Post by TCTV on Jun 19, 2010 14:02:06 GMT -5
Niệm và người hành thiền
Một cuộc phỏng vấn Ngài Thiền Sư U Pandita
do Tỳ Khưu Visuddhacara thực hiện
Phạm Kim Khánh dịch
(PL 2539, TL 1995)
Một cuộc phỏng vấn Ngài Thiền Sư U Pandita
do Tỳ Khưu Visuddhacara thực hiện
Phạm Kim Khánh dịch
(PL 2539, TL 1995)
Tác giả
Ngài Thiền Sư Sayadaw U Pandita xuất gia tại một ngôi chùa xa xôi hẻo lánh của xứ Miến Ðiện vào lúc vừa lên bảy. Từ đó Ngài chuyên cần tu tập trong cả pháp học lẫn pháp hành và đến nay là một trong những vị thiền sư lỗi lạc nhất theo truyền thống Mahasi Sayadaw.
Từ năm 1951 Ngài Thiền Sư U Pandita đã dạy hằng ngàn thiền sinh và châu du hoằng pháp, hướng dẫn những khóa thiền trong nhiều quốc gia Á Ðông cũng như ở Âu châu, Úc châu và Hoa Kỳ.
Hiện nay Ngài là Tăng Trưởng Thiền Viện Panditarama tại Rangoon, Miến Ðiện, nơi đây Ngài dạy những bậc xuất gia và hàng tại gia cư sĩ. Những lời dạy của Ngài U Pandita, rút tỉa từ trên sáu mươi năm kinh nghiệm bản thân trong đời sống tự viện, thật rất đơn giản và cụ thể rõ ràng, thích hợp với cả hai hạng thiền sinh, hàng sơ cơ và những vị đã tiến bộ thâm sâu.
Lời mở đầu
Ðức Phật thường khuyến khích hàng đệ tử nên hành thiền vì đó là con đường duy nhất (ekayanomaggo) đưa đến trạng thái tâm thanh bình an lạc, và giải thoát ra khỏi đau khổ.
Nhân ngày lễ Phật Ðản chúng tôi nghĩ rằng phát hành một bài viết về đề tài Thiền Minh Sát (Vipassanà) là thích nghi. Sau đây là một cuộc phỏng vấn Ngài Thiền Sư Sayadaw Upanditabhivamsa người Miến Ðiện, do Ðại Ðức Visuddhacara thực hiện.
Ðại Ðức Visuddhacara thuộc Trung tâm Hành Thiền Phật Giáo Mã Lai ở Penang (Malaysian Buddhist Meditation Centre, Penang), phỏng vấn Ngài Sayadaw U Pandita tại thiền viện Panditarama Meditation Centre, Rangoon, trong khi lưu ngụ tại đây. Bài tường thuật cuộc phỏng vấn đã được đăng tải trong Bản Tin tháng Tư, 1991 của thiền viện.
Bài viết này giải đáp nhiều câu hỏi có thể đặc biệt hữu ích cho người hành thiền, như "sau khi tích cực tham dự một khóa thiền, làm cách nào hành giả có thể tiếp tục pháp hành của mình khi trở lại đời sống hằng ngày?", "trong khi tích cực hành thiền tra trau giồi loại niệm (sati) nào?" và "làm sao loại trừ ô nhiễm (kilesa) bằng cách ghi nhận?"
Ngài Thiền Sư đi sâu vào chi tiết, giảng về điều cần thiết phải hành pháp hiểu biết rõ ràng mục tiêu hay lợi ích (satthaka sampajanna) và hiểu biết rõ ràng hoàn cảnh thích nghi (sappaya sampajanna), trong đời sống hằng ngày. Ngài thảo luận về đặc tướng (lakkhana), chức năng (rasa), sự biểu hiện (paccupatthàna) và nguyên nhân kế cận (padatthàna) của niệm (sati) - theo đúng đường lối trình bày của Chú giải (atthakatha). Ngài giải thích dong dài làm cách nào hành giả phải ghi nhận - lao mình xông ngay vào đề mục mà không lệch lạc nghĩ suy v.v... Ngài giảng về phương cách loại trừ ô nhiễm (kilesa) trong khi ghi nhận (tadanga pahàna) và cách loại trừ ô nhiễm ngoài lúc ghi nhận (vikkhambhana pahàna).
Ngài Ðại Ðức Thiền Sư dùng rất nhiều danh từ Pali, và nơi đây xin giữ lại một số, trước là để đọc giả có thể hiểu biết một cách chính xác, sau nữa là để giữ lại chút "hương vị" của Giáo Pháp (Dhamma). Pali là ngôn ngữ của Ðức Phật, và hành giả cũng nên làm quen.
Ðề tài rất thích hợp với người hành thiền, nhưng chúng tôi nghĩ rằng quý vị độc giả không quen với pháp hành cũng sẽ thấy thích thú theo dõi cuộc thảo luận. Quý vị sẽ có một ý niệm về bản chất và lợi ích của pháp hành, và có thể sự hiểu biết này sẽ khích lệ quý vị. Quả thật là điều kỳ diệu, Ðức Phật muốn chúng ta thừa hưởng tinh hoa của giáo huấn mà Ngài ban truyền, chỉ có thể thấu đạt bằng cách hành pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). Về phần chúng tôi, Trung tâm Hành Thiền Phật Giáo Mã Lai, chúng tôi xin gởi lời đến tất cả quý liệt vị chưa có dịp làm quen với thiền minh sát, mời quý vị nếm thử hương vị và tự quý vị sẽ nhận thức lợi ích của pháp hành.
Ngưỡng nguyện tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc. Ngưỡng nguyện tất cả chúng sanh đều khai triển trí tuệ, và giải thoát ra khỏi mọi đau khổ.
Hoe Soon Ying
Malaysian Buddhist Meditation Centre
(Trung tâm Hành Thiền Phật Giáo Mã Lai)
355 Jalan Mesjid Negeri
11600 Penang. Malaysia
Tháng 5-1991
-ooOoo-
Một cuộc phỏng vấn Ngài Sayadaw U Pandita do Tỳ Khưu Visuddhacara thực hiện.
Tỳ Khưu Visuddhacara (TLV): Bạch Ngài Thiền Sư, đối với thiền sinh, giữ tâm niệm trong một khóa thiền tích cực có thể dễ dàng, nhưng khi trở về với công việc bình thường hằng ngày thì không thể được vậy. Trong khóa thiền, thiền sinh được dạy làm gì cũng chậm chạp và đặt chú niệm vào tất cả mọi cử động. Nhưng khi mãn khóa, trở về cuộc sống thường nhật, thì tốc độ của mọi cử động lại nhanh lên, có khi đến cuồng loạn. Thật vô cùng khó mà niệm như lúc ở trong khóa thiền. Vậy thiền sinh phải làm thế nào?
Thiền Sư Pandita (TSP): Nơi đây có một vài điều mà thiền sinh nên thấu hiểu. Thái độ của thiền sinh là quan trọng. Thiền sinh nên cố gắng chú niệm, càng nhiều càng tốt và nên hoan hỷ với sự cố gắng của mình. Thiền sinh không thể kỳ vọng trạng thái toàn hảo, ít nhất là cho đến khi thành tựu đạo quả A La Hán. Chỉ một vị A La Hán mới có thể lúc nào cũng niệm.
Những ưu tiên của Giáo Pháp (Dhamma) và ưu tiên của thế gian rất khác biệt. Trong một khóa thiền, ta chú trọng đến việc trau giồi niệm (sati), để có thể đạt đến trí tuệ cao siêu nhất của Niết Bàn (Nibbàna). Ta chuyên cần ghi nhận tất cả những cử động của thân và những tiến trình tâm. Ghi nhận liên tục, nối tiếp không gián đoạn như vậy dẫn đến niệm, cho đến khi niệm trở thành tự động, máy móc, hồn nhiên, không có sự cố gắng. Với niệm (sati) mạnh mẽ như vậy ta có thể thấy sự phát sanh và hoại diệt của những hiện tượng, thấm sâu vào những chân lý vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattà) và chứng ngộ đạo quả Niết Bàn (magga-phalanibbàna), chấm dứt những hiện tượng kết hợp (các pháp hữu vi). Theo mức độ mà ta thấu hiểu bản chất vô thường, khổ và vô ngã (anicca, dukkha, anattà) của vạn pháp, tùy theo mức độ hiểu biết ấy, cuộc sống của ta sẽ sáng suốt, an vui và có ý nghĩa đến độ nào. Vị A La Hán, đã thấu triệt Giáo Pháp (Dhamma), đã thành đạt đạo quả A La Hán (arhatta-magga-phala), lúc nào cũng trầm tĩnh và thanh bình an lạc. Ngài không còn ô nhiễm và không bị giao động. Ðến khi tịch diệt, Ngài không còn tái sanh trở lại. Ðó là chấm dứt đau khổ.
Nhưng ưu tiên của thế gian thì khác hẳn. Nơi đây người hành thiền còn phải gánh vác nhiều trách nhiệm khác nhau. Họ có những công ăn việc làm, và họ phải ra sức để làm nhanh chóng. Họ còn có những công việc liên hệ đến vợ hay chồng, con, đến những người trong gia quyến và những nhiệm vụ đối với xã hội. Lẽ dĩ nhiên họ phải chú trọng nhiều đến việc hoàn tất nhiệm vụ, hơn là trau giồi niệm (sati).
Vả lại, họ bị đủ loại dục lạc và quyến rũ tấn công từ mọi hướng, do đó không thể có loại niệm (sati) mà họ có thể phát triển trong một khóa thiền. Thiền sinh phải thấu hiểu và phải chấp nhận điều này. Vì lẽ ấy, thỉnh thoảng ta nên tham dự những khóa thiền để trau giồi thâm sâu Niệm và Định (sati và samàdhi). Chừng đó, trở lại cuộc sống hằng ngày, ta có thể đem theo về với ta trí tuệ đã trực tiếp phát triển.
Như vậy, phần lớn các thiền sinh cảm thấy rằng niệm (sati) của mình có phần suy giảm một khi trở về với nếp sống thường ngày. Ðiều đó là bình thường, tự nhiên. Sati, niệm, mà được trau dồi trong một khóa thiền là supatthita sati - chú niệm vững chắc, kiên cố. Khi trở về nhà, vị thiền sinh không thể ghi nhận một cách liên tục và tỉ mỉ. Niệm (sati) sẽ suy giảm. Ta có thể nói rằng điều đó là bình thường, không chi lạ. Trong một ngày có nhiều khoảng trống mà lúc ấy ta không ghi nhận gì cả.
TKV: Như vậy thiền sinh phải làm sao? Pháp hành của họ phải như thế nào?
TSP: Họ phải đưa Giáo Pháp (Dhamma) vào cuộc sống thường ngày. Họ phải cố gắng ghi nhận càng nhiều càng tốt - những sinh hoạt hằng ngày, những biến chuyển của trạng thái tâm v.v... Họ phải thấu hiểu những thái độ và những nguyên tắc của Giáo Pháp và ý thức áp dụng. Họ phải tìm thì giờ để mỗi ngày ngồi lại hành thiền, như buổi sáng, hoặc buổi chiều, hoặc bất luận lúc nào thuận tiện. Có thể 15 phút, nửa giờ, hay hơn nữa, họ phải xem thì giờ hành thiền là một phần trong thời biểu hằng ngày.
CHÁNH NIỆM
Niệm là điều cần thiết, không thể không có. Trong bất luận công việc gì ta làm đều cần phải có niệm, nếu không, không thể hoàn tất một cách tốt đẹp. Nhưng loại niệm (sati) mà ta thảo luận ở đây là chánh niệm (sammà-sati, chú niệm chân chánh) tức loại niệm (sati) thấm sâu vào các chân lý vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha, anattrà). Chính loại sati, niệm, có tánh cách đạo đức, thiện, này làm cho người hành thiền tránh xa những hành động bất thiện (akusala). Nếu muốn có cuộc sống đạo đức, thiện, thì loại niệm này là tối cần thiết. Ðó là loại niệm (sati) mà ta chú trọng đến ở đây. Ðó là loại niệm (sati) mà ta phải phát triển. Sati này bảo vệ hành giả chống lại hiểm nguy.
Cũng như người vào một nơi có hơi ngạt phải mang mặt nạ. Mặt nạ sẽ lọc chất độc trong khói. Tuy nhiên, chí đến khi ấy cũng có chút ít khói lẫn vào và người kia cũng cảm nghe nóng ở mặt. Cùng thế ấy khi thiền sinh trau giồi sati ngoài khóa thiền. Bởi có nhiều hoàn cảnh mê loạn và nhiều điều kiện trong thế gian bên ngoài, mặc dầu có hành sati người ấy vẫn còn cảm nghe khói và hơi nóng của ô nhiễm (kilesas, những ô nhiễm của tham, sân, si v.v...). Nơi đây cần phải có nhiều kiên nhẫn. Không thể thành công trong một sớm một chiều. Do đó luôn luôn cần phải có sự chú tâm chánh đáng, thích nghi (yoniso mansikàra). Về điểm này điều quan trọng là thiền sinh phải trau giồi satthaka sampajanna và sappaya sampajanna.
Satthaka sampajanna là hiểu biết rõ ràng mục tiêu hay lợi ích. Khi muốn nói hay làm điều gì vị hành giả phải xem xét mục tiêu - tức xem coi mình nói hay làm điều ấy có lợi hay không. Dầu có lợi, cũng phải xét suy xem nói hay làm như vậy vào thời điểm này có thích hợp hay không. Ðó là Sappaya sampajanna (hiểu biết rõ ràng tánh cách hợp thời). Ðôi khi nói hay làm điều nào đó thì có lợi, nhưng có thể không thích nghi vào lúc bấy giờ. Thí dụ như khuyên dạy một người là tốt, nhưng làm như vậy trước mặt mọi người thì có thể không thích nghi. Phải nói một cách kín đáo, vào lúc mà người ấy sẵn sàng hơn để nghe. Nếu có thể thường áp dụng hai sự hiểu biết rõ ràng (sampajanna) này, quý vị sẽ tránh được nhiều vấn đề phiền phức và trở thành khôn khéo hơn trong khi giao dịch với người khác.
Hai hiểu biết rõ ràng (sampajanna) này cùng chung hợp lại cũng được gọi là parihariya pannà, có nghĩa là trí tuệ để: 1) thực hiện những hành động thiện, có lợi và 2) tránh xa những hành động bất thiện, không lợi ích. Nó cũng được gọi là nepakka pannà có nghĩa trí tuệ thuần thục, trí tuệ đã chín mùi.
Nếu đã tiến bộ khả quan trong khóa thiền, vị thiền sinh sẽ thấy rằng niệm (sati) thỉnh thoảng sẽ đến với mình một cách tự nhiên, nhất là khi có nguy cơ phạm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không dùng chất say v.v...). Vị ấy cũng giống như người đang mặc một bộ đồ trắng tinh - tự nhiên tránh xa cát đất bụi bặm, sợ làm lấm dơ quần áo của mình. Một vị Tu Ðà Hườn chẳng hạn, sẽ không bao giờ phạm lỗi nào trong năm giới. Vị ấy cũng không cần phải cố gắng kiêng cữ; một cách tự nhiên vị ấy không có ý muốn làm điều gì phạm giới.
Người mà trí tuệ minh sát vẫn còn yếu phải cần đặc biệt gia công chú niệm để giữ mình khỏi phạm giới. Ðều đặn hành thiền là một thói quen rất quan trọng. Khi niệm trở thành là thói quen, nó sẽ hoạt động như một cái thắng, kềm hãm lại, không để ta làm những chuyện bất thiện điên rồ. Trong khi thiền sinh thực tập hành thiền tâm chú niệm sẽ đến, ngày càng dễ dàng hơn, tự nhiên hơn và một cách hầu như tự động.
NHỮNG NGÀY XA XƯA VÀ HIỆN NAY
TKV: Kính bạch Thiền Sư, trong những ngày xa xưa, hình như người ta chứng đắc đạo quả hay Niết Bàn (magga-phala) khá dễ dàng, dầu trong khi đang làm công việc hằng ngày như nấu ăn, giặt giệm quần áo v.v... Hành giả ngày nay tại sao không được vậy? Ngoài khóa thiền họ có thể tiếp tục giữ chánh niệm trong khi làm việc này việc nọ trong nhà không?
TSP: Chắc như vậy, ghi nhận là con đường dẫn đến đạo quả (magga-phala). Giờ phút nào ghi nhận là thiền sinh đi đúng trên đường đến Niết Bàn. Nhưng hiện nay, trong khi lăng xăng bận rộn với những sinh hoạt hằng ngày, vô cùng khó cho hành giả thành công.
Trong những ngày xa xưa thì khác. Trước tiên, có Ðức Phật ở sẵn bên cạnh để chỉ giáo, đúng ngay pháp hành nào cần cho hành giả nào, vào đúng lúc. Hơn nữa, những vị hành giả lúc bấy giờ đã tạo đủ những ba-la-mật cần thiết. Những vị ấy đã có xây đắp nền tảng trong nhiều kiếp sống quá khứ. Tâm các Ngài đã trong sạch và sẵn sàng để hấp thụ Giáo Pháp (Dhamma). Trong hiện tại, người ta thường bị ô nhiễm tấn công liên tục. Họ có nhiều quyến rũ của dục vọng. Tâm của họ không mấy trong sạch. Ngũ căn của họ (indriyas: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn) chưa được thuần thục. Như vậy rất khó cho họ thành đạt tiến bộ như những vị hành giả thời xa xưa.
Tuy nhiên, không có cố gắng nào mất luôn. Nếu hành giả chuyên cần ghi nhận mỗi ngày, nó sẽ trở thành thói quen và khi tham dự một khóa thiền, thói quen ấy sẽ làm tăng trưởng niệm (sati) và sẽ giúp tiến bộ đáng kể.
NHỮNG ÐẶC TÁNH CỦA NIỆM (SATI)
TKV: Bạch Ngài, nhằm lợi ích cho hành giả, nơi đây chúng ta có thể thảo luận về loại niệm (sati) nào hành giả trau giồi trong một khóa thiền chăng?
TSP: Ðược, cũng như Sư đã biết, sati là niệm, hay biết. Chúng ta sẽ khảo sát bản chất của sati, satipatthàna (niệm và niệm xứ) và hành giả phải ghi nhận và quan sát như thế nào. Trước tiên, ta phải hiểu biết đặc tướng (lakkhana), chức năng (rasa), sự biểu hiện (paccupatthàna) và nguyên nhân kế cận (padatthàna) của niệm (sati). Ðặc tướng của niệm là apilana. Apilana là không nổi trên mặt; pilana là "nổi". Apilana - không nổi - có nghĩa là chìm. Nếu không nổi tức chìm. Nơi đây ý muốn nói là niệm (sati) có đặc tướng là chìm trong đề mục. Sati không nổi trên bề mặt mà thấm sâu, hay chìm trong đó, cũng giống như ta ném một cục đá xuống nước, đá không nổi trôi trên mặt nước mà chìm xuống đáy. Cùng thế ấy đặc tướng (lakkhana) của niệm (sati) là chìm trong đề mục.
Chức năng (rasa), của niệm (sati) là asammoha (theo nghĩa từng chữ là "không mơ hồ"). Nơi đây có nghĩa là chức năng, phận sự, hay việc làm của niệm (sati) là bảo đảm rằng đề mục không lẫn thoát. Tâm ghi nhận liên tục theo dõi đề mục từ đầu đến cuối không gián đoạn. Bất luận gì phát sanh, tâm không để mất. Tâm nhận ra và chìm vào trong đó. Nó đánh ngay vào đích. Ðó là chức năng của niệm (sati); ghi nhận đề mục không để mất, không để đề mục lẫn biến khỏi tầm mắt, mà liên tục theo dõi từ lúc khởi sanh đến lúc nó chấm dứt.
Sự biểu hiện (paccupatthàna) của niệm (sati) là visayàbhimukha. Visaya hàm xúc đề mục, và abhimukha có nghĩa "đối diện với đề mục, mặt giáp mặt, nhìn thấy đề mục". Như vậy niệm (sati) biểu hiện là thấy đề mục một cách trực tiếp, diện đối diện, hiểu biết rõ ràng, tường tận. Khi chức năng (rasa) của sati đã hoàn thành thì sati sẽ tự nhiên biểu hiện là thấy đề mục rõ ràng, mặt giáp mặt. Một biểu hiện khác của niệm (sati) là arakkha (giữ gìn, bảo vệ). Niệm (sati) bảo vệ tâm không để ô nhiễm (kilesa) làm hoen ố. Không ô nhiễm nào có thể xâm nhập vào tâm trong khi có mặt chánh niệm (sammà sati). Cũng như ta khóa kín cửa lại không để ô nhiễm (kilesa) xâm nhập vào, hay cũng như đóng cửa sổ lại không cho mưa gió lọt vào.
Nguyên nhân kế cận (padatthàna) của niệm (sati) là thirasannà - sự hay biết liên tục, vững chắc. Sự hay biết đề mục càng vững chắc mạnh mẽ - về những đặc tánh của nó như nóng, lạnh, cứng, căng thẳng v.v... - niệm (sati) càng vững. Hay biết ở đây có nghĩa là hay biết đề mục, hiểu biết, nhận ra đối tượng đúng như bản chất thật sự của nó là vậy, không lầm lẫn với vật gì khác.
Giờ đây hãy xem qua danh từ "satipatthàna", niệm xứ. Danh từ này có thể là được phân tích thành sati + pa + thàna. "Sati" là niệm. "Pa" ở đây có nghĩa phân biệt. Ðây là sự ghi nhận mạnh mẽ, nhiệt liệt, vững chắc, phi thường, liên tục, không lay chuyển, hay niệm. "Thàna" hàm xúc nơi chốn (xứ) mà ta kiên cố thiết lập chú niệm trên đó, tức thân (kàya), thọ (vedanà), tâm (citta), và pháp (dhamma).
Như vậy niệm xứ (satipatthàna) có thể được hiểu là tâm chú niệm mạnh mẽ vững chắc và không lay chuyển, phát sanh liên tục, không gián đoạn, thâm nhập thấm sâu vào đề mục khởi phát, dầu là thân, thọ, tâm hay pháp.
KHÔNG CÓ THÌ GIỜ ÐỂ NGỪNG NGHỈ , CỨ LAO MÌNH VÀO ÐỀ MỤC
Ta hãy tiến sâu thêm vào vấn đề. Hành giả phải ghi nhận như thế nào? Hành giả phải lao mình xông thẳng vào đề mục. Vừa khi đối tượng khởi sanh - như phồng, xộp, ngồi, đụng, căng thẳng, ngứa v.v... - niệm (sati) phải gấp rút và mạnh mẽ xông thẳng vào. Không thể hưỡn đại chậm lại hay biến bước từ từ. Không nên để mất khoảnh khắc nào, và tuyệt đối không có thì giờ để suy tư. Không có thì giờ để nghĩ ngợi như "Cái này là gì? Cái này như thế nào? Tại sao cái này?" Ta cứ xông xáo sấn thẳng vào đề mục mà không suy tưởng, khảo sát hay phân tích.
Chỉ có thế! Khoảnh khắc nào mà ta suy tưởng hay khảo sát là làm mất đà của niệm (sati). Trong khoảnh khắc ấy ta không đánh thẳng vào đích, ta sẽ mất trung tâm của mục tiêu. Ðể có một thí dụ khác, đây cũng như xung kích vào để chiếm mục tiêu, như nhân viên cảnh sát chạy ùa vào để bắt một tội phạm.
Hơn nữa, niệm (sati) chẳng những phóng mình xông vào bên trong đề mục mà còn trải rộng ra bao phủ nó. Niệm (sati) bao trùm toàn thể đề mục, không phải chỉ một phần. Chẳng hạn như nếu ghi nhận bụng phồng lên và xộp xuống, hành giả gom hẹp sự chú tâm vào phần của bụng phồng lên và xộp xuống v.v... và cùng lúc ấy cũng bao gồm toàn vùng, hay biết sự căng thẳng, chặt, cứng, hay bất cứ gì có thể nổi bật. Ðôi khi niệm (sati) kiên cố vững chắc, có thể "bao gồm" cả toàn thân tức có thể hay biết những hiện tượng như phát sanh và hoại diệt của những vùng khác nhau trong thân.
[Xin xem tường thuật của Ngài Thiền Sư về kinh nghiệm của nhiều vị thiền sinh có chú niệm (sati) mạnh mẽ, ở phần phụ bản về "Chú Niệm đặc biệt", cuối trang.]