thể nào đưa ra một sự ước lượng, một sự độ chừng được không?
- Thưa, không thể.
- Có thể đưa ra một ví dụ chăng?
- Chẳng thể nào!
- Thế Niết bàn chắc phải có nhân gì chứ?
- Nó không nhân!
- Thế thì duyên?
- Cũng không!
- Chẳng có cách thức, phương pháp gì để chứng thực, để diễn đạt sao?
- Không có! "
Đấy! Đoạn đối thoại như vừa rồi là cách trả lời phổ thông nhất của quý ngài đấy! Nếu trường hợp đại đức thì đại đức sẽ trả lời sao?
- Tâu đại vương! Nếu được hỏi như thế thì bần tăng cũng chỉ trả lời được như thế thôi!
- Thế không có cách gì cụ thể để cho mọi người dễ lãnh hội hơn sao?
- Tâu, có thể trả lời cụ thể, nhưng cụ thể ấy không phải là Niết bàn. Có thể từ ví dụ cụ thể ấy khơi mở cho ta thấy "bóng dáng" của Niết bàn!
- Ồ! Vậy là hay lắm!
- Thế gian nói có biển lớn, và đại vương không biết đã thấy biển lớn chưa?
- Thưa, có thấy rồi!
- Quả thật có biển lớn chứ?
- Vâng, có thật.
- Đại vương đã thấy biển lớn rồi và xác định biển lớn ấy có thật. Vậy thì xin hỏi đại vương, biển lớn ấy rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu, sâu bao nhiêu? Và trong biến ấy ước chừng bao nhiêu lượng nước, bao nhiêu loài cá, mỗi loại như thế số lượng được bao nhiêu con?
- Không ai nói được điều đó, không ai biết được điều đó. Vả lại, đây là loại câu hỏi không nên đặt ra, đại đức!
- Tại sao thế? Biển cả có thật, nước có thật, cá có thật - mà tại sao đại vương không chịu trả lời? Hay là đại vương chưa hề thấy biển?
- Trẫm thấy thật chứ - nhưng bề dài, rộng, sâu, bao nhiêu cá thì quả thật trẫm chịu; trẫm chưa đủ kiến thức về hải dương học, nếu có, trả lời cũng không chính xác đâu!
- Biển cả là cái cụ thể, đại vương đã từng thấy bằng mắt, thế mà hỏi về dài, rộng, sâu, bao nhiêu cá... đại vương cũng không độ chừng được, ước lượng được... Thế mà đại vương bảo bần tăng độ chừng, ước lượng, đưa ra bộ phận, chi tiết... về Niết bàn, là pháp siêu thế sao?
- Ồ!
- Giả dụ như có người có thần thông, có kiến thức uyên bác, có trí nhớ tuyệt hảo; y có thể độ chừng bề dài, rộng, sâu, nước và cá trong biển lớn; nhưng đối với Niết bàn y cũng không thể nói được, trình bày được!
- Tại sao?
- Vì sao thì đại vương biết rồi đó chứ! Vì Niết bàn ở ngoài mọi ước lượng, mọi nhân, duyên, ví dụ, so sánh..., tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà nóng nảy:
- Nhưng đại đức có nói, là có thể có ví dụ cụ thể, từ đó khơi mở cho người khác thấy "bóng dáng" của Niết bàn kia mà! Trong tâm của trẫm đang có một lò lửa thiêu đốt đấy!
Đại đức Na tiên nói:
- Vậy thì đại vương hãy nghe cho kỹ đây! Đây là những ví dụ cụ thể, từ đó ta sẽ thấy thấp thoáng bóng dáng của Niết bàn:
Một là, hoa sen có một đức tính tương tợ Niết bàn. Hai là, nước có hai đức tính tương tợ Niết bàn. Ba là, thuốc trị độc rắn có ba đức tính tương tợ Niết bàn. Bốn là, biển lớn có bốn đức tính tương tợ Niết bàn. Năm là, vật thực có năm đức tính tương tợ Niết bàn.
Sáu là, hư không có mười đức tính tương tợ Niết bàn. Bảy là, ngọc ma ni có ba đức tính tương tợ Niết bàn. Tám là, chiên đàn đỏ có ba đức tính tương tợ Niết bàn. Chín là, sữa Sappi (tức sữa chua, bơ lỏng) có ba đức tính tương tợ Niết bàn. Mười là, đỉnh núi có năm đức tính tương tợ Niết bàn.
Nghe xong mười điều, đức vua Mi-lan-đà hoan hỷ nói:
- Hay lắm! Vậy thì đại đức bi mẫn cho nghe từng điểm một.
- Vâng, đây là điều thứ nhất. Hoa sen có một đức tính khả dĩ từ đó chúng ta hình dung ra Niết bàn. Đức tính ấy là gì? Ấy là hoa sen không dính nước, không thấm nước. Niết bàn cũng như hoa sen vậy, có đặc tính là, nước cấu uế, nước phiền não không dính được, không thấm vào đấy được!
- Vâng, cho xin nghe tiếp hai đức tính của nước?
- Khi trời nóng nực, nước giúp ta tắm rửa mát mẻ, đồng thời, tẩy sạch tất cả những dơ dáy bụi bặm. Cũng tương tự thế, Niết bàn làm lắng dịu hận tâm, sân tâm; làm mát mẻ tất cả sự bực tức, bực bội, nóng nảy, ngoài ra còn tẩy rửa tất cả tâm tư, ý niệm dơ dáy, bất tịnh - tâu đại vương!
- Đúng là như vậy, thế cho nghe ba đức tính của thuốc trị độc rắn.
- Vâng. Điều thứ nhất, thuốc ấy uống vào là tan độc tính. Thứ hai, uống vào là hết bệnh. Thứ ba, uống vào là ngăn được sự chết. Tương tợ như thế, Niết bàn làm tiêu vong phiền não, thứ nữa là diệt tận khổ đau, chấm dứt tham sân si; cuối cùng là ngăn giữ cho chúng sanh khỏi rơi vào sanh gìa bệnh chết!
- Điều thứ tư, bốn đức tính của biển lớn là như thế nào?
- Vâng!
Thứ nhất, biển lớn luôn giữ gìn sự trong sạch của mình, không dung chứa những xác tử thi bất tịnh; cũng vậy, Niết bàn bao giờ cũng thanh khiết, không dung chứa bất cứ sự cấu uế, bất tịnh nào.
Thứ hai, biển lớn rộng mênh mông; bao nhiêu con sông lớn ngày đêm tuôn chảy vào cũng không đầy. Tương tự như thế, Niết bàn mênh mông không thấy mé bờ; nếu vô lượng chúng sanh đời này, đời kia vào an trú, không vì thế mà Niết bàn đầy hơn.
Thứ ba, biển lớn là nơi sinh sống của hằng trăm triệu thủy tộc, tha hồ cho chúng bơi lội vẫy vùng. Tương tự thế, Niết bàn là cảnh giới của vô lượng bậc Thánh nhân vô lậu cư trú, tha hồ sống đời hạnh phúc, an lạc chơn thường.
Thứ tư, biển cả là nơi chôn dấu, sinh trưởng của biết bao nhiêu loài, giống, loại quý báu. Không kể ngọc, kim cương, xà cừ, pha lê, trân châu... mà còn hương liệu, tinh chất được lấy ra từ các loại thảo mộc chưa có tên gọi. Tương tự thế, Niết bàn là nơi hội tụ của mọi loài hương hoa thơm ngát được chiết ra từ các pháp thanh tịnh; biết bao trí đức, tuệ đức quý báu; vô lượng đức tính toàn mỹ, toàn thiện không đếm xiết được.
Đại vương thấy thế nào? Bốn đức tính của biển có tương ưng, tương hợp với Niết bàn chăng?
- Quả là vậy. Xin đại đức cho nghe tiếp năm đức tính của vật thực?
- Vâng.
Thứ nhất, vật thực nuôi dưỡng sanh mạng chúng sanh, Niết bàn cũng nuôi dưỡng đời sống bất tử của chúng sanh không cho tiêu hoại bởi già và chết.
Thứ hai, vật thực cho chúng sanh sức lực và sức mạnh, Niết bàn cũng là nơi cho chúng sanh thần lực và năng lực.
Thứ ba, vật thực làm cho tươi sắc da, Niết bàn cũng làm tươi đẹp thêm màu sắc của giới.
Thứ tư, vật thực dứt sự quằn quại xót xa do đói - thì Niết bàn cũng chấm dứt tất cả sự thống khổ, sầu muộn do phiền não.
Thứ năm, vật thực giúp chúng sanh giải quyết sự đói thèm - thì Niết bàn cũng làm cho tất cả sự khao khát, tham muốn thảy đều yên lặng.
- Ví dụ ấy thật là sít sao! Đại đức cho nghe tiếp.
- Vâng, bây giờ là mười đức tính của hư không.
Thứ nhất, hư không và Niết bàn đều không già. Thứ hai, hư không và Niết bàn đều không chết. Thứ ba, hư không và Niết bàn đều không rời đi, rớt đi. Thứ tư, hư không và Niết bàn đều không tái sanh. Thứ năm, hư không và Niết bàn không ai áp chế được.
Thứ sáu, hư không và Niết bàn không ai trộm cắp hoặc sở hữu được. Thứ bảy, hư không và Niết bàn đều không có gì dính mắc được. Thứ tám, hư không là nơi đi lại của chim, chư thiên, người và dạ xoa có thần thông- Niết bàn là nơi đi lại của bậc Thánh. Thứ chín, hư không và Niết bàn không có gì ngăn ngại. Thứ mười, hư không và Niết bàn là nơi mênh mông không có chỗ cuối cùng.
- Hay vậy thay! Xin cho nghe về ngọc ma ni?
- Vâng, ngọc ma ni có ba đức tính:
Một là, ngọc ma ni và Niết bàn làm cho thành tựu sở nguyện. Hai là, ngọc ma ni và Niết bàn làm cho hoan hỷ Ba là, ngọc ma ni và Niết bàn làm cho an lạc.
- Cho nghe thêm về ba đức tính về chiên đàn đỏ.
- Vâng, chiên đàn đỏ và Niết bàn đều có ba đức tính tương tợ nhau.
Trước hết, nó là cái khó tầm cầu, khó được Thứ hai, có mùi thơm không gì sánh bằng. Sau nữa, chiên đàn đỏ được thế gian ưa thích thì Niết bàn là nơi bậc thánh ưa thích.
- Thế còn ba đức tánh của bơ lỏng?
- Vâng.
Đầu tiên, nếu bơ lỏng có màu sắc đẹp thì Niết bàn có vô lượng đức tính đẹp. Tiếp đến, bơ lỏng có vị ngon đặc biệt thì Niết bàn cũng có vị ngon đặc biệt (diệt phiền não, được an vui). Cuối cùng, bơ lỏng có mùi thơm đặc biệt thì Niết bàn cũng có mùi thơm đặc biệt (ấy là tuệ hương, giải thoát hương...)
- Bây giờ còn năm đức tính của núi nữa, đại đức?
- Vâng!
Một là, đỉnh núi là điểm cao nhất - Niết bàn cũng là cõi cao nhất. Hai là, đỉnh núi không hề rung chuyển, lay động thì Niết bàn cũng thế. Ba là, đỉnh núi người lên một cách khó khăn - Niết bàn người đắc cũng rất khó khăn. Bốn là, trên đỉnh núi đá không cây gì mọc được, ở Niết bàn, tham sân si, phiền não cũng không mọc được. Năm là, đỉnh núi và Niết bàn đều xa lìa sự thương và ghét.
Tâu đại vương! Đấy là tất cả các ví dụ tạm thời nhằm so sánh với Niết bàn - mà trình độ của bần tăng có thể nói được. Mong đại vương suy gẫm, may ra có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của Niết bàn chăng?
- Vậy là đã quá nhiều rồi! Có gì chưa thông suốt, trẫm sẽ xin hỏi lại vào một dịp khác.
- Tâu, vâng.
* * *
174. Làm cho rõ Niết bàn?
- Thưa đại đức! Hôm qua đại đức đã nêu ra hằng chục đức tính cao quý vô thượng của Niết bàn do nhờ hình tượng của sự vật nói lên. Hiện tại, trẫm đã hình dung ra được Niết bàn ấy. Tuy nhiên, theo trẫm được học hiểu thì Niết bàn không phải quá khứ, Niết bàn không phải vị lai, Niết bàn không thể là hiện tại. Lại nữa, Niết bàn ấy cũng không phải cái mà mọi người làm cho nó sanh lên. Quả thật trí óc phàm phu chẳng thể nào mà nắm bắt được!
Vậy thì sao ạ, thưa đại đức, những người thực hành đúng đắn chánh pháp, tinh cần chỉ tịnh và quán minh thì sẽ làm cho tỏ lộ Niết bàn? Hay cứ thực hành cho rõ con đường ấy tất là làm cho rõ Niết bàn? Hoặc là cứ tu tập như thế thì Niết bàn sẽ tự tỏ lộ, sau đó mới làm cho rõ hơn nữa.
- Tâu đại vương! - Khi mà thực hành đúng đắn chánh pháp rồi thì sẽ làm cho tỏ lộ Niết bàn hoặc là Niết bàn tự tỏ lộ, rồi làm cho rõ rệt thêm lên đều được cả. Cách nói nào cũng đúng cả! Chỉ đừng nên hiểu sai là Niết bàn được sanh lên bởi một nhân nào đó. Có lẽ khi mình thấy rõ Niết bàn, chứng nghiệm Niết bàn rồi - thì sự diễn tả, phát ngôn của mình mới chính xác hơn, phải thế chăng?
- Đúng vậy!
Nhưng... nhưng hiện tại, trẫm và thính chúng nơi này, và mai sau nữa, đều là kẻ phàm phu; nên vẫn mong những kiến giải đầy trí tuệ của đại đức, những ví dụ sống động và cụ thể của đại đức, để đem ánh sáng cho phần đông, thưa đại đức!
- Tâu, vâng! Như đại vương biết rồi, người nào theo lời giáo huấn của Đức Toàn Thắng - mà thực hành tốt, thực hành đúng đắn, dùng trí tuệ quán xét pháp hành, thì sẽ tỏ lộ được Niết bàn tối thượng lạc ấy. Ví như người học trò tìm thầy để học nghề nghiệp. Nhờ tin tưởng vào thầy, thực hành tốt, thực hành đúng đắn lời chỉ dạy của thầy, người học trò ấy nắm được bí quyết thiện xảo của nghề nghiệp. Như thế, có thể nói, là nhờ đức tin, nhờ theo lời chỉ dạy của thầy, nhờ thực hành đúng đắn, người học trò kia nắm bắt được nghề nghiệp, mà trước đây y chưa có? Nói thế được không đại vương?
- Có thể được.
- Niết bàn trước đây chưa có, nhưng nhờ trí tuệ làm cho tỏ lộ Niết bàn cũng y như thế, tâu đại vương!
- Hay lắm! Vậy thì tỏ lộ làm cho ta thấy được rõ, phải thế chăng? Niết bàn có thể thấy rõ, ta có thể thấy rõ như thế nào hả đại đức?
- Tâu đại vương! Niết bàn có thể thấy rõ được do sự chứng nghiệm ở trong tâm. Ta chứng nghiệm được những trạng thái như: mát mẻ, thanh khiết, an lạc, hòa bình trường cửu v.v... và rõ ràng như vừa xa lìa được sự nóng bức, sự ô nhiễm, sự thống khổ, sự bất an dao động vậy, tâu đại vương!
- Sự xa lìa ấy là như thế nào, đại đức? có ví dụ cụ thể chăng?
- Được chứ! Ví như có người ở trong một căn nhà bị lửa thiêu cháy xung quanh, người ấy hốt hoảng, sợ hãi, dao động... Sau một hồi bình tĩnh, người ấy tìm được đường thoát ra - sau khi bị thiêu cháy gần chết - đến một nơi an toàn, mát mẻ. Đấy là hình ảnh rõ ràng cho ta thấy rõ thế nào là sự xa lìa thống khổ, tìm đến chỗ an vui, tâu đại vương!
- Vâng!
- Chúng sanh ở cõi đời này cũng giống như thế, nào có khác gì? Cả ba đống lửa lớn là tham, sân, si hằng thiêu đốt chúng sanh trong ba cõi. Nếu biết nghe lời Đức Đạo Sư để thực hành chánh pháp - như lý tác ý - rồi cũng sẽ tìm được đường thoát ra, đến chỗ mát mẻ, an vui, thanh khiết, hòa bình trường cửu là Niết bàn đấy, tâu đại vương!
- Rõ ràng lắm!
- Lại nữa, ví có người thấy được nơi nghĩa địa nọ bốc mùi những xác chết, nào người, nào rắn, nào chó, nào chuột,v..v... Muốn thoát ra được sự nhiễm ô, người ấy vào rừng kiếm củi, tấp lên những xác chết để đốt. Đốt xong, người ấy thở dài khoan khoái, không còn thấy hôi, không còn sợ lây lan ô nhiễm nữa. Tâu đại vương! Những kẻ tu hành như chúng ta có khác gì những người đi kiếm củi để đốt những xác chết hôi hám ấy? Đi kiếm củi khó khăn vất vả thì tầm cầu chánh pháp nào có dễ gì? Những xác chết ví cho ngũ dục cùng tấm thân bất tịnh này? Chánh pháp phải được nhen lên, tỏa bùng ngọn lửa trí tuệ để thiêu cháy những ham muốn thấp hèn, ô uế và tục lụy. Đốt xong, người kia thở dài khoan khoái, không còn thấy hôi hám, không còn sợ lây nhiễm nữa - thì có giống như bậc Thánh nhân chứng nghiệm hạnh phúc Niết bàn vô cấu, vô uế không, đại vương?
- Quả vậy!
- Lại nữa, ví như có người sắm chiếc thuyền nhỏ, vượt biển sang bờ bên kia; người ấy sợ sóng to, sợ bão lớn, sợ cá dữ, sợ lạc phương hướng. Sau khi lên bến người ấy thoát khỏi bốn sợ hãi. Cũng vậy, chúng sanh trôi nổi giữa biển đời, bốn nỗi sợ hãi là sanh, gìà, bịnh, chết thường trực bủa vây. Sau khi tìm được Niết bàn, người ấy thoát khỏi bốn nỗi sợ hãi ấy, được lạc, được vui, tâu đại vương!
- Chính vậy!
- Lại nữa, tâu đại vương! Ví như có kẻ bộ hành đi qua quãng đường lầy lội, trơn trợt, bị té lên té xuống mình mẩy lắm lem dơ bẩn. Nhưng sau khi sang khỏi đoạn ấy, là đại lộ cao ráo, phong quang; người bộ hành tắm rửa sạch sẽ rồi lên đường một cách thoải mái, dễ dàng. Người tu hành bước qua thế giới bùn lầy uế trược, té xiêu, vấp ngã, lấm lem ngũ trần, vẫn cương quyết lên đường; hướng tâm đúng, tinh tấn đủ thì có lúc sẽ đến được cõi an vui, thanh khiết, vô nhiễm!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm đã hiểu những ví dụ xa lìa chỗ này để đến chỗ kia. Nhưng còn cái gọi là làm cho Niết bàn tỏ lộ hay làm cho Niết bàn rõ rệt - xin đại đức giảng thêm.
- Vâng, tâu đại vương! bần tăng xin được hầu chuyện với đại vương. Ví như có người tu hành chơn chánh, thường quán chiếu để mong thấy rõ các pháp hành, tức là pháp hữu vi ở trong tâm, hiện ra tam tướng: vô thường, khổ não, vô ngã. Và pháp hữu vi nào cũng nằm trong định luật sanh, trụ, dị, diệt. Nhưng sự quán chiếu, trực thị, thấy rõ ấy chưa được trọn vẹn. Nói cách khác, có kẻ thấy được vô thường nhưng chưa thấy khổ và vô ngã. Có kẻ thấy khổ mà chưa liễu ngộ được vô thường v.v...vì thế Niết bàn chưa rõ rệt đối với vị ấy. Nghĩa là họ còn đắm say hoặc chấp trước ở một chỗ nào đó, chưa thật sự xả ly, buông bỏ hết. Tương tự như một thanh sắt được nung đỏ từ đầu đến đuôi, chúng sanh không ai cảm giác gì - nhưng người tu hành thấy rõ là nóng. Có kẻ thấy nóng ở đằng đuôi nên cầm ở đằng đầu. Có kẻ thấy nóng ở đằng đầu nhưng cho ở đuôi là mát. Có kẻ đầu đuôi đều nắm được nhưng chỉ sợ ở giữa ! Chỉ có người quán chiếu trọn vẹn mới thấy lửa đốt ở ba nơi, xa lìa cả ba điểm nóng , đấy mới chính là làm cho Niết bàn rõ rệt, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng thêm về điều ấy.
- Vâng, vì chưa thấy Niết bàn rõ rệt nên xem thế gian này còn chỗ vui, còn chỗ để bám víu. Đến bao giờ thấy rõ thanh sắc nóng từ đầu đến đuôi, mới chịu buông bỏ, chịu xa lìa. Nghĩa là khi ấy mới thật sự nhàm chán cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc; chẳng còn một chấp thủ, dính mắc ở cõi nào nữa.
- Trẫm đã hiểu.
- Nói sâu hơn một tí nữa, quán chiếu để thấy rõ pháp hành (hay pháp hữu vi) là thấy rõ sự sanh, trụ, diệt của tâm, nó là đầu mối của cấu sanh tương tục, là luân hồi sanh tử. Tất cả đều là vô thường, khổ và vô ngã. Thấy rõ "hành" ấy tất Niết bàn tỏ lộ, chấm dứt vô minh và ái dục, tận diệt phiền não, nhiễm ô, được vô sanh bất tử.
- Trẫm hiểu.
- Ví như kẻ bộ hành lạc đường, đã tìm lại đúng phương hướng; tinh tấn, kiên trì, nỗ lực, lên đường, đến lúc sẽ vượt khỏi thế gian; cõi xuất thế gian càng ngày càng tỏ lộ trước tầm mắt, Niết bàn càng lúc càng rõ rệt hơn, tâu đại vương.
Đức vua Mi-lan-đà vui vẻ:
- Thế ra, tỏ lộ Niết bàn và làm cho Niết bàn tỏ lộ, chỉ khác nhau cách nói, lối diễn đạt - chứ thật ra nó chẳng khác nhau là bao, phải không đại đức?
- Tâu, vâng!
- Trẫm còn muốn hỏi về Niết bàn nữa đấy, mà không phải hỏi cho trẫm đâu, xin hẹn bậc đại trí tuệ hôm khác nhé!
- Bần tăng đồng ý.
* * *
175. Niết bàn không ở đâu cả!
- Bây giờ chúng ta trở lại đề tài Niết bàn! Đại đức nói rằng có Niết bàn và trẫm cũng tin như thế - Nhưng nó ở đâu đại đức? Nó ở đông, tây, nam, bắc, thượng, hạ, trung?
- Ở một nơi nào đó, một chỗ nào đó thì không phải Niết bàn, tâu đại vương!
- Thế là đã rõ!
- Đại vương rõ sao ạ?
- Thưa, rõ là không có Niết bàn; Niết bàn chỉ là hư vô, không tưởng! Niết bàn đã không có thì làm gì có chuyện tỏ rõ Niết bàn, tỏ ngộ Niết bàn? Và lại càng không có cái gọi là an trú Niết bàn? Tại sao lại như thế? Vì khái niệm "trú" là gì đại đức biết chăng? Trú có nghĩa là phải có một địa cư, một vùng đất, một nơi chốn, một miền, một xứ, một cõi, một cảnh...để ở đấy, nương gá đấy, trụ ở đấy! Ví dụ như người ta nói rằng, ruộng là nơi trú của rất nhiều chủng loại lúa: lúa Sàlì, lúa thơm, lúa ngắn ngày, lúa dài ngày v..v... Ví như người ta nói biển là nơi trú của vô lượng loài thủy tộc, vô lượng trân châu, bảo ngọc v.v...Ví như quả đất làm nơi nương trú của người, vật, chim muông, cây cỏ v.v....
Vậy thì nếu Niết bàn không có một chỗ nào cả - thì chữ "trú" này không được thành lập, trú không được thành lập thì tỏ rõ, tỏ ngộ Niết bàn cũng không được thành lập; tỏ rõ, tỏ ngộ Niết bàn không được thành lập thì người chứng đạt Niết bàn cũng không thành lập? Vậy Niết bàn ấy chỉ là khoảng không, không có gì cả. Tất cả không! Thưa đại đức.
Đại đức Na tiên nói:
- Thật là hùng hồn! Tuy nhiên, tâu đại vương! Có một chỗ nào đó, dù là "khoảng trống không" để Niết bàn trú ở đấy cũng không được. Niết bàn là pháp vô vi, xa lìa hữu vi thì làm sao có chỗ trú được? Ví như "lửa" có chỗ trú không, hở đại đức? Đại vương có thể chỉ cho bần tăng thấy rõ lửa nó ở hướng đông, tây, nam, bắc, chỗ này, chỗ kia không?
- Không thể chỉ được!
- Vậy là lửa không có rồi. Chính đại vương nói đấy nhé!
- Không, lửa có. Tuy lửa không ở chỗ nào, không thể chỉ được; nhưng ta lấy hai thanh gỗ cọ xát vào nhau thì lửa sẽ hiện ra, thưa đại đức!
- Cũng vậy, tâu đại vương! Niết bàn tuy không ở chỗ nào cả, không thể chỉ được; nhưng khi hàng giả quan sát thấy rõ sự sanh diệt của pháp hành (Sankhàra) thì Niết bàn sẽ hiện ra, tâu đại vương!
- Có lý lắm, nhưng cũng không thể thuyết phục được trẫm, tại sao? Lửa là pháp hữu vi, là điệu kiện sanh, do nhân duyên sanh; trong lúc Niết bàn là pháp vô vi, không có điều kiện, không bị chi phối bởi định luật nhân quả. Đem lửa mà ví dụ cho Niết bàn, đại đức có thấy mình rơi vào luận thuyết của ngoại đạo tà giáo chăng?
- Hay lắm! Thật ra, phải từ ví dụ này để hiểu chuyện khác. Đại vương đã không hiểu lại còn bắt bẻ bần tăng rất hợp lý nữa. Vậy ta có thể tìm ví dụ khác nhé!
- Vâng!
- Đại vương có biết Đức Chuyển luân Thánh vương có bảy loại ngọc, là: bánh xe ngọc, voi ngọc, ngựa ngọc, mani ngọc, nữ ngọc, gia chủ ngọc, tướng quân ngọc không?
- Thưa, có biết từ kinh điển, từ truyền thuyết.
- Trước khi bảy loại ngọc vi diệu ấy hiện đến do phước báu của Đức Chuyển luân, nó ở từ đâu không?
- Không biết nó ở đâu!
- Vậy chắc nó không có rồi.
- Nó có đấy, thưa đại đức! Khi một vị vua tài đức vô song, phước báu cao quí không thể nghĩ nghì - thì bảy thứ ngọc vi diệu ấy đồng hiện đến, như là chứng cứ tôn xưng vị vua ấy thành đức Chuyển luân Thánh vương!
- Cũng tương tự thế, đại vương! Khi quán chiếu pháp hành (Sankhàra), thấy rõ pháp hành là sanh diệt; pháp hành là vô thường, khổ não, vô ngã; pháp hành là bất tịnh, là sầu bi, khổ ưu, phiền não, lúc ấy Niết bàn cũng tự hiện ra. Nó không phải là một chỗ nào đó để mà đến đâu, tâu đại vương!
- Chí lý lắm! Nhưng nếu đi sâu vào lĩnh vực luận lý, thì luận cứ của đại đức vẫn chưa trôi, vẫn còn dính mắc ở một chỗ, đại đức có biết không?
- Xin cho nghe, ấy là chỗ nào?
- Là cái chỗ mà từ đó Niết bàn hiện ra! Ví như đức vua có tài đức, có phước báu vô song; chính từ "địa vị" ấy, "chỗ ấy" thì bảy loại ngọc báu mới hiện ra. Trong trường hợp Niết bàn hiện ra, thì địa vị ấy, cái chỗ ấy là cái gì hở đại đức?
- Câu hỏi vi tế lắm, thâm sâu lắm! tâu đại vương! Địa vị ấy, chỗ ấy có - đó chính là giới định tuệ! Bất cứ hành giả nào nếu giới thanh tịnh, định thanh tịnh, tuệ thanh tịnh; kiên trú vững chắc vào giới định tuệ thanh tịnh ấy, địa vị ấy, chỗ ấy - thì Niết bàn sẽ hiện ra; không kể người ấy ở đâu, trú xứ nào!
- Bắt đầu tỏ lộ rồi đấy, thưa đại đức! Ngài hãy bi mẫn cho nghe tiếp.
- Tâu, vâng! Nhưng đại vương đã suốt thông chỗ "địa vị" ấy rồi chứ? Đã "trôi" điều ấy rồi chứ?
Đức vua Mi-lan-đà vui vẻ:
- Trẫm nhận tội rồi, đừng nên trả đũa nữa, đại đức.
- Ô! Vậy thì ta tiếp tục.
- Thưa vâng!
- Đại vương! Bất cứ ai kiên trú vững chắc nơi giới định tuệ rồi, người ấy sẽ tỏ lộ Niết bàn giống nhau, chẳng hề sai khác!
- Giống nhau như thế nào hở đại đức?
- Giống nhau như "hư không", đại vương! Ví như có người trú trong rừng Sakàya thấy được hư không, người trú trong quốc độ Alasandana..., quốc độ Kàsìkosala, quốc đô Kasinara..., quốc độ Ganchàra... cõi trời Phạm thiên, tầng trời tịnh cư v..v... thấy được hư không! Những hư không kia giống nhau như thế nào thì Niết bàn sẽ giống nhau y như thế đó, đại vương!
- Trẫm hiểu rồi.
- Chúng lại còn giống nhau như "phương đông" nữa, đại vương! Tất cả chúng sanh ở bất cứ cảnh giới nào, xa gần, cao thấp khác nhau - nhưng phương đông mà chúng nhìn thấy, đều giống nhau, tâu đại vương!
- Đại đức đã dựng đứng, đã nêu cao cây cờ Pháp làm cho trẫm khả dĩ cắt đứt được sự nghi ngờ về "trú xứ" của Niết bàn. Trẫm rất hoan hỷ vậy
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:58:03 GMT -5
176. Có ai thấy Phật không?
Qua biết bao nhiêu là câu hỏi, bao nhiêu ngày đã trôi qua, bao nhiêu câu trả lời của bậc trí tuệ; đức vua Mi-lan-đà lần hồi khám phá ra một kho tàng pháp bảo, mà bề xa bề rộng của nó là không có mé bờ, bề sâu bề ẩn của nó cũng khó lặn cho tận đáy. Ngoài ra, còn có những cái rất cụ thể và giản dị như có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay, đôi khi tưởng là dễ dàng như mặc áo, ăn cơm! Mỗi mỗi chi tiết đều mạch lạc, sáng sủa. Mỗi mỗi ví dụ đều trùng khít với nghĩa ngữ!
"Ôi! Cảm ơn, thâm tạ vị đại đức tuổi trẻ, thông tuệ. Ta đã thấy được một phần nào, trong muôn một, lộ trình tìm đến chân phúc. Lộ trình ấy chính là tuệ phá vỡ vô minh, diệt tận ái dục. Con đường ấy phải bước qua những lạch luồng vi tế, cạm bẫy của ngã chấp và tri kiến. Sự tối thượng của Niết bàn cần phải được khám phá. Vị cam lồ bất tử của Niết bàn cần phải được nếm thưởng để khỏi uổng phí một đời! Tuy nhiên, tất cả những câu hỏi đưa ra, không phải chỉ vì ta và bởi ta, mà còn cho đại chúng và cho cả những thế hệ mai sau. Vâng, ta phải hỏi, hằng trăm câu hỏi. Dù câu hỏi đó sơ căn, dù câu hỏi đó dường như phạm thượng, dù câu hỏi đó như đặt bẫy, dù câu hỏi đó tưởng như nhạt nhẽo, vô duyên, dù câu hỏi đó ngớ ngẩn, dù câu hỏi đó là khó chịu, dù câu hỏi đó là rối ren, phức tạp, dù câu hỏi đó tốn công, mất thì giờ, dù câu hỏi ấy kẻ trí không nên đặt ra! Mặc, ta cứ hỏi, nhờ vậy, giáo pháp sẽ được phong phú thêm lên, giáo pháp sẽ được khơi dòng và tuôn chảy vào tất cả ngõ ngách, tế bào của đời sống, trên mọi nẻo tối tăm mà ma vương đang ngự trị!"
Đức vua Mi-lan-đà sau khi suy nghĩ như thế rồi, hân hoan phát sanh; với sắc mặt tươi vui phơi phới, đặt thêm câu hỏi khác:
- Thưa đại đức! Ngài giải đáp rất hay hằng trăm câu hỏi về giáo pháp của Đức Tôn Sư; nhưng chẳng hay, ngài đã từng thấy đức Phật chưa?
- Dạ thưa chưa, tâu đại vương!
- Thế thầy tổ của đại đức có thấy chăng?
- Cũng không thấy.
- Những vị thầy ba đời, bốn đời, là thầy của thầy tổ đại đức, chắc có thấy chứ?
- Tâu, cũng không luôn!
- Vậy là rõ, như thế không có Đức Phật rồi!
Đại đức Na tiên im lặng giây lát, rồi hỏi:
- Nghe nói đại vương gốc người Hy lạp?
- Đúng vậy.
- Vị thủy tổ khai sáng dòng họ đại vương ở Hy lạp tính đến nay chừng bao nhiêu đời rồi!
- Thưa, đâu cả hằng trăm đời!
- Đại vương đã từng thấy mặt vị thủy tổ của ngài chưa?
- Chưa thấy.
- Thân phụ của đại vương có thấy không?
- Cũng không thấy.
- Thế các vị tằng tổ, cao tằng... năm đời, bảy đời của đại vương có thấy chăng?
- Cũng không nốt!
- Vậy rõ là vị thủy tổ của đại vương không có rồi!
Đại vương Mi-lan-đà cười ha hả:
- Thủy tổ của trẫm có, bằng chứng là còn dòng họ của trẫm và có trẫm đây!
- Cũng như thế, tuy bần tăng không thấy Đức Phật, nhưng Đức Phật có, bằng cớ là còn giáo hội Tăng già, còn giáo pháp và có bần tăng đây!
Đức vua Mi-lan-đà tự nghĩ: "Đáp thế là hết chỗ để mà hỏi rồi, nhưng ta nên giả bộ ngớ ngẩn", bèn hỏi tiếp:
- Đại đức có còn ví dụ nào nữa chăng?
- Có chứ! Ở nơi quốc độ mà đại vương đang ngự trị đây, trước đây đã từng có đức vua nào khai sáng hở đại vương?
- Theo lịch sử thì có chứ!
- Nhưng đại vương có thấy chăng?
- Không thấy.
- Thế các vị lão thần, các vị quân sư đã già cả họ có thấy chăng?
- Cũng không thấy!
- Thôi, nói chi xa, vị vua trước đây cai trị quốc độ này, đại vương có thấy chăng?
- Không thấy.
- Các vị đại thần, quân sư của đại vương có thấy chăng?
- Cũng không thấy.
- Thế là rõ. Thế là trước đây chẳng hề có một vị vua nào cả!
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Thưa đại đức, các vị vua ấy đều có cả. Trước đây năm đời các vị đều băng hà, nhưng vị cuối cùng thì nơi cung điện cũ còn để lại nhiều đồ ngự dụng; ví như cái mão, cái quạt, cái lọng, một bảo kiếm và một long sàng có đính trân châu đắt giá. Chính bằng cớ ấy chứng minh là đức vua ấy có mặt dầu trẫm không thấy!
Đại đức Na tiên tự nghĩ: "Ý đức vua muốn ta chứng minh rằng có Đức Phật bằng nhiều ví dụ khác nhau - cũng vì muốn tăng trưởng đức tin cho phần đông." Bèn nói:
- Tâu đại vương! Bần tăng không thấy Đức Thế Tôn, thầy tổ ba, bốn đời của bần tăng cũng không thấy Đức Thế Tôn - nhưng quả là Đức Phật có, bằng cớ là những "Phật dụng" của Đức Phật hiện còn, tâu đại vương!
Những "Phật dụng" ấy được chư thinh văn A-la-hán kế tục gìn giữ từ đời này sang đời kia, đó là:
Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo.
Chính những "Phật dụng" ấy - là kho tàng pháp bảo mà các thế hệ tăng lữ đang bảo lưu, tu tập, cho đến hôm nay. Nó cụ thể thiết thực cho đến nỗi là nó hiện đang có mặt ở đây, giữa bần tăng và đại vương, trong chính những câu hỏi và đáp này!
Vậy thì đã rõ, Đức Phật có thật rồi, phải không đại vương?
- Đồng ý là vậy, nhưng trẫm vẫn muốn nghe thêm ví dụ.
Đại đức Na tiên thầm nghĩ: "Có lẽ đức vua này muốn ta đưa ra ví dụ để từ đó, mọi người có thể đi vào từng chi tiết trong kho tàng pháp bảo của Đức Thế Tôn đây." Bèn hoan hỷ nói:
- Cũng được thôi! Trước khi trả lời, đại vương có thể cho biết ai đã xây dựng, kiến tạo kinh thành này? Phải là bậc thầy kiến trúc tài ba mới có thể đưa ra một quy mô hoàn chỉnh vào loại bậc nhất đương thời ở châu Diêm phù đề như thế!
- Vâng. Đúng là vậy. Trước tiên phải xem xét thắng địa, chỗ núi non giao nhau như long như hổ, chỗ hợp lưu của các dòng sông, chỗ tựa vững vàng chắc bền cùng điểm nhìn thông thoáng có những bức tường núi chắn che v..v...Ngoài ra, ở đấy phải có đất đai phì nhiêu, cây trái thạnh mậu, hoa cỏ tốt tươi, muôn chim muôn thú sinh trưởng đông vui v.v..
Sau khi phần đất kinh đô đã định rồi, trẫm cho vời một bậc thầy kiến trúc lên họa đồ, phác thảo đâu là khu vực của hoàng cung, có nơi hội trào, chỗ trẫm ngự, chỗ hoàng hậu, phi tần, cung nga thể nữ ở. Rồi nơi nào là vườn thượng uyển, các công viên bao quanh, có hồ bán nguyệt, hồ lớn, hồ nhỏ thả hoa sen, hoa súng v..v... Rồi nào là hội trường lớn, chỗ đại trường họp quân, chỗ giải trí vui chơi, các kho tàng gạo, vải vóc, khí giới v.v... Rồi nơi nào là các con đường lớn, đường nhỏ, những ngã ba, những ngã tư v.v... Rồi nơi nào là bệnh xá, chỗ ở của bá quan cùng gia đình đương triều. Chỗ nào là nhà học, nhà giảng công cộng. Những bến nước, nhà xí, nhà tắm. Rồi còn những kho đúc đồng, đúc vàng, đúc bạc... thật là không kể xiết đâu, đại đức!
- Tâu, vâng. Vậy cũng tạm đủ rồi. Hiện tại, kinh đô của đại vương là kinh đô hùng cường nhất thiên hạ. Có lẽ chưa có ở đâu có tường thành bao quanh vững chắc như thế. Có hào sâu và có những chiến đài, chiến lũy vững chắc như thế. Quốc độ của đại vương, ruộng đồng tốt tươi, gạo cơm dư dả. Đại vương cai trị quốc độ mình bằng một chính sách vừa cứng vừa mềm, tình lý phân minh, hợp lẽ. Muôn dân được sống trong cảnh hòa bình, an lạc.
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Đại đức quá khen!
- Đấy là sự thật! Còn nữa, hiện tại, quốc độ của đại vương ít có điều họa hại, rủi ro; sự phạm pháp của bá tánh thật không đáng kể. Tất cả chủng tộc, giai cấp đều sống trong không khí hòa thuận, yên bình. Dòng quý tộc, bà-la-môn, thương gia, thợ thuyền, nông dân... đều chẳng có chỗ hiềm khích, kích bác nhau, đấu đá nhau. Chẳng có nơi nào mà thủ lĩnh voi, thủ lĩnh ngựa, thủ lĩnh xe, thủ lĩnh bộ binh, thủ lĩnh cung tên... dưới trướng của đại vương đều tài ba lỗi lạc như thế. Những hoàng tử con vua, con bá quan, con thường dân... đều có nơi chốn để học hành rồi sau đó trổ tài phụng sự quốc gia. Rồi tướng lãnh, binh sĩ đều là những người tình nguyện, đầu quân giết giặc hoặc bảo vệ lãnh thổ nơi này nơi khác. Tất cả đều uy vũ, có khí thế, được huấn luyện một cách kỹ càng. Tất cả những gia đình ở trong kinh thành, ví như con những người giàu có, con những người đô vật, con những người giúp việc...đều có cơ hội thăng quan tiến chức, phát triển khả năng của mình.
Rồi còn biết bao nhiêu là nghề thợ tài hoa, làm phong phú, giàu có và thêm sắc màu sinh hoạt đa dạng cho quốc độ. Nào là thợ mạ, thợ tẩy xóa, thợ vẽ đủ loại, thợ làm mạt hương chiên đàn, thợ vàng, thợ thiếc, thợ đồng đỏ, đồng vàng, thợ ngọc, thợ mài hột, thợ quay tơ, thợ nồi, thợ dệt, thợ nắn, thợ trang trí, thợ bảo kiếm, thợ trường kiếm, thợ làm xà mâu, thương giáo, thợ mộc, thợ đoản kiếm, thợ trang sức, thợ làm đất làm cát, thợ chàm, thợ nhựa, thợ nướng thịt, thợ làm vật thực... Ôi! Thật là đủ loại, đủ thứ không thiếu gì!
Ngoài ra, sinh hoạt phố phường, chợ búa thật đông vui, tấp nập, quán xá san sát. Rồi còn nào là chợ hoa, chợ bán vật thơm, chợ bán trái cây, chợ bán thuốc trừ độc rắn, chợ bán thuốc chữa bệnh, chợ bán nước trường sanh, chợ bán ngọc, chợ bán đồ đạc, vật dụng tổng hợp v..v...
Một quốc độ như thế, một đời sống nhân dân hạnh phúc, ấm no như thế... trước tiên là thuộc công đức của đại vương, thứ nữa là phải kể đến vị kiến trúc bậc thầy nọ, phải thế không đại vương?
- Có thể gọi là như vậy!
- Thế là đại vương đã để lại một kinh đô, một toà kiến trúc hoàn chỉnh cho nhân dân và cho hậu thế, phải vậy không đại vương!
- Đúng vậy!
- Đức Thế Tôn cũng đã để lại một kinh đô hoàn chỉnh, một tòa kiến trúc quy mô như thế, đại vương có muốn nghe chăng?
- Rất muốn nghe, thưa đại đức!
- Đức Thế Tôn đã tạo nên một quốc độ chánh pháp, một vương triều thịnh trị, một kinh đô hoa lệ, một tòa lâu đài nguy nga đồ sộ... cũng tương tự như đại vương vậy, tâu đại vương!
- Vâng! Xin đại đức hãy kể cho nghe?
- Tâu, vâng! Trước tiên, kinh đô ấy:
Có giới là thành trì, Có sự hổ thẹn tội lỗi là pháo đài hộ thành, Có chánh niệm là quân canh giữ của, Có chánh trí là đại môn, Có tinh tấn là chiến lũy, Có đức tin là chóp vàng của toà bảo điện, Có trí tuệ là bảo điện, Có tạng kinh là các đường cho bộ hành qua lại, Có vi diệu pháp là ngã ba, ngã tư đường v.v..., Có tạng luật là công đường xét xử nghiêm minh, Có tứ niệm xứ là con đường lớn rộng rãi v.v...
Bần tăng kể sơ như vậy, đại vương có hình dung ra được kinh đô chánh pháp của Đức Thế Tôn đã để lại chăng?
- Thưa, hình dung được, nhưng không có gì đặc biệt lắm. Ngài hãy kể cho nghe ở kinh thành ấy có bán hàng hóa gì lạ không? Có thứ gì mà mọi người thích mua, thích dùng chăng?
- À, vâng! Ở đấy có rải rác các khu chợ trên những con đường, nào chợ bán hoa, chợ bán vật thơm, chợ bán trái cây, chợ bán thuộc độc trừ rắn, chợ bán thuốc chữa bệnh, chợ bán nước trường sanh, chợ bán ngọc, chợ bán hàng hóa tổng hợp... y như là kinh thành này của đại vương không khác!
- Thế thì hay lắm! Hoa của kinh đô trẫm thì có rất nhiều loại, nhiều sắc màu, thơm và quý hiếm. Còn chẳng hay, hàng bán hoa của Đức Thế Tôn chưng bán những hoa gì?
Đại đức Na-tiên chợt mỉm cười:
- Hoa của kinh đô đại vương có lắm sắc màu, ai cũng thấy ngay là đẹp; hương của nó tỏa ra ai cũng cảm nhận ngay là thơm. Nhưng sắc màu ấy chóng tàn, hương ấy chóng phai, thật chẳng xứng cho các bậc trí giả vào đấy để mua, tâu đại vương!
- Còn hoa của Đức Thế Tôn ra sao mà đại đức dám chê bai hàng hoa của trẫm như thế?
- Vâng, hoa của Đức Thế Tôn nom rất xấu xí, chẳng có sắc mà cũng chẳng có hương; có vài loại lại bất tịnh, đáng nhờm gớm là khác, tâu đại vương!
- Thế mà gọi là hoa à?
- Vâng, chính thật là hoa, là vi diệu hoa, tối thắng hoa. Ai mua hoa ấy về, ngày đêm nhìn ngắm, chiêm nghiệm... một thời gian sau, tính chất, tố chất vi diệu của nó sẽ len thấm vào tâm hồn, nó sẽ nở, sẽ phô sắc tỏa hương ở bên trong, giúp ta tận hưởng niềm an lạc, vui tươi, hoan hỷ... không kể xiết được, tâu đại vương!
- Đại đức đừng quảng cáo món hàng nữa, cứ bày bán ra thử xem?
- Tâu, vâng! Hoa ấy được Đức Thế Tôn gọi là "tưởng". Có những món hàng tưởng sau đây:
Tưởng vô thường, Tưởng khổ não, Tưởng vô ngã, Tưởng tử thần, Tưởng bất tịnh, Tưởng tội lỗi, Tưởng dứt bỏ, Tưởng diệt luyến ái, Tưởng tịch diệt, Tưởng không thỏa thích trong thế gian, Tưởng vô thường trong tất cả các hành, Tưởng tử thi chỉ còn xương, Tưởng tử thi có dòi nhung nhúc, Tưởng tử thi có nhiều màu sắc, Tưởng tử thi đứt ra nhiều phần, Tưởng tử thi máu mủ chảy ra, Tưởng tử thi sình lên, Tưởng tử thi có thú cắn xé, Tưởng tử thi rời rạc mỗi nơi mỗi cái, Tưởng tử thi bị bằm chặt từng miếng nhỏ, Tưởng tử thi bê bết máu v.v...
Mới nghe đến ngang đây, đức vua Mi-lan-đà nói:
- Quả thật là hoa ấy kỳ lạ lắm, nhưng kinh khiếp quá, đại đức!
- Thế thì thôi, bần tăng sẽ bày thêm hoa khác.
- Vâng.
- Những hoa này mát mắt hơn, đấy là:
Từ tưởng, Bi tưởng, Hỷ tưởng, Xả tưởng v..v...
Tâu, đại vương! Gồm tất cả tưởng ấy Đức Thế Tôn gọi là chợ bán hoa. Các bậc trí giả lựa chọn hoa nào mình thích, đem về nhìn ngắm, chiêm nghiệm, trầm tư, quán tưởng... lần hồi sẽ giải thoát khỏi luyến ái, sân hận, si mê, ngã chấp, tà kiến, sẽ dứt hết hoài nghi và phiền não, để tiến vào quốc độ Niết bàn tối thượng lạc, quý báu hơn tất cả mọi quốc độ. Khi chấm dứt được tất cả khổ rồi, người ấy sẽ không còn sanh, già, bệnh, chết... hằng tươi vui trong cõi trường xuân... Vậy không là tối thắng hoa, diệu thắng hoa là gì, hở đại vương?
- Đúng vậy. Quả thật là trẫm vừa vinh hạnh, may mắn chiêm quan chợ bán hoa nơi vương quốc của chánh pháp. Thật là lợi lạc vô cùng. Rồi trẫm cũng phải lựa chọn cho mình những đóa hoa nào mà mình thích nhất, mang về để chiêm nghiệm thử xem. Tất cả thính chúng ở đây cũng thế, mỗi người nên mua một đóa, hai, ba đóa càng tốt, có lẽ Đức Thế Tôn cũng tặng thôi chẳng bán đắt giá đâu!
A còn chợ khác nữa! Trẫm muốn vào xem chợ bán vật thơm, đại đức!
- Ồ bần tăng sẽ giới thiệu sản phẩm, hương liệu vật thơm cho đại vương xem:
Đây là hương thơm của giới, Đây là hương thơm của định, Đây là hương thơm của tuệ, Đây là hương thơm của giải thoát, Đây là hương thơm của giải thoát tri kiến.
Tất cả chỉ có năm món thôi, đại vương!
- Vâng, vâng! Vậy là đủ ngất ngây rồi, xài trăm triệu kiếp cũng không hết rồi, vì trẫm biết mùi hương của nó.
- Đại vương biết như thế nào?
- Thưa, chỉ cần nói về giới hương thôi, đã vi diệu, tối thắng hơn tất cả mùi thơm quý báu trong quốc độ của trẫm cọng lại. Hương thơm của hoa chẳng bay ngược theo chiều gió, còn hương của giới không những bay ngược chiều gió mà còn có thể thơm khắp tất cả mọi phương hướng, lan tỏa cả cõi người cõi trời, xông ngát đến bốn cõi Tứ đại thiên vương, thưa đại đức!
- Đúng vậy! Người thọ trì ngũ giới, bát quan giới, tiểu giới, đại giới, tứ thanh tịnh giới... sẽ có được hương thơm, như Đức Thế Tôn đã thuyết: "Hương hoa lài, hương hoa sen thơm tho lắm; và quý báu nhất là hương chiên đàn, hương trầm. Nhưng các loại hương ấy không thể thơm ngược chiều gió. Chỉ có giới hương là lan tỏa khắp mười phương, tám hướng. Giới hương còn cao quý hơn cả thiên hương."
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Kinh đô của chánh pháp rộng lớn quá, đại đức chỉ nên giới thiệu tượng trưng thôi. Ví dụ như giới hương đã quý báu thế, còn nói gì đến tuệ hương và giải thoát hương! Bây giờ đại đức cho xem gian hàng khác, ví như gian hàng bán trái cây chẳng hạn?
- Vâng, đấy là gian hàng bán các thứ quả như sau:
Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả, Không quả, Nhập định quả, Vô tướng quả nhập định, Xả quả nhập định v.v...
Tâu đại vương! Trái cây thế gian dù ngon ngọt cũng chỉ ăn trong chốc lát, no trong chốc lát - còn các loại quả bất tử (amata phala), ăn vào thì no nhiều đời nhiều kiếp, nuôi dưỡng thọ mạng và được an lạc miên trường không gì sánh nổi.
- Vâng, trẫm mong rằng sẽ mua được quả nho nhỏ cũng hạnh phúc lắm rồi.
- Vậy bây giờ chúng ta đi vào chợ bán thuốc trừ độc rắn nhé?
- Vâng!
- Bây giờ đại vương hãy nhìn những toa thuốc chuyên trị các loại độc rắn:
Thuốc giải tham sân si độc, Thuốc giải sanh, già, bệnh, chết độc, Thuốc giải luân hồi độc, Thuốc giải phiền não độc, Thuốc giải sầu bi khổ ưu độc, Thuốc giải trái ý, nghịch lòng độc, Thuốc giải ganh tỵ, tật đố độc, Thuốc giải quên ơn, bạc nghĩa độc, Thuốc giải bỏn xẻn rít róng độc, Thuốc giải cứng đầu, ương ngạch độc, Thuốc giải tự cao, tự đại độc v.v...
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Thôi, vậy là đã quá nhiều, trẫm đang đầu váng mắt hoa đây. Chỉ một chút nọc độc ấy cũng đủ tiêu hủy một đời người, hoặc làm cho con người quằn quại, đau đớn. May mắn thay, gian hàng chánh pháp đã bán sẵn các loại thuốc giải. Thật là hữu ích cho chúng sanh. Ai bị loại độc nào thì cứ tự động mua loại thuốc giải ấy mà trị. Phải thế không, đại đức?
- Vâng! chỉ sợ chúng sanh không dám mua đó thôi!
- Không mua thì đừng có thống khổ, rên la!
- Đức Thế Tôn bố thí đấy, có bán chác gì đâu, đại vương!
- Thế thì tốt quá. Nhưng liều lượng thế nào, uống rồi cử cái gì, sao không thấy ghi bên dưới.
- Cũng đúng thôi! Cái đó tùy mỗi người biết độc của mình ra sao, uống ra sao, kiêng cử ra sao. Hãy tự mình chiêm nghiệm và sử dụng.
- Hay vậy thay!
- Thế bây giờ đại vương còn muốn đi xem nữa chăng?
- Còn muốn.
- Giờ chúng ta qua gian hàng bán thuốc trừ bách bệnh, kể cả tứ chứng nan y, kể cả bệnh mà thần chết không muốn rước. Tất cả sẽ lành tất!
- Hay dữ!
- Đây, hãy xem cái nhãn hiệu cùng cách đối chứng trị liệu:
Tứ niệm xứ: chữa trị bệnh thân, bệnh thọ, bệnh tâm, bệnh pháp. Tứ chánh cần: chữa trị bệnh dễ duôi, buông xuôi theo ác niệm. Tứ thần túc: chữa bệnh thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thiếu tập trụng, thiếu sự quan sát. Ngũ căn và ngũ lực: chữa bệnh thiếu đức tin, thiếu tinh tấn, thiếu niệm, thiếu định, thiếu tuệ. Thất giác chi: uống vào là lành hẳn, là giải thoát tất cả bệnh. Bát chánh đạo: chữa bệnh tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
Tâu đại vương! Đấy là nói ngắn gọn. Chứ gian hàng bán thuốc này có thể trị dứt hẳn tám mươi bốn ngàn căn bệnh của chúng sanh!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là vi diệu thay! Thế còn chợ bán nước trường sanh bất tử ở đâu, đại đức?
- Tâu, đại vương! Hãy nghe đây! Nhiều người sau khi xem chợ bán hoa, chợ bán hương, chợ bán trái cây, chợ bán độc rắn, chợ bán thuốc trị bách bệnh; thấy nhiều thứ nhiều loại quá, không biết chọn thứ nào, mua thứ gì... họ bèn vào chợ bán nước trường sanh bất tử này. Đây là chợ chỉ bán duy nhất một món, khỏi lựa chọn gì cả. Chỉ chuyên uống một món này thôi cũng nếm thưởng được vị cam lồ bất tử là Niết bàn. Nếu chưa được vị ngon ngọt của Niết bàn, họ cũng chấm dứt được ưu sầu, thống khổ: khỏi tái sanh vào các cảnh thú, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la... tâu đại vương!
- Độc vị ấy là gì, đại đức?
- Là pháp niệm thân, đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Ồ! Đúng vậy! Đây là thuốc dành cho mọi người chung chung, uống loại nước này công hiệu như thần, không lợi bề ngang cũng lợi bề dọc... lần hồi vô sanh bất tử cả. Bây giờ đại đức cho vào chợ bán ngọc, xem thử có những loại ngọc vi diệu như thế nào!
- Tâu, vâng!
Đây là giới bảo ngọc; Đây là định bảo ngọc; Đây là tuệ bảo ngọc; Đây là giải thoát bảo ngọc; Đây là giải thoát tri kiến bảo ngọc; Đây là tuệ phân tích bảo ngọc v.v...
- Ở gian hàng này ngọc cũng nhiều quá, đại đức giới thiệu cho từng sản phẩm một, công năng diệu dụng hoặc là tính chất quý báu của nó ở chỗ nào?
- Vâng, vậy thì bần tăng sẽ giới thiệu về "giới bảo ngọc"! Ngay giới bảo ngọc này cũng có rất nhiều loại khác nhau: ngũ giới, bát giới, thập giới, thu thúc giới, lục căn thu thúc giới, chánh mạng thanh tịnh giới, quán tưởng tứ vật dụng thanh tịnh giới, tiểu giới, trung giới, đại giới, đạo giới, quả giới, tâu đại vương!
- Vâng, ngọc ấy là quý, sáng rỡ, cao đẹp như thế nào?
- Ngọc thế gian dùng để trang điểm có nhiều thứ nhiều loại, nhưng quý nhất là ngọc mani, chỉ đức Chuyển luân Thánh vương mới có. Nhưng ngọc mani ấy dù quý báu thế nào cũng là thế gian ngọc, phàm phu ngọc, giá trị không bằng một phần mười sáu các loại ngọc này. Có ngọc này trang điểm thân tâm, có thể bước vào cửa xuất thế gian, gặp mặt các hàng thánh nhân; nên ngọc này được chư thiên, nhân loại, sa môn, bà-la-môn rất tán thán, ca ngợi. Tỳ khưu trang điểm cho mình loại ngọc này sẽ có ánh sáng huy hoàng chói lọi, tỏa hào quang đi khắp các hướng đông tây nam bắc thượng hạ trung; xuyên đến các cõi trời dục giới và phạm thiên giới; đúng như Đức Thế Tôn đã thuyết: "Dù các hàng đa văn, bác học; học rộng nghe nhiều cũng không bằng người thọ trì giới, thực hành giới. Giới cao thượng hơn sự nghe, sự học rất nhiều. Có giới phòng hộ, trang điểm thân tâm, các ngươi có thể chấm dứt tất cả khổ và bước vào cõi Thánh".
Đấy là tính chất, công năng, diệu dụng của giới bảo ngọc, tâu đại vương!
- Trẫm rất hài lòng về giới bảo ngọc, bây giờ sang món hàng tiếp theo?
- Đây là định bảo ngọc, cũng có nhiều thứ nhiều loại: tầm tứ định, vô tầm tứ định, lạc định, xả định, không định v.v... Thứ nào cũng quý báu, cao sang cả, tâu đại vương!
- Xin cho nghe tính chất, công năng, diệu dụng của nó, đại vương!
- Vâng, các loại định này trước tiên là ngăn ngừa tất cả những tà tư duy: dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy...; đồng thời hủy trừ luôn các tư duy ngã chấp, tư duy phóng dật, tư duy hoài nghi, tư duy tham luyến! Nhờ vậy tâm được yên lặng, trong sạch, thuần khiết; đúng như Đức Thế Tôn đã thuyết: "Ví như lá sen không bao giờ dính nước, định có công năng làm cho những bợn nhơ phiền não xa lìa không thể dính vào tâm. Định chính là bảo vật cao quý làm cho những tư duy xấu ác không xâm hại được, không xen vào được, không lay động được" - tâu đại vương!
- Quý hiếm thay là định bảo. Đại đức cho nghe thêm về tuệ bảo?
- Tuệ bảo cũng có nhiều thứ nhiều loại: tuệ viễn ly, tuệ phá chấp, tuệ giảm trừ, tuệ chiếu sáng, tuệ phân tích, tuệ đoạn lìa, tuệ diệt tận, tuệ thấy rõ, tuệ giải thoát v.v... Vậy đại vương muốn nghe loại tuệ nào?
- Loại tuệ bảo nào mà đại đức thấy là công năng diệu dụng của nó lợi ích cho nhiều người thì đại đức tùy nghi thuyết giảng.
- Vâng, Vậy thì bần tăng mang ra đây loại ngọc này: Tuệ Thấy Rõ! Tuệ này dùng để trang điểm cho hai cõi: phàm và thánh. Các vị Thánh nhân hằng trang điểm cho mình khi đi, đứng, nằm, ngồi... không bao giờ xa rời, luôn với hào quang lấp lánh. Còn phàm phu có nó mà trang điểm trên đỉnh trán - thì có thể thấy: cái này là tội, cái kia là phước, cái này nên gần gủi, cái kia nên xa lìa, cái này là quý, cái kia là tiện, cái này là trắng, cái kia là đen, việc này nên làm, việc kia không nên làm v.v... Cứ "thấy rõ" mãi như thế, phàm phu bước lên cái "thấy rõ" cao hơn: cái này là khổ, cái này là nhân sanh khổ, cái này là diệt khổ, cái này nếu thực hành sẽ đưa đến nơi diệt khổ. Lên cấp độ này, người ấy không còn là phàm phu nữa mà trở thành tuệ bảo của Thánh nhận; có thể trang điểm cho mình để rong chơi ngoài ba cõi, tự tại, an vui, rỡ rỡ dung nghi, cao sang tột bực! Ngọc Mani của Chuyển luân Thánh vương nào có nghĩa lý gì, phải thế không đại vương?
- Nhất định rồi! Nhưng trẫm còn muốn nghe loại ngọc khác nữa.
- Tâu, vâng! Ta tiếp tục. Đây là "giải thoát bảo châu"! đây là loại trang sức, trang điểm bình thường của những công dân ở cõi Thánh. Những vật thoa, vật thơm, những tràng hoa trang điểm ở thế gian như trầm hương, cây có vỏ thơm, gỗ mục thơm, mạt chiên đàn, hoa tỷ quân, hoa hường, hoa huệ, hoa dâm bụt, hoa cúc, hoa lay ơn, hoa lài kép, hoa lý, hoa ngâu, hoa ngọc lan, hoa sứ, hoa phượng hoàng, hoa phong lan... thật không đáng kể. Hoặc hoa sen có mùi thơm bảy ngày, hoa cây có mùi thơm nửa tháng... cũng không nghĩa lý gì!
Đi vào gian hàng giải thoát bảo châu, ta sẽ gặp:
Giải thoát nhất phần bảo châu, Giải thoát nhị phần bảo châu, Giải thoát tam phần bảo châu, Giải thoát tứ phần bảo châu.
Đây là các loại bảo châu mà các vị Thánh nhân Tu-đà-hườn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán thường trang điểm cho mình. Nó có hào quang chiếu diệu, cao quý và đẹp đẽ phi thường. Thế gian chuộng ngọc thạch, ngọc mã não, ngọc lưu ly, ngọc mani như thế nào thì chư vị Thánh nhân quý chuộng bốn loại giải thoát bảo châu cũng y như thế.
- Càng đi vào càng ngất ngây - đức vua Mi-lan-đà nói - nhưng trẫm vẫn chưa muốn rời chân, thưa đại đức.
- Vậy thì sang đây xem gian hàng: "giải thoát tri kiến bảo châu".
Tâu đại vương! Ở nơi chỗ tuệ thì còn viễn ly, soi chiếu, thấy rõ điều đáng làm, điều nên làm. Ở nơi chỗ giải thoát thì giải thoát bán phần, giải thoát toàn phần v.v... Còn giải thoát tri kiến bảo châu này là giải thoát rốt ráo, giải thoát không còn dư tàn. Do vậy loại bảo châu này hào quang tỏa rạng bất khả tư nghì. Tính chất và công năng của nó là vô hạn, vô lượng định vậy. Các bậc Thánh nhân vô lậu, trưởng tử của Như lai thường trang điểm loại bảo châu này, tự tại vô ngại giữa dòng đời để giáo hóa chúng sanh. Họ vừa trú nơi chơn tuệ để làm phận sự công việc mình, vừa khởi ý làm thiện sự vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người, mà bao giờ cũng với tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tâu đại vương!
- Ồ quý hiếm vậy thay.
- Ở đây còn thứ quý hiếm nữa, là tuệ phân tích bảo ngọc, đại vương cũng nên xem tiếp:
Tuệ phân tích ý nghĩa, Tuệ phân tích pháp , Tuệ phân tích văn tự, Tuệ phân tích biện tài vô ngại (tốc trí biện tài).
Đức vua Mi-lan-đà:
- Đức pháp chủ Xá - lợi - phất có thứ ngọc bảo này.
- Vâng.
- Nhờ đại đức giảng rộng cho nghe.
- Tâu, vâng, Bậc Thinh văn A-la-hán nào trang điểm cho mình loại ngọc bảo này, thì dù đi vào hội chúng nào, đoàn thể nào, giới cấp nào - ví như vua chúa, quan lại, sa môn, bà-la-môn, thương gia, nông dân v.v... - bao giờ cũng với thái độ dũng cảm, uy vũ, bất khuất; ngồi không cúi gục đầu xuống, tâm không hề rung động, không sợ hãi, không chau mày, không cần nơi nương tựa, không cần niệm, không cần quán tưởng, không tự trấn an mình; hoàn toàn làm chủ mọi tình thế, tự biết mình là lãnh chúa của muôn loài như sư tử vương tọa thị điềm nhiên giữa chốn sơn lâm vậy.
Đức vua tán thán:
- Thật là đáng khâm phục, ngưỡng mộ!
- Dĩ nhiên rồi! Ví như một viên dũng tướng vô địch xông xáo giữa chốn thiên binh vạn mã; khi đã trang điểm cho mình mười loại khí giới tuyệt hảo rồi - viên dũng tướng ấy chân đạp một kẻ thù, chân đá một kẻ thù, tay nắm chỏm tóc một kẻ thù, tay kia một nhát dao rơi một lúc mười kẻ thù khác v.v... Mỗi mỗi động tác là trúng đích, một mũi tên buông ra xuyên suốt bảy, tám tên giặc. Trường kiếm, đoản kiếm, cung nỏ, giáo ngắn, giáo dài, trủy thủ, đao to, đao nhỏ, xà mâu, đoản côn v.v... y đều sử dụng một cách thiện xảo, nhuần nhuyễn... và chính xác từng ly tấc một... Viên đại dũng tướng ấy chẳng hề sợ ai, chẳng chùn, chẳng run tay, chẳng cần ngồi nghỉ dưỡng sức, chẳng cần tự trấn an mình v.v... Khi tấn, khi thoái, lúc lạng người, lúc né người, lúc cúi xuống, lúc đứng lên, lúc nhảy chéo, lúc nhảy ngang, lúc vút lên cao, lúc hoành thân, lúc đảo bộ... mỗi mỗi động tác của viên dũng tướng... đều tạo thêm lợi thế, khí thế bừng bừng... làm cho kẻ thù dựng đứng tóc gáy, tan tác dần dần... và rùng rùng bỏ chạy.
Tâu đại vương! Bậc Thánh nhân vô lậu trang điểm cho mình loại bảo châu bốn tuệ phân tích, đi vào giữa các hội chúng cũng y như viên đại dũng tướng kia đi vào trận địa giết giặc vậy!
- Thật là khiếp hãi. Xin đại đức cho nghe ngay ngữ nghĩa đi thôi.
- Vâng. Nếu các hội chúng:
Hỏi về ý nghĩa, sẽ giải thích bằng ý nghĩa; Hỏi về nhân, sẽ giải thích về nhân; Hỏi về duyên, sẽ đáp về duyên; Hỏi về cách thức, phương pháp, sẽ giảng giải về cách thức, phương pháp; Hỏi pháp phân tích nào, đáp pháp phân tích ấy; Hỏi pháp, trả lời pháp; Hỏi bất tử pháp, đáp bằng bất tử pháp; Hỏi pháp không tạo tác, đáp bằng pháp không tạo tác; Hỏi Niết bàn pháp, trả lời Niết bàn pháp; Hỏi không pháp, trả lời bằng không pháp; Hỏi vô tướng pháp, sẽ trả lời về vô tướng pháp; Hỏi bằng tầm tứ pháp, sẽ giải thích về tầm tứ pháp; Hỏi về vô tầm tứ pháp, sẽ đáp vô tầm tứ pháp; Hỏi về xả pháp, trả lời bằng xả pháp.
Nói tóm lại, hỏi bằng pháp nào sẽ giải thích về pháp ấy một cách có thứ tự, mạch lạc, thông suốt, bác học, vô ngại về ngữ nghĩa, tâu đại vương!
- Vâng!
- Còn nữa, nếu có những kẻ sắc sảo, thích chữ nghĩa, thích lý luận thì:
Hỏi bằng tuệ phân tích sẽ trả lời bằng tuệ phân tích; Hỏi về văn tự, đáp bằng văn tự; Hỏi bằng câu, sẽ đáp bằng câu; Hỏi bằng câu ngắn,, đáp bằng câu ngắn.; Hỏi bằng chữ, sẽ đáp bằng chữ; Hỏi bằng chữ nối ráp, sẽ đáp bằng chữ nối ráp; Hỏi bằng phụ âm, đáp bằng phụ âm; Hỏi bằng chiết tự sẽ đáp bằng chiết tự; Hỏi bằng mẫu tự sẽ đáp bằng mẫu tự; Hỏi bằng chánh âm, sẽ đáp bằng chánh âm; Hỏi bằng ngôn thuyết, đáp bằng ngôn thuyết; Hỏi với biện tài, sẽ đáp bằng biện tài; Hỏi bằng ví dụ, sẽ đáp bằng ví dụ; Hỏi bằng vị, sẽ đáp bằng vị; Hỏi bằng tướng, sẽ đáp bằng tướng v.v...
Tất cả, tất cả đều được vị thánh nhân với bốn tuệ phân tích giải bày cặn kẽ, khúc chiết, quảng bác... làm cho các hội chúng giải tan được hoài nghi, có đức tin nơi chánh pháp và trở về với chánh pháp, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà bần thần nói:
- Trẫm không ngờ loại châu báu này "kinh khủng" đến như thế. Uy dũng của nó đúng là chúa sơn lâm, sẽ không sợ hãi bất kỳ một ai trong tam giới. Sở học mà được như thế, chắc không mấy người, đại đức nhỉ?
- Vâng, quả vậy!
- À, trẫm có nghe đồn trong lâu đài chánh pháp của Đức Thế Tôn còn có một loại ngọc nữa, được gọi là "thất giác chi bảo ngọc", sao không nghe đại đức nhắc tới?
Đại đức Na tiên mỉm cười:
- Vì nhiều quá nên đầu óc lú lẫn của bần tăng quên đi chăng? Vâng, quả thật có loại ngọc ấy. Nó chính là:
Niệm giác chi bảo ngọc; Trạch pháp giác chi bảo ngọc; Tinh tấn giác chi bảo ngọc; Hỷ giác chi bảo ngọc; An giác chi bảo ngọc; Định giác chi bảo ngọc; Xả giác chi bảo ngọc.
Đấy là bảy loại bảo ngọc bắt buộc ai cũng phải trang điểm nếu muốn bước vào cõi hào quang của chư Thánh. Chư thiên, nhân loại, phạm thiên ai cũng thèm muốn, ước vọng, trầm trồ, tán thán, ca ngợi về sắc đẹp, tính chất có một không hai trên trần đời của nó, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vui vẻ hỏi tiếp:
- Thế còn cái chợ tổng hợp, đại đức? Nó ra sao mà gọi là chợ tổng hợp?
- Thế trong kinh đô của đại vương, chợ tổng hợp họ bán những gì?
- Ồ! Thượng vàng hạ cám. Từ ngọc báu, xa cừ, pha lê, mã não... từ voi, cọp, rắn, thuồng luồng, các loại cá, hải sản và thủy sản, vải vóc, lương thực cho đến cây kim, sợi chỉ, mắm tôm, mắm tép, giày, ủng, gươm, giáo, nồi, soong chảo, chén bát, đũa, đồ sứ, đồ sành, trẫm, quế, củi... cho đến ếch, nhái, chim, chuột, chó, mèo... tất thảy đều có cả, thưa đại đức.
- Có nghĩa là giới quý tộc, thượng lưu, hạng triệu phú, bá quan, các giai cấp thợ thuyền, nông dân, kẻ hạ tiện... đều có thể vào chợ tổng hợp này để tìm mua vật vừa lòng, thích ý của mình phải không đại vương?
- Đúng vậy!
- Gian hàng tổng hợp của Đức Thế Tôn cũng y như thế. Nghĩa là để dành cho đủ mọi căn cơ trong xã hội, từ người căn cơ chậm lụt đến căn cơ thượng trí, đều có phần của mình trong kho tàng chánh pháp của Đức Thế Tôn. Người tại gia có món hàng cho người tại gia. Người xuất gia có món hàng cho bậc xuất gia.
Ở đây, người ta có thể làm lành chút ít để cầu trường thọ, cầu sức khỏe, cầu an vui, cầu sắc đẹp. Người ta cũng có thể mua món hàng ngũ giới, bát giới để thọ trì, để đổi lấy cõi người và cõi trời hạnh phúc sang cả. Người khôn ngoan hơn tí nữa, họ mua thêm bố thí, tham thiền, để vừa được hạnh phúc trời, người, vừa gieo duyên hạnh phúc cao thượng hơn.
Còn nữa, riêng các bậc xuất gia thì những món hàng đắt giá được bày bán trong những câu lạc bộ thanh lịch và thanh khiết hơn. Vào đây sẽ có đầy đủ tạng kinh, tạng luật, vi diệu tạng. Ai ưa tạng nào thì mua tạng nấy. Ngoài ra, lác đác chỗ này chỗ kia, có những ngăn riêng để bán lẻ cho nhiều người. Nào là túc sanh truyện, kệ ngôn, kệ thơ, tiểu bộ kinh, tạp bộ kinh, tăng chi bộ kinh, trung bộ kinh, trường bộ kinh, tương ưng bộ kinh v.v... Người thích trì luật thì có giới thọ trì giới bổn, giới phòng hộ các căn, tiểu giới, trung giới, đại giới. Người ưa chiêm nghiệm sâu xa về tâm vương, tâm sở, sắc pháp, Niết bàn thì đi vào tạng vi diệu, thắng nghĩa.
Ngoài ra, có vị thích chỉ tịnh, quán minh; có vị thích đầu đà khổ hạnh, người thích ở cội cây, rừng, nghĩa địa; kẻ thích thiền định, người ưa giáo hóa, pháp sư, giảng sư... ai muốn mua, đều có. Có những vị được một thông, hai thông, ba thông, bốn thông, năm thông, sáu thông. Có vị được một tạng, hai tạng, ba tạng. Có vị chuyên tu tứ niệm xứ, chuyên tu thất giác chi, người ngũ căn, ngũ lực, kẻ thích thú bát chánh đạo.
Nhờ vậy, trong câu lạc bộ này, biết bao nhiêu vị Thánh nhân ra đời, từ Tu-đà-hườn quả đến A-la-hán quả. Có vị được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và vô sắc thiền.
Ví như trong một khu rừng, hằng-hà-sa số các loại thảo mộc thì trong câu lạc bộ chánh pháp cũng hằng-hà-sa số là các vị Thánh nhân cùng phước báu trời, người... như thế!
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Quả đúng là gian hàng tổng hợp. Nhưng đại đức kể nhiều quá. Trẫm nhớ không hết, hãy từ từ nhé! Ví như trong quốc độ của trẫm, trẫm là vua, bên cạnh trẫm có vị quốc sư hằng bàn việc nước với trẫm, các quan đại thần thì chăm lo tất cả công việc từ kinh tế, quân sự, nông nghiệp, giáo dục, y tế, thiên văn v.v... Ngoài ra lại còn bốn giai cấp trong xã hội, và dân chúng thì làm đủ tất cả mọi ngành nghề v.v... Vậy trong cái gọi là quốc độ chánh pháp của Đức Thế Tôn có tổ chức tương tự như thế hay chăng?
- Có chứ, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe?
- Vâng, trước khi trình bày điều đó, bần tăng sẽ xin kể những thần dân ở trong quốc độ chánh pháp ấy đã.
Một là, các bậc hết luyến ái, hết sân hận, hết si mê, hết ái dục và không còn cố chấp; ấy là những bậc đã đắc giải thoát thiền.
Hai là, các vị thọ đầu đà, ở trong rừng, ngăn oai nghi nằm, thọ đi kinh hành, thọ y bó tử thi, thọ tam y, thọ tròn đủ bốn pháp môn, những bậc hiểu pháp đệ nhất.
Ba là, các vị thọ đầu đà, tri túc trong lợi lộc.
Bốn là, các vị đắc thiền, vô sắc thiền, có thần thông hoặc không có thần thông.
Năm là, các vị thực hành để đắc được quả hữu học, có tâm tầm cầu hướng thượng.
Sáu là, các bậc Tu-đà-hườn, Tư-đà-hàm, bậc A-na-hàm, A-la-hán xa lìa các bợn nhơ tội lỗi.
Bảy là, các vị thông suốt tứ niệm xứ, hoan hỷ tiến tu thất giác chi, thực hành tuệ minh sát.
Tám là, các vị thông hiểu thần túc, hoan hỷ nhập định, thực hành tứ chánh cần.
Chín là, các vị thông tuệ ba la mật, có hỷ mãn, có lạc mãn.
Mười là, những vị đi đâu cũng nhìn xuống, không ngó láo liên, biết thu thúc khẩu, gìn giữ lời ăn tiếng nói, thu thúc thân tâm.
Mười một là, người đắc pháp cao thượng, đắc tam minh, đắc lục thông, đắc thần thông ba-la-mật, có trí tuệ ba-la-mật...
Tâu đại vương! Thần dân trong quốc độ chánh pháp ấy rất nhiều, nhưng bần tăng chỉ tóm tắt vào mười một nhóm công dân ưu hạng như vậy thôi!
- Đúng là công dân thượng đẳng! Nếu ai cũng thượng đẳng cả thì ai là vua, là quan, là dân hở đại đức?
Đại đức Na tiên mỉm cười, như nói riêng với đức vua.
- Cũng vì chúng sanh mà ra cả, đại vương!
- Ồ! Vâng! Vậy xin đại đức bi mẫn kể cho "chúng sanh" nghe?
- Vâng! Trong quốc độ của đại vương chỉ có một vị vua, nhưng trong quốc độ của chánh pháp thì có hằng trăm hằng ngàn vị pháp chủ. Đó là những bậc:
Thứ nhất, nâng đỡ trí tuệ cao thượng. Thứ hai, không dính mắc một chút cấu uế. Thứ ba, bất động, trạm nhiêm giữa cuộc đời. Thứ tư, nâng đỡ đạo hạnh, đức độ. Thứ năm, nâng đỡ phước duyên. Thứ sáu, vô bố, vô úy. Thứ bảy, thông tuệ tư duy. Thứ tám, nâng đỡ thần thông. Thứ chín, nâng đỡ hào quang. Thứ mười, nâng đỡ giảng giải kinh nghĩa. Thứ mười một, nâng đỡ pháp giải thoát. Thứ mười hai, nâng đỡ pháp luận. Thứ mười ba, thu thúc trong trí tuệ ba la mật...
Nhóm người cao thượng, siêu việt này đều là những bậc pháp chủ, tâu đại vương!
- Cảm ơn, trẫm đã lãnh hội rồi. Có vua tất có quốc sư. Vậy trong quốc độ chánh pháp, có vị quốc sư ấy chăng?
- Tâu, có ạ! Đấy là các vị vừa đắc bốn tuệ phân tích vừa thành tựu những thần thông tột cùng; có thể đưa tay sờ mặt trời, mặt trăng, đi trên biển, đi trong đất một cách vô ngại. Họ là những vị quốc sư.
- Thế còn những vị quan nào nữa, đại đức?
- Tâu, đấy là những vị quan tòa. Họ hành pháp đầu đà, sống đời thiểu dục tri túc, chán ghét tà mạng, chán ghét trì bình khất thực tà mạng; giữ gìn lục căn thanh tịnh, lánh xa thỏa thích trong sắc, thanh, hương, vị, xúc. Hằng ngày họ đi nơi này nơi kia, tùy nghi nhận phẩm vật cúng dường, không làm phiền lụy đến ai; như con ong hút nhụy mà không phá hoại nụ hoa, lợi lộc không màng tới, không cần để ý đến sự đòi hỏi của thân và tâm. Họ đích thực là những vị quan tòa, cầm cán cân quân bình cho thần dân trong quốc độ, tâu đại vương!
- Có phải họ nêu tấm gương thiểu dục tri túc, phải vậy không đại đức?
- Tâu, vâng! Đại vương dùng từ rất chính xác.
- Không dám! Thế còn ai làm phận sự gì nữa, thưa đại đức?
- Tâu, vâng! Đó là vị quan giữ lửa cho quốc độ!
- Ở đấy phải tuyển chọn những bậc như thế nào?
- Tâu, trước tiên vị ấy không còn bợn nhơ phiền não, lại có thiên nhãn thông, thần túc thông, có thiền định kiên cố. Sau đó vị ấy còn phải đi nơi này nơi kia một cách mau lẹ, để giáo hóa mọi người.
- Còn chức vụ gì nữa, đại đức?
- Tâu, còn có chức quan giữ gìn pháp bảo. Ơ đây, phải lựa chọn những vị nghe nhiều, học rộng, nâng đỡ các bộ kinh, nâng đỡ luật; rành rẽ các chủ đề, các loại văn tự ngôn ngữ, đọc đúng giọng dài, giọng ngắn v.v...
- Vâng, còn có những gì nữa?
- Tâu, còn có luật sư đoàn. Ở đây phải biết tuyển chọn người biết luật, thông về luật, rành rẽ sự xử phạt. Biết rõ hành động này là phạm, hành động kia không phạm, điều này phạm nhẹ, điều kia phạm nặng; biết rõ việc này nên châm chước, việc kia không nên châm chước. Còn biết dạy bảo thêm những giới phụ, biết rành rẽ lối đọc tụng sám hối này cần thay đổi, nơi kia không nên thay đổi v.v...
- Rất phong phú. Vậy trong ấy có ai coi về việc quán sá, chợ búa không?
- Tâu, có. Ở trong vương quốc này cũng có người bán hoa, bán quả, bán vật thơm, bán hàng ăn uống...!
- Xin cho nghe!
- Vâng. phải tuyển chọn những người có pháp giải thoát, biến uốn nắn ngọn cây A-la-hán cho đẹp từ gốc, cành, lá đến ngọn; phải làm cho hoa nở bốn mùa... tâu đại vương!
Còn nữa, còn tuyển chọn những người bán trái cây, là người đã thực hành và giác ngộ Tứ diệu đế, thành tựu bốn sa môn quả, diệt tận vô minh phiền não là phước điền đơm hoa kết trái cho chư thiên và nhân loại.
Còn nữa, những người bán vật thơm là những người thọ trì giới một cách tuyệt hảo, thanh tịnh bên trong, thanh tịnh bên ngoài, không còn bất kỳ một chút cấu uế nào. Hoàn toàn vắng lặng và ngát ngào giới hương!
- Trẫm thấy rồi. Còn hàng ăn uống là thế nào hở đại đức?
- Ở đây, phải tuyển chọn những người phục vụ món hàng luôn đem đến no đầy, an lạc, phỉ lạc cho nhiều người. Là những vị hớn hở vui tươi trong pháp và luật. Là những vị an lạc, thỏa thích trú trong rừng, dưới cội cây. Người hành đầu đà một chỗ, đầu đà nơi chỗ trống, nơi thanh vắng. Là những bậc luôn ăn uống no đầy những pháp đức cao siêu, pháp lớn, pháp nhỏ đều hân thưởng... Đấy cũng là những vị chỉ nói về thiểu dục, chỉ nói về tri túc, chỉ nói lời nghiêm tịnh, chỉ nói lời khách quan không lẫn lộn giữa các phe nhóm, chỉ nói lời tinh tấn, chỉ nói lời phước báu của giới, chỉ tán dương giải thoát tri kiến A-la-hán quả v.v...Nhờ vậy, mọi người đến đây ăn uống no say, vui thích... quên cả nẻo về trần thế, tâu đại vương!
- Thế còn chức vụ gì nữa không?
- Tâu, còn quan phòng hộ, giữ gìn, bảo vệ quốc độ nữa, tâu đại vương!
- Vâng, trẫm hiểu.
- Số phòng hộ, bảo vệ này rất đông, không biết là có tất cả bao nhiêu vị. Đây là những người có oai nghi ngồi, đi và đứng. Họ đi kinh hành canh đầu, canh giữa và canh cuối; luôn luôn thức tỉnh, luôn luôn cảnh giác những quân giặc phiền não xuất hiện, hằng giữ gìn phận sự của mình, vì lợi ích cho mình và cho quốc độ chánh pháp.
Còn nữa, còn tuyển chọn những người dạy pháp, đọc tụng Phật ngôn; nói ý nghĩa, trình bày cách thức, giảng văn tự, chứng minh về nhân về quả, có thí dụ lớn, có thí dụ nhỏ... Các ngài chính là những chủ quán bán pháp cao quý đấy đại vương!
Còn nữa, trong quán ấy còn tuyển dụng thêm những người có vốn liếng tài sản về pháp bảo, nhất là kinh tạng; rành về cú pháp, văn phạm, nguyên âm, phụ âm... cho gian phòng thêm phong phú.
Ngoài ra, còn những nhân sĩ, trí thức hằng lui tới, họ có nhiều ba la mật, biết thuyết pháp, biết sưu tầm pháp, biết chia chẻ pháp; các ngài cũng góp thêm công sức cho quốc độ chánh pháp thêm huy hoàng, tươi đẹp và thịnh mãn.
- Đúng vậy! Chẳng có vương quốc nào mà thanh bình, an lạc được như thế.
- Vâng, ở đấy do nhờ phòng hộ chặt chẽ, an ninh tuyệt đối nên không hề có kẻ thù xâm lăng, họa hại; muôn dân sống trong cảnh hạnh phúc của giống dòng thượng đẳng, cao quý của mình. Chính Đức Chánh Đẳng Giác, sau khi Niết bàn, đã để lại vương quốc chánh pháp ấy, được xiển dương, quảng bá, đã bất tử với thời gian. Thầy tổ của bần tăng là những công dân tiền bối, và bây giờ là bần tăng đang nổ lực tinh cần, hoàn thiện mình để được bước vào vương quốc ấy. Đại vương cũng thế, những câu hỏi đáp hôm nay giữa chúng ta cũng được rút ra từ di sản của Đức Tôn Sư. Vậy mà đại vương còn dám hoài nghi là Đức Phật chưa từng có mặt?
- Ừ! À! Đại đức cứ nói tiếp!
- Tâu, vâng. Cũng giống như kinh đô và quốc độ của đại vương đó thôi. Vị kiến trúc bậc thầy kia ra đi, đại vương còn sống bây giờ đây, tác phẩm kiến tạo này sẽ còn mãi mãi với thời gian. Lẽ nào chừng một trăm năm sau, di sản, chứng tích kinh đô cũ vẫn còn, thế mà có người lại bảo không hề có ông vua Mi-lan-đà - thì đại vương nghĩ sao?
Đức vua Mi-lan-đà có vẻ suy nghĩ đăm chiêu, một hồi mới nói:
- Nói tình thật, thưa đại đức! Lý luận, diễn giảng, chứng minh, ví dụ của đại đức thật không có kẻ hở cho hoài nghi xen vào. Trẫm có đức tin trong sạch và trí tuệ sáng suốt để xác định rằng: Đức Phật có thật! Không còn một mảy may nghi. Tuy nhiên, giả dụ thế, có kẻ ngoại đạo cắc cớ nói: "Vẫn có thể là không có Đức Phật". Vì sao? Vì qua những kiến thức uyên bác, kiến giải thông tuệ, trình độ hiểu biết, lý luận... của đại đức bây giờ - nếu như trước đây chừng một trăm năm, thế gian xuất hiện chừng hai, ba vị như đại đức - thì có thể họ cùng nhau ngồi lại một chỗ mà sáng tác nên các bộ kinh, luật, vi diệu tạng kia, được chăng? Nghi không có Đức Phật và nghi là có vài bậc trí tuệ sáng tác - thì cũng giống nhau thôi, thưa đại đức!
Câu hỏi có trọng lượng ngàn cân - và mối nghi rất có cơ sở của đức vua Mi-lan-đà, làm cho cả hội trường im phăng phắc, có kẻ toát mồ hôi. Tuy nhiên, đại đức Na tiên dáng dấp vẫn điềm nhiêm, nhìn quanh một vòng rồi mỉm cười nói:
- Hay lắm! Đáp, hỏi là phải như thế! Học Phật pháp là phải như thế: phải vấn nạn cho tận cùng, không nên tương nhượng, vị nể nhau. Phong cách thể hiện đạo đức tri thức của đại vương, bần tăng rất khâm phục vậy.
Rồi đại đức tiếp lời:
- Tâu đại vương! Biển cả tức là đại dương, sâu rộng quá chừng; lượng nước và lượng cát ở đấy không ai đếm hết được. Trong lòng đại dương quần tụ sinh sống hằng vạn hằng ức loài thủy tộc. Đi lại trên đại dương có các loài rồng, đại bàng, dạ xoa nước... hằng đi kiếm ăn. Trong biển, trên biển luôn luôn có sự đấy động huyên náo; hợp tấu cùng các a-tu-la hăng say đùa giỡn, đoàn lũ rầm rộ làm chấn động biển trời tạo nên một loại nhạc cụ tổng hợp, âm thanh tạp náo. Lác đác chỗ này chỗ kia, nhô lên những hòn đảo tốt tươi xinh đẹp, có các thần tiên du hành, rong chơi đây đó. Sơn thần, thọ thần, thủy thần cũng ngoạn du nhàn lạc trong lãnh điạ của mình...
Đại đức Na tiên nói đến ngang đây, chợt đức vua Mi-lan-đà ngắt lời:
- Xin lỗi đại đức! Không biết đại đức kể chuyện gì mà lan man trên trời dưới biển như thế, chuyện các loài thủy tộc và thần tiên kia liên hệ gì với chủ đề chúng ta đang thảo luận hôm nay?
- Hãy kham nhẫn, đại vương! Đấy là tiền đề, và rồi nó sẽ đi thẳng vào nội dung cốt lõi của vấn đề mà!
- Ồ! Thế thì xin đại đức cứ tiếp tục!
- Vâng, bần tăng kể tiếp đây. Trong biển, trên biển huyên náo ngày đêm như thế; nhưng lại còn hằng trăm ngàn ghe thuyền bán buôn từ quốc độ này sang quốc độ khác dong buồm lui tới nữa... Những ngọn sóng to, những ngọn sóng nhỏ dào dạt, ầm ào, đập vào bãi biển, các doi đất lồi, vịnh, hải khẩu; thủy triều lên xuống các đầm nước mặn, các đầm nước ngọt, các vực sâu tiếp giáp biển và núi...
Đâu đâu cũng có chúng sanh nương gá, là nơi quần cư giữa các loài hữu tình, vô tình, có những vùng sáng chói ngọc thạch, san hô. Biết bao nhiêu là cá xà, cá mập, voi nước, ngựa nước, nhơn ngư, tôm rùa..., loài thủy tộc có tên và loại thủy tộc không tên, lấn hiếp nhau, cắn xé nhau để tự vệ và sinh tồn. Tuy nhiên, nếu như thế thì đại dương vẫn bình lặng trong định luật sinh diệt của các loài...
Ví như trên trời có điểu vương, trên rừng có tượng vương... thì dưới biển cũng có ngư vương! Hốt nhiên, hôm kia, như sau một giấc ngủ ngàn năm dưới đáy đại dương, Ngư vương rùng mình đứng dậy, đội một biển nước trên mình và nhảy vọt lên cao! Ôi một cơn sóng thần cũng không được như thế! Một trận động đất cũng không được như thế! Từng quả sóng núi lớn nổi lên cao, điệp trùng sóng núi, rùng rùng nối đuôi nhau chạy dạt ra bốn phương trời. Muôn loài thủy tộc sợ hãi tưởng là giờ tận thế. Hằng trăm, ngàn ghe thuyền chạy trốn núp vào các vực nhưng cũng không tránh khỏi tử nạn thương vong. Cá nhỏ, có to biển động sóng nhồi nằm phơi xác trắng hếu trên mặt nước...
Ồ! Chuyện gì đã xảy ra mà biển sóng nổi kinh hoàng như thế? Các bậc thức giả, trí giả, giáo sư hải dương học... đều đưa ra một kết luận giống nhau: "Có một loài cá rất to, gọi là Ngư vương vừa xuất hiện. Đây là hiện tượng hằng triệu năm mới có một lần. Trận sóng vừa rồi là sự "ra oai" với muôn loài thủy tộc của Ngư vương đấy!
Nói đến ngang đây, đại đức Na tiên nghỉ hơi một lát. Đức vua Mi-lan-đà thở một hơi dài:
- Dường như trẫm vừa nắm bắt được nội dung của tiền đề rồi đây!
- Đại vương đã đoán trúng - đại đức Na tiên tiếp lời - Biển thế gian này cũng là đại dương mênh mông, vô lượng nước, vô lượng cát như thế đấy, tâu đại vương! Vô lượng nước ấy tức là ái dục tham luyến, vô lượng cát ấy chính là phiền não. Ai dục, tham luyên chính là hạng chúng sanh ngu si tăm tối đếm không xiết kể trên thế gian này. Đáy biển có những luồng lạch, có những hang hóc tối tăm chính là tà kiến, ngã chấp, cứng đầu, vô ơn, bội nghĩa, si mê, hận thù, gian xảo, độc ác v.v...
Tâu đại vương! giả dụ như đại vương là bậc trí tuệ - và quả ngài là bậc trí tuệ rồi - thì nếu khởi lên sự so sánh như thế, đại vương có khiếp hãi biển thế gian này chăng?
- Đúng là khiếp hãi, khiếp đảm!
- Vậy đại vương có nên giữ gìn mình chăng?
- Tuyệt đối phải giữ gìn, phòng hộ. Người chỉ có một con mắt sẽ bảo vệ con mắt của mình như thế nào thì trẫm sẽ tự bảo vệ mình như thế đó!
- Đúng vậy! Giữa biển sâu, muôn loại thủy tộc sống lẫn lộn; ngọc, cát đá và san hô cũng sống lẫn lộn - thì biển thế gian này cũng y như thế:
Người nam người nữ, kẻ thiện, người ác sống lẫn lộn với nhau. Người có chức quyền, địa vị, người không chức quyền, địa vị. Người có phước và người vô phước. Bậc có oai đức và kẻ không có oai đức. Người phi thường và kẻ bình thường. Người tiến hóa và người không tiến hóa. Người có trí tuệ và người không có trí tuệ. Người hiểu biết và người không hiểu biết...
Ngoài ra, còn có các hàng vương giả, quý tộc, bà-la-môn, thương gia, nông phu, người nấu ăn và kẻ chăn ngựa, người áo trắng và người tu theo ngoại đạo. Các sa môn trong giáo hội Đức Tôn Sư và các vị khuất thực du sĩ lang thang, người ăn xin đủ loại, đủ kiểu; người tu nằm dưới đất, kẻ nằm một bên vai, có người không tắm, có người bết bùn đầy người, kẻ lõa lồ thân thể, các đạo sĩ thần chú, thờ thần lửa, thầy bắt rắn... Tất cả họ sống đông đặc, chen chúc trong thế gian này.
Lại nữa, biển thế gian còn có biết bao nhiêu loài chúng sanh chưa kể hết. Những loài chúng sanh có bốn chân như lạc đà, lừa, ngựa, sư tử, beo, gấu v.v... kể sao xiết? Những chúng sanh có hai chân như le le, két, sáo, tu hú, bồ câu... thật là hàng vạn loại! Rồi còn chúng sanh nhiều chân và không chân... nhung nhúc, đặc đầy.... còn đông hơn là đại dương kia nữa.
Như trên không có điểu vương, như rừng sâu có tượng vương, như biển cả có ngư vương, như quả địa cầu có Chuyển luân Thánh vương... thì mười ngàn thế giới của cõi ta bà... muôn triệu năm mới có một bậc Đại giác ngộ ra đời. Địa cầu chuyển động, biển thế gian chấn động, ba cõi rung động. Ngọn cờ chánh pháp dương cao; một trận sấm pháp, sóng pháp long trời lở đất, cuồn cuộn tràn ra sông mê, biển khổ; len lỏi vào các luồng lạch tối tăm, những hang sâu, những vực thẳm, những hải đảo, những rừng xanh, những đại quốc, những tiểu quốc, những bộ lạc, những chủng tộc, những nhóm người, những giai cấp, những quý tộc và cùng đinh, người nô lệ và bà-la-môn, kẻ giàu người nghèo, kẻ quý người tiện, bậc thức giả và người ngu si, kẻ tối mắt, người sáng mắt v.v... Ai cũng nghe được thông điệp của bậc bất tử. Đấng Đại Giác bố thí nước bất tử cho chúng sanh không phân biệt để diệt trừ, dập tan lửa nóng và ba độc phiền não; làm cho không có bợn nhơ, giải thoát bợn nhơ, hết bợn nhơ, duyên tận bợn nhơ, làm cho trong sạch, mát mẻ, thanh khiết; lần hồi giúp cho chúng sanh trú trong pháp giải thoát, đạt phẩm vị A-la-hán hạnh phúc tối thượng...
Tâu đại vương! Trận sấm pháp, sóng pháp vô tiền khoáng hậu ấy là gì? Làm cho cõi người, cõi trời rúng động ấy là gì? Làm cho ma vương, bóng tối, si mê, tà kiến, ngã chấp... bị sóng nhồi, sấm dập... mà chết nằm la liệt, phơi xác trắng hếu trên biển thế gian, ấy là gì?
Là Tứ diệu đế, tâu đại vương! Ngoài số bỏ xác tại trận tiền, còn vô số chúng sanh khác, nhờ sấm pháp mà thức tỉnh cơn mộng dài, nhờ sóng pháp mà đẩy trôi sang bên kia giác ngạn. Bởi vậy, vô lượng chúng sanh có nhóm đến được đảo an lạc Tu đà hườn, bình nguyên hạnh phúc Tư đà hàm, quốc độ thanh bình A na hàm, thế giới thanh khiết A-la-hán! Nhóm chúng sanh ít công đức, phước báu hơn, có thọ trì quy giới, có đức tin..có bố thí, tham thiền, thì hoặc được quả người, trời sang cả, hoặc được mở con mắt trí tuệ để khỏi rơi vào bốn đường dữ.
Tâu đại vương! Một cơn sấm, một cơn sóng... đều trải qua bốn giai đoạn: sanh, trụ, dị, diệt. Lúc Đức Thế Tôn thuyết Tứ diệu đế tạo cơn sấm pháp, sóng pháp cũng trải qua bốn giai đoạn: khổ, tập, diệt, đạo.
Tại cõi trời Đao lợi, khi Đức Thế Tôn thuyết về khổ đế, không biết bao nhiêu là chư thiên phấn khởi, hoan hỷ; có kẻ sạch trần cấu, có kẻ đắc pháp nhãn. Lúc Đức Đạo Sư thuyết về tập đế, vô lượng chư thiên thấy rõ nguyên nhân khổ, đắc được pháp cao thượng, họ rất vui mừng và phát sanh phỉ lạc. Khi Đức Đại Giác thuyết về diệt đế, tất thảy mọi hoài nghi của một số chư thiên được lắng dứt; cảm nhận ra được đâu là pháp sanh, pháp diệt, trí tuệ xuất trần ly cấu hiện ra. Khi Đức Chánh Đẳng Giác thuyết về đạo đế, rất nhiều chư thiên thấy rõ con đường diệt tận tham sân ái luyến, thấu triệt mọi ngõ ngách đen tối của vô minh, chứng A-la-hán đạo, A-la-hán quả...
Tâu đại vương! Tiếng sấm pháp ấy còn vang dội, và cơn sóng pháp ấy còn ùn ùn lan đến cung điện này. Tứ diệu đế vẫn còn đây. Các bậc thầy tổ của bần tăng đắc quả A-la-hán, kẻ còn sống, người đã tịch diệt trên thạch động Rakkhita; chư tăng trong hàng ngũ của giáo hội rất nhiều người tinh thông một tạng, hai tạng, ba tạng; rất nhiều vị đắc một thông, hai thông, ba thông; rất nhiều vị có bốn tuệ phân tích, vô ngại giải; rất nhiều vị đầu đà, khất thực sống hạnh thiểu dục, tri túc; rất nhiều vị trì luật nghiêm minh, thanh tịnh; rất nhiều vị đa văn, bác học, làu thông kinh nghĩa, văn phạm, cú pháp; rất nhiều vì từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, xả vô lượng. Và chính ngay đây, đại vương là bậc đang được tiếng sấm xưa lay tỉnh, cơn sóng xưa rung động... bởi vậy, mới có buổi tao phùng kỳ ngộ, hỏi và đáp hôm nay. Thế mà đại vương cứ dám bảo là không có Phật? Dám bảo ai đó sáng tác kinh luận! Bậc vĩ đại như thế, làm chúa cả ba cõi và ở ngoài ba cõi, thường chỉ có một người, một đấng, một bậc, một đức duy nhất và tối thượng: Đức Chánh Đẳng Giác Thế Tôn, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu.
- Rất thuyết phục, thưa đại đức!
- Thế đại vương còn nghi ngờ sự hiện thân của Đức Phật nữa chăng?
- Thưa, đã hết.
- Thế sao đại vương còn trầm mặc như thế?
- Vâng, vì trẫm không còn hoài nghi - nhưng chúng ngoại đạo họ vẫn còn luận cứ của họ!
- Vậy họ có thể phản bác ra sao?
- Họ có thể nói như thế này: "Quý vị gọi chúng tôi ngoại đạo, tà giáo - thì chúng tôi cũng gọi qúy vị là ngoại đạo, tà giáo! Sự xuất hiện của ông Cồ Đàm - nếu ta công nhận ông ấy có xuất hiện - làm cho ba cõi rúng động gì đó, sóng tràn đến hôm nay gì đó; thì các bậc giáo chủ, chân sư của chúng tôi xuất hiện ở đời này, còn rúng động hơn thế, còn vĩ đại hơn ông Cù Đàm gấp bội, gấp chục, gấp trăm là khác. Bằng cứ là chúng tôi đông hơn, am miếu, tu viện, tự viện, trang viện, cốc liêu... của chúng tôi rải rác khắp hang cùng ngõ hẻm; ba bộ phệ đà của chúng tôi phổ cập và ảnh hưởng toàn bộ đời sống của nhân dân châu diêm phù đề, còn nguy nga, hoằng viễn và bất tử hơn kinh điển của ông Cù Đàm nữa. Sóng động, biển động, sấm chớp long trời lở đất - là của các vị chân sư, giáo chủ của chúng tôi. Ông Cù Đàm không có phần ở đây!'
Trước luận cứ ấy thì đại đức phải trả lời làm sao, đại đức?
- Tâu, họ có quyền nói như thế, tâu đại vương! Quả đúng cái gì họ cũng đông hơn gấp bội, nhưng điều đó chứng tỏ gì? Chứng tỏ bao giờ vàng ngọc cũng ít hơn cát đá; trầm hương bao giờ cũng ít hơn tre gỗ. Những tập tục mê tín dị đoan: thần mặt trời, thần mặt trăng, thần bình vôi, thần ống nhổ, thần bò cái, thần gốc đa, thần sông, thần hói, thần rùa, thần sư tử, thần ngã ba, thần bà mụ, thần bói toán, thần đất đai, thần ngày tốt, thần hộ mạng, thần chó mực, thần mèo đen, thần gà quạ v.v... Cả hằng triệu vị thần như thế có mặt từ tôn giáo của họ. Rồi còn hằng trăm hằng ngàn cách tu ăn lông ở lỗ, man di mọi rợ... đã lôi cuốn hàng triệu người ngu si, dốt nát... tin cuồng, tin bậy, lạy lục, cầu khấn, van xin... để họ cầu cạnh đủ mọi thứ tham dục trên cuộc đời này. Khác xa là tiếng sấm uy vũ, cơn sóng dậy vỗ vào giấc mê cuồng tăm tối của chúng sanh, tâu đại vương! Các bậc Thánh nhân A-la-hán trong giáo hội Đức Thế Tôn, sống thanh khiết giữa chốn trần gian cấu uế, bất tịnh... như cả hằng trăm ví dụ sống động... hằng ngàn hình ảnh cụ thể sống động mà đại vương đã từng thấy, từng chiêm nghiệm và từng biết qua. Lẽ nào đại vương lại không đủ sức bẻ gãy câu hỏi ngang ngược tối tăm, cố chấp, cuồng vọng... của họ, hả đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà thở dài nói:
- Quả có vậy. Và quả trẫm cũng định nói tương tự thế. Chuyện ấy cho qua. Nhưng giáo pháp chơn chính của họ thì sao? Họ cũng có thể nói rằng, giáo pháp của Đức Thế Tôn không bằng họ. Và cơn sấm động, sóng giật kia... cũng chính là của chân sư, giáo chủ của họ đấy thôi.
- Tâu, đại vương! Đỉnh Hy-mã-lạp-sơn cao ngất tầng mây, ngự giữa hư không một cách uy nghi, đỉnh đạc, không núi nào có thể so sánh được. Nhưng đến gần ta có thể thấy rõ cả hằng ngàn đỉnh núi to nhỏ nhấp nhô kéo dài, bao bọc xung quanh như một bức tường thành kiên cố của cõi trời. Ở đấy có những đỉnh núi rất có tên tuổi, có những đỉnh núi đá phát sáng rất có tên tuổi. Lại có những khu rừng trầm, rừng chiên đàn, rừng đại thọ; có cả hằng trăm hằng ngàn hồ nhỏ nước trong mát như suối trời. Hằng trăm ngàn kỳ hoa, dị thảo, thuốc trường sinh, thuốc dưỡng nhau, thuốc dưỡng lão, thuốc hồi sức, thuốc sinh con... tất thảy đều có đủ....
Tâu đại vương! Đừng tưởng Hy-mã-lạp-sơn chỉ có một màu xanh của núi, hay màu trắng của tuyết, hay màu xám của mây trời! Không phải thế. Nhìn ngày, nhìn đêm, qua các thời khắc khác nhau; đôi khi Hy-mã-lạp-sơn có màu sắc của trời, màu của đêm hắc nguyệt. Thảng hoặc, nó như màu của hoa mạng sanh, có màu trộn lẫn giữa lam, tía thâm. Có khi lại giống màu nơi thân của chúa rồng xanh đậm. Lại có khi sáng trắng như sóng nắng tháng năm. Các đỉnh thấp, núi cháu, núi chắt ở xung quanh cũng biến hiện sắc màu huyền ảo như thế.
Và nơi đây là chốn dạo chơi của thần tiên, chỗ đàn ca xướng hát của càn thát bà. Các loại cẩn na la, phù chú gia tới lui rong chơi thoả thích. Ở đây cũng là quê hương của Kim xí điểu, các loại rồng, a-tu-la và dạ xoa v.v... Và đúng là một quần cư rất thịnh mãn các chủng loại chúng sanh...
Đỉnh Hy-mã-lạp-sơn, hàng ngàn đỉnh núi to nhỏ khác cùng toàn bộ quần cư ấy được ví như pháp sơn vương mà Đức Thế Tôn đã kiến tạo. Vua núi pháp ấy sừng sững, uy nghi, chói lọi giữa mười ngàn thế giới ta bà. Trên chóp núi vua pháp ấy là Tam tạng thánh điển, đồng thời, hiển lộ ba pháp giải thoát là không, vô tướng và vô tác. Hằng ngàn ngọn núi to nhỏ tạo nên thế liên hoàn của quần thể ấy, được ví các đại trưởng lão A-la-hán cùng chư tăng đắc từ đệ nhất quả đến đệ tứ quả; đồng thời cũng là những bậc làm pháp sư, giảng sư; bậc nâng đỡ tạng kinh, tạng Vi diệu pháp, tạng luật; các bậc đầu đà khất thực, bậc thiểu dục, tri túc, bậc đắc tam minh, bậc đắc tuệ phân tích, bậc thành tựu ba-la-mật tuệ, bậc đệ nhất nhẫn nhục, bậc đệ nhất tinh tấn, bậc đệ nhất độc cư, bậc đệ nhất thiền định, bậc đệ nhất thiên nhãn, bậc đệ nhất đa văn, bậc đệ nhất thuyết pháp, bậc đệ nhất đầu đà v.v... Còn nữa, các khu rừng trầm hương, rừng chiên đàn, rừng đại thọ... ấy là gì? Là vô lượng giới đức, định đức ở đấy, hoặc ngạt ngào hương thơm hoặc vững chãi kiên cố để cho muôn loại chúng sanh được chở che và được hưởng bóng mát. Vô lượng nước trường sanh, thuốc dưỡng sức, thuốc dưỡng lão, thuốc dưỡng nhan, thuốc sinh con... ấy là gì? Là vô lượng pháp môn tùy căn tánh, trình độ của chúng sanh, đến đấy để thâu hái lợi ích cho chính mình.
Tâu đại vương! Có lẽ ngoại đạo bảo rằng, họ cũng có pháp sơn vương hùng vĩ cùng quần cư thanh tịnh như thế? Đúng, họ cũng có sáu mươi hai đỉnh núi tà kiến, phiến diện, một chiều đã được Đức Tôn Sư điểm mặt trong kinh Phạm võng. Đức Thế Tôn đã bủa bằng một chiếc lưới lớn, vớt tất thảy tà kiến ấy quăng lên bờ và không một chú cá nào thoát khỏi. Sáu mươi hai luận thuyết kia làm sao đứng vững trước cái thấy biết toàn diện của Đức Đạo Sư? Đại vương cũng đã từng đi tham vấn với các tông phái ấy, lẽ ra đại vương hiểu rõ trình độ kiến giải của họ ngang đâu, đã có thể so sánh với ngọn núi pháp của đại vương chưa, mà dám ví mình là pháp sơn vương như Đức Phật!
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Cái điều định hỏi, trẫm chưa hỏi mà đại đức đã trả lời rồi. Quả là biển thế gian và núi pháp kia, các bậc giáo chủ của ngoại giáo cũng đã từng ví về mình. Nhưng trẫm còn muốn biết đại vương còn ví dụ nào nữa chăng?
- Có thể được, tâu đại vương! Ví như sau những ngày nắng hạn, một trận mưa lớn rơi xuống. Trước khi mưa, trên trời có những đám mây quần tụ hoặc có những đám mây lượn quanh như dây chuyền, có những khoảng sáng rực và có những sắc màu chói chang! Từ hư không, những làn gió mát mẻ quạt tới, phất phới những đóa hoa trời. Có những âm thanh dội vang như voi rống, ngựa hí, cọp gầm... làm chao đảo không gian. Từng lằn điện chớp ngang dọc như xé rách bầu trời. Hằng trăm thứ chim bay liệng tứ tung. Mọi người tụ họp vui tươi hoan hỷ. Mây kéo về thêm nữa, màu sắc thay đổi nữa, hoặc xanh hoặc vàng, hoặc đỏ hoặc trắng, màu hoa cà lẫn lộn màu chim phượng hoàng, màu hồng thẫm lẫn lộn màu trái đào tiên. Nhạc trời trổi khúc ca tấu tưng bừng... Mưa rơi xuống. Mưa rơi khắp thế gian từng trận, từng hồi, ào ào, tuôn chảy đầy mương rãnh, suối khe, giếng to giếng nhỏ, hồ lớn, hồ nhỏ... cỏ cây thấm, đất thấm. Dòng sông hào sảng nước, biển mênh mông nước. Tất cả đều xanh tươi, nảy lộc, đâm chồi. Tất cả đều sanh trưởng no vui, thịnh mãn...
Tâu đại vương, trận mưa ấy được ví là trận pháp vũ của Đức Thế Tôn, đã rơi xuống trần gian này sau mấy triệu năm. Cơn pháp vũ ấy đã thấm vào vô lượng chúng sanh trời người; nẩy lộc đâm chồi đạo quả, no vui hỷ lạc, thịnh mãn phước báu, sanh trưởng đức tin và trí tuệ; tẩy sạch bụi bặm cấu uế, dập tắt lửa tham sân, phiền não...
Tâu đại vương! Không cần phải nói hết ra đây diệu dụng của cơn pháp vũ ấy. Chúng ta không muốn trùng lập văn tự, trùng lập ngữ nghĩa, trùng lập chi pháp. Nhưng quả thật là rõ ràng, khi nước từ bi ấy chảy tràn qua lịch sử, chảy qua các quốc độ, chảy qua thời gian; để chánh pháp có mặt ở đâu thì ở đó không có hận thù, oan trái, kẻ cướp buông đao, hung dữ mỉm cười và tình tương thân tương ái, thuận hòa làm mát mẻ trái tim, làm phơi phới lòng người!
Vậy do đâu mà nước cam lồ bất tử ấy có mặt hôm nay? Ngoại đạo chăng? Chính thể vương pháp của đại vương chăng? Ồ! Đại vương bảo rằng trong quốc độ của đại vương có thứ nước ấy à? Nhưng xin hỏi đại vương lấy thứ nước ấy ở đâu? Ý bần tăng hỏi là hỏi tận suối nguồn?
- Quả là từ Phật, từ cơn pháp vũ năm xưa ấy!
- Ồ! Té ra Đức Phật có mặt thật rồi!
- Thật ra, trẫm chỉ hỏi cho hết mọi lý do, mọi hoài nghi có thể. Chứ Đức Phật đang thờ kia, lịch sử kinh sách đang còn đó, chánh pháp đang được giảng nói đến tận hôm nay - thì làm sao có thể phủ nhận Đức Phật lịch sử của chúng ta được!
- Đại vương nói "chúng ta"? Nghĩa, chúng ta là Phật tử?
Đức vua Mi-lan-đà cười ha hả:
- Thôi! Trẫm đồng ý là có Đức Phật rồi mà!
- Đại vương có muốn nêu ra ví dụ nữa chăng?
- Nếu đại đức còn ví dụ thì trẫm vẫn muốn nghe như thường!
- Vâng. Có một con voi chúa tên là Chaddanta, cao thượng hơn các voi. Nó có thân hình cao đến bảy hắc tay, dài đến chín hắc tay, có trang sức buộc đeo đến mười điều. Voi chúa ấy có mắt trắng, đuôi trắng, móng cũng trắng; có lọng trắng, bành trắng và thân trắng như màu mây trời. Tấm lưng của nó đầy đặn như tấm phản, các chi thể múp múp, bắp thịt no tròn. Nó to cao xinh đẹp như một quả đồi với cây cối non tơ óng óng, có ngà trắng bóng trông như ngọc chuốt. Voi chúa ấy có sức mạnh kinh người, có thần lực tuyệt hảo, vô địch chốn sơn lâm. Nó đi đơn độc rừng cao rừng thấp, hướng này hướng kia một cách vô bố, vô úy, đỉnh đạc và cao sang. Nó đi đâu, hướng nào, thì ở đấy cây cối bị dẫm nát, bật gốc. Nó lấy vòi quấn những cây thân mềm, nhổ ăn. Nó lấy chân đạp oằn xuống những cây thân mộc làm vướng lối đi. Dấu chân của nó rất to lớn, hằn sâu trên lớp đất cứng, thành hố ở các lớp đất mềm...
Chỉ nhìn nơi nào cây cối ngã đổ chỏng chiên và dấu chân phi thường còn lưu lại dấu tích, ai cũng có thể xác định đấy là do tượng vương Chaddanta làm ra, tượng vương Chaddanta là thủ phạm.
Cũng như thế đó, tâu đại vương! Nhìn lộ trình đi, nhìn dấu chân để lại ai cũng biết đó là tượng vương Chaddanta - thì nhìn lộ trình trải qua lịch sử, thời gian và những di tích để lại như chùa chiền, tượng đài, kinh sách... ai cũng có thể nhận ra dấu chân vĩ đại của Đức Phật Thích Ca. Còn hơn thế nữa, dấu chân phi thường ấy lại huy hoàng ấn tích ở ba cõi. Nếu tượng vương trang điểm châu báu được mười điều thì Đức Thế Tôn có đến một trăm lẻ tám điều. Còn nếu so sánh với sự uy vũ và dũng mãnh như sư tử thì cứ so sánh. Nếu so sánh với bảo vật của những bảo vật thì cứ so sánh....
Ngoài ra, dấu chân của Đức Thế Tôn để lại còn là một gia tài tinh thần vô giá:
Một là, trên thế gian, có người làm lành lánh ác, thì ngài là người làm lành lánh ác đệ nhất.
Hai là, trên thế gian, nếu chưa có ai toàn thiện thì ngài là bậc toàn thiện.
Ba là, trên thế gian, nếu ai là người có huấn luyện lục căn, thì ngài là người huấn luyện lục căn đệ nhất.
Bốn là, trên thế gian, nếu ai là người có nguyện lực thì ngài là người có nguyện lực kiên cố đệ nhất.
Năm là, trên thế gian, nếu có ai là người tinh tấn thì ngài là người tinh tấn tối thượng.
Sáu là, trên thế gian, nếu ai là người có trí tuệ sáng suốt thì ngài là người đại trí tuệ.
Bảy là, trên thế gian, nếu ai là người có thần thông thì ngài là người có thần thông toàn mãn và siêu đẳng.
Tám là, trên thế gian, ai là người có danh vọng xán lạn thì ngài là người có danh vọng xán lạn và vô nhiễm.
Chín là, trên thế gian, nếu có ai là người oai lực thì ngài là người có oai lực tối thượng, vô khả tỉ.
Mười là, trên thế gian, nếu có ai là người giải thoát khỏi nỗi sợ hãi thì ngài là người giải thoát sợ hãi toàn diện và toàn vẹn.
Mười một là, trên thế gian, nếu có Tăng, hoặc nhóm đạo sĩ, hoặc bậc trí tuệ, hoặc Thầy, hoặc pháp vương, hoặc chư thiên, hoặc Đế thích, hoặc phạm thiên... thành tựu nhiều đức lành, thành tựu nhiều pháp; rành rẽ mọi điều, có bi định - khả dĩ làm nơi nương nhờ, nơi nương gá, thành tựu ước nguyện cho nhiều người - thì Đức Thế Tôn còn vô lượng pháp, vô lượng đức hơn thế.
Tâu đại vương! qua chứng tích vĩ đại như thế thì dấu chân của Đức Tôn Sư có ai là người so so sánh được nhỉ?
- Thưa, vâng!
- Đức Thế Tôn vốn thuộc giống dòng Thái dương, là Thái tử cành vàng lá ngọc, là bậc vương giả ở thành Ca tỳ la vệ; ngài đã từ bỏ cung vàng hoa lệ, vợ đẹp, con xinh, ngai vàng và bảy báu... trốn vào rừng sâu sống đời đạo sĩ nghèo nàn. Bắt đầu từ dạo ấy, dấu chân của ngài mở ra một lộ trình cho thế gian:
Thứ nhất, xuất ly, dứt bỏ, tầm cầu giải thoát. Thứ hai, không lưu luyến, không hệ lụy gia đình, trần thế. Thứ ba, sống đời cô độc, trầm tư, thiền định để diệt bỏ phóng dật, hôn trầm và hoài nghi. Thứ tư, dùng minh sát tuệ để tiêu trừ ngã chấp và tà kiến. Thứ năm, đoạn lìa vô minh, ái dục.
Từ đây lộ trình kia lại khai thông con đường bất tử, tức là Niết bàn, chấm dứt khổ đau, phiền não, giải thoát sinh tử luân hồi.
Dấu chân này tức Bát chánh đạo, tức là Thất giác chi! Nó rộng rãi, quang đãng và thanh tú, mỹ lệ:
Ai nhìn xem cũng no mắt, hoan hỷ; Ai nhìn thấy cũng vui mừng; Đem lại tâm tư thái bình an lạc; Làm cho không còn sợ hãi bất cứ điều gì; Hơi thở cũng trở nên bình lặng, mát mẻ; Đêm ngủ không còn mộng mị, giật mình; No đầy, khoan khoái; Là cảnh giới vững chắc, kiên định; Là dấu chân của sự tiến hóa; Đem lại danh vọng cao sang vô dục; Đem lại sức mạnh, sắc đẹp, tài sản; Thành tựu như ý nguyện mọi sở cầu.
Còn nữa, dấu chân của Đức Chánh Biến Tri đã phủ trùm lên tất cả dấu chân chủ thuyết tà kiến của ngoại đạo; ở trên, ở cao và ở xa tất thảy mọi dấu chân trần thế.
Bây giờ, ta hãy nhìn xem những dấu chân của sư tử, dấu chân của các loài rồng, dấu chân của bò chúa, dấu chân của dạ xoa, dấu chân của đức vua, dấu chân của các nhà uyên thâm phệ đà, dấu chân của phạm thiên, dấu chân của người đã vắng lặng, những dấu chân của đạo sĩ, dấu chân của người trí tuệ, dấu chân của người chiến thắng, dấu chân của người quý báu, cao thượng, dấu chân của người tối thượng... có thể nào so sánh những dấu chân ấy với dấu chân Đức Tôn Sư: là dấu chân của bậc giải thoát hoàn toàn, bậc đại A-la-hán Vô sanh, thông suốt thế gian và siêu xuất tam giới?
Tâu đại vương! Nói tóm lại, tất cả mọi dấu chân trên trần thế, dù cụ thể như dấu chân của voi chúa Chaddanta, dù trừu tượng như dấu chân của đức vua... cũng nằm trong lẽ thịnh suy, còn mất, sinh diệt. Thời gian sẽ phủ mờ, tuế nguyệt sẽ làm cho tiêu vong, vô thường sẽ làm cho biến hoại. Nhưng dấu chân của Đức Đạo Sư - dù chỉ có Thất giác chi này thôi - cũng đã là dấu chân miên tồn trên thời gian và lịch sử, cùng tồn tại với chánh pháp nhiều ngàn năm chẳng thể phai mờ, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Thế là đã hết kiểu ví dụ, hết cách ví dụ rồi - phải không đại đức?
- Bần tăng còn muốn nói về con sư tử chúa nữa, không biết đại vương đã mệt mỏi chưa?
- Thưa, thân đã mệt nhưng tâm thì vẫn còn muốn nghe!
- Vậy thì bần tăng xin được tiếp tục. Chắc đại vương cũng đã có nghe về vóc dáng uy mãnh và tập tính kỳ lạ của loài sư tử chúa? Nó có thân hình khôi vĩ, dáng dấp đỉnh đạc, quí phái và cao sang. Nó cao to và đẹp đẽ như vầng mặt trời. Chùm lông cổ của nó dày mịn như quấn mười vòng khăn len màu nhung sẫm. Lông mọc xoay quanh thân hình nó như bao phủ những lớp mây xoắn. Nó vững chắc như cây cột trồng. Nó khí thế hừng hực như miệng núi lửa. Nó chẳng sợ ai và cũng chẳng ai dám làm hại nó. Nó có sức mạnh của vài chục viên lực sĩ cọng lại. Nó nhanh nhẹn như mũi tên vọt khỏi cây cung. Hằng trăm loại thú rừng thấy dấu chân nó tim đều thót lại; và khi gặp mặt nó thì bốn chân sụm xuống, sợ hãi nằm im cho nó thò móng xé xác ăn chơi. Thịt mềm và thơm nó mới xài. Thịt dai và hôi nó chê! Vồ một con thú, ăn xong là bỏ, chẳng thèm đụng đến thịt dư! Nước trong mới uống, nước đục không uống. Thế đó, nó làm như nó là ông hoàng, bà chúa! Nhưng là ông hoàng bà chúa độc cư trong những khu rừng thanh vắng. Vào lúc trời chiều mát mẻ, gần hoàng hôn, sau khi lui tới xem xét bốn hướng, nó mới vào ẩn chốn hang sâu.
Rồi, buổi sớm mờ sương, nó vươn vai đứng dậy, cất tiếng rống "sư tử hống" làm oai với vạn loài. Mặt đất rung động, núi đồi chao đảo, lá rụng ào ào, chim bay trên không cũng rớt xuống, mọi loài khiếp sợ, run lẩy bẩy...
Tâu đại vương! Đấy là vóc dáng, tập tính và uy lực của loài sư tử chúa vậy.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Đại đức muốn ví với Đức Thế Tôn chăng?
- Đúng vậy. Đức Đạo Sư cũng thuộc giống giòng qúi phái cao sang. Ngài có thân hình khôi vĩ, đẹp và sáng ngời như một cái tháp bạc. Ngài như từ cái động vàng của cõi trời bước ra. Ba mươi hai quí tướng và tám mươi vẻ đẹp còn triệu triệu lần ba la mật vi diệu hơn chúa sư tử súc sanh kia!
Tất cả từ nơi Đức Thế Tôn đều tỏa ra sự vững chắc, kiên định, trầm tĩnh, khoan thai, chừng mực, mềm dẻo, nhu hòa... mà sức mạnh thể chất và tinh thần thì ba giới bốn loài đều phải sợ oai! Khi ngài trú không định, vô tướng định... thì như ở ẩn vào một hang sâu ngoài trái đất; không ai có khả năng tìm ra dấu vết dù ma vương, dù người, trời, các bậc A-la-hán có thần thông tối thượng. Khi ngài trú từ bi định thì làn sóng mát mẻ từ nơi ngài tỏa ra mười phương tám hướng, bao phủ vô biên khắp các cõi. Ai cũng dịu hòa, thơ thới; ai cũng hoan hỷ, thanh lương...
Thỉnh thoảng, ngài cũng vươn vai đứng dậy, cất tiếng "sư tử hống" làm cho sáu mươi hai tà kiến và ma vương run sợ; tâm ba-la-mật, giải thoát ba-la-mật của ngài bao phủ trên vòm trời như chiếc lưới vĩ đại, không có một "kiến" nào được thoát ra, không có một ngụy biện nào không bị vây chặt, không có một cuộc đối đáp nào không bị bặt tiếng! Các bậc thuở đó như:
Purànakassapa, Makkhalìgosàla, Ajitakesakambala, Bakuddhakaccàyana, Sanjayabelatthaputta, Niganthanàtaputta,
nếu không thụt cổ, im hơi thì cũng lý luận trườn uốn; không chơi trò nói xấu sau lưng thì cũng giả vờ xun xoe trước mặt! Khi tiếng sư tử hống của Đức Thế Tôn vang động giữa các hội chúng bà-la-môn, thì sáu mươi hai loại triết học đương thời không còn đứng vững; tan tác xiêu ngã như bị một cơn bão lốc; không bậc gốc thì cũng gãy cành, cụt đọt, lá rụng tơi bời. Trái lại, những người có thiện duyên, túc duyên thì hớn hở ngưỡng mộ, phát tâm trong sạch, quy y chánh pháp, về nương tựa nơi cội bồ đề.
Tâu đại vương! Gọi là oai lực của Đức Thế Tôn cũng được, gọi là dấu chân của Đức Thế Tôn cũng được, mà gọi là sư tử hống cũng được. Tùy. Nhưng rõ ràng, uy lực ấy là vô thượng, dấu chân ấy là vô thượng, mà sư tử hống ấy cũng là vô thượng vậy. Ai còn dám không tin sự hiện hữu của Đức Thế Tôn, hả đại vương?
- Thế là hết ý nghĩa, cùng tận ví dụ rồi, đại đức!
- Tâu, còn nữa. Ví như con sông đại Hằng vào mùa nước lũ, từ đỉnh cao tuyết lãnh ầm ào, cuồng nộ lao qua thác ghềnh, khe, suối; cuốn theo mình nó biết bao nhiêu là gốc cây, cành nhánh lá, rác rều, tổ kiến, tổ ong, lau sậy, tre nứa... về nơi biển cả. Và thế là cọp, beo, trăn, gấu, chồn, thỏ, hươu nai... sợ hãi chạy trốn lên sườn cao. Khi lũ tan, sông lặng; người ta chỉ nhìn dấu rều, dấu cỏ dính trên ngọn cây, là có thể biết cơn lũ bao lớn và biết nước dâng cao mấy chục hắc tay...
Cũng tương tự như thế đó, tâu đại vương! Chỉ nhìn bao nhiêu tà kiến, ngu muội, xấu ác, bợn nhơ, rác rều cấu uế, lau sậy ươn hèn, cành tham, gốc sân, tổ ngã chấp, tổ si mê... theo dòng mà trôi đi...; chỉ nhìn các tà sư, giáo phái chủ, giáo phái sư, tổ sư, chân sư, bùa chú gia, tế tự gia, triết học gia... sợ hãi chạy trốn tan tác chỗ này chỗ kia - là có thể biết cơn lũ chánh pháp vừa đi qua đời này như một dòng chảy đại hồng và vô úy! Khi mà tất thảy đã trôi về đại dương, biển cả sẽ tự làm thanh khiết chính mình, bèn quăng lên bãi tất cả những vật dơ uế, bất tịnh. Còn lại, muôn đời, vẫn là biển pháp trong sạch, thiêng liêng, dành cho tất cả chúng sanh hữu duyên nhỡn nhơ bơi lội, tha hồ rong chơi..!
Đại vương! Biển pháp mênh mông ấy là gì, có lẽ, chúng ta cũng không nên giải thích hoặc ví dụ rườm rà nữa, có phải vậy chăng?
- Vâng, trẫm hiểu rồi! Vốn liếng một lần trẫm tiếp thu từ buổi vấn đáp hôm nay, đủ sức cho trẫm xài mười năm để luận thắng bọn môi mép tà ma! Ngài không cần nói thêm gì nữa. Thâm tạ! Thâm tạ!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:58:41 GMT -5
177. Đầu đà khổ hạnh có ích lợi gì?
Đêm ấy trở về, đức vua Mi-lan-đà không chợp mắt; có những ý nghĩa, những tư tưởng cứ lầm rầm trong đầu: "Kinh đô chánh pháp vĩ đại quá, huy hoàng quá. Chợ bán hoa, chợ bán vật thơm... chợ bán quả... cũng phong phú dường bao? Các vị pháp chủ, quân sư, quan tòa, luật sư đoàn... chẳng khác gì một vương quốc thịnh trị... Ai đến quốc độ ấy cũng tìm cho mình cái hay, cái lạ, cái đẹp... Ồ! mà tội gì lại đi mua hàng đắt quá? Kiếm cái rẻ nhất mà mua, mang về... một thời gian sau là giá trị ngang nhau cả thảy... Ví như có món hàng tam quy, ngũ giới, bố thí... là của người cư sĩ. Mà theo đại đức Na tiên bảo, là cư sĩ cũng có thể đắc quả A-la-hán. Vậy thì cần gì phải bước vào câu lạc bộ của bậc xuất gia? Và cần gì lại mua món hàng mười ba pháp đầu đà khổ hạnh; đã khốn khổ, đã hành thân hoại thể mà kết quả cũng ngang nhau?!"
Từ khi câu hỏi ấy khởi lên, đức vua Mi-lan-đà cứ xốn xang, bứt rứt trong lòng, cứ nóng nảy mong chờ cho trời mau sáng. Thật giống như bò khát nước đến tận cùng, hối hả bước xuống dòng khe. Hoặc như người đói cơm bươn bả đi tìm một củ khoai đỡ dạ. Thảng hoặc, ví như người đi bộ đường xa nắng gắt, mong chờ một chiếc xe ngựa để quá giang. Nếu không như thế thì giống như bệnh nhân nằm liệt giường, chờ thầy thuốc đến cứu. Không như thế thì như kẻ đói cơm rách áo mơ ước có vài xu. Hay như kẻ kia qua sông đang ngóng đợi đò cập bến. Hoặc ví như gã tình si mong gặp người mình yêu. Hoặc như gã thổi kèn cầu cho người nghe tán thưởng. Nếu không như thế thì như người sợ ma dọc đường mong chóng trở về nhà v.v... Vì tất cả cớ ấy, lý do ấy, mà khi trời chưa rạng sáng, đức vua Mi-lan-đà đã hối hả bảo quân hầu thắng kiệu đến ngay chỗ đại đức Na tiên. Các tập tục xã giao nghiêng mình chào hỏi, đức vua cũng chỉ làm cho có lệ. Tuy nhiên, cái đầu óc thông tuệ, suy nghĩ nhanh nhạy của đức vua trước khi cất tiếng hỏi, đã khởi lên một tư duy mười điểm còn nhanh hơn luồng sao xẹt:
Thứ nhất, khi ta hỏi, ngài đáp xong, tất ta sẽ cắt đứt được mối nghi ngờ. Thứ hai, tâm ta sẽ trong sạch, vắng lặng trở lại. Thứ ba, ta sẽ không còn loay hoay với những câu hỏi vô nghĩa lý nữa. Thứ tư, từ sái quấy, tâm ta sẽ chuyển qua cái đúng, cái chánh. Thứ năm, ta sẽ được bơi trong giòng pháp và đắc tuệ nhãn. Thứ sáu, đại đức này sẽ coi ta cũng là kẻ xứng đáng được học Pháp. Thứ bảy, ta sẽ trú trong thiện pháp chẳng có gì ngăn ngại được. Thứ tám, ta sẽ dễ dàng đi vào pháp xuất thế gian. Thứ chín, ta sẽ không còn sợ hãi trong tam giới. Thứ mười, ta sẽ được sáp nhập hội chúng thính pháp mau lẹ, linh mẫn.
Nghĩ thế xong, đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Thưa đại đức! Có một câu hỏi mà trước đây bần tăng đã hỏi, nhưng hôm nay cũng cùng câu hỏi ấy nhưng mục đích hơi lệch sang hướng khác một chút. Mong đại vương hãy nhẫn nại!
- Tâu, vâng, bần tăng sẽ nhẫn nại - tuy nhiên, nếu có câu hỏi cũ mà đại vương chưa thông suốt, bần tăng cũng có thể nói lại một cách vui vẻ, thoải mái, không sao cả!
- Thế thì tốt. Bần tăng hỏi đây, một người tại gia thọ dụng ngũ dục, nằm ngủ với vợ, chen chúc với con cái, trang phục gấm vóc lụa là, trang điểm tràng hoa, xức vật thơm, thỏa thích ngọc vàng, chăn gấm, nệm nhung, uống ăn mỹ vị, cao sang... nhưng nếu họ thực hành chơn chánh bát chánh đạo, họ có đắc được đạo quả chăng?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Đắm say ngũ dục mà thực hành chánh pháp, mong đắc đạo thì làm sao được, đại vương? Đừng nói là nhiều người đắc đạo - mà chỉ một phần trăm, một phần hai trăm, một phần ngàn, thậm chí một phần mười triệu trong số ấy cũng không có đâu, đại vương!
- Ý đại đức nói là cư sĩ có vợ con gia đình, tài sản giàu sang... nếu thực hành chơn chánh cũng không đắc đạo quả sao?
- Ai nói với đại vương như thế?
- Chẳng lẽ...?
- Ồ! Bần tăng nói thế này: người cư sĩ tại gia sống đời ngũ dục, thọ hưởng ngũ dục mà không đắm say ngũ dục... biết tuần tự thứ lớp tu tập từ thấp đến cao, từ ngoài vào trong... thì sẽ đắc đạo quả; không những chỉ có một trăm, hai trăm... mà là hằng ngàn, hằng ức, hằng triệu - tâu đại vương!
- Xin đại đức nói cho rõ hơn về tuần tự, thứ lớp ấy?
- Tâu, vâng. Đắm say ngũ dục mà tu tập không phải là nhân để đạt đạo. Có đời sống ngũ dục mà không đắm say ngũ dục, cọng với sự tuần tự tu tập theo chánh pháp mới là nhân để đạt đạo! Đại vương đã rõ điều này chưa?
- Thưa, rõ!
- Còn tu tập thứ lớp - nghĩa là tuần tự theo thứ lớp mà Đức Phật thường dạy cho người tại gia, ấy là: đức tin, trì giới, nghe pháp, bố thí, thiền định, thiền tuệ... Cọng tất cả điều ấy gọi là nhân; có thực tập nhân ấy, thành tựu nhân ấy thì quả mới thành. Ví như nước mưa rơi xuống tràn hồ, tràn sông, tràn khe, tràn suối, tràn ruộng, tràn mương... tất cả nước tràn ấy, cuối cùng sẽ trôi về biển cả. Cũng vậy, khi các cái gọi là đức tin, trì giới, nghe pháp, bố thí, thiền đình, thiền tuệ... viên mãn rồi... tất nhiên sẽ tuôn chảy về biển giác ngộ... Ví như có người nông phu, ruộng đã cày bừa rồi, vô nước rồi, phân bón rồi, gieo hạt rồi, mạ lên rồi, nhổ cỏ rồi, săn sóc rồi... thì chỉ còn đợi ngày lúa chín, gặt hái, phơi khô cất vào bồ mà thôi! Chính tuần tự thứ lớp, qua các công đoạn tu tập - là nhân tố đưa người ấy đến thành công.
Ví như một người đếm số, ban đầu đếm chậm, sau đếm nhanh, rồi sẽ trở thành bậc thầy đếm số. Ví như một người học toán, ban đầu tập cọng trừ nhân chia, lần hồi tính ra được lúa gạo trồng trong một đòn gánh, mười đòn gánh, trăm đòn gánh...
Cũng như thế, tu tập lần lần, đức tin sẽ tăng trưởng, trì giới sẽ tốt hơn, nghe pháp chăm chuyên hơn, bố thí nhẹ nhàng hơn, thiền định kiên cố hơn, thiền tuệ sáng suốt hơn. Gom tất cả chúng lại, làm sao mà không đạt đạo được hở đại vương?!
- Trẫm hiểu rồi. Mà đạt đạo có nhiều thật không đại đức?
- Vô lượng số!
- Thật ư?
- Tâu, cận sự nam nữ thành Sàvatthi đắc A-na-hàm đạo, A-na-hàm quả, bần tăng nhớ không lầm là ba ức, năm vạn và bảy ngàn; tâu đại vương!
- Kinh khủng!
- Khi Đức Thế Tôn hóa phép lạ, khi thuyết về kinh giáo giới La hầu la, khi thuyết về kinh đại hạnh phúc... chư thiên đắc quả không đếm xiết được, tâu đại vương!
- Khiếp!
- Khi Đức Tôn sư thuyết pháp ở xứ Nàlykàya, thuyết nơi bảo tháp Pàsànakacetiya, thuyết pháp nhân người xâu tràng hoa cúng dường... thì cả thảy chư thiên và người tại gia cư sĩ thoát khổ hoặc đắc pháp cao siêu, thắng nghĩa pháp... cũng đến con số... bất khả tư nghì - tâu đại vương!
- Trẫm hiểu rồi!
- Đừng nghĩ chư thiên ấy là bậc xuất gia! Họ tại gia cả đấy, họ sống trong vinh hoa và ngồi trên ngũ dục cả đấy, tâu đại vương!
- Vâng!
- Đừng nghĩ người tại gia ấy không có ngũ dục. Rất nhiều người trong bọn họ búi tóc bằng ngọc tía, đeo cổ tay cổ chân bằng bạc, bằng vàng, vợ con thê thiếp có đủ, xa hoa lộng lẫy có đủ, y phục vua trời có đủ. Chỉ có điều họ sử dụng, họ thọ hưởng ngũ dục không như ruồi kiến chết trong hũ mật, không như đồng tiền của gã trọc phú cho vay nặng lãi, không như kẻ đói cơm vét nạo cả mảng cháy, tâu đại vương!
Nghe đến ngang đây, đức vua Mi-lan-đà mới tủm tỉm cười rồi bắt đầu phản công:
- Thưa đại đức! Ở nhà có vợ nâng khăn sửa túi, có con cái hầu cơm hầu nước, có nệm ấm chăn êm lúc đông giá, có lầu cao hóng mát lúc hanh hè, có bạc tiền rủng rỉnh cho kẻ ăn người ở, có võng kiệu, xe pháo lui tới đỡ mỏi chân, có thức ăn ngon vừa dạ, vừa khẩu, có bạc vàng trang điểm lấp loáng cao sang, có hoa thơm hương nồng phảng phất bên gối...! Có cái là đừng đắm quá mà thôi. Có cái là đừng tà mạng, trược hạnh mà thôi. Có cái là đừng gian trá độc ác thì thôi. Có cái là đừng vọng ngôn loạn ngữ mà thôi. Có cái là đừng rượu chè be bét mà thôi. Có cái là đừng trộm cắp, gian xảo thì thôi. Có cái là đừng cắt cổ cho mượn một lấy mười v.v... Thế là có thể tu hành mà thành Thánh quả. Còn hơn các vị tu hành cực khổ, nhất là các vị tu mười ba pháp đầu đà khổ hạnh, thật là tội nghiệp. Khỏi kể ra đây mười ba pháp đầu đà, nhưng đại khái là cuộc sống của họ còn tệ hơn một kẻ nghèo nàn nhất trên trần thế, chẳng có một nhu cầu tối thiểu. Sao các vị ấy mang nghiệp chi mà nặng thế, đại đức?
- Đại vương cứ nói tiếp đi!
- Vâng, bệnh rất nhẹ, chữa sơ sơ cũng lành, cần gì bôn ba đi tìm thầy thuốc trứ danh? Giết con muỗi thì hơi đâu mà sắm sửa cung tên? Chặt củ khoai thì hơi đâu tìm kiếm bảo đao? Làm chuồng cho heo ở thì cần gì đi kiếm loại danh mộc? Qua mương nước vài ba sải mà đòi sắm chiếc hải dương thuyền? Múc nước trong hủ mà đòi sắm cái gàu tát ruộng? Vật thực, y phục, nhà cửa của mình vứt đi mà lại đi xin ăn từng muỗng, lượm vải tử thi mà mặc, ngồi dưới cội cây mà nghỉ?
Thưa đại đức! Đấy là việc làm lạ đời khó hiểu của những ông sa môn thọ mười ba pháp đầu đà! Họ dại, họ ngu, họ si, hay làm như thế để chứng tỏ mình tu hành ghê gớm, khiếp đảm?
- Quả thật là bản án của một vị quan tòa. Luận cứ đưa ra của đại vương thật là đanh thép, hùng hồn. Tuy nhiên, nếu đại vương nhận ra công năng diệu dụng của mười ba pháp đầu đà thì có lẽ đại vương không nói thế nữa.
Tại gia tu hành chơn chính cũng đạt đạo, đạt đạo rất nhiều là khác. Nhưng một vị sa môn, một tỳ khưu thọ mười ba pháp đầu đà là đã gần kề bên Niết bàn, lại còn lợi ích cho chúng sanh không kể xiết nữa, tâu đại vương! Chính sự lợi ích cho chúng sanh, nêu gương cho chúng sanh - thì một trăm cư sĩ đạt đạo, ngàn cư sĩ đạt đạo - cũng không bằng một tỳ khưu hành mười ba pháp đầu đà đắc đạo đâu, tâu đại vương!
- Xin đại đức cứ tiếp tục.
- Bây giờ đại vương thử lắng nghe hai mươi tám đức tính cao thượng, siêu việt của mười ba pháp đầu đà khổ hạnh:
Thứ nhất là, nuôi mạng trong sạch. Hai là, an lạc quả, hạnh phúc quả. Ba là sống đời vô tội. Thứ tư, giảm nỗi khổ cho người khác. Thứ năm, không sợ hãi.
Thứ sáu, không tổn hại ai. Bảy là, lộ trình tiến hóa. Tám là, xa lìa điệu bộ hợm hĩnh, khoe khoang. Thứ chín, xa lìa say mê. Thứ mười, hộ trì, giữ gìn mình.
Mười một, mọi người thương tưởng. Mười hai, giáo hóa mình. Mười ba, buông dao, buông trượng. Mười bốn, rèn luyện sự thu thúc. Mười lăm, thực hành (mục đích) đúng đắn, thuận lợi.
Mười sáu, làm cho mình vắng lặng. Mười bảy, làm cho mình thoát khỏi phiền não. Mười tám, dứt sự luyến ái. Mười chín, giảm trừ sân hận. Hai mươi, tháo gỡ si mê.
Hai mươi mốt, tiêu diệt ngã chấp. Hai mươi hai, cắt đứt tư duy xấu xa. Hai mươi ba, vượt hoài nghi. Hai mươi bốn, trừ lười biếng. Hai mươi lăm, tương tư không có chỗ nương.
Hai mươi sáu, hành nhẫn nại. Hai mươi bảy, đức tính độ lượng vô giới hạn. Hai mươi tám, diệt tận khổ đau.
Nếu không có hai mươi tám đức tính như thế thì có thể là mười tám đức tính sau đây:
Một là, hạnh kiểm thuần khiết. Hai là, thực hành hoàn thiện hạnh kiểm. Ba là, giữ gìn, bảo vệ thân khẩu. Bốn là, tâm trong sạch. Năm, bám chặt được sự tinh tấn.
Sáu, dứt trừ lo sợ. Bảy, dứt trừ ngã kiến. Tám, dứt trừ kết oán. Chín, trú vững trong tâm từ. Mười, nhận lãnh vật thực sao cũng được
Mười một, có tâm thương tưởng, bình đẳng và tôn trọng tất cả mọi người. Mười hai, biết tiết độ trong vật thực. Mười ba, hằng thức tỉnh. Mười bốn, không lưu luyến chỗ ở. Mười lăm, trú chỗ nào cũng an lạc.
Mười sáu, người ghét điều ác. Mười bảy, mến thích nơi thanh vắng. Mười tám, không dễ duôi, buông xuôi.
Đại vương! Ngài đừng tưởng ai cũng có thể thực hành mười ba pháp đầu đà được. Họ phải có những đức tính sau đây:
Thứ nhất, có đức tin. Thứ hai, có tàm, quý. Thứ ba, người mạnh khỏe (không bệnh hoạn, tàn tật). Thứ tư, thuần thục trong việc tìm kiếm chân lợi ích. Thứ năm, là người có nhiệt tình, chín chắn.
Thứ sáu, có trí tuệ. Thứ bảy, ham thích học hỏi, có kiến thức. Thứ tám, thọ trì kiên định. Thứ chín, ít tìm lỗi người khác. Thứ mười, trú tâm từ.
Người có đủ mười đức tính ấy mới xứng đáng thọ mười ba pháp đầu đà khổ hạnh.
Người tại gia là kẻ thỏa thích và dính mắc trong ngũ dục thì khó mà thực hành chánh pháp để đắc đạo quả. Tuy nhiên, có những cư sĩ tại gia vẫn sống đời ngũ dục mà họ tu tập cũng đắc quả, là do nhờ nhiều kiếp về trước họ có tu hạnh đầu đà rồi. Chính nhờ có tu hạnh đầu đà rồi nên trong tâm họ đã thành tựu ít nhiều những phẩm chất cao đẹp - nên kiếp này, họ không cần phải thọ đầu đà nữa; chỉ nhờ nghe pháp, thực hành pháp họ có thể đắc đạo quả được. Họ chỉ tiếp tục làm lại công việc trước đây, thành tựu các công đoạn đang còn dang dỡ đấy thôi, tâu đại vương!
- Vâng, trẫm đang nghe.
- Ví như một người bắn cung thiện xảo, trổ tài trước đức vua; và được đức vua ban thưởng trọng hậu như voi ngựa, tôi trai, tớ gái, thê thiếp... cùng rất nhiều của cải, tài sản v.v... Người bắn cung kia có phải là một sớm một chiều mà có được tài nghệ như thế đâu? Hẳn phải trải qua nhiều thời gian, nhiều năm công phu khổ luyện, phải không đại vương? Ví dụ ấy như thế nào thì người cư sĩ kia cũng y như thế! Người cư sĩ ấy bây giờ được phần thưởng cao quý là đạo quả Thánh nhân, là do nhờ y cũng đã từng công phu khổ hạnh mười ba pháp đầu đà dài lâu từ nhiều kiếp trước. Vậy đại vương đừng đặt những câu hỏi mà chưa tra vấn rõ nguồn căn, chưa hiểu rõ về nhân về quả như thế!
- Thưa vâng!
- Một vị thầy thuốc nổi tiếng, được mọi người kính trọng, yêu mến; cái tài ấy tỏa ra cái đức ấy, không phải bỗng dưng mà ông ta có được. Chẳng rõ là đã bao năm bao tháng trước đây, ông ta đã tìm học thầy này, thầy kia; tự mình tìm tòi, tra vấn, học hỏi, nghiên cứu... phải vậy không đại vương?
- Thưa, vâng!
- Buổi sớm, đại vương ra vườn, thanh thản dạo chơi, thấy trái ngọt đầu cành bèn hái ăn. Mọi người trầm trồ nói đức vua có phước, có trái ăn ngay vừa lòng mát dạ! Cái phước ấy không phải tự nó có, trái cây ngon ngọt kia chẳng phải nó bỗng dưng sanh ra! Hẳn là nhiều năm trước đây đại vương đã khởi ý trồng loại cây này, bèn giao cho người làm vườn, tìm giống, ươm hạt, chăm sóc, phân bón, tưới nước v.v... Nhờ khổ lao ấy, trái ngọt mới thành, phải không đại vương?
- Thưa, vâng!
- Trên đời này bất kỳ một thành tựu to lớn nào cũng đều phải được trả giá đánh đổi đầu óc, công phu và thời gian. Chẳng có đầu óc, công phu và thời gian, lẽ nào người cư sĩ tại gia kia lại đạt đạo quả cao siêu phải không đại vương?
- Thưa vâng!
- Theo bần tăng hiểu, người cư sĩ ấy trước đây đã thọ mười ba pháp đầu đà, đã đắc được quả vị Tu đà huờn; khi từ giã cõi đời, tử tâm cuối cùng hướng về thiện đạo nên được sanh làm người giàu sang. Phước báu ấy người kia vẫn thọ hưởng, nhưng tâm bậc thánh đã vào dòng rồi, thì đôi khi chỉ nghe một câu kệ là có thể diệt tận lậu hoặc; đâu cần gì tu tập cho nhiều, công phu cho lắm hở đại vương!
- Ồ! Thế thì trẫm đã vỡ mọi lẽ rồi!
- Nói về công năng, diệu dụng của mười ba pháp đầu đà thì không sao kể xiết được, tâu đại vương! Ngài có muốn nghe thêm chăng?
- Vâng, trẫm rất muốn. Trẫm muốn trang bị cho mình những kiến thức ấy, khả dĩ rửa sạch bụi bặm cho mình và cho người khác.
- Thiện tai! Vậy thì trẫm sẽ nói đây.
Mười ba pháp đầu đà này, trước hết, được ví như đất, vì đất là nơi nương tựa của mọi loài. Pháp đầu đà là nơi nương tựa, sanh trưởng của mọi thiện pháp.
Nó được ví như nước, bởi nước rửa sạch bụi bặm, dơ dáy - pháp đầu đà rửa sạch trần cấu, ác uế.
Nó được ví như lửa đốt cháy mọi vật - pháp đầu đà thiêu hủy phiền não.
Ví như gió, thổi quạt đi tất cả mọi khí, mọi mùi; Pháp đầu đà cũng thế, nó thổi quạt đi tất cả khí vị trần gian, dù thanh hay trược, dù thơm hay thối!
Nó được ví như thuốc để chữa bệnh - pháp đầu đà đối trị tất cả tâm bệnh của tất cả con người.
Ví như nước trường sanh - pháp đầu đà cho mọi người nếm thưởng nước cam lồ bất tử.
Nó được ví như ruộng, sinh lúa gạo - pháp đầu đà là ruộng phước cho chư thiên và loài người.
Nó được ví như ngọc như ý, thành tựu ước nguyện - pháp đầu đà cũng thành tựu ba cõi người, trời và Niết bàn như ý nguyện.
Nó được ví như thuyền to vượt qua biển lớn - thì pháp đầu đà cũng là chiếc thuyền kiên cố để vượt qua đại dương sinh tử ái hà.
Ví như có một nơi chốn an vui, thoát khỏi mọi sợ hãi - pháp đầu đà cũng là chỗ nương tựa, thoát khỏi mọi sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.
Ví như người mẹ hằng nuôi dưỡng và bảo vệ con thoát khỏi mọi điều rủi ro, tai hại - pháp đầu đà cũng hằng nuôi dưỡng và bảo vệ chúng sanh y như thế.
Pháp đầu đà cũng có thể được ví như người cha, là nguyên nhân sanh con - pháp đầu đà cũng là người cha, nguyên nhân để sanh sa môn quả.
Nó được ví như người bạn tốt hằng giúp đỡ ta thành công trên đường đời - pháp đầu đà là người bạn lành giúp đỡ ta trên đường tiến hóa.
Ví như hoa sen không dính nước - pháp đầu đà cũng không dính nước ái dục và si mê.
Ví như những vật thơm có thể tẩy uế - pháp đầu đà cũng tẩy sạch những uế trược.
Nó được ví như Tu di sơn không bị lay động bởi bão, gió - pháp đầu đà cũng không hề lay động bởi tám ngọn gió thế gian.
Ví như hư không rộng rãi thênh thang không cùng tột - pháp đầu đà cũng mênh mông không mé bờ. Hư không không có kẻ thù và ai đến quấy rối thì pháp đầu đà cũng y như thế.
Ví như con sông lớn chở bao nhiêu rác rều đất cát về biển cả - pháp đầu đà cũng cuốn trôi tất thảy xấu ác, bợn nhơ, trần uế...
Ví như người dẫn đường cho kẻ bộ hành khỏi lầm đường, lạc nẻo - pháp đầu đà cũng dẫn đường cho hành giả khỏi rơi và các mê lộ, tà kiến.
Ví như người lái buôn chở hàng hóa đến nơi thị tứ - pháp đầu đà cũng chuyên chở chúng sanh đến cõi niềm an vui.
Ví như mặt trăng có ánh sáng mát dịu - pháp đầu đà cũng mát mẻ thanh lương và tẩm dịu lòng người.
Ví như mặt trời, hằng xuyên thủng mây mù, pháp đầu đà cũng xuyên phá hôn ám, vô minh.
Ngoài ra, pháp đầu đà còn:
Làm thành tựu tư cách; Là nơi thương yêu của mọi người; Nơi không có tội lỗi; Nơi viên mãn đức lành; Nơi của những trạng thái tâm cao thượng; Dứt trừ ưu sầu, nóng nảy, rối rắm; Chận đường tái sanh v.v... Như nước tưới thấm mầm cây; Như lửa để nấu nướng đồ ăn; Như là hầm tài sản của mọi người; Như được thân cận bạn lành, người dũng cảm; Như người hầu hạ mong được quan tước; Như nơi dạy học trò học nghệ; Như cái kiếng để soi mặt; Như y phục để mặc; Như rương hòm cất đồ đạc; Như đèn đốt ban đêm; Như vương lệnh ban hành ngăn phạm luật; Nơi thành tựu sa môn quả; Nơi thành tựu lục thông; Đạt kết quả mau lẹ; Ngăn ngừa giới phạm.
Tâu đại vương, lợi ích, diệu dụng, đức tính, công năng của mười ba pháp đầu đà cao thượng và phong phú như thế, nên những hạng người sau đây không thể thực hành được:
Một là, người có tâm ganh tỵ. Hai là, người giả dối. Ba là, người tham muốn thấp hèn. Bốn là, người chỉ nghĩ đến miệng và bụng. Năm là, người ham lợi lộc. Sáu là, người cầu danh. Bảy là, người ham vinh dự.
Bảy hạng người ấy không thể thọ đầu đà mười ba pháp, nếu có thì cũng làm cho sự thọ trì ấy bị hư hỏng; họ sẽ bị mọi người khinh bỉ, chê bai, giễu cợt, ruồng bỏ, lánh xa v.v... Trong hiện tại thì như thế, còn vị lai thì sẽ phải chịu nhiều quả báo đau khổ, bị lửa địa ngục thiêu đốt, lửa cháy phần trên và phần dưới. Hết địa ngục họ sanh làm ngạ quỷ có thân hình to lớn, có sắc thân xấu xí, hôi hám; thân chỉ là cái lỗ trống rỗng, tai thòng xuống, chịu đói khát triền miên, chịu khổ vô cùng tận; bị lửa phụt từ trong thân ra đằng miệng, có da bọc xương, bị dòi đục khóet v.v...
Nói tóm là người thiếu phước, thiếu căn duyên, có nghiệp nặng, có kiếp sống thấp hèn, hạ liệt không thể thọ mười ba pháp đầu đà được; như kẻ lên làm vua mà thiếu đức, thiếu phước sẽ tự rước khổ vào mình. Chỉ có những vị tỳ khưu tri túc, tinh tấn, siêng năng, không bộ điệu, có đức tin... có chí nguyện xa lìa sinh tử - mới thọ trì được.
Quả thật, pháp đầu đà như thuốc dành cho người bệnh, như hoa thơm, như ngọc như ý, như ngai vàng và bảo cái của đức vua... Người thực hành mười ba pháp đầu đà trước sau cũng sẽ đắc thắng trí thần thông hoặc Niết bàn an lạc, tâu đại vương!
Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà nói:
- Trẫm cảm thấy choáng ngợp trước lợi ích quá to lớn, kỳ vĩ và nhiều đến vô lượng như thế.
- Dĩ nhiên rồi! Vì đấy là sự mến yêu, là sở thích, là lộ trình của chư Phật, và cũng là cõi về của chư vị Thánh nhân. Ai cũng phải đi qua lộ trình ấy, đã từng thực hành pháp ấy nên mọi công phu, công hạnh dễ dàng được trổ quả. Họ dễ dàng nhập định, dễ dàng an trú lạc mãn, hỷ mãn, dễ dàng chứng đắc các pháp cao siêu.
Ví như một thửa ruộng đã cày bừa sẵn, phân nước đầy đủ, bây giờ chỉ vãi lúa là hạt nảy mầm thành đám ruộng xanh tốt. Các vị đã thực hành đầu đà kiếp trước rồi, kiếp này cũng dễ viên toàn công hạnh như thế.
Ví như vị thái tử lên ngôi vua, nhờ vương vị ấy do vua cha đã dày công hãn mã gầy dựng nên, lại còn do phước phần mà vị thái tử ấy đã tạo trong kiếp trước. Các vị trưởng tử của Đức Phật được thừa hưởng pháp bảo của Đức Tôn Sư, nhưng cũng chính là do nhờ các ngài đã công phu khổ hạnh đầu đà nhiều kiếp. Cho hay, đầu đà mười ba pháp kia là nguyên nhân cần thiết, tất yếu cho mọi thành tựu quả vị tâu đại vương!
- Thưa vâng!
- Đức Phật cũng thường tán dương những vị tỳ khưu tinh tấn thọ đầu đà. Đức pháp chủ Xá-lợi-phất là bậc tối thượng Thinh văn cũng thọ trì mười ba pháp đầu đà, nên đã thành tựu vô lượng trí tuệ, vô lượng đức tính quý báu - mà ngoài Đức Thế Tôn ra, không ai sánh bằng, tâu đại vương!
- Vâng, quả là lợi ích tối thượng - đức vua Mi-lan-đà nói - Trẫm xin rút lại lời nói ban đầu, đại đức nhé!
|
|
|
Post by TCTV on Apr 26, 2022 19:59:39 GMT -5
NHỮNG CÂU HỎI VỀ VÍ DỤ
- Thưa đại đức! một vị tỳ khưu muốn chứng đắc A-la-hán, cần phải thành tựu mấy điều kiện?
- Nhiều lắm, tâu đại vương. Muốn tỏ ngộ Niết bàn, vị tỳ khưu ấy phải cần bắt chước:
Những tập tính của con lừa, Những tập tính của con gà, Những tập tính của con sóc, Tập tính của cọp cái, Tập tính của cọp đực, Tập tính của con rùa, Như cây kèn, Như cây súng, Như con quạ, Như con khỉ v.v...
* * *
178. Về con lừa
- Ý nói tập tính như con lừa, là thế nào hả đại đức?
- Tâu, nghĩa là vị tỳ khưu phải tập theo, phải sống theo một điểm, một điều, một chi đặc biệt của con lừa. Con lừa không bao giờ kén chọn chỗ nằm. Nó có thể nằm nơi đống rác, nơi ngã tư đường, nơi pháp trường, nơi cửa nhà hoặc nơi đống trấu, hay bất kỳ đâu cũng được cả. Nhưng lừa thường không nằm lâu quá, nằm nhiều quá, nó đứng dậy rồi đi sang chỗ khác. Vị tỳ khưu sống đời tri túc, không dính mắc chỗ ở, đừng quan trọng hóa cái thân, không ở lâu một nơi, ngủ nghỉ chút ít cũng y như thế. Nằm trên lớp cỏ, nằm trên cây trải ra, trên giường ghế hoặc trên đống lá... Nghĩa là ở đâu cũng được, ở đâu cũng vô ngại. Điều quan trọng là đừng ngủ nghỉ quá lâu, quá nhiều, thường thức tỉnh để đi kinh hành, thiền tọa hoặc dời sang trú xứ khác.
Đức Phật có dạy rằng: "Nay các thầy! Các thầy hãy coi thân này như khúc cây, như khúc củi, để ở đâu cũng đặng, đặt ở đâu cũng được, nằm ở đâu cũng xong; nhưng các thầy phải cố gắng tu tập chỉ tịnh, quán minh. Ấy mới thật là chỗ nằm, chỗ nghỉ của các thầy đấy".
Đức Pháp chủ Xá-lợi-phất cũng dạy, là các vị tỳ khưu ở đâu cũng phải tọa thiền, phải biết xa lìa niềm vui hời hợt, phù phiếm; phải biết quên cái thân đi vì hạnh phúc tối thượng là Niết bàn.
Tâu đại vương! Một điểm, một điều, một chi của con lừa là như thế ấy!
- Thưa, vâng.
* * *
179. Về con gà
- Thế như con gà là sao ạ?
- Con gà có những năm điểm, năm điều, năm chi đặc biệt, tâu đại vương.
- Xin cho nghe
- Vâng, đại vương hãy nghe đây:
Suốt đêm gà luôn luôn tỉnh thức, chỉ một tiếng động nhẹ là nó biết ngay. Trời còn mờ mờ sáng, gà không bước ra khỏi chuồng. Một vị tỳ khưu cũng cần phải tỉnh thức như thế. Trời còn sớm không nên ôm bát khất thực ra khỏi chùa, phải lo các công việc quét liêu thất, vườn, chùa, bảo tháp v.v... Rồi còn làm vệ sinh, múc nước đầy chỗ này chỗ kia, tìm đảnh lễ thầy tổ hoặc các vị tỳ khưu cao hạ...
Điểm thứ hai của gà là trời sáng rõ đường mới xuống chuồng đi kiếm ăn, nó lang thang từ chỗ này sang chỗ khác. Một vị tỳ khưu cũng nên như thế, sau công việc ở chùa xong mới đi trì bình khất thực; cũng lang thang từ nhà này sang nhà nọ, từ con đường này sang con đường khác. Gà tuy kiếm miếng ăn nhưng luôn luôn đề phòng kẻ thù tấn công như chồn, cáo, diều hâu v.v.. Vị tỳ khưu cũng y như vậy, dầu khất thực xin ăn nhưng cũng phải cảnh giác đề phòng tâm hươu ý vượn, phải thu thúc thân khẩu ý v.v...
Điểm thứ ba, khi ăn vật thực, gà rất chăm chú, rất cảnh giác. Nó lấy chân khều vật thực, bươi vật thực ra rồi mới ăn; ngon cũng ăn, dở cũng ăn, nhưng chỗ này một chút, chỗ kia một chút. Vị tỳ khưu cũng như thế nào có khác gì? Khi ăn cũng phải chánh niệm, tỉnh giác. Ngon cũng ăn mà dở cũng ăn. Vật thực kiếm được chỗ này một ít, chỗ kia một ít. Khi ăn cũng phải "khều" phải "bươi" vật thực ra mà quán tưởng: "vật thực này có gì đâu, nó là đất, nước, lửa, gió đấy thôi; thích thú mà làm gì, thỏa mãn mà làm gì! Ta ăn là để duy trì sức khỏe và sự sống mà tu hành; chẳng nên ăn để trang điểm cái thân, dưỡng cái thân cho mập mạp; chẳng nên ăn để mà chơi, để nô đùa, lêu lỗng... Ăn để giảm trừ thọ khổ do đói gây nên, để khỏi ảnh hưởng đến việc tu tập..." Đức Phật còn dạy các vị tỳ khưu, ăn chỉ là chuyện bất đắc dĩ: "Này các thầy! Các thầy còn phải quán tưởng sự ăn, như là ăn thịt con mình trên lộ trình qua sa mạc, chẳng sung sướng, khoái khẩu gì đâu. Rơi nước mắt xót thương cho chúng sanh là khác. Miếng ăn cũng tương tự như tra dầu và mở vào trục xe, giúp cho chiếc xe có trớn mà lên đường. Cũng vậy, các thầy chỉ nên coi sự ăn là tra dầu và mở cho chiếc xe trên lộ trình vượt qua sinh tử mà thôi!"
Điểm thứ tư, ban đêm gà mắt mờ nhưng ban ngày mắt gà rất sáng, rất tỏ tường cả cây kim, sợi chỉ. Chạng vạng tối, khi gà lên chuồng là mắt mờ hẳn, dường như đui hẳn. Các vị tỳ khưu cũng nên mượn con mắt sáng của gà trong ban ngày, mượn con mắt đui của gà ban đêm. Khi trì bình khất thực trong xóm làng, vào thành phố... tâm các thầy rất tỉnh thức, mắt các thầy rất sáng nhưng cũng phải làm như đui, không thấy, không biết gì hết. Khi giao tiếp với ngũ trần: sắc tướng, âm thanh, khí, vị v.v... các vị tỳ khưu giả đui, giả điếc, giả câm v.v...
Thật đúng như Đức Đại Ca-chiên-diên (Màhà Kaccàyana) đã dạy: "Hành giả tu tập, có con mắt sáng cũng làm như mờ, có lỗ tai tốt cũng làm như điếc, có miệng lưỡi thiện thuyết cũng làm như câm; có sức mạnh, dũng cảm cũng nên làm như kẻ yếu đuối ; có sự việc gì xẩy ra thì thân tâm đều nằm ngủ yên lặng, như mẹ ru con ngủ vậy."
Điểm cuối cùng. Dù ai lấy cây, lấy gậy xua đuổi gà đừng cho ngủ trong cái chuồng của nó, nó vẫn không đi, không bao giờ muốn bỏ cái chuồng cũ. Bám chặt, dính chặt vào chuồng cũ là một tập quán tính khác của gà. Một vị tỳ khưu khi làm bất cứ một công việc gì cũng phải bám chặt, kết dính, chú tâm vào công việc ấy. Khi đang mang y, bát hoặc sửa sang tu viện, tự viện, học Pàli, học chú giải... cũng phải nhất tâm bám chặt vào đấy, dù cho các ý niệm nổi trôi, dù cho những sự quyến rủ bên ngoài muốn xua đuổi rời khỏi công việc, cũng không đi!
Đúng như Đức Phật đã dạy: "Nầy các thầy! Bất cứ cái gì là "lộ hành", là chỗ ở, là cảnh giới của thầy tỳ khưu; "lộ hành" ấy, chỗ ở ấy, cảnh giới ấy, tức tứ niệm xứ - dù ai đuổi, ai xua, ai quăng cục đất, cục đá; các thầy cũng cương quyết không bỏ đi, kiên định bám vào chỗ trú xứ của mình."
Đức pháp chủ thượng thủ cũng có dạy: "Con gà hằng biết rõ vật đáng ăn và vật không đáng ăn; dù hoàn cảnh nào cũng không bỏ cái chuồng cũ của mình. Phàm những người con của đức Xuất thế-sư cũng phải làm được như thế. Phải tuân thủ theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn để biết việc này đáng làm, việc kia không đáng làm. Phải khởi tâm, phải chú ý, phải bám chặt chỗ trú xứ cũ của mình, ấy là Tứ niệm xứ vậy."
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật tuyệt vời thay là con gà này cùng với năm đức tính của nó. Tập tính mà biến thành phẩm chất cao quý thì chỉ có ở nơi những bậc thầy thông tuệ mà thôi!
* * *
180. Về con sóc
- Con sóc thì chỉ có một điểm, một điều, một chi cần phải học hỏi thôi, tâu đại vương!
- Phải cái đuôi của nó không?
- Hay lắm! Đại vương thật tinh mắt. Cái đuôi của sóc thật đặc biệt. Khi thấy kẻ thù, kẻ nghịch, kẻ lạ đến... sóc thường phồng cái đuôi của mình lên để hăm dọa hoặc chống cự lại! Cũng tương tự thế, các vị tỳ khưu khi gặp ngoại trần hung dữ, cường liệt, rất mạnh - cũng phồng cái đuôi Tứ niệm xứ của mình cho to lên để chiến đấu chống chọi lại.
Đúng như lời dạy của đại đức Cullapanthaka. "Khi nào phiền não là kẻ thù xâm lăng, loại trừ, họa hại các sa môn quả, đến gần, chư tỳ khưu phải dùng Tứ niệm xứ mà đương cự lại."
* * *
181. Về con cọp cái
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Bây giờ đến lượt con cọp cái nhé, đại vương?
- Cọp cái này cũng chỉ có một điểm cần phải nghiên cứu thôi, phải không đại đức?
- Vâng! Con cọp cái thường chỉ mang thai một lần, không mang thai lần thứ hai! Vị tỳ khưu hành sa môn quả cũng tương tự thế, nghĩa là không còn muốn vào một thai bào nào nữa, không còn muốn tái sinh vào cõi luân hồi thống khổ một lần khác nữa; phải chấm dứt tái sanh, cấu sanh. Đúng như Phật ngôn mà Đức Đạo sư đã thuyết: "Bò chúa Usabha đã vùng đứt dây thừng buộc cổ để trốn thoát, không bao giờ nó qua lại chỗ ấy nữa. Cũng vậy, các ngươi đã cố gắng đoạn lìa dây buộc phiền não rồi thì đừng nên trở lại cõi luân hồi tái sanh thống khổ làm gì!"
* * *
182. Về con cọp đực
-Tâu đại vương! Con cọp đực thì có hai tập tính!
- Vâng, xin đại đức giảng cho nghe!
- Thứ nhất, cọp đực thường tìm chỗ nương trú nơi động thẳm, hang sâu, chỗ núi rừng, suối khe thanh vắng! Cũng vậy, bậc hành giả sống đời khổ hạnh, khước từ, cũng phải biết tìm chỗ vắng lặng, xa chỗ loài người, như núi rừng, tha ma mộ địa, sơn động, cốc đạo... để tu tập, bổ túc công hạnh cho mình. Đúng như các vị kết tập kinh điển có dạy rằng: "Loài cọp đực thường ở chỗ kín đáo, kiếm vật thực sinh sống ở chỗ vắng lặng; cũng vậy, chư Phật tử phải biết xa phố chợ ồn ào, xa chỗ thị phi huyên náo, tìm chỗ thanh tịnh để siêng tu thiền định và minh sát tuệ".
Thứ hai, loài cọp đực có một tính kỳ lạ, là khi chụp mồi, nếu con thú ngã xuống bên trái hay bị sứt tai trái - thì nó bỏ đi, không thèm xơi! Cũng tương tự thế, các vị sa môn yêu mến chánh pháp, mong được đạo quả vô thượng - không bao giờ thọ dụng tứ sự được phát sanh trái lẽ, không chính đáng, phát sanh do tà mạng và tà hạnh! Nếu cái gì có được do trái pháp, trái đạo - các vị sa môn cũng bỏ đi, không thèm thọ dụng! Đúng như đấng đệ nhất trưởng tử của Đức Thế Tôn đã thuyết: "Tôi biết tôi dùng loại cơm sữa kia là tôi sẽ lành bệnh, nhưng tôi không thể dùng, tại sao? Vì cơm sữa ấy được phát sanh do khẩu cử động có tội, tức thuộc tà mạng! Tôi thà chịu chấp nhận đứt ruột hoặc lòi ruột ra ngoài, chấp nhận hy sinh thân mạng - chứ không thể làm cho hư hỏng chánh mạng để các bậc trí giả chê trách!"
Đại đức Upasena cũng nói tương tự thế: "Tôi thà bể ruột mà chết, chứ không thể kiếm ăn thấp thỏi, trái lẽ, tà mạng làm cho chánh mạng bị hủy hoại!"
* * *
183. Về con rùa nước
- Thưa đại đức! Về con rùa nước thì có bao nhiều điều cần phải học hỏi?
- Học hỏi rùa thì có năm điều, tâu đại vương.
Thứ nhất: Thế giới của rùa ở trong nước, là nơi mát mẻ. Bậc hành giả cũng thế, nên ở trong cõi từ bi trú, là cõi mát mẻ an lành; và nên rải tâm từ ấy đến cho tất cả chúng sanh, không được thù hại ai, không gây oan trái, oán độc với ai.
Thứ hai: Rùa ở trong nước, chìm trong nước, thỉnh thoảng ló đầu lên khỏi mặt nước; nếu thấy có gì nguy hiểm thì rùa cảnh giác, lặn xuống ngay. Vị tỳ khưu tu tập cũng hằng như thế, khi thấy phiền não đến thì phải tức khắc lặn vào trong thiền cảnh của mình.
Thứ ba: Khi rùa lên khỏi mặt nước, nếu thấy không có người hoặc thú thì rùa nằm phơi mình trên bãi một cách an toàn. Tương tự thế, vị tỳ khưu tu tập chánh niệm chỗ yên tịnh, thanh vắng; khi cảm thấy an toàn không sợ ngoại trần quấy nhiễu, có thể đem tâm ra khỏi các oai nghi, nghỉ ngơi chút ít nhưng mà cũng phải thường trực tỉnh giác.
Thứ tư: Rùa thường đào lỗ trong bùn, trong đất, hoặc trong các kẹt đá để ở; là vì chỗ ấy không có ai quấy nhiễu, xâm hại. Bậc sa môn hành Tứ niệm xứ cũng y như thế, phải trốn khỏi lợi lộc, tiếng khen của thế gian... vào ẩn trong hang sâu, động vắng thì khỏi sợ nguy hiểm. Đúng như đại đức Upasena đã thuyết: "Bậc xuất gia phạm hạnh phải biết xa lìa nơi ồn ào, huyên náo... tìm chỗ ẩn cư miền cô quạnh như hoang thú giữa rừng sâu."
Điều thứ năm: Phàm khi thấy người, thú hoặc cái gì có vẻ nguy hiểm, rùa thường thu gọn đầu và bốn chân vào trong chiếc vỏ bọc của mình, nằm yên lặng như thế để tự bảo vệ sự an toàn. Hành giả tu tập chỉ tịnh và quán minh cũng nên bắt chước như rùa. Lúc nào thấy lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp) - có vẻ nguy hại, liền thu rút lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) vào trong đề mục thiền định hoặc thiền quán để bảo vệ cho sa môn hạnh của mình. Đúng như lời Đức Phật dạy: "Tỳ khưu là bậc tiến tu thoát khổ, nếu có khởi tâm thì đừng nên để cho dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy xâm chiếm; đừng nên để rơi vào cái bẩy tà kiến, khinh bỉ hoặc châm biếm kẻ khác. Không như vậy thì hoàn toàn thu rút lục căn, như con rùa nằm trốn cái đầu và bốn chân trong chiếc mu của nó."
Đại vương đã hoàn toàn lãnh hội năm điều ấy về con rùa rồi chứ?
- Vâng ạ!
* * *
184. Về cái kèn
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Một chi của cây kèn là thế nào hở đại đức?
- Tâu, cái kèn sở dĩ được phát ra thành tiếng, thành âm thanh trầm bỗng là tùy thuộc vào hơi gió của người thổi. Nói cách khác, cái kèn không thể tách rời hơi gió thổi, hơi gió thổi không thể tách rời cái kèn. Phàm sa môn tu hành giải thoát cũng y như thế, hạnh sa môn phải được dính chặt, không được buông lơi pháp hành. Nói cách khác, vị tỳ khưu là pháp hành, pháp hành là vị tỳ khưu. Cái kèn không thể rời hơi gió, rời hơi gió thì cái kèn không có âm thanh. Sa môn hạnh mà rời pháp hành thì không thể gọi là sa môn. Đúng như đại đức Ràhula đã thuyết: "Là tỳ khưu trong hàng ngũ sa môn, phải lấy pháp hành làm y chỉ, cả ngày lẫn đêm đừng rời khỏi pháp hành, phải tinh tấn để tăng trưởng và hoàn thiện pháp hành của mình."
* * *
185. Về cây súng
- Cái kèn thì trẫm hiểu rồi, nhưng còn một chi của cây súng là sao?
- Tâu, cây súng tùy thuộc nòng súng, nòng súng phải thông suốt từ đầu này đến đầu kia, cây súng mới sử dụng được. Cũng vậy, vị tỳ khưu trong giáo hội của Đức Tôn sư phải biết thích ứng, tôn trọng phẩm vị, thứ tự hạ lạp từ dưới lên trên, từ thấp lên cao y như thế. Nòng súng thông suốt, không bị vướng mắc, trở ngại, đạn mới được ra khỏi nòng. Thứ tự hạ lạp thông thuận từ dưới lên trên, không có lộn xộn, vướng mắc, mới đem đến hữu ích cho chính mình và đại dụng cho cuộc đời. Đúng như Đức Thế Tôn đã thuyết trong kinh Vidhurapunnaka Jàtaka: "Các sa môn Thích tử thuộc giống giòng trí thức, phạm hạnh... thật không nên có hành động sai trái, tà vạy; phải biết tôn trọng, cung kính thứ tự hạ lạp, phải biết thông thuận, ngay thẳng như nòng súng của cây súng vậy."
* * *
186. Về con quạ
- Tâu đại vương! Về con quạ thì chúng ta có hai điều cần phải lấy đó để làm gương!
- Vâng, xin đại đức cho nghe.
- Con quạ có hai tập tính sau đây:
Thứ nhất là khi đậu một chỗ nào, con quạ thường đưa mắt lấm lét, đảo qua đảo lại đầy vẻ nghi ngờ, sợ sệt tất cả mọi thứ xung quanh. Nó luôn luôn đề phòng, giữ mình trước bất kỳ hoàn cảnh nào. Một vị tỳ khưu cũng cần phải làm như thế, phải luôn luôn phòng hộ giữ mình, hằng có chánh niệm, thu thúc lục căn trong mọi oai nghi, trước các đối tượng ngoại trần luôn đầy những bất trắc có thể tác hại đến phẩm hạnh sa môn.
Thứ hai, khi quạ được một món ăn gì, dù là tử thi, dù là vật thực dư thừa, dù là bắp đậu... quạ thường kêu gọi đồng loại đến để cùng ăn. Một vì tỳ khưu sống trong giáo hội bình đẳng, đầy tình nghĩa đệ huynh của Đức Tôn Sư cũng phải nên bắt chước như quạ. Khi được thọ dụng tứ sự, lợi lộc, nhất là vật thực, dù là một bình bát hay nửa bình bát - cũng nên chia sớt vật thực ấy đến các vị đồng phạm hạnh thiếu thốn hơn mình. Đúng như đức pháp chủ Xá-lợi-phất đã từng thuyết: "Nếu có nam nữ thí chủ nào có lòng tin mà dâng cúng vật thực đến Xá-lợi-phất tôi; vì tôi là người sống hạnh khước từ, xả ly để tiêu hủy phiền não - nên tôi sẽ chia sớt phần vật thực ấy đến cho tất cả bằng hữu phạm hạnh đều nhau cả. Và tôi sẽ là người thọ dụng sau cùng."
* * *
187. Về con khỉ
- Bây giờ chúng ta học về con khỉ, tâu đại vương!
- Con khỉ thì tốt đẹp gì mà học! Suốt ngày cứ chạy nhảy leo trèo từ cây này sang cây khác, từ cành này sang cành khác - giống như tâm ý lăng xăng của chúng sanh vậy, có hay hướm gì!
Đại đức Na-tiên gật đầu:
- Vâng, điều ấy thì chúng ta không học. Ta sẽ học ở hai điểm khác.
Một, là nó hằng lựa tìm những cội cây rất to, có rất nhiều cành nhánh vững chắc và xanh tốt, sum suê để làm chỗ ở. Các vị tỳ khưu cũng hằng nên như thế, phải lựa tìm những bậc phạm hạnh có đạo cao đức cả - như là gốc đại thụ vậy - để nhờ nương, làm chỗ ở cho mình. Bậc phạm hạnh có cành nhánh vững chắc và tàng lá sum suê xanh tốt, ấy là đầy đủ: giới đức, có tàm quý, nhiều pháp lành, đa văn, là người giữ gìn pháp, nâng đỡ pháp; có ngôn ngữ từ ái, tự mình tinh tấn và dìu dắt mọi người tinh tấn đi theo con đường phạm hạnh.
Hai, khỉ thường tìm về chỗ ngụ của mình vào lúc hoàng hôn rồi nghỉ qua đêm ở đấy. Các vị tỳ khưu trong hàng ngũ sa môn cũng phải nên làm như thế. Nghĩa là một ngày, lúc hoàng hôn xuống cũng phải biết trở về trú xứ vắng lặng của mình như rừng, nghĩa địa v.v... để nghỉ qua đêm. Khỉ không bao giờ rời bỏ cây ấy lúc ban đêm - thì vị tỳ khưu cũng không bao giờ rời bỏ pháp tu Tứ niệm xứ của mình. Suốt đêm, dù đi, đứng, ngồi, nằm cũng hằng phải chánh niệm, tỉnh giác. Đúng như đại trưởng tử của Đức Thế Tôn đã thuyết: "Vị tỳ khưu nên hoan hỷ, mến thích khu rừng và cội cây của mình. Lúc tọa thiền, lúc đi kinh hành hoặc ngủ nghỉ đều không được rời bỏ pháp hành."
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Những ví dụ ấy rất hay, rất dễ nhớ, thế đại đức có còn những ví dụ như thế nữa chăng?
- Tâu, những ví dụ ấy chẳng phải của bần tăng, mà do Đức Thế Tôn hoặc các vị Thánh A-la-hán nói ra, bàng bạc trong kinh điển. Còn bần tăng chỉ là người nói lại.
- Vậy thì cho trẫm được nghe tiếp.
- Vâng, ngoài những ví dụ trên, phạm hạnh của sa môn còn phải được ví như:
Giây bầu leo; Hoa sen; Hạt giống; Cây sàla xanh tốt; Thuyền bè; Ghe mắc đá ngầm; Cột buồm; Người cầm lái thuyền; Người làm công; Biển lớn.
* * *
188. Về dây bầu leo
- Xin đại đức giải về dây bầu leo?
- Vâng, giây bầu leo có một điểm rất đặc biệt, là ban đầu nó bò trên đất, trên cỏ, cái vòi của nó lần tìm những cành nè, những cành cây khô để leo lên. Sau khi bò lên cao hoặc trên chót đọt của cây; thì cành, nhánh lá của nó mới tỏa ra, xanh tốt rồi đơm hoa kết trái. Phàm người tu phạm hạnh cũng như thế, ban đầu, tu tập những pháp nhỏ, pháp thấp... rồi lần hồi, biết vươn lên cao, đến chót đỉnh để tỏa cành nhánh xanh tốt, đơm hoa rồi kết A-la-hán quả. Đúng như tôn giả Xá-lợi-phất có dạy: "Dây bầu leo thường dùng cái vòi bắt dính những cành nhánh khô rồi bò lên cao, xanh tươi tốt đẹp; vị tỳ khưu mong được quả A-la-hán cũng phải biết vin vào những pháp tu tập ban đầu, nắm bắt từng thành quả từ thấp lên cao để tiến triển đến quả vị của bậc Vô học."
* * *
189. Về hoa sen
- Về hoa sen thì - đại đức Na-tiên nói - có ba đức tính: từ trong bùn sinh trưởng, lớn lên mà không hôi mùi bùn; lên khỏi nước mới nở hoa, và khi gió thổi thì lay động nhẹ!
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Vậy gì là bùn, thưa đại đức?
- Bùn hàm chỉ tất cả những gì thuộc về thế gian. Ví dụ như gia đình, chủng tộc, dòng họ, giai cấp, danh vọng, lợi lộc, tứ sự cúng dường hoặc tất cả những gì, tất cả những pháp dễ phát sanh đắm lụy, cấu uế như sắc đẹp, âm thanh quyến rũ, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái v.v...
- Có nghĩa là từ thế giới ấy lớn lên, từ thế gian trần lụy ấy mà sống đạo, nhưng không nên để cho cấu uế vẩn đục, lấm nhơ phạm hạnh...
- Vâng, đúng như thế! Đôi khi có những vị tỳ khưu xuất thân trong giai cấp, dòng họ... nào đó, sau khi xuất gia phạm hạnh rồi cũng không bước ra khỏi được giai cấp và dòng họ của mình, vẫn mang bản ngã giai cấp, dòng họ ấy. Và bị quyến niệm, hệ lụy bởi giai cấp, dòng họ của mình, tâu đại vương!
- Vâng, trẫm hiểu rồi, còn đức tính thứ hai?
- Sau khi nở hoa trên mặt nước, không bao giờ hoa sen rơi trở vào nước, chìm lại trong nước. Cũng y như thế, vị tỳ khưu đã sống đời phạm hạnh không nên rơi trở vào cuộc đời, bị những ưu sầu, sợ hãi từ cuộc đời làm chìm đắm, chi phối nữa.
- Vâng, trẫm hiểu rồi.
- Điều thứ ba, khi có gió thổi, những hoa sen lay động nhẹ. Có nghĩa là bậc hành giả, khi bị các phiền não thế gian, tám ngọn gió thế gian lay động phải biết ngay, tỉnh thức ngay. Nói cách khác, phải biết sợ hãi chút ít đối với các pháp trần làm cho lay động tâm, đúng như Đức Chánh đẳng giác đã thuyết: "Các thầy tỳ khưu nên thọ trì điều học, dù có giới phạm, tội lỗi chút ít cũng phải biết sợ hãi nhiều."
Đấy là tất cả ba đức tính của hoa sen, tâu đại vương!
* * *
190. Về hạt giống
- Về hạt giống thì có hai điều cần phải học hỏi, tâu đại vương!
- Trẫm đang nghe đây.
- Vâng. Thứ nhất, hạt giống thường nhỏ, ít mà thâu hái kết quả bao giờ cũng lớn, nhiều. Tương tự vậy, một vị tỳ khưu khi thọ trì những điều học, đừng coi thường những nhân phạm tội, dù rất nhỏ, ít; vì kết quả của nó sẽ rất lớn, có thể tác hại phạm hạnh trọn đời của vị sa môn. Và cũng chính nhờ ngăn giữ những điều học nhỏ và ít ấy - mà kết quả sẽ thành tựu viên mãn sa môn hạnh rất cao thượng, rất cao quý sau này.
Thứ hai, hạt giống ấy nếu được gieo xuống một thửa ruộng được chuẩn bị tốt về nhiều mặt, như: cày bừa kỹ, nước và phân đầy đủ; thì hạt giống ấy sẽ sanh trưởng rất mau lẹ, xanh tốt, đơm hoa kết quả viên mãn. Tương tự thế, thửa ruộng chính là tâm của vị tỳ khưu, phải được chuẩn bị tốt về nhiều mặt: có đức tin trong sạch, vắng lặng, ở nơi chỗ yên tĩnh thì hạt giống Tứ niệm xứ sẽ dễ dàng phát triển xanh tốt, đơm hoa kết quả Thánh đạo. Đúng như đại đức Anuruddha (A-nậu-đà-la) đã thuyết: "Gieo hạt giống xuống đám ruộng tốt, phân nước đầy đủ, kết quả thu hái sẽ làm vừa ý người chủ ruộng. Cũng như vậy, gieo hạt giống Tứ niệm xứ vào tâm của một hành giả có trạng thái tâm tốt: trong sạch, thanh tịnh, ở nơi vắng lặng - thì đạo quả Thánh nhân sẽ phát triển rất mau lẹ, sẽ đơm hoa kết quả như ý nguyện!
* * *
191. Cây Sàla xanh tốt
- Một chi của cây sàla xanh tốt là thế nào hở đại đức?
- Tâu, vì ngài Ràhula có thuyết với đại ý rằng: "Sở dĩ có cây Sàla phát triển sung mãn, xanh tốt, thân cây chọc thủng lên trời cao một trăm hắt tay, xòe táng rộng vững chãi, cành nhánh to mạnh, lá xanh tốt tươi - là vì rễ nó đâm sâu trong lòng đất, rễ vươn dài trong đất đến một trăm hắt tay! Bậc hành giả tu tập cũng vậy, muốn đạt được thành quả cao siêu thì cũng phải đâm sâu vào lòng đất, vươn dài trong lòng đất. Đất ấy chính là ở nơi chỗ thanh vắng, có đức tin, nội tâm trong sạch và an tĩnh vậy."
- Thưa, trẫm đã hiểu.
* * *
192. Về chiếc thuyền
Đại đức Na-tiên nói:
- Về chiếc thuyền thì có ba điều, tâu đại vương.
- Vâng, cho trẫm nghe.
- Điều thứ nhất, một chiếc thuyền được gọi là tốt, có thể vượt được biển khơi - thì chiếc thuyền ấy phải được đóng bằng loại gỗ tốt, chắc bền, sắt thép tốt, nhựa tốt... nói chung là mọi vật liệu phụ tùng đều phải hoàn bị. Có được chiếc thuyền như thế mới đưa được người, vật đến nơi an toàn. Một vị tỳ khưu cũng y như thế, chuẩn bị tốt cho mình về hạnh kiểm, giới đức, pháp học, pháp hành, trí tuệ... mới có khả năng tự cứu độ mình, đưa chúng sanh, người, trời vượt thoát khỏi đại dương sinh tử.
- Điều thứ hai, chiếc thuyền ra khơi dĩ nhiên là phải sẵn sàng chịu đựng mọi phong ba bão táp, phải đương đầu các bãi đá ngầm, dòng nước xoáy v.v... Tương tự thế, vị tỳ khưu cũng phải sẵn sàng chịu đựng mọi sóng gió phiền não, những cạm bẫy, những hệ lụy phát sanh từ lợi lộc, danh vọng, lời khen, sự cung kính, lễ bái, tứ sự cúng dường v.v...
Điều thứ ba, ra khơi, chắc hẳn thuyền phải đi qua những vực nước sâu đầy những cá sấu, thuồng luồng, cá mập hung dữ như thế nào cũng không nên sợ hãi, không thể sợ hãi. Cũng vậy, vị tỳ khưu nắm chắc Tứ diệu đế, thấy rõ Tứ diệu đế - đồng thời phải thấy rõ, biết rõ ba luân, mười hai chuyển [*], đồng thời phải huân tập ba la mật khả dĩ vượt qua tất cả các hành (sankhàra) mà không sợ hãi, không thể sợ hãi.
Đấy là tất cả ba chi về chiếc thuyền, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức.
[*] Có thể gọi là ba sắc thái và mười hai phương thức:
Tuệ tri: Khổ: Đấy là khổ, phải được thấy, đã thấy.
Tuệ diệt: Tập: Đây là nguyên nhân khổ, phải được tận diệt, đã tận diệt. Tuệ chứng: Diệt: Đây là diệt khổ, phải được chứng ngộ, đã chứng ngộ. Tuệ hành: Đạo: Đây là Đạo diệt khổ, phải được thực hành, đã thực hành tốt. * * *
193. Về ghe thuyền dính đá ngầm
- Xin đại đức cho nghe về trường hợp ghe thuyền dính đá ngầm?
- Thế nếu thuyền dính đá ngầm thì tình trạng nó ra sao hở đại vương?
- Thưa, ghe, thuyền mà dính đá ngầm rồi thì không tới, không lui được.
- Tâu, vâng. Khi tâm của một hành giả đã diệt thảy tất cả mọi tà tư duy, đã làm cho yên lặng luyến ái, sân hận, đã phá vỡ si mê rồi - thì tâm ấy sẽ trạm nhiên, bất động, thanh tịnh; sẽ ở yên một chỗ, chẳng còn xao động, chẳng còn lăng xăng đi chỗ này, chỗ nọ, chỗ kia, chỗ khác nữa!
- Vâng, vâng! còn điểm nào nữa không hở đại đức?
- Tâu, còn điểm hai nữa. Là khi thuyền dính đá ngầm rồi, hẳn là thuyền phải chìm xuống. Cũng thế, một hành giả khi tâm đã trạm nhiên, thanh tịnh, bất động rồi, sẽ từ từ chìm lắng vào trong pháp. Khi tâm đã chìm lắng trong pháp, vững chắc trong pháp, thì không gì có thể lay động được nữa. Đúng như ngài Xá-lợi-phất đã thuyết: "Thuyền khi chìm trong biển thì không có gì lay động được. Một vị tỳ khưu tâm đã chìm vào trong pháp rồi, những lợi lộc, danh vọng, khen tặng... chẳng thể làm cho giao động được."
* * *
194. Về cột buồm
- Còn về cây trụ buồm, thưa đại đức? Nó liên hệ gì với sa môn hạnh?
- Tâu, cây trụ buồm sở dĩ nâng được lá buồm to nặng, là do bản thân nó kiên cố, vững chắc; đồng thời có sự liên kết đồng bộ bởi dây neo chắc bền, các trụ phụ, dây ròng rọc để kéo v.v... Tương tự thế, một vị tỳ khưu sở dĩ nâng đỡ được pháp hành cao thượng, thành tựu sa môn hạnh thiêng liêng, là do tâm và tuệ của vị tỳ khưu ấy vững chắc, đồng thời nhờ sự hỗ trợ thường trực của chánh niệm và tỉnh giác. Chánh niệm, tỉnh giác khi đi tới, đi lui, lúc ngồi nằm, đắp y vai trái, tăng già lê, lúc ôm bát khất thực, lúc uống nước, ăn cơm, lúc đại tiện, tiểu tiện, khi đang nói, lúc im lặng v.v... Đúng như Đức Thiện Thệ đã thuyết: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy phải thường trực chánh niệm, tỉnh giác; hãy bổ túc sa môn hạnh bằng chánh niệm, tỉnh giác. Chánh niệm, tỉnh giác chính là giáo huấn tinh tủy của giáo pháp Như Lai."
* * *
195. Về người cầm lái thuyền
- Thưa đại đức! về người cầm lái thuyền thì có ba chi, mong đại đức cho nghe luôn thể.
- Vâng, thứ nhất, người cầm lái thuyền phải cẩn trọng, cẩn thận, tỉnh thức, chú ý đúng, hướng tâm đúng để dẫn con thuyền đến nơi an toàn. Tương tự thế, vị tỳ khưu phải cẩn trọng, thận trọng, tỉnh thức, hướng tâm đúng, chú ý đúng để dẫn mình đến nơi hạnh phúc tối thượng là Niết-bàn.
Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Các thầy chớ nên dễ duôi, giải đãi mà hãy tinh cần, nỗ lực, tỉnh thức, kiên trì để giải thoát tâm ra khỏi mọi phiền não; như con tượng vương dù bốn chân bị dính chặt trong bùn, vẫn cố nỗ lực, kiên trì để thoát ra."
Điều thứ hai, người cầm lái thường biết rành rẽ nơi nào có đá ngầm, nơi nào có nước xoáy, nơi nào có dòng nghịch lưu...; để biết cách tránh né, chuyển phương, chuyển hướng v.v.. Vị tỳ khưu nào có khác gì? Phải biết rành rẽ chỗ này nguy hiểm, nơi kia không nguy hiểm, điều này tốt, điều kia xấu, cái này tội, cái kia không phải tội, người này nên thân cận, kẻ kia không nên gần gũi, pháp này cao thượng, pháp kia là hạ liệt vv... để tránh né đúng, viễn ly đúng, hướng tâm đúng, v.v...
Điều thứ ba, người cầm lái hằng điều chỉnh kim vận tốc, kim phương hướng; tự tay mình điều chỉnh các loại kim đồng hồ chứ không dám tùy tiện giao phó cho ai. Các vị sa môn cũng y như thế, phải tự động điều chỉnh tâm mình, ý mình, phải tự thu thúc, điều chỉnh lục căn, cẩn thận cả từng suy tư, niệm tưởng để khỏi rơi vào tà tư duy, ác tưởng, tạp tưởng - chứ không thể nhờ cậy ai, phó thác cho ai. Đức Phật cũng có dạy trong kinh Samyutta rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy đừng tư duy đến các điều ác, bất thiện pháp, vì ác, bất thiện là có tội báo. Những ác tư duy, những bất thiện tư duy ấy là gì? Đó là dục tư duy, sân tư duy và hại tư duy!"
Đấy là ba chi về người cầm lái thuyền, tâu đại vương.
- Rất rõ, cảm ơn đại đức!
* * *
196. Về người làm công
- Về người làm công thì phải biết chăm lo công việc của mình. Người làm công muốn nhận được tiền công xứng đáng, muốn nhận được sự khen thưởng thì phải siêng năng, cần mẫn, chăm lo từng công việc, từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, từ ngoài vào trong v.v... Một vị tỳ khưu muốn được qủa vị xứng đáng, muốn được phần thưởng tôn vinh cao quý là Niết-bàn, phải biết chăm lo bổn phận của sa môn. Các công việc thường xuyên như quán thân là bất tịnh, quán thân chỉ là đất, nước, lửa, gió; hoặc thực hành chỉ tịnh, quán minh v.v... mỗi mỗi, vị tỳ khưu phải làm cho tốt, làm cho thiện xảo... để thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, thóat khỏi sầu, bi, ưu, não v.v... Đúng như tôn giả Xá-lợi-phất đã thuyết: "Các thầy phải thường xuyên quán tưởng thân để thấy rõ sự thật về thân. Khi thấy rõ sự thật về thân rồi thì các thầy sẽ diệt tận mọi nỗi khổ đau trên trần thế."
- Trẫm đã hiểu, thưa đại đức!
* * *
197. Về biển cả
- Tâu đại vương! Biển cả có năm đặc tính, năm điều cần phải ghi nhớ, chắc đại vương đã hiểu rõ, không cần phải giải bày, phải chăng?
- À, có thể trẫm đã hiểu rồi. Năm điều của biển cả là:
Đẩy những xác chết bất tịnh lên bơ; Biển chứa trong lòng nó những loại ngọc quý báu; Nơi cư trú của nhiều loại động vật, thực vật; Luôn luôn đầy nước; Không bao giờ tràn bờ.
Có phải thế không, đại đức?
- Phải rồi, nhưng đại vương liên hệ, tương quan năm điều ấy với phẩm hạnh sa môn như thế nào?
- Thưa, vâng. Năm điều trên tương quan với năm điểm của sa môn như sau:
Thứ nhất, tâm của một tỳ khưu luôn đẩy những tham lam, sân hận, si mê, ngã chấp, bạc nghĩa, quên ơn, bỏn xẻn, ganh tỵ, điệu bộ, khoe khoang, kiêu ngạo, nói dối, trược hạnh... ra bên ngoài. Tâm ấy luôn luôn bảo vệ sự thanh khiết cho mình.
Thứ hai, tâm của vị sa môn hằng cất giữ những pháp quý báu như thiền định, quán minh, thần thông, đạo quả v.v..
Thứ ba, tâm của vị sa môn là nơi cư trú của những thiện pháp như: tri túc, thiểu dục, tàm quý, nhẫn nại, tinh tấn, đức tin, từ, bi, hỷ, xả v.v...
Thứ tư, tâm của vị sa môn luôn đầy đủ học giới, dù bị đe dọa sanh mạng cũng không để cho học giới của mình bị khiếm khuyết.
Thứ năm, tâm của vị sa môn không bao giờ tự mãn rằng kiến thức, hiểu biết của mình đã đầy, đã đủ, nên vẫn chăm chuyên nghe chú giải, học Pàli, kinh, bổn sanh, vi diệu tạng v.v...
Năm điều ấy của sa môn khả dĩ so sánh với năm tính chất của biển, phải vậy không, đại đức?
- Tâu, vâng, chính xác lắm.
Đức vua Mi lan đà lại hỏi tiếp:
- Đại đức còn nhiều ví dụ về sa môn hạnh lắm phải không?
- Vâng, còn, rất nhiều.
- Đại đức có thể liệt kê tiêu đề cho nghe được chăng?
- Được. Vậy đại vương hãy nghe. Sa môn hạnh còn có thể được ví với những điều sau đây:
Năm điều của quả đất; Năm điều của nước; Năm điều của lửa; Bốn điều của gió; Năm điều của núi; Năm điều của hư không; Năm điều của mặt trăng; Sáu điều của mặt trời; Ba điều của trời Đế thích; Bốn điều của vua Chuyển luân; Một điều của con mối; Hai điều của mèo; Một điều của chuột; Một điều của bò cạp; Một điều của chồn; Hai điều của chó rừng; Ba điều của bò; Hai điều của heo; Năm điều của voi; Bảy điều của sư tử; Ba điều của vịt nước; Hai điều của chim Venàhikà; Một điều của chim sẻ; Hai điều của chim cu; Một điều của con rít; Hai điều của con dơi; Một điều của con đĩa; Ba điều của con rắn; Một điều của con trăn; Một điều của nhện giăng lưới; Một điều của trẻ ngậm vú mẹ; Một điều của rùa vàng; Năm điều của rừng già; Ba điều của cây đại thọ; Năm điều của mưa; Ba điều của ngọc ma ni; Bốn điều của người săn thú; Hai điều của người câu cá; Hai điều của người thợ bào; Một điều của người thợ gốm; Hai điều của con quạ; Ba điều của cái dù; Ba điều của ruộng; Hai điều của thuốc trị rắn độc ; Ba điều của vật thực; Bốn điều của người bắn cung v.v...
Nghe đến ngang đây, đức vua Mi lan đà nói:
- Vậy là quá nhiều rồi, thưa đại đức. Có thể trong số ví dụ ấy, trẫm đã được nghe vài lần rồi; nhưng mà vì lợi ích cho phần đông, đại đức bi mẫn nói lại, lặp lại cũng không sao. Trẫm sẵn lòng rửa tay để lắng nghe.
- Tâu, vâng!
* * *
198. Về quả đất
- Về quả đất thì có năm điều, tâu đại vương!
Nó tương tự với năm đức tính của sa môn hạnh như sau:
Thứ nhất, dù ai quăng bỏ lên đất những vật bất tịnh như đàm, dãi, nước mũi, đại tiểu tiện... quả đất cũng không hề khởi tâm thương hoặc ghét, vừa lòng hoặc không vừa lòng.
Một vị sa môn nên học hạnh quả đất. Dù ai khen, chê, dù được lợi lộc hay mất lơi lộc, dù được danh hay mất danh, dù bị ai nguyền rủa, phỉ báng, không vì vậy mà vị sa môn dậy tâm bất bình, thương ghét v.v...
Thứ hai, quả đất không hề trang sức, trang điểm cho mình; nhưng quả đất có đầy đủ ngọc ngà châu báu, đầy đủ tất cả vật thoa, vật thơm.
Một vị sa môn không nghĩ rằng mình có một cái ngã để trang điểm, một cái ngã để trang sức; nhưng quả thật vị sa môn luôn trang sức, trang điểm cho mình những hương liệu quý báu được toát ra từ giới đức, phẩm hạnh của mình.
Thứ ba, quả đất hằng nâng đỡ, che chở cho quốc độ, xóm làng, châu quận, người vật, núi sông, cây cỏ, vạn loài...
Cũng vậy, vị sa môn phạm hạnh là người hằng siêng năng làm nơi nâng đỡ, che chở cho chúng sanh, giáo huấn chúng sanh, nhắc nhở chúng sanh tinh tấn tu tập thiện pháp.
Thứ tư, quả đất đầy đặc cả một khối, không chắp vá, không vỡ vạc, không rời từng mảnh. Tương tự như vậy, học giới của vị sa môn phải được đúc thành một khối thuần nhất, không thể bị khuyết phạm, bể lủng, chắp vá hoặc đứt rời ra từng điều được.
Thứ năm, quả đất luôn luôn bình đẳng, không thiên vị, không hiềm hại ai mà cũng chẳng luyến ái chúng sanh nào. Cũng vậy, tâm vị sa môn cũng phải bình đẳng, không thiên vị; chẳng thương bên này ghét bên kia, thích chỗ này, bất bình chỗ kia v.v...
Cận sự nữ Culasubhaddà có nói: "Trước đây, tôi có vọng động giết hại chúng sanh bằng đùi gậy hay bằng giáo mác; tôi đeo tràng hoa, tôi thoa vật thơm và cảm thấy thỏa thích.Bây giờ học Phật, tâm tôi không còn bất bình, sân hận, không còn ngã chấp, luyến ái. Tâm của tôi giống như quả đất vậy, đúng là tâm của một bậc sa môn!"
* * *
199. Về nước
Đại đức na-tiên nói:
- Nước có năm điều cần phải được học hỏi, đại vương còn nhớ chứ?
- Vâng, còn nhớ, nhưng xin đại đức cứ giảng cho.
- Cũng được, tâu đại vương.
Thứ nhất, bản chất của nước vốn trong trẻo do nhiễm bẩn mà trở nên đục vẩn. Vị sa môn sống giữa thế gian cũng cần phải giữ tâm trong trẻo, đừng vì lời nói hay đẹp mà vừa lòng, đừng vì lời nói xấu ác mà mếch lòng.
Thứ hai, tính nước thường mát mẻ, dịu hòa; bậc sa môn phải biết giữ tâm nhu hòa, từ ái, mát mẻ đối với tất cả chúng sanh.
Thứ ba, nước có công năng tẩy sạch, giặt rửa những dơ bẩn; vị sa môn cũng hằng tẩy rửa những bất tịnh, xấu xa trong lòng mình y như thế.
Thứ tư, nước là nhu cầu thiết yếu duy trì sanh mạng của tất cả chúng sanh; vi sa môn cũng phải là nơi cho chư thiên và loài người nương nhờ để duy trì phước mạng và tuệ mạng của họ.
Thứ năm, nước hằng đem đến lợi ích, an vui cho người, vật, chim muông, cây cỏ - từ việc ăn uống, giặt rửa, trồng hoa qủa, rau trái v.v... cho đến sông ngòi, suối khe, khí hậu v.v... Vị sa môn cũng phải biết dùng lời từ ái, tâm bi, tâm hỉ, thuyết pháp, sống đời tri túc, nhẹ nhàng, an tịnh... để ban rãi sự sống trong lành, cao đẹp cho tất cả chúng sanh. Đúng như đức Bồ tát có lần nói với trời Đế Thích: "Ngài là vị trời có nhiều quyền năng và quyền lực, nếu ngài muốn thành tựu cho tôi một ước nguyện, thì tôi sẽ không mong ước nguyện ấy thành tựu cho mình, tốt đẹp cho mình. Tôi sẽ ước nguyện rằng, cầu cho tất cả chúng sanh biết thương yêu nhau, đừng ai quấy phá, bức hại ai; đừng có chúng sanh này làm cho đau đớn chúng sanh khác, dù là tí chút."
Đấy là tất cả 5 điều về nước, tâu đại vương!
* * *
200. Về lửa
-Về lửa cũng có năm điều, tâu đại vương.
Thứ nhất, lửa có tính năng là đốt cháy, thiêu hủy mọi vật không phân biệt sạch, dơ, khô hoặc tươi. Vị sa môn cũng cần phải dùng tuệ diệt, tuệ thiêu hủy để đốt cháy tất cả phiền não bên trong và bên ngoài; cả chuyện vừa lòng lẫn cảnh nghịch ý.
Thứ hai, lửa không có lòng dạ thương xót cỏ rác, gỗ mục hay hoa đẹp, cây xanh. Nó đốt hết. Cũng vậy, vị sa môn cũng không nên có lòng dạ thương tưởng đến các loại phiền não, dù phiền não ấy thô thiển hay tế vi, có sắc xấu hay sắc đẹp. Phải đốt hết, không một loại trừ nào cả.
Thứ ba, lửa có tính năng đối đãi với lạnh, đối trị với lạnh, ngăn sự lạnh. Cũng vậy, vị sa môn cũng phải khởi lên sức lửa của tinh tấn để ngăn ngừa, đối trị với phiền não.
Thứ tư, lửa tỏa nhiệt, tỏa hơi nóng. Người ta có thể dùng lửa để nấu ăn, để đốt vật dơ uế, để sưởi ấm, đem đến lợi ích cho nhiều người. Cũng vậy, vị sa môn cũng phải biết lấy lửa nhiệt tình, lửa ấm áp... ấy để đem đến lợi ích cho chư thiên và loài người.
Thứ năm, lửa hằng chiếu sáng, soi rọi được những chỗ tối tăm. Cũng vậy, vị tỳ khưu phải biết dùng trí tuệ, tuệ minh để chiếu rọi mọi ngõ ngách thâm u của vô minh, ái dục và tà kiến. Tương tự như lời Đức Phật dạy cho Ràhula như sau: "Này Ràhula! Con hãy thường xuyên tham thiền về lửa, quán tưởng về lửa, đến một lúc, tâm con sẽ giống như lửa; khi ấy, các bất thiện pháp sẽ không còn đè nén, bức hại tâm con được."
|
|