|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:11:34 GMT -5
Ngay Trong Kiếp Sống Này Giáo Pháp Giải Thoát của Ðức Phật Sayadaw U Pandita Tỳ Kheo Khánh Hỷ (Aggasami Trần Minh Tài) soạn dịchMục Lục Lời Mở Ðầu 1. Giới Luật Căn Bản Và Hướng Dẫn Cách Hành Thiền Lẽ Phải Căn Bản Của Con Người Chỉ Dẫn Cách Hành Thiền Thiền Hành Cách Trình Pháp 2. Nguyên Nhân giúp Ngũ Căn Bén Nhạy Chú Tâm Vào Sự Vô Thường Quan Tâm và Tôn Trọng Việc Hành Thiền Liên Tục Không Gián Ðoạn Những Ðiều Kiện Hỗ Trợ Nhớ Lại Những Ðiều Kiện Thuận Lợi Phát Triển Thất Giác Chi Dũng Cảm Tinh Tấn Kiên Nhẫn và Nghị Lực Quyết Tâm Theo Ðuổi Việc Hành Thiền 3. Mười Ðạo Binh Ma Dục Lạc Bất Mãn Ðói, Khát Tham Ái Dã Dượi Buồn Ngủ Hãi Khiếp Nhược Hoài Nghi Kiêu Mạn và Vô Ơn Danh Lợi Khen Mình, Chê Người 4. Bảy Pháp Trợ Bồ Ðề [Phần A] Chánh Niệm Trạch Pháp Tinh Tấn [Phần B] Hỉ Thư Thái Ðịnh Xả Lợi ích Của Sự Phát Triển Thất Giác Chi 5. Các Tầng Thiền Minh Sát [Phần A] Làm Dịu Tâm Quét Sạch Khổ Ðau Chướng Ngại và Pháp Ðối Trị Hiểu Biết Thấu Ðáo Bản Chất Thế Gian [Phần B] Ðạt Ðến Các Tầng Thiền Minh Sát Cao Hơn Niết Bàn 6. Chiếc Xe Ðưa Ðến Niết Bàn [Phần A] [Phần B] Phụ Lục Bảy Pháp Trợ Bồ Ðề Chướng Ngại và Pháp Ðối Trị Tóm Lược Cách Trình Pháp Ngay Trong Kiếp Sống Này Giáo Pháp Giải Thoát của Ðức Phật Sayadaw U Pandita Tỳ Kheo Khánh Hỷ (Aggasami Trần Minh Tài) Soạn dịch Như Lai Thiền Viện Ấn Bản Thứ Nhất: 1996 Như Lai Thiền Viện giữ bản quyền. Quý vị muốn in lại từng phần hay nguyên bản, xin liên lạc với Như Lai Thiền Viện tại 1215 Lucretia Ave, San Jose, CA 95122. USA Sách Ấn Tống - Không Bán
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:13:31 GMT -5
Lời Nói Ðầu Lời Giới Thiệu Lúc Hoà Thượng Thiền Sư Pandita sang Hoa Kỳ lần đầu tiên vào năm 1984, chúng tôi chỉ biết danh tiếng của Ngài vì Ngài là người kế nghiệp Hoà Thượng Thiền Sư Mahasi. Nhưng chúng tôi không ngờ rằng sự hiện diện và sự dạy dỗ của Ngài đã giúp chúng tôi mở rộng tầm hiểu biết mới. Là một thiền sư, Ngài đã hướng dẫn chúng tôi thực hành một cách tinh tế và vi diệu. Là một học giả, Ngài đã đem lại sức sống và ý nghĩa mới mẻ về những lời dạy muôn đời của Ðức Phật. Và là một người bạn tinh thần vĩ đại, Ngài đã khích lệ chúng tôi nỗ lực tìm đến nơi giải thoát cao thượng. Ðức Phật xuất thân từ giòng dõi chiến sĩ của xứ Ấn Ðộ cổ xưa. Và ngày nay, Hoà Thượng Thiền Sư Pandita là một chiến sĩ tâm linh của thời đại chúng ta. Ngài nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải dũng mãnh tinh tấn và vui mừng tin tưởng là chúng ta có thể giải thoát ngay trong kiếp sống này. Hoà Thượng đã giúp chúng ta nhận ra nguồn năng lực bên trong của chính mình, để chinh phục một con tâm chật hẹp, giới hạn, lệ thuộc vào điều kiện ngoại giới và chấp thủ. Ðây là cuốn sách ghi lại những bài pháp mà Hoà Thượng Thiền Sư Pandita đã thuyết giảng trong một khoá thiền ba tháng Ngài dạy lần đầu tiên tại Thiền Viện Insight Meditation Society ở Barre, Massachusetts. Ngài giảng giải tỉ mỉ từng chi tiết cả phương pháp thực hành lẫn lý thuyết khuôn mẫu. Những bài pháp đầy ý nghĩa này giúp cho chúng ta mở rộng kiến văn và tư tưởng khiến cho tâm chúng ta trưởng thành và lãnh hội thấu đáo những lời dạy quen thuộc; đồng thời khiến cho chúng ta có một cái nhìn mới về một số quan điểm xưa cũ mà chúng ta mến yêu và chấp trước. Cuốn sách này là một kho tàng quí giá cho những ai muốn thực hành giáo pháp. Mong rằng cuốn sách này sẽ đánh thức phần trí tuệ và từ bi trong tất cả chúng ta. Joseph Goldstein Barre, Massachusett Lời Tác Giả Ðộc Giả Thân Mến, Với sự khiêm tốn và chân thành mong muốn giúp các bạn tự mình nhận chân được sự bình an và hạnh phúc nội tâm, chúng tôi trình bày những bài giảng trong cuốn sách này căn cứ trên giáo pháp hay chân lý của Ðức Phật và theo truyền thống của Cố Hoà Thượng Mahasi ở Rangoon, Miến Ðiện. Với tất cả sự hiểu biết, chúng tôi cố gắng hết sức để đem lại lợi ích cho các bạn. Những bài pháp trong cuốn sách này đem lại cho các bạn năm lợi ích sau đây: Trước tiên bạn sẽ biết được nhiều khía cạnh mới về Phật Pháp mà có thể bạn chưa từng nghe trước đây. Thứ hai, nếu đã được nghe những bài giáo lý này bạn có thể củng cố kiến thức Phật Pháp của mình. Thứ ba, nếu bạn có hoài nghi về Phật Pháp, những bài giáo lý này sẽ giúp bạn phá tan sự nghi ngờ. Thứ tư, nếu bạn có một vài quan kiến và định kiến sai lầm, bạn có thể vất bỏ chúng nhờ bạn có một sự hiểu biết chân chính thích hợp và tôn trọng Pháp Bảo. Ðiều cuối cùng và cũng là khía cạnh tròn đủ nhất là bạn có thể xác kiểm lại kinh nghiệm thực hành của mình với những gì đã được viết trong sách này. Nếu bạn có sự thực hành thâm sâu thì đây là cơ hội để bạn vui thích và hoan hỉ khi bạn biết rằng kinh nghiệm của mình phù hợp với giáo lý trong kinh điển. Nếu bạn chưa hành thiền, có lẽ những bài pháp này sẽ khích lệ bạn bắt đầu. Rồi trí tuệ, vị thuốc bổ dưỡng nhất, sẽ đưa bạn ra khỏi khổ đau tinh thần. Chúc các bạn có nhiều hứng khởi và tinh tấn trên đường đạo. Mong các bạn đạt đến giải thoát, mục tiêu cao thượng nhất. Sayadaw U Pandita Vài Lời của Người Soạn Dịch Ðây là những bài pháp được soạn dịch từ những bài giảng của Hòa Thượng Thiền Sư U. Pandita hiện là Viện trưởng Thiền Viện Panditarama ở Yangon, Miến Ðiện. Những bài pháp này đã được giảng trong một khóa thiền dài ba tháng tại Insight Meditation Society ở Barre, Massachusetts, Hoa kỳ. Thiền Sư U. Pandita là người kế nghiệp Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi. (Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi là vị chủ trì kỳ kết tập tam tạng lần thứ sáu, Viện trưởng đầu tiên Thiền viện Mahasi ở Yangon, Miến Ðiện). Các bài pháp này đã được thu băng và được làm tài liệu giảng dạy cho thiền sinh ngoại quốc hiện đang tu học tại thiền viện Panditarama cũng như các thiền viện tu tập Thiền Minh Sát ở Hoa Kỳ, Anh, Úc, Canada, Mã lai, Singapore vv... Những bài giảng này cũng đã được chọn lọc, hiệu đính lại và cho in thành sách có tên là "IN THIS VERY LIFE". Một số các thiền sinh Việt nam hành thiền dài hạn tại thiền viện Panditarama đến từ Hoa kỳ, Pháp, Thụy sĩ, Việt nam... quen thuộc với tiếng Việt hơn nên Hòa Thượng Thiền Sư giao cho chúng tôi hướng dẫn; do đó chúng tôi có cơ hội để dịch những bài giảng này làm tài liệu tu học cho các thiền sinh Việt nam đang tích cực hành thiền tại Miến Ðiện. Nhận thấy đây là những bài pháp hữu ích có thể giúp cho quí Phật tử mở rộng kiến văn, đồng thời hỗ trợ cho các thiền sinh mới cũng như quí vị đã hành thiền lâu năm hiểu rõ cách thực hành và đào sâu thêm về phần lý thuyết nên chúng tôi đã thâu vào băng nhựa để gửi đến quí vị. Ðể phổ biến sâu rộng hơn những bài pháp hữu ích này hầu mọi người đều được hưởng lợi lạc nên ban Tu Thư Như Lai Thiền Viện yêu cầu chúng tôi sửa chữa lại để in thành sách. Cuốn sách Ngay Trong Kiếp Sống Nầy này phần lớn được soạn dịch từ cuốn IN THIS VERY LIFE cuả Hoà Thượng Thiền Sư Pandita và được bổ túc bằng những chi tiết trong các cuốn băng giảng gốc bằng tiếng Miến và tiếng Anh mà Hòa Thượng đã thuyết giảng tại Insight Meditation Society ở Barre, Massachusetts, Hoa kỳ và từ các bài pháp mà Thiền sư đã thuyết giảng cho thiền sinh ngoại quốc tại thiền viện Panditarama ở Miến Ðiện. Phần trình pháp ở chương một được bổ túc đầy đủ và phần phần tóm lược cách trình pháp được nhắc lại trong phần phụ lục. Các phần trình pháp ở đây không những giúp cho thiền sinh biết rõ cách trình bày kinh nghiệm của mình cho thiền sư mà còn giúp hiểu rõ cách hành thiền, hiểu rõ những gì cần phải chú tâm khi hành thiền minh sát. Hiểu rõ cách hành thiền, hiểu rõ cách trình pháp sẽ giúp cho thiền sinh có chánh niệm mạnh mẽ và có sự hiểu biết rõ ràng, chính xác trong khi hành thiền. Ðể độc giả có dịp làm quen với tiếng Pali, ngôn ngữ chính trong các kinh điển Phật giáo, nên trong phần Pali-Việt đối chiếu, những từ Pali được giải thích rộng hơn và bổ túc thêm một số từ thông dụng. Chúng tôi xin thành thật cám ơn quí vị đã bỏ công sức vào việc hoàn thành bản soạn dịch Ngay trong kiếp sống này ; xin chia đều phước báu của pháp thí cao quí này đến tất cả quí vị. Trước hết, chúng tôi xin thành thật cám ơn Hòa Thượng Thiền Sư Pandita đã giảng giải cặn kẽ cho chúng tôi trong những phần mà các băng dịch tiếng Anh và sách tiếng Anh chưa diễn hết ý. Tiếp đến, Thiền Sư Khippa Panno (Kim Triệu) đã hiệu đính và chỉ dẫn các khiếm khuyết. Ðại Ðức Trí Dũng và Ðạo hữu Phạm Phú Luyện đã bỏ ra nhiều ngày cùng chúng tôi duyệt lại toàn bản soạn dịch. Sư cô Sunanda đã chép tay bản thảo, sửa lại câu văn và dịch phụ nhiều đoạn. Bản thảo gửi từ Miến Ðiện về Mỹ bị thất lạc nên Ðại Ðức Nagasena đã nghe lại băng nhựa mà đánh vào máy vi tính. Trong khi đọc vào băng, nhiều đoạn chúng tôi phải sửa theo văn nói nên khi viết thành sách câu văn đã phải thay đổi nhiều, thêm vào đó bản đánh máy được ghi lạitừ băng nhựa nên phần chấm câu v.v... không được chính xác. Hai đạo hữu Trần Minh Lợi và Từ Sơn đã thận trọng điều chỉnh lại phần chấm câu. Trước khi chuyển sang Thiền sư Kim Triệu xem xét lần cuối, Thượng Tọa Razinda, Ðại Ðức Chánh Thân, Sư cô Sudanta, các đạo hữu Vương Minh Thu, Ðặng Trần Vinh, Sukhavati Diệu Thu, Bội Khanh, Sudhamma Ngọc Quỳnh đã cẩn thận sửa chữa những sai sót về chánh tả và kỹ thuật. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn quí vị đã khuyến khích, đóng góp tịnh tài để cuốn sách sớm ra mắt độc giả. Mặc dầu đã hết sức cố gắng, nhưng vì bận tu học và nhiều công tác Phật sự khác nên chúng tôi không có đủ thì giờ để sửa chữa thật chu đáo, do đó bản dịch này chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Chúng tôi thành thật xin các bậc Trưởng Thượng hoan hỉ chỉ điểm cho những chỗ sai lầm và rất hân hoan đón nhận những ý kiến xây dựng của các bạn Phật Tử bốn phương để lần tái bản được hoàn hảo hơn. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Tỳ kheo Khánh Hỷ (Aggasemi Trần Minh Tài) Lời Giới Thiệu Ban Tu Thư Như Lai Thiền Viện Như Lai Thiền viện đã có duyên lành được Ngài Thiền Sư U. Pandita trên đường hoằng pháp ở Hoa Kỳ ghé đến hướng dẫn thiền tập nhiều năm kể từ năm 1989. Ngài đã vượt trùng dương mang theo những làn sóng trầm hùng của thiền quán vỗ vào bến đời khô cạn của thiền sinh. Trong những lần pháp thoại và hướng dẫn hành thiền, Ngài như một chiến tướng oai nghi và hùng dũng trên cổ xe từ bi và trí tuệ thúc dục thiền sinh nỗ lực không ngừng nghỉ để đánh tan các đoàn quân tham lam và sân hận trên chiến trường si mê của kiếp nhân sinh. Ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại để cho chúng ta thấy rõ rằng giải thoát là một việc mà bất cứ ai nỗ lực thiền tập đều có thể thành đạt ngay trong kiếp sống này chứ không phải là chuyện mơ hồ như thường được nghĩ. Những lời dạy của Ngài Thiền Sư đã được đúc kết trong một khóa giảng dài ba tháng tại Hoa kỳ, được chọn lọc và dịch sang tiếng Anh có tên là in this very life. Sách dạy về thực tập thiền quán: "Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm chúng sinh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt trừ khổ thân và khổ tâm, đạt thánh quả và giác ngộ Niết bàn" như đã được Ðức Phật giảng dạy trong kinh Ðại Tứ Niệm Xứ. Lời dạy này là những tiếng sấm rền vang xác quyết về sự khả hữu của việc giác ngộ như những tia chớp sáng loè xóa tan bầu trời đêm mịt mù tăm tối. Nhận thấy tầm mức quan trọng của cuốn sách này đối với Phật tử và Thiền sinh Việt Nam nên Như Lai Thiền Viện thỉnh cầu Ðại Ðức Khánh Hỷ (Aggasemi Trần Minh Tài) hoàn chỉnh lại những bài soạn dịch mà Ðại Ðức đã đọc vào băng nhựa trước đây để in thành sách. Dầu bận rộn với nhiều Phật sự khác Ðại Ðức đã hoan hỉ nhận lời và đã hoàn mãn công tác một cách nhanh chóng và cẩn trọng. Bản soạn dịch có tựa đề Ngay Trong Kiếp Sống Này với lời văn thật súc tích, rõ ràng và trôi chảy, phản ánh trung thực tinh thần giảng dạy của Ngài Thiền Sư. Ðây là một công trình soạn dịch thật công phu đòi hỏi khả năng thông hiểu giáo lý và kinh nghiệm thực chứng. Ngoài ra Ðại Ðức đã bổ túc nhiều phần mà Ngài thiền Sư đã giảng dạy nhưng không được ghi lại trong bản tiếng Anh. Như Lai Thiền Viện xin được tán thán công đức và chân thành cảm tạ Ðại Ðức đã cho Thiền Viện đặc ân ấn tống cuốn Ngay Trong Kiếp Sống Này. Cầu mong phước báu Ðại Ðức đã vun bồi sẽ là nhân lành hỗ trợ sự viên thành trí tuệ giải thoát của Ðại Ðức trên đường tu tập Giới, Ðịnh, Huệ. Như Lai Thiền Viện lấy làm vinh dự giới thiệu bản soạn dịch Ngay Trong Kiếp Sống Này đến Thiền Sinh và Phật Tử. Ban Tu Thư Như Lai Thiền Viện 1215 Lucretia Avenue San Jose. CA 95122. USA Tel. (408) 294 4536
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:14:09 GMT -5
Giới Luật Căn Bản và Hướng Dẫn Cách Hành ThiềnoOo Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật và tuân theo những lời chỉ dẫn của các thiền sư, đủ thẩm quyền và đáng tin cậy, để có thể đạt được sự thanh tịnh trong sạch như Chư Phật. Sau khi có được sự thanh tịnh trong chính mình, chúng ta có thể khích lệ và chia xẻ giáo pháp hay chân lý này với người khác. Những lời dạy của Ðức Phật có thể tóm tắt trong ba phần: Giới, Ðịnh và Huệ. Giới được nói đến trước vì giới là căn bản hay là nền tảng của Ðịnh và Huệ. Không có giới thì không thể nào có bước kế tiếp là phát triển Ðịnh và Huệ. Ðối với cư sĩ, giới căn bản là ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống rượu và các chất say. Giới luật thanh tịnh sẽ giúp chúng ta tiến bộ dễ dàng trong việc thực hành thiền. Lẽ Phải Căn Bản Của Con Người Giới luật không phải là những giáo điều được Ðức Phật áp đặt buộc chúng ta phải tuân theo. Giới luật cũng không phải chỉ giới hạn trong những lời dạy của Ðức Phật mà phát xuất từ lương tri hay là lẽ phải căn bản của con người. Chẳng hạn, khi chúng ta bị sân hận chế ngự và muốn làm hại kẻ khác thì chúng ta nên đặt mình vào hoàn cảnh của người và thành thật nghĩ đến những hành động mà chúng ta sắp đặt hay trù định làm thì chúng ta sẽ nhanh chóng có câu trả lời: "Không, ta không muốn ai làm hại ta như thế. Ðó là một việc làm dã man và bất công". Khi dự định làm một việc gì, nếu ta chịu khó chiêm nghiệm trước khi làm và đặt mình vào hoàn cảnh của người thì ta có thể tránh được những hành động sai lầm. Trong cách này, giới luật có thể được xem là sự thể hiện lương tri hay là lẽ phải căn bản của một người đối với một người khác. Khi đặt mình vào hoàn cảnh của người, ta sẽ cảm nhận được sự đau khổ của một nạn nhân khi bị kẻ khác làm hại. Giữ gìn giới luật trong sạch là thể hiện tình thương và mối quan tâm của mình đối với người khác. Không những tránh làm hại kẻ khác, chúng ta còn phải tránh nói lời không thật, nói lời chia rẽ, mắng nhiếc hay hạ nhục người khác hoặc nói những lời vô ích, mất thời giờ quí báu. Khi thu thúc hành động nóng nẩy và lời nói giận dữ thì những thô tướng bất thiện của tâm sở có thể dần dần bớt hiện khởi hay ít nhất cũng yếu dần đi và ít xuất hiện thường xuyên. Dĩ nhiên, nóng giận không phải là nguyên nhân độc nhất khiến ta làm hại kẻ khác. Tham lam khiến ta cố gắng chiếm giữ một vật nào đó không phải là của mình một cách bất hợp pháp, vô đạo đức. Ái dục cũng khiến ta dính mắc vào vợ hay chồng của người khác. Một lần nữa, trước khi làm điều gì nếu bình tâm suy nghĩ thì chúng ta sẽ cố gắng thu thúc thân tâm không để cho tham ái bùng khởi. Chỉ một chút rượu và chất say cũng làm cho chúng ta mất trí tuệ, dễ dàng bị dao động bởi các thô tướng của tham và sân. Nhiều người bào chữa cho việc uống rượu và dùng chất say, cho rằng chúng chẳng có gì là xấu. Nhưng thật ra, rượu và chất say rất nguy hiểm; chúng khiến một người thiện lương làm những hành vi bất thiện. Uống rượu và chất say mở cửa cho nhiều vấn đề: nói không suy nghĩ, trở nên hung tợn giận dữ, hành động bất cẩn có thể tổn hại đến tánh mạng mình hay người khác. Thật vậy, khó mà lường được những gì người say có thể làm. Tránh xa dùng rượu và chất say là cách bảo vệ cho chính mình và cho những người khác. Ða số thiền sinh nguyện giữ tám giới hay mười giới, và các vị tỳ khưu phải giữ hai trăm hai mươi bảy giới. Những Yếu Tố Hỗ Trợ Cho Việc Hành Thiền Trong một khóa thiền, thiền sinh cần phải thay đổi một số thái độ để hỗ trợ cho việc hành thiền tích cực. Trong khóa thiền, giữ yên lặng là một cách biểu hiện của chánh ngữ. Thiền sinh cũng phải giữ hạnh độc thân, tiết chế trong việc ăn uống để khỏi uể oải buồn ngủ và để làm suy giảm sự tham ăn. Ðức Phật khuyên chúng ta không nên ăn từ mười hai giờ trưa đến sáng hôm sau. Khi hành thiền có kết quả, ta sẽ thấy giáo pháp có hương vị tuyệt hảo hơn mọi hương vị trên thế gian này. Sạch sẽ gọn gàng cũng là một đức tính khác giúp cho trí tuệ phát triển. 1. Sạch sẽ bên trong: Thân thể cần phải tắm rửa sạch sẽ, tóc tai phải cắt, bới gọn gàng, móng tay nên cắt ngắn, và giữ gìn đừng cho bón uất. 2. Sạch sẽ bên ngoài: áo quần, phòng ốc phải được sắp xếp ngăn nắp và sạch sẽ, vệ sinh. Những đức tánh gọn gàng sạch sẽ trên sẽ giúp cho tâm an tịnh trong sáng. Tuy nhiên, cũng đừng quá dính mắc vào sự gọn gàng sạch sẽ này. Ðừng biến nó thành một ám ảnh khiến bạn bị phân tâm trong lúc hành thiền. Trong các khóa thiền cũng không nên trang sức, thoa dầu thơm, trang điểm v.v... Thực ra, trên thế gian này, không món trang sức nào quí báu hơn giới đức; không chỗ ẩn trú nào mà an toàn hơn giới đức; không một nơi nào thuận lợi hơn để cho trí tuệ nở hoa bằng khu đất giới đức. Giới đức không phải là sự đẹp đẽ tô trét bên ngoài như lớp tường vôi bao phủ những viên gạch loang lỗ tàng ẩn bên trong, nhưng là những đức tính cao quí phát xuất từ phần sâu kín trong tâm hồn chiếu rạng ra toàn thể con người. Ðây là loại trang điểm thích hợp cho mọi hạng người, mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh và mọi mùa, không bao giờ bị lỗi thời. Thế nên hãy giữ gìn giới luật trong sạch để tạo cho mình một loại trang sức tươi mát và đẹp đẽ. Tuy thế, dầu cho giới luật thể hiện qua hành động và lời nói có được tốt đẹp đến đâu đi nữa, cũng không đủ khả năng để đào luyện tâm. Phương cách cần thiết để giúp cho tâm trưởng thành, thấy rõ bản chất thật sự của cuộc sống và đưa tâm đến một mức hiểu biết thâm sâu chẳng có gì khác hơn là sự hành thiền. Chỉ dẫn cách hành thiền Những nơi tốt nhất để hành thiền, theo lời chỉ dẫn của Ðức Phật, là trong khu rừng, dưới cội cây hay một nơi vắng vẻ yên tịnh. Thiền sinh phải ngồi kiết già một cách an tịnh và tĩnh lặng. Nếu ngồi kiết già quá khó khăn, có thể ngồi cách nào cũng được. Những ai đau lưng trầm trọng có thể ngồi ghế dựa. Muốn tâm yên tịnh thì thân phải yên tịnh, vì thế, thiền sinh cần phải chọn lối ngồi thích hợp với mình để có thể ngồi lâu một cách thoải mái. Lúc ngồi, phải giữ lưng ngay ngắn, thẳng góc với mặt đất, nhưng không cứng ngắt. Ngồi thẳng thì trông dễ coi. Khi ngồi thẳng thì xương sống không bị cong giúp chúng ta có thể ngồi lâu. Hơn nữa, tinh tấn thể chất để giữ thân ngồi thẳng mà không cần một sự hỗ trợ nào sẽ tạo năng lực cho việc hành thiền. Nhắm mắt lại. Ðặt tâm ở bụng. Thở bình thường, đừng cố gắng thở mạnh, thở nhanh hay thở chậm. Cứ để hơi thở tự nhiên. Bạn sẽ thấy được những cảm giác bên trong khi bụng chuyển động lên xuống. Hãy chú tâm vào mọi tiến trình của các chuyển động phồng xẹp này. Hãy theo dõi các cảm giác từ lúc bụng bắt đầu phồng, kéo dài và chấm dứt. Cũng vậy, hãy chú tâm vào chuyển động xẹp: đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối. Theo dõi chuyển động đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, không có nghĩa là chỉ theo dõi ba thời điểm, mà phải theo dõi các tiến trình chuyển động một cách liên tục từ đầu đến cuối. Hãy chú tâm một cách tự nhiên, thoải mái. Ðừng quá chăm chú vào các cảm giác của bụng. Ðừng cố tìm xem sự phồng xẹp khởi đầu và chấm dứt như thế nào. Trong việc hành thiền, điều quan trọng là phải có sự tinh tấn và sự hướng tâm chính xác vào đối tượng để tâm tiếp xúc với cảm giác một cách trực tiếp và đầy năng lực. Ðể hỗ trợ cho việc tập trung tâm ý vào đề mục một cách mạnh mẽ, chính xác, bạn có thể niệm thầm phồng, phồng, phồng hay xẹp, xẹp, xẹp khi quan sát chuyển động của bụng. Trở Về Ðề Mục Chính Sau Khi Phóng Tâm Khi tâm bắt đầu vọng động, rời khỏi đề mục mà suy nghĩ đến chuyện khác thì ngay lúc ấy phải quan sát tâm, ý thức rằng mình đang suy nghĩ. Và để xác nhận rõ ràng tâm đang vọng động, bạn phải niệm thầm suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ rồi trở về lại với chuyển động của bụng. Mọi hiện tượng diễn ra ở sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm cũng phải được quan sát một cách chánh niệm. Dù cho nỗ lực tinh tấn, nhưng không ai có thể luôn luôn và hoàn toàn để tâm trên đề mục phồng xẹp được. Các đề mục khác sẽ khởi dậy và nổi bật lên hay chiếm ưu thế. Hình sắc, âm thanh, mùi vị, sự động chạm và những đối tượng của tâm như: hình ảnh hiện ra trong tâm do tưởng tượng, cảm xúc... Tất cả những thứ ấy bao quanh đề mục thiền của chúng ta và chờ cơ hội nhảy vào. Mỗi khi những đối tượng này xuất hiện, bạn phải ghi nhận tức khắc, hoặc nhẹ nhàng niệm thầm, rồi trở về ngay với đề mục chính. Trong trường hợp có các đề mục phụ chen vào, nhưng đề mục phồng xẹp vẫn rõ ràng hơn thì chỉ niệm phồng xẹp mà đừng quan tâm gì đến chúng. Nhưng khi một trong những đối tượng này quá mạnh khiến tâm của bạn không thể nằm trên đề mục chính mà tự động nhảy qua đối tượng phụ này thì bạn hãy ghi nhận sự phóng tâm hay niệm thầm "phóng tâm, phóng tâm, phóng tâm", rồi trở về đề mục chính. Chẳng hạn, đang chú tâm vào sự phồng xẹp bỗng nhiên một tiếng động mạnh khởi lên át hẳn đề mục phồng xẹp. Hãy chú tâm ghi nhận nghe, nghe, nghe, rồi trở về đề mục chính. Nếu tiếng động vẫn còn lấn áp không thể đưa tâm về bụng thì hãy chú tâm vào tiếng động cho đến khi chúng không còn lấn át nữa, rồi trở về với đề mục chính. Khi niệm thầm, không cần phải dùng câu dài hay đầy đủ, chỉ cần một vài chữ đơn giản là được. Ví dụ như nghe, nghe, nghe; thấy, thấy, thấy; ngửi, ngửi, ngửi, v.v... Ðối với các cảm giác của cơ thể, ta niệm ấm, ấm, ấm; ép, ép, ép; cứng, cứng, cứng; chuyển động, chuyển động, chuyển động, v.v... Các đối tượng của tâm thì có rất nhiều và chúng thường nằm dưới các dạng rõ ràng như là suy nghĩ, tưởng tượng, nhớ, tính toán và liên tưởng. Cần nhớ rõ là sự niệm thầm chỉ nhằm giúp chúng ta chú tâm vào đối tượng, đừng dính mắc vào danh từ. Niệm thầm giúp cho thiền sinh thấy rõ những tính chất riêng biệt của mỗi kinh nghiệm thiền tập mà không bị cuốn hút vào nội dung của nó đồng thời giúp phát triển những năng lực tinh thần và sự tập trung tâm ý. Chúng ta chánh niệm trên hiện tượng chớ không phải chú tâm vào danh từ. Khi sự niệm thầm trở thành một trở ngại hơn là một phương tiện giúp cho sự chú tâm thì chỉ cần ghi nhận chánh niệm mà không niệm thầm nữa. Mục đích của thiền quán là giúp đạt được một sự hay biết rõ ràng, trong sáng, chính xác và thâm sâu về những gì đang xảy ra trong thân và tâm. Bản chất thực sự của các hiện tượng tâm vật lý, ý nghĩa thực sự của cuộc đời sẽ hiển lộ nhờ vào những kinh nghiệm trực tiếp này. Không phải sau mỗi giờ ngồi thiền là việc hành thiền chấm dứt. Phải tiếp tục hành trì suốt ngày. Trước khi đứng dậy, hãy ghi nhận chánh niệm. Khởi đầu là ghi nhận ý muốn mở mắt: muốn, muốn, muốn; mở mắt, mở mắt, mở mắt. Ghi nhận ý định mở mắt và cảm nhận cảm giác đang mở mắt. Tiếp tục ghi nhận cẩn thận và chính xác với đầy đủ năng lực quan sát trên các chuyển động thay đổi tư thế cho đến khi bạn đã hoàn toàn đứng dậy và bắt đầu đi. Suốt ngày phải luôn luôn chánh niệm, ghi nhận tất cả mọi tác động như: duỗi tay, co tay, cầm muỗng, thay áo, đánh răng, đóng cửa, mở cửa, mở mắt, ăn, uống, v.v... Ngoại trừ lúc ngủ, khi nào bạn cũng phải chánh niệm tỉnh giác ghi nhận. Thực ra, đây không phải là việc khó làm hay nặng nhọc gì. Chỉ ngồi, đi và quan sát những gì xảy ra thôi. Thiền hành Trong khóa thiền, các bạn sẽ được ngồi thiền và kinh hành xen kẽ nhau. Cứ một giờ ngồi thiền, lại một giờ kinh hành. Một giờ là tiêu chuẩn căn bản, nhưng bốn mươi lăm phút cũng được. Chọn một chỗ đi khoảng hai mươi bước rồi đi tới, đi lui chậm rãi trên đó. Trong sinh hoạt hằng ngày, thiền hành cũng hỗ trợ đắc lực. Một thời gian ngắn chừng mười lăm phút kinh hành trước khi ngồi thiền giúp bạn tập trung tâm ý dễ dàng. Chánh niệm được khai triển trong lúc kinh hành rất ích lợi cho chúng ta vì trong lúc làm việc hàng ngày chúng ta cũng thường đi từ nơi này đến nơi khác. Ðây là cơ hội để chúng ta luyện tâm. Thiền hành hỗ trợ cho sự tỉnh thức chánh niệm được quân bình, chính xác và giúp cho sự tập trung tâm ý lâu dài. Thiền sinh có thể quan sát một cách sâu xa các khía cạnh của thân tâm trong khi thiền hành và có thể giải thoát ngay trong khi đi kinh hành. Thiền sinh không chịu đi kinh hành trước khi ngồi thì chẳng khác nào một chiếc xe hơi hết bình điện. Thiền sinh ấy sẽ gặp khó khăn trong việc khởi động máy chánh niệm vào lúc ngồi. Thiền hành bao gồm sự chú tâm vào tiến trình đi. Nếu bạn đi hơi nhanh, hãy ghi nhận trái phải, trái phải, trái phải và tỉnh thức theo dõi cảm giác đang diễn tiến nơi chân. Nếu bạn đi chậm hơn, hãy ghi nhận dở, bước, đạp. Dầu theo dõi "trái, phải" hay "dở, bước, đạp", bạn cũng phải cố gắng chú tâm vào cảm giác diễn ra trong khi đi và chỉ chú tâm vào những cảm giác này thôi. Hãy ghi nhận tiến trình xảy ra khi bạn đứng lại ở cuối lối kinh hành, khi bạn quay và bắt đầu bước trở lại. Ðừng nhìn theo chân mình, chỉ theo dõi cảm giác bên trong chân. Việc chính của bạn là chú tâm vào cảm giác mà cảm giác thì không có hình ảnh; bởi vậy đừng giữ hình ảnh của chân trong tâm khi theo dõi cảm giác. Nhiều người đã khám ra nhiều sự kỳ lạ và lý thú khi nhìn thấy được những yếu tố thuần tịnh về vật chất (sắc) như: nặng, nhẹ, nóng, lạnh, v.v... mà không có một ý niệm nào về hình dáng, tư thế hay tướng trạng của thân. Thông thường chúng ta chia động tác của một bước đi ra làm 'dở, bước, đạp'. Và để hỗ trợ cho việc chánh niệm một cách chính xác, chúng ta chia chuyển động ra làm ba thời kỳ và niệm thầm sự khởi đầu của mỗi chuyển động nhỏ này đồng thời theo dõi các cảm giác và diễn biến bên trong mỗi chuyển động đó. Một điểm nhỏ nhưng quan trọng là bạn nên bắt đầu ghi nhận "chuyển động đặt chân xuống" ngay vào lúc chân bắt đầu hạ thấp. Khám Phá Mới Về Cảm Giác Chúng ta hãy xét đến thế giới mới trong cảm giác. Bây giờ nói đến sự dở. Chúng ta biết "dở" là một danh từ chế định. Khi hành thiền, chúng ta phải bước qua sự chế định để hiểu rõ bản chất thật sự của toàn thể tiến trình "dở", bắt đầu hiểu rõ ý định dở chân và tiếp tục là các tiến trình khác gồm nhiều cảm giác trong đó. Sự tinh tấn ghi nhận dở chân đừng vượt quá cảm giác mà xa hẳn mục tiêu, cũng đừng quá yếu kém mà không với đến mục tiêu. Phải hướng tâm vào đề mục một cách chính xác. Khi tâm được hướng vào đề mục một cách chính xác thì sự tinh tấn sẽ được quân bình. Nói cách khác, chánh tư duy hay chánh hướng tâm sẽ giúp tinh tấn quân bình. Khi tinh tấn quân bình và tâm hướng vào mục tiêu một cách chính xác thì chánh niệm sẽ tự ổn cố trên đề mục quan sát. Chỉ khi nào ba yếu tố tinh tấn, tâm hướng vào mục tiêu hay chánh tư duy và chánh niệm có mặt thì sự định tâm mới phát triển. Ðịnh tâm là tâm tập trung vào một điểm. Tính chất của định tâm là giữ tâm khỏi bị tán loạn và tản mát. Ðến gần hơn tiến trình của sự dở, chúng ta sẽ thấy nó giống như một đàn kiến nối đuôi nhau bò trên tường. Từ đằng xa, ta chỉ thấy sợi dây bất động nằm trên tường. Nhưng đến gần hơn, ta thấy sợi dây nhúc nhích và chuyển động. Và đứng gần hơn nữa, ta thấy sợi dây là những con kiến riêng rẽ bò theo nhau thành một đường dài. Từ đó, ta thấy ý niệm về một sợi dây của chúng ta chỉ là một ảo tưởng. Bây giờ ta thấy rõ từng con kiến một, chúng nối đuôi nhau bò. Cũng vậy, khi nhìn kỹ và chính xác vào tiến trình dở chân từ lúc đầu đến lúc cuối thì các yếu tố, hay các đặc tính của tâm, gọi là "minh sát", sẽ tiến gần hơn đến đối tượng được quan sát. Minh sát càng đến gần bao nhiêu thì bản chất thật sự của tiến trình dở càng được nhận thấy rõ bấy nhiêu. Tâm của con người ta thật kỳ diệu. Khi tuệ minh sát phát khởi và mạnh dần nhờ thiền minh sát thì những khía cạnh đặc biệt của chân lý dần dần và tuần tự xuất hiện. Sự xuất hiện tuần tự của trí tuệ này gọi là các tuệ minh sát hay tuệ giác. Tuệ giác đầu tiên là thiền sinh bắt đầu hiểu được, không phải do đọc sách hay suy nghĩ mà do trực giác, rằng tiến trình của sự dở là tổng hợp của hai hiện tượng thân và tâm cùng xảy ra song song với nhau. Sự chuyển động của thân là hiện tượng vật chất và sự nhận biết là tiến trình của tâm. Cả hai liên kết nhau nhưng tính chất thì hoàn toàn khác biệt. Thiền sinh bắt đầu thấy toàn thể các hiện tượng tâm (danh) và tất cả các cảm giác diễn biến trên thân (sắc). Thiền sinh lại thấy rõ ràng nữa rằng tâm là nhân và thân là quả. Ví dụ: khi có ý định dở chân thì cơ thể mới chuyển động được (ý định giở chân là nhân và cơ thể chuyển động là quả). Và thiền sinh lại thấy thân là nhân và tâm là quả. Ví dụ: khi thân cảm thấy nóng, khiến tâm muốn đi tìm chỗ có bóng mát để nghỉ (thân cảm thấy nóng là nhân và tâm muốn đi tìm chỗ có bóng mát là quả). Sự trực nhận hay tuệ giác về nhân quả có muôn hình vạn trạng và khi tuệ giác này phát khởi thì cái nhìn của chúng ta về cuộc đời sẽ trở nên đơn giản hơn lúc trước. Cuộc sống của chúng ta không có gì khác hơn là một chuỗi dài nhân quả của thân và tâm. Ðây là tuệ giác thứ hai mà thiền sinh trực nhận được. Khi định tâm phát triển, thiền sinh sẽ thấy rõ và sâu hơn rằng những hiện tượng trong tiến trình dở chân là vô thường, phi ngã, sinh ra rồi diệt đi theo một tốc độ nhanh chóng không lường được. Ðây là tuệ giác tiếp theo mà thiền sinh có được nhờ sự tập trung tâm ý cao. ở tầng mức này thiền sinh có thể thấy được trực tiếp rõ ràng bản chất thực sự của thân và tâm. Hiện tượng sinh diệt là một tiến trình tự nhiên diễn ra theo luật nhân quả chẳng có một tác nhân nào xen vào cả. Chúng ta thấy các hiện tượng có vẻ liên tục, chẳng qua chỉ là ảo tưởng. Sự liên tục của hiện tượng thật ra chỉ là một chuỗi dài các tiến trình sinh diệt nối tiếp nhau như một cuốn phim chiếu trên màn ảnh. Chúng ta thấy hình ảnh chuyển động liên tục giống như thật; nhưng nếu quay chậm lại, chúng ta sẽ thấy rõ từng diễn biến một, sẽ thấy các hình ảnh rời rạc, đứt đoạn, nối tiếp nhau chạy qua ống kính. Ðạo Hiển Lộ Trong Lúc Kinh Hành Khi thiền sinh thật chánh niệm trong mỗi tiến trình dở chân, nghĩa là khi tâm dính chặt vào chuyển động một cách chánh niệm, thấy rõ bản chất thật sự của những gì xảy ra vào lúc đó, đạo giải thoát sẽ rộng mở. Bát Chánh Ðạo còn được gọi là Trung Ðạo bao gồm tám yếu tố: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy (hay Chánh Hướng Tâm), Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh. Vào mỗi giây phút chánh niệm mạnh mẽ, năm trong tám chi đạo sẽ có mặt. Ðó là: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh, Chánh Hướng Tâm và khi bắt đầu có trí tuệ, thấy rõ bản chất thật sự của các hiện tượng giới thì Chánh Kiến phát khởi. Vào lúc năm yếu tố của Bát Chánh Ðạo có mặt, tâm hoàn toàn thoát khỏi mọi phiền não và lúc đó nếu chúng ta sử dụng tâm trong sạch ấy để quán thấu vào bản chất tự nhiên của các hiện tượng thì chúng ta sẽ thoát khỏi mọi ảo tưởng hay mê lầm về một cái ta. Chúng ta chỉ còn thấy một hiện tượng đến và đi đơn thuần. Khi ta đã có tuệ giác thấy được hiện tượng nhân quả, thấy được sự tương quan của danh và sắc, chúng ta sẽ không còn có quan niệm sai lầm về bản chất của các hiện tượng. Khi thấy rõ rằng mọi đối tượng chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc, chúng ta sẽ không còn có ảo tưởng về sự trường tồn bất biến, không còn ảo tưởng về sự liên tục. Khi hiểu rõ vô thường và sự bất toại nguyện ẩn tàng trong đó thì ta không còn ảo tưởng sai lầm rằng thân và tâm không đau khổ. Sự thấy rõ trực tiếp đặc tính phi ngã giúp chúng ta thoát khỏi cống cao ngã mạn và không còn có sự hiểu biết sai lầm rằng chúng ta có một cái ngã. Khi thận trọng quan sát tiến trình dở, thấy thân và tâm là bản chất của đau khổ và bất toại nguyện, thì ta thoát khỏi tham ái. Ba trạng thái tâm ngã mạn, tà kiến và tham ái gọi là 'pháp trường tồn' vì chúng giữ chúng ta trong luân hồi, trong vòng tham ái và khổ đau do nguyên nhân là không hiểu biết chân đế hay sự thật tuyệt đối. Thận trọng chú tâm trong việc kinh hành sẽ phá vỡ được 'pháp trường tồn' này và đưa chúng ta đến gần giải thoát. Như vậy chỉ trong một cái 'dở chân' thôi mà bạn đã thấy được biết bao điều kỳ diệu. Khi chú ý vào sự bước hay đạp, bạn cũng thấy những điều kỳ diệu không kém. Những chi tiết được đào sâu trong phần thiền hành này cũng được áp dụng để ghi nhận chuyển động của bụng khi ngồi và tất cả mọi tác động khác. Lợi ích Của Sự Ði Kinh Hành Ðức Phật dạy năm lợi ích của kinh hành: 1. Người đi kinh hành sẽ có sức chịu đựng bền bỉ để đi đường xa. Ðây là điều quan trọng vào thời kỳ của Ðức Phật vì thời bấy giờ, tỳ khưu và tỳ khưu ni không có phương tiện đi lại mà chỉ đi bộ. Là một thiền sinh của thời đại này với đầy đủ tiện nghi vật chất, bạn không còn đi bộ như các nhà sư thời xưa. Bạn có thể nghĩ đến lợi ích thứ nhất này một cách đơn giản là nó giúp bạn có sức mạnh thể chất. 2. Người đi kinh hành sẽ có sự chịu đựng bền bỉ trong khi hành thiền. Trong khi đi kinh hành thiền sinh buộc phải cố gắng gấp đôi sự tinh tấn của mình vì ngoài sự cố gắng thể chất để dở chân lên, thiền sinh còn cần có nỗ lực tinh thần để chánh niệm vào sự chuyển động, mà đây là yếu tố chánh tinh tấn trong Bát Chánh Ðạo. Nếu sự tinh tấn gấp đôi này được duy trì trong suốt chuyển động dở, bước, đạp, sức mạnh và sự bền bỉ của tâm tinh tấn sẽ được tăng cường, và đây là điều quan trọng vì tâm tinh tấn là yếu tố chủ yếu trong pháp hành Thiền Minh Sát. 3. Sự quân bình giữa đi và ngồi giúp có sức khỏe tốt. Sức khoẻ tốt khiến thiền sinh tiến nhanh trong việc hành thiền. Rõ ràng là lúc bệnh hoạn ốm đau thì rất khó hành thiền. Ngồi quá nhiều thì cơ thể đau và mệt mỏi. Sự thay đổi tư thế và chuyển động trong khi đi phục hoạt bắp thịt (làm cho bắp thịt hoạt động trở lại) và kích thích máu lưu thông điều hòa giúp ngăn ngừa bệnh tật. 4. Thiền hành cũng giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng. Việc tiêu hóa khó khăn sẽ đem lại nhiều bực dọc khó chịu và có thể khiến cho ta bần thần uể oải, thiếu sự thoải mái. Và đây là một trở ngại trong việc hành thiền. Kinh hành giúp cho sự bài tiết được dễ dàng, giảm thiểu dã dượi buồn ngủ. Sau khi ăn và trước khi ngồi, nếu đi kinh hành một cách chánh niệm thì sẽ tránh được uể oải buồn ngủ và làm gia tăng đức tinh tấn, một đức tính quan trọng trong việc hành thiền. Ði kinh hành ngay khi thức dậy vào buổi sáng cũng là một cách thiết lập chánh niệm, tránh ngủ gục ngay trong giờ ngồi đầu tiên trong ngày. 5. Kinh hành tạo nên một sự định tâm bền vững. Khi chú ý tập trung vào mỗi tác động lúc đi kinh hành thì sự định tâm sẽ trở nên liên tục, mỗi bước đi tạo nên một căn bản vững chắc cho việc ngồi thiền tiếp theo, và giúp cho tâm trụ trên đề mục từng thời khắc một. Cuối cùng, sẽ nhận chân được thực tướng của mọi vật ở tầng mức cao thâm nhất. Ðó là lý do tại sao chúng ta so sánh sự kinh hành với bình điện của một chiếc xe. Nếu xe để lâu không chạy thì bình điện sẽ yếu và mất hẳn điện. Một thiền sinh không đi kinh hành sẽ khó đạt được kết quả trong lúc ngồi thiền. Nếu đi kinh hành đều đặn và tinh tấn thì lúc ngồi, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh mạnh mẽ sẽ tự động đến. Hy vọng các bạn sẽ hành thiền một cách tinh tấn và đạt được kết quả hoàn toàn. Cầu mong các bạn giữ gìn giới luật trong sạch: trong sạch trong lời nói, trong sạch trong hành động. Ðó là những điều căn bản thiết yếu để phát triển định và huệ. Mong bạn thận trọng thực hành theo những điều hướng dẫn về hành thiền trên đây. Ghi nhận thật chính xác và chánh niệm trong từng phút giây các hiện tượng xảy ra để có thể trực nhận được thực tướng của các pháp. Cầu mong các bạn thấy rõ danh sắc, sự hỗ tương nhân quả, và đặc tính vô thường, khổ, vô ngã của chúng, để cuối cùng trực nhận cứu cánh tối hậu Niết Bàn trạng thái vô điều kiện, chấm dứt nhân quả và nhổ tận gốc rễ phiền não ngay trong kiếp hiện tại này. Cách Trình Pháp Dầu cho có được hướng dẫn kỹ càng cách hành thiền, thiền sinh vẫn chưa hành thiền đúng, cũng như chưa biết cách trình bày kinh nghiệm của mình cho thiền sư. Một số thiền sinh hành thiền rất khá nhưng lại không biết cách diễn đạt việc hành thiền của mình và những kinh nghiệm mà mình gặt hái được. Mục đích của bài này là để giúp thiền sinh trình bày đúng những gì mình đã quán sát được trong lúc hành thiền: Quán sát cái gì và đã kinh nghiệm ra sao? Hành thiền minh sát chẳng khác nào trồng cây. Trước tiên chúng ta cần phải có hạt giống, đó là Chánh Niệm, để quan sát các hiện tượng đang xảy ra một cách đầy đủ và rõ ràng. Muốn cho hạt giống nẩy mầm, trở thành cây con, rồi trưởng thành đơm hoa kết trái trí tuệ chúng ta cần phải có những điều kiện khác được gọi là năm yếu tố bảo vệ (Panca-nuggahita): 1. Phải làm hàng rào để ngăn chặn những loài thú lớn nhỏ có thể làm hại cây, đó là Giới. Giới là yếu tố bảo vệ căn bản (Sila nuggahita). Giới ngăn ngừa, giúp ta không có những hành vi và ngôn ngữ bất chánh làm giao động tâm, ngăn trở Ðịnh và Huệ phát sinh. 2. Phải tưới nước để hạt giống dễ nẩy mầm. Nghĩa là phải nghe pháp, đọc kinh sách, tìm hiểu giáo lý (Suta-nuggahita). Sau đó áp dụng những hiểu biết của mình vào thực hành. Không tưới nước quá nhiều làm thối mầm cây. Nghĩa là chỉ cần vừa đủ giáo lý để hiểu rõ phương pháp hành thiền. Ðừng để mình lúng túng, hoang mang lạc lối trong rừng ngôn từ ước định của kinh điển. Nhưng cũng đừng để hạt giống thiếu nước không thể nẩy mầm. Nghĩa là không hành thiền một cách mê muội, chẳng biết gì đến phương pháp. 3. Phải vun phân tỉa lá, tỉa cành. Nghĩa là phải trình pháp với thiền sư để thiền sư biết được kinh nghiệm của mình hầu nhận được những điều chỉ dẫn cần thiết (Sakaccha-nuggahita). Trong khi trình pháp, thiền sư sẽ tùy theo kinh nghiệm của từng người mà có những điều chỉ dẫn thích hợp, tuần tự hướng dẫn thiền sinh đi những bước vững chắc trên đường hành đạo. 4. Phải bắt sâu, làm cỏ. Nghĩa là có sự tập trung tâm ý vào đề mục để có định lực (Samatha-nuggahita) hầu gạt bỏ những tâm niệm bất thiện. Trong lúc hành thiền, ta phải cố gắng tập trung tâm ý vào đề mục và tỉnh thức để nhận diện những gì đang xảy ra ở sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm). Khi tâm có định lực sắc bén với sự hỗ trợ của tinh tấn thì tham sân si sẽ không có cơ hội dấy động. 5. Nếu có được bốn yếu tố bảo vệ đầu tiên thì yếu tố thứ năm sẽ ra hoa kết trái trí tuệ (Vipassana-nuggahita). Thế nhưng thiền sinh thường dễ bị dính mắc vào những tuệ giác đầu tiên hay những kinh nghiệm đặc biệt hoặc kỳ diệu do tâm định đưa đến. Sự dính mắc này là một trở ngại khiến thiền sinh không thể tiến xa hơn và sâu hơn đến những tuệ giác kế tiếp. Thiền sinh nên tinh tấn hành thiền một cách liên tục không dừng lại để nhàn du hưởng thụ những lạc thú do kết quả của việc hành thiền đem lại. Tham luyến vào những lạc thú tạm bợ đó là một trở ngại lớn lao trong đường tu tập. Những lạc thú nhẹ nhàng này có tên là Nikanti Tanha, là một loại ái dục vi tế, linh hoạt và nhẹ nhàng như một mạng lưới nhện mong manh nhưng nó có tác dụng chẳng khác nào một đòn kê cản trở bánh xe trí tuệ. Nếu thiền sinh gặp phải những cản trở này, trong những buổi trình pháp, thiền sư sẽ tìm ra ngay để hướng dẫn thiền sinh trở về đường chính. Ðây là lý do cho thấy tầm quan trọng của việc trình pháp. Khi hành thiền minh sát chúng ta phải quán sát các hiện tượng vật chất và tâm. Kinh điển đã giải thích rõ ràng là hiện tượng tâm-vật lý luôn luôn khởi lên qua sáu cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Chẳng hạn, khi có một sự nhìn thì mắt nhìn và vật được nhìn là hiện tượng vật chất, và nhãn thức khiến ta nhận ra vật được nhìn là hiện tượng của tâm. Tương tự như vậy, sự nhận biết âm thanh, mùi, vị, đụng chạm hay suy nghĩ cũng như những hoạt động khác của cơ thể như duỗi tay, co tay, bước đi v.v... cũng chỉ là các hiện tượng vật chất và tâm. Hòa thượng Mahasi dạy chúng ta phải quán sát ghi nhận tất cả mọi chuyện trên khi chúng xảy ra, đừng bỏ sót mảy may nào dù nhỏ nhặt đến đâu. Mặc dầu được hướng dẫn kỹ càng, nhưng khi thực hành thiền sinh cũng gặp nhiều khó khăn. Ðể giúp thiền sinh vượt qua các khó khăn, Hòa thượng Mahasi đã dạy những điều căn bản cho thiền sinh mới là chỉ quan sát một cách tỉnh thức chuyển động phồng xẹp của bụng. Thiền sinh phải biết cách quan sát các đề mục chính, cũng như phải ghi nhận như thế nào trong trường hợp có đề mục phụ phát sinh (đề mục chính là chuyển động phồng xẹp của bụng; đề mục phụ là suy nghĩ, liên tưởng, cảm giác, hình sắc, âm thanh, mùi, vị v.v... cũng có khi là phản ứng của chính thiền sinh trước các đối tượng phụ đó). Ðể giúp đỡ cho thiền sinh vượt qua những chướng ngại, các thiền sư đã đặt ra sáu câu châm ngôn ngắn gọn sau đây: 1. Khi các hiện tượng được ghi nhận kịp thời ngay khi chúng xuất hiện thì đặc tính riêng của thân và tâm sẽ hiển lộ. 2. Khi đặc tính riêng của thân và tâm được hiển lộ thì đặc tính nhân duyên sẽ hiển lộ. 3. Khi đặc tính nhân duyên hiển lộ thì sẽ thấy được tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã. 4. Khi thấy được Tam tướng thì tuệ minh sát sẽ xuất hiện. 5. Khi bị phóng tâm (suy nghĩ, lý luận, liên tưởng, vv...) cần phải trình bày cho thiền sư. 6. Khi có cảm giác hay cảm xúc gì cần phải quan sát, ghi nhận và trình bày cho thiền sư.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:15:17 GMT -5
1. Khi các hiện tượng được ghi nhận kịp thời ngay khi chúng xuất hiện thì đặc tính riêng của thân và tâm sẽ hiển lộ Thiền sinh phải cho thiền sư biết mình đã quan sát chuyển động phồng xẹp như thế nào từ lúc khởi đầu cho đến lúc chấm dứt. Khi hít vào, bụng bắt đầu căng lên nhanh rồi tiếp tục căng cho đến lúc chấm dứt là lúc hít vào. Hãy quan sát từ lúc bắt đầu phồng, đoạn giữa của phồng và đoạn cuối của phồng (Sabhakaya patisamvedi). Nghĩa là tâm quan sát phải đi song song với tiến trình của sự chuyển động từ lúc khởi đầu, kéo dài cho đến khi chấm dứt. Thiền sinh mới rất khó ghi nhận ba giai đoạn trên nhưng phải cố gắng. Nếu thiếu cố gắng thì không có kết quả gì cả. Một khi thiền sinh đã biết ghi nhận đề mục một cách chánh niệm, biết cách chú tâm song song với diễn biến của đề mục, biết theo dõi các giai đoạn liên tiếp của phồng xẹp, biết ghi nhận những gì mình thấy, những gì mình kinh nghiệm thì sẽ biết cách trình pháp một cách chính xác. Có hai diễn biến song song trong khi thiền sinh hành thiền: Trước tiên là sự chú tâm quán sát hay ghi nhận đối tượng. Thứ hai là diễn biến của tâm quán sát đối tượng ấy. ít nhất thiền sinh phải nhận ra được điều này thì mới có thể gọi là thấy hay kinh nghiệm. Ðối với đề mục chính thiền sinh phải nói được kết quả của tâm lúc đối tượng diễn biến, hay nói được sự diễn biến song song của tâm chánh niệm và đề mục. Nghĩa là thiền sinh thấy rõ được diễn tiến của đề mục và diễn tiến của tâm ghi nhận đề mục. Nếu cả hai xảy ra cùng lúc thì phải ghi nhận như thế nào? Ghi nhận chính cái bụng? Ghi nhận tư thế của bụng? Hay ghi nhận diễn tiến của bụng trong khi phồng? Có ba yếu tố hiện hữu trong sự phồng: 1. Hình dạng của bụng. 2. Tư thế hay vị thế của bụng. 3. Ðặc tính của sự phồng. Hình dạng: là hình dạng của cái bụng mà tâm thiền sinh chú vào. Toàn thể thân hình của thiền sinh là hình dạng của thân thể. Hình dạng của cái bụng cũng như vậy. Tư thế của bụng: điều này tùy thuộc vào vị thế riêng biệt từng lúc một của bụng. Nghĩa là bụng đang xẹp, phồng, hay đứng yên. Tiếng Pali gọi là akara: có nghĩa là tư thế hay vị thế. Ví dụ: bàn tay đang ở tư thế nắm lại hay đang xoè ra? Hoặc cơ thể đang ở tư thế đi, đứng, nằm, ngồi? Nếu thiền sinh chú tâm quan sát bụng thì sẽ thấy hoặc hình dạng hay tư thế trước khi thấy đặc tính. Nhưng thấy hình dạng hay tư thế thì không phải là thiền minh sát. Thiền sinh phải thấy đặc tính chủ yếu của sự phồng, như là sự căng thẳng, sự chuyển động của bụng trong lúc phồng. Nếu quan sát kỹ thì thiền sinh sẽ thấy đặc tính này ngay mà có thể trình bày cho thiền sư một cách chính xác và rõ ràng khi trình pháp. Nhưng thiền sinh phải thấy chứ không phải tưởng tượng hay nghĩ là thấy. Khi trình pháp phải chú trọng đặc biệt vào những điểm căn bản này. Giai đoạn xẹp, thiền sinh cũng phải chú tâm quan sát ghi nhận như thế. Cũng vậy trong lúc kinh hành, khi dở chân, thiền sinh phải quan sát kịp thời và cùng lúc với diễn tiến của sự dở chân: Từ lúc khởi đầu đến lúc chấm dứt. Nếu làm được như vậy thiền sinh sẽ thấy gì? Phải chăng thiền sinh sẽ thấy hình dáng của chân hay tư thế của chân trong giai đoạn dở hay thiền sinh cảm nhận rằng chân bắt đầu nhẹ và nâng lên hay chân bắt đầu căng và đang đưa tới? Thiền sinh phải trình bày cả ba đặc tính trên và dĩ nhiên thiền sinh phải hết sức chú tâm theo dõi chuyển động đi để có thể trình bày một cách rõ ràng và chính xác. Khi chân bước tới thiền sinh cũng phải quan sát kịp thời và cùng lúc với chuyển động của sự bước tới. Và thiền sinh sẽ thấy gì? Phải chăng thiền sinh thấy hình dáng của chân mình, hay tư thế hoặc cách thức của chân trong giai đoạn đưa tới, hay cảm nhận được sự chuyển động của chân được đưa từ sau tới trước. Khi đạp chân xuống, thiền sinh cũng phải chú tâm quan sát từ lúc chân bắt đầu hạ xuống cho tới lúc chân chạm đất. Nếu chú tâm được như vậy thiền sinh sẽ thấy gì. Phải chăng thiền sinh thấy chân mình hay trạng thái của sự đạp chân xuống hay cảm nhận đặc tính chuyển động của sự đạp xuống, chẳng hạn như bắt đầu cảm thấy nhẹ và mềm? Ðối với các đối tượng khác cũng phải chú tâm ghi nhận kỹ càng như vậy. Chẳng hạn: khi co tay, duỗi tay, cúi mình, đổi chân, ngồi xuống, đứng dậy v.v... cũng phải chú tâm ghi nhận như vậy. Thiền sinh cũng phải hiểu ý nghĩa ba đặc tính của các hiện tượng tâm vật lý. Ðó là: 1. Ðặc Tính Riêng (Sabhava Lakkhana) 2. Nhân Duyên hay điều kiện (Sankhata Lakkhana) 3. Ðặc Tính Chung hay Tam Tướng (Sannanna Lakkhana) 1) Ðặc Tính Riêng của hiện tượng vật chất và tâm: (1.a) Ðặc Tính Riêng của Vật Chất hay Sắc: Vật chất hay Sắc có các đặc tính căn bản sau đây: * Sự cứng, mềm, đó là yếu tố chiếm chỗ, làm nền tảng (đất), là đặc tính của xương và thịt. * Lạnh và nóng đó là yếu tố nhiệt độ (lửa), là đặc tính nóng lạnh của cơ thể. * Sự kết hợp và tính chất lỏng (nước), đó là đặc tính dính chặt hay liên hợp của cơ thể. * Sự chuyển động đó là yếu tố lưu chuyển (gió), là đặc tính của hơi thở, của sự phồng xẹp, của sự nâng đỡ, của sự di chuyển v.v... (1.b) Ðặc Tính Riêng của Tâm hay Danh: Ðặc Tính Riêng của Tâm hay Danh là nhận biết, bao gồm: xúc (sự tiếp xúc của Tâm với đối tượng), Thọ (cảm giác), cùng các trạng thái và phản ứng của Tâm (vui, buồn, giận, chánh niệm, tinh tấn, ganh tỵ, phóng tâm vv...). 2) Nhân duyên hay điều kiện là đặc tính: khởi lên, kéo dài, và biến mất. Các diễn biến tâm vật lý (danh và sắc) đều có điểm khởi đầu, điểm giữa và điểm cuối. Tiếng Pali gọi ba giai đoạn này là uppada, thiti và bhanga. Uppada có nghĩa là bắt đầu hay khởi lên. Thiti có nghĩa là diễn tiến hay trải dài (cho đến khi chấm dứt). Bhanga có nghĩa là chấm dứt hay biến mất. Cả ba đặc tính này được gọi là Sankhata Lakkhana (Lakkhana: đặc tính, Sankhata: bao gồm hay tương duyên). 3) Tam tướng: là vô thường, khổ và vô ngã. Mọi hiện tượng, mọi pháp trong thế gian (danh và sắc) đều mang ba đặc tính này. Trong ba đặc tính trên của các hiện tượng, thiền sinh phải hướng đến đặc tính đầu tiên trong khi thực hành thiền, tức là phải chú ý đến đặc tính chuyên biệt của hiện tượng vật chất (đất, nước gió, lửa). Làm thế nào để nhận thức được hay thấy các hiện tượng vật chất chuyên biệt này? Nghĩa là làm thế nào để nhận thức hay thấy các hiện tượng đất, nước, gió, lửa? Chúng ta phải chú tâm quan sát, ghi nhận kịp thời khi chúng xuất hiện. Khi chú tâm quan sát ghi nhận ta sẽ thấy đặc tính chuyện biệt này, chứ chẳng có cách gì khác hơn. Khi hít vào bụng phồng lên. Trước khi hít vào bụng chưa phồng. Thiền sinh phải quan sát sự phồng của bụng từ khi bắt đầu cho đến khi chấm dứt. Thiền sinh phải thấy được bản chất của sự chuyển động. Nhưng thế nào là bản chất của sự chuyển động? Khi hít vào: gió vào. Nhưng thế nào là gió? Ðó là yếu tố bành trướng hay chuyển động. Yếu tố bành trướng hay yếu tố chuyển động chính là bản chất của gió mà thiền sinh phải nhận ra hay phải thấy. Thiền sinh sẽ thấy được ba bản chất của gió (chuyển động) khi nào thiền sinh chăm chú theo dõi sự chuyển động của bụng từ lúc khởi đầu, diễn tiến cho đến lúc chấm dứt. Không chịu chú tâm quan sát, theo dõi thì ngay đến hình dáng hay tư thế của bụng cũng không thấy được, nói chi đến chuyện thấy được bản chất: vô thường, khổ não, vô ngã của gió. Cứ cố công theo dõi các hiện tượng phồng xẹp một cách chánh niệm thì năng lực tập trung tâm ý sẽ càng ngày càng mạnh lên. Khi khả năng tập trung tâm ý hay định lực mạnh mẽ thì thiền sinh sẽ không còn thấy hình dáng hay tư thế của phồng xẹp mà sẽ thấy sự bành trướng, sự căng phồng của chuyển động phồng. Khi thở vào thiền sinh sẽ thấy cường độ phồng tăng đến một điểm nào đó rồi chấm dứt. Khi thở ra thiền sinh cũng sẽ thấy cường độ căng phồng giảm xuống đến một điểm nào đó rồi biến mất. Dần dần thiền sinh sẽ thấy rõ ràng ba đặc tính vô thường, khổ và vô ngã trong các chuyển động của bụng này. Tương tự như thế, trong khi đi kinh hành thiền sinh cũng phải quán sát các các chuyển động: dở, bước, đạp một cách thận trọng và tinh tế. Thiền sư sẽ không nói cho biết thiền sinh sẽ thấy gì mà chỉ hướng dẫn cho thiền sinh cách quan sát và ghi nhận. Cũng như khi làm toán thầy giáo chỉ dạy phương pháp làm chứ không cho đáp số. Sự chỉ dẫn này cũng được áp dụng trong những loại chuyển động khác của cơ thể, trong cảm thọ, hay khi có một tư tưởng hiện khởi trong tâm. Tất cả đều phải được ghi nhận ngay từ lúc chúng khởi lên. Có như thế mới bảo đảm là thấy được bản chất của chúng.2. Khi đặc tính riêng của thân và tâm được hiển lộ thì đặc tính nhân duyên sẽ hiển lộ Nghĩa là khi đã thấy được đặc tánh riêng của thân và tâm thì sẽ thấy được ba giai đoạn: khởi lên, diễn biến hay kéo dài, và chấm dứt. 3. Khi đặc tính nhân duyên hiển lộ thì sẽ thấy được tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã Khi đã thấy được ba giai đoạn này thì sẽ thấy được Tam tướng: vô thường, khổ và vô ngã. Thực ra, nếu kiên trì, tinh tấn hành thiền và đã nhận thấy được đặc tính của tứ đại thì chắc chắn sẽ thấy được yếu tố Nhân Duyên và Tam tướng 4. Khi thấy được Tam tướng thì tuệ minh sát sẽ xuất hiện Khi thiền sinh thấy được tam tướng thì Tuệ Minh Sát sẽ xuất hiện. Sau khi xuất hiện, Tuệ Minh Sát (Vipassananana) sẽ dần dần phát triển và chín muồi, và cuối cùng thiền sinh sẽ đạt được tuệ ariyamagganana (Tuệ thấy được thánh đạo). Với tuệ này thiền sinh có đủ khả năng để "thấy" Niết Bàn, chấm dứt danh, sắc và đau khổ. Cần phải nhắc lại một lần nữa điều quan trọng sau đây: Trong lúc trình pháp, thiền sinh phải cho thiền sư biết mình đã thực sự 'thấy' gì, chứ không phải là 'nghĩ' mình đã 'thấy' gì. Chỉ những gì thiền sinh 'thấy' mới là tuệ giác. 'Nghĩ' là mình 'thấy' chỉ là vay mượn tuệ giác hoặc chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Sự vay mượn tuệ giác không phù hợp với đặc tính của các hiện tượng mà thiền sinh phải quan sát và ghi nhận. 5. Khi bị phóng tâm (suy nghĩ, lý luận, liên tưởng, vv...) cần phải trình bày cho thiền sư Khi ngồi thiền, quan sát đề mục chính là sự phồng xẹp của bụng, nhiều tư tưởng và đối tượng của tâm sẽ đến với thiền sinh, đó là chuyện tự nhiên. Tâm có khuynh hướng rời đề mục chính để tiến đến tất cả mọi ý niệm: một số là tư tưởng thiện, một số là tư tưởng bất thiện. Thiền sinh phải làm thế nào? Chỉ cần ghi nhận bất cứ những gì đã đến với tâm. Bạn có thể làm được điều đó không? Bạn phải làm điều đó, nghĩa là phải ghi nhận sự suy nghĩ hay sự phóng tâm. Nếu đã ghi nhận được chúng, bấy giờ chuyện gì sẽ xảy ra ? Phải chăng sự suy nghĩ đang tiếp tục diễn biến ? Sự suy nghĩ đang dừng lại hay đã biến mất tất cả? Lúc ấy thiền sinh có trở về được với đề mục chính không? Tất cả những điều đó đều phải được nói rõ trong lúc trình pháp. 6. Khi có cảm giác hay cảm xúc gì cần phải quan sát, ghi nhận và trình bày cho thiền sư Ðối với những thiền sinh mới, mọi cảm giác hay cảm xúc sẽ không khởi lên khi thiền sinh đang chú tâm vào đề mục chính. Nhưng sự suy nghĩ sẽ xảy ra nhiều hơn. Thiền sinh mới cũng chưa đủ khả năng ghi nhận được tất cả mọi tư tưởng đang khởi dậy đó. Ðể giảm thiểu những sự suy nghĩ này, nên cố gắng chú tâm khắn khít vào đề mục chính, càng nhiều càng tốt. Nhưng khi thiền sinh đã ngồi thiền được chừng năm, mười, hay mười lăm phút, một vài cảm giác khó chịu trên cơ thể sẽ đến, tương hợp với những gì đã diễn biến trong tâm. Khi cảm giác hay xúc cảm xuất hiện thiền sinh phải ghi nhận. Khi trình pháp nên mô tả chúng bằng những ngôn ngữ thông thường như: "ngứa", "đau", "tê", v.v... chứ đừng dùng danh từ kinh điển như "cảm thọ" (Vedana). Những cảm giác khởi lên cũng phải được ghi nhận từ lúc chúng xuất hiện, diễn tiến cho đến khi biến mất. Thiền sinh cũng phải ghi nhận hình sắc, âm thanh, mùi, vị và những trạng thái khác của tâm như: ưa thích, nóng giận, dã dượi buồn ngủ, phóng tâm, ân hận, hoài nghi, nhớ thương, thấy rõ, chú tâm, thỏa mãn, dễ chịu, nhẹ nhàng, yên tĩnh v.v... những trạng thái này là "đối tượng của tâm" (Dhammarammana). Giả sử có sự ưa thích xuất hiện; khi đã ghi nhận được nó thì chuyện gì sẽ xảy ra? Thiền sinh phải biết trình cho thiền sư điều này. Lấy một thí dụ khác: Thiền sinh cảm thấy dã dượi buồn ngủ. Khi thiền sinh ghi nhận được trạng thái này thì sự phóng tâm xuất hiện. Lúc bấy giờ thiền sinh phải ghi nhận như thế nào? Thiền sinh phải ghi nhận phóng tâm. Như vậy là thiền sinh phải quan sát ghi nhận tất cả mọi đối tượng của tâm. Trong một khóa thiền tích cực, cần phải thường xuyên trình pháp, tốt nhất là trình pháp hằng ngày. Việc trình pháp nên theo đúng phương cách. Sau khi thiền sinh trình bày kinh nghiệm của mình thiền sư sẽ đặt một vài câu hỏi liên quan đến các chi tiết mà thiền sinh kinh nghiệm được trong lúc hành thiền. Cách trình pháp thật đơn giản. Chỉ cần mười phút là đủ cho thiền sinh trình bày kinh nghiệm của mình. Nên nhớ trình bày những kinh nghiệm liên quan đến thân và tâm mà bạn có được trong lúc hành thiền bởi vì đúng nghĩa của Thiền Minh Sát là quan sát những gì đã thực sự xảy ra trong chính thân tâm bạn. Trong khi trình pháp cần chú ý những điểm chính sau đây: phải ngắn gọn, chính xác và rõ ràng. a) Phải cho thiền sư biết trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ vừa qua, thiền sinh đã dành tổng cộng bao nhiêu giờ ngồi thiền, bao nhiêu giờ kinh hành. Phải thành thật vì điều đó chứng tỏ sự nghiêm túc trong việc hành thiền. b) Trình bày cho thiền sư biết kinh nghiệm của bạn trong lúc ngồi thiền. Không cần phải đi vào chi tiết từng giờ ngồi thiền. Nói một cách tổng quát toàn buổi thiền. Chỉ đi vào chi tiết những lúc việc hành thiền rõ ràng nhất. Ðầu tiên phải trình bày đề mục chính: đó là sự phồng xẹp như thế nào? Sau đó trình bày những đối tượng khác khởi lên qua sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm). c) Sau khi trình bày về việc ngồi thiền, thiền sinh trình bày tiếp về việc kinh hành. Thiền sinh chỉ mô tả những kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến tác động đi; đừng thêm vào những chi tiết về các đối tượng mà mình phải trình trong giai đoạn ngồi thiền. Nếu bạn thực hành ba giai đoạn 'dở, bước, đạp' trong lúc kinh hành thì nhớ cho biết những gì đã ghi nhận được trong những cử động 'dở, bước, đạp' đó. Tất cả những đối tượng xảy ra đều phải được trình bày theo thứ tự như sau: * Xác định đối tượng gì xuất hiện? * Khi đối tượng xuất hiện, thiền sinh đã ghi nhận như thế nào? * Diễn tả cho biết đã thấy gì, cảm giác gì, hay hiểu biết gì khi bạn ghi nhận đối tượng xảy ra. Lấy ví dụ đối với đề mục chính: sự phồng xẹp của bụng. Trong lúc hành thiền, cũng như trong lúc trình pháp. Việc đầu tiên là phải xác định rõ diễn tiến của "phồng"- Phồng xuất hiện Việc thứ hai là sự ghi nhận: Niệm hay ghi nhận đề mục đang xuất hiện- Tôi đã niệm "phồng" Việc thứ ba là mô tả những gì đã xảy ra: "Khi tôi niệm phồng tôi có những cảm giác như thế này, thế này...tôi nhận thấy như thế này, thế này..." (Thiền sinh cho biết đặc tính của cảm giác vào thời điểm đó.) Giai đoạn xẹp, cũng như trong trường hợp những đối tượng khác xuất hiện, thiền sinh đều trình bày tương tự như trên. Hãy tưởng tượng rằng tôi đang ngồi trước mặt bạn, bỗng nhiên tôi đưa một cánh tay lên không rồi mở ra cho bạn thấy tôi đang cầm một trái táo nhỏ. Bạn nhận ra trái táo và bạn tự nói trong tâm "trái táo, trái táo." Tiếp đó, bạn sẽ nhận ra trái táo màu đỏ, tròn và bóng láng. Cuối cùng, tôi từ từ nắm tay lại để bạn không thấy trái táo nữa. Bạn sẽ diễn tả kinh nghiệm của bạn về trái táo như thế nào? Nếu trái táo là đề mục hành thiền của bạn, bạn sẽ nói: "Trái táo xuất hiện," tôi niệm "trái táo, trái táo." Tiếp đó, bạn sẽ nhận ra trái táo màu đỏ, tròn và bóng láng. Cuối cùng, tôi từ từ nắm tay lại để bạn không thấy trái táo nữa. Bạn sẽ diễn tả kinh nghiệm của bạn về trái táo như thế nào? Nếu trái táo là đề mục hành thiền của bạn, bạn sẽ nói: "Trái táo xuất hiện, tôi niệm: "trái táo, trái táo" và tôi ghi nhận trái táo màu đỏ, tròn và bóng láng, rồi trái táo từ từ biến mất." Cũng thế, bạn sẽ trình pháp một cách chính xác trong ba giai đoạn khi bạn chú tâm đến trái táo. Trước tiên là trái táo xuất hiện và bạn thấy nó. Thứ hai là bạn nhận ra đó là trái táo. Bởi vì bạn đang hành thiền trên đề mục trái táo, nên bạn có một sự tinh tấn đặc biệt để niệm thầm "trái táo, trái táo". Thứ ba, là bạn tiếp tục chú tâm vào trái táo và nhận thức được tính chất và cách thức trái táo đi vào tầm nhận thức của bạn như thế nào cũng như trái táo đã biến mất như thế nào. Trong khi thực hành Thiền Minh Sát bạn cũng phải áp dụng ba giai đoạn như trên để theo dõi đề mục. Một điều cần lưu ý ở đây, nhiệm vụ của bạn là quan sát trái táo chớ không phải tiến xa hơn để tưởng tượng rằng trái táo mọng nước và ngọt hay mình đang ăn trái táo đó. Tương tự như vậy, trong khi trình pháp, bạn chỉ diễn tả những kinh nghiệm trực tiếp chớ đừng nói những gì mà bạn tưởng tượng, hình dung ra, hoặc ý kiến của bạn về đề mục mà bạn đang theo dõi. Như bạn thấy, phần trình pháp này hướng dẫn thiền sinh phải chánh niệm như thế nào trong khi hành Thiền Minh Sát. Bởi vậy, khi trình pháp, ngoài việc nhận được những lời hướng dẫn của thiền sư, thiền sinh còn có những lợi ích khác nữa. Bởi vì muốn có một bài trình pháp chính xác thiền sinh phải có một sự tinh tấn lớn lao, phải chú tâm một cách rõ ràng chính xác trên kinh nghiệm của mình. Trong khi trình pháp bạn nên nhớ đến ba yếu tố sau đây: - Tỉnh thức. - Chính xác. - Kiên nhẫn. Cần nhớ rõ là khi chú tâm đến chuyển động phồng xẹp, không phải chú tâm vào hình dáng hay tư thế của sự phồng xẹp mà chỉ chú tâm vào diễn biến của chuyển động phồng xẹp. Phải chú ý xem khi phồng như thế nào: Căng cứng, rung động, nóng, lạnh v.v... Phải để tâm quan sát từ lúc bụng bắt đầu phồng cho đến khi chấm dứt phồng để chuyển qua giai đoạn xẹp. Phải quan sát kỹ càng như đang dùng kính hiển vi để xem một mẩu vật bé nhỏ. Không được nhìn đối tượng một cách lơ là phớt qua, tự động và thiếu chánh niệm. Bạn phải nhìn gắn bó với đối tượng bằng tất cả tâm trí của mình. Bạn phải hết sức chú tâm để có thể thấu suốt được bản chất của đối tượng. Dầu chúng ta cố gắng hết sức nhưng tâm không phải lúc nào cũng có thể nằm nơi bụng chúng ta. Tâm sẽ phóng đi một nơi khác. Khi có sự phóng tâm bạn phải làm thế nào? Câu trả lời là: Phải ghi nhận. Ðó là giai đoạn một. Bây giờ đến giai đoạn hai: phải niệm phóng tâm, phóng tâm, phóng tâm. Thường sau khi có sự phóng tâm phải bao lâu sau ta mới nhận ra sự phóng tâm? Một giây, hai phút, nửa giờ? Mà cái gì xảy ra sau khi ta ghi nhận sự phóng tâm? Phải chăng sự phóng tâm sẽ biến mất tức khắc? Hay sự phóng tâm sẽ tiếp diễn? Hoặc lúc đó sự suy nghĩ sẽ giảm cường độ và sau đó biến mất? Phải chăng một đối tượng mới xuất hiện trước khi ta nhận ra sự biến mất của đối tượng cũ? Nếu không thể nào ghi nhận được phóng tâm, bạn phải báo cho thiền sư biết. Nếu sự phóng tâm biến mất, bạn phải trở về với sự phồng xẹp của bụng. Một điều nên nhớ là phải trình cho thiền sư biết là bạn có thể trở về với đối tượng chính hay không và cảm giác của bạn lúc đó như thế nào? Phần trình pháp của bạn sẽ được rõ ràng và tốt đẹp hơn, nếu bạn cho biết thường thường bạn chú tâm trên bụng được bao lâu trước khi đề mục mới xuất hiện. Ðau nhức, cảm giác khó chịu chắc chắn sẽ xảy ra sau khi bạn ngồi thiền một thời gian lâu. Chẳng hạn tự nhiên bạn ngứa: một đối tượng mới. Sau khi niệm ngứa năm phút: phải chăng sự ngứa tăng thêm? Hoặc giữ nguyên? Hoặc thay đổi? Hay biến mất? Có thấy một đối tượng mới khác xuất hiện như: có ý muốn gãi không? Tất cả những điều đó đều nên diễn tả một cách rõ ràng. Ðối với sự thấy, nghe, nếm, ngửi, lạnh, nóng, co rút, rung động, tê v.v... Ðều phải được mô tả. Bất kỳ đối tượng nào cũng phải được ghi nhận qua ba giai đoạn: 1. Xác định đối tượng xuất hiện. 2. Khi đối tượng xuất hiện thiền sinh đã ghi nhận như thế nào. 3. Diễn tả cho biết đã thấy gì, cảm giác gì, hay hiểu gì khi bạn ghi nhận đối tượng xảy ra. Tất cả mọi diễn biến đều được thực hiện một cách lặng lẽ, lặng lẽ như một nhà trinh thám. Hãy quan sát một cách cẩn thận và chính xác mọi diễn biến mà bạn nhận biết được, không nên phân vân tự hỏi để khỏi lạc vào sự suy nghĩ. Ðiều quan trọng mà thiền sư cần biết là: Mỗi khi đối tượng xuất hiện bạn có ghi nhận được không? Bạn có chánh niệm một cách chính xác và quan sát đối tượng một cách bền bỉ không? Bạn phải thành thật với thiền sư. Dầu bạn không thấy được đối tượng, không ghi nhận được đối tượng hay khi niệm mà không thấy được gì hết, điều đó không có nghĩa là việc hành thiền của bạn quá tồi tệ đâu. Một bài trình pháp rõ ràng và chính xác sẽ giúp thiền sư đánh giá được sự hành thiền của bạn, đồng thời chỉ cho bạn thấy những khuyết điểm mà bổ khuyết chúng và đưa bạn về chánh đạo. Trích: "Ngay Trong Kiếp Sống Nầy", Thiền sư U Pandita, Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch, Như Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ, 1996.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:17:46 GMT -5
Các Yếu Tố Trợ Giúp Ngũ Căn Bén NhạyoOo Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm. Những tâm sở này được gọi là những năng lực kiểm soát hay ngũ căn. Ngũ căn bao gồm: Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh và Huệ. Ðặc biệt, trong những khóa thiền tích cực, khi thực hành đúng đắn, thiền sinh sẽ phát triển được những năng lực này. Trong ngũ căn, thì Huệ căn, hay là trực giác trí tuệ, là tâm lực thấu suốt chân lý thực tại sâu xa nhất, giúp ta giải thoát khỏi si mê và hậu quả của nó. Khi si mê không còn, thì hậu quả của nó là khổ đau, ảo tưởng và các hình thức bất hạnh sẽ không phát khởi nữa. Muốn tâm phát triển đến trình độ này, nghĩa là muốn cho ngũ căn bén nhạy và mạnh mẽ, cần phải có một số điều kiện, hay yếu tố hỗ trợ. Có chín yế tố giúp cho ngũ căn bén nhạy. Yếu tố đầu tiên là chú tâm trực tiếp vào sự vô thường của các đối tượng của tâm. Thứ hai, là quan tâm và tôn trọng việc hành thiền. Thứ ba, là duy trì sự liên tục chánh niệm không để gián đoạn. Thứ tư là hoàn cảnh chung quanh thuận lợi hỗ trợ cho việc hành thiền. Thứ năm, là nhớ lại những hoàn cảnh hay thái độ đã giúp cho việc hành thiền trước đây của mình tiến triển để nhờ đó thiền sinh có thể duy trì hay tạo ra những điều kiện này, đặc biệt là khi những khó khăn xảy ra. Thứ sáu, là phát triển thất giác chi, những đặc tính dẫn đến quả bồ đề. Thứ bảy, là nỗ lực hành thiền tích cực. Thứ tám, là kiên nhẫn, có nghị lực để đương đầu với đau khổ và trở ngại. Thứ chín, và là yếu tố cuối cùng, là quyết tâm theo đuổi việc hành thiền cho đến khi đạt quả giải thoát. Chỉ thực hành trọn vẹn ba yếu tố đầu tiên, thiền sinh đã có thể tiến xa trong việc hành thiền. Nếu thiền sinh quan sát chánh niệm sự sinh diệt của các hiện tượng tâm và vật lý một cách tinh tế, tỉ mỉ; tôn trọng việc hành thiền, liên tục duy trì chánh niệm không để cho gián đoạn, thì chẳng bao lâu, các chướng ngại bên trong sẽ được loại trừ. Các năng lực kiểm soát tâm hay ngũ căn sẽ loại bỏ những quấy nhiễu trong tâm và làm cho tâm an tịnh . Nếu bạn thuộc loại thiền sinh này, bạn sẽ cảm nhận được một sự an tịnh, tĩnh lặng từ trước đến nay chưa từng có. Bạn sẽ cảm thấy tràn đầy kính sợ: "Kỳ diệu thật! đúng thật! Tất cả những sự an lạc, tĩnh lặng mà thiền sư đã dạy cho ta bây giờ chính ta đã đạt được." Như thế là đức tin, yếu tố đầu tiên của ngũ căn đã phát sanh. Loại đức tin này được gọi là đức tin đầu tiên khởi sinh từ kinh nghiệm của chính mình khiến bạn cảm thấy rằng những gì mà giáo pháp bảo đảm bạn sẽ đạt được sau này hiển nhiên là đúng thực. Nhờ có đức tin, bạn sẽ có hứng khởi mà tăng thêm năng lực. Khi năng lực hùng mạnh thì tinh tấn xuất hiện. Bạn sẽ tự nhủ: "Ðây chỉ là bước đầu. Nếu ta nỗ lực thêm, ta sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp hơn thế này nữa." Nhờ tiếp tục tinh tấn, tâm sẽ khắn khít trên đề mục từng thời điểm một nên chánh niệm được củng cố và đào sâu. Chánh niệm có khả năng kỳ diệu trong việc tập trung tâm ý, giúp tâm chuyên chú trên đề mục. Khi chánh niệm quán thấu đối tượng quan sát từng thời điểm một, thì tâm có khả năng ổn cố trên đề mục, dán sát trên đề mục, không thối chuyển. Cứ thế, sự tập trung tâm ý càng mạnh mẽ và ổn cố hơn. Một cách tổng quát, khi chánh niệm càng mạnh lên, thì sự định tâm cũng càng mạnh lên. Khi bốn yếu tố: Ðức tin, Tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định đã được thiết lập thì Trí Tuệ sẽ tự nhiên hiện khởi. Lúc bấy giờ, thiền sinh bắt đầu thấy rất rõ, và trực giác rằng thân và tâm là hai thứ hoàn toàn tách biệt, và cũng bắt đầu hiểu biết sự tương quan nhân quả của danh và sắc, hay thân và tâm. Khi trí tuệ càng phát triển, thì đức tin càng trở nên mạnh mẽ hơn. Một thiền sinh đã thấy được sự sinh diệt của đối tượng qua từng thời điểm một sẽ cảm thấy hân hoan và tin tưởng: "Thật là kỳ diệu, thật là phi thường, thật là khó tin nhưng hiển nhiên là các hiện tượng thay đổi qua từng thời điểm một mà chẳng có một tác nhân nào sau nó. Chẳng có tự ngã hay linh hồn gì cả". Do sự khám phá này, tâm thiền sinh đạt được trạng thái an lạc và tĩnh lặng lớn lao. Khi tuần tự thấy rõ vô thường, khổ, và vô ngã thì đức tin của thiền sinh sẽ mạnh mẽ thêm. Lúc bấy giờ, giáo pháp sẽ có sức thuyết phục hùng mạnh, đáng tin cậy và đúng thực. Hành Thiền Minh Sát chẳng khác nào mài dao. Người mài dao phải giữ dao khéo léo, đừng cao quá, cũng đừng thấp quá. Ðè lưỡi dao xuống đá mài đúng cách. Ðưa tới, đưa lui lưỡi dao trên đá mài. Tiếp tục mài cho tới khi một bên lưỡi đã được mài thỏa đáng. Lại tiếp tục mài lưỡi bên kia; đè dao xuống đá theo một độ nghiêng thích hợp và mài như cũ. Ðây là sự so sánh được ghi trong kinh điển. Giữ dao đúng độ nghiêng thích hợp, là hành thiền một cách tỉ mỉ, tinh tế. Ấn dao trên đá mài và mài tới mài lui, là liên tục chánh niệm. Nếu yếu tố tỉ mỉ, tinh tế và liên tục này được duy trì, thì chẳng bao lâu tâm bạn sẽ sắc bén đủ năng lực để xuyên thủng chân lý thực tại. Yếu tố thứ nhất: Chú Tâm Vào Sự Vô Thường Yếu tố đầu tiên giúp cho ngũ căn phát triển hay làm cho ngũ căn trở nên bén nhạy là ghi nhận rằng mọi vật sinh ra liền diệt ngay tức khắc. Tất cả đều ở trạng thái sinh rồi diệt không ngừng. Trong lúc hành thiền, thiền sinh theo dõi quan sát thân và tâm diễn ra tại sáu cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Thiền sinh phải quan sát các hiện tượng xảy ra với chủ tâm để ghi nhận và thấy rõ rằng mọi vật có sinh ra thì sẽ có hủy diệt hay mất đi. Chân lý này chỉ có thể được xác minh khi bạn thật sự quan sát một cách chánh niệm không chút hoài nghi. Ðây là thái độ rất quan trọng để chuẩn bị cho việc hành thiền. Sự chấp nhận ngay từ lúc ban đầu rằng tất cả mọi vật đều vô thường và biến đổi giúp ta tránh được những phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi ta thực sự khám phá ra chân lý này. Sự thật ở đời nhiều khi quá phũ phàng, ê chề; cho nên, nếu ta biết được định luật vô thường, thì khi gặp những nghịch cảnh này ta sẽ không có phản ứng bất lợi. Sự hiểu rõ bằng lý thuyết vô thường, khổ, vô ngã giúp ta có một sự chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với chúng khi ta thật sự thấy rõ chúng trong lúc hành thiền. Không có một sự chấp nhận trước, một sự nhập tâm về sự vô thường, và không biết rõ rằng việc hành thiền của ta là để thấy rõ vô thường, khổ, vô ngã thì thiền sinh dễ có một tư tưởng trái ngược cho rằng mọi chuyện trên thế gian này đều trường tồn vĩnh cữu. Ý tưởng này có thể cản trở cho việc hành thiền. Bởi thế, ở giai đoạn khởi đầu, phải tin vào sự vô thường trước. Sự tin tưởng này mới đầu chỉ là lý thuyết xuyên qua sự học hỏi hay xem kinh sách. Về sau, khi việc hành thiền tiến triển và tâm định được đào sâu, khi chính mình kinh nghiệm về vô thường, khổ, và vô ngã thì sự tin tưởng này trở thành xác tín. Trước khi vào phòng thí nghiệm, việc đầu tiên là phải biết ta muốn chứng minh bằng thực nghiệm công thức gì. Cũng như thế, việc đầu tiên là chấp nhận vô thường, sau đó thực hành để kinh nghiệm rằng vô thường là chuyện có thật. Yếu tố thứ hai: Quan Tâm và Tôn Trọng Việc Hành Thiền Yếu tố thứ hai làm cho ngũ căn bén nhạy là quan tâm và tôn trọng việc hành thiền. Ðiều quan trọng là phải hành thiền với lòng tôn kính nhất và thật thận trọng, cẩn mật. Một trong những cách có hiệu quả và giúp đỡ bạn có được thái độ tôn trọng và cẩn mật trong việc hành thiền là hãy suy tưởng đến những lợi ích do việc hành thiền đem lại. Ðiểm thiết thực và lợi ích trong việc hành thiền minh sát, chánh niệm trên thân, thọ, tâm, pháp là tâm ý được thanh lọc khỏi các bợn nhơ, chế ngự được lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt thân bệnh và tâm bệnh, chứng đạt các thánh quả và giác ngộ Niết Bàn. Ðức Phật gọi đó là thiền Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là tu tập Chánh Niệm trên Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Thật vậy, Thiền Tứ Niệm Xứ hay Thiền Minh Sát có giá trị thật lớn lao. Nhớ đến những lợi ích của việc hành thiền sẽ tạo phấn khởi khiến bạn thận trọng và tỉ mỉ trong việc quan sát các đối tượng đang xảy ra qua sáu giác quan. Trong một khóa thiền tập, bạn phải cố gắng làm các động tác một cách chậm rãi. Cứ xem sự chánh niệm của bạn như đang ở trong thời kỳ thơ ấu. Làm chậm các tác động giúp chánh niệm có cơ hội theo kịp các chuyển động của thân và ghi nhận chúng từng chi tiết một. Kinh điển làm sáng tỏ đặc tính thận trọng, tỉ mỉ này qua hình ảnh một người băng qua sông trên một cây cầu nhỏ hẹp chỉ vừa một người đi. Dưới sông thì nước chảy xiết. Nếu vô ý rơi xuống thì chắc chắn sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Dĩ nhiên là người này không thể nhảy hay chạy trên cầu. Anh ta phải thận trọng đi từng bước một. Thiền sinh cũng có thể được so sánh với một người bưng một bát dầu đầy đến miệng và phải đi trên một đoạn đường dài mà không được làm đổ một giọt dầu. Bạn hãy tưởng tượng xem một người bưng một bát dầu đầy như vậy phải thận trọng như thế nào! Thiền sinh cũng phải thận trọng duy trì sự chánh niệm như vậy trong mọi lúc. Ví dụ điển hình thứ hai này cũng được chính Ðức Phật đưa ra. Một nhóm tỳ khưu ngụ trong rừng để hành thiền, nhưng sau giờ ngồi họ đứng dậy vội vã, chẳng chánh niệm. Lúc di chuyển từ nơi này đến nơi khác, họ cũng chẳng thận trọng. Họ nhìn chim, nhìn cây, nhìn mây, nhìn trời, chẳng thu thúc tâm chút nào. Hành thiền một thời gian lâu nhưng họ chẳng đạt kết quả gì. Thấy các thầy tỳ khưu này không tiến bộ, Ðức Phật tìm hiểu nguyên nhân và chỉ cho các vị tỳ khưu thấy rõ khuyết điểm. Khuyết điểm lớn lao nhất của các thầy là thiếu tôn trọng pháp bảo, trong lý thuyết cũng như trong thực hành. Trong dịp này, Ðức Phật giảng dạy cho các thầy và đưa ra hình ảnh người mang bát đầy dầu. Chuyện người mang bát đầy dầu này như sau: Lúc bấy giờ, ở kinh đô, có một cô gái rất đẹp, hát hay, múa giỏi. Nhân một buổi lễ, cô vừa hát, vừa múa trên đường. Nhiều người đi theo cô ta để xem, các thanh niên bị sức quyến rũ của cô ta nên đi theo rất đông. Nhà vua muốn kiểm nghiệm xem năng lực của sự chú tâm nên ra lịnh cho một tù nhân bị án tử hình bưng một bát đầy dầu đi sau cô gái. Nhà vua hứa rằng nếu tử tội sau khi đi một vòng mà không làm đổ dầu thì sẽ được tha án tử hình; ngược lại, nếu làm rơi một giọt dầu nào thì sẽ bị chém ngay tức khắc. Trong đoàn ca múa, đi đầu là cô gái rất đẹp đang ca múa; thứ hai là anh chàng bưng bát dầu; và đằng sau anh ta là tên đao phủ thủ, với chiếc rìu rất lớn, sẵn sàng để chém xuống đầu nếu tử tội làm rơi một giọt dầu. Người tù, chú tâm vào việc bưng bát dầu, thận trọng từng bước đi theo cô gái. Ði một vòng quanh thành phố nhưng người tù không làm rơi giọt dầu nào nên được nhà vua gọi vào hỏi: " Nãy giờ anh nghe cô gái hát, xem cô gái múa, anh có thấy thích không?" Người bị án tử hình trả lời: "Nãy giờ tôi chẳng thấy cô gái múa, và cũng chẳng nghe được tiếng hát của cô ta, bởi vì tôi mải lo chăm chú vào việc bưng bát dầu. Tôi sợ chết nên không dám lơ đễnh chút nào." Sau khi được khích lệ và phấn chấn bởi những lời dạy của Ðức Phật, các vị tỳ khưu tinh tấn và thận trọng tỉ mỉ trong việc hành thiền. Và kết quả là chỉ trong một thời gian ngắn, họ đều giác ngộ. Bạn có thể kiểm nghiệm lại điều này bằng cách thận trọng, tỉ mỉ trong việc hành thiền. Làm chậm lại mọi tác động, đi, đứng một cách chậm rãi, cung kính. Cung kính pháp hành, cung kính trong từng tác động, thì chính bạn sẽ thấy rõ kinh nghiệm. Càng làm các tác động chậm bao nhiêu, bạn càng tiến bộ nhanh chóng trong pháp hành bấy nhiêu. Dĩ nhiên, bạn cần phải áp dụng điều này một cách thông minh, sáng tạo để thích hợp với mọi hoàn cảnh và mọi trường hợp. Nhiều trường hợp bạn phải làm nhanh, như lái xe trên xa lộ mà bạn lái quá chậm thì sẽ gây ra tai nạn và bạn có thể chết hay ngồi tù. Các bệnh viện thì trái lại, bệnh nhân phải được chăm sóc nhẹ nhàng, thận trọng và được phép đi chậm rãi. Nếu bác sĩ và y tá thúc hối bệnh nhân phải có tác động mau lẹ để việc làm được nhanh chóng, tiết kiệm thời giờ cho nhà thương, thì bệnh nhân sẽ đau đớn và có thể mau chết. Thiền sinh cũng phải tùy trường hợp mà áp dụng sự mau chậm cho thích đáng. Trong một khóa thiền hay trong mọi trường hợp, nếu đàng sau bạn có nhiều người đang chờ đợi, thì hãy làm việc với tốc độ bình thường. Tuy nhiên, phải luôn luôn nhớ rằng mục đích chính của bạn là phát triển chánh niệm. Thế nên, ngoài những lúc cần thiết phải làm mau hay làm với tốc độ bình thường, những lúc khác, nhất là khi chỉ có một mình thì hãy làm chậm lại các động tác. Bạn có thể ăn chậm, rửa mặt, đánh răng hay tắm một cách chậm rãi chánh niệm nếu sau lưng bạn không có ai đang sắp hàng chờ. Yếu tố thứ ba: Liên Tục Không Gián Ðoạn Kiên trì liên tục chánh niệm là điều kiện thiết yếu thứ ba giúp cho ngũ lực mạnh mẽ. Thiền sinh phải chánh niệm trong từng phút giây, từ thời điểm này đến thời điểm khác, đừng để gián đoạn. Nếu được như thế, thì chánh niệm được thiết lập và đà tiến được duy trì, chẳng khác nào xe giữ được trớn. Liên tục chánh niệm giúp ngăn ngừa phiền não, không cho những phiền não như tham lam, sân hận, si mê xâm nhập vào tâm và lôi ta đi đến chỗ sai lầm. Khi chánh niệm mạnh mẽ thì phiền não không thể khởi sinh. Khi tâm thoát khỏi phiền não sẽ nhẹ nhàng như trút bỏ gánh nặng và đầy an vui, hạnh phúc. Hãy làm mọi điều cần thiết để duy trì chánh niệm liên tục. Mỗi lần chỉ làm một công việc, không làm hai, ba việc một lúc. Khi thay đổi tư thế chẳng hạn, bạn hãy chia chuyển động ra làm nhiều đơn vị nhỏ, và ghi nhận từng đơn vị này với sự thận trọng và tỉ mỉ tối đa. Sau khi ngồi thiền, muốn đứng dậy, hãy ghi nhận ý định mở mắt. Sau đó, ghi nhận những cảm giác xảy ra khi mi mắt bắt đầu di động. Ghi nhận tay nhấc lên khỏi đùi, chân trở, v.v... Suốt ngày bạn phải ghi nhận mọi tác động xảy ra, dù đó là những tác động nhỏ nhặt nhất. Không phải chỉ ghi nhận bốn tác động chính là đi, đứng, ngồi, nằm mà tất cả các tác động khác như nhắm mắt, quay đầu, mở cửa, bật đèn, v.v... đều phải được chú tâm ghi nhận. Ngoài giờ ngủ ra, chánh niệm phải được duy trì liên tục trong mỗi lúc. Sự liên tục chánh niệm phải thật mạnh mẽ. Thật vậy, không có thời giờ để liên tưởng, do dự, suy nghĩ, phán đoán hay so sánh với những điều mình đọc trong sách thiền trước đây. Chỉ cần chú ý ghi nhận đơn thuần mà không thêm gì vào cả. Hành thiền chẳng khác nào tạo ra lửa. Ngày xưa, khi chưa có hộp quẹt hay kính phóng đại, lửa được tạo ra bằng cách cọ hai thanh gỗ vào nhau. Người ta liên tục cọ cho đến khi lửa bật ra và bắt vào bùi nhùi để sẵn. Nếu chỉ cọ hai thanh củi vào nhau chừng vài cái lại dừng, tiếp tục cọ vài cái lại dừng nữa... cứ như thế thì chẳng bao giờ có lửa cả. Bạn có bao giờ nhìn thái độ của một con cắt kè chưa? Kinh điển dùng hình ảnh con cắt kè để tượng trưng cho sự gián đoạn hay không liên tục trong việc hành thiền. Khi thấy một con mồi trước mặt, cắt kè liền vội bò gần đến, nhưng nó không tiến đến ngay con mồi mà dừng lại một lát:, nhìn trời, nhìn đất, nhìn trái, nhìn phải, xong tiến thêm vài bước nữa, rồi lại ngừng: nhìn trước, nhìn sau, nhìn ngang, nhìn ngửa. Không bao giờ cắt kè nhìn thấy mồi mà tiến đến ngay, hay bò đến liên tục. Nhiều thiền sinh hành thiền rất khá trong buổi đầu, ghi nhận đề mục thật chánh niệm; nhưng được một lát, lại bắt đầu suy nghĩ, tính toán. Ðây là thiền sinh cắt kè. Cắt kè tìm mồi để sống nên dù nó có thiếu sự liên tục trong khi săn mồi thì cũng chẳng sao. Nhưng thiền sinh hành thiền thì không thể như vậy được. Thiền sinh mỗi lần có được chút kinh nghiệm mới lại bắt đầu suy nghĩ, so sánh "không biết ta đã đạt đến tuệ nào rồi?" Một số khác thì không kinh nghiệm đến gì mới, chỉ suy nghĩ và băn khoăn lo lắng những chuyện quen thuộc bình thường, đại loại như "Hôm nay ta cảm thấy mệt, có lẽ là ngủ chưa đủ; hay là tại ta ăn quá nhiều, chắc cần phải nằm nghỉ một lát; chân ta bị đau, chẳng biết nó có bị sưng tấy lên không? điều này có thể ảnh hưởng đến việc hành thiền của ta đó; có lẽ ta cần phải mở mắt ra để xem sao..." Ðó là những sự do dự của thiền sinh cắt kè. Yếu tố thứ tư: Những Ðiều Kiện Hỗ Trợ Yếu tố thứ tư làm cho ngũ lực phát triển là phải có những điều kiện thuận lợi giúp cho trí tuệ hiển lộ. Có bảy điều kiện thuận lợi cho việc hành thiền minh sát. 1. Nơi chốn thích hợp: Nơi hành thiền cũng như những khu vực gần đó phải có phương tiện đầy đủ (chẳng hạn như có đủ nước dùng, có điều kiện vệ sinh tốt, có an ninh, không nhiều muỗi mòng, thú dữ, v.v..,) một nơi có thể giúp đạt tuệ giác một cách tốt đẹp. 2. Ði lại thích hợp: Ðiều này nói đến việc đi khất thực hằng ngày. Chỗ ở của chư tăng hành thiền đừng gần làng xóm quá, vì gần làng xóm quá sẽ ồn ào và dễ bị phóng tâm. Cũng đừng xa làng xóm quá, vì chư tăng phải sống nhờ vào thực phẩm dâng cúng của dân làng qua việc khất thực hàng ngày. Ðối với thiền sinh cư sĩ, đồ ăn phải được cung cấp đầy đủ và thường xuyên. Dĩ nhiên là cũng vừa phải, đừng để bị phân tâm vì thức ăn. Nên tránh những nơi có thể làm cho sự định tâm của mình bị sút kém, nghĩa là những nơi có quá nhiều hoạt động và bận rộn làm cho tâm bị tán loạn, khó tập trung vào đề mục. Tóm lại, nơi ở cần có sự yên tịnh tối thiểu, nhưng đừng quá xa làng xóm, vì ở nơi quá xa làng xóm thì thiếu phương tiện sống nên cũng trở ngại cho việc hành thiền. 3. Ngôn ngữ thích hợp: Trong khóa thiền, lời nói được giới hạn. Không nên nói quá dài dòng, chỉ nói những vấn đề quan trọng và cần thiết. Chú giải có ghi rõ: Nghe pháp là ngôn ngữ thích hợp. Chúng ta có thể kể vào đây việc trình pháp với thiền sư. Khi có điều gì trở ngại trong việc hành thiền thì nên hỏi ý kiến thiền sư để thiền sư điều chỉnh giúp chúng ta dễ dàng tiến bước trên đường thiền. Nhưng nên nhớ, cái gì quá nhiều thì không tốt. Như có lần tôi dạy ở một nơi có những cây kiểng. Người thị giả của tôi tưới nước quá nhiều nên lá cây bị rụng hết. Tương tự như vậy, trong khi hành thiền mà bạn bàn luận giáo pháp quá nhiều thì sự định tâm của bạn cũng bị phá vỡ. Ngay cả những bài pháp của thiền sư cũng cần được thẩm định xem có đem lại lợi ích cho sự định tâm của mình không. Một bài pháp thuyết cho thiền sinh cần phải được xét xem có đem lại lợi ích cho họ về hai điểm sau đây hay không? Thứ nhất là sau khi nghe bài pháp này tâm định đã có, có được phát triển thêm không? Thứ hai là sau khi nghe bài pháp này, tâm định chưa có, có được phát sinh lên không? Nếu sau khi xem xét mà thấy không có được hai điểm thuận lợi trên thì tránh đi. Ngoài những giờ trình pháp thường xuyên, nếu thấy những giờ trình pháp bổ túc làm cản trở việc định tâm thì cũng nên tránh đi. Thiền sinh trong một khóa thiền tích cực nên tránh nói chuyện. Tránh nói chuyện được càng nhiều càng tốt, nhất là nói chuyện thế sự. Ngay cả việc bàn luận giáo pháp một cách nghiêm túc cũng không thích hợp trong lúc hành thiền tích cực. Nên tránh tranh luận về giáo pháp giữa các thiền sinh trong khóa thiền. Trong khóa thiền cũng không nên nói chuyện hay bàn thảo về thức ăn, chỗ ở, công việc, chính trị, kinh tế, v.v... Ðây là những lời nói vô bổ. Mục đích của sự cấm đoán này là để ngăn ngừa sự phóng tâm. Ðức Phật với tình thương sâu xa đã dạy: Thiền sinh hành thiền tích cực thì phải thận trọng giữ gìn lời nói; nói chuyện thường xuyên sẽ bị phóng tâm nhiều. Dĩ nhiên khi có chuyện thật sự cần thiết thì nên nói, nhưng cũng không nên vượt quá những gì cần nói. Bạn cũng phải chánh niệm vào tiến trình nói nữa. Trước tiên là ý muốn nói. Tư tưởng sẽ khởi sanh trong tâm về những gì cần nói và phải nói như thế nào. Bạn nên ghi nhận và nên niệm thầm mọi tư tưởng khởi sinh, tâm chuẩn bị nói, và sau đó, tác động nói bao gồm những chuyển động vật chất. Sự chuyển động của môi và mặt, những cử chỉ đi kèm đều là đề mục để chánh niệm. Vài năm trước đây, ở Miến Ðiện, có một ông công chức cao cấp vừa mới về hưu là một Phật tử rất hăng say. Ông đã đọc nhiều kinh điển và văn chương qua những bản dịch sang tiếng Miến, và cũng đã bỏ ra một ít thời gian để hành thiền. Việc hành thiền của ông không khá lắm, nhưng ông có nhiều kiến thức tổng quát và muốn dạy. Bởi thế, ông trở thành một vị thầy. Một hôm, ông đến thiền viện ở Rangoon để hành thiền. Khi hướng dẫn thiền sinh, tôi thường giảng giải việc thực hành, và sau đó so sánh những điều tôi hướng dẫn với kinh điển, cố gắng giải thích và dung hoà những điểm có vẻ khác nhau. Vị cựu công chức này bắt đầu hỏi tôi: "Bạch ngài, những điều ngài trích dẫn ở trên là do từ kinh sách nào vậy?" Tôi nhã nhặn khuyên ông ta nên bỏ qua những chi tiết đó đi, và hãy tiếp tục hành thiền. Nhưng ông không quên được. Ba ngày liên tiếp ông đều làm như vậy trong mỗi lần nghe hướng dẫn. Cuối cùng, tôi hỏi ông ta: "Tại sao ông đến đây? Ông đến đây để học, hay để dạy tôi?". Ðối với tôi, hình như ông ta đến đây để khoe kiến thức tổng quát của ông chứ không phải để hành thiền. Ông ta trả lời yếu đuối: "Tôi đến đây để học, và ngài là thầy". Tôi nói: "Tôi đã cố gắng nhỏ nhẹ bảo cho ông biết điều này từ ba hôm nay, nhưng bây giờ tôi phải nói thẳng với ông. Ông giống như một mục sư, nhiệm vụ chính là đứng làm đám cưới cho cô dâu và chú rể. Một hôm, đến lượt ông mục sư cưới vợ. Thay vì đứng vào chỗ chàng rể đứng, ông lại lên bục thờ và hướng dẫn lễ cưới trước sự ngạc nhiên của khách tham dự".Nghe xong, ông cựu công chức nhận ra khuyết điểm của mình, ông xin lỗi và từ đó trở thành một thiền sinh chăm chỉ và biết vâng lời. Một thiền sinh muốn thấy giáo pháp không nên có thái độ như vị công chức trên. Thực vậy, kinh điển có dạy rằng, dù bạn học hành giỏi dắn và kinh nghiệm đến đâu, nhưng trong thời gian hành thiền phải có thái độ như mình không thông hiểu gì về lãnh vực sở trường của mình mà phải luôn luôn vâng lời thiền sư. Trong chiều hướng này, tôi muốn chia xẻ với các bạn một thái độ mà tôi đã cố gắng tập luyện ngay từ lúc còn nhỏ. Khi tôi không rành về lãnh vực nào, thì tôi không xen vào. Ngay cả khi tôi thành thạo, có thẩm quyền cũng như từng trải về một lãnh vực nào đó, nhưng nếu không có lời yêu cầu thì tôi cũng không xen vào. 4. Người thích hợp: Người thích hợp, phần lớn liên quan đến thiền sư. Nếu một vị thiền sư có khả năng hướng dẫn giúp thiền sinh tiến bộ, phát triển được định tâm đã có, hay tạo nên định tâm chưa phát sinh, thì đó là một thiền sư thích hợp. Hai khía cạnh khác về người thích hợp là sự hỗ trợ của cộng đồng giúp cho thiền sinh, và thái độ của thiền sinh đối với các vị đã hỗ trợ mình. Trong một khóa thiền tích cực, thiền sinh phải cần có nhiều hỗ trợ để dễ dàng phát triển chánh niệm và định tâm. Thiền sinh tránh xa mọi việc thế sự. Bởi thế, thiền sinh cần có những người bạn có thể làm giúp cho họ những công việc như đi sắm sửa vật dụng, thức ăn; sửa soạn chỗ ở, v.v... Vì nếu để thiền sinh làm những công việc này trong khi đang hành thiền tích cực thì tâm thiền sinh sẽ tán loạn. Về phần thiền sinh, khi đã sống chung với một tập thể đông người, thì cũng phải xét xem những hành động của mình có ảnh hưởng bất lợi đến việc hành thiền của những người khác không. Cử chỉ thô tháo, hay gây tiếng động, có thể quấy rầy người khác. Ðiều mà thiền sinh cần nhớ nằm lòng là nên nghĩ đến người khác, tôn trọng người khác. 5. Thực phẩm: Thức ăn thích hợp là một sự hỗ trợ lớn lao cho sự tiến bộ của thiền sinh. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng không phải dễ dàng thỏa mãn điều này. Bởi vì thiền sinh quá đông, thực phẩm nấu chung cho mọi người, không phải cho riêng từng cá nhân nên dầu sao cũng không thể nào thích hợp cho từng người được. Vì vậy, tốt nhất là thiền sinh phải có thái độ thích ứng với hoàn cảnh là có cái gì, ăn cái nấy. Không đòi hỏi gì cả. Nếu việc hành thiền thực sự bị quấy động vì việc ăn uống không hợp khẩu vị, thì cũng nên kịp thời điều chỉnh. Câu Chuyện Matikamata Một lần nọ có sáu mươi vị sư hành thiền trong rừng. Bà thiện tín hộ độ cho các thầy là bà Matikamata, một thiện tín nhiệt thành. Bà cố gắng tìm hiểu các vị sư thích ăn gì và hằng ngày nấu đầy đủ thức ăn cho các thầy. Một hôm, Matikamata hỏi các nhà sư là liệu các cư sĩ có thể hành thiền như các thầy được không. Các nhà sư trả lời "được," và dạy cho bà cách hành thiền. Bà mừng rỡ và về nhà bắt đầu hành thiền. Bà duy trì việc hành thiền ngay cả lúc bà nấu ăn và làm công việc nhà. Cuối cùng, bà đắc quả thánh A-Na-Hàm. Nhờ phước báu tích tụ từ các kiếp trước, bà có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông. Nghĩa là bà có thể nghe, thấy xa ngàn dặm và có thể hiểu được tâm người khác. Rất thỏa thích về kết quả mình đã đạt được và lấy làm biết ơn các vị sư đã chỉ dẫn cho mình, bà Matikamata tự nhủ: "Pháp bảo ta chứng ngộ thật là kỳ diệu. Mặc dầu ta là một người bận rộn, phải làm các công việc trong nhà và nấu thức ăn cho các nhà sư hàng ngày, nhưng ta vẫn có thể thấy pháp bảo thì các nhà sư chắc chắn tiến bộ hơn ta nhiều". Với thần thông bà xem xét sự tiến triển về thiền của sáu mươi vị sư. Bà ngạc nhiên thấy rằng chẳng có thầy nào đạt được một chút tiến bộ trong Thiền Minh Sát. Bà Matikamata dùng thần thông để tìm hiểu lý do và thấy rằng không phải do chỗ ở hay vì các thầy không thể sống chung với nhau, mà vì không có đồ ăn thích hợp nên các thầy không tiến bộ. Vài thầy thích chua; các thầy khác thích mặn; một số thích ớt; một số thích bánh và một số lại thích rau trái. Nhớ ơn các nhà sư đã chỉ dẫn cho mình cách hành thiền đạt được kết quả, bà Matikamata bắt đầu nấu thức ăn thích hợp với khẩu vị của từng thầy. Kết quả là tất cả sáu mươi vị đều đắc quả A la hán trong một thời gian ngắn sau đó. Việc đắc đạo nhanh chóng và sâu xa cũng như sự biết ơn của bà Matikamata đã mang lại cho ta một gương tốt đẹp cho cha mẹ cũng như những người đã bỏ công ra giúp đỡ cho người hành thiền. Mặc dầu phải bỏ công sức ra giúp đỡ người khác, nhưng cũng không cần phải bỏ việc hành thiền của mình. Trong khi giúp đỡ người khác, ta vẫn có thể hành thiền để đạt được những kết quả cao sâu hơn. Trong phần nói về thực phẩm này, tôi muốn đề cập đến vấn đề ăn chay. Nhiều người cho rằng chỉ ăn rau trái mới hợp đạo đức. Trong Phật giáo không hề có quan niệm ăn chay sẽ dễ giải thoát. Ðức Phật không hề cấm đoán việc ăn cá thịt. Ðức Phật chỉ quy định một vài điều kiện về việc ăn thịt cá. Ngài qui định phải ăn theo tam tịnh nhục: Tức là không thấy con vật bị giết, không nghe tiếng kêu của con vật bị giết, không nghi con vật bị giết với mục đích giành riêng cho mình ăn. Ngoài ra Tỳ khưu phải cử ăn mười loại thịt như: thịt chó, thịt cọp, thịt rắn, thịt người v.v... điều này cho thấy Ðức Phật không cấm Tỳ khưu ăn thịt cá. Ðề-Bà-Ðạt-Ða có yêu cầu Ðức Phật đặt ra luật cấm ăn thịt cá, nhưng Ðức Phật sau khi thẩm định đã từ chối lời yêu cầu. Vào thời kỳ Ðức Phật cũng như ngày nay, phần đông ăn cá thịt và rau trái hỗn hợp. Chỉ có những người bà la môn, hay những người thuộc giai cấp cao trong xã hội Ấn Ðộ là ăn chay. Khi nhà sư đi khất thực để sống, nhà sư phải nhận mọi thứ thực phẩm của các giai cấp thí chủ khác nhau mà không được phân biệt, nhận của người này và từ chối người kia. Nếu phân biệt thức ăn chay, mặn thì trái với tinh thần khất thực này. Hơn nữa, để cho những người bà la môn và những người thuộc giai cấp khác đều có thể gia nhập tăng hay ni đoàn và không còn chấp trước vào thực phẩm nên Ðức Phật để ý đến sự kiện này khi quyết định vấn đề chay mặn. Như vậy, không cần phải tự thúc buộc mình vào việc ăn chay khi thực hành Thiền Minh Sát. Dĩ nhiên, có sự quân bình về rau trái và cá thịt sẽ có lợi cho sức khoẻ. Nếu bạn muốn ăn chay vì lòng từ bi thì đó cũng là một điều thiện. Mặt khác, nếu vì lý do sức khoẻ, nhất là cần phải có những chất bổ dinh dưỡng chỉ có trong thịt, cá, thì cũng cần nên ăn cá, thịt. Không có vấn đề tội lỗi trong việc ăn cá thịt; ăn cá thịt cũng chẳng làm hại hay cản trở gì trong việc hành Thiền Minh Sát. 6. Khí hậu thích hợp: Con người có khả năng kỳ diệu để chịu đựng với mọi hoàn cảnh và thời tiết. Vấn đề lạnh nóng chẳng là một trở ngại. Trong mọi thời tiết, ta đều có phương cách thích ứng và tạo ra sự thoải mái cho mình. Chính cơ thể chúng ta cũng có những phản ứng để điều hoà và thích nghi với thời tiết nóng lạnh. Khi thời tiết quá khắc nghiệt, vượt ngoài khả năng thích ứng và điều hoà của cơ thể, nhất là vượt quá khả năng chịu đựng của hành giả và trở ngại cho việc hành thiền, thì nên dùng khả năng nhân tạo để biến đổi hoàn cảnh, như dùng quạt máy, dùng máy điều hoà không khí, dùng máy sưởi v.v... nếu không có đủ phương tiện thì phải di chuyển đến nơi thích hợp. Không thể kham nhẫn thì viễn ly vậy. 7. Tư thế thích hợp: Ðó là bốn tư thế thông thường (tứ oai nghi): đi, đứng, ngồi, nằm. Ngồi là tư thế tốt nhất trong thiền chỉ hay thiền vắng lặng. Trong Thiền Minh Sát thì hai tư thế ngồi và đi được hành thường xuyên. Khi việc hành thiền đã vững mạnh và tiến triển tốt đẹp thì tư thế không thành vấn đề; tư thế nào cũng đều thích hợp cả. Thiền sinh mới nên tránh tư thế đứng hay nằm. Tư thế đứng có thể đem lại sự mệt mỏi và đau nhức nơi chân trong một thời gian ngắn khiến việc hành thiền bị gián đoạn. Tư thế nằm dễ sanh ra buồn ngủ. Khi hành thiền ở tư thế nằm thiền sinh không có nhiều tinh tấn vì không cần phải cố gắng để duy trì tư thế, và tư thế nằm cũng quá thoải mái nên dễ sinh ra buồn ngủ. Hãy tự kiểm xét xem bạn có đủ bảy yếu tố thuận lợi trên hay không. Nếu không đủ, hãy cải thiện dần dần để việc hành thiền được tiến triển tốt đẹp. Nếu có những điều cần phải thực hiện nhằm đem lại sự tiến bộ trong việc hành thiền, thì phải thực hiện, đừng ngại ngùng cho rằng đó là đòi hỏi quá đáng, v.v...
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:19:22 GMT -5
Yếu tố thứ năm: Nhớ Lại Những Ðiều Kiện Ðã Ðem Lại Thuận Lợi Cho Việc Hành Thiền Trong Quá Khứ Những hoàn cảnh hay điều kiện gì trong quá khứ đã giúp cho mình đạt được chánh niệm và định tâm cao có thể tạm gọi là Ðiều Kiện Ðịnh Tâm Tối Thuận. Như chúng ta biết, việc hành thiền của ta có lúc lên lúc xuống. Có khi chúng ta vượt lên đến đỉnh mây của việc hành thiền, cũng có lúc chúng ta chán nản, xuống tinh thần, loạn tâm và bị chi phối bởi đủ mọi loại phiền não. Sử dụng điều kiện định tâm tối thuận, có nghĩa là lúc sự hành thiền của ta lên đến đỉnh mây, tâm chánh niệm rất mạnh, định tâm cao, ta nên nhớ lại những điều kiện gì đã giúp ta đạt được như thế. Tâm ta đã được điều hành như thế nào để đạt được trạng thái tốt đẹp này? Hoàn cảnh đặc biệt nào đã giúp ta đạt được như vậy? Lần sau, nếu bạn lâm vào tình trạng khó khăn, thì hãy nhớ lại những điều kiện định tâm tối thuận trước đây để điều chỉnh việc hành thiền của mình hầu vượt qua tình trạng đen tối này. Yếu tố thứ sáu: Phát Triển Thất Giác Chi Cách thứ sáu làm cho ngũ căn bén nhạy là phát triển những yếu tố dẫn đến giác ngộ hay Thất Giác Chi, đó là: Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi, Tinh Tấn Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Thư Thái Giác Chi, Ðịnh Giác Chi và Xả Giác Chi. Những trạng thái tâm hay còn gọi là tâm sở này là nguyên nhân chính đưa đến giác ngộ đạo quả. Khi chúng hiện diện trong tâm thiền sinh thì thiền sinh cần phải tinh tấn thêm vì có thể nói rằng thời điểm giác ngộ đã gần kề. Hơn nữa, Thất Giác Chi còn được gọi là "đạo và quả tâm". Khi thiền sinh giác ngộ chân lý hay giác ngộ Niết Bàn, thì một tâm phát khởi trong họ, gọi là đạo tâm. Tiếp theo đó là quả tâm. Ðó là những gì xảy ra khi tâm chuyển sự chú ý của nó từ thế giới điều kiện sang Niết Bàn thực tại vô điều kiện. Kết quả của sự chuyển tâm này là phiền não được nhổ tận gốc rễ, và tâm từ nay không còn giống như trước nữa. Khi hành thiền để tạo điều kiện cho đạo và quả tâm, thiền sinh phải hiểu biết bảy nguyên nhân phát sanh quả bồ đề, hay Thất Giác Chi, có thể dùng chúng để quân bình việc hành thiền của mình. Dùng tinh tấn giác chi, hỷ giác chi và trạch pháp giác chi để nâng đỡ tâm khi tâm bị thối chuyển, xuống tinh thần, và dùng thư thái giác chi, định giác chi và xả giác chi để an định tâm khi tâm quá phấn chấn. Nhiều lần, thiền sinh cảm thấy xuống tinh thần và nản chí, chẳng có chánh niệm, nghĩ rằng việc hành thiền của mình đang xuống dốc một cách tệ hại. Chánh niệm không đủ khả năng để bắt đề mục như trước đây. Vào lúc đó, thiền sinh cần phải thoát ra khỏi tình trạng này và thắp sáng tâm lên. Thiền sinh phải tìm sự khích lệ và hứng khởi. Một cách để khích lệ và làm tâm hứng khởi là nghe những bài pháp thích hợp. Một bài pháp có thể giúp phát sanh hỷ lạc hay có thể giúp kích thích sự tinh tấn hoặc đào sâu trạch pháp giác chi, cung ứng sự hiểu biết về việc hành thiền. Ba giác chi hỷ, tinh tấn, và trạch pháp hỗ trợ đắc lực để đương đầu với sự thối chí và xuống tinh thần. Khi nghe được một bài pháp khích lệ đem lại hỷ, tinh tấn hay trạch pháp, bạn nên lợi dụng cơ hội này mà cố gắng chú tâm một cách rõ ràng trên đề mục hành thiền, để cho đề mục hiện rõ ràng trong tâm. Vào những lúc khác, thiền sinh có thể có những kinh nghiệm khác thường hay vì một vài lý do gì đó, thiền sinh có thể thấy mình ngập tràn phấn khởi và hỷ lạc. Tâm trở nên quá mẫn và quá phấn chấn. Trong một khóa thiền, bạn có thể nhận ra loại thiền sinh này. Họ tỏ vẻ tươi tỉnh và quá hăng hái, đi vòng vòng như người đi trên mây. Vì quá tinh tấn, tâm trượt khỏi đề mục và không thể tập trung vào những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Khi sự chú tâm vừa đụng đề mục một chút thì ngay tức khắc đổi hướng và chuyển đi nơi khác. Nếu bạn cảm thấy mình quá phấn chấn, thì nên hồi phục sự quân bình bằng cách khai triển ba giác chi là thư thái, định và xả. Phương cách khởi đầu tốt đẹp là phải ý thức rằng năng lực của bạn đã quá trội và tự nhủ: "Có gì mà phải vội vã. Giáo pháp sẽ tự hiển lộ. Ta nên ngồi xuống theo dõi một cách tỉnh thức và thoải mái". Ðó là cách để kích thích sự thư thái. Rồi một khi năng lực nóng bỏng của bạn đã được mát và nguội đi, bạn có thể bắt đầu tập định tâm. Phương pháp thực tiễn là thu hẹp các đối tượng tập trung tâm ý. Thay vì ghi nhận nhiều đề mục, hãy giảm bớt và tập trung vào một số ít đề mục thôi. Tâm sẽ sớm trở lại tình trạng bình thường, từng bước chậm rãi thoải mái. Cuối cùng, khi tâm đã có sự quân bình, hãy dỗ dành trấn an nó bằng cách tự phản tỉnh. Bạn có thể tự nhủ như sau: "Là một người hành thiền, thì ta không được quá ưa thích hay quá quí chuộng điều gì cả. Chẳng có gì phải hấp tấp vội vã. Hãy thư thả, thoải mái. Ta chỉ có một việc phải làm là theo dõi một cách chánh niệm những gì, dù tốt, dù xấu, xảy ra mà thôi". Nếu bạn có thể giữ tâm thăng bằng, sự phấn khích đã được xoa dịu, tinh thần yếu đuối đã được nâng lên, thì chắc chắn, chỉ trong một thời gian ngắn, trí tuệ sẽ tự hiển lộ. Người có đủ khả năng nhất để điều chỉnh sự mất quân bình trong việc hành thiền của một thiền sinh là một thiền sư có đủ thẩm quyền. Nếu vị thiền sư thường xuyên đều đặn theo dõi thiền sinh qua các buổi trình pháp thì thiền sư có thể nhận ra và kịp thời điều chỉnh nhiều tình trạng thái quá mà thiền sinh đang gặp phải. Tôi muốn nhắc thiền sinh là đừng chán nản, xuống tinh thần khi thấy việc hành thiền của mình có gì bất ổn và không tiến triển. Thiền sinh cũng giống như các em bé. Các em bé thì phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển để trưởng thành. Khi trẻ em chuyển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác (như mọc răng hay dậy thì v.v...,) thì nó phải trải qua những biến chuyển về sinh lý và tâm lý. Lúc bấy giờ, hình như chúng dễ cáu kỉnh và khó dạy. Một người mẹ thiếu kinh nghiệm sẽ băn khoăn lo lắng về đứa trẻ trong suốt các giai đoạn thay đổi này. Nhưng thực ra, nếu trẻ con không trải qua sự đau khổ khó khăn này thì chúng sẽ không thể trưởng thành được. Trẻ con bỗng nhiên trở nên buồn bã, khó chịu, thường là dấu hiệu cho thấy chúng đang phát triển. Vậy, nếu bạn thấy việc hành thiền của mình bị xuống dốc thì đừng lo lắng băn khoăn gì cả. Bạn cũng như một đứa trẻ đang chuyển từ giai đoạn này sang một giai đoạn khác để phát triển mà thôi. Yếu tố thứ bảy: Dũng Cảm và Tinh Tấn Bạn hãy nỗ lực tinh tấn như thể bạn muốn hy sinh tính mạng và thân thể này để hành thiền không gián đoạn. Ðiều này có nghĩa là bớt quan tâm về cơ thể chúng ta như thói quen thường lệ. Thay vì bỏ thời giờ vào việc làm đẹp và cung phụng đủ nhu cầu để thỏa mãn sự tham ái lớn lao của chúng ta, hãy dùng năng lực này càng nhiều càng tốt vào việc hành thiền. Mặc dù hiện tại, bạn cảm thấy mình còn trẻ, nhưng khi chết đi, cơ thể chúng ta hoàn toàn vô dụng. Cái xác hư thối kia còn có công dụng gì? Thân thể ta chẳng khác nào một cái bình dễ vỡ. Khi nó còn nguyên vẹn thì ta có thể xử dụng được; nhưng một mai, khi chúng bị vỡ, bị bể rồi, còn có thể xử dụng nó vào được việc gì nữa không? Khi còn sống và còn đầy đủ sức khoẻ, chúng ta còn có cơ hội tốt để hành thiền. Hãy cố gắng gạn lọc ra những phần tinh túy hữu dụng của cơ thể trước khi cơ thể trở thành một xác trơ vô dụng! Nên cố gắng nhạy bén, thông minh, duy trì cơ thể này trong điều kiện tốt để có thể tiếp tục việc hành thiền.Bạn có thể hỏi rằng, "Có thể gạn lọc ra từ thân thể này thứ gì đây?". Các nhà khoa học đã tìm ra giá trị thị trường của những chất trích ra từ cơ thể con người, như sắc, vôi, muối khoáng v.v.. Tôi tin rằng toàn thể các chất trích ra không đáng giá hơn một đô-la Mỹ. Trong khi đó, tiền chi phí cho việc trích xuất ra các chất này lớn hơn nhiều. Nếu không trích xuất ra, thì cơ thể này chẳng có giá trị gì ngoài việc làm phân bón đất. Nếu các cơ phận trong thân thể người chết có thể ghép cho người còn sống, thì đó là một chuyện tốt, nhưng như vậy thì chẳng qua sự vô dụng của cơ thể này đình hoãn lại thêm một thời gian nữa mà thôi. Cơ thể này là một đống rác dơ bẩn đáng gớm. Dưới con mắt của người thường thì đống rác vô giá trị, nhưng người khôn ngoan có thể biết giá trị tái tạo của nó. Họ có thể lấy từ đống rác những vật dơ dáy hôi hám rồi rửa sạch và dùng lại. Nhiều người đã trở thành triệu phú nhờ vào việc tái tạo các đống rác. Cũng vậy, từ đống rác được ví bằng thân thể này, chúng ta có thể lấy ra vàng bằng cách thực hành giáo pháp. Loại vàng đầu tiên là giới luật. Giới luật giữ cho thân trong sạch. Sau đó, ta có thể lấy các loại vàng khác: tín, tấn, niệm, định, huệ. Ðó là những loại vàng quý giá được trích ra từ cơ thể này nhờ ở việc hành thiền. Khi Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Huệ được khai triển tốt, tâm có đủ khả năng để chống lại tham, sân, si. Một người có tâm thoát khỏi mọi đau khổ ức chế này sẽ có được một hạnh phúc và bình an tuyệt diệu. Sự bình an hạnh phúc tuyệt diệu này không thể nào dùng tiền để mua được. Người đó có tư thái an lạc và dịu dàng khiến những ai gặp họ đều cảm thấy thoải mái, thư thái, lên tinh thần. Sự giải thoát nội tâm này độc lập với mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, và chỉ có thể đạt được do sự chuyên tâm hành thiền. Không phải chỉ cần có ý muốn diệt trừ khổ đau thì khổ đau sẽ bị tận diệt. Ai cũng hiểu điều này. Có ai chưa từng vật lộn với tham ái mà họ biết rằng nếu để tham ái này bộc phát thì sẽ làm hại người khác. Có ai chưa từng nổi xung, cạu cọ hay gắt gỏng, và không mong muốn được hạnh phúc và vừa lòng? Có ai chưa từng đau khổ và bối rối hoang mang không? Chúng ta có thể nhổ tận gốc rễ nguyên nhân của các đau khổ, bất mãn trong cuộc sống. Nhưng, đối với phần lớn chúng ta, thì đây không phải là điều dễ thực hiện. Luyện tâm đòi hỏi chúng ta phải có nhiều nỗ lực, nhưng chúng ta cũng sẽ được đền bù xứng đáng. Vậy không nên nản chí. Mục đích và kết quả của thiền minh sát là thoát khỏi mọi loại, mọi hình thức, mọi mức độ khổ thân và khổ tâm. Bạn muốn có loại tự do này thì bạn nên vui mừng vì mình đang có cơ hội tốt để đạt được nếu bạn cố gắng. Thời gian tốt nhất để gặt hái kết quả cao quí này là ngay bây giờ. Nếu bạn còn trẻ thì bạn nên tận dụng tình trạng tốt đẹp này, vì người trẻ tuổi có năng lực tốt nhất để hành thiền. Nếu lớn tuổi hơn, có thể bạn không đủ năng lực thể chất, nhưng bù vào đó, bạn đã từng trải cuộc đời, bạn đã có nhiều kinh nghiệm về sự vô thường. Bạn thấy rõ sự biến đổi mau lẹ không thể tiên liệu, không thể nói trước được của cuộc đời. "Sự Khẩn Cấp Chụp Lấy Tôi" Dưới thời Ðức Phật có một vị tỳ khưu trẻ sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Trẻ trung và tráng kiện, thầy có đủ cơ hội để hưởng thụ mọi lạc thú của cuộc đời trước khi xuất gia. Thầy có sức khỏe, có đông bạn bè và thân quyến, và sự giàu có sung túc này khiến thầy được mọi người chiều chuộng và làm vừa lòng. Nhưng thầy đã từ bỏ tất cả để đi tìm sự giải thoát. Một ngày nọ, nhà vua cưỡi ngựa dạo trong rừng. Thấy nhà sư trẻ, nhà vua dừng ngựa, đến gần và hỏi, "Thưa đại đức, đại đức còn trẻ trung và khỏe mạnh, và đang ở vào lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, Ðại đức lại sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Tại sao đại đức bỏ lỡ cơ hội để hưởng thụ tuổi trẻ của mình? Tại sao lại từ bỏ gia đình, khoác áo nhà tu và sống một mình? Ðại đức có thấy cô đơn không? Có thấy chán nản không?" Nhà sư trẻ trả lời, "Thưa ngài, khi nghe lời giảng dạy của Ðức Phật, trong tôi đã khởi lên một tinh thần cấp bách. Sự cấp bách này đã thúc đẩy tôi. Tôi muốn trích xuất ra từ cơ thể này những cái gì quí báu nhất trước khi tôi từ giã cõi đời. Ðó là lý do tại sao tôi từ giã đời sống thế tục và khoác lên mình chiếc y vàng." Nếu bạn vẫn chưa đồng ý là cần phải hành thiền một cách cấp bách - mà không dính mắc vào thân thể hay đời sống - thì những lời dạy sau đây của Ðức Phật cũng có thể làm bạn đổi ý mà tinh tấn thực hành. Ðức Phật dạy chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng thân thể này chẳng gì khác hơn là sự hợp thành của danh và sắc. Danh và Sắc không thể tồn tại được dù trong một thời điểm ngắn ngủi. Danh Sắc trôi chảy không ngừng. Một khi đã có thân tâm này, thì chẳng có cách gì làm cho nó đừng già. Khi còn trẻ ta muốn mình mau lớn, khi lớn tuổi lại muốn mình đừng già. Chúng ta muốn được khỏe mạnh, nhưng sự mong mỏi của chúng ta không bao giờ được thỏa mãn. Chúng ta bị đau khổ và bất toại nguyện, bị bệnh tật dày xéo suốt cuộc đời. Chúng ta không thể nào sống mãi mãi được. Tất cả chúng ta đều phải chết. Chết là điều trái ngược với lòng mong cầu của chúng ta, nhưng chúng ta không ngăn cản được. Chỉ có một điều là lúc nào cái chết sẽ đến mà thôi. Ta không thể nào ngăn cản đừng cho thân thể này thay đổi hay biến chuyển theo thời gian. Không một ai trên thế gian này có thể cam kết rằng những điều ước ao của chúng ta về một đời sống phát triển, khỏe mạnh và bất tử sẽ được bảo đảm. Người ta từ chối chấp nhận sự thật. Già muốn làm cho trẻ ra. Các nhà khoa học cố gắng tìm đủ mọi phương pháp, phát minh ra những máy móc kỳ diệu để trì hoãn tiến trình hủy diệt của con người. Họ cố tìm cách làm sống lại những người đã chết. Khi đau ta uống thuốc để cảm thấy dễ chịu. Nhưng dù cho có lành bịnh thì ta cũng đau lại, không thể đi ngược lại với thiên nhiên. Chúng ta không thể tránh khỏi già, bệnh, chết. Ðiểm yếu đuối chính của chúng ta là thiếu an toàn. Hãy nhìn những sinh vật khác, những con thú, và nhất là con người. Có chỗ trú ẩn nào để tránh khỏi già, bệnh và chết không? Nếu bạn hành thiền tích cực, bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy những sự kiện này hiển bày trước mắt bạn. Nếu bạn có thể thấy bằng trực giác sự sinh diệt của các hiện tượng thân tâm, bạn sẽ biết rằng chẳng có một chỗ an toàn nào để ẩn trú cả. Không có một nơi nào an toàn. Dầu trí tuệ của bạn chưa đạt được điểm này, nhưng khi suy tư về sự không bền vững của cuộc sống cũng khiến bạn có những tư tưởng khẩn cấp và một sự khích lệ mạnh mẽ trong việc hành thiền cũng phát sinh. Thiền minh sát có thể dẫn bạn đến một nơi thoát khỏi những điều sợ hãi này. Con người cũng có một điểm rất yếu nữa là không có quyền sở hữu. Ðiều này có vẻ kỳ lạ. Chúng ta được sinh ra, chúng ta bắt đầu có sự hiểu biết, chúng ta có tín nhiệm, phần lớn có việc làm và mua sắm với tiền lương của mình. Chúng ta gọi đó là tài sản của chúng ta. Và trong một mức độ tương đối, đó là những gì mà ta có. Không nghi ngờ gì về việc này. Nếu tài sản thật sự là của ta thì ta không bao giờ bị xa rời chúng. Nếu chúng bị vỡ hay mất, thì làm sao ta có thể gọi đó là của sở hữu của chúng ta? Trong ý nghĩa tuyệt đối của nó, khi con người chết, chẳng có thể mang theo được gì. Mọi vật chúng ta có được, chúng ta tồn trữ, thu vét, đều phải để lại. Bởi thế, có thể nói rằng, tất cả chúng sanh đều không có quyền sở hữu. Vào lúc chết, tất cả tài sản đều phải bỏ lại. Của sở hữu chia làm ba loại. Bất động sản là những thứ ta không mang đi được như đất đai, nhà cửa, v.v... Theo tục đế, thì nó thuộc về bạn, nhưng bạn phải bỏ nó lại khi bạn chết. Loại tài sản thứ hai, là động sản, là những thứ ta có thể mang đi được như ghế bàn, áo quần, đồ dùng, v.v... Sau đó là kiến thức, mỹ thuật và khoa học, tài năng bạn dùng để duy trì cuộc sống và gia đình. Bao lâu chúng ta còn có một cơ thể lành mạnh thì tài sản, kiến thức rất cần thiết, tuy nhiên, không có một bảo đảm nào để tránh khỏi sự mất mát. Bạn có thể quên những điều bạn biết. Bạn có thể bị cấm đoán bởi chánh quyền, hay gặp những chuyện bất hạnh khác khiến bạn không thể xử dụng những hiểu biết của bạn. Chẳng hạn như bạn là một bác sĩ giải phẫu, nhưng chẳng may tay bạn bị gãy hoặc gặp những bất trắc khác khiến bạn bị loạn thần kinh nên bạn không thể tiếp tục nghề nghiệp của mình. Không một loại tài sản nào trên đây có thể đem lại sự an toàn cho bạn ngay khi bạn còn đang sống trên mặt đất này nói chi đến đời sau. Nếu bạn hiểu rằng mình chẳng làm chủ một thứ gì cả, và sự sống này chuyển biến không ngừng, thì bạn sẽ cảm thấy an lạc nhiều hơn khi mọi đổi thay xảy đến cho bạn. Gia Tài Thật Sự Của Chúng Ta Tuy nhiên, có một thứ mà bạn phải mang theo khi chết: đó là nghiệp. Nghiệp là kết quả của những hành động của chúng ta. Nghiệp tốt và nghiệp xấu theo ta không rời bước. Ta không thể nào xua đuổi nó được dù ta có muốn đi nữa. Sự tin tưởng rằng nghiệp là gia tài của bạn, khiến bạn hăng say trong việc hành thiền. Bạn sẽ hiểu rằng những hành động thiện là căn bản, là vốn đầu tư hạnh phúc trong tương lai, và hành động bất thiện sẽ đem lại cho bạn nhiều đau buồn sau này. Ðược như thế, bạn sẽ làm nhiều việc thiện phát xuất từ lòng từ ái. Bạn sẽ giúp đỡ cho bệnh viện, cho những người đau khổ vì thiên tai; bạn hỗ trợ cho những người trong gia đình, các bà con thân quyến, lo cho người già, người tàn tật và cô đơn, bạn bè, và những người cần sự giúp đỡ. Bạn muốn tạo một xã hội tốt đẹp hơn bằng cách giữ gìn giới luật trong sạch; có lời nói và việc làm hợp theo lẽ đạo. Bạn sẽ đem lại sự bình an cho mọi người xung quanh bằng cách hành thiền và chế ngự các phiền não đang dâng tràn trong tâm mình. Bạn sẽ tuần tự thành đạt các tuệ giác, và cuối cùng nhận chân được mục đích tối hậu. Tất cả các việc làm như bố thí, cúng dường, giữ gìn giới luật cũng như hành thiền đều sẽ theo bạn sau khi bạn chết như bóng với hình. Bởi thế, hãy cố gắng làm các việc lành! Tất cả chúng ta đều nô lệ cho ái dục. Ðó là một điều hèn hạ xấu xa, nhưng đó là sự thật. Ái dục chẳng bao giờ no chán, vô chừng vô độ, không sao thỏa mãn nổi. Khi nhận được một vật chưa đúng ý mình, bạn tìm cách để có một vật khác. Và khi có được vật mình ưa thích rồi, bạn lại muốn được một vật mới lạ khác nữa. Lòng tham muốn không bao giờ được thỏa mãn. Ðó là bản chất cố hữu của con người. Túi tham không đáy! Tham ái không bao giờ thỏa mãn được tham ái. Nếu hiểu đúng đắn chân lý này, chúng ta sẽ không tìm kiếm sự thỏa mãn bằng cách tự hủy hoại mình như thế. Vì vậy, Ðức Phật nói biết đủ là gia tài lớn lao nhất. Bạn hãy đọc câu chuyện về người đan rổ sau đây. Có một người đan rổ bình dị, luôn luôn vui sống với công việc của mình. Anh ca hát, và huýt sáo suốt ngày trong khi ngồi đan rổ. Tối đến, anh trở về căn chòi lá bé nhỏ của mình và ngủ một giấc ngủ ngon lành. Ngày nọ, một nhà triệu phú đi ngang qua chỗ anh bán rổ. Thấy anh nghèo nàn, nhà triệu phú thương hại và tặng một ngàn đồng. Anh đan rổ nhận tiền với lòng biết ơn. Anh ta chưa từng có đến một ngàn đồng trong đời. Anh cầm tiền và trở về căn chòi xiêu vẹo của mình. Anh phân vân không biết nên cất ở đâu. Căn lều này chẳng an toàn chút nào. Suốt đêm anh trằn trọc không ngủ vì sợ trộm, sợ chuột cắn nát tiền. Sáng hôm sau, anh đem túi tiền ra chỗ mình ngồi đan và bán rổ, nhưng anh không hát và huýt sáo như thường lệ, vì anh lo lắng cho số tiền. Tối đó, anh lại mất ngủ nữa. Sáng hôm sau, anh đem tiền trả lại cho nhà triệu phú và nói: "Xin hãy trả lại hạnh phúc cho tôi". Bạn có nghĩ rằng Ðức Phật không muốn bạn tạo kiến thức và uy tín, không muốn bạn hăng say làm việc để kiếm tiền nuôi bản thân và gia đình và dành dụm phòng khi đau ốm hay gặp cảnh khó khăn chăng? Không phải vậy! Bằng mọi cách, hãy xử dụng đời sống và trí thông minh của bạn để thoả mãn các nhu cầu của mình một cách hợp pháp và lương thiện. Hãy tri túc, bằng lòng với những gì mình đang có! Ðừng nô lệ cho lòng tham ái của mình. Ðó là thông điệp của Ðức Phật. Hãy suy tưởng về sự yếu kém của chúng sanh, để tận dụng tối đa thân thể và đời sống này trước khi nó quá già, quá bệnh, không đủ sức để hành thiền và trở thành một cái thây vô dụng. Yếu tố thứ tám: Kiên Nhẫn và Nghị Lực Nếu bạn hành thiền một cách tinh tấn và thích thú, không quan tâm, không dính mắc vào cơ thể hay mạng sống của mình, thì bạn có thể phát triển năng lực giải thoát. Năng lực này sẽ đưa bạn đến những tầng mức cao hơn trong việc thực hành. Sự dũng cảm, tinh tấn không phải chỉ nằm trong yếu tố thứ bảy, mà nằm luôn trong yếu tố thứ tám giúp cho ngũ lực trở nên mạnh mẽ. Yếu tố thứ tám là kiên nhẫn và nghị lực để đương đầu với đau khổ, đặc biệt là cảm giác đau nhức trong cơ thể bạn. Mọi thiền sinh đều quen thuộc với những cảm giác đau nhức hay khổ thọ trong lúc ngồi thiền, cộng thêm những đau khổ của tâm phản ứng trước những cảm giác này, và trên hết là sự đối kháng của tâm khi bị kiểm soát, bị kềm kẹp. Trong một giờ ngồi thiền đòi hỏi nhiều việc phải làm. Trước tiên, bạn cố gắng chú tâm trên đề mục chính càng nhiều càng tốt. Sự thu thúc và kiểm soát này có thể là một đe dọa đối với tâm vì tâm có thói quen lang thang đây đó. Tiến trình để duy trì sự chú tâm đòi hỏi nỗ lực hùng mạnh. Nỗ lực kiểm soát và thu thúc để đương đầu với sự phản kháng của tâm là một hình thức đau khổ. Khi tâm tràn đầy sự đối kháng, thường thì thân cũng phản ứng theo và sự căng thẳng phát sinh. Chỉ trong chốc lát, bạn bị cảm giác đau nhức vây phủ. Phản ứng đầu tiên sẽ như thế nào khi sự đau nhức này đạt đến cực điểm? Tâm bạn co thắt, thân bạn bị bóp rút lại như bị ai xiết vặn. Bạn mất hẳn kiên nhẫn để nhìn thẳng vào chỗ đau của thân. Bấy giờ bạn trở nên điên cuồng có thể tràn đầy phẫn nộ và sân hận. Sự đau khổ của bạn lúc ấy có ba thứ: Ðầu tiên là tâm phản kháng, tiếp đến là thân đau khổ, sau cùng là tâm đau khổ bắt nguồn từ thân đau khổ. Ðấy là thời điểm tốt nhất để áp dụng biện pháp thứ tám giúp cho ngũ lực trở nên mạnh mẽ. Kiên nhẫn, nghị lực, và cố gắng nhìn trực tiếp vào sự đau. Nếu bạn không chuẩn bị để đương đầu với đau nhức một cách kiên nhẫn, thì bạn chỉ có nước mở cửa cho phiền não đi vào. Tham lam và sân hận sẽ ung dung tiến vào làm chủ thân tâm bạn: "Ôi, tôi ghét cái đau này quá. Nếu có thể trở lại sự thoải mái dễ chịu trước đây năm phút thì tuyệt biết mấy". Khi tham lam sân hận có mặt và kiên nhẫn đi vắng, thì tâm sẽ rối loạn và mê mờ, không có đề mục nào rõ ràng lúc ấy và bạn không thấy rõ bản chất thật sự của cái đau. Lúc bấy giờ, bạn sẽ tin rằng đau là một gai nhọn, một chướng ngại cho việc hành thiền nên bạn có thể quyết định đổi tư thế để sự định tâm tốt hơn. Nếu sự thay đổi trở thành thói quen, bạn sẽ mất cơ hội đi sâu vào thực hành. Sự an tịnh của thân tạo nên sự an tịnh và tĩnh lặng của tâm. Di chuyển thường xuyên che dấu mất bản chất thực sự của cái đau. Ðau có thể ở ngay trước mắt bạn. Yếu tố nổi bật nhất là cái đau, nhưng bạn lại đổi tư thế để khỏi nhìn thấy nó. Thế là bạn đã bỏ lỡ một cơ hội vàng ngọc để hiểu biết bản chất thực sự của cái đau. Thật ra, chúng ta đang sống với cái đau từ lúc chúng ta được sinh ra trên mặt đất này. Cái đau gần gũi với chúng ta trong suốt cuộc đời. Tại sao chúng ta lại trốn chạy nó? Nếu đau phát sinh, hãy nhìn nó! Ðó là cơ hội quí báu để ta hiểu được một vài điều quen thuộc qua một cái nhìn mới hơn và sâu xa hơn. Vào những lúc bạn không hành thiền, bạn hãy tập kiên nhẫn đối với cảm giác đau. Ðặc biệt là lúc bạn chú tâm vào những gì mà bạn ưa thích. Chẳng hạn, bạn là người thích chơi cờ. Bạn ngồi trước bàn cờ và chăm chú theo dõi nước cờ mà người đánh cờ với bạn đang đi. Có lẽ bạn đã ngồi trên ghế ấy hơn hai giờ rồi, nhưng bạn không cảm thấy đau nhức gì cả, bởi vì bạn đang cố gắng để giải những nước cờ khó khăn và rắc rối trên bàn cờ. Nếu bạn cảm thấy đau, có lẽ bạn cũng cố gắng để quên nó đi cho đến khi bạn đánh xong mấy ván cờ. Tập kiên nhẫn trong khi hành thiền còn quan trọng hơn nhiều, vì hành thiền sẽ giúp bạn khai mở trí tuệ ở mức cao hơn là đánh cờ và hành thiền sẽ giúp chúng ta ra khỏi nhiều loại rắc rối hơn. Chiến Thuật Ðương Ðầu Với Ðau Nhức Mức độ quán thấu bản chất thực sự của các hiện tượng tùy thuộc vào mức độ định tâm mà bạn khai triển. Tâm càng an trụ vào đề mục thì càng quán thấu và hiểu biết thực tại. Ðiều này cũng rất đúng khi ta tỉnh thức trước các cảm giác đau nhức. Nếu sự định tâm còn yếu, chúng ta sẽ không thật sự cảm giác được sự bất an luôn luôn hiện diện trong cơ thể chúng ta. Khi tâm định bắt đầu sâu hơn, thì một điểm không thoải mái nhỏ nhặt cũng trở thành to lớn và khó chịu. Như trường hợp một người cận thị, nếu không đeo kiếng cận thị, thì mọi vật dưới mắt họ sẽ lờ mờ hư ảo, khó phân biệt, nhưng khi đeo kiếng vào thì tất cả đều rõ ràng sáng sủa. Không phải là sự vật dưới mắt họ đã thay đổi hay trở nên rõ ràng hơn. Sự vật trước hay sau vẫn như vậy nhưng nhờ mắt họ đã được điều chỉnh. Khi nhìn một giọt nước bằng đôi mắt thường, bạn không thấy gì khác lạ. Nhưng nếu đặt giọt nước vào kính hiển vi, bạn sẽ thấy nhiều sinh vật bé nhỏ nhảy múa, di chuyển, quay cuồng trong đó. Nếu trong lúc ngồi thiền, bạn có thể mang kiếng chánh định, bạn sẽ ngạc nhiên thấy nhiều sự thay đổi xảy ra trong một điểm đau nhỏ. Tâm càng tập trung sâu hơn, bạn càng hiểu rõ sự đau hơn. Bạn sẽ càng say mê hơn khi bạn thấy rõ cảm giác đau là một chuỗi dài biến đổi luôn luôn thăng trầm từ cái đau này đến cái đau khác, thay đổi mau lẹ, lúc tăng, lúc giảm, nhảy múa nhào lộn. Sự định tâm và chánh niệm của bạn càng bén nhọn và sâu xa hơn vào lúc mà cái đau hoàn toàn lôi cuốn bạn và làm bạn say mê theo dõi. Thế rồi cuối cùng, một điều bất ngờ xảy đến. Như tấn kịch đã đến hồi kết thúc, màn hạ, sự đau biến mất một cách kỳ diệu. Một người không đủ dũng cảm và kiên trì tinh tấn để nhìn sự đau thì không bao giờ hiểu được tiềm lực ẩn tàng bên trong sự đau này. Chúng ta phải phát triển hùng tâm, hùng lực và dũng cảm tinh tấn để quan sát sự đau. Hãy tập đi vào trong cơn đau, đối diện với sự đau mà đừng trốn chạy nó. Khi sự đau phát sanh, chiến thuật đầu tiên là đưa sự chú tâm ngay vào nó, vào ngay chính trung tâm của nó. Cố gắng để thấu suốt cốt lõi của sự đau. Thấy rõ đau chỉ là đau. Kiên trì theo dõi ghi nhận những diễn tiến của sự đau. Cố gắng xuyên thấu vào bên trong sự đau chứ đừng quan sát hời hợt bề ngoài. Khi xuyên thấu vào bên trong sự đau, thì bạn sẽ không bị phản kháng. Nhưng nếu chỉ hời hợt bên ngoài, thì bạn sẽ chịu nhiều phản ứng. Mặc dù bạn cố gắng dữ dội, nhưng bạn cũng bị mệt mỏi vì nó. Sự đau có thể làm tâm bạn kiệt quệ. Nếu bạn không thể kiên trì giữ vững một mức độ tinh tấn, chánh niệm và chánh định thích nghi thì bạn sẽ sớm đầu hàng.Chiến thuật thứ hai để đương đầu với sự đau là hãy đùa với chúng. Bạn đi vào trong cơn đau rồi xả hơi một chút. Nghĩa là bạn vẫn chú tâm vào sự đau, nhưng giảm bớt niệm và định. Làm như thế sẽ giúp tâm bạn nghỉ ngơi. Sau đó, bạn lại chú tâm chánh niệm mạnh mẽ vào cơn đau. Nếu bạn không thành công thì hãy lập đi lập lại chiến thuật này nhiều lần. Lúc căng, lúc dùn, lúc vào, lúc ra, hai hay ba lần như thế. Nếu cái đau vẫn còn khốc liệt và bạn thấy tâm mình bắt đầu bị thắt lại và co rút mặc dầu bạn đã xử dụng chiến thuật này thì hãy rút lui. Ðiều này không có nghĩa là bạn sẽ thay đổi tư thế ngay khi bạn quyết định. Bạn phải rút lui có kế hoạch mới được. Bạn phải thay đổi tư thế một cách chánh niệm, hoàn toàn bỏ qua sự đau, đừng quan tâm gì đến nó nữa mà hãy đưa tâm về chuyển động của bụng hay đề mục chính của bạn. Cố gắng chú tâm mạnh mẽ vào đề mục mới này. Chữa Lành Thân và Tâm Chúng ta phải cố gắng chế ngự tâm nhút nhát, yếu đuối. Chỉ khi nào tâm bạn mạnh mẽ và dũng cảm, như một anh hùng, bạn mới có thể chế ngự được sự đau bằng cách hiểu nó đúng theo thực trạng của nó. Trong lúc hành thiền, nhiều loại cảm giác đau đớn của thân rất khó chịu đựng sẽ khởi sinh. Hầu như mọi thiền sinh đều thấy rõ những sự khó chịu có mặt thường xuyên trong cơ thể, nhưng họ không bị ảnh hưởng bởi chúng nhiều. Nhưng khi hành thiền, vì có sự tập trung tâm ý, nên những khó chịu này được phóng đại ra. Trong lúc hành thiền tích cực, sự đau cũng thường hiện khởi từ những vết thương cũ, từ những bất hạnh lúc tuổi thơ hay những bệnh kinh niên trong quá khứ. Những loại bệnh thông thường trong hiện tại bỗng nhiên trở nặng. Nếu hai loại bệnh kinh niên và thông thường trở thành nặng hiện khởi thì bạn hãy mừng vì mình có dịp may để diệt trừ chúng. Bạn có thể trừ bệnh kinh niên hay một vài loại bệnh nào đó nhờ sự tinh tấn mà chẳng cần phải uống một giọt thuốc. Nhiều thiền sinh đã hoàn toàn dứt hẳn bệnh nhờ tham thiền. Năm 1969, có một người đàn ông bị bệnh sưng dạ dày nhiều năm. Khi chụp hình quang tuyến, bác sĩ nói ông ta có bướu trong bụng cần phải mổ. Ông ta rất sợ mổ vì nghĩ rằng mổ sẽ rất dễ chết. Ông ta muốn tìm một cách trị bệnh an toàn hơn. Ông tự nhủ "Nên đi hành thiền tốt hơn". Ông ta đến hành thiền dưới sự hướng dẫn của tôi. Chẳng bao lâu sau, ông ta đau dữ dội. Lúc đầu thì không đến nỗi nào, nhưng khi việc hành thiền của ông tiến bộ, ông đạt đến mức mà sự minh sát dính liền với sự đau nên ông ta bị đau đớn kinh khủng. Ông ta nói với tôi điều này. Tôi trả lời: "Dĩ nhiên, ông có thể tự do về gặp bác sĩ. Tuy nhiên, sao không cố gắng ở thêm vài ngày nữa xem sao". Ông ta suy nghĩ về lời đề nghị của tôi và lý luận rằng, có mổ thì cũng không sống được. Thế là ông quyết định ở lại để hành thiền. Cứ hai giờ là ông uống một muỗng thuốc. Cũng có lúc cơn đau giảm bớt, có lúc ông ta hoàn toàn chinh phục được cơn đau. Một trận chiến kéo dài và hai bên đều thiệt hại, nhưng người đàn ông này có một sự can đảm mạnh mẽ. Có lúc, trong một lần ngồi, cái đau hành hạ ông dữ dội. Toàn thân ông rung chuyển và mồ hôi ra ướt đẫm cả áo quần. Cục bướu trong bụng ông càng lúc càng cứng và càng co rút lại. Bỗng nhiên ý niệm về cái bụng của ông biến mất khi ông chú tâm vào nó. Bây giờ chỉ có tâm ghi nhận về cái đau mà thôi, không còn bụng nữa. Rất là đau, nhưng cũng rất thích thú. Ông chú tâm theo dõi và sự đau càng lúc càng dữ dội hơn. Thế rồi một tiếng nổ lớn như bom nổ. Ông ta nói rằng ông ta có thể nghe tiếng bom nổ lớn này, sau đó thì không còn đau nữa. Ông đứng dậy lau mồ hôi. Ông ta sờ vào bụng và không thấy cục bướu đâu nữa. Thế là ông lành bệnh. Thêm vào đó, ông đã hoàn tất việc hành thiền của mình. Sau đó không bao lâu, ông ta rời thiền viện, đến gặp bác sĩ để khám lại. Bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy cục bướu đã biến mất. Ông ta trở lại ăn uống bình thường, không đã phải kiêng cữ thứ gì như suốt hai mươi năm nay ông đã kiêng cữ. Hiện bây giờ ông ta vẫn còn sống và rất khỏe mạnh. Ông bác sĩ sau đó cũng đã trở thành một thiền sinh. Tôi đã gặp nhiều người nhờ hành thiền mà hết bịnh nhức đầu kinh niên, đau tim, lao phổi và ngay cả ung thư. Một số trong họ bệnh nặng đền nỗi bác sĩ đã phải bó tay. Tất cả đều trải qua những cơn đau khủng khiếp. Nhưng nhờ lòng kiên trì và dũng cảm tinh tấn lớn lao, họ đã tự cứu mình. Ðiều quan trọng hơn là nhiều người đã hiểu rõ sâu xa chân lý thực tại nhờ quan sát sự đau với một lòng can đảm bền dai và sau đó, xuyên thấu trí tuệ nội quán. Thế nên các bạn đừng chán nản trước cảm giác đau. Thay vào đó, phải có đức tin và kiên nhẫn. Kiên trì cho đến khi tự mình thấy bản chất thật sự của mình.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:19:33 GMT -5
Yếu tố thứ chín: Quyết Tâm Theo Ðuổi Việc Hành Thiền Yếu tố thứ chín hay yếu tố cuối cùng để phát triển ngũ lực là quyết tâm theo đuổi việc hành thiền. Sự quyết tâm sẽ dẫn bạn đi thẳng đến đoạn cuối của con đường mà không bị lệch hướng hay bỏ dở. Bạn hành thiền nhằm mục đích gì? Tại sao bạn thực hành giới, định, huệ? Ðiều quan trọng là phải thẩm định mục tiêu của việc hành thiền. Ðiều quan trọng hơn nữa là hãy thành thật với chính mình để có thể quyết tâm theo đuổi việc hành thiền. Hành Ðộng Thiện và Tiềm Năng Cao Nhất Của Chúng Ta Chúng ta hãy tìm hiểu về giới luật trước. Chúng ta có cơ hội hãn hữu sinh ra làm người trên thế gian này là nhờ ở những hành động thiện mà chúng ta đã làm trong các kiếp trước đây. Chúng ta nên cố gắng vận dụng mọi tiềm năng cao nhất của con người. Danh từ "con người" trong nghĩa tốt là từ bi rộng lớn. Chẳng lẽ những ai có hoài bảo hoàn thiện những đức tính này lại không đúng hay sao? Nếu có thể đào luyện tâm mình tràn đầy từ bi thì ta sẽ sống hài hoà và tốt đẹp. Giới hạnh đặt căn bản trên sự quan tâm đến cảm quan của mọi chúng sanh, của người và của chính ta. Hành vi đạo đức không những thể hiện qua việc không làm hại kẻ khác mà còn để tránh lương tâm bị cắn rứt. Chúng ta nên tránh những hành động có thể dẫn đến những hậu quả bất hạnh và nên làm những việc thiện để khỏi phải gặt hái những quả xấu sau này. Nghiệp là gia tài thật sự của chúng ta. Nếu lấy câu này làm châm ngôn cho cuộc sống, thì ta sẽ sống bình an và đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh. Nghiệp tốt hay xấu cũng đều theo ta như bóng với hình, kiếp này và cả đến các kiếp sau. Nếu có hành động thiện, chúng ta sẽ được mọi người kính mến, được các bậc thiện trí yêu chuộng, tán dương ngay trong kiếp hiện tại này và chắc chắn là chúng ta sẽ gặt hái được những điều tốt đẹp trong tương lai cho đến khi đạt cứu cánh tối hậu là Niết Bàn. Nếu có hành động ác, chúng ta sẽ bị mọi người ghét bỏ, khinh khi và bị các bậc thiện trí chê trách và chắn chắn chúng ta sẽ gặt hái những hậu quả xấu trong tương lai và sẽ lặn hụp trong đau khổ nhiều đời nhiều kiếp. Với năng lực mạnh mẽ, nghiệp có thể mang lại quả tốt hay xấu, cũng như thực phẩm có thể đem lại lợi ích sức khỏe cho chúng ta. Nếu chúng ta ăn thực phẩm lành mạnh có đủ chất bổ, đúng lúc, đúng lượng thì chúng ta sẽ sống lâu và khỏe mạnh. Ngược lại nếu chúng ta ăn những món ăn độc hại không tốt cho sức khỏe thì chúng ta sẽ đau ốm bệnh tật và đôi khi có thể đưa đến cái chết nữa. Hành Ðộng Tốt Bố thí hay giúp đỡ kẻ khác là cách để làm giảm tham ái. Năm giới căn bản giúp chúng ta kiểm soát thân và khẩu để chế ngự những thô tướng của tham và sân. Khi giữ giới, tâm được kiểm soát để khỏi có hành động và lời nói sai lầm. Giữ giới không thôi vẫn chưa đủ. Dù giới luật có được trong sạch đi nữa thì chỉ bên ngoài bạn là người thánh thiện, nhưng bên trong bạn còn nhiều đau khổ, còn bị tham lam, sân hận, ganh tị, v.v... chi phối. Bởi vậy, bước kế tiếp là phải hành thiền. Hành thiền có nghĩa là đào luyện thiện tâm. Lợi ích đầu tiên của thiền là ngăn ngừa tâm bất thiện phát sinh. Lợi ích thứ hai là phát triển trí tuệ. An Lạc Tĩnh Lặng Của Thiền Vắng Lặng và Nhược Ðiểm Của Nó Thiền vắng lặng, hay thiền chỉ, có khả năng làm cho tâm an lạc, tĩnh lặng và lánh xa phiền não. Thiền vắng lặng đè nén phiền não không cho chúng trỗi dậy. Không phải chỉ Phật giáo mới có thiền vắng lặng. Nhiều tôn giáo khác, nhất là Ấn Ðộ giáo cũng hành thiền vắng lặng. Ðây là pháp thiền đáng được khích lệ vì người thực hành thiền sẽ có tâm gắn bó vào đề mục nên lúc đó tâm rất trong sạch, thanh tịnh. Thiền sinh có được một tâm yên tịnh, tĩnh lặng, khi nhập thiền và từ đó có thể khai triển thần thông. Nhưng thành công trong thiền vắng lặng không có nghĩa là đạt được trí tuệ nội quán để thấy rõ chân lý, thấy rõ chân tướng của sự vật. ở thiền chỉ, phiền não chỉ bị đè nén chớ chưa bị tận diệt, tâm chưa quán thấu được bản chất thực sự của các pháp. Bởi vậy, dù đạt đến mức tột cùng của thiền vắng lặng vẫn chưa thoát khỏi lưới luân hồi. ở trong vòng luân lưu của tam giới, thiền sinh có thể rơi vào các cảnh giới bất hạnh trong tương lai. Sau khi thành đạo và hưởng trạng thái vắng lặng tịch tịnh của Niết Bàn, Ðức Phật nghĩ cách phổ biến chân lý cao cả mà Ngài đã tự thân chứng đắc. Ngài nhìn quanh và thấy thế gian đầy bụi phiền não. Con người đắm chìm trong đám mây mờ đen tối. Thế rồi Ngài nhớ đến hai người có thể thâu nhận được những lời giảng dạy của Ngài vì tâm của hai vị này rất trong sạch và ức chế được các phiền não. Ðó là hai vị thầy đầu tiên của Ngài, đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Mỗi vị đều có nhiều học trò. Ðức Phật cũng đã chứng đắc những gì mà hai vị thầy đã chứng đắc, nhưng Ngài thấy đây chưa phải là con đường thoát khổ, nên Ngài từ giã hai vị thầy để tìm một con đường thực sự giải thoát. Tâm hai vị đạo sĩ này rất trong sạch. Alara Kalama đã đắc tầng thiền thứ bảy và Uddaka Ramaputta đã đắc tầng thiền thứ tám, tầng thiền cao nhất. Ðức Phật nghĩ rằng, chỉ cần vài câu pháp ngắn ngủi, thì các đạo sĩ này có thể đắc quả hoàn toàn. Trong khi Ðức Phật đang suy tư về điều này, thì một vị trời cho Ngài biết cả hai đều đã chết. Alara đã chết trước đây bảy ngày và Uddaka đã chết hôm qua. Cả hai đều đã sinh vào cõi trời vô sắc. ở đó vẫn còn có tâm nhưng không có thân. Thế nên hai vị đạo sĩ không có tai để nghe và không có mắt để thấy. Hai vị không thể nào thấy được Ðức Phật hay nghe lời giảng giải của Ngài, bởi vì chỉ có gặp vị thầy hay nghe giáo pháp mới có thể hiểu cách thực hành. Hai đạo sĩ đã mất cơ hội đắc đạo. Ðức Phật cảm thấy tội nghiệp cho hai vị thầy và nói: "Thật là một mất mát lớn lao cho hai vị!". Trực Giác Giải Thoát. Thiền vắng lặng hay thiền chỉ, chỉ đưa chúng ta đến chỗ có tâm định cao, mà không giúp chúng ta thấy rõ chân lý. Bởi thế, ta cần phải hành thiền minh sát. Chỉ khi nào trực giác được bản chất thật sự của thân và tâm mới có thể thoát khỏi khái niệm tự ngã, người, ta, tôi, anh, chị, v.v... Không có trí tuệ do sự tỉnh thức chánh niệm đem lại này, ta không thể thoát khỏi khái niệm trên. Chỉ khi nào trực giác thấy được cơ cấu nhân quả, tức là thấy chuỗi tái diễn của thân và tâm, ta mới có thể thoát khỏi ảo tưởng mê lầm rằng mọi chuyện xảy ra không cần nguyên nhân. Chỉ khi nào thấy rõ sự sanh diệt của các hiện tượng, chúng ta mới thoát khỏi ảo tưởng rằng mọi vật đều bền vững, chắc chắn và liên tục. Chỉ khi nào có trực giác thấy rõ đau khổ ta mới hiểu rõ rằng sự luân hồi trong các kiếp sống chẳng có gì đáng cho ta phải bám víu. Chỉ khi nào hiểu rõ rằng thân và tâm trôi chảy theo luật tự nhiên của chúng, không một ai, một vật gì tham dự vào việc này, lúc ấy ta mới hiểu thấu được vô ngã, không có bản chất, không có cốt lõi. Bạn sẽ không thể nào hiểu rõ chân hạnh phúc trừ khi bạn vượt qua các tầng mức của tuệ minh sát và cuối cùng trực nhận Niết Bàn. Muốn thấy rõ Niết Bàn, mục tiêu tối hậu của bạn, bạn phải duy trì năng lực ở mức độ cao. Không dừng lại hay đầu hàng, không ẩn trú hay trốn chạy cho đến khi nào bạn đến đích. Trước tiên, bạn phải tạo tinh tấn cần thiết để bắt tay vào việc hành thiền, tạm gọi là "Thiết Lập Tinh Tấn". Bạn chú tâm vào đề mục chính và trở về đề mục này nhiều lần. Bạn phân định thì giờ để ngồi thiền và kinh hành đều đặn. Ðây gọi là "Phát Xạ Tinh Tấn"; sự tinh tấn này giúp bạn đi thẳng tới đích mà không bị lệch hướng. Ngay cả khi có chướng ngại phát sinh, bạn cũng phải bám cứng vào việc hành thiền, vượt qua mọi chướng ngại với lòng kiên trì bất thối. Nếu buồn chán và uể oải đến với bạn, hãy thúc đẩy tinh tấn mạnh lên. Nếu bạn cảm thấy đau, hãy chế ngự tâm yếu đuối chỉ muốn rút lui mà không muốn đương đầu với những gì đang xảy ra bằng nỗ lực kiên trì. Ðây là "Giải Thoát Tinh Tấn," loại tinh tấn cần thiết để giải thoát bạn ra khỏi những tình trạng uể oải lười biếng. Hãy tinh tấn không ngừng, không ngơi nghỉ, cương quyết tiếp tục hành trình cho đến khi đạt đến mục tiêu cuối cùng. Sau đó, khi bạn đã chế ngự được những khó khăn bạn sẽ thấy việc hành thiền của mình trơn tru linh hoạt và vi tế, nhưng chớ nên lấy đó làm tự mãn. Bạn phải tiến lên một bước nữa! Bởi thế phải thêm nỗ lực để đưa tâm đến mức độ ngày càng cao hơn. Ðây phải là một sự cố gắng không sút giảm hay cô đọng, mà phải liên tục tiến triển đều đặn. Ðây gọi là "Tiến Triển Tinh Tấn," và sự tinh tấn này dẫn bạn đến mục tiêu bạn mong muốn. Bởi thế, yếu tố thứ chín làm cho ngũ lực bén nhạy còn có nghĩa là phải áp dụng sự tinh tấn liên tục không dừng lại hay do dự, không ngơi nghỉ cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Khi bạn đi trên con đường này, nếu bạn thực hiện đầy đủ chín yếu tố kể trên, thì ngũ lực tín, tấn, niệm, định, huệ sẽ trở nên bén nhạy và thâm sâu. Cuối cùng chúng sẽ dẫn tâm bạn đến nơi giải thoát. Mong các bạn xem xét lại việc hành thiền của mình. Nếu các bạn thấy thiếu yếu tố nào thì hãy xử dụng các biện pháp ghi trên để điều chỉnh và bổ túc. Xin các bạn hãy đi thẳng đường cho tới khi đạt đến mục tiêu mong ước. Trích: "Ngay Trong Kiếp Sống Nầy", Thiền sư U Pandita, Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch, Như Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ, 1996.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:20:31 GMT -5
Mười Ðạo Binh MaoOo Hành thiền chẳng khác nào một cuộc chiến tranh giữa Thiện và Ác. Bên ác gồm các lực lượng phiền não, được gọi là "Mười Ðạo Binh Ma." Chữ 'Ma', nguyên tiếng Pali là Mara, có nghĩa là kẻ tàn sát. Ma là kẻ đã tàn sát đức hạnh và đời sống của chúng ta. Các loại ma binh này tấn công mọi thiền sinh. Chúng cố tâm chế ngự Ðức Phật ngay vào đêm Ngài giác ngộ, và Ngài đã chiến thắng ma quân ấy. Trong kinh Nipata đã ghi lại những câu Ðức Phật nói với Ma-vương như sau: "Này ma vương, dục lạc là ma quân thứ nhất của ngươi, hai là bất mãn, ba là đói khát, bốn là ái dục, năm là dã dượi buồn ngủ, sáu là sợ hãi, bảy là hoài nghi, tám là kiêu mạn và vô ơn, chín là danh lợi và mười là khen mình chê người. Này ma vương, hùng binh của ngươi là thế. Chúng luôn luôn thường trú trong con người xấu xa đê tiện; kẻ hèn yếu thì thất bại, nhưng người nào dũng cảm hàng phục được chúng sẽ đạt được chân hạnh phúc... Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại..." Muốn thắng mười đạo binh đen tối trong tâm, chúng ta phải có sức mạnh thiện hảo của thiền minh sát. Thiền minh sát cấp cho ta gương chánh niệm cùng binh pháp để tấn công và bảo vệ. Trong trường hợp của Ðức Phật, ta đã biết ai chiến thắng vinh quang rồi. ở trường hợp của các bạn, phe nào sẽ thắng đây? Ðạo Binh Ma Thứ Nhất: Dục Lạc Dục lạc là Ðạo Binh Thứ Nhất của Ma Vương. Nhờ ở các hành động thiện đã làm ở cõi dục giới trong các kiếp trước, chúng ta tái sanh vào thế giới này. ở đây, trong một cõi dục giới khác, chúng sanh phải đương đầu với nhiều loại dục lạc có sức lôi cuốn mạnh mẽ: âm thanh ngọt ngào, hương vị đậm đà, những ý tưởng đẹp đẽ và những đối tượng vừa ý khác tiếp xúc với sáu giác quan của chúng ta. Kết quả tự nhiên khi tiếp xúc với sáu đối tượng này là ham muốn phát sinh. Ðối tượng ưa thích và tâm tham muốn là hai điều cần yếu để tạo nên dục lạc. Sự dính mắc vào gia đình, tài sản, việc làm ăn và bạn bè cũng tạo nên đạo binh thứ nhất. Thông thường, đối với chúng sanh hữu tình rất khó chinh phục loại ma chướng này. Nhiều người chống lại chúng bằng cách trở thành một nhà sư hay sư cô vất bỏ gia đình và mọi lưu luyến dính mắc khác. Thiền sinh trong khóa thiền tạm thời bỏ lại đàng sau tất cả gia đình, bạn bè, việc làm, để chiến đấu với lực lượng luyến ái đang cột chúng ta vào sáu loại đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Mỗi khi bạn hành thiền, nhất là trong một khóa thiền, bạn để lại sau lưng biết bao lạc thú. Thế nhưng, ngay trong khu vực giới hạn của một nơi hành thiền, đối với những vật chung quanh bạn cũng còn luyến ái vật này hơn vật kia. Vào lúc có tư tưởng như thế, bạn nên nhận ra rằng mình đang đương đầu với ma vương, kẻ thù tước đoạt tự do của bạn. Ðạo Binh Ma Thứ Hai: Bất Mãn Ðạo Binh Ma Thứ Hai là không hài lòng với đời sống thánh thiện, đặc biệt là với việc hành thiền. Trong một khóa thiền, có thể bạn sẽ cảm thấy mình bất mãn và chán nản với gối ngồi, với thức ăn và những yếu tố nhỏ nhặt khác, và kết quả là bạn không thấy thoải mái và thích thú trong việc hành thiền. Có thể bạn cho đó là những khuyết điểm của việc hành thiền. Muốn thắng sự bất mãn này, bạn phải trở thành một người có sự thích thú và nhiệt thành trong giáo pháp. Tiếng Pali gọi người nhiệt thành trong giáo pháp là Abhirati. Khi đã tìm thấy và thực hành đúng phương pháp, bạn sẽ chế ngự được chướng ngại. An lạc, hoan hỉ và thoải mái sẽ tự nhiên hiện khởi từ sự định tâm của bạn. Lúc bấy giờ, bạn cảm thấy giáo pháp ngọt ngào êm dịu hơn mọi lạc thú trần gian. Ðây là thái độ của người nhiệt thành trong giáo pháp (Abhirati). Tuy nhiên, nếu bạn không chu đáo và thận trọng trong việc hành thiền, thì bạn sẽ không tìm thấy hương vị dịu dàng và kỳ diệu của giáo pháp và những khó khăn trong việc hành thiền sẽ làm phát sanh sân hận. Thế là Ma Vương sẽ chiến thắng vẻ vang. Chế ngự những khó khăn trong lúc hành thiền minh sát, một lần nữa, cũng như một trận chiến, thiền sinh phải dùng chiến thuật tấn công và phòng thủ hay du kích chiến, tùy theo khả năng của mình. Nếu chiến đấu mạnh mẽ và bền bỉ, thiền sinh sẽ thắng. Nếu yếu đuối thì thiền sinh nên tạm thời rút lui. Nhưng không nên rút lui trong hỗn loạn mất trật tự, mà phải rút lui có kế hoạch, rút lui với mục đích tập trung sức mạnh để cuối cùng chiến thắng địch quân. Nhiều lúc, sự không hài lòng với hoàn cảnh chung quanh hay với những sự hỗ trợ trong việc hành thiền không hoàn toàn do lỗi của Ma Vương, không phải hoàn toàn do ở sự tán loạn hay tham tâm; tuy nhiên, sự không hài lòng này cũng cản trở bước tiến bộ trong việc hành thiền của bạn. Ðể dễ dàng thuận tiện cho việc hành thiền, những nhu cầu thiết yếu trong đời sống của thiền sinh phải được đáp ứng thỏa đáng. Chẳng hạn, phải có thức ăn chỗ ở thích hợp cũng như những hỗ trợ khác. Với những nhu cầu cần thiết thỏa đáng, thiền sinh sẽ có được sự thoải mái và yên tâm để hành thiền. Ðiều kiện ngoại cảnh thích hợp cũng là nguyên nhân thứ tư trong chín nguyên nhân giúp cho ngũ lực phát triển. (Chúng ta đã bàn đến chín nguyên nhân này trong phần trước. Các nguyên nhân đó là: Chú tâm vào vô thường, Chu đáo và tôn trọng pháp hành, Liên tục không gián đoạn, Ðiều kiện hỗ trợ, Áp dụng kinh nghiệm đem lại kết quả trước đây, Vun bồi các yếu tố đưa đến giác ngộ, Dũng mãnh và Tinh tấn, Nhẫn nhục và Kiên trì, Quyết đạt đến mục tiêu cuối cùng.) Nếu bạn thấy hoàn cảnh chung quanh thực sự không thích nghi và điều này đã khiến cho việc hành thiền của mình bị thụt lùi thì bạn phải tìm cách điều chỉnh các điều kiện chung quanh. Dĩ nhiên, bạn phải thành thật với chính mình và với người khác. Phải cương quyết đập tan đạo binh thứ hai; đừng bỏ cuộc. Ðạo Binh Ma Thứ Ba: Ðói Khát Phải chăng thực phẩm cũng là một vấn đề? Ngoài việc chế ngự dục lạc và bất mãn, bạn còn phải đương đầu với Ðạo Binh Ma Thứ Ba là đói khát. Ngày xưa, và ngay cả bây giờ, chư tăng ni Phật Giáo phải sống nhờ vào lòng từ thiện của Phật tử. Hằng ngày, các nhà sư phải mang bát vào làng xóm khất thực. Một số các vị sống ẩn cư, sống nhờ vào sự giúp đỡ của một số gia đình. Có ngày thì mọi nhu cầu đều thoả mãn, có ngày thì không. Thiền sinh ở trong các trường thiền hay tham dự các khóa thiền, cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự. ở trường thiền hay trong một khoá thiền, các bạn phải ăn những thực phẩm khác hẳn thực phẩm ở nhà. Bạn không hưởng được hương vị quen thuộc và những thức ăn hợp khẩu vị. Thực phẩm có thể lạt quá, mặn quá, ngọt quá, ít chua hay chua quá, v.v... Nếu không kham nhẫn và vị dao động vì không có thức ăn vừa ý, thì bạn không thể tập trung tâm ý và như vậy thì khó thấy được giáo pháp. Ở ngoài xã hội cũng vậy. Bạn có thể chi ra nhiều tiền trong một quán ăn, nhưng nhiều khi cũng không hài lòng với thức ăn của nhà hàng. Trên thực tế, không phải chỉ món ăn, mà các chuyện khác cũng vậy. Không phải lúc nào ta cũng gặp được những điều hợp theo ý ta. Chúng ta đói, không phải chỉ đói thức ăn, mà còn đói nhiều thứ khác như áo quần, vật dụng, thú vui giải trí, và những thú say mê riêng như sưu tầm đồ cổ, chơi cây kiểng, v.v... Ngoài những thú vui quen thuộc, còn có những thú vui mới lạ và đầy kích thích khác. Nhàm chán thú vui cũ, bạn tìm kiếm các thú vui mới mẻ khác. Sự đói khát này tiềm ẩn trong mọi lãnh vực và mọi nhu cầu của bạn, từ nhu cầu vật chất đến nhu cầu tâm linh. Nếu bạn dễ dàng hài lòng với mọi sự, chấp nhận mọi thái độ, mọi cách đối xử của người khác, vui vẻ hài lòng và tỏ vẻ biết ơn những gì mà bạn nhận được thì đạo binh ma thứ ba không quấy rối bạn nhiều. Chúng ta không thể luôn luôn chỉ làm những điều mà mình thích làm. Chúng ta không thể lúc nào cũng gặp hoàn cảnh thuận lợi. Bởi thế, hãy cố gắng tri túc, biết đủ với những gì đang có. Nếu biết tri túc thì ở hoàn cảnh nào ta cũng an vui. Nếu bạn tập trung nỗ lực để tiến xa hơn trong việc hành thiền, bạn sẽ nếm được hương vị của giáo pháp mà không gì có thể so sánh được. Vào lúc ấy, đạo binh ma thứ ba sẽ như những đồ chơi của trẻ con. Nếu chính bạn không kham nhẫn và tri túc thì rất khó thắng được đạo binh ma đói khát này. Ðói khát mang lại những cảm giác khó chịu và không ai muốn tiếp đón nó. Khi đói khát tấn công, nếu không chánh niệm thì tâm sẽ bắt đầu giao động. Thế rồi ta bắt đầu sắp đặt kế hoạch, tính toán, tìm đủ cách để có được những món ăn mình muốn, hay để bỏ cái gì vào bụng cho đỡ trống trải. Ta tự bào chữa cho sự tìm kiếm của mình bằng cách lý luận rằng: "Phải ăn như vậy thì hành thiền mới tốt, mới có sức khỏe, v.v...". Sau khi tính toán một hồi, ta đứng dậy và tìm kiếm, lục lọi thức ăn mà ta thích. Như vậy là cơ thể đã hợp tác để làm thoả mãn tâm ham thích của ta. Ðạo Binh Ma Thứ Tư: Tham Ái Tham muốn là Ðạo Binh Ma Thứ Tư. Trong đạo binh ma thứ nhất, chúng ta đã tìm hiểu dục lạc, và khi dục lạc đã tiếp xúc các đối tượng giác quan thì tham ái phát sinh. Khi mắt tiếp xúc vật vừa ý thì tham ái phát sinh. Khi tai tiếp xúc với âm thanh vừa ý thì tham ái phát sinh. Khi mũi ngửi hay tiếp xúc với mùi thơm thì tham ái phát sinh. Khi lưỡi tiếp xúc với vị ngon thì tham ái phát sinh. Khi thân tiếp xúc hay đụng chạm với vật vừa lòng thì tham ái phát sinh. Như vậy, khi mọi pháp trần tiếp xúc với lục căn, nếu ta không chánh niệm kịp thời thì tham ái sẽ phát khởi. Ðây là đạo binh ma có đông quân số nhất và đánh vào nhiều mặt. Bởi thế, thiền sinh cần phải thu thúc lục căn bằng cách luôn luôn chánh niệm tỉnh giác và đừng để si mê lầm lạc chi phối tạo cơ hội tốt cho đạo binh ma tham ái tấn công. Sau đây là một trường hợp điển hình về sự đột kích của đạo quân thứ tư này. Khi một nhà sư đi khất thực, đã đi trọn một quãng đường thường lệ của mình nhưng thấy bát của mình chưa đầy, hay thấy thức ăn mình muốn chưa có, thế là đạo binh ma thứ tư sắp sửa tấn công. Nếu nhà sư biết tri túc, về chùa ngay, dù chưa có được thức ăn vừa ý, thì đạo binh ma thứ tư thất bại. Nếu nhà sư tiếp tục đi thêm một quãng đường mới khác, có thể thật là dài, với kỳ vọng là kiếm được món vừa khẩu vị; thế là nhà sư đã bị rơi vào ổ phục kích của đạo binh thứ tư. Dầu có là một nhà sư hay không, ta cũng quen thuộc với sự dàn trận của đạo binh này. Trước hết là tham ái đến. Tiếp theo là tính toán kế hoạch rồi thực hiện kế hoạch đã dự trù. Toàn thể tiến trình này làm suy yếu thân tâm. Ðạo Binh Ma Thứ Năm: Dã Dượi Buồn ngủ ( Hôn Trầm Thụy Miên) Những khó khăn do hôn trầm và thụy miên gây ra rất lớn lao cần được chú trọng đặc biệt. Dã dượi hay hôn trầm được dịch từ chữ Thina, nghĩa là tâm yếu kém, teo lại, co rút lại, đặc cứng và nhầy nhụa, không thể nắm giữ đối tượng thiền một cách chắc chắn. Vì Thina làm cho tâm yếu kém nên nó cũng tự động kéo theo sự yếu kém của thân. Tâm lười biếng đần độn này không thể giữ tư thế ngồi của bạn thẳng thắn và vững chắc. Khi đi kinh hành thì chân như kéo lê lười biếng. Khi hôn trầm, dã dượi có mặt thì sự hăng say tinh tấn vắng mặt. Tâm trở nên trơ cứng mất cả tính chất hoạt động sắc bén. Ngay cả một thiền sinh có sự tinh tấn vững chãi lúc đầu, nhưng sự dã dượi cũng vẫn chế ngự khiến họ phải nỗ lực tinh tấn hơn nữa để đốt cháy loại phiền não này. Khi dã dượi xâm chiếm thì mọi lực lượng tích cực của thân sẽ bị bất động hóa ít nhất một phần, tình trạng này được gọi chung một tên là Thina-middha (dã dượi buồn ngủ). Sự tinh tấn và chánh niệm, chánh tư duy cũng bị yếu đuối, giảm và đình trệ hiệu năng. Khi Thina, dã dượi, có mặt, thì sẽ kéo theo middha, buồn ngủ; vì middha là một tâm không hoạt động, không có khả năng, không tự chủ, thụ động và trì trệ, không bén nhạy, hôn mê, bần thần, thiu thỉu, buồn ngủ. Về phương diện thực hành, chúng ta chẳng cần phải phân tích, tìm hiểu sâu xa hai phiền não này. Chúng ta chỉ cần biết một cách tổng quát là đủ. Giống như bị nhốt kín trong một phòng giam nhỏ hẹp, dã dượi ngăn cản không cho tâm sở tốt đẹp có cơ hội tiến hành nhiệm vụ của mình. Dã dượi và buồn ngủ làm cản trở sự phát triển của các tâm sở tốt đẹp khác nên nó là chướng ngại. Cuối cùng, dã dượi buồn ngủ sẽ làm cho việc hành thiền của thiền sinh hoàn toàn đình trệ. Mí mắt bắt đầu nặng, đầu bỗng nhiên gục về phía trước. Làm thế nào để chế ngự tình trạng tai hại này? Một lần nọ khi Ðại Ðức Mục Kiền Liên, một trong hai vị đại đệ tử của Ðức Phật, hành thiền trong rừng bị dã dượi buồn ngủ chế ngự. Tâm của Ðại Ðức Mục Kiền Liên lúc bấy giờ co cứng lại và ngưng đọng như một cục bơ đông cứng vì lạnh. Ðức Phật biết được, đến gần Ðại Ðức Mục Kiền Liên và hỏi: "Này Mục Kiền Liên, thầy đang dã dượi, đang buồn ngủ và đang gục phải không?". Ðại Ðức Mục Kiền Liên liền trả lời: "Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử đang ngủ gục". Ðức Phật nói: "Này Mục Kiền Liên, Như Lai sẽ chỉ cho thầy tám cách để chế ngự dã dượi, buồn ngủ". Tám cách trị buồn ngủ (1) Ðầu tiên là thay đổi thái độ. Khi bị buồn ngủ tấn công, ta có khuynh hướng đầu hàng và suy nghĩ: "Buồn ngủ quá. Ngồi sững sờ như vầy thì đâu có ích gì. Chi bằng đi ngủ vài phút để lấy lại sức". Bao lâu bạn còn có tư tưởng như vậy thì dã dượi buồn ngủ vẫn còn tiếp tục chế ngự. Thay vì có một thái độ như thế, hãy quyết định: "Ta sẽ ngồi như vầy. Dù cho dã dượi buồn ngủ có đến nữa, ta vẫn không nhượng bộ". Ðó là sự thay đổi thái độ để tránh buồn ngủ. Sự quyết định này giúp chế ngự đạo binh ma thứ năm. Một trường hợp khác làm thiền sinh buồn ngủ mặc dù trước đây không buồn ngủ, đó là trường hợp khi việc hành thiền trở nên dễ dàng và êm dịu, khi đó bạn ít nhiều đã thuần thục trong việc theo dõi chuyển động của bụng, và bạn chẳng cần cố gắng nhiều mà vẫn theo dõi được sự phồng xẹp, thế là bạn chẳng cần cố gắng nữa. Bạn dựa lưng vào tường theo dõi chuyển động của bụng một cách dễ dàng, tự nhiên. Do sự tinh tấn giảm thiểu này, dã dượi buồn ngủ nhảy vào. Nếu điều này xảy ra, bạn hãy cố gắng tập trung chánh niệm chú tâm một cách thận trọng hơn vào sự phồng xẹp hay gia tăng số lượng đề mục hành thiền. Có một kỹ thuật đặc biệt là thêm nhiều đề mục. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hơn là khi chỉ nhìn thuần đề mục phồng xẹp. Và cách này có hiệu quả hồi phục lại tình trạng tốt đẹp. Sự niệm thầm trong trường hợp này sẽ là phồng, xẹp, ngồi, đụng. Khi bạn niệm ngồi, bạn chuyển sự chú tâm chánh niệm của mình vào việc cảm giác toàn thân trong tư thế ngồi. Khi niệm đụng, bạn chú tâm vào cảm giác đụng ở một hay nhiều điểm nhỏ. Các điểm này có độ lớn bằng một đồng xu. Chỗ mông là nơi thuận tiện nhất. Trong suốt thời gian niệm đụng, bạn phải luôn luôn trở về cùng chỗ đã chọn dầu cho bạn không thể thấy cảm giác ở điểm đó đi nữa. Sự dã dượi càng nhiều thì bạn càng phải chọn nhiều điểm đụng, tối đa vào khoảng sáu điểm. Khi bạn đã trải qua hết các điểm đụng, hãy trở về với sự phồng xẹp và lập đi lập lại loại ghi nhận đụng, đụng này từ đầu. Kỹ thuật thay đổi điểm đụng có hiệu quả rất tốt đẹp, không sai chạy. (2) Thuốc giải độc thứ hai để chữa trị buồn ngủ là nhớ lại những đoạn kinh đã biết hay đã thuộc lòng trước đây, gắng tìm hiểu những ý nghĩa sâu xa hơn. Nếu đã có lần ban đêm bạn không thể ngủ được vì đang suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩa của một vài chuyện gì, thì bạn sẽ hiểu rõ tác dụng của thuốc giải độc thứ hai mà Ðức Phật đã dạy để đối trị dã dượi buồn ngủ. Trong Vi Diệu Pháp, môn tâm lý học Phật giáo dạy rằng khi phân tích thành phần cấu hợp của tâm, ta sẽ thấy một tâm sở là vitakka, hay hướng tâm vào đối tượng. Tâm sở tầm này có khả năng khai mở và làm mát mẻ tâm, đó là thuốc trị liệu đặc biệt cho bệnh buồn ngủ. (3) Kỹ thuật thứ ba để chống lại dã dượi buồn ngủ là đọc to một số đoạn kinh đã thuộc. Nếu đang hành thiền chung nhóm thì dĩ nhiên bạn phải đọc vừa đủ mình nghe để khỏi quấy rầy người khác. (4) Nếu bạn vẫn chưa tỉnh lại, phải nhờ cậy vào những biện pháp khác. Ðó là những biện pháp mạnh hơn như: kéo tai, xát hai tay vào nhau, chà xát chân, tay, mặt, v.v... Sự kích thích này làm cho máu chạy đều khiến bạn tỉnh táo lại. (5) Nếu buồn ngủ vẫn còn, hãy đứng dậy và từ từ chánh niệm đi rửa mặt. Bạn có thể nhỏ thuốc vào mắt cũng được. (6) Nếu các cách trên đều thất bại, hãy nhìn vào ánh sáng như ánh sáng mặt trăng, ánh đèn. Nhớ là không được nhìn vào mặt trời, vì nhìn vào mặt trời sẽ làm hư mắt. Ánh sáng có thể làm bạn tươi tỉnh lại. Tâm sáng suốt là một loại đèn. Nhờ nó, bạn có nhìn thấy chuyển động phồng xẹp từ lúc khởi đầu đến lúc chấm dứt. (7) Nếu mọi biện pháp đều thất bại, bạn hãy thử đi kinh hành trong chánh niệm. (8) Nếu cuối cùng mà bạn vẫn không thắng được sự buồn ngủ thì hãy đi ngủ, và đi ngủ trong chánh niệm. Nếu vào giường mà không cảm thấy buồn ngủ thì hãy theo dõi sự phồng xẹp. Nếu dã dượi buồn ngủ kéo dài nhiều ngày, có thể do bịnh bón sinh ra thì phải tìm cách trị bịnh táo bón. Ðạo Binh Ma Thứ Sáu: Sợ Hãi, Khiếp Nhược hay Hèn Nhát Sợ hãi và khiếp nhược là đạo binh ma thứ sáu. Ðạo binh sợ hãi này dễ tấn công thiền sinh hành thiền ở nơi hẻo lánh, đặc biệt là khi nỗ lực tinh tấn xuống thấp sau khi bị dã dượi buồn ngủ tấn công. Dũng cảm tinh tấn sẽ đập tan sợ hãi. Một sự hiểu biết rõ ràng về giáo pháp do nhờ ở tinh tấn, chánh niệm, chánh định cũng diệt được sự sợ hãi. Giáo pháp là sự bảo vệ tốt nhất trên thế gian. Có đức tin và thực hành thì giáo pháp sẽ trở thành linh dược để trị bệnh sợ hãi. Có ba loại thực hành. Hành giới chắc chắn sẽ có một tương lai tốt đẹp. Hành định thì sự lo âu sầu muộn sẽ giảm bớt. Hành huệ, tức thiền minh sát, sẽ dẫn đến Niết Bàn. Lúc ấy, sợ hãi, nguy hiểm sẽ bị diệt tận. Thực hành giáo pháp là thực sự lo cho chính mình, tự bảo vệ mình và có được một người bạn tuyệt hảo. Sợ hãi là một biểu hiệu của sân hận. Không thể đương đầu với vấn đề, nhưng bạn không biểu lộ phản ứng ra ngoài mà chờ cơ hội để trốn chạy. Nếu bạn có thể đối diện trực tiếp với vấn đề, với một tâm cởi mở và thỏa mái, thì sự sợ hãi sẽ không khởi dậy. Trong một khoá thiền, thiền sinh không nhận chân được giáo pháp sẽ cảm thấy sợ hãi và thiếu tin tưởng khi nghĩ đến thiền sư và các thiền sinh khác. Chẳng hạn, một số thiền sinh bị dã dượi buồn ngủ tấn công tới tấp nên trong suốt năm phiên ngồi thiền liên tiếp lúc nào cũng ngủ. Suốt ngày chỉ có vài phút tỉnh táo chánh niệm mà thôi. Thiền sinh loại này cảm thấy mắc cỡ và bối rối, đặc biệt là khi so sánh mình với những thiền sinh khác, dường như lúc nào họ cũng chánh niệm, chánh định. Ở Miến Ðiện, vào một lúc nọ, có những thiền sinh uể oải, lờ đờ, hai ba ngày liền trốn bặt không dám đến gặp thiền sư để trình pháp. Có người chuồn về nhà luôn. Họ chẳng khác nào những học sinh không chịu làm bài tập. Nếu những thiền sinh này nỗ lực tinh tấn thì sự chánh niệm của họ sẽ thắng lướt dã dượi buồn ngủ, chẳng khác nào ánh sáng mặt trời xóa tan đám mây mờ. Lúc bây giờ, họ có thể mạnh dạn đến gặp thiền sư và sẵn sàng trình cho thầy biết những gì họ đã tự mình thấy được dưới ánh sáng của pháp hành. Gặp bất kỳ vấn đề gì trong lúc hành thiền bạn cũng phải can đảm và thành thật trình cho thiền sư biết. Ðôi lúc, thiền sinh cảm thấy rằng việc hành thiền của mình xuống dốc, trong khi đó, việc thực hành của họ đang tiến triển tốt đẹp. Một thiền sư có đủ khả năng và đáng tin tưởng có thể giúp bạn chế ngự những lệch lạc và bất an trên, và bạn có thể tiếp tục con đường giáo pháp với đầy đủ nghị lực, chân thành và tín nhiệm.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:21:43 GMT -5
Ðạo Binh Ma Thứ Bảy: Hoài Nghi Dã dượi buồn ngủ là lý do độc nhất khiến thiền sinh nghi ngờ khả năng của mình. Nghi ngờ là đạo binh ma đáng sợ. Khi thiền sinh bắt đầu buông thả trên việc hành thiền của mình, thì thiền sinh cũng bắt đầu nghi ngờ khả năng của chính mình. Băn khoăn suy nghĩ đã không giúp bạn tiến bộ mà còn làm hoài nghi lan rộng thêm. Ðầu tiên là nghi ngờ khả năng của chính mình. Tiếp đến nghi ngờ phương pháp hành thiền, rồi hoài nghi có thể bành trướng rộng hơn và trở thành nghi ngờ thiền sư. Lúc ấy, thiền sinh có thể tự hỏi: "Không biết ông thầy này có đủ khả năng để am tường tình trạng của mình không?". Dĩ nhiên, đây là một trường hợp đặc biệt, cần có một loại chỉ dẫn mới. Trong lúc trình pháp, những điều trình bày của thiền sinh này chỉ do tưởng tượng mà ra. Mọi khía cạnh có thể lý giải, có thể hiểu được trong việc hành thiền đều trở nên đáng ngờ vực. Ðạo Binh Thứ Bảy, tiếng Pali gọi là Vicikiccha. Vicikiccha có nghĩa rộng hơn chữ hoài nghi. Ðó là trạng thái của một tâm mệt mỏi do hiểu không trọn vẹn, không thấu đáo, sự hiểu thiếu bằng cớ, sự phỏng đoán. Một thiền sinh bị dã dượi buồn ngủ chế ngự không thể chú tâm liên tục vào đề mục để tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển. Nếu thiền sinh loại này chịu khó chánh niệm thì có thể biết được danh sắc một cách trực tiếp và thấy rõ chúng có liên hệ nhân quả với nhau. Nếu không chịu chánh niệm quán sát thì sẽ mờ tối trước danh và sắc. Thiền sinh vẫn chưa hiểu được những gì mà mình chưa thấy trước đây. Bấy giờ thiền sinh thiếu chánh niệm bèn suy tư và lý luận: "Ta phân vân không biết cái gì hợp thành danh và sắc. Danh và sắc liên hệ với nhau như thế nào?". Lúc trình pháp, thiền sinh chỉ bày tỏ kinh nghiệm của mình dựa trên những hiểu biết nông cạn và non nớt trộn lẫn với tưởng tượng. Vì tâm không quán thấu được chân lý nên giao động phát sinh. Sau đó là hoang mang, bối rối và do dự kéo đến. Ðó là một khía cạnh khác của vicikicchẻ. Suy nghĩ, lý luận nhiều quá sinh ra mệt mỏi, kiệt quệ. Sự non kém nội quán, hay minh sát, ngăn chặn thiền sinh có một vị thế ổn cố và vững tin. Tâm thiềnsinh chạy lung tung trước vô số hướng đi. Thiền sinh nhớ lại những cách hành thiền đã từng nghe trước đây, nơi này một ít, nơi kia một ít, đem ra thực hành. Thiền sinh bây giờ như người rơi vào trong một nồi cám heo với đủ thứ tạp nham và chìm trong đó. Vicikiccha là một trở ngại lớn lao trong việc hành thiền. Nguyên nhân gần của nó là do dự hoài nghi và thiếu chú tâm chính đáng, tâm không được điều khiển thích hợp để làm tròn nhiệm vụ khám phá chân lý. Phương pháp hữu hiệu và trực tiếp nhất để điều trị hoài nghi là có sự chú tâm thích đáng. Nếu bạn biết cách nhìn và hướng mắt vào đúng, bạn sẽ thấy rõ những gì bạn đang tìm, đó là thực tánh của mọi vật. Chính bạn thấy rõ thực tánh của mọi vật thì bạn không còn hoài nghi về chúng nữa. Muốn tạo điều kiện thích hợp cho một sự chú tâm chính đáng, việc thiết yếu đầu tiên là phải có một vị thầy. Vị thầy này sẽ hướng dẫn bạn trên con đường dẫn đến chân lý và trí tuệ. Ðức Phật đã nhiều lần nhắc nhở, người muốn tìm chân lý, phải tìm một vị thầy đủ khả năng hướng dẫn. Nếu không tìm ra một vị thầy giỏi để hành theo những lời chỉ dẫn của vị này bấy giờ bạn hãy trở về với hàng khối sách dạy thiền đang tràn ngập thị trường. Nhưng hãy thận trọng, đặc biệt nếu bạn là một con mọt sách. Nếu bạn có nhiều kiến thức về các phương pháp hành thiền và muốn tổng hợp chúng lại, chắc chắn là bạn sẽ thất vọng, và có thể, hoài nghi của bạn càng gia tăng nhiều hơn khi chưa đọc sách. Dầu bạn có gặp được một số phương pháp hành thiền tốt đẹp, nhưng vì bạn không thực hành rốt ráo đúng theo những lời chỉ dẫn của các phương pháp này, thì kết quả cũng chẳng đến đâu và bạn lại nghi ngờ luôn cả những phương pháp này nữa. Bạn phải kiên nhẫn thực hành để có cơ hội tự mình chứng nghiệm những lợi ích của việc hành thiền. Nếu không thực hành một cách thích đáng, thì không thể nào tự mình chứng nghiệm, tự mình thấy rõ chân tánh của mọi hiện tượng. Nếu không hành thiền đúng, thì không những hoài nghi gia tăng mà tâm bạn còn trở nên ngưng đọng, cứng ngắt, đầy sân hận, bất mãn, và chống đối. Tâm Gai Góc Sân hận làm cho tâm cứng ngắt và gắt gao như gai nhọn. Dưới ảnh hưởng của gai nhọn, thiền sinh bị tâm cấu xé như một kẻ lữ hành bị lạc vào một đám gai góc rậm rạp; mỗi bước đi là mỗi bước khổ đau. Sân hận là một trở ngại lớn lao trong việc hành thiền. Ðây là trở ngại mà nhiều thiền sinh gặp phải nên tôi muốn nói đến một vài chi tiết của loại phiền não này với mục đích để những người có chủ tâm hành thiền có thể biết được cách thức chế ngự nó. Một cách tổng quát, sân hận bắt nguồn từ hai loại tâm sở. Trước hết là hoài nghi. Thứ đến là một loại dây ràng buộc của tâm. Có năm loại hoài nghi khiến cho tâm trở thành gai góc. (1) Thứ nhứt, nghi ngờ Phật, vị thầy vô thượng đã chỉ chúng ta con đường giải thoát. (2) Nghi ngờ Pháp, con đường thoát khổ. (3) Nghi ngờ Tăng, những bậc Thánh đã diệt được một phần hay toàn thể phiền não, kế đến nghi ngờ chính mình, nghi ngờ giới luật và cách hành thiền của mình. (4) Nghi ngờ thiền sinh, bao gồm cả thiền sư. Khi có nhiều nghi ngờ thì thiền sinh sẽ bị tràn ngập bởi sân hận và phản kháng. Bởi thế, tâm thiền sinh đầy gai góc và cảm thấy chẳng muốn hành thiền chút nào. (5) Nghi ngờ và không tin tưởng cả vào việc hành thiền. Tuy nhiên, hãy yên tâm! Không có gì mất mát cả. Trí tuệ và sự hiểu biết là thần dược để điều trị hoài nghi. Một trong những loại hiểu biết quan trọng là nhận được sự chỉ dẫn thích đáng. Thường những lời chỉ dẫn, giải thích, và sự hiểu biết của thiền sư có thể giúp cho thiền sinh vượt qua khỏi đám gai góc dầy đặc của hoài nghi này. Những câu khuyên nhủ thích đáng, những bài pháp đúng chân lý, khích lệ và đi sâu vào tâm trạng của thiền sinh có khả năng đưa thiền sinh trở về con đường sáng. Con đường sáng này không gì khác hơn là sự quan sát trực tiếp, đối diện với thực trạng. Thiền sinh sẽ thở một hơi dài nhẹ nhõm và đầy biết ơn. Bấy giờ thiền sinh có cơ hội để thấy rõ sự vật đúng theo thực tướng của nó. Thiền sinh sẽ đạt được tuệ giác, và những tuệ giác cao hơn sẽ là linh dược để điều trị bệnh tâm đầy gai góc. Nếu không trở về đường chính mà để cho nghi ngờ tiếp tục phát triển, e rằng bệnh sẽ trở thành bất trị. Năm Dây Trói Buộc Tâm gai góc không phải chỉ bắt nguồn từ hoài nghi mà còn sinh ra từ năm loại thằng thúc khác nữa. Khi năm dây trói buộc này có mặt thì tâm bị sân hận, thoái hóa và phản kháng dày vò. Nhưng vẫn có phương pháp để trị các giây trói buộc này. Thiền Minh Sát sẽ tự động quét sạch chúng và làm cho tâm sáng sủa. Nếu năm thằng thúc này xâm nhập vào việc hành thiền của ta, thì việc đầu tiên là phải nhận diện chúng. Có thế mới có thể tháo gỡ được những dây ràng buộc dài nhằng và dai dẳng bền chặt này. (1) Ràng buộc đầu tiên là bị trói buộc vào ngũ dục. Vì chỉ thích những đối tượng tốt đẹp nên thiền sinh không hài lòng với những gì đang thực sự diễn ra trong giây phút hiện tại. Ðối tượng chính là sự chuyển động của bụng không đủ sức hấp dẫn và thích thú so với những đối tượng hợp với thị hiếu và mong mỏi của thiền sinh. Nếu sự không hài lòng này xuất hiện thì việc hành thiền bị phá hủy. (2) Dây ràng buộc thứ hai là quá luyến ái vào thân thể mình. Sự luyến ái này nhiều khi được hiểu là quá yêu chuộng thân xác. Quá yêu chuộng tự thân có thể được thấy rõ là phiền não chướng ngại khi bạn hành thiền. Khi bạn ngồi một thời gian dài, nhiều loại khổ thọ phát sinh. Nhiều loại thật khó chịu. Lúc ấy, bạn bắt đầu nghĩ đến cái chân thảm thương của bạn. Không biết nó có còn đi được nữa không? Có thể bạn quyết định mở mắt và duỗi chân ra. Thế là sự liên tục chú tâm bị phá vỡ. Bạn bị mất đà giống như xe lên dốc nửa chừng mà dừng lại nên mất trớn. Quan tâm đến thân xác một cách nhẹ nhàng hợp lý nhiều lúc có thể giúp ta có đủ can đảm cần thiết để nhìn sâu vào bản chất của sự đau, nhưng quan tâm quá nhiều là một trở ngại. Chú trọng đến sự săn sóc bề ngoài của thân thể mình cũng là cơ hội để sợi dây ràng buộc thứ hai này phát khởi. Nhiều người cảm thấy vui vẻ hạnh phúc với những loại áo quần đúng kiểu hay các loại mỹ phẩm đắt tiền. Nếu vì lý do nào đó không thể trang điểm và ăn mặc theo ý mình, thì họ sẽ cảm thấy có cái gì mất mát. Dĩ nhiên, trong khi hành thiền thì việc trang điểm và áo quần thời trang là một thú tiêu khiển không thích hợp. Ðây là một trở ngại tạo cơ hội cho băn khoăn lo lắng xen vào việc hành thiền. (3) Dây ràng buộc thứ ba là luyến ái vào kẻ khác hay thân thể của họ. Ðây là một tình trạng phổ thông cần phải được loại bỏ. (4) Dây ràng buộc thứ tư là dính mắc vào thực phẩm. Nhiều người thích ăn nhiều. Nhiều người thích ăn món này món nọ hợp với khẩu vị mình. Những người mà quan tâm đầu tiên của họ là thỏa mãn cái bụng thường có khuynh hướng tìm lạc thú trong việc ngủ hơn là thực hành chánh niệm. Nhiều thiền sinh lại có vấn đề ngược lại. Họ sợ bị lên cân. Những người này cũng bị trói buộc vào sự ăn uống. (5) Dây trói buộc thứ năm là hành thiền với mục đích được tái sanh vào cõi trời. Việc hành thiền đặt căn bản trên tham ái với mục đích để hưởng thụ dục lạc trên các cõi trời là một dây ràng buộc và cũng là một quan niệm chật hẹp và thấp kém. Nếu nỗ lực chăm chỉ hành thiền thì sẽ chế ngự được năm dây trói buộc này, và như thế, sẽ chế ngự được hoài nghi và sân hận theo sau nó. Khi tâm thoát khỏi đám rừng gai góc trói buộc thì sẽ trong sáng như pha lê. Tâm sáng suốt này sẽ giúp bạn hoan hỉ, tạo nên sự tinh tấn đầu tiên trong việc hành thiền. Tiếp theo, sự tinh tấn đều đặn hay tinh tấn duy trì giúp cho chánh niệm và chánh định của bạn tiến triển sâu xa thêm, và sự tinh tấn vượt bực ở mức độ thiền cao hơn đưa đến giải thoát. Ba loại tinh tấn này: tinh tấn khởi đầu, tinh tấn duy trì và tinh tấn vượt bực cao cấp giúp thiền sinh chuyên cần, tỉnh giác và chánh niệm. Ðây là một loại chiến thuật tự nhiên và hữu hiệu nhất để đánh bại đạo quân hoài nghi. Chỉ khi nào tâm trượt khỏi đề mục, nghĩa là lúc thiếu tinh tấn, thì sự mơ hồ, mờ tối của hoài nghi mới có cơ hội nhảy vào. Ðức Tin Khai Sáng Tâm Ðặc tính của đức tin hay Saddha là có sức mạnh quét sạch đám mây hoài nghi và khiến tâm trong sáng. Như nước bùn dơ được đánh phèn, bao nhiêu cặn bẩn lắng xuống và ta có được nước trong sạch để dùng. Ðức tin cũng có hiệu năng tương tự. Ðức tin loại trừ mọi dơ bẩn và đem lại sự trong sáng cho tâm. Một thiền sinh không hiểu được những đặc tánh quí báu của Phật, Pháp, Tăng sẽ nghi ngờ giá trị của Tam Bảo và hiệu năng của việc hành thiền. Thiền sinh này dễ bị đạo binh ma thứ bảy chinh phục và tâm họ chẳng khác nào nước bùn dơ. Nhưng sau khi được đọc những bài giáo lý, hay được nghe những lời dạy thích hợp của thiền sư, thiền sinh này sẽ dần dần giảm bớt hoài nghi và đức tin được củng cố vững chắc. Nhờ có đức tin, thiền sinh sẽ thích thú trong việc hành thiền. Sự thiết tha này sẽ tạo năng lực cho thiền sinh tiến đến mục tiêu cuối cùng. Một đức tin mạnh mẽ sẽ tạo nên thiện chí, chân thành và lòng tín nhiệm. Có thiện chí và chân thành trong việc hành thiền, có tín nhiệm sâu xa vào giáo pháp là con đường dẫn đến tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Thế rồi trí tuệ sẽ hiển bày dưới hình thức các tuệ minh sát. Khi có đủ điều kiện và hoàn cảnh thích nghi, hoa trí tuệ sẽ tự động khai mở. Tuệ minh sát sẽ xuất hiện khi thiền sinh thấy rõ những đặc tính đặc thù và phổ thông của tiến trình thân tâm. Mỗi hiện tượng phát khởi trong tâm đều có những đặc tính riêng của chúng, nhưng những hiện tượng này chịu sự chi phối của định luật chung, đó là vô thường, khổ và vô ngã. (Các đặc tính đặc thù hay đặc tính riêng của thân là nóng lạnh, dính hút, cứng mềm, chuyển động, v.v... và các đặc tính đặc thù hay đặc tính riêng của tâm là sự nhận biết bao gồm các cảm xúc giận hờn, tham muốn, vui buồn, v.v.... Các đặc tính chung hay đặc tính phổ thông của cả hai tiến trình thân tâm là vô thường, khổ và vô ngã.) Khi tuệ minh sát phát sinh, thiền sinh sẽ thấu hiểu một cách rõ ràng, tường tận hai đặc tính riêng và chung của mọi hiện tượng giới. Ðây là kết quả của công trình chánh niệm thuần túy. Một đóng góp của trí tuệ này là sự sáng tỏ rõ ràng. Trí tuệ thắp sáng cho chánh niệm. Trí tuệ chẳng khác nào ngọn đèn sáng xua đuổi bóng đêm tăm tối làm hiển lộ mọi vật. Nhờ ánh sáng trí tuệ, ta thấy rõ đặc tính chung và đặc tính riêng của thân và tâm. Thấy rõ các khía cạnh của từng hoạt động mà ta tham gia vào: nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và cảm giác, hay tư tưởng. Ðặc tính của trí tuệ là không lẫn lộn. Khi tuệ minh sát hiện diện thì tâm không còn lẫn lộn, mê muội, và không còn hiểu lầm danh và sắc, hay thân và tâm nữa. Nhờ thấy rõ ràng, trong sáng, và không lẫn lộn, tâm sẽ bắt đầu đầy ắp đức tin, được gọi là chân tín. Một đức tin sáng tỏ chứ không mù quáng, mê mờ, lẫn lộn. Ðức tin này đến trực tiếp từ kinh nghiệm sự thật của cá nhân. Ta có thể so sánh đức tin này với sự tin tưởng rằng: hai với hai là bốn. Ðó là điều đương nhiên. Một cách đúng nghĩa, thì đức tin ở đây là thấy và hiểu rõ ràng chính xác. Kinh điển gọi đức tin này là căn bản quyết định để hướng dẫn sự chứng nghiệm cá nhân. Như vậy, đức tin ở đây rất gần nghĩa với trí tuệ. Chân tín không phát sinh ở sự thừa nhận một điều gì mà ta đã nghe được; cũng không đến từ sự nghiên cứu, so sánh hay phán đoán, lý luận; không xuất phát từ kim khẩu của một vị thượng tọa, đại đức, học giả, hay một nhóm trí thức nào. Chân tín đến trực tiếp từ trực giác chiêm nghiệm cá nhân và từ một trí tuệ vững chắc, thấy rõ, hiểu rõ. Ðiều quan trọng nhất để phát triển và có được một đức tin chân chánh là phải thực hành theo sự chỉ dẫn trong kinh điển. Ðối với những người mới hành thiền, thì phương pháp thiền tứ niệm xứ có vẻ quá đơn giản và giới hạn. Nhưng khi thực hành sâu xa, trí tuệ bắt đầu hiển lộ, thiền sinh sẽ do kinh nghiệm của chính mình mà phá vỡ được sự đơn giản và giới hạn này. Trong sự hiện diện của đức tin, thiền sinh có thể nhận biết tức thì, là tâm đã trở nên trong sáng và không bị ô nhiễm. Cũng ngay lúc ấy, tâm thiền sinh tràn đầy an lạc và sáng suốt. Ðức tin chân chánh có công năng tập trung và làm sáng tỏ ngũ lực: tín, tấn, niệm, định, huệ. Ngũ lực sẽ trở thành đạo binh tinh nhuệ, tỉnh giác và đầy hiệu năng. Ðạo binh này sẽ đánh mạnh để mở rộng chiến trường giúp cho tâm tập trung an lạc và dũng mãnh - không những thắng được đạo binh thứ bảy, mà còn phá tan cả chín đạo binh ma kia. Bốn Sức Mạnh Giúp Việc Hành Thiền Có Hiệu Quả Trong việc hành thiền, cũng như trong mọi công việc ở đời, người có nỗ lực và tâm kiên định ắt hẳn sẽ hoàn thành những gì mình mơ ước. Kiên định và dũng cảm là hai trong bốn sức mạnh giúp việc hành thiền có kết quả. Bốn sức mạnh hỗ trợ hay tứ như ý túc này gồm có: thứ nhất là Dục, là có ý muốn, ý chí nhiệt tâm; thứ hai là Cần, là tinh tấn nỗ lực; thứ ba là Tâm, là sự kiên định vững chắc không thối chuyển; thứ tư là Quán, tức là trí tuệ, hay sự hiểu biết thấu đáo. Nếu bốn yếu tố này tròn đủ thì thiền sinh sẽ sớm đạt được ước mơ của mình và thấy rõ Niết Bàn. Ðức Phật đã đưa ra một thí dụ giản dị để thấy rõ phương thức hành thiền có hiệu quả. Ðó là hình ảnh một con gà mái ấp trứng. Nếu gà đẻ trứng và muốn cho trứng nở, nhưng gà cứ để trứng đó, phó mặc cho thiên nhiên, thì chắc chắn trứng sẽ thối. Ngược lại, nếu gà quan tâm đến việc ấp trứng, nằm ấp suốt ngày, thì sức nóng của thân thể gà sẽ làm cho trứng nở. Nằm ấp trứng là một bổn phận quan trọng của gà. Gà phải biết ấp đúng cách. Ðôi cánh phải trải rộng vừa phải đủ để che trứng khỏi bị mưa. Gà phải thận trọng để nằm lên trứng mà không làm cho trứng vỡ. Nếu gà nằm ấp đúng cách và đúng thời gian thì trứng sẽ nhận đủ sức nóng để phát triển. Bên trong quả trứng, tròng đỏ và tròng trắng bắt đầu biến dạng, và gà con tượng hình. Một thời gian sau vỏ trứng bắt đầu mỏng đi, gà con bên trong thấy được ánh sáng lờ mờ bên ngoài. Rồi một con gà con lông vàng mướt ra khỏi vỏ trứng tù túng. Công việc của gà là chuyên cần nằm ấp trứng, còn trứng có nở hay không, bao giờ nở, phát triển như thế nào, gà chẳng phải bận tâm đến. Gà mẹ rất chuyên cần và nhiệt tâm trong nhiệm vụ của mình. Nếu gà mẹ cảm thấy đói hay khát, gà tạm thời dời tổ trong một thời gian ngắn, rồi lại trở về với ổ trứng của mình. Tôi không đòi hỏi các bạn bỏ ăn hay ngưng uống hoặc nhịn việc tiêu tiểu. Tôi chỉ mong các bạn học lấy bài học nhiệt tâm và chuyên cần của gà. Hãy tưởng tượng xem, nếu gà mẹ lười biếng và thiếu nhiệt tâm, cứ ấp được vài phút rồi lại dời tổ làm việc khác, thì trứng chắc chắn sẽ bị thối, và gà con sẽ không có cơ hội chào đời. Tương tự như vậy. Nếu thiền sinh mới ngồi thiền được một lát lại gãi, lại đổi chân, lại uốn éo cựa quậy, chuyển bên này, chuyển bên kia, thì sự tinh tấn không đủ liên tục để giữ tâm tươi mát, thoát khỏi các ảnh hưởng tai hại của các loại phiền não chỉ chực cơ hội để nhảy vào quấy rối. Thiền sinh cố gắng chánh niệm trong mọi lúc để tạo được một luồng năng lực bền dai giống như sức nóng liên tục được gà mẹ duy trì trong khi ấp trứng. Sức nóng của tinh tấn giúp cho tâm không bị hư thối và phiền não không tìm ra chỗ hư thối để tấn công. Tinh tấn cũng giúp cho trí tuệ phát triển và già dặn trong từng bước tiến bộ. Năm loại ràng buộc tâm chỉ có thể khởi lên khi chánh niệm vắng bóng. Nếu không thận trọng, thì khi tiếp xúc với đối tượng hài lòng, tâm sẽ đầy tham ái và chấp giữ, dây ràng buộc thứ nhứt. Tuy nhiên, sự chánh niệm sẽ chinh phục được loại ái dục này. Cũng vậy, nếu thấy rõ được bản chất của thân, thì luyến ái sẽ biến mất, tiếp theo, sự say mê thân thể người khác cũng tiêu tan. Thế là, dây ràng buộc thứ hai và ba cũng bị tháo gỡ. Sự chú tâm vào toàn thể tiến trình lúc ăn cũng cắt đứt được sự tham lam trong việc ăn uống, sợi dây thứ tư. Nếu trì chí hành thiền với mục tiêu thấy rõ Niết Bàn, thì sự thèm khát các loại thú vui ở trần tục, ở kiếp sau, dây ràng buộc thứ năm, cũng bị đoạn diệt. Khi năm dây ràng buộc này bị chấm dứt, tâm không còn đen tối và chật hẹp, mà thanh thản, tự do và sáng suốt như pha lê. Tiếp tục tinh tấn chánh niệm và chánh định, tâm dần dần tràn đầy sự ấm cúng của giáo pháp. Năng lực của giáo pháp giúp tâm luôn luôn tươi mát, và cũng chính năng lực của giáo pháp làm khô héo phiền não. Hương thơm của giáo pháp có thể lan rộng khắp nơi và xuyên suốt qua mọi vật, giúp cho chiếc vỏ vô minh nhốt kín chúng ta dần dần mỏng đi và yếu mềm. Với tâm sáng suốt qua sự tinh tấn chánh niệm, thiền sinh sẽ bắt đầu thấy được thân và tâm cùng nhân, duyên của mọi vật. Nhờ sự hiểu biết này, đức tin đặt căn bản trực tiếp trên kinh nghiệm phát sinh. Thiền sinh hiểu được sự tương quan của tiến trình thân tâm, loại bỏ được tư tưởng có một cái ta độc lập có nhiệm vụ quyết định và hành động. Tiếp đến thiền sinh sẽ hiểu được rằng, trong quá khứ cũng có những quá trình nhân duyên như vậy, và trong tương lai cũng chỉ là những chuỗi nhân duyên tiếp diễn. Càng thực hành thâm sâu, thiền sinh sẽ càng có nhiều tự tin, không còn nghi ngờ vào khả năng hay sự thực tập của chính mình. Không còn nghi ngờ các thiền sinh khác hay thiền sư. Tâm thiền sinh lúc bấy giờ đầy ắp lòng biết ơn Phật, Pháp, Tăng. Thế rồi thiền sinh bắt đầu thấy sự xuất hiện và sự biến mất của mọi vật. Hiểu được bản chất vô thường, khổ não và vô ngã của chúng. Khi tuệ giác này xuất hiện, thì sự mê mờ hiểu biết sai lầm về những hiện tượng này cũng biến mất. Giống như gà con đã đủ ngày tháng sắp sửa thoát ra khỏi chiếc vỏ tù túng. Từ đây, thiền sinh bắt đầu thấy được ánh sáng chân lý. Tâm chánh niệm ghi nhận sự vật ngày càng nhanh hơn. Thiền sinh thấy ngập tràn năng lực tinh tấn mà từ trước đến nay mình chưa từng có. Thế rồi một đức tin mạnh mẽ phát khởi. Nếu bạn tiếp tục tinh tấn hành thiền để duy trì và phát triển trí tuệ, như gà mẹ tiếp tục ấp để duy trì trứng trong điều kiện thuận lợi chờ ngày khai nở, thì bạn đạt được mục tiêu cuối cùng, đó là thấy rõ Niết Bàn, chứng được đạo và quả tâm, thoát ra khỏi cái vỏ tối tăm tù túng giống như chú gà con sung sướng nhìn thế giới bao la, theo chân gà mẹ, tung tăng khắp khu vườn ngập nắng. Tâm bạn sẽ ngập tràn an lạc hạnh phúc. Thiền sinh chứng nghiệm Niết Bàn sẽ cảm nhận được một sự an lạc hạnh phúc mới mẻ. Ðức tin, tinh tấn, chánh niệm và chánh định của thiền sinh ở mức độ này sẽ có một sức mạnh đặc biệt. Hy vọng các bạn lưu tâm đến chuyện gà ấp trứng này để duy trì sự tinh tấn và quyết tâm cho đến lúc đạt được mục tiêu cuối cùng. Mong bạn tinh cần chánh niệm để khỏi trở thành một quả trứng thối. Hãy Lèo Lái Thuyền Mình Tôi đã để ra nhiều thì giờ để nói đến hoài nghi và những rắc rối của nó vì tôi thấy đây là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Tôi muốn giúp các bạn tránh nó. Chính tôi đã bị hoài nghi gây ra nhiều đau khổ. Khi tôi được hai mươi tám hay hai mươi chín tuổi, tôi bắt đầu hành thiền dưới sự hướng dẫn của hoà thượng Mahasi, vị thiền sư trưởng đầu tiên của Thiền Viện Mahasi. Sau một tuần ở tại thiền viện, tôi bắt đầu cảm thấy không hài lòng với các vị sư khác, và bắt đầu chỉ trích. Một số dường như không giữ giới luật hoàn hảo. Các vị này, dưới mắt tôi, chẳng có thận trọng nghiêm chỉnh chút nào. Còn các thiền sinh cư sĩ nữa. Dường như họ thích tụ họp chuyện trò, đi đi lại lại, có thái độ khiếm nhã và vô lễ. Thế là hoài nghi bắt đầu tràn ngập tâm tôi. Ngay cả thầy tôi, một vị phụ tá cho hoà thượng Mahasi cũng bị tôi chỉ trích. Vị này chẳng bao giờ cười, nhiều lúc cộc lốc và khắc nghiệt. Tôi nghĩ rằng, một thiền sư thì phải luôn luôn dịu dàng và ân cần. Một vị thiền sư thành thạo nhờ có kinh nghiệm hướng dẫn nhiều loại thiền sinh, cũng như nhờ ở sự học hỏi từ kinh điển, có thể đoán biết được tâm trạng của thiền sinh. Vị thầy dạy tôi cũng là một vị có nhiều kinh nghiệm. Khi thấy việc hành thiền của tôi bắt đầu thoái bộ, và nghĩ rằng hoài nghi đã tấn công tôi, thầy tôi quở trách tôi một cách nhẹ nhàng và khôn khéo. Sau khi trở về phòng, tôi suy nghĩ những điều thầy nhắc nhở và tự nhủ, "Tại sao ta đến đây? Ta đến đây để chỉ trích người khác hay để thử thầy? Không!" Tôi nhận ra rằng tôi đến thiền viện để loại bỏ càng nhiều càng tốt các phiền não mà tôi đã tích tụ trong suốt hành trình luân hồi của mình. Tôi hy vọng có thể đạt được mục đích nhờ thực hành giáo pháp của Ðức Phật trong thiền viện này. Phản tỉnh này là một sự khai sáng lớn lao đối với tôi. Một sự so sánh đập mạnh vào tâm tôi. Tôi đang ở trên một con thuyền nằm ngoài khơi đang lâm vào cơn bão. Những lượn sóng lớn làm thuyền tôi nghiêng ngửa. Tôi bấp bênh giữa biển nước không gì hỗ trợ. Quanh tôi, nhiều thuyền khác cũng đang ở trong tình trạng khó khăn. Thay vì cố gắng lèo lái thuyền mình qua cơn bão tố, tôi la hét, chỉ dẫn các thuyền khác, "Này, hãy nâng buồm lên cao một chút. Còn thuyền kia, hãy hạ thấp buồm xuống một chút!". Nếu tôi cứ mãi bận rộn vì thuyền mọi người, tôi sẽ bị chìm xuống biển sâu. Ðó là một bài học rút ra từ kinh nghiệm bản thân. Sau đó, tôi chăm chỉ hành thiền, không để tâm gì đến người khác. Nhờ thích thú trong việc hành thiền, tôi chẳng còn hoài nghi nữa và lại trở thành người học trò cưng của thầy. Hy vọng các bạn có thể gặt hái được chút ít lợi ích qua kinh nghiệm của tôi. Ðạo Binh Ma Thứ Tám: Kiêu Mạn và Vô Ơn Chinh phục được hoài nghi, thiền sinh bắt đầu hiểu được một vài khía cạnh của giáo pháp. Bất hạnh thay, Ðạo Binh Ma Thứ Tám đang sẵn chờ dưới hình thức kiêu mạn và vô ơn. Kiêu mạn khởi sinh khi thiền sinh bắt đầu cảm nhận được an lạc, thư thái, khinh khoái, và những lợi lạc khác trong việc hành thiền. Ðến đây, thiền sinh phân vân không biết thầy mình có đạt được thành quả kỳ diệu như mình chưa. Không biết các thiền sinh khác có hành thiền tích cực như mình không, vv... Kiêu mạn phần lớn xảy ra khi thiền sinh ở vào giai đoạn nhất thời thấy được sự sanh diệt của các hiện tượng. Ðây là một kinh nghiệm kỳ diệu ngay trong hiện tại, thấy rõ sự sinh ra rồi diệt ngay tức khắc của các đối tượng dưới ánh sáng chánh niệm. ở giai đoạn này, hàng loạt phiền não sẽ kéo đến. Chúng được gọi là Vipassana Kilesa, phiền não của minh sát, bởi vì các loại phiền não này có thể trở nên những chướng ngại tai hại. Vì vậy, thiền sinh cần phải hiểu chúng một cách rõ ràng. Mẻna, hay kiêu mạn, mang đặc tính của một tâm tinh tấn tràn đầy hỉ lạc và nhiệt tâm cao độ. Khi thiền sinh tràn đầy năng lực, tràn đầy hỉ lạc, cảm thấy mình thành công lớn lao, nên có ý nghĩ, "Ta thật vĩ đại, không ai bằng được mình". Một khía cạnh trội hẳn của kiêu mạn là sự thô cứng, ngưng đọng, tâm của thiền sinh sẽ căng phồng và cứng ngắc như con trăn vừa nuốt một con vật nào. Khía cạnh này của kiêu mạn cũng tạo nên sự căng thẳng trong cơ thể và trong tư thế của thiền sinh. Nạn nhân của kiêu mạn có cái đầu rất to, nhưng có cái cổ cứng ngắt nên rất khó cúi đầu thi lễ người nào. Quên Ơn Người Ðã Giúp Ðỡ Mình Kiêu mạn là một tâm sở đáng sợ. Nó hủy diệt lòng biết ơn, làm cho ta khó có thể thừa nhận được rằng mình đã nợ biết bao nhiêu người. Nó khiến ta quên đi những việc tốt đẹp mà người khác đã làm cho ta trước đây. Ta coi thường các vị ân nhân và chê bai, dèm pha đức hạnh của họ. Không những thế, ta còn tìm cách che dấu đức hạnh của ân nhân mình để không ai coi trọng họ. Thái độ đối với ân nhân như thế này là khía cạnh thứ hai của kiêu mạn. Tất cả chúng ta đều có ân nhân. Ðặc biệt là lúc còn bé, cha mẹ thương yêu nuôi nấng, dạy dỗ và hỗ trợ ta những khi cần thiết. Thầy giáo giúp ta có kiến thức. Bạn bè giúp ta những lúc ta gặp khó khăn. Hãy nhớ những món nợ mà ta đã nhận từ các bậc ân nhân này. Luôn luôn khiêm nhường biết ơn và cố gắng tìm cơ hội để giúp đỡ các bậc ân nhân là vũ khí lợi hại để chiến thắng đạo binh ma kiêu mạn. Thật là dễ dàng tìm thấy những kẻ vô ơn này. Một người được bạn giúp đỡ trong lúc khó khăn. Nhờ sự giúp đỡ này, họ đã giải quyết được những bế tắc đương thời, nhưng về sau, họ lại phủi ơn và còn thốt lên những lời bạc nghĩa. "Bạn đã giúp tôi được gì nào?" Ðây là thái độ thường gặp trên thế gian này. Ngay cả một nhà sư cũng trở thành kiêu mạn. Cảm thấy đã nổi tiếng và được mọi người biết mình là một giáo sư qua sự nỗ lực của mình, vị sư này quên mất thầy tế độ và giáo thọ, những vị ân sư đã giúp đỡ lúc mình mới bước chân vào chùa làm chú sa di. Những vị ân sư này có thể đã chỉ dẫn vị sư kia học hỏi, cung cấp những phương tiện cần thiết khi nhà sư tu học, hoặc chỉ dẫn nhà sư hành thiền, khuyên bảo hay quở trách những lúc thích nghi để sau này nhà sư trở thành một vị đại đức trẻ tuổi có trách nhiệm, hiểu biết và đức độ. Lúc đứng tuổi có thể ra sống một mình nơi khác. Có thể nhà sư này lúc bấy giờ mới phát triển tài năng. Nhà sư trở thành một vị pháp sư tài ba được nhiều người mến mộ. Mọi người kính nể nhà sư, dâng cúng nhà sư nhiều lễ vật và mời nhà sư đi đến nhiều nơi để giảng dạy. Khi đạt được địa vị cao trọng, nhà sư có thể sẽ trở thành kiêu mạn. Có thể một ngày nào đó, vị thầy cũ của nhà sư đến gần nhà sư và vui mừng nói: "Chà, mới đây mà mau quá. Mới lúc nào sư còn là chú sa di, tôi lo dạy dỗ cho sư, giúp đỡ sư mọi điều. Nay thấy sư thành công như vậy, tôi thiệt là vui mừng hết sức". Nhà sư trẻ có thể cười mỉa trả lời: "Lúc nhỏ chỉ học với thầy vậy thôi, chứ tôi chưa biết được gì nhiều. Sau này nhờ tôi tự cố gắng học hỏi đó chớ". Chuyện tương tự như vầy có thể xảy ra trong cộng đồng tăng lữ hay gia đình người đời. Trong mỗi gia đình, mỗi người đều mang ân của người khác: từ tình thương yêu cho đến những cảm thông giúp đỡ lúc gặp khó khăn. Thử tưởng tượng một cá nhân trong gia đình sống với các người khác trong tình thương yêu đùm bọc và tương trợ, rồi một ngày nào đó có sự bất hoà xảy ra... Trên thế gian này có nhiều cách giải quyết vấn đề chẳng có hiệu quả chút nào, nhưng bất hạnh thay, lại có tánh cách phổ biến. Thay vì giải quyết vấn đề một cách trực tiếp với nhau trong tình thương, những người trong gia đình lại đem chuyện bất hoà ra bêu xấu với thiên hạ. Họ than trách, nguyền rủa hoặc coi thường anh chị em hay bà con trong gia đình một cách trực tiếp hay gián tiếp. Trước khi nhục mạ hay kết tội một người nào đó trong gia đình mình, hãy xem kỹ tâm mình và hoàn cảnh lúc bấy giờ. Những hình thức nói móc, đá hậu, bẻ giò lái, hạ uy tín, hay coi thường người khác là một khía cạnh của kiêu mạn. Kinh điển đưa ra hình ảnh một người nổi nóng bốc phân ném vào người khác. Người này đã tự bôi bẩn mình trước khi làm bẩn đối phương. Vậy khi có chuyện bất hoà trong gia đình thì hãy cố gắng giải quyết với thiện tâm trong kham nhẫn, tha thứ và từ ái. Thử tưởng tượng một khách lữ hành, với một hành trình vất vả, vào một buổi trưa nóng bỏng, đến nghỉ chân dưới một cội cây rợp bóng bên đàng. Người lữ hành cảm thấy thoải mái dựa vào gốc cây ngủ một giấc ngon lành. Bạn sẽ nghĩ thế nào nếu lúc thức dậy, trước khi tiếp tục hành trình, người lữ hành đốn ngã cội cây. Kinh điển gọi đây là một kẻ vô ơn. Người như vậy thì chẳng biết gì đến ơn nghĩa. Không phải chỉ tránh làm hại ân nhân mình là đủ, chúng ta phải có bổn phận đền ơn trả nghĩa nữa. Cũng có trường hợp chúng ta không có dịp để đền ơn người đã giúp đỡ mình. Tuy vậy, chúng ta cũng được coi như kẻ biết ơn, nếu ít nhất chúng ta nhớ đến những việc mà họ đã giúp đỡ chúng ta trước đây. Nếu có dịp để đền ơn thì ta hãy thực hiện. Chuyện đền ơn nghĩa chẳng liên quan gì đến đức hạnh hay tư cách của người thi ơn. Dầu ân nhân có đức hạnh hơn ta, kém ta, hay bằng ta, chuyện ấy chẳng ăn nhằm gì. Một điều cần thiết để họ trở thành ân nhân của ta đó là họ đã giúp đỡ ta trước đây, thế thôi. Chuyện xưa có kể lại rằng, có một thanh niên nọ làm việc vất vả để nuôi mẹ, nhưng mẹ chàng thanh niên này là một người đàn bà không đứng đắn. Bà ta muốn giấu con điều này. Nhưng ngày nọ, một kẻ mách lẻo trong làng cho chàng biết rõ sự thật. Chàng thanh niên trả lời: "Ông bạn ơi, mẹ tôi muốn làm gì thì làm theo ý thích. Bổn phận của tôi là phải làm việc để nuôi bà ta". Ðây là một chàng thanh niên rất hiểu biết. Anh ta biết được phạm vi làm việc của mình, đó là đền ơn sanh thành dưỡng dục; còn tánh tình của bà ta thế nào đó là chuyện của bà ta. Người thanh niên này là một trong hai loại người hiếm có và quí báu trên thế gian: người thi ân và người đền ân. Người thi ân là người có hảo tâm và tử tế giúp người khác với lý tưởng cao thượng. Ðức Phật là một trong những người thi ân cao cả. Ngài không ngừng cố gắng giúp đỡ chúng sanh bằng cách chỉ rõ con đường giải thoát để họ có thể tự thực hành hầu thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Mọi người chúng ta đều chịu ơn Ngài nên phải có bổn phận nhớ ơn và đền ơn. Một trong những cách đền ơn và nhớ ơn cao quí là tích cực hành thiền. Người đền ơn là người nhớ đến những việc làm tốt đẹp mà ân nhân mình đã làm cho mình, và cố gắng đền ơn khi có cơ hội. Tôi hy vọng rằng các bạn có được đức tính của hai hạng người hiếm hoi cao quí trên, và chiến thắng vẻ vang Ðạo Binh Kiêu Mạn Thứ Tám.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:22:11 GMT -5
Ðạo Binh Ma Thứ Chín: Danh Lợi Khi thực hành thâm sâu thì tác phong và cách cư xử của bạn được cải thiện. Bạn trở nên khả kính và khuôn mẫu. Có thể bạn bắt đầu chia xẻ giáo pháp với người khác, hay kinh nghiệm giáo pháp của bạn sẽ hiển lộ ra ngoài, chẳng hạn như bạn sẽ trình bày giáo pháp một cách rõ ràng. Mọi người có thể có lòng tin sâu xa nơi bạn. Lợi lộc và quà tặng sẽ đến với bạn thật nhiều. Người ta có thể đồn rằng bạn đã đắc đạo, bạn ban bố những bài pháp lớn. Vào lúc này, bạn dễ bị Ðạo Binh Ma Thứ Chín đánh gục. Những lời tán dương và cử chỉ kính trọng của mọi người đối với bạn sẽ in sâu vào tâm bạn. Bạn có thể bắt đầu tìm cách để nhận được quà tặng, lợi lộc nhiều hơn và quí hơn ở tín đồ một cách kín đáo, tinh tế hay công khai, lộ liễu. Bạn có thể tự hào rằng mình xứng đáng được nổi danh bởi vì mình thực sự cao cả hơn người khác. Tham vọng bất chánh có thể vượt trội lòng thành thật giúp đỡ, dạy dỗ hay chia xẻ những kinh nghiệm mà mình có được trong lúc hành thiền. Có thể bạn mong muốn thật sự chia xẻ cho người khác những thành quả mà bạn đã gặt hái được trong lúc hành thiền, nhưng sự phục vụ vị tha này bị lấn át bởi tính tự kiêu và lòng ước muốn được đền bù xứng đáng những gì mình đã bỏ ra. Có thể là tư tưởng sau đây sẽ đến với bạn, "Ô, ta thật là vĩ đại đó chớ. Không biết có ai được như ta không. Ta bây giờ là hình ảnh quen thuộc và đáng yêu của mọi người. Ta có thể yêu cầu Phật tử mua cho ta một chiếc xe mới". Mặt trận thứ nhất của Ðạo Binh Ma Thứ Chín là lợi lộc vật chất: quà tặng hay lễ vật từ tín đồ thuần thành. Mặt trận thứ hai là những lời tán dương và lòng kính trọng của Phật tử. Mặt trận thứ ba là danh thơm, tiếng tốt. Về phần cư sĩ thì Ðạo Binh Ma Thứ Chín tấn công các thiền sinh đã có được một kết quả tốt trong việc hành thiền. Ðối với các thiền sinh bình thường, đạo binh danh lợi có thể tấn công họ dưới hình thức mong muốn có được chỗ ở tiện nghi hay có quần áo tốt và thoải mái trong khi hành thiền. Thiền sinh có thể cảm thấy tự hào về sự hành thiền của mình và muốn được mọi người thừa nhận mình là một thiền sinh cỡ lớn. Những thiền sinh chưa thực hành thâm sâu rất dễ bị tự đánh lừa về những thành đạt của mình. Một thiền sinh có được chút ít kinh nghiệm nhưng chưa sâu có thể trở nên quá tự tin. Thiền sinh này vội vã muốn bước nhanh lên diễn đài Phật giáo và dạy người khác. Làm thế là muốn được thán phục và tán dương. Người loại này sẽ dạy thiền minh sát giả, không phù hợp theo kinh điển, cũng không do ở sự thực hành thâm sâu. Người này sẽ làm hại cho những ai theo học với họ. Thành Thật Muốn thắng Ðạo Binh Ma Thứ Chín, động cơ đằng sau sự nỗ lực của bạn là phải thành thật. Nếu bạn bắt đầu hành thiền chỉ với mục đích muốn được lợi lộc tán dương hay để nổi tiếng thì bạn sẽ không tiến bộ chút nào. Bạn sẽ gặt hái được nhiều lợi ích nếu bạn thường xuyên thẩm xét lại động cơ thúc đẩy việc hành thiền của mình. Nếu bạn thật sự chân thành, trong sáng trong việc hành thiền, nhưng về sau lại đầu hàng kẻ thù là tham ái về lợi lộc, bạn sẽ trở thành say sưa và chểnh mảng. Một người say sưa và chểnh mảng sẽ có một cuộc sống đầy bất an và đau khổ. Vì say sưa, thỏa mãn với lợi lộc nhỏ nhoi nên họ quên mất mục đích của việc hành thiền. Họ bị các bất thiện pháp chi phối khiến có lời nói và hành động sai lầm, do đó việc hành thiền của họ bị thụt lùi. Chúng ta tin rằng đau khổ phải có chỗ chấm dứt, và chúng ta có thể đạt được mục tiêu là chấm dứt khổ đau nhờ hành thiền. Ðó là động cơ chân thật, chính đáng giúp ta tránh khỏi lòng tham lam, ham muốn được lợi lộc và danh tiếng thế gian. Trở thành một chúng sanh, một con người có đời sống thì phải chịu nhiều đau khổ vì sinh và tử. Tiến trình sinh ra là một đau đớn khốn cùng, và cái chết thì sẵn sàng chờ đón. Giữa hai giai đoạn sinh và tử này là đau ốm, bệnh tật, tai nạn, và tuổi già. Lại còn có những khổ tâm khác: không đạt được những gì ta thích, buồn rầu, và mất mát. Không được gần gủi những người và vật ta thương, phải gần gủi những người ta không ưa thích, v.v... Muốn tránh khỏi những đau khổ này, chúng ta ngồi thiền, thực hành giáo pháp, con đường dẫn đến chấm dứt khổ đau, giải thoát, Niết Bàn. Một số chúng ta đi hành thiền, bỏ lại sau lưng mọi hoạt động thế tục, như việc làm, việc học, trách nhiệm xã hội và những lạc thú thế gian khác bởi vì chúng ta tin rằng đau khổ sẽ đi đến chỗ chấm dứt. Thực ra, không phải chỉ đi tham dự những khóa thiền ta mới có thể hành thiền được, vì chúng ta có thể hành thiền bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào nếu chúng ta cố gắng loại trừ phiền não. Khi bạn ngồi thiền một nơi nào đó, chẳng hạn ở góc phòng sách, thì bạn cũng được gọi là pabbajita, người viễn ly thế gian để diệt trừ phiền não. Tại sao chúng ta muốn diệt trừ phiền não? Vì phiền não là một kẻ thù nguy hiểm. Nó hành hạ áp chế những kẻ nằm trong quyền lực của nó. Nó như một ngọn lửa nóng đốt cháy da thịt, tim gan, hành hạ ta đủ điều. Khi phiền não bừng dậy trong người nào, nó sẽ đốt cháy, hành hạ, hủy hoại thân thể và tâm hồn người đó. Trong phiền não không có lấy một chút tốt đẹp nào cả. Ba Loại Phiền Não Có ba loại phiền não: phiền não tác động, phiền não tư tưởng, và phiền não ngủ ngầm. (1) Phiền não tác động xuất hiện khi ta không giữ những giới căn bản như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu và các chất say. (2) Phiền não tư tưởng tế nhị hơn. Một người không làm hay nói điều bất thiện, chẳng hạn, không phạm ngũ giới, nhưng tâm vẫn bị ám ảnh muốn giết, muốn hủy hoại, muốn làm hại cơ thể chúng sanh khác, muốn lấy, tước đoạt, lừa dối kẻ khác để làm chủ một vài vật mà mình ưa thích. Người nào đã bị phiền não này chi phối sẽ thấy rõ thế nào là đau khổ và đau khổ đã hành hạ ta như thế nào. Một người không kiểm soát được phiền não tư tưởng có khuynh hướng muốn làm hại chúng sanh bằng cách này hay cách khác. (3) Phiền não ngủ ngầm thường không xuất hiện ra ngoài. Nó nằm ẩn bên trong, chờ đợi cơ hội nhảy ra tấn công. Phiền não ngủ ngầm chẳng khác nào một người đang nằm ngủ say. Khi thức giấc, tâm người này bắt đầu lay động. Ðó là phiền não tư tưởng khởi sinh. Khi người này ngồi dậy và bắt đầu làm việc là lúc đang từ phiền não tư tưởng chuyển sang phiền não tác động. Có thể so sánh ba loại phiền não này với chuyện sau đây. Một người quẹt diêm và sơ ý gây ra cháy rừng. Que diêm là phiền não ngủ ngầm. Lửa phát sinh khi diêm quẹt vào hộp là phiền não tư tưởng. Cháy rừng là phiền não tác động. Dập Tắt Lửa Phiền Não Nếu bạn thật tâm thực hành giới, định, huệ, thì bạn có thể chế ngự, dập tắt, và loại trừ tất cả ba loại phiền não. Giữ giới là loại bỏ phiền não tác động. Thực hành thiền định là chế ngự phiền não tư tưởng, và hành thiền minh sát sẽ nhổ tận gốc rễ phiền não ngủ ngầm. Chính phiền não ngủ ngầm là gốc rễ của hai loại phiền não tư tưởng và phiền não tác động. Khi bạn thực hành giới, định huệ, bạn sẽ có được những loại hạnh phúc mới. Thực hành giới thì sự thích thú vào ngũ dục sẽ được thay thế bằng sự an lạc tạo bởi giới hạnh thanh tịnh. Nhờ phiền não tác động vắng bóng, người giữ giới hạnh thanh tịnh sẽ có một cuộc sống tương đối trong sạch, an lạc và hạnh phúc. Chúng ta thực hành giới bằng cách giữ năm giới căn bản hay những giới qui định trong phần giới của bát chánh đạo: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Tất cả các điều này đều đặt căn bản ở điểm không làm hại người khác và không làm hại chính mình. Bạn có thể phân vân không biết trên thế gian này có ai thực sự giữ giới luật trong sạch không. Chắc chắn rằng có nhiều người giữ giới trong sạch. Trong những khoá thiền, thiền sinh rất dễ dàng giữ giới trong sạch vì họ sống trong một môi trường thích hợp cho sự giữ giới. Nhiều người tiến xa hơn trong việc giữ ngũ giới. Họ giữ tám giới. Các vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni phải giữ nhiều giới hơn. Trong khi đến thiền viện để hành thiền, ta có thể đạt được những thành quả lớn lao nhờ sự cố gắng của chính ta. Những việc ta thấy khó khăn trước đây như giữ giới luật, khép mình vào kỷ luật, thanh lọc tâm, v.v..., đều trở thành dễ dàng. Giữ giới chỉ là bước đầu. Khi ta muốn loại trừ thêm các phiền não cần phải luyện tâm thanh tịnh. Loại phiền não thứ hai, phiền não tư tưởng sẽ được loại trừ nhờ thiền định, hay thực hành phần định trong bát chánh đạo: chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Sự tinh tấn liên tục và kiên trì rất cần thiết. Muốn ghi nhận các hiện tượng xảy ra trong từng giây phút một không để loạn tâm chi phối, đòi hỏi phải có một sự tinh tấn liên tục và kiên trì. Trong đời sống thường nhật, rất khó duy trì tinh tấn liên tục và tinh tấn kiên trì. Bởi vậy, thời gian ở thiền viện là thời gian thuận lợi nhất. Ta nên tận dụng thời gian này để luyện tâm. Nhờ liên tục tinh tấn, chánh niệm và định tâm trong từng giây phút một, ta chế ngự được phiền não tư tưởng. Tâm không còn tán loạn mà an trụ trên đề mục. Lúc bấy giờ các phiền não không dấy lên được, và tâm đạt được trạng thái gọi là upasama sukha, tức là tịnh lạc. Ðó là sự an lạc, thanh tịnh, tĩnh lặng có được nhờ phiền não đã bị chế ngự. Tâm không còn bị sân hận, tham ái và giao động chi phối. Khi có được hạnh phúc tuyệt diệu này, ta sẽ thấy tất cả mọi lạc thú của cuộc đời do ngũ dục đem lại đều thấp kém. Ta sẽ thấy tịnh lạc là hạnh phúc siêu việt hơn cả nên sẵn sàng vất bỏ sang một bên mọi lạc thú thế tục mà ta đã ham muốn và chấp giữ trước đây. Nhưng khi đạt được tịnh lạc như thế này, bạn cũng đừng tự mãn và xem đây là mục tiêu cuối cùng. Còn có một sự hạnh phúc nữa cao trội hơn hẳn tịnh lạc. Ðó là trí tuệ. Vậy hãy tiến thêm một bước nữa để thực hành trí tuệ. Thực hành để phát triển trí tuệ là thiền minh sát. Những tuệ giác do minh sát đem lại có thể loại bỏ tạm thời hay vĩnh viễn các phiền não ngủ ngầm. Khi chánh niệm được phát triển hài hoà với tinh tấn, đức tin, chánh định và trí tuệ, thì bạn bắt đầu trực nhận được bản chất của thân và tâm. Thế là nhóm trí tuệ trong bát chánh đạo là chánh kiến, chánh tư duy bắt đầu phát triển và dần dần tâm tiến đến các tuệ giác cao hơn. Tuệ giác phát triển thì các phiền não ngủ ngầm càng bị yếu đi và tàn lụi dần. Nếu thiền sinh kiên trì hành thiền thì trí tuệ sẽ phát triển lớn mạnh hơn cho đến lúc đạt đạo quả. Lúc bấy giờ, các phiền não ngủ ngầm hoàn toàn bị tiêu diệt. Ðến đây thì lợi lộc, sự kính trọng và tiếng thơm sẽ tự động đến với bạn. Vào lúc bấy giờ, bạn cũng không bị dính mắc vào chúng vì chúng quá nhỏ nhoi so với kết quả cao quí mà bạn đã đạt được qua nỗ lực hành thiền của mình. Dù thực tâm không nghĩ đến lợi lộc, tiếng thơm, nhưng khi thành công thì lợi lộc và danh thơm sẽ đến một cách tự nhiên, và thiền sinh sẽ biết cách xử dụng lợi lộc và tiếng thơm một cách thích hợp, đồng thời tiếp tục hành thiền cho đến khi rời bỏ thân giả tạm này. Ðạo Binh Ma Thứ Mười: Khen Mình, Chê Người Tất cả chúng ta dầu ít nhiều đều ý thức được sự đau khổ. Ðau khổ hiện diện trong lúc sinh, lúc sống và khi chết. Khổ đau và phiền lụy trong cuộc sống khiến ta có ý muốn chấm dứt khổ đau, sống trong an lạc hạnh phúc. Ðó là ý muốn, là đức tin, và có lẽ cũng do ý muốn và đức tin này thúc đẩy nên bạn mới chịu khó đọc những lời giảng dạy này. Trong lúc hành thiền, mục đích chính yếu và cao quí của chúng ta có thể bị phá hoại bởi những hiệu quả phụ của việc hành thiền. Chúng ta đã nói đến những tác động tai hại của lợi lộc, kính trọng và danh tiếng. Song song với chúng, còn có hai loại phiền não lợi hại khác, đó là khen mình mà chê người. Ðó là đạo binh thứ mười. Ðạo Binh Ma Thứ Mười được dàn bày để đánh gục các thiền sư. Khen mình thường tấn công thiền sinh sau khi họ đạt được một số tiến bộ trong thực hành. Chẳng hạn, khi họ cảm thấy giới luật của mình được hoàn hảo, họ có thể quá tự tin, nhìn mọi người chung quanh và nói, "Người kia chẳng giữ giới luật. Họ không được trong sạch và thánh thiện như ta." Nếu điều này xảy ra, chúng ta đã sa vào ổ phục kích của Ðạo Binh Ma Thứ Mười. Ðạo binh cuối cùng này là đạo binh hùng mạnh nhất phá hủy sự tiến bộ của chúng ta. Thời kỳ Ðức Phật có Ðề Bà Ðạt Ða, nhờ hành thiền tinh tấn, đạt được một số thần thông. Quá tự đắc với pháp thần thông của mình, Ðề Bà Ðạt Ða sanh ra kiêu mạn nên đã có nhiều hành động sai lầm đến nỗi nhiều lần âm mưu giết Ðức Phật. Khi hành động sai trái phát khởi ông ta không còn chánh niệm nên không có gì để bảo vệ chống lại đạo binh ma khen mình chê người. Cốt Tủy Của Ðời Sống Thánh Thiện Chúng ta có thể thỏa thích về sự trong sạch của chúng ta, nhưng không nên chê bai, hạ thấp người khác xuống và thổi phồng mình lên. Giới, Ðịnh, Huệ có thể so sánh với một khúc cây có lõi rất quí. Cành lá là danh dự, tiếng thơm, lời khen tặng và lợi lộc. Vỏ mỏng bên ngoài là giới. Vỏ dày bên trong là định. Phần gỗ là thần thông. Phần lõi là trí tuệ bao gồm đạo quả giải thoát. Giả thử có một cây lớn bị bão ngã đổ trong rừng. Một người thợ rừng thấy vậy bèn lấy rìu chặt cành lá rồi đem cành lá về nhà. Người thợ rừng này chẳng khác nào một thiền sinh thỏa thích trong lợi lộc, lời khen tặng và danh tiếng. Một người khác có thể lột lấy lớp vỏ mỏng bên ngoài rồi đem chúng về. Người chỉ lấy lớp vỏ mỏng này chẳng khác nào một thiền sinh bằng lòng với giới luật trong sạch của mình mà không chịu đào luyện tâm. Người thợ thứ ba cạy lấy phần vỏ dày bên trong. Người thợ này chẳng khác nào thiền sinh thông minh hơn biết rằng giới luật chưa phải là mục đích cuối cùng; phải chú trọng đến việc phát triển tâm. Thiền sinh này có thể học một loại thiền định nào đó rồi cố công hành trì. Sau khi đạt được nhất tâm trong thiền định, thiền sinh này cảm thấy mình đã đạt được điều vĩ đại. Tâm thiền sinh này lúc bấy giờ rất ổn cố và đầy an lạc, hạnh phúc. Thiền sinh này có thể đạt được các tầng thiền hay định tâm sâu xa. Thế rồi một tư tưởng đến với thiền sinh: "Ta thật là cừ, còn mấy người kia có vẻ luôn luôn bất an, giao động". Thiền sinh tưởng rằng mình đã đạt được tinh túy của thiền minh sát và thánh quả, nhưng thật ra thiền sinh này bị đạo binh ma thứ mười là kiêu mạn tấn công. Người thợ thứ tư đẽo lấy phần gỗ đem về. Người thợ này chẳng khác nào thiền sinh có nhiều tham vọng hơn, cố gắng phát triển thần thông. Sau khi hành thiền một thời gian, thiền sinh có thần thông và đầy tự hào về thành quả của mình. Thêm vào đó, thật là thú vị khi vui đùa với khả năng mới tạo được của mình. Tư tưởng sau đây có thể đến với thiền sinh: "Ô, đây là thành quả cao tột, chắc là cốt tủy của giáo pháp. Chẳng ai có thể làm được điều này. Mấy người kia không thể nhìn được ngay trước mắt mình, hình ảnh chư thiên và chúng sanh ở địa ngục". Nếu không đánh bại được đạo binh ma thứ mười này thì thiền sinh sẽ bị say sưa và bất cẩn trong việc phát triển thiện tâm, và cuộc sống của thiền sinh sẽ đầy đau khổ. Thần thông không phải là giải thoát thực sự. Ngày nay, nhiều người còn bị thu hút bởi những kẻ có phép thần thông. Bởi lý do đó, chỉ biểu diễn một chút thần thông là đã khiến nhiều người có đức tin. Lúc Ðức Phật còn tại thế cũng có những trường hợp tương tự. Thật vậy, lần nọ, có một thiện nam đến gần Ðức Phật yêu cầu Ngài dùng thần thông để làm phương tiện truyền bá giáo pháp. Ông ta đề nghị Ðức Phật bảo những học trò có nhiều thần thông biểu diễn cho mọi người xem, ông ta nói: "Khi thấy phép lạ, mọi người đều thán phục và tin tưởng. Làm như vậy, Ngài sẽ có rất nhiều tín đồ." Ðức Phật từ chối lời yêu cầu này. Ông thiện nam yêu cầu đến ba lần. Cả ba lần Ðức Phật đều từ chối. Cuối cùng, Ðức Phật nói với người thiện nam: "Có ba loại thần thông. Một là bay lên không trung hay chun xuống đất, hay biểu diễn những điều kỳ lạ mà người thường không thể nào làm được. Hai, là đọc được tâm người khác. Họ có thể biết được tâm người khác và có thể nói: "Hôm qua anh đã nghĩ như vậy, và đã làm điều đó như vầy, như vầy...". Người ta sẽ thán phục và nể sợ họ. Nhưng có một loại thần thông thứ ba rất quan trọng. Ðó là khả năng chỉ dẫn người khác. Chẳng hạn người có thần thông này có thể nói: "Anh có hành động, cử chỉ, và lời nói như vậy là không tốt. Ðó là những điều bất thiện, không đem lại an lạc và hạnh phúc cho chính anh và cho người khác. Anh nên bỏ điều đó và nên làm những điều lành như vầy, như vầy..., và anh nên hành thiền theo cách tôi sắp chỉ dẫn cho anh đây. Năng lực hướng dẫn người khác đi theo chánh đạo là loại thần thông quan trọng nhất". "Này người thiện nam, nếu hai loại thần thông đầu tiên được biểu diễn cho người có đức tin vào thiền minh sát, thì sẽ không phá hủy đức tin của họ. Nhưng với người chưa có đức tin ở Tam Bảo, ở pháp hành, họ sẽ nói: "Những pháp thần thông này có gì lạ đâu? Tôi biết trong những tôn giáo khác cũng có người đạt được loại thần thông như vầy. Chẳng qua đó là nhờ trì chú và các loại pháp bí truyền khác chứ gì". Những người như vầy sẽ hiểu sai lạc giáo pháp của Như Lai". "Loại thần thông thứ ba là loại thần thông tốt nhất. Này người thiện nam, khi một người có thể nói đây là điều xấu, đừng làm. Anh nên nói lời chân chánh và có hành động chơn chánh. Ðây là cách gội rửa tâm thoát khỏi phiền não. Ðây là cách hành thiền. Ðây là cách để đạt được an lạc và hạnh phúc Niết Bàn, thoát khỏi đau khổ. Ðó là loại thần thông hoàn hảo nhất." Bằng mọi cách, nếu thích, bạn có thể cố gắng hành trì để đạt thần thông. Hành trì để đạt thần thông không phải là điều thiết yếu, nhưng cũng không có gì đi ngược với thiền minh sát. Không ai cản bạn, và nếu bạn không đạt được thần thông nào, thì cũng không ai chế nhạo bạn đâu. Chỉ cần đừng nhầm lẫn xem thần thông là tinh túy của giáo pháp. Một người có thần thông mà tin rằng mình đã đạt được mục đích tối hậu của đạo là một sự si mê lớn. Ðây là một người muốn tìm cái lõi của cây, nhưng mới đến được phần gỗ đã lấy làm thỏa mãn, vì hiểu lầm đây là điều mà mình muốn tìm. Vậy thì, sau khi có thần thông phải tiếp tục phát triển thiền minh sát để thấy được đạo quả và tinh tấn liên tục cho đến khi đắc A La Hán. Khi chánh niệm và chánh định phát triển tốt đẹp thì trí tuệ nội quán sẽ có đà tiến lên cao và thấu suốt được chân tướng của mọi vật hiện khởi. Ðây cũng là một loại thần thông, nhưng chưa phải là mục đích cuối cùng. Cuối cùng, bạn có thể đạt được Tu Ðà Hườn, tâm nhập lưu. Ðó là sự giác ngộ đầu tiên. Khi đạt thánh đạo đầu tiên này, bạn đi sâu vào Niết Bàn. Lần đầu nhổ tận gốc rễ một số phiền não. Khi đạt đạo thì quả đến liền sau đó. Bạn có thể tiếp tục hành thiền để khai triển quả tâm. Khi quả tâm đến, bạn sẽ ở trong tịnh lạc của Niết Bàn. Ðạo tâm chỉ đến một lần trong đời, nhưng quả tâm có thể đến nhiều lần. Bạn chỉ cần có tâm cố gắng là có thể trở lại quả tâm bất kỳ lúc nào và bao lâu cũng được. Tuy nhiên, đối với Ðức Phật, thì quả đầu tiên cũng còn quá thấp. Phải hành trì thêm để giác ngộ hoàn toàn, vì chỉ khi giác ngộ hoàn toàn, bạn mới tận diệt hết phiền não. Ðây là trường hợp của người thợ rừng thứ năm biết lấy lõi cây đem về. Sau khi so sánh khúc cây với việc hành thiền, Ðức Phật kết luận: "Lợi ích của giáo pháp Như Lai không chỉ nằm ở lợi lộc, danh thơm, tiếng tốt v.v... Lợi ích của giáo pháp Như Lai không chỉ nằm ở giới luật thanh tịnh. Lợi ích của giáo pháp Như Lai không chỉ nằm ở các tầng thiền. Lợi ích của giáo pháp Như Lai không chỉ nằm ở việc đắc thần thông. Cốt tủy của giáo pháp Như Lai là giải thoát mọi phiền não, và sự giải thoát này có thể đạt được bất kỳ lúc nào". Hy vọng các bạn có đủ sức mạnh, năng lực và can đảm, dũng mãnh để đối đầu với mười đạo binh ma, và tận diệt chúng không chút thương tiếc để thành tựu các tuệ minh sát. Cầu mong các bạn đạt được ít nhất quả nhập lưu ngay trong kiếp sống hiện tại này. Cầu mong các bạn giải thoát hoàn toàn và chấm dứt mọi khổ đau. Trích: "Ngay Trong Kiếp Sống Nầy", Thiền sư U Pandita, Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch, Như Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ, 1996.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:22:45 GMT -5
Bảy Pháp Trợ Bồ Ðề (A)
-ooOoo-
Trở Thành Một Vị Thánh
Không phải nhìn trời mà đắc đạo, cũng không phải đọc sách hay nghiên cứu kinh điển mà thành đạo. Không phải suy nghĩ, không phải mong ước mà sự giác ngộ sẽ bùng vỡ trong tâm bạn. Có những điều kiện cần thiết để đưa đến giác ngộ, tiếng Pali gọi là bojjhanga, hay những yếu tố giác ngộ. Có tất cả bảy yếu tố.
Chữ bojjhanga nguyên từ hai chữ bodhi, có nghĩa là giác ngộ hay người giác ngộ, và anga là yếu tố, nguyên nhân. Như vậy, bojjhanga có nghĩa là nguyên nhân đưa đến sự giác ngộ. Một nghĩa khác của chữ bojjhanga căn cứ trên một trong hai nghĩa của gốc chữ Pali trên. Căn cứ trên gốc chữ bodhi, thì bojjhanga có nghĩa là sự hiểu biết hay thấy bốn chân lý Tứ Diệu Ðế : chân lý của sự khổ và bất toại nguyện, chân lý về nguyên nhân của sự khổ và bất toại nguyện, chân lý về sự chấm dứt khổ và chân lý về con đường đưa đến sự chấm dứt khổ hay bát chánh đạo. Căn cứ trên gốc chữ anga, thì bojjhanga có nghĩa là một phần đặc biệt của trí tuệ thấy rõ Tứ Diệu Ðế .
Mọi thiền sinh đều hiểu Tứ Diệu Ðế ở một mức độ nào đó, nhưng hiểu biết thật sự bốn chân lý này đòi hỏi một thời điểm chuyển biến đặc biệt của tâm, gọi là đạo tâm. Ðó là một trong những điểm trí tuệ cao nhất của Thiền Minh Sát bao gồm kinh nghiệm Niết Bàn. Một khi thiền sinh có được kinh nghiệm này thì sẽ hiểu sâu xa Tứ Diệu Ðế, và như thế có nghĩa là thiền sinh này đã có bảy pháp trợ bồ đề. Thiền sinh này bấy giờ được gọi là Thánh. Như vậy, bảy pháp trợ bồ đề hay những yếu tố giác ngộ là một phần hay những đặc tính của một vị thánh. Ðôi khi bảy yếu tố giác ngộ còn được gọi là sambojjhanga. Tiếp đầu ngữ sam- có nghĩa là đầy, hoàn hảo, đúng, có sự thật. Tiếp đầu ngữ này chỉ là sự xưng tụng, hay nhấn mạnh, chứ không thêm vào điều gì chủ yếu hay quyết định làm cho nghĩa khác đi.
Bảy pháp trợ bồ đề hay bảy đức tính của một vị thánh nhân là: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỉ, thư thái, định và xả (sati, dhamma vicaya, viriya, piti, passaddhi, samadhi, upekkha). Bảy yếu tố này có thể tìm thấy trong mọi giai đoạn khi hành thiền minh sát. Nhưng chúng ta có thể nói rằng bảy yếu tố giác ngộ sẽ rất rõ ràng ở vào lúc thiền sinh bắt đầu thấy rõ sự sinh diệt của các hiện tượng.
Làm thế nào để phát triển những yếu tố này? Muốn phát triển những yếu tố này phải hành thiền minh sát. Ðức Phật dạy, "Này chư tỳ khưu, nếu Tứ Niệm Xứ được thực hành với nỗ lực, tinh tấn và chuyên cần, chăm chỉ thì bảy pháp trợ bồ đề sẽ tự động phát triển trọn vẹn".
Hành Tứ Niệm Xứ không có nghĩa là nghiên cứu, suy nghĩ, nghe những bài giảng hay bàn luận về Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ hay bốn pháp chánh niệm này cần phải được thực hành bằng cách quán sát chánh niệm một cách trực tiếp theo bốn phương pháp: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp.
Niệm thân là niệm trên các chuyển biến hay các cảm giác của thân. Niệm thọ là niệm trên các cảm giác khổ thọ, lạc thọ và vô ký thọ. Niệm tâm là chánh niệm trên tâm và tư tưởng. Niệm pháp là chánh niệm trên các đối tượng khác của tâm: thấy, nghe, nếm, v.v...Ðức Phật dạy thêm rằng thiền sinh phải kiên trì chánh niệm và thực hành liên tục không gián đoạn. Cách hành thiền của Ngài Mahasi nhằm phát triển trọn vẹn bảy yếu tố giác ngộ và cuối cùng kinh nghiệm thánh đạo tâm theo đúng lời dạy của Ðức Phật.
Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Nhứt: Chánh Niệm
Chánh niệm được dịch từ tiếng Pali là Sati. Tuy nhiên phải hiểu danh từ này với nghĩa tích cực hơn. Chánh niệm phải được hiểu theo nghĩa là tâm tiến đến đối tượng và bao phủ đối tượng toàn diện, xuyên thấu vào trong đối tượng không thiếu sót một phần nào. Như vậy Sati phải được hiểu là: sức mạnh quán sát. Nhưng ở đây, để giản dị ta tiếp tục dùng chữ Chánh Niệm với nghĩa năng động của nó để dịch chữ sati. Chúng ta sẽ có một ý niệm rõ ràng hơn khi quán sát ba khía cạnh của chánh niệm: Ðặc Tính, Chức Năng và Sự Biểu Lộ. Trong vi diệu pháp đã miêu tả các khía cạnh này như sau:
Không Hời Hợt Bề Mặt
Ðặc tính của chánh niệm là không hời hợt bề mặt, có nghĩa là chánh niệm phải xuyên suốt và thâm sâu. Nếu ném một nút chai điền điển xuống dòng nước, nút chai sẽ nhấp nhô và nổi trôi theo dòng nước. Nếu ném xuống nước một hòn đá, hòn đá sẽ chìm xuống đáy dòng. Cũng vậy, chánh niệm sẽ đưa tâm chìm sâu vào đối tượng mà không phơn phớt trên bề mặt của nó.
Khi hành thiền, bạn lấy sự chuyển động của bụng làm đề mục theo dõi. Bạn cố gắng tập trung tâm ý dán sát vào đề mục để tâm không trượt khỏi đề mục và chìm sâu vào tiến trình chuyển động của bụng. Khi tâm xuyên suốt tiến trình này, bạn sẽ hiểu được bản chất thực sự của sự căng thẳng, sức ép, chuyển động, v.v...
Giữ Ðối Tượng Trong Tầm Quán Sát của Mình
Chức năng của chánh niệm là giữ đối tượng luôn luôn ở trong tầm quán sát của mình. Không quên, cũng không để tâm trượt ra ngoài đối tượng. Khi chánh niệm có mặt thì đối tượng xuất hiện sẽ được ghi nhận không bị quên hay bỏ sót. Muốn tránh sự theo dõi hời hợt bề mặt và để cho đối tượng được quán sát một cách kỹ càng, chúng ta phải hiểu và thực hành khía cạnh thứ ba của chánh niệm, đó là yếu tố hiển bày. Khi Yếu Tố Hiển Bày được phát triển sẽ kéo theo hai yếu tố trên, đặc tính và chức năng. Sự hiển bày chính của chánh niệm là tâm trực diện với đề mục, mặt đối mặt với đề mục.
Ðối Diện với Ðề Mục
Giống như bạn đang đi trên đường dài gặp một khách bộ hành đi ngược chiều về hướng bạn. Khi bạn hành thiền, tâm phải đối diện với đề mục một cách như vậy. Chỉ khi bạn đối diện trực tiếp với đề mục thì chánh niệm mới thực sự phát sinh. Người ta bảo khuôn mặt biểu lộ tánh tình. Nếu bạn tin như vậy và bạn muốn xét xem một người nào, bạn phải cẩn thận xem xét kỹ gương mặt của họ, sau đó bạn mới có thể phán đoán về họ. Nếu bạn có thể xem xét gương mặt của họ một cách cẩn thận và không bị các phần khác của cơ thể họ làm bạn phân tâm, thì bạn mới có thể xét đoán một cách chính xác.
Trong khi hành thiền, bạn cũng phải áp dụng phương pháp tương tự -- nếu sắc bén hơn thì càng tốt -- để theo dõi đối tượng quán sát. Chỉ khi nào bạn nhìn một cách kỹ càng tinh tế thì bạn mới có thể hiểu được bản chất thực sự của đối tuợng.
Khi nhìn khuôn mặt ai lần đầu, bạn chỉ nhìn thoáng qua, nhìn một cách tổng quát. Nếu nhìn kỹ hơn, bạn sẽ thấy rõ những chi tiết như lông mày, mắt, môi, v.v...Cũng vậy, khi theo dõi chuyển động của bụng, lúc đầu, bạn nhìn một cách tổng quát các tiến trình của chúng. Ban đầu bạn chỉ đưa tâm đối diện với sự phồng xẹp. Về sau bạn nhìn kỹ càng hơn, và những chi tiết sẽ tự nó hiển bày mà không cần đến sự cố gắng của bạn. Bạn sẽ ghi nhận những cảm giác khác nhau sinh rồi diệt, như sự căng thẳng, áp lực, nóng lạnh, chuyển động, v.v...
Khi thiền sinh liên tục đối mặt với đề mục, sự tinh tấn của thiền sinh sẽ trổ quả. Chánh niệm sẽ trở nên tích cực hơn và gắn chặt hơn vào đối tượng quán sát, không bị bỏ sót, không lãng quên, không lơ là phớt qua. Lúc tâm chánh niệm như thế thì phiền não không thể nào xen vào được. Nếu chánh niệm được duy trì một thời gian dài, thiền sinh sẽ khám phá ra một sự trong sáng kỳ diệu của tâm, bởi vì phiền não đã vắng bóng.
Bảo vệ tâm khỏi bị phiền não tấn công là khía cạnh thứ hai của sự biểu hiện chánh niệm. Khi chánh niệm kiên trì và liên tục tích cực thì trí tuệ sẽ phát sinh, và thiền sinh sẽ thấy rõ bản chất của thân và tâm. Không những thiền sinh thấy được sự sinh diệt của cảm giác mà còn thấy rõ những đặc tính riêng biệt của vô vàn hiện tượng danh sắc diễn ra bên trong.
Thấy Tứ Diệu Ðế
1. Thiền sinh có thể thấy trực tiếp là các hiện tượng danh và sắc, hay thân và tâm, đều đau khổ. Ðó là thiền sinh đã thấy được chân lý thứ nhất.
Khi thấy rõ chân lý thứ nhất thì sẽ thấy rõ ba chân lý sau. Ðiều này được ghi rõ trong kinh điển và chúng ta có thể kiểm chứng qua kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta.
2. Bởi vì có chánh niệm vào lúc các hiện tượng danh sắc xảy ra nên trong lúc ấy không có tham ái. Khi tham ái vắng mặt thì chân lý thứ hai sẽ hiển bày. Tham ái là gốc của đau khổ. Khi tham ái vắng bóng thì gốc của đau khổ sẽ tan biến.
3. Chân lý thứ ba là sự chấm dứt đau khổ sẽ được thấy rõ khi si mê và các phiền não khác đều dừng nghỉ và biến mất. Khi chánh niệm hay trí tuệ có mặt, thiền sinh sẽ thấy tất cả sự vật đều xảy ra tạm thời, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác.
4. Thấy chân lý thứ tư liên quan đến sự phát triển bát chánh đạo. Sự phát triển này xảy ra cùng một lúc ở mỗi thời điểm chánh niệm. (Xem tiếp chương Chiếc Xe Ðưa Ðến Niết Bàn).
Bởi vậy, trong một phương diện nào đó, chúng ta có thể nói rằng Tứ Diệu Ðế được thấy rõ khi chánh niệm và trí tuệ có mặt. Ðiều này đưa chúng ta trở về với hai định nghĩa trên của bảy pháp trợ bồ đề. Chánh niệm là một phần của tâm chứa đựng trí tuệ quán thấu chân tướng của sự vật. Nó là một phần của trí tuệ giác ngộ. Nó có mặt trong tâm của người hiểu rõ Tứ Diệu Ðế . Thế nên nó được gọi là yếu tố của giác ngộ, một giác chi.
Chánh Niệm Là Nguyên Nhân của Chánh Niệm
Nguyên nhân đầu tiên của chánh niệm không gì khác hơn là sự chánh niệm. Có hai loại chánh niệm: Chánh niệm của người mới hành thiền thì yếu, và chánh niệm của người có nhiều kinh nghiệm hành thiền thì mạnh mẽ hơn. Chính sự chánh niệm mạnh mẽ này giúp đạo quả phát sinh. Thật vậy, phát triển chánh niệm là tạo nên một cái trớn, giây phút chánh niệm đầu tiên tạo nên giây phút chánh niệm tiếp theo.
Bốn Yếu Tố Ðể Phát Triển Chánh Niệm
Chú giải đề cập đến bốn yếu tố giúp cho chánh niệm phát triển và trở nên mạnh mẽ cho đến khi nó xứng đáng được mang danh hiệu là trợ bồ đề.
1. Chánh Niệm và Giác Tỉnh Chữ giác tỉnh ở đây có nghĩa là chính xác, trọn vẹn, dùng mọi năng lực của tâm để quán sát. Bạn phải áp dụng chánh niệm và giác tỉnh (ghi nhớ và biết mình) trong khi theo dõi ghi nhận đề mục chính là sự chuyển động của bụng và các đề mục khác như đau nhức, nghe, suy nghĩ v.v... Trong khi đi, đứng hay làm các tác động khác như co duỗi tay, ngẩng đầu, cúi đầu, quay trước, quay sau...bạn cũng phải áp dụng chánh niệm và giác tỉnh. 2. Tránh Người Không Chánh Niệm Nếu bạn để hết tâm vào việc thực hành chánh niệm, nhưng có người không chánh niệm đến nói chuyện quấy rầy bạn. Thử nghĩ xem, sự chánh niệm của bạn sẽ bị tan biến mau lẹ đến chừng nào. 3. Thân Cận Người Chánh Niệm Người chánh niệm sẽ giúp bạn có sự khích lệ lớn lao. Thân cận với họ, trong một hoàn cảnh có thể giữ được chánh niệm, sẽ giúp bạn phát triển và đào sâu chánh niệm. 4. Hướng Tâm Vào Sự Chánh Niệm Hướng tâm vào sự chánh niệm có nghĩa là đặt chánh niệm lên hàng đầu, ưu tiên cho chánh niệm, luôn luôn nhắc nhở tâm trở về với chánh niệm trong mọi lúc. Ðiều này rất quan trọng, tạo nên thói quen không lơ là đãng trí hay quên. Bạn nên cố gắng chánh niệm càng nhiều càng tốt. Tránh mọi hoạt động không đưa đến chánh niệm sâu xa.
Là một thiền sinh, bạn chỉ có một việc để làm, đó là luôn luôn chánh niệm về những gì đang xảy ra trong hiện tại. Trong một khoá thiền tích cực, bạn phải xếp qua một bên mọi tương quan với xã hội bên ngoài. Không viết hay đọc, ngay cả đọc kinh điển. Lúc ăn nên thận trọng không rơi vào những thói quen thất niệm trước đây. Hãy xét xem thử thời gian, địa điểm và số lượng thực phẩm bạn ăn có thích nghi cho việc chánh niệm không. Nếu không thì hãy điều chỉnh.
Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Hai: Trạch Pháp
Tâm ta đầy mê mờ tăm tối bao phủ, nhưng khi trí tuệ sinh khởi thì ánh sáng đến. Mê mờ và tăm tối biến mất. Ánh sáng làm hiển lộ các hiện tượng danh sắc, giúp tâm có thể thấy chúng một cách rõ ràng. Cũng như khi đi vào phòng tối nếu có được một cây đèn bấm, thì ta sẽ thấy được những gì trong phòng.
Trạch Pháp trong Thiền Minh Sát không có nghĩa là tìm tòi, nghiên cứu, hay suy nghĩ thẩm định, tuyển lựa, v.v..., mà có nghĩa là trực giác, một sự nhận biết bằng trí tuệ để phân biệt mọi đặc tính của các hiện tượng. Chữ trạch pháp được dịch từ danh từ Pali "vicaya" còn có nghĩa là trí tuệ thấu triệt và sáng suốt. Khi vicaya có mặt thì trạch pháp và trí tuệ cùng hiện khởi.
Trạch pháp là thấy các pháp; ở đây là thấy các hiện tượng của thân và tâm, thấy luật điều hành các hiện tượng đó, thấy những đặc tính riêng, cũng như những đặc tính chung của các đối tượng. (Ðặc tính riêng của sắc là tứ đại, đặc tính của đất, nước, gió, lửa. Ðặc tính riêng của danh là nhận biết. Ðặc tánh chung của danh và sắc là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã, hay không có bản chất.) Ðây là hai đặc tính mà thiền sinh phải kinh nghiệm trong khi hành thiền.
Thấy Rõ Bản Chất Các Pháp
Tính chất của trạch pháp là khả năng hiểu biết phát sinh từ sự thấy rõ bản chất thực sự của các pháp mà không qua sự suy nghĩ.
Loại Trừ Ðen Tối
Trạch pháp có công năng loại trừ hắc ám. Khi vicaya có mặt, chánh niệm được thắp sáng, đề mục quán sát được thấy rõ, tâm có thể nhận thức được những đặc tính và suốt thấu được bản chất của đối tượng.
Ở một mức độ cao hơn, trí tuệ có công năng loại trừ mọi bóng tối che lấp, giúp tâm xuyên suốt Niết Bàn.
Vậy trạch pháp là một yếu tố quan trọng trong việc hành thiền. Khi trạch pháp yếu đuối hay vắng mặt thì ta sẽ gặp khó khăn.
Phá Tan Bối Rối Phân Vân
Khi bước chân vào một căn phòng tối tăm, bạn sẽ thấy bối rối, phân vân. Bạn có thể tự nghĩ: "Coi chừng lại đạp lên vật gì. Lò dò như vầy, không khéo lại giập ống quyển, va đầu vào tường như chơi". Tâm ta bối rối hỗn loạn vì không biết trong phòng có vật gì và chúng nằm ở đâu. Cũng vậy, khi trạch pháp có mặt thì tâm ta không ở trong tình trạnh bối rối hoang mang, đầy do dự và hoài nghi: "Có người hay không có người? Có tự ngã hay không có tự ngã? Ta là một cá thể hay không phải là một cá thể? Có linh hồn hay không có linh hồn? Có tinh thần hay không có tinh thần?".
Bạn cũng có thể có những nghi ngờ như vậy. Có thể bạn nghi ngờ về vô thường, khổ và vô ngã: "Bạn có chắc rằng mọi vật đều vô thường không? Có thể có vài thứ không hoàn toàn khổ như những thứ khác. Có thể có một cái ta mà ta chưa tìm ra cũng không chừng". Bạn có thể nghĩ rằng Niết Bàn chẳng qua là một chuyện thần tiên mà thiền sư tưởng tượng ra chứ không có thật.
Sự biểu hiện của trạch pháp là xóa tan mọi bối rối hoang mang. Khi trạch pháp có mặt thì mọi vật đều sáng sủa, và tâm có thể thấy rõ ràng những gì đang có mặt. Khi thấy rõ bản chất của các hiện tượng tâm vật lý, bạn sẽ không còn lo lắng phải va vào tường. Vô thường, khổ não, vô ngã sẽ được bạn thấy một cách rõ ràng. Cuối cùng bạn sẽ chứng ngộ Niết Bàn và không còn chút hoài nghi nào nữa.
Chân Ðế
Trạch pháp làm biểu lộ các đặc tướng của chân đế hay sự thật tuyệt đối (paramattha), nghĩa là hiểu biết đối tượng một cách trực tiếp không qua tục đế hay khái niệm. Có ba loại chân đế: hiện tượng vật chất, hiện tượng tâm, và Niết Bàn.
Hiện tượng vật chất bao gồm bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Mỗi yếu tố có những đặc tính riêng biệt và sẵn có trong đó. Chúng ta trực nhận được những yếu tố này ngay chính trong thân thể của chúng ta.
Yếu tố đất, hay địa đại, mang đặc tính cứng. Yếu tố nước, hay thủy đại, mang đặc tính lỏng, hay dính hút. Yếu tố lửa, hay hỏa đại, là nhiệt độ nóng, lạnh. Yếu tố gió, hay phong đại, là sự kéo, căng, cơ động, hay di chuyển.
Hiện tượng tâm cũng có những đặc tính riêng. Chẳng hạn tâm hay thức có đặc tính nhận biết đối tượng và các tâm sở mang những đặc tính khác, chẳng hạn tâm sở xúc có đặc tính xúc chạm, tâm sở thọ có đặc tính vui buồn...
Bây giờ hãy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng. Khi bạn chú tâm chánh niệm vào chuyển động, bạn sẽ thấy những cảm giác bên trong như là căng thẳng, kéo, dãn, sức ép, chuyển động, đó là những biểu hiện của yếu tố gió. Bạn cũng có thể thấy lạnh hay nóng, đó là yếu tố lửa. Bạn có thể thấy cứng hay mềm đó là yếu tố đất. Bạn có thể thấy lỏng hay dính hút đó là nước. Những cảm giác này là đối tượng của tâm. Chúng là các pháp mà bạn quán sát. Nếu bạn nhận biết một cách trực tiếp và bạn chánh niệm cảm giác một cách đặc biệt thì bạn có thể nói rằng trạch pháp đang có mặt trong bạn.
Trạch pháp cũng có thể nhận biết được những khía cạnh khác của pháp. Khi bạn nhận biết được chuyển động phồng xẹp, bạn có thể ngẫu nhiên ghi nhận rằng có hai hiện tượng khác nhau đang xảy ra. Một bên là hiện tượng vật chất, cảm giác căng cứng và chuyển động. Một bên là sự ý thức, đó là tâm ghi nhận, nhận biết đề mục. Ðó là sự hiểu biết, xuyên thấu vào bản chất của sự vật.
Khi bạn tiếp tục hành thiền, một loại trí tuệ khác sẽ hiện khởi. Bạn sẽ thấy rằng tất cả các pháp đều mang đặc tính vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Yếu tố trạch pháp sẽ giúp bạn nhìn thấy bản chất của thế gian qua các đối tượng thân và tâm. Khi trí tuệ nhận biết vô thường, bất toại nguyện và vô ngã chín muồi thì bạn sẽ có đủ khả năng để chứng nghiệm Niết Bàn. Trong trường hợp này, trạch pháp cũng còn nghĩa là thấy rõ Niết Bàn.
Niết Bàn có đặc tính xuất thế, khác hẳn các đặc tính và hiện tượng thông thường. Vì vậy, không thể dùng ngôn ngữ thế tục để diễn đạt. Tuy nhiên, có thể hiểu Niết Bàn là thường, vĩnh viễn, không đau khổ, an lạc và hạnh phúc. Giống như các đối tượng khác, Niết Bàn được gọi là vô ngã, nhưng bản chất vô ngã của Niết Bàn khác hẳn với vô ngã của các hiện tượng thông thường, vì vô ngã của Niết Bàn không có đau khổ và vô thường, mà chỉ có an lạc và trường cửu.
Khi tâm xuyên thấu Niết Bàn, nhờ trạch pháp, ta sẽ thấy các đặc tính của Niết Bàn một cách rõ ràng. Trạch pháp hiểu rõ bằng trí tuệ các pháp đã đưa chúng ta đến Niết Bàn, và bấy giờ, cho chúng ta thấy Niết Bàn một cách rõ ràng.
Trí Tuệ Tự Phát Là Nguyên Nhân của Trạch Pháp
Theo Ðức Phật, chỉ có một nguyên nhân duy nhất giúp phát sinh trạch pháp, đó là trí tuệ tự phát, sự hiểu biết trực tiếp. Muốn có được trí tuệ này, bạn phải tích cực chánh niệm. Bạn phải ý thức một cách thông suốt bằng chánh niệm những gì đang xảy ra, rồi tâm sẽ có trí tuệ để thấu suốt bản chất của các hiện tượng. Sự hoàn thành này đòi hỏi phải có sự chú tâm sáng suốt, sự chú tâm thích hợp. Khi tâm hướng về đối tượng một cách chánh niệm, bạn sẽ có trí tuệ đầu tiên, hay tri kiến trực tiếp. Khi yếu tố trạch pháp phát sinh, thì trí tuệ sẽ đương nhiên và tuần tự nối chân theo như một học sinh tuần tự học bậc tiểu học, trung học, rồi lên đại học và cuối cùng, tốt nghiệp.
Bảy Cách Khác Ðể Phát Triển Trạch Pháp
Chú giải có nói lên bảy cách để giúp cho trạch pháp phát triển.
1. Ðặt Câu Hỏi
Ðó là đặt câu hỏi liên quan đến giáo pháp và việc hành thiền. Ðiều này có nghĩa là tìm một người hiểu biết giáo pháp để nói chuyện và học hỏi. Những người Tây phương rất dễ dàng hoàn tất điều kiện đòi hỏi đầu tiên này. Ðây là một đức tính tốt giúp cho trí tuệ phát triển.
2. Sạch Sẽ
Sạch sẽ ở đây là sạch sẽ bên trong và sạch sẽ bên ngoài, tức là sạch sẽ chính cơ thể mình và những gì quanh mình. Sạch sẽ bên trong, hay sạch sẽ thân, là phải năng tắm rửa, đầu tóc gọn gàng, móng tay móng chân cắt ngắn và đừng để bị bón uất. Sạch sẽ bên ngoài là ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng; phòng ốc thứ tự, gọn gàng và sạch sẽ. Ðiều này giúp cho tâm trong sáng. Khi mắt nhìn thấy bụi bặm và sự hỗn loạn thiếu ngăn nắp, thì sự bối rối hỗn loạn cũng phát sanh theo. Nhưng khi mọi điều kiện và hoàn cảnh chung quanh đều gọn gàng, tươm tất, thì tâm sẽ trong sáng. Một tâm trong sáng là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển trí tuệ.
3. Quân Bình Tâm
Quân bình ngũ căn đã được đề cập ở phần trước. Tín, tấn, niệm, định, huệ phải được phát triển hài hoà. Tín quân bình với huệ, tinh tấn quân bình với định. Việc hành thiền tùy thuộc vào sự quân bình các lực hỗ tương này.
Nếu đức tin mạnh hơn trí tuệ thì sẽ thành cả tin. Bất cứ cái gì cũng tin được, hoặc sẽ bị lôi cuốn bởi những tư tưởng quá sùng tín, quá mộ đạo. Ðức tin rất cần thiết nhưng phải biết quân bình với trí tuệ. Nếu không thì đức tin sẽ trở thành một trở ngại.
Mặt khác, nếu trí tuệ hay sự thông thái quá trội sẽ khiến tâm vọng động, suy nghĩ, đánh giá. Nhiều lúc sẽ đưa đến hậu quả là thiền sinh sẽ tự lừa dối mình bằng nhiều cách.
Nếu tinh tấn quá trội, thiền sinh sẽ quá thích thú và hăng say thực hành. Khi quá hăng say thì tâm sẽ giao động bất an, không thể an trụ trên đề mục quán sát. Khi tâm trượt khỏi đề mục, vọng động tán loạn sẽ gây ra nhiều sự khó chịu.
Nếu định nhiều quá lại có thể dẫn đến làm biếng và dã dượi buồn ngủ. Khi tâm trở nên tĩnh lặng và dường như dễ dàng an trụ trên đề mục không rời thì thiền sinh bắt đầu muốn nghỉ ngơi và buông lỏng; lúc đó dã dượi buồn ngủ sẽ sớm bước chân vào.
Quân bình ngũ lực là một điều quan trọng thiết yếu mà thiền sư phải biết thấu đáo để hướng dẫn thiền sinh. Phương pháp căn bản nhất để quân bình và tái lập lại sự quân bình là tăng cường sức mạnh cho những lực còn lại, đó là chánh niệm.
4 & 5. Tránh Người Thiểu Trí, Thân Cận Bậc Thiện Trí
Yếu tố thứ tư và năm hỗ trợ cho trạch pháp giác chi là tránh xa người thiểu trí và thân cận bậc thiện trí. Thế nào là một bậc thiện trí? Thiện trí thức có thể là người học hỏi và thông hiểu kinh điển, cũng có thể là người có tâm trí sáng suốt, hiểu điều phải lẽ trái. Nếu thân cận với những người này, sự hiểu biết về lý thuyết của bạn sẽ gia tăng, và bạn sẽ có thể vun bồi cho mình một thái độ tri thức tốt đẹp. Nhưng có một loại thiện trí thức khác có thể đem lại sự hiểu biết và thông thái cho bạn ngoài phạm vi sách vở, đó là người ít nhất đã đạt được tuệ sinh diệt trong thiền minh sát. Ðó là tuệ thấy được sự sinh diệt của mọi hiện tượng giới. Một người chưa đạt được tuệ này không thể dạy thiền cho người khác được, bởi vì khi thân cận với họ, thiền sinh không thể được khích lệ để phát sanh trạch pháp giác chi.
6. Suy Tư Ðến Những Chân Lý Thâm Sâu
Ðiều hướng dẫn này, mới nghe, dường như đi ngược hẳn với phương pháp hành thiền, vì hành thiền là quán sát các hiện tượng danh sắc không qua suy nghĩ hay lý luận. Ðiều căn bản của sự suy tư ở đây là suy tư đến bản chất của các hiện tượng thân tâm dưới ánh sáng của minh sát như: ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), suy tư về các yếu tố và đặc tính của ngũ uẩn dưới khía cạnh phi nhân tính của chúng, nghĩa là chỉ có ngũ uẩn mà không có người, có ta trong đó.
7. Phải Hoàn Toàn Chú Tâm Vào Việc Phát Triển Trạch Pháp.
Yếu tố hỗ trợ quan trọng cuối cùng làm phát sanh trạch pháp là hoàn toàn dấn thân vào việc phát triển trạch pháp giác chi. Luôn luôn đem hết tâm trí mình vào việc phát triển trạch pháp và trí tuệ trực tiếp. Nhớ một điều là chẳng cần phải lý luận hay dùng trí thông minh của mình để chia chẻ hay phân tích kinh nghiệm của mình. Chỉ cần chăm chỉ hành thiền để gặt hái kinh nghiệm mới mẻ của thân và tâm.
Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Ba: Dũng Cảm Tinh Tấn
Tinh tấn là năng lực kiên trì, liên tục hướng tâm vào đối tượng quán sát. Tinh tấn, hay viriya, được định nghĩa là viranam bhavo, "đặc tính của người hùng". Ðiều này giúp ta hiểu được ý vị và đặc tính của việc hành thiền của chúng ta, hàm ý rằng, ta phải dũng cảm và tinh tấn trong khi hành thiền.
Người chăm chỉ và chịu khó sẽ có khả năng làm được những việc kỳ diệu. Người dũng cảm tinh tấn sẽ dấn bước vào khó khăn với tinh thần vô úy. Chú giải cho rằng đặc tính của tinh tấn là sự kiên trì chịu đựng khi đương đầu với khổ đau và khó khăn. Tinh tấn là khả năng để thấy kết quả không ngại gian nguy, không sợ khó khăn.
Thiền sinh phải kiên nhẫn chấp nhận những khó khăn xảy đến ngay lúc bắt đầu hành thiền. Khi đến trường thiền, bạn để lại sau lưng mọi lạc thú quen thuộc, mọi sở thích thường ngày. Bạn phải ngủ ít lại và nằm trên một tấm đệm khiêm nhường trong một cái cốc nhỏ hẹp. Lúc thức dậy, bạn phải tập ngồi xếp bằng bất động nhiều giờ trong ngày. Một điều khó khăn cực kỳ đối với bạn, là trong lúc hành thiền phải đương đầu với một con tâm bất mãn, vọng động, không chịu ở yên trên đề mục mà chỉ muốn đi lang bạt mọi nơi, nhất là hay hướng về những gì tốt đẹp, ưa thích tại nhà mình.
Mỗi khi bạn bắt tay vào việc hành thiền, thì dường như lúc ấy bạn cảm thấy cơ thể mình căng thẳng khó chịu hay bị cơn đau hoành hành. Bạn cố gắng ngồi xếp bằng cho được một tiếng trong tĩnh lặng, nhưng mới ngồi được chừng mươi lăm phút, một con muỗi đến quấy rầy bạn, cổ bạn bị cứng, chân bạn bị tê, bạn bắt đầu muốn nổi quạu. Bạn muốn sống một đời sống tiện nghi sung túc, cơ thể bạn được nuông chiều, tâng tiu và đối xử dễ dãi. Bạn luôn luôn thay đổi tư thế mỗi khi cảm thấy một chút khó chịu nhỏ xíu phát sinh. Bây giờ, than ôi, cơ thể phải chịu muôn vàn đau khổ. Bạn bị hành hạ đủ điều, và vì cơ thể đau khổ nên khiến bạn đau khổ theo.
Cảm giác khó chịu có sức mạnh và khả năng kỳ lạ làm cho tâm bạn mệt mỏi và tàn tạ. Ý muốn đầu hàng luôn luôn cám dỗ bạn. Tâm bạn suy nghĩ mông lung: "Ta chỉ cần trở chân một chút thì sẽ được định tâm ngay". Thế là chẳng bao lâu bạn chịu đầu hàng.
Kiên Nhẫn Chịu Ðựng
Bạn cần phải dũng cảm tinh tấn, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn. Nếu bạn gia tăng tinh tấn, tâm bạn sẽ có đủ sức mạnh để chịu đựng với đau nhức, khó chịu, mỏi mệt một cách kiên nhẫn và can đảm. Tinh tấn có khả năng làm cho tâm tươi mát và giữ tâm mạnh mẽ, dầu cho có gặp những hoàn cảnh khó khăn.
Có hai cách để gia tăng năng lực. Một là tự khích lệ mình. Hai là nhờ một người bạn hay một vị thầy giúp đỡ. Chỉ cần thêm một ít năng lực là tâm bạn sẽ trở nên mạnh mẽ.
Hỗ Trợ Cho Tâm Mệt Mỏi
Các nhà chú giải nói rằng, tinh tấn có chức năng hỗ trợ. Nó nâng đỡ tâm khi tâm lụn bại vì sự đau nhức. Giống như những cây cột nhà to lớn nâng đỡ khiến cho căn nhà được vững chải trong gió mưa bão táp, sự dũng mãnh tinh tấn giúp cho thiền sinh tiếp tục hành thiền với một tinh thần hăng say và tươi mát, vượt qua mọi sự đau nhức khó khăn. Bạn sẽ tự mình kinh nghiệm lợi ích lớn lao của tâm dũng cảm tinh tấn này.
Thiền sinh bị đau khổ vì bệnh kinh niên có thể gặp một vài khó khăn trong lúc hành thiền. Phải đương đầu với sự đau nhiều lần khiến năng lực của cơ thể và tâm trí suy mòn, uể oải và chán nản. Bởi thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những thiền sinh đau yếu vào trình pháp với tâm trạng thất vọng, chán nản. Thiền sinh cảm thấy mình chẳng tiến bộ và cứ gặp chướng ngại mãi. Mọi cố gắng đều như vô vọng. Thế rồi một số tư tưởng yếu đuối đến với họ. Họ muốn chịu thua; họ muốn bỏ khoá thiền hay ngưng hành thiền một thời gian. Ðôi lúc, qua một vài lời khuyến khích, tôi có thể giải quyết được tình trạng khó khăn này của thiền sinh để giúp họ tự tin và tiếp tục hành thiền, và độ một vài ngày sau, họ trở lại trạng thái bình thường và hăng say hành thiền như trước.
Ðiều quan trọng trong lúc hành thiền là có được sự khuyến khích hay khích lệ. Sự khuyến khích và khích lệ này không phải chỉ thuần là sự tự khích lệ, tự khuyến khích, mà còn phải có sự hỗ trợ của một người bạn đạo hay một vị thầy. Những người này sẽ khích lệ bạn tiến bước khi bạn bị chùn bước, sẽ nâng đỡ bạn khi bạn vấp ngã.
Tâm Dũng Cảm: Câu Chuyện Tỳ Khưu Ni Citta
Tinh tấn được biểu hiện qua lòng dũng cảm kiên trì. Câu chuyện của vị tỳ khưu ni Citta sau đây biểu lộ cho thấy những đức tánh này.
Nhận thức được nỗi khổ của cuộc đời, thấy rõ thân tâm là nơi chất chứa biết bao nhiêu phiền lụy, nên Citta rời bỏ đời sống thế tục, khoác áo nhà tu với mục đích thoát khỏi đau khổ. Bất hạnh thay, tỳ khưu ni Citta bị bệnh kinh niên, và bệnh này đến từng cơn không thể tiên liệu trước được. Có ngày Citta đang thấy khoẻ mạnh bỗng nhiên ngã bệnh. Citta là một người có tâm kiên định. Cô muốn giải thoát, và quyết tâm đạt cho bằng được, không ai có thể ngăn cản ý chí của cô.
Những lúc cô mạnh khỏe, cô tích cực hành thiền đã đành, nhưng những khi bệnh hoành hành, cô vẫn tiếp tục, mặc dầu không thể tích cực như những lúc khỏe mạnh. Ðôi khi việc hành thiền của cô tiến triển đều đặn, bỗng nhiên cơn đau kéo đến, thế là cô phải bị thụt lùi.
Chị của tỳ khưu ni Citta lo lắng, sợ Citta hành thiền quá sức, khuyên cô nên lưu tâm đến sức khỏe và giảm bớt việc hành thiền, nhưng tỳ khưu ni Citta vẫn kiên trì tinh tấn hành thiền ngày này qua ngày nọ, năm này qua năm khác không thối chuyển. Lúc tỳ khưu ni già hơn, cô phải chống gậy để đi kinh hành, thân thể cô ốm yếu chỉ còn da bọc xương, nhưng tâm cô ta thật hùng mạnh.
Một ngày nọ tỳ khưu ni Citta quyết định vượt qua mọi chướng ngại do bệnh tật và tuổi già gây ra. Cô tự nhủ: "Hôm nay ta phải tận lực cố gắng, chẳng cần quan tâm gì đến cơ thể của ta nữa. Hôm nay, hoặc là ta chết, hay phiền não sẽ bị tận diệt".
Tỳ khưu ni Citta bắt đầu chống gậy leo lên đồi. Cô rất chánh niệm. Từng bước từng bước, cô đi trong chánh niệm. Vừa già vừa ốm yếu, nhiều lần cô té ngã và phải bò, nhưng cô vẫn kiên trì không thối chuyển. Cô hoàn toàn giao phó thân mạng mình cho giáo pháp. Mỗi bước cô đi, mỗi tấc cô bò lên đỉnh đồi đều được làm trong chánh niệm. Khi cô leo đến đỉnh đồi, cô bị mệt nhoài, nhưng tâm chánh niệm của cô vẫn không bị phá vỡ.
Citta lập đi lập lại nhiều lần quyết định của mình: "Hoặc là ta chết, hay là phiền não sẽ bị tiêu diệt". Cô hành thiền thật tích cực. Có bao nhiêu sức lực, cô đều dồn vào việc hành thiền, và ngay trong ngày đó, tỳ khưu ni Citta đã đạt được mục đích của mình. Tràn đầy hỉ lạc, tỳ khưu ni Citta xuống đồi không cần chống gậy với một tâm sáng suốt minh mẫn. Bây giờ Citta khác hẳn lúc cô bò lên đồi. Cô trở nên tươi tắn, khỏe mạnh và an lạc, tự tại.
Các vị tỳ khưu ni khác đều lấy làm ngạc nhiên trước sự biến đổi kỳ diệu của cô. Họ hỏi lý do. Sau khi được Citta thuật lại mọi chuyện, họ lấy làm kính phục vô cùng.
Ðức Phật dạy: "Dầu chỉ sống trong một ngày mà tích cực hành thiền còn hơn sống trăm năm mà thiếu nỗ lực". Trong công việc làm ăn cũng như trong chánh trị xã hội và giáo dục, chúng ta thường thấy các vị lãnh đạo đều là những người tích cực làm việc. Tích cực hăng say sẽ giúp chúng ta thành công trong mọi lãnh vực. Ðó là điều hiển nhiên trong thực tế. Trong việc hành thiền cũng vậy. Nỗ lực tinh tấn là điều kiện tối thiết yếu. Bạn phải chánh niệm liên tục và duy trì chánh niệm trong từng phút giây không để gián đoạn. Trong dũng cảm tinh tấn không có chỗ cho lười biếng giải đãi.
Sức Nóng Làm Bốc Hơi Phiền Não
Ðức Phật gọi tinh tấn là một sức nóng, atapa. Khi tràn đầy sự tinh tấn, tâm trở nên nóng. Sức nóng của tâm có khả năng làm phiền não khô héo. Chúng ta có thể so sánh phiền não với sự ẩm ướt. Một tâm thiếu năng lực sẽ trở thành ẩm ướt và nặng nề bởi phiền não. Với chánh niệm mạnh mẽ, tâm sẽ làm cho phiền não bốc hơi trước khi phiền não đụng đến nó. Như vậy, khi tâm tràn đầy năng lực tinh tấn thì phiền não sẽ không thể đụng đến nó, và cũng không thể đến gần nó. Bất thiện pháp không thể tấn công nó được.
Nếu nói về phân tử lượng, thì sức nóng xuất hiện dưới hình thức gia tăng rung động, hay là giao động. Một thỏi sắt nóng đỏ thực sự đang rung động với một tốc độ hết sức nhanh chóng và trở nên mềm dẻo thích ứng. Trong việc hành thiền cũng vậy. Khi tinh tấn mạnh mẽ, sự rung động trong tâm gia tăng biểu hiện qua sự mềm dẻo dễ uốn nắn. Tâm đầy năng lực nhảy từ đề mục này sang đề mục khác một cách dễ dàng mau lẹ. Tâm vừa mới xúc chạm đã nung nóng đối tượng lên làm cho đối tượng rung động, mềm dẻo, khiến ta mất hẳn ảo tưởng về vật cô đọng và đứng yên. Do đó, ta thấy rõ được sự tan biến của đối tượng.
Ðôi lúc việc hành thiền đang trên đà tiến triển tốt đẹp, tinh tấn tự động làm việc như thỏi sắt đã được nung đỏ, được lấy ra khỏi lửa, nhưng vẫn còn giữ được sức nóng trong một thời gian. Khi phiền não cao bay xa chạy thì tâm sẽ trong sáng thanh tịnh và sắc bén. Khi tâm trong sáng, thanh tịnh và sắc bén sẽ ý thức và ghi nhận được chi tiết của các hiện tượng phát sanh một cách dễ dàng. Năng lực chánh niệm này giúp tâm thấu suốt sâu xa đề mục quán sát và trụ tại đó mà không bị tán loạn hay phân tán đi nơi khác. Khi chánh niệm và chánh định được thiết lập thì trí tuệ phát sinh.
Với sự tinh tấn kiên trì, các yếu tố tốt đẹp của chánh niệm, chánh định và trí tuệ phát sinh và trở nên mạnh mẽ kéo theo những điều tốt đẹp khác, những trạng thái an lạc hạnh phúc. Tâm trong sáng sắc bén và bắt đầu đi sâu hơn vào bản chất của sự vật.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:26:11 GMT -5
Tai Hại Của Sự Làm Biếng Và Niềm Vui Của Giải Thoát
Nếu không kiên trì tinh tấn, thì dã dượi buồn ngủ và lười biếng sẽ tấn công bạn; sự chú tâm sẽ trở nên cùn lụt, và bị độc hại lẻn vào. Bởi vì thiếu hay mất sự chú tâm nên bạn chẳng còn quan tâm đến việc bạn đang còn ở trong trạng thái thiện hảo hay xấu xa. Bạn có thể nghĩ rằng việc hành thiền của bạn đang tự động trôi chảy đều đặn mà chẳng cần đến sự cố gắng của bạn. Ðây là một loại lười biếng, thiếu dũng cảm có thể lôi bạn xuống dốc và tàn phá hủy diệt bạn. Tâm bạn sẽ trở nên ẩm ướt, sũng nước và nặng nề, đầy tiêu cực, bất thiện, như một tấm chăn bị rêu mốc vì bị vất ngoài mưa gió.
Thông thường, phiền não có thể kéo bạn vào trong dục lạc ngũ trần, đặc biệt là vào trong tham ái. Người thiếu dũng cảm tinh tấn sẽ dễ bị tham ái lẻn vào và dần dần bị chìm đắm vào trong dục lạc ngũ trần. Nếu tinh tấn được bơm vào, thì tâm sẽ vượt ra khỏi tình trạng độc hại này. Khi tâm đã được tinh tấn làm cho sung mãn sẽ trở nên nhẹ nhàng, thư thái, trơn tru, giống như một hỏa tiễn đã vượt ra ngoài sức hút của quả đất, tiến vào không gian vô trọng lực.
Khi tâm thoát khỏi sự trì đọng nặng nề của ái dục và của sân hận thì sẽ an lạc tĩnh lặng và tràn đầy các hạnh phúc khác. Những loại an lạc tịch tịnh êm dịu này chỉ có thể đạt được qua sức nóng của lửa tinh tấn do chính bạn tạo nên.
Lúc bấy giờ bạn sẽ tự mình cảm nhận tự do giải thoát. Có thể một ngày nào đó, trong khi bạn đang hành thiền, mùi thơm của bánh vừa mới chín lọt vào mũi bạn. Nếu bạn đang chánh niệm tỉnh thức hay ghi nhớ biết mình thì bạn sẽ ghi nhận hay niệm đấy chỉ là mùi, chỉ là hương trần, chỉ là một đề mục để hành thiền mà không bị ảnh hưởng bởi hương vị thơm tho này. Dầu bạn biết rằng đó là hương thơm, nhưng bạn không bị dính mắc vào hương này. Bạn sẽ không bỏ thiền, đứng dậy để tìm hiểu xem hương đã đến từ đâu, và ai đang nấu bánh, v.v...
Cũng vậy, khi bạn đang chánh niệm tỉnh thức thì một đối tượng không hài lòng đến với bạn, tâm sân hận cũng sẽ không phát sinh, và sự lầm lạc hay si mê cũng sẽ vắng mặt. Khi bạn thấy rõ ràng bản chất của thân và tâm thì những yếu tố bất thiện sẽ không điều khiển hay kiểm soát bạn được.
Thực phẩm cũng là một vấn đề thật khó khăn đối với thiền sinh, nhất là khi thiền sinh đang tham dự một khóa thiền. Không còn bị tham luyến vào thức ăn nữa, nhưng thiền sinh lại bị một trở ngại mới, và trở ngại lớn lao này đè nặng tâm mình, đó là sự chán ghét thực phẩm. Khi thiền sinh thật sự chánh niệm, thiền sinh sẽ thật sự kinh ngạc khi khám phá ra rằng thực phẩm không còn hương vị gì đối với mình nữa. Bởi vì việc hành thiền tiến triển thâm sâu nên thiền sinh bắt đầu thấy thực phẩm thật ghê tởm. Thiền sinh chỉ ăn vài miếng là không muốn ăn nữa. Nhiều thiền sinh, khi kinh nghiệm được sự hỉ lạc mạnh mẽ, sự hỉ lạc này trở thành thức ăn cho tâm họ, khiến họ hoàn toàn mất hẳn thích thú trong việc ăn uống. Những loại thiền sinh trên nên chế ngự phản ứng này bằng cách ăn uống cho đủ thực phẩm để duy trì năng lực của mình. Khi cơ thể thiếu chất dinh dưỡng thì sức mạnh và năng lực sẽ bị mất, và cuối cùng việc hành thiền sẽ bị sụp đổ tàn lụi.
Nhiều người mơ ước gặt hái nhiều lợi ích từ sự tinh tấn, nhưng nếu họ không chịu tận lực cố gắng, thì sẽ bị nhận chìm vào trong chán nản tuyệt vọng. Tiếng Pali chỉ hạng người này là kusita. Trong xã hội, nếu một người không chịu làm việc để tự nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình sẽ bị người khác chê bai khinh rẻ. Họ sẽ bị chê là kẻ lười biếng hay bị gán vào những danh từ xấu xa khác. Chữ kusita đặc biệt để chỉ những ai bị người khác nhục mạ hay phỉ báng.
Trong việc hành thiền cũng vậy. Vào lúc cần nhiều tinh tấn, thiền sinh lại không thể gom tinh tấn để đương đầu với những khó khăn, mà thu mình, rụt cổ, nhát gan, trốn chạy, thì đó là loại thiền sinh thiếu can đảm, thiếu dũng lược.
Một người lười biếng sống trong lầm than khổ sở, không những họ không được người khác kính mến, mà còn bị phiền não dễ dàng tấn công. Phiền não chờ đợi lúc tinh tấn yếu kém để tấn công. Thế là tâm bị ba loại phiền não xâm nhập, đó là dục tưởng, sân tưởng và hại tưởng. Tư tưởng tham dục, tư tưởng sân hận và ý nghĩ làm hại kẻ khác sẽ tới tấp tấn công bạn. Lúc ấy tâm bị đàn áp đau đớn khổ sở. Người lười biếng dễ bị những loại tâm bất thiện này chi phối. Họ cũng dễ bị những loại bất thiện tâm khác như dã dượi, buồn ngủ chế ngự. Thêm vào đó, khi thiếu tinh tấn, thiền sinh không thể duy trì những giới luật căn bản. Khi giới luật bị hủy hoại thiền sinh sẽ bị mất niềm vui và lợi ích do giới luật thanh tịnh đem lại.
Việc hành thiền bị lười biếng phá hoại trầm trọng. Lười biếng cướp mất cơ hội để thiền sinh thấy rõ bản chất thật sự của mọi vật khiến thiền sinh không có dịp để nâng tâm mình lên cao hơn. Thế nên Ðức Phật nói rằng những kẻ làm biếng bị mất nhiều điều lợi ích và tốt đẹp.
Kiên Trì
Muốn cho sự tinh tấn khai triển mạnh mẽ trở thành một yếu tố giác ngộ cần phải có sự kiên trì; có nghĩa là năng lực tinh tấn không được bỏ dở hay cô đọng mà phải được liên tục tăng cường. Với sự kiên trì tinh tấn, tâm sẽ được bảo vệ thoát khỏi những tư tưởng bất thiện sai lầm.
Phải có rất nhiều tinh tấn mới chế ngự được dã dượi buồn ngủ. Khi tinh tấn mạnh mẽ, thiền sinh sẽ cảm thấy giới luật, tâm định và trí tuệ của mình bền vững. Thiền sinh kinh nghiệm được những lợi ích do tinh tấn đem lại. Tâm thiền sinh sáng suốt, rõ ràng, đầy sức mạnh, đầy năng lực và năng động.
Thiền sinh sẽ hiểu rõ ràng những lợi ích của tinh tấn khi chính thiền sinh thưởng thức được những hạnh phúc kỳ diệu do việc hành thiền đem lại. Có lẽ thiền sinh đã quán sát theo dõi những cảm giác đau nhức tột cùng và đã chinh phục được chúng, không bị phản ứng, và cũng không bị cảm giác đau nhức này đè bẹp. Tâm đạt được một sự thỏa thích lớn lao vì cảm nhận được sự thành công hoàn hảo của mình. Thiền sinh cảm thấy biết ơn sự tinh tấn, vì chính nhờ tinh tấn mà tâm không bị những nỗi khó khăn đè bẹp, đã vượt qua những khó khăn này và chiến thắng vinh quang.
Chú Tâm Sáng Suốt Là Nguyên Nhân Phát Sinh Tinh Tấn
Ðức Phật đã tóm lược phương pháp làm cho tinh tấn hay năng lực phát sinh, đó là sự chú tâm sáng suốt. Sự chú tâm sáng suốt giúp phát sinh ba loại tinh tấn. Ðó là tinh tấn khởi động, tinh tấn phóng thích và tinh tấn kiên trì.
Tinh tấn khởi động, hay tinh tấn đề khởi, là tinh tấn cần thiết ở giai đoạn đầu tiên trong khi hành thiền, đặc biệt là trong một khoá thiền. Lúc đầu tâm bị chế phục bởi công việc mới, về lâu sau, mọi việc sẽ được ổn định. Ðể việc hành thiền tiến triển, bạn phải nghĩ đến những lợi ích của công việc làm của bạn rồi bắt đầu tinh tấn chú tâm chánh niệm.
Một thiền sinh mới bắt đầu hành thiền chỉ được hướng dẫn những đề mục căn bản. Bạn chỉ chú tâm vào đề mục chính, và chỉ chú tâm vào đề mục phụ khi bạn bị phóng tâm. Lúc này, bạn chỉ cần có loại tinh tấn đầu tiên, đó là loại tinh tấn khởi động, giống như tầng đầu tiên của hỏa tiễn đẩy hỏa tiễn rời khỏi mặt đất.
Dầu khi bạn đã có thể chánh niệm trên đề mục chính một thời gian và lúc này tâm bạn đã một phần nào ổn định, nhưng không phải việc hành thiền luôn luôn trơn tru như vậy. Chướng ngại sẽ bước vào. Nào đau, nào nhức, nào buồn ngủ, v.v... Bạn cảm thấy mình là nạn nhân đáng thương của đau nhức, không kiên nhẫn, tham lam, dã dượi, buồn ngủ và hoài nghi. Có lẽ bạn đã từng hưởng thụ những cảm giác an tịnh thoải mái ở một mức độ nào đó bởi vì bạn có thể an trú trong đề mục đầu tiên một thời gian, nhưng thình lình những khó khăn tấn công bạn. Vào lúc này tâm trở nên nhu nhược, thiếu can đảm và lười biếng. Tinh tấn khởi động không đủ sức mạnh để đương đầu với những khó khăn này. Bạn cần phải có một hậu thuẫn đặc biệt để đương đầu với buồn ngủ, đau nhức, để vượt qua các chướng ngại.
Loại tinh tấn thứ hai là tinh tấn triển khai hay phóng thích, giống như tầng thứ hai của hỏa tiễn đẩy hỏa tiễn ra khỏi tầng khí quyển của trái đất. Sự khích lệ của thiền sư sẽ giúp đỡ bạn tích cực trong giai đoạn này. Bạn cũng có thể tự khích lệ bằng cách suy tư đến những lý do tốt đẹp để làm khởi dậy tinh tấn phóng thích.
Trang bị bằng vũ khí dũng cảm bên trong và bên ngoài, bây giờ bạn có một liên minh tinh tấn để quán sát sự đau nhức. Nếu bạn có thể chế ngự được sự khó khăn của mình, bạn sẽ cảm thấy thật hăng hái, phấn khởi, và nhờ thế, sự tinh tấn của bạn được tăng cường. Bạn sẵn sàng ghi nhận một cách chánh niệm mọi đối tượng hiện ra. Có thể bạn chế phục được sự đau lưng, hay bạn nhìn vào trong sự tấn công của dã dượi buồn ngủ và thấy nó biến mất giống như một làn mây mỏng. Lúc ấy tâm sẽ trở nên tươi mát và trong sáng. Bạn sẽ cảm thấy năng lực tinh tấn lên cao độ. Ðó là kinh nghiệm trực tiếp của tinh tấn triển khai. Sau đó, việc hành thiền có thể tiến triển đều đặn, trơn tru, và tâm sẽ cảm thấy thoả mãn. Lúc này, bạn đừng ngạc nhiên khi thấy thiền sư bảo bạn thực tập nhiều điều đặc biệt. Chẳng hạn, thiền sư bảo bạn chú tâm vào vài điểm đụng trong cơ thể. Sự chú tâm này nhằm mục đích khích lệ tinh tấn kiên trì, loại tinh tấn thứ ba.
Tinh tấn kiên trì rất cần thiết để hỗ trợ cho bạn duy trì thâm sâu việc hành thiền của mình, đưa bạn đến mục tiêu giải thoát. Loại tinh tấn này chẳng khác nào tầng thứ ba của hỏa tiễn giúp hỏa tiễn có đủ năng lực để hoàn toàn thoát ra khỏi sức hút của trái đất. Khi bạn phát triển tinh tấn kiên trì, bạn sẽ bắt đầu du hành qua các tầng thiền minh sát.
Sự an lạc hạnh phúc mà bạn đạt được trong lúc hành thiền sẽ tan biến khi bạn trở về đời sống thế tục, trừ phi bạn đạt được một mức độ an lạc tịch tĩnh thâm sâu hơn. Bạn có thể tự kiểm nghiệm lại việc này qua kinh nghiệm hành thiền của chính mình. Một câu hỏi cần đặt ra ở đây, là tại sao bạn hành thiền? Tôi nghĩ rằng, mục tiêu tối thiểu của bạn là để đạt được quả tu đà hườn hay nhập lưu, tầng giác ngộ đầu tiên giúp bạn khỏi tái sanh vào bốn đường ác. Dầu mục tiêu của bạn là gì đi nữa, cũng đừng tự mãn cho đến khi bạn đạt được mục tiêu. Do đó, bạn cần khai triển tinh tấn kiên trì, đừng để tinh tấn này bị giảm thiểu hay ngưng đọng. Tinh tấn kiên trì phát triển mãi mãi cho đến khi bạn đạt đến đích của mình. Khi tinh tấn được phát triển tốt đẹp theo đường lối này tiếng Pali gọi là paggahita viriya.
Cuối cùng, vào giai đoạn cuối của việc hành thiền, tinh tấn thành đạt từng mức thứ tư, đó là tinh tấn thành tựu. Tinh tấn thành tựu giúp bạn hoàn toàn thoát khỏi sức hút của dục lạc, tiến đến giải thoát Niết Bàn. Có lẽ bạn muốn biết giải thoát Niết Bàn là như thế nào. Ðược ! Hãy tinh tấn đi rồi bạn sẽ thấy.
Mười Một Cách Ðể Phát Sanh Tinh Tấn
Chú giải có ghi rõ mười một cách để phát sanh tinh tấn.
1. Suy nghĩ đến sự khổ ở bốn ác đạo.
Khi bạn rơi vào sự lười biếng, hãy suy tư đến những cảnh đáng sợ ở bốn ác đạo, hay apaya. Apa- có nghĩa là thiếu, hay không có. Aya, có nghĩa là nghiệp tốt dẫn đến an vui hạnh phúc, đặc biệt chỉ những hạnh phúc an vui ở cõi người, cõi trời, cõi phạm thiên và Niết Bàn. Như vậy, apaya có nghĩa là nơi thiếu hạnh phúc, thiếu an vui.
Thế nên, nếu bạn không hành thiền, bạn sẽ rơi vào khổ cảnh. Nơi đó, bạn sẽ không có cơ hội để làm điều thiện. Có bốn cảnh khổ, nhưng cảnh dễ quán sát nhất và hiện rõ nhất trước mắt bạn là cảnh súc sanh. Hãy xét xem những sinh vật trên mặt đất, dưới biển cả và trên không. Chúng có thể làm được điều thiện không? Chúng có thể làm được những điều mà chẳng ai khiển trách không?
Súc sanh sống trong mờ tối của ảo tưởng. Chúng bị si mê che ám không hiểu rõ, không thấy rõ mọi sự. Côn trùng chẳng hạn. Chúng chẳng khác nào những bộ máy được hoạch định sẵn bởi những cơ cấu vật chất, làm những tác động không có được một chút khả năng lựa chọn, học hỏi, hay hiểu biết. Phần lớn súc sanh có tiến trình tâm hạn chế trong việc sinh tồn và truyền giống.
Trong thế giới của súc sanh, cá tánh riêng biệt thật đơn giản. Chúng vừa là kẻ sát hại, vừa là nạn nhân. Ðó là một thế giới đầy hung bạo, cá lớn nuốt cá bé. Hãy nghĩ đến nỗi sợ hãi và vọng tưởng trong tâm của chúng sanh trong những điều kiện bất nhân, tàn nhẫn, thiếu tình thương này. Hãy tưởng tượng đến nỗi đau khổ và tuyệt vọng của chúng sanh bị chết dưới móng vuốt của chúng sanh khác. Chết trong đau đớn tận cùng. Làm sao súc sanh có thể tái sanh vào một kiếp sống tốt đẹp? Tâm lúc chết qui định cuộc sống tương lai, nhưng làm sao súc sanh có thể thoát khỏi sự sợ hãi luôn luôn có mặt trong chúng?
Súc sanh có thể làm việc nghĩa không? Chúng có thể giữ giới được không? Chúng có thể sống đời sống đạo đức không? Nói chi đến việc hành thiền, làm sao chúng có thể làm được? Làm thế nào chúng hiểu cách kiểm soát và phát triển tâm cho đến lúc thuần thục? Thật là hãi hùng, thật là đáng sợ, khi nghĩ đến một đời sống trong đó chỉ chứa toàn là sự bất thiện.
Suy tưởng như thế sẽ giúp cho bạn tinh tấn: "Bây giờ ta là một thiền sinh. Ðây là cơ hội tốt. Tại sao ta lại phí thời giờ để lười biếng chế ngự? hãy tưởng tượng kiếp sau ta làm một con thú, ta sẽ không bao giờ phát triển được những yếu tố giác ngộ. Ta không được phung phí thì giờ. Ðây là lúc ta phải cố gắng".
2. Suy nghĩ đến những lợi ích của tinh tấn
Một số lợi ích của sự tinh tấn đã được nói đến ở phần trên. Bạn có được cơ hội quí báu để gặp Giáo Pháp, những lời dạy của Ðức Phật. Ðã có Pháp bảo, một bảo vật quí giá không gì sánh kịp thì bạn không nên bỏ lỡ cơ hội để tiến bước trên con đường giúp bạn thâu nhận được phần tinh túy của Giáo Pháp. Bạn có thể tự mình chứng ngộ bốn thánh đạo, thánh quả và Niết Bàn.
Nhờ thực hành, bạn có thể chiến thắng khổ đau. Dầu bạn chưa hoàn toàn thoát khỏi mọi đau khổ trong kiếp sống này đi nữa, bạn cũng phải tận lực để đạt được quả nhập lưu để khỏi tái sanh vào bốn cảnh khổ. Bạn đã có duyên may gặp được Phật pháp, không phải người nào cũng có được cơ hội này. Người gặp được Phật Pháp là người có sự may mắn đặc biệt. Nếu không tận dụng cuộc sống này để thành tựu đạo quả, bạn đã đánh mất một cơ hội lớn lao. Bởi thế, bạn phải dũng cảm tinh tấn, vì không phải dễ dàng đi trên đường giải thoát này. Nếu nỗ lực kiên trì, bạn sẽ đạt được thành quả lớn lao. Ðừng bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi này.
Nếu bạn suy tư theo cách này, tinh tấn sẽ phát sinh và bạn sẽ nỗ lực cố gắng hành trì để đạt đến mục tiêu thấy rõ chân lý.
3. Suy Nghĩ Ðến Những Bậc Giác Ngộ Ðã Ði Trên Con Ðường Này
Ðây là con đường trong sáng tốt đẹp. Chư Phật quá khứ và môn đệ của các Ngài, những vị A la hán và các vị thánh nhân tiếp theo đã đi trên con đường này. Nếu bạn muốn cùng đi trên con đường thánh thiện này thì hãy kiên trì tinh tấn với phẩm hạnh trang nghiêm và quyết tâm mạnh mẽ. Ðây là đường đi của những vị anh hùng, những bậc vĩ nhân, không phải là của những tên vô lại, những kẻ biếng nhác, những kẻ trốn tránh thế gian để khỏi bị nợ nần lôi kéo, những kẻ thất tình thất chí.
Các bậc tiền bối đã đi trên con đường này có nhiều hạng. Có vị sinh từ nơi quyền quí cao sang, đầy đủ vật chất. Có vị sống trong bần hàn cơ cực, bị mọi điều áp bức. Thường chư Phật, chư Thánh, là những kẻ có đầy đủ sức khoẻ, có đầy đủ tiện nghi, sanh trưởng trong các gia đình giàu có sung túc. Nếu các ngài tiếp tục đời sống thế tục, thì các ngài cũng sẽ có một cuộc sống đầy đủ về phần vật chất, nhưng các ngài thấy được sự trống không vô vị của thế gian, và mang hoài bão thành tựu một hạnh phúc cao thượng hơn, vượt ra ngoài những lạc thú tầm thường thấp kém. Cũng có những người khác sinh trưởng từ một nơi khiêm nhường hơn. Họ ý thức được sự áp chế của xã hội, hay của người lãnh đạo, hoặc để chống lại những khổ đau trần thế. Họ có tầm nhìn xa hơn người bình thường. Họ muốn nhổ tận gốc rễ đau khổ chứ không muốn làm dịu bớt khổ đau hay chỉ để trả thù đời. Những người này đã mạnh dạn bước lên trên đường dẫn đến nơi thoát khổ.
Ðức Phật dạy rằng sự cao thượng tùy thuộc vào sự trong sạch bên trong chứ không tùy thuộc vào giai cấp xã hội. Tất cả chư Phật và chư Thanh Văn đã có tinh thần cao thượng, mong muốn đạt được những hạnh phúc thanh cao lớn lao, vượt khỏi hạnh phúc chật hẹp và không vững bền của trần thế. Bởi vậy, các ngài đã rời bỏ gia đình, đi trên đạo dẫn đến Niết Bàn. Ðó là con đường cao thượng, không phải là con đường dành cho những kẻ bướng bỉnh, những người bỏ cuộc.
Bạn hãy nhắc nhở mình: "Những bậc thanh cao lỗi lạc đã đi trên con đường này. Ta phải cố gắng theo chân các ngài. Ta không thể đờ đẫn, lười biếng chảy thây đứng ì một chỗ ở đây. Ta sẽ đi với tinh thần hết sức cẩn trọng và vô úy. Ðây là cơ hội để ta trở thành người của một gia đình cao thượng, bao gồm những thành viên xuất chúng, đi trên con đường quí báu thanh cao. Ta nên tự chúc mừng mình vì đã có cơ hội làm việc này. Những người như ta đã đi trên con đường này đã giải thoát. Ta cũng vậy. Ta sẽ giải thoát, giác ngộ như họ".
Nhờ suy tư như trên, tinh tấn sẽ phát sinh và đưa bạn đến mục đích Niết Bàn.
4. Nhớ Ơn Người Khác Ðã Giúp Ðỡ Ta
Phương tiện thứ tư giúp phát sinh tinh tấn là tôn trọng và biết ơn những kẻ đã để bát và những người đã ủng hộ tứ vật dụng cần thiết để ta có thể sống một đời sống thánh thiện. Ðối với những nhà sư và các ni cô, điều này có nghĩa là tôn trọng, biết ơn những người đã hỗ trợ. Không phải chỉ biết ơn vào lúc được dâng cúng, mà phải luôn luôn ý thức rằng sự ủng hộ hay hỗ trợ của kẻ khác là để giúp chúng ta có thể tiếp tục việc hành trì một cách tốt đẹp.
Thiền sinh cư sĩ cũng tùy thuộc vào sự hỗ trợ của người khác bằng nhiều cách. Cha mẹ và bạn bè đã giúp ta, hoặc giúp tài chánh, hay thay ta coi sóc công việc của ta để ta rảnh rỗi đi hành thiền. Dù ta có phải trả tiền trong khi tham dự một khóa thiền đi nữa, ta cũng phải nhờ những sự hỗ trợ khác trong lúc hành thiền: Chỗ ở, điện nước, thực phẩm được nấu nướng bởi những người tình nguyện và những nhu cầu khác cũng được hỗ trợ chu đáo. Bạn phải có sự tôn trọng và biết ơn sâu xa về những dịch vụ mà những người khác đã hỗ trợ cho bạn. Những người hỗ trợ này là những kẻ có lòng tốt và có từ tâm rộng lớn.
Bạn có thể tự nhủ: "Ta nên hành thiền thật tinh tấn để đền ơn những người có thiện tâm đã hỗ trợ cho ta. Ðây là cách đền đáp lòng tốt của những vị có đức tin nhiệt thành đã tận tâm giúp đỡ ta. Ðể những nghĩa cử của họ không bị phí phạm, ta sẽ xử dụng những gì ta được cung ứng một cách chánh niệm để phiền não của ta bị cắt đứt bớt dần và tận diệt hầu phước báu của những kẻ đã hỗ trợ ta mang lại kết quả tốt đẹp tương xứng".
Ðức Phật qui định giới luật để giúp chư tăng ni sống trong tinh thần hòa ái hạnh phúc. Một trong những điều giới này cho phép chư tăng ni nhận lãnh các vật dụng do thí chủ dâng cúng. Cho phép chư tăng ni nhận lãnh của tín thí, không phải để chư tăng ni sống đời sống xa hoa. Tứ vật dụng do thí chủ dâng cúng gồm thức ăn, chỗ ở, thuốc men, y phục, nhằm mục đích giúp chư tăng ni có đủ thuận duyên tu hành để diệt bỏ phiền não. Bởi vậy, khi nhận lãnh của tín thí, chư tăng ni phải dành hết thì giờ vào việc tu trì giới định huệ để cuối cùng giải thoát khỏi đau khổ phiền lụy.
Bạn có thể suy tư rằng:
"Chỉ có thể hành thiền tinh tấn ta mới có thể đền đáp lòng tốt của các vị hỗ trợ. Tích cực chánh niệm là cách thể hiện sự biết ơn của ta đối với tất cả những người đã giúp đỡ ta có đủ phương tiện để hành thiền."
5. Suy Tư Ðến Việc Nhận Lãnh Di Sản Cao Thượng
Di sản cao thượng gồm có bảy đức tính tinh thần sau đây: đức tin, giới luật, hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ tội lỗi, hiểu biết giáo pháp, có sự dứt bỏ và trí tuệ. Có sự dứt bỏ bao gồm dứt bỏ phiền não và bố thí. Trí tuệ ám chỉ những tuệ minh sát và trí tuệ chứng ngộ Niết Bàn.
Những di sản tinh thần trên có điểm đặc biệt là những di sản mang đặc tính phi vật chất nên không bị luật vô thường chi phối. Di sản cao thượng này khác hẳn di sản vật chất mà ta có thể nhận được từ cha mẹ, vì là di sản vật chất nên có thể bị mất mát, biến đổi và hủy hoại. Hơn nữa, di sản vật chất, trong nhiều phương diện, có thể không làm cho chúng ta thỏa mãn. Một số người đã tiêu xài nhanh chóng những gì mình nhận được. Một số khác không thấy được giá trị của những di sản vật chất này. Trong khi đó, di sản tinh thần luôn luôn đem lại lợi ích cho ta. Di sản cao quí này luôn luôn bảo vệ ta, và tính chất thanh cao của di sản này không bao giờ thay đổi. Di sản này sẽ theo ta đến ngưỡng cửa tử thần, và sẽ theo sát cánh ta dù ta luân lưu đến nơi nào trong tam giới này.
Trong cuộc sống thế tục, nếu con cái ngỗ nghịch không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có thể truất bãi quyền hưởng di sản của con. Cũng vậy, một người đã gặp giáo pháp nhưng lười biếng chảy thây trong việc thực hành, thì cũng bị truất bãi quyền hưởng bảy di sản tinh thần thanh cao. Chỉ những ai tinh tấn kiên trì với tâm bất thối trong việc thực hành mới xứng đáng nhận lãnh di sản quí báu này.
Tinh tấn chỉ được phát triển trọn vẹn khi ta đã xuyên thấu các tuệ giác nội quán và đạt đến thánh đạo tâm. Năng lực đã được phát triển hay đức tinh tấn hoàn hảo này là điều kiện tất yếu để được nhận lãnh thất bảo di sản, hay gia tài cao thượng, gồm bảy món bảo vật tinh thần quí báu này.
Nếu bạn tiếp tục kiện toàn đức tinh tấn trong khi thực hành, bảy đức tánh thanh cao trên luôn luôn có mặt trong bạn. Suy tư như vầy, bạn sẽ có nhiều hứng khởi để tinh tấn hành thiền.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:26:13 GMT -5
6. Suy Tưởng Ðến Ân Ðức và Năng Lực của Ðức Phật
Sự suy tưởng thứ sáu giúp phát triển tinh tấn, đó là nghĩ đến ân đức và năng lực lớn lao của Ðức Phật, người đã khám phá và dạy cho chúng ta con đường giải thoát. Ðức tính vĩ đại của Ðức Phật được biểu thị qua bảy lần quả đất rung chuyển. Quả đất rung chuyển lần đầu tiên khi Bồ tát giáng sanh vào lòng Phật mẫu. Quả đất rung chuyển lần thứ hai khi thái tử Tất Ðạt Ða rời bỏ cung điện tìm đường cứu khổ. Quả đất rung động lần thứ ba khi Bồ tát cảm thắng ma vương. Quả đất rung động lần thứ tư khi Bồ tát chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Quả đất rung động lần thứ năm khi Ðức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên. Quả đất rung chuyển lần thứ sáu khi Ðức Phật trở về trái đất sau ba tháng giảng dạy vi diệu pháp cho Phật mẫu tại cung trời Ðao lợi. Quả đất rung chuyển lần thứ bảy khi Ðức Phật Niết Bàn.
Hãy suy nghĩ đến trí tuệ thâm sâu và lòng từ bi vô lượng của Ðức Phật. Biết bao nhiêu chuyện tiền thân nói đến ba la mật hoàn hảo của Ngài. Một vị Bồ tát phải trải qua biết bao thời gian để hoàn thành mục tiêu của mình. Biết bao ba la mật Ngài đã thực hiện. Biết bao tình thương Ngài đã ban trải để phục vụ nhân loại và chúng sanh.
Phải biết rằng nếu bạn tiếp tục cố gắng, bạn có thể thọ hưởng được những đức tánh cao quí của Ðức Phật.
Trước khi Ðức Phật thành đạo, chúng sinh bị mê mờ trong đám mây đen tối của si mê lầm lạc. Khi ánh sáng giải thoát chưa được tỏ rạng, chúng sanh mò mẫm trong bóng đêm. Trên thế gian này, người ta đã tìm đủ mọi cách để mong đạt được an vui hạnh phúc, từ ép xác khổ hạnh cho đến tận hưởng những lạc thú ngũ dục, nhưng không có con đường nào dẫn con người đi đến nơi an vui hạnh phúc thật sự. Chỉ có Ðức Phật mới tìm ra con đường giải thoát khổ đau, đến nơi an lạc hạnh phúc trường cửu. Chúng ta là những kẻ đại phúc được đi trên con đường giải thoát của Ngài. Vậy thì chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không tiến bước!
Thệ Nguyện Giải Thoát Chúng Sanh
Trong một tiền kiếp của Ðức Phật, Ngài là một đạo sĩ ẩn cư tên là Sumedha. Ðây là chuyện xảy ra hằng a tăng kỳ vào thời Ðức Phật Dipankara (Phật Nhiên Ðăng).
Ðạo sĩ Sumedha, thấy rõ sự đau khổ của chúng sanh trong vòng mê tối trông chờ sự xuất hiện của Ðức Phật. Ngài thấy chúng sanh cần phải được hướng dẫn để qua bờ kia một cách an toàn. Thế nên đạo sĩ Sumedha đã từ bỏ sự đắc đạo mà Ngài có đủ khả năng để đạt được ngay trong kiếp sống ấy. Từ đấy, ngài phải trải qua bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp để kiện toàn ba la mật mà trở thành một bậc chánh đẳng chánh giác. Với năng lực của một bậc chánh đẳng chánh giác, Ngài sẽ hướng dẫn cho vô số chúng sanh giải thoát chứ không phải chỉ một mình Ngài. Khi công hạnh đầy đủ, đạo sĩ trở thành một vị Phật, một người phi thường, cao thượng hơn hẳn mọi người khác.
Muốn trở thành một vị Phật, Ngài đã kiện toàn ba sự thành tựu sau đây: thành tựu nhân, thành tựu quả, và thành tựu phục vụ. Nhờ đức hạnh, Ngài đã thành tựu nhân dẫn đến giác ngộ, đó là sự tinh tấn mà Ngài đã đào luyện trong nhiều kiếp sống để kiện toàn ba la mật, sức mạnh tinh thần của sự thanh tịnh tâm.
Rất nhiều câu chuyện thuật lại đức từ bi và giới hạnh của Ðức Bồ tát. Từ kiếp này sang kiếp khác, ngài đã hi sinh chính mình cho hạnh phúc an vui của kẻ khác. Sự phát triển tâm thanh tịnh là nền tảng cho sự giác ngộ của Ngài dưới cội cây bồ đề. Sự giác ngộ này được gọi là thành tựu quả, vì đó là kết quả tự nhiên của thành tựu nhân hay sự khai triển năng lực mạnh mẽ của tâm thanh tịnh.
Thành tựu thứ ba của Ðức Phật là thành tựu trong sự phụng sự kẻ khác qua nhiều năm giảng dạy. Sau khi thành đạo, Ngài không an hưởng hạnh phúc một mình, mà với tình thương rộng lớn, Ngài ban bố giáo pháp cho mọi người, giúp những người có duyên lành thấy rõ đạo giác ngộ. Ngài tích cực trong việc giáo hóa chúng sanh cho đến ngày Ngài Niết Bàn.
Suy tư đến những đức tính hoàn hảo của Ðức Phật sẽ giúp bạn tinh tấn dũng mãnh trong việc hành thiền.
Lòng Bi Mẫn Dẫn Ðến Hành Ðộng
Lòng bi mẫn là động lực duy nhất đã khiến Bồ tát Sumedha hi sinh sự thành đạo của mình ngay trong kiếp sống đó để nỗ lực tinh tấn trở thành một vị Phật. Thấy chúng sanh đắm chìm trong đau khổ vì không được người hướng dẫn, Bồ tát, với tình thương bao la, thệ nguyện đạt thành trí tuệ cao cả để giải thoát chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi đau khổ triền miên này.
Lòng bi mẫn đưa đến hành động. Và hành động phải có trí tuệ lèo lái mới đem lại những lợi ích thiết thực. Trí tuệ giúp Ngài biết rõ hướng đi, biết đâu là chánh đạo, đâu là mê đồ. Tình thương giúp Ngài có can đảm và nghị lực để hoàn thành mục tiêu. Nếu có lòng bi mẫn mà không có trí tuệ, bạn có thể gây ra nhiều tai hại cho kẻ khác hơn là giúp đỡ. Nếu có trí tuệ mà không có lòng bi mẫn, bạn sẽ dửng dưng trước những đau khổ của kẻ khác.
Cả hai, trí tuệ và lòng bi mẫn phải được kiện toàn nơi một vị Phật. Nhờ có tình thương nên Bồ tát đã chịu luân lưu trong vòng luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, chịu biết bao khổ sở để kiện toàn ba la mật hầu có đủ năng lực giúp đỡ chúng sanh đang đắm chìm trong đau khổ. Ngài có đủ đức nhẫn nhục, sức chịu đựng kiên trì, để đương đầu với những lời nói khiếm nhã nhục mạ, những hành động thô bạo xâm phạm đến thân thể Ngài. Nhờ có trí tuệ Ngài đã có thái độ thích nghi trong mọi hoàn cảnh, có hành động hợp lý và sáng suốt, biết rõ những gì cần làm và những gì không nên làm, biết cách chế ngự và kiểm soát thân tâm mình và biết cách hướng dẫn người khác đi theo chánh đạo.
Tình thương của Ðức Phật lớn lao hơn cả tình thương của tất cả những người mẹ trên thế gian cộng lại. Người mẹ có khả năng tha thứ lớn lao vì việc nuôi dưỡng một đứa trẻ không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều đứa trẻ có tánh tình hung bạo đã làm tổn thương tình cảm và gây nên thương tích cho mẹ. Dầu cho có bị tổn thương đến đâu, mẹ vẫn có thể sẵn sàng tha thứ. Ðức tha thứ của Ðức Phật còn to lớn hơn nhiều. Ngài tha thứ cho tất cả chứ không riêng cho những người thân yêu của mình. Ðức tha thứ là một biểu hiện của lòng từ bi.
Kiếp nọ, Bồ tát sanh làm một con khỉ. Một hôm đang đi trong rừng, khỉ thấy một người bà la môn đang đau khổ tuyệt vọng dưới một cái hố sâu. Ðộng lòng trắc ẩn, Bồ Tát tiến đến gần hố để cứu. Nhưng Ngài phân vân không biết mình có đủ sức mạnh để đưa người đàn ông ra khỏi hố sâu không. Trí tuệ phát sanh, Bồ tát bèn thử khả năng của mình bằng cách nâng một tảng đá gần đó và đặt lại chỗ cũ. Sau khi nâng thử tảng đá, thấy mình đủ sức, Bồ tát bèn lần xuống hố cứu người bà la môn.
Ðưa được người bà la môn ra khỏi hố, Bồ tát mệt nhoài nằm dài dưới đất. Người bà la môn vô ơn, không nghĩ đến công lao của Bồ tát, bưng một tảng đá thật lớn đập vào đầu Ngài. Y muốn giết Bồ tát để lấy thịt. Bồ tát tỉnh dậy, thấy mình gần chết, Ngài hiểu biết mọi sự, nhưng vẫn không tức giận. Ðây là sự biểu hiện đức tính tha thứ của Ngài. Ngài nói với người bà la môn trong từ ái: "Ta đã cứu ngươi, nhưng ngươi lại giết ta? Ngươi thử nghĩ xem như vậy có nên không?".
Nói xong, Bồ tát đuối sức muốn tắt thở. Thế nhưng Bồ tát chẳng hề oán giận người bà la môn mà lại lo ngại cho y. Bồ tát tự nhủ: "Không biết mình chết đi, người bà la môn có thể tìm ra đường để thoát khỏi khu rừng rậm này không?". Với tình thương tràn đầy, Bồ tát cắn răng chịu đựng đau nhức, dồn hết sức tàn đưa người bà la môn ra khỏi khu rừng dày đặc.
Gió dường như ngừng thổi, cây rừng im lìm bất động, chim chóc ngưng tiếng hót. Bồ tát kiên trì nặng nề lê bước. Máu từ vết thương của Ngài rơi từng giọt trên đường. Vừa đến được lối mòn dẫn ra khỏi khu rừng, Bồ tát trút hơi thở cuối cùng. Ðất trời rung chuyển, thác nước đổ ầm ầm, mây mờ u ám tiếc thương.
Ngay khi là một con khỉ, tình thương của Bồ tát còn tràn đầy như vậy. Hãy tưởng tượng xem, cho đến lúc công hạnh viên mãn, trở thành một vị Phật tình thương của Ngài bao la đến đâu!
Hoàn Toàn Giác Ngộ
Trải qua vô số kiếp thực hiện lý tưởng Bồ tát, hoàn thành ba la mật, kiếp cuối cùng, Ngài là một vị thái tử sinh ra ở Trung Ấn Ðộ. Ngài đã chịu đựng nhiều thử thách trước khi khám phá ra con đường cao thượng. Nhờ con đường này, Ngài trực nhận sâu xa ba đặc tánh vô thường, khổ, và vô ngã của các hiện tượng giới. Nhờ thực hành thâm sâu, Ngài tuần tự vượt qua các tuệ giác, và cuối cùng giác ngộ quả vị A la hán hoàn toàn diệt trừ tham sân si, trở thành bậc Chánh Biến Tri, thông hiểu mọi sự. (Lúc Ðấng Chánh Biến Tri muốn thông hiểu điều gì, Ngài chỉ cần hướng tâm đến điều đó, thì tức thời câu trả lời sẽ hiện ra trong tâm Ngài).
Khi thành đạo, Ðức Phật được gọi là thành tựu quả. Sự thành tựu này là kết quả của sự hoàn thành những nguyên nhân và những điều kiện tiên khởi mà Ngài đã vun bồi từ nhiều kiếp trước.
Sau khi trở thành Phật, Ngài vẫn không quên lý tưởng mà Ngài đã quyết tâm theo đuổi và thực hiện qua nhiều a-tăng-kỳ kiếp, kể từ lúc Ngài còn là đạo sĩ Sumedha. Mục đích chính yếu của hành trình gian khó và lâu dài của Ngài là để giúp chúng sanh vượt qua biển khổ. Cho đến khi thành đạo, biết bao công hạnh, từ bi và trí tuệ đã được Ngài vun bồi. Dựa trên hai đặc tính quan trọng, từ bi và trí tuệ, Ðức Phật giảng giải giáo pháp suốt bốn mươi lăm năm cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn. Mỗi ngày, Ðức Phật chỉ nghỉ hai tiếng đồng hồ. Ngài dành thì giờ còn lại để phụng sự giáo pháp, giúp chúng sanh hưởng hạnh phúc an vui bằng nhiều cách. Trước giờ cuối cùng từ giã cuộc đời, Ngài còn độ cho một tu sĩ ngoại đạo là Subhadda giác ngộ giáo pháp cao thượng, trở thành một vị A la hán.
Công trình giáo hóa phục vụ của Ngài gọi là sự "thành tựu công đức phục vụ". Ðây là kết quả đương nhiên của thành tựu nhân và thành tựu quả. Tại sao lúc còn là đạo sĩ Sumedha, Bồ tát đã có đủ khả năng để giác ngộ và hoàn toàn thoát khỏi mọi phiền não, mà Ngài lại khước từ để tiếp tục luân lưu trên thế gian này, sống chung đụng với mọi người? Câu trả lời là: bởi vì tình thương rộng lớn nên Ngài muốn giúp chúng sanh thoát khổ bằng cách chỉ cho họ thấy chánh đạo. Ðây là tình thương rộng lớn nhất, trong sạch nhất, và là trí tuệ thâm sâu nhất.
Trí tuệ hoàn hảo giúp Ðức Phật phân biệt rõ ràng đâu là lợi ích, đâu là tai hại. Nếu không có sự phân biệt tối quan trọng này, làm thế nào Ngài có thể giúp đỡ những chúng sanh khác? Cần phải có trí tuệ để thấy rõ con đường đi đến an vui hạnh phúc, và con đường dẫn đến đau khổ lầm than. Nhưng phải có tình thương để khỏi dửng dưng trước số phận của chúng sanh, để tích cực đưa chúng sanh đi trên đường an vui hạnh phúc. Với lòng từ bi, Ðức Phật khuyên bảo, khích lệ chúng ta tránh xa những hành động làm tổn hại và gây đau khổ cho kẻ khác. Với trí tuệ, Ðức Phật biết lựa chọn những lời giáo huấn thích hợp, chính xác và đầy hiệu quả để hướng dẫn chúng ta. Sự hài hoà trí tuệ và tình thương đã khiến Ðức Phật đã trở thành một bậc đạo sư vô thượng. Ðức Phật không hề có tư tưởng vị kỷ mong muốn được ca tụng vinh danh, hay được tín đồ tâng bốc nịnh hót. Ngài hòa với mọi người nhưng không đồng với họ. Ngài đến với chúng sanh nhằm mục đích chỉ ra chính đạo để chúng sanh tận dụng khả năng của chính mình giải thoát mọi khổ đau. Ðó là tình thương cao cả của Ngài. Sau khi làm xong bổn phận, Ngài trở về tịnh cư trong rừng. Ngài không sống quần tụ, đùa cợt và không bị đồng hóa với đám đông như người thế. Ngài không tán tụng sự giàu có hay tri thức của thế tục. Ngài không bao giờ lấy làm hãnh diện có được những tín đồ giàu có hay học thức. Chẳng khi nào Ngài giới thiệu học trò mình với mọi người theo lối người thế tục: "Ðây là học trò tôi, một thương gia giàu có. Ðây là giáo sư nổi tiếng, v.v...". Rất khó để sống độc cư hay ẩn cư. Không một người bình thường nào có thể vui hưởng một đời sống cô tịch hoàn toàn ngoại trừ Ðức Phật. Bởi thế, Ngài là một người phi thường.
Vài Hàng Nhắn Nhủ Các Vị Hướng Dẫn Tinh Thần
Ðây là một điểm quan trọng cho những ai muốn trở thành một pháp sư hay một thiền sư. Cần phải thực hành một cách kín đáo, thận trọng đối với đệ tử của mình. Nếu có một sự liên hệ nào với họ, phải luôn luôn ghi nhớ rằng đây là một sự liên hệ trong tình thương lớn lao theo gương của Ðức Phật. Quá thân thiết với thiện tín là một điều nguy hiểm, một sự tai hại lớn lao. Nếu thiền sư quá thân mật với thiền sinh, dần dần thiền sinh sẽ coi thường và mất lòng kính trọng.
Thiền sư phải theo gương Ðức Phật để có thái độ thích hợp trong khi chia xẻ giáo pháp với người khác. Ðừng lấy làm tự mãn vì đã trở thành một người dạy đạo nổi tiếng và hiệu quả. Phải dạy đạo với lòng chân chính từ bi. Thiền sư phải cố gắng đem lại lợi ích cho thiền sinh qua cách trình bày kỹ thuật thực hành để điều phục thân, khẩu, ý hầu có được chân bình an hạnh phúc. Thiền sư phải liên tục xem xét mục đích của việc dạy đạo của mình để điều hướng hành động và tư tưởng mình đúng theo chánh đạo.
Một lần được hỏi: "Thế nào là phương cách dạy thiền có hiệu quả nhất?". Tôi đã trả lời: "Trước tiên và quan trọng hàng đầu là phải thực hành cho đến khi thiền của mình trở nên tinh luyện, xảo diệu. Thứ đến là phải học hỏi thâm sâu giáo pháp kinh điển. Cuối cùng là phải áp dụng hai khả năng trên một cách chân chánh từ bi để hướng dẫn người khác. Dạy đạo trên căn bản của ba yếu tố này chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả tốt".
Nhiều người có danh tiếng, được thành công một cách kỳ lạ nhờ ở "dịp may" hay nghiệp của họ. Họ không cần phải thành tựu nhân như Ðức Phật đã làm. Họ không cần phải cố gắng, nhưng họ vẫn được giàu có. Nhiều người cho là họ có vận hên. Những người này bị thiên hạ chỉ trích: "Tôi không hiểu vì sao ông ta, bà ta đạt được địa vị này, ông ta, bà ta làm biếng hết sức, lại thiếu học hành. Thật chẳng xứng đáng với sự may mắn này".
Một số khác làm việc chăm chỉ, hăng say, nhưng có lẽ họ chẳng có thông minh, hay chẳng có năng khiếu đặc biệt gì, nên nếu có đạt được mục đích, thì cũng đạt được một cách chậm trễ. Họ không thể thành tựu quả. Những người như thế cũng bị thiên hạ chỉ trích: "Ðúng là ông già đau khổ. Ông ta làm việc cật lực, nhưng cũng chẳng được gì, vì đầu óc ông trống rỗng, đần độn, v.v..". Cũng có một số người thông minh, tài trí có thừa nhưng không gặp thời vận, thất bại liên miên, cũng không được thiên hạ trọng nể. Lại có một số khác làm việc rất chăm chỉ và thành công nhưng không giúp đỡ kẻ khác họ cũng bị thiên hạ chỉ trích là ích kỷ, bỏn xẻn, không có lòng nhân từ, v.v...
Trên thế gian này không ai là không bị chỉ trích. Những lời chỉ trích đôi khi đúng và đôi khi sai. Người ta thường có thói xấu là hay nói sau lưng người khác. Một số phê bình chỉ trích chỉ là những lời đồn đãi nhảm nhí, một số nói đến sự thật nhưng chỉ nói đến những lầm lạc và khiếm khuyết của người khác.
Những người thành công bằng bất cứ lý do nào, nhờ may mắn hay tài trí, sau khi thành đạt ước mơ của mình, họ an hưởng sự giàu sang phú quý và chẳng chia xẻ gì cho người khác. Ðức Phật, trái lại, sau khi thành tựu viên mãn, Ngài bắt đầu phục vụ nhân loại, phục vụ chúng sanh, giúp họ thoát khỏi khổ đau đến nơi an vui hạnh phúc. Ðức Phật là người đặc biệt, Ngài thành tựu cả ba: nhân, quả và phục vụ. Người ta có thể viết một quyển sách nói lên những sự vĩ đại, sự hoàn hảo của Ðức Phật, người khám phá và bậc thầy của đạo giải thoát. ở đây tôi chỉ muốn mở một cánh cửa để các bạn chiêm nghiệm đức hạnh của Ngài hầu có thể khai triển tinh tấn trong việc hành thiền của các bạn. Chiêm nghiệm sự vĩ đại của Ðức Phật, bạn sẽ hết lòng kính mộ và quí mến Ngài. Bạn sẽ cảm thấy rất sung sướng hân hoan có cơ hội kỳ diệu để đi trên con đường mà đấng cao thượng đã khám phá và dạy dỗ. Dĩ nhiên bạn hiểu rõ rằng, để đi trên một con đường như thế này, bạn không được nhu nhược, đần độn hay biếng nhác.
Cầu mong các bạn đầy hứng khởi, đầy can đảm, mạnh mẽ và kiên trì, và mong các bạn tiếp tục đi trên con đường này cho đến đích cuối cùng.
7. Suy Nghĩ Ðến Sự Vĩ Ðại Của Giòng Dõi Chúng Ta
Chúng ta hành thiền theo kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana sutta), bởi vậy chúng ta được coi như là người thuộc dòng dõi cao thượng của Ðức Phật. Bạn có thể tự hào gọi mình là con trai hay con gái của Ðức Phật.
Khi hành Thiền Minh Sát là bạn đã được tiếp huyết pháp bảo. Dù bạn có sanh sau thời kỳ Ðức Phật bao lâu đi nữa, dù bạn có thuộc chủng tộc, tín ngưỡng, hay phong tục nào đi nữa, nếu thực hành giới, định, huệ, thì bạn là những thành viên của gia đình pháp bảo. Giáo pháp là máu huyết của chúng ta. Chúng ta có chung dòng máu với những kẻ cao thượng đã được đào luyện cùng một phương cách vào thời kỳ Ðức Phật. Chúng ta hãy tinh tấn thực hành, biết vâng lời và tôn kính, sống theo lý tưởng cao cả và vĩ đại của dòng dõi này.
Anh chị của chúng ta trong thời kỳ Phật còn tại thế là những người có sự chăm chỉ và can đảm lớn lao. Họ không bao giờ thối bước hay đầu hàng. Họ luôn luôn cố gắng cho đến khi hoàn toàn thoát khỏi mọi đau khổ. Vì chúng ta là con cháu của giòng dõi vĩ đại cao quí này, nên chúng ta phải luôn luôn tận lực cố gắng hoàn thành lý tưởng, không chùn bước hay đầu hàng.
8. Suy Tưởng Ðến Sự Cao Quí Của Bạn Ðạo
Ðiều thứ tám làm gia tăng tinh tấn là sự suy tưởng đến sự cao quí của những người bạn đạo của chúng ta. Tiếng Pali gọi những pháp hữu cao quí này là brahmacariya, có nghĩa là những người sống một đời sống thánh thiện.
Ðầu tiên, những người bạn đạo cao quí này là các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni. Tỳ kheo ni đoàn của Phật Giáo Nguyên Thủy nay đã mất. Có thể nói vào thời đại của chúng ta chỉ có tỳ kheo và sa di thực hành theo giới luật của Ðức Phật. Còn thiện nam tín nữ, tu nữ (silashin), dù giữ ít giới luật hơn, nhưng sống đời sống thánh thiện.
Dầu tại gia hay xuất gia, mọi thiền sinh đều thực hành giới, định, huệ. Là một thiền sinh, bạn giữ giới hạnh của những vị học trò của Ðức Phật lúc Ngài còn tại tiền, đó là các Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất), Ngài Moggallana (Mục Kiền Liên), hai vị thượng thủ thinh văn của Phật, cũng như Ngài Ca Diếp. Về phía tỳ khưu ni, có trưởng lão ni Gotami và môn đệ, cùng rất nhiều vị tỳ kheo ni cao quí và dũng cảm, kiên trì để thành tựu giáo pháp. Tất cả những người cao quí ấy là bạn của chúng ta trong đời sống thánh thiện. Chúng ta có thể đọc tiểu sử của những vị này để chiêm nghiệm đức thanh cao, tính can đảm và lòng nhiệt thành của các ngài.
Khi suy tưởng đến điều này, chúng ta có thể tự hỏi: "Liệu chúng ta có thể sống một đời sống lý tưởng và tiêu chuẩn thanh cao như các ngài không?" Chúng ta cũng có thể lấy làm hãnh diện và đầy hứng khởi để nghĩ rằng chúng ta đang có được sự hỗ trợ của tất cả các bằng hữu cao thượng trên trong khi nỗ lực tinh tấn hằng ngày.
Câu Chuyện Về Trưởng Lão Ni Sona: Không Muốn, Không Yêu Thương
Trưởng lão ni Sona trước khi xuất gia là một người mẹ của mười đứa con. Chúng lớn lên, dần dần thành lập gia đình và ở riêng. Khi đứa con cuối cùng thành gia thất, chồng bà quyết định xuất gia tu hành. Một thời gian sau, Sona gom góp tất cả tài sản chia cho các con và bảo chúng tuần tự nuôi dưỡng mình.
Lúc đầu bà rất hạnh phúc. Bà lần lượt đến thăm hết đứa này đến đứa khác. Lúc ấy bà cũng đã già rồi. Nhưng dần dần về sau, các con của bà cảm thấy mệt mỏi khi bà đến ở với họ, vì họ phải bận rộn với gia đình của chính họ. Các con dâu và con rể thường than vãn, tỏ vẻ khó chịu và miễn cưỡng mỗi khi bà đến thăm.
Thấy mình bị hất hủi, bị đối xử thiếu tình thương, bà đâm ra buồn nản và nhận ra rằng mình đang có một đời sống không thoải mái thanh cao chút nào. Có lúc bà nghĩ đến cái chết, nhưng bà thấy đây là giải pháp không thỏa đáng. Thế là bà quyết định đến chùa xin xuất gia.
Sau khi xuất gia, bà không thể đi khất thực hay làm các công việc khác trong chùa vì quá già. Hằng ngày bà chỉ giữ nhiệm vụ nấu nước cho các ni sư. Dầu đã già yếu, nhưng Sona rất thông minh. Nghĩ đến hoàn cảnh của mình, bà tự nhủ: "Ta chẳng còn sống được bao lâu nữa. Ta phải lợi dụng cơ hội này để tích cực hành thiền, không để mất một giây phút nào".
Vì quá già yếu nên lúc kinh hành, ni sư Sona phải vịn vào tường, đi vòng quanh chùa. Lúc kinh hành trong rừng, Sona chọn nơi có cây mọc gần nhau rồi từ từ đi từ cây này sang cây khác. Nhờ chuyên cần tinh tấn với tâm quyết định dũng mãnh, chẳng bao lâu ni sư Sona đắc quả A la hán.
Chúng ta có thể thấy rằng sự vô ơn của đám con bà Sona là cơ duyên tốt để bà Sona giác ngộ. Sau khi thành đạo, ni sư Sona thường nói: "Hãy nhìn trong thế gian. Con người bị dính mắc vào đời sống gia đình và muốn hưởng hạnh phúc thế tục. Nhưng vì bị con cái hất hủi, nên ta đã từ bỏ gia đình, sống đời sống không nhà. Nhờ thế mà bây giờ ta đã đạt được chân lý giải thoát".
Vào thời ni sư Sona, rất dễ vào chùa để xin xuất gia và trở thành một ni sư. Ngày nay, phái nữ không có cơ hội để xuất gia thành một tỳ khưu ni vì ni đoàn đã mất, nhưng đừng lấy thế làm thất vọng. Nếu một phụ nữ muốn từ bỏ đời sống thế tục vẫn có thể vào chùa xin tu.
Mặc dầu một cách tinh xác theo giới luật, thì phụ nữ ngày nay không thể thành tỳ khưu ni, nhưng theo kinh tạng, thì phụ nữ hiện nay vẫn có thể trở thành tỳ khưu hay tỳ khưu ni theo lời dạy của Ðức Phật. Vì theo kinh tạng, điều kiện đòi hỏi để một người trở thành tỳ khưu, tỳ khưu ni, là phải thực tâm thanh lọc tâm ý đúng theo bát chánh đạo. Như vậy, phụ nữ không bị mất đặc quyền trở thành một tỳ khưu ni trong thời đại này mà họ có thể trở thành một tỳ khưu nữa.
9. Tránh Xa Người Biếng Nhác
Cách thứ chín làm phát sanh tinh tấn là tránh xa người biếng nhác. Có những người không thích mở mang tâm trí. Họ chẳng muốn tự thanh lọc tâm mình. Họ chỉ muốn ăn, ngủ và vui chơi theo ý họ. Họ chẳng khác nào con trăn sau khi nuốt mồi nằm bất động hằng giờ. Làm sao bạn có hứng khởi đẩy mạnh tinh tấn khi thân cận với những hạng người này? Bạn cần phải tránh xa việc nhập bọn với những kẻ biếng nhác chảy thây này. Có tránh xa hạng người này thì bạn mới có thể bước được một bước tích cực để triển khai hạnh tinh tấn.
10. Làm Bạn Với Người Siêng Năng Tinh Tấn
Bây giờ, bạn hãy bước thêm một bước nữa để thân cận với các thiền sinh tinh tấn kiên trì trong việc đào luyện tinh thần qua việc nỗ lực hành thiền. Ðây là cách thứ mười để làm phát sanh tinh tấn.
Người bạn siêng năng tinh tấn ở đây đặc biệt được đề cập đến là những thiền sinh trong khóa thiền, nhưng thực ra, bạn có thể thân cận với những người có nhiệt tâm với giáo pháp, kiên nhẫn, chịu đựng và quyết tâm tinh cần chánh niệm từng giây phút một và kiên trì tinh tấn ở mức độ cao. Một người để hết tâm trí vào việc phát triển tinh thần, chú trọng đến sức khỏe của tâm, là người bạn tốt nhất của thiền sinh.
Trong khóa thiền, bạn có thể noi theo gương của những thiền sinh gương mẫu. Bạn có thể nhìn cung cách và việc thực hành của họ mà cố bắt chước theo cho bằng hay vượt hơn họ. Ðiều này sẽ giúp bạn phát triển chính mình. Bạn sẽ tập nhiễm theo thói quen tinh cần của họ. Hãy theo gương các người siêng năng tinh tấn để tạo sự siêng năng tinh tấn cho chính mình.
11. Kiên Trì Hướng Tâm Vào Việc Phát Triển Ðức Tinh Tấn
Cách cuối cùng và tốt nhất để làm phát sanh tinh tấn là kiên trì hướng tâm vào việc phát triển đức tinh tấn. Chìa khoá của việc thực hành này là phải đề ra một quyết tâm. "Tôi sẽ cố gắng chánh niệm trong từng giây từng phút. Tôi không để tâm phiêu bồng trượt khỏi đề mục trong khi ngồi, đứng, đi, di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Tôi không để một phút giây chánh niệm nào bị vất bỏ". Nếu bạn không tinh cần mà lại bất cẩn, thiếu thận trọng, hoặc có tinh thần chủ bại, thì việc hành thiền của bạn sẽ bị tan rã ngay từ phút đầu.
Mỗi phút giây phải được vun bồi bằng sự dũng cảm tinh tấn này. Phải có nỗ lực tinh cần bền bỉ. Mỗi khi lười biếng lẻn vào, dù chỉ trong phút giây, bạn phải chụp lấy ngay và đẩy ra ngoài. "Kosajja", hay lười biếng, là một trong những yếu tố phá hoại lớn lao nhất trong việc hành thiền. Bạn có thể loại trừ nó bằng đức tinh tấn bao gồm can đảm, bền chí, kiên nhẫn, chịu đựng.
Hy vọng tinh tấn sẽ phát sinh trong bạn qua mỗi một hay toàn thể mười một cách trên, để bạn có thể tiến nhanh trên đạo giải thoát và cuối cùng nhổ tận gốc rễ mọi phiền não trói buộc.
Xem tiếp [Phần B] Trích: "Ngay Trong Kiếp Sống Nầy", Thiền sư U Pandita, Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch, Như Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ, 1996.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:27:24 GMT -5
Bảy Pháp Trợ Bồ Ðề (B)
-ooOoo-
(Tiếp theo Phần A)
Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Tư: Hỉ
Piti, hay hỉ, có đặc tính vui vẻ thích thú và thỏa mãn. Ngoài đặc tính trên, tâm sở hỉ có thể thâm nhập vào các tâm sở phối hợp khác và làm cho chúng nhẹ nhàng, vui thích và thỏa mãn.
Nhẹ Nhàng Và Linh Hoạt
Hỉ làm thân tâm nhẹ nhàng và tràn đầy linh hoạt. Theo sự phân tích cổ điển, thì hỉ có công năng sau đây: "Tâm trở nên nhẹ nhàng, đầy năng lực, thân cũng cảm thấy linh hoạt, nhẹ nhàng và năng động. Trên thực tế, sự biểu hiện của hỉ là cảm giác nhẹ nhàng trong thân. Hỉ biểu hiện rõ ràng nhất qua những cảm giác nhẹ nhàng của cơ thể".
Lúc hỉ xuất hiện thì những cảm giác thô tháo, khó chịu, không êm ái được thay thế bằng những cảm giác mềm dịu, nhẹ nhàng, êm ái, lắng dịu. Thân thể bạn có thể có cảm giác nhẹ nhàng như đang trôi trên mây. Vào lúc đó, sự nhẹ nhàng có tính năng động hơn là tĩnh lặng. Bạn cảm thấy như mình đang bị đẩy tới hay kéo lui, lắc lư, đu đưa như đang lướt trên sóng dồi. Bạn có thể có cảm giác mất thăng bằng nhưng rất sảng khoái.
Năm loại hỉ
- Khinh hỉ: Lúc bắt đầu hành thiền, sau khi các chướng ngại bị tạm thời khắc chế trong một thời gian, thiền sinh cảm thấy lành lạnh, rờn rợn, đê mê, đôi khi nổi da gà. Ðó là giai đoạn đầu tiên của cảm giác hỉ lạc, gọi là khinh hỉ, hay tiểu hỉ.
- Sát na hỉ: Hỉ đến một cách chớp nhoáng như tia chớp. Sát na hỉ có cường độ mạnh hơn loại hỉ đầu tiên.
- Hải triều hỉ: Thiền sinh cảm thấy như mình đang ngồi trên bờ biển, thình lình sóng lớn dâng lên cuốn hút họ. Thiền sinh có hỉ lạc này cảm thấy như mình bị cuốn trôi khỏi mặt đất, tim đập thình thịch, cả thân và tâm bị tràn ngập. Lúc ấy, thiền sinh phân vân không biết chuyện gì xảy ra.
- Thượng thăng hỉ: Thiền sinh cảm thấy thân hình nhẹ nhõm như đang ngồi cách mặt đất vài thước. Thấy mình dường như đang trôi hay đang bay, chứ không phải đang đi trên mặt đất nữa.
- Sung mãn hỉ: Ðây là loại hỉ mạnh nhất, thấm nhuần toàn thân như nước tràn bờ. Thiền sinh cảm thấy một sự thoải mái kỳ diệu và chẳng muốn đứng dậy. Thật là thích thú khi tiếp tục ngồi bất động như thế.
Ba loại hỉ đầu tiên được gọi là "thiểu" hỉ (pamojja), hay là hỉ lạc yếu ớt. Hai loại hỉ sau cùng là hỉ (piti), hay hỉ lạc mạnh mẽ. Ba loại hỉ đầu là nhân, hay là sự kích động cho hai loại hỉ sau.
Chú Tâm Sáng Suốt Làm Phát Sanh Hỉ
Cũng như đối với tinh tấn, chú tâm sáng suốt làm cho phát sanh tinh tấn. Ðức Phật dạy chú tâm sáng suốt cũng là nguyên nhân phát sanh hỉ, đặc biệt là chú tâm sáng suốt đến ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng khiến hỉ lạc phát sinh, và do hỉ lạc này, tinh tấn lại tăng triển.
Mười Một Cách Làm Phát Sanh Hỉ
Theo chú giải có mười một cách làm phát sanh hỉ:
1. Nhớ Ðến Ðức Hạnh của Phật
Cách đầu tiên là niệm Phật, suy tưởng đến đức hạnh của Ðức Phật. Ngài có rất nhiều đức hạnh nhưng bạn không cần phải suy tưởng đến tất cả mọi đức hạnh của Ngài vì đức hạnh của Ngài bao la vô cùng vô tận. Theo truyền thống, chúng ta chỉ niệm tưởng đến một số đức hạnh của Ngài mà thôi, chẳng hạn niệm tưởng đến danh hiệu Araha hay A la hán. Ân đức này có nghĩa là Ðức Phật xứng đáng được tất cả nhân loại, chư thiên và phạm thiên tôn trọng, cúng dường, bởi vì Ngài đã hoàn toàn trong sạch, diệt tận các loại phiền não. Khi nghĩ đến những đức tính trong sạch của Ðức Thế Tôn sẽ làm cho hỉ phát sanh. Bạn có thể niệm đến ba ân đức của Ðức Phật, đó là ba sự thành tựu: thành tựu nhân, thành tựu quả và thành tựu phục vụ (Xem phần Dũng Cảm Tinh Tấn).
Nhưng suy tưởng đến đức hạnh của Ðức Phật, cũng như đọc tụng ân đức Phật không phải là cách duy nhất để niệm tưởng đến những đức tính vĩ đại cao cả của Ngài. Thật vậy, đạt đến tuệ giác nội quán còn giá trị hơn nhiều. Khi thiền sinh đạt được tuệ giác thấy rõ sự sanh diệt thì tâm hỉ sẽ tự nhiên phát sinh cũng như lúc suy tưởng đến đức hạnh của Ðức Phật. Ðức Phật dạy: "Người nào thấy Pháp bảo là thấy Như Lai". Một số thiền sinh đạt tuệ giác sẽ thật sự cảm nhận được sự cao cả của Ðức Thế Tôn, vị sáng tổ của giòng dõi chúng ta. Bạn có thể tự nhủ: "Ta mà còn có thể kinh nghiệm được một tâm thanh tịnh như thế này, huống hồ Ðức Phật, sự thanh tịnh của Ngài còn vĩ đại, cao thượng biết bao".
2. Suy Tưởng Ðến Ân Ðức của Pháp Bảo
Theo truyền thống, ân đức đầu tiên của Pháp Bảo được tán thán trong câu: "Pháp Bảo đã được Ðức Thế Tôn khéo nói". Thật vậy, Pháp Bảo đã được Ðức Thế Tôn khéo tuyên bố. Ðức Phật đã dạy giáo pháp một cách có hiệu quả nhất, và những vị thầy hiện nay của bạn đã được truyền thừa. Ðây đúng là nguyên nhân để bạn hoan hỉ.
Ðức Phật giảng dạy rất nhiều về sự thực hành giới, định, huệ. Muốn thực hành, trước tiên bạn phải thanh tịnh giới bằng cách giữ gìn giới luật. Chúng ta phải cố gắng phát triển trọn vẹn giới luật ở mức độ cao bằng cách chế ngự thân khẩu. Ðiều này đem lại cho ta nhiều lợi ích. Trước tiên ta tránh khỏi việc tự phán đoán mình, tự khiển trách và hối hận. Chúng ta không bị các bậc thiện trí thức chê trách và không bị luật pháp trừng trị.
Tiếp đến, muốn thực hành lời dạy của Ðức Phật, ta phải phát triển định tâm. Nếu bạn có đức tin, trì chí và kiên nhẫn trong thực hành, thì tâm bạn sẽ an lạc hạnh phúc, rõ ràng, sáng suốt và tĩnh lặng. Ðó là samatha sukha, hạnh phúc đến từ tâm thanh tịnh và tập trung. Kết quả là bạn có thể phát triển định tâm để đạt được các tầng định, một trạng thái tâm trong đó các phiền não tạm thời bị chế ngự, và kết quả là bạn đạt được sự bình an tĩnh lặng khác thường.
Tiếp theo là thực hành huệ. Hành thiền minh sát, chúng ta sẽ có cơ hội kinh nghiệm loại hạnh phúc thứ ba là huệ. Khi bạn quán thấu sâu xa giáo pháp, đạt được tuệ giác thấy rõ sự sinh diệt của các hiện tượng, bạn sẽ cảm thấy một sự hỉ mãn tuyệt diệu. An lạc hạnh phúc này có thể được gọi là an lạc hạnh phúc phấn khích. Sau đó, hạnh phúc trong sáng sẽ đến, và cuối cùng, khi bạn đạt được tuệ xả, lúc bấy giờ, tâm của bạn sẽ an lạc, quân bình đối với tất cả mọi hiện tượng, và bạn sẽ có được hạnh phúc xả thọ. Ðó là một sự an lạc sâu xa, không còn là hạnh phúc với sự phấn khích mà một loại an lạc hạnh phúc êm dịu và quân bình.
Như vậy, đúng theo những lời hứa hẹn và bảo đảm của Ðức Phật, những ai theo đuổi con đường thực hành sẽ kinh nghiệm được tất cả các loại hạnh phúc này. Nếu tận tâm thực hành, bạn sẽ cảm kích sâu xa chân lý pháp bảo. Lúc bấy giờ bạn sẽ tự nói: "Tốt đẹp thay giáo pháp do Ðức Phật giảng dạy! Tốt đẹp thay giáo pháp do Ðức Phật tuyên bố!".
Cuối cùng, siêu việt hơn nữa, hơn hẳn các loại hạnh phúc này, là hạnh phúc của sự đình chỉ. Sau khi vượt qua hạnh phúc xả thọ, thiền sinh sẽ kinh nghiệm một khoảnh khắc trí tuệ xuyên thấu Niết Bàn. Trí tuệ này đến ngay vào lúc đạt được thánh đạo tâm. Sau đó, thiền sinh sẽ cảm kích sâu xa giáo pháp của Ðức Phật. Cảm giác này họ chưa bao giờ biết đến trước đây. Ðức Phật luôn luôn nhắc nhở: "Nếu các con hành thiền theo lối này, các con sẽ đạt đến chỗ chấm dứt khổ đau ". Ðây là sự thật. Nhiều người đã đạt được mục đích này, và cuối cùng đến lượt bạn. Bạn cũng sẽ hân hoan trút bỏ gánh nặng với niềm an lạc hạnh phúc và tràn đầy lòng biết ơn.
Khả Năng Vĩ Ðại Do Sự Thực Hành Ðem Lại
Như vậy, có ba cách để thưởng thức và ý thức rõ ràng giáo pháp đã được Ðức Phật tuyên thuyết một cách tốt đẹp, khéo léo. Trước tiên, nếu bạn suy tư một cách sâu xa đến những khả năng lớn lao nằm trong sự thực hành, tâm bạn sẽ tràn đầy những lời ca tụng tán dương giáo pháp và những hạnh phúc an lạc do giáo pháp mang lại. Vì có sẵn đức tin sâu xa, nên mỗi khi nghe một bài giảng hay đọc giáo pháp, tâm bạn tràn đầy hỉ lạc và hạnh phúc. Ðây là một trong ba cách thưởng thức giáo pháp.
Thứ hai, nếu bạn đi vào thực hành, những điều hứa hẹn và bảo đảm của Ðức Phật chắc chắn sẽ trở thành sự thực. Giới và định sẽ cải thiện cuộc đời của bạn. Sự thực hành sẽ giúp cho bạn hiểu thâm sâu rằng giáo pháp đã được tuyên bố một cách tốt đẹp vì giáo pháp sẽ giúp bạn có một tâm hồn trong sáng và một hạnh phúc êm đềm sâu xa.
Thứ ba là qua việc thực hành bạn sẽ thấy được sự vĩ đại của giáo pháp, và cuối cùng bạn sẽ có hạnh phúc Niết Bàn. Lúc bấy giờ, một chuyển biến thâm sâu sẽ xảy ra trong đời bạn giống như bạn đã tái sinh. Bạn có thể tưởng tượng ra niềm hỉ lạc vô biên mà bạn đã đạt được vào lúc này.
3. Nhớ Ðến Ân Ðức Tăng
Tăng là một nhóm người sống cao quí trong giáo pháp của Ðức Phật. Tận tâm, cố gắng và kiên nhẫn, họ thực hành đúng theo chánh đạo và đạt đến thánh quả từ thấp đến cao. Nhiều vị, dầu chưa đạt được thánh quả nhưng đang nỗ lực hành trì để giải thoát. Nếu trong lúc hành thiền, bạn đạt được thân tâm an tịnh, và bạn có cảm giác an lạc hạnh phúc, bạn có thể hình dung được cảm giác của người khác cũng như vậy, và có lẽ mức định tâm thanh tịnh của họ còn cao hơn và vượt xa hơn những gì mà bạn đã chứng nghiệm.
Nếu bạn đã đạt được một số tầng mức giác ngộ, bạn sẽ tin tưởng vững chắc vào những vị thánh khác trong hiện tại. Họ đang đi trên cùng một con đường như bạn. Những vị đó chắc chắn là thanh tịnh, trong sạch, khó ai bì kịp.
4. Quán Xét Sự Trong Sạch Thanh Tịnh của Giới Luật Chính Mình
Giới luật thanh cao là một loại đức hạnh có năng lực mạnh mẽ trong việc đem lại cho bạn một cảm giác thoả mãn và an vui lớn lao. Cần phải có kiên trì dũng cảm để duy trì sự thanh tịnh trong sạch này. Khi bạn ôn lại sự thanh tịnh trong sạch do nỗ lực của chính mình đạt được, bạn sẽ cảm thấy một niềm an lạc vô biên tràn ngập trong tâm hồn. Nếu bạn không thể duy trì giới luật trong sạch thanh tịnh, bạn sẽ bị ăn năn, hối hận dày vò, không thể nào tập trung tâm ý vào những gì bạn đang làm, và do đó, việc hành thiền của bạn sẽ không tiến bộ.
Giới hạnh là nền tảng của định tâm và trí tuệ. Nhiều người đã giải thoát nhờ hướng tâm chánh niệm vào sự hỉ lạc do giới luật thanh tịnh đem lại. Nghĩa là khi quán sát sự thanh tịnh trong sạch của giới hạnh mà chính mình đã tạo được, thiền sinh phát sanh tâm hỉ lạc mạnh mẽ, hướng tâm chánh niệm vào sự hoan hỉ sung mãn này, thiền sinh giác ngộ đạo quả. Sự quán xét này có hiệu năng đặc biệt trong trường hợp cần thiết.
Câu Chuyện Tissa: Hỉ Lạc Trong Trường Hợp Cần Thiết
Tissa là một thanh niên trẻ trung giàu có. Sau khi nghe Ðức Phật thuyết pháp, Tissa cảm thấy phải khẩn cấp xuất gia tu hành vì cuộc đời đầy vô thường biến đổi. Là một thanh niên đầy cao vọng, nhưng Tissa hiểu rõ sâu xa sự trống rỗng của cuộc đời nên hướng cao vọng của mình vào mục tiêu cao cả là trở thành một vị A la hán.
Khi xuất gia, Tissa cho em mình là Culatissa một phần lớn tài sản. Với số tài sản nhận được từ anh, Culatissa trở nên giàu có. Bất hạnh thay, vợ của Culatissa thấy tiền chóa mắt nên trở nên tham lam quá độ. Sợ rằng thầy tỳ khưu Tissa sẽ đổi ý hoàn tục và đòi lại tài sản đã cho nên vợ của Culatissa nghĩ cách để bảo vệ số của cải mình vừa nhận được. Cuối cùng, cô ta thuê người giết thầy tỳ khưu Tissa vì nghĩ rằng đây là biện pháp duy nhất để bảo toàn tài sản của mình.
Bọn cướp được hứa một món tiền thưởng rất lớn nên vào rừng tìm thầy tỳ khưu Tissa. Lúc thấy tỳ khưu Tissa đang hành thiền, bọn cướp bao vây lại để giết thầy. Thầy tỳ khưu Tissa nói: "Xin đợi một lát, tôi chưa xong việc". Bọn cướp trả lời: "Làm sao có thể đợi được? Ðây là việc chúng tôi phải làm ngay". Thầy Tissa nói: "Xin các bạn vui lòng đợi chừng một hai đêm rồi lại đây giết tôi". Bọn cướp không chịu: "Làm sao tôi tin được ông? Lấy gì bảo đảm là ông sẽ không bỏ trốn?" Ngoài ba mảnh y và chiếc bát thầy tỳ khưu Tissa chẳng có gì khác để làm bảo đảm cho bọn cướp. Thầy bèn nâng một tảng đá lớn nện mạnh vào hai chân. Thấy quyết tâm của thầy như vậy, chúng đều kinh hoàng. Bây giờ, thầy đã gãy hai chân, không thể nào trốn thoát nên chúng cũng thương tình để cho thầy cố gắng vài hôm. Bọn cướp yên lặng rút lui để lại thầy tỳ khưu Tissa với đôi chân đau đớn.
Bạn hãy tưởng tượng xem, sự quyết tâm đoạn diệt phiền não của thầy tỳ khưu Tissa mạnh mẽ đến chừng nào? Thầy không sợ đau, không sợ chết, nhưng thầy sợ phiền não vẫn còn ngự trị, ngự trị mạnh mẽ trong tâm thầy. Thầy còn mạng sống nhưng chưa hoàn thành được công việc của mình. Thầy sợ phải chết trước khi nhổ được gốc rễ của phiền não.
Xuất gia từ lúc còn trai trẻ khỏe mạnh với đức tin sâu xa, tinh tấn và chánh niệm mạnh mẽ, thầy Tissa có đủ sức dũng cảm để đối diện với cơn đau nhức kinh hồn của đôi chân bị gãy dập. Thầy đã quán sát cơn đau một cách kiên trì dũng cảm không chút thối chuyển. Trong khi quán sát, thầy đã suy tư đến giới hạnh của mình. Thầy tự hỏi từ lúc thầy xuất gia đến nay, thầy đã phạm một giới nào không? Thầy rất vui mừng khi thấy rằng thầy đã giữ giới luật một cách hoàn toàn trong sạch, không hề phạm một giới dầu cho nhỏ nhặt đến đâu đi nữa. Thầy cảm thấy một sự hỉ lạc vô biên tràn ngập cả thân thể và tâm hồn.
Chỗ đau nhức của đôi chân gãy giảm dần, và sự hỉ lạc vô biên trở thành đề mục rõ ràng nhất trong tâm thầy. Thầy hướng tâm chánh niệm vào sự hỉ lạc này và ghi nhận sự hỉ lạc, hạnh phúc và niềm vui. Nhờ ghi nhận đúng đắn như vậy, trí tuệ nội quán chín mùi mau lẹ. Chẳng bao lâu, thầy thấy rõ Tứ Diệu Ðế và trở thành một vị A la hán.
Câu chuyện trên đây là để nhắc nhở thiền sinh phải tạo cho mình một căn bản tốt đẹp về giới. Không có giới luật, ngồi thiền chẳng khác gì mời đau nhức đến. Hãy tạo nền móng trước. Nếu giới luật của bạn mạnh mẽ, nỗ lực hành thiền của bạn sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp.
5. Nhớ Ðến Việc Bố Thí, Giúp Ðỡ Mà Mình Ðã Làm
Nếu chúng ta có thể bố thí hay giúp đỡ người khác với tâm trong sạch, không mưu đồ, bố thí vì sự an lạc và hạnh phúc của kẻ khác, muốn cho họ thoát khỏi đau khổ thì việc làm này sẽ đem lại đầy đủ phước báu. Không những thế, việc bố thí còn làm cho tâm bạn hân hoan, vui vẻ và hạnh phúc.
Ðộng cơ hay lý do thúc đẩy bạn bố thí là điều chủ yếu quyết định việc bố thí có đem lại lợi ích hay không. Hành vi bố thí tốt đẹp không được phát xuất từ lòng ích kỷ ẩn dấu bên trong.
Bố Thí Khi Hiếm Hoi
Bố thí không hẳn phải là bằng tiền. Hành vi bố thí nhiều khi chỉ đơn giản là một lời khuyến khích an ủi người khác khi cần. Trong khi hiếm hoi mà bố thí được mới là điều quan trọng. Dám chia xẻ những gì mình có rất ít cho người khác mới là điều đáng tán dương. "Miếng khi đói, gói khi no. Của tuy tơ tóc, nghĩa so ngàn trùng". Lúc đói kém hiếm hoi thực phẩm mà chia xẻ cho nhau mới là điều đáng quí và khó làm.
Sau đây là câu chuyện bố thí của một nhà vua ở Tích Lan thời xưa. Một hôm từ chiến trận trở về, chỉ còn một ít thức ăn dự trữ, vua gặp một nhà sư đang khất thực trong rừng. Hình như nhà sư là một vị A la hán. Vua dâng một phần lương thực dự trữ hiếm hoi này cho nhà sư. Về sau, khi nhớ lại những việc bố thí mà mình đã làm trước đây, phần lớn đều tràn đầy và quí giá, nhưng việc bố thí mà vua thích thú và hoan hỉ nhất là cúng dường thực phẩm cho vị sư vào lúc chính nhà vua chỉ còn một chút ít thức ăn.
Một câu chuyện khác xảy ra tại thiền viện Mahasi ở Rangoon, Miến Ðiện. Những năm trước đây, khi thiền viện đang ở thời kỳ xây dựng, một số thiền sinh không đủ sức để trả tiền ăn, nhưng việc hành thiền của họ tiến triển tốt đẹp. Thật đáng thương khi họ phải rời thiền viện vì không đủ tài chánh để đóng tiền ăn. Các thiền sư lúc ấy phải cùng nhau hỗ trợ cho các thiền sinh có năng lực mạnh mẽ này. Nhận được sự hỗ trợ của chư Tăng, các thiền sinh trên đã nỗ lực tinh tấn hành thiền và đạt được kết quả tốt đẹp. Các thiền sư rất hoan hỉ vì việc giúp đỡ của mình đã đem lại thành quả lớn lao.
6. Nghĩ Ðến Ðức Hạnh của Chư Thiên và Phạm Thiên
Cách thứ sáu giúp phát sanh hỉ lạc là nghĩ đến đức hạnh của chư thiên và phạm thiên, là những vị trời ở cảnh giới cao hơn chúng ta. Lúc các vị này còn ở cõi người, họ có sự tin tưởng mạnh mẽ vào nghiệp báo. Họ tin rằng hành động thiện sẽ đem lại kết quả tốt đẹp và hành động ác sẽ nhận chịu quả khổ đau. Nhờ tin tưởng nhân quả nghiệp báo, các vị này đã nỗ lực làm lành lánh dữ. Một số lại hành thiền để thanh lọc tâm. Do những hành động thiện này, họ đã tái sinh vào các cõi cao hơn. ở đó, đời sống an lạc hạnh phúc hơn đời sống của con người. Những vị đã đạt được các tầng thiền sẽ được tái sanh vào cõi phạm thiên có đời sống rất dài.
Như vậy, khi suy tưởng đến đức hạnh của chư thiên và phạm thiên, chúng ta chú trọng đến đức tin, sự bố thí, sự tham thiền và lòng kiên trì tinh tấn mà các vị đã hành trì trong lúc còn ở cõi người. Thật dễ dàng khi so sánh chúng ta với các vị đó, vì các vị đó trước đây cũng là người như chúng ta. Nếu thấy các đức tính và sự hành trì của mình không khác gì các vị chư thiên và phạm thiên thì tâm chúng ta sẽ tràn đầy hỉ lạc.
7. Niệm Tưởng Ðến Sự An Lạc Tĩnh Lặng Hoàn Hảo
Theo nghĩa tuyệt đối thì đây là niệm tưởng Niết Bàn. Nếu bạn đã kinh nghiệm sự an lạc tĩnh lặng sâu xa của Niết Bàn thì bạn hãy niệm đến sự an lạc tĩnh lặng này để hỉ lạc phát sanh. Nếu chính bạn chưa kinh nghiệm Niết Bàn, bạn có thể niệm tưởng đến sự mát mẻ yên tịnh của sự định tâm hay của các tầng thiền. Niềm an lạc của sự tập trung tâm ý thâm sâu cao vượt hẳn mọi lạc thú tầm thường của thế gian. Nhiều người có năng lực thiền định cao, sau khi ra khỏi các tầng thiền, trong lúc bình thường, tâm họ vẫn an tịnh tĩnh lặng không bị phiền não chi phối. Cả sáu, bảy chục năm, tâm họ vẫn ở trong trạng thái an lạc, tĩnh lặng. Nghĩ đến sự mát mẻ trong sáng này, hỉ lạc sẽ phát sinh nơi bạn.
Nếu bạn chưa đạt được kinh nghiệm các tầng thiền, hãy nhớ lại những lúc đang hành thiền mà tâm bạn rơi vào trạng thái an tịnh tĩnh lặng, trong sạch sáng suốt, lúc ấy, phiền não đã được đẩy sang một bên, tâm bạn tràn đầy an lạc hạnh phúc. So sánh sự an lạc tịch tịnh này với những hạnh phúc trong trần gian, bạn nhận thấy rằng hạnh phúc thế gian mang đầy sắc thái phàm tục, thô lỗ so với hạnh phúc thanh cao đạt được trong lúc hành thiền. Hạnh phúc và lạc thú của trần gian như lửa đang bùng cháy, trong khi hạnh phúc đến từ một tâm thanh tịnh thì thật mát mẻ, êm dịu. Sự so sánh này sẽ đem lại hỉ lạc cho bạn.
8 & 9. Tránh Xa Người Thô Lỗ và Thân Cận Người Thanh Nhã
Người thô lỗ bị sân hận chế ngự, thiếu từ tâm, thiếu lòng tha thứ, thiếu tình thương. Người thanh nhã có đầy đủ đức từ bi. Trên thế gian này nhiều người tâm đầy sân hận, không thể phân biệt được các hành động thiện ác, không khiêm nhường, không tôn kính các bậc đáng tôn kính, không học hỏi giáo pháp, cũng không hành thiền. Họ dễ dàng nổi giận vì một chuyện bực mình bé nhỏ. Họ cáu kỉnh với người khác và tự hành hạ chính mình bằng sự tự trách. Ðời sống của họ tràn đầy thô bạo và không ý vị. Bạn thử tưởng tượng xem, khi sống chung với các người này, hỉ lạc có phát sinh nơi bạn không?
Trái hẳn với hạng người thô lỗ trên. Một số người có tâm đầy tình thương. Họ nghĩ đến sự an lạc và lợi ích của các chúng sanh khác. Tình thương và sự ấm áp trong tâm họ biểu hiện qua lời nói và việc làm của họ. Họ giao tiếp với người khác bằng lời nói ngọt ngào êm dịu, bằng những cử chỉ tràn đầy tình thương. Thân cận với những người thanh nhã, bạn sẽ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp. Một người được bao quanh mình bằng sự ấm áp êm dịu của tình thương, chắc chắn tâm sẽ tràn đầy hỉ lạc.
10. Tụng, Ðọc Hoặc Suy Tưởng Ðến Nghĩa Lý của Kinh
Một số kinh sách nói đến những đức hạnh của Ðức Phật. Nếu bạn là một người đầy đủ đức tin thì việc tụng đọc hay suy tưởng đến nghĩa lý của kinh này sẽ đem lại cho bạn nhiều hỉ lạc và hạnh phúc lớn lao. Trong số những kinh điển đó, có kinh Tứ Niệm Xứ nói đến những lợi ích mà bạn có thể gặt hái được trong khi thực hành Pháp bảo. Những kinh khác bao gồm những mẩu chuyện ý nhị, những gương sáng của chư tăng, đoàn thể của những người đi trên con đường thánh thiện. Tụng đọc hay suy tưởng về những kinh này khiến tâm bạn phấn chấn, dẫn đến hỉ lạc và hạnh phúc.
11. Hướng tâm vào việc phát triển hỉ
Cuối cùng, nếu bạn kiên trì, chắc chắn hướng tâm vào việc phát triển tâm hỉ thì bạn sẽ đạt được mục đích. Bạn cần nhớ rõ là hỉ giác chi chỉ phát sinh khi tâm tương đối sạch các phiền não. Bởi thế, muốn có hỉ lạc, bạn phải tinh tấn chánh niệm trong từng phút giây để sự định tâm phát sinh và phiền não bị đè nén. Bạn phải luôn luôn hướng tâm vào việc phát triển hỉ mãn qua sự chánh niệm liên tục, dù bạn đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang nằm hay đang làm các công việc khác.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 13:28:05 GMT -5
Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Năm: Thư Thái Giác Chi
Nhiều người tâm luôn luôn ở trạng thái giao động. Tâm họ chạy lung tung hết nơi này đến nơi khác, phất phới như cờ trong gió lộng, tung tán như đám tro bị đá ném vào. Họ không có sự tươi mát, êm dịu, bình an, tĩnh lặng. Tâm bất an và tán loạn này có thể được gọi là những ngọn sóng của tâm, như mặt nước bị gió thổi làm giao động. Những ngọn sóng của tâm sẽ hiển lộ rõ ràng khi sự bất an xuất hiện. Ngay cả khi tâm tán loạn được tập trung, sự định tâm này cũng còn bị trộn lẫn với bất an. Khi nhà có người bệnh, mọi người trong nhà đều xôn xao bất ổn, cũng vậy, bất an có ảnh hưởng mạnh mẽ trên những tâm sở phát sinh đồng thời. Khi bất an hiện diện thì không thể có được hạnh phúc thật sự.
Khi tâm bị tán loạn thì ta không thể kiểm soát được hành vi của mình, bắt đầu hành động theo sự ngông cuồng, tưởng tượng, chẳng ý thức được sự tốt xấu của việc đang làm. Do tâm thiếu suy nghĩ, ta có những hành động và lời nói sai lầm. Những hành động và lời nói sai lầm này khiến ta hối hận, tự trách và giao động. Ðôi khi ta sẽ hối hận mà tự trách mình như sau: "Ta đã làm sai. Ta không nên nói như vậy. Nếu ta suy nghĩ trước khi làm điều đó thì tốt biết mấy". Ðại loại, tâm sẽ bị các tư tưởng như vậy quấy rối. Khi tâm bị tấn công bởi hối hận và tiếc nuối thì sẽ không thể nào có hạnh phúc được.
Thư thái giác chi, yếu tố đưa đến sự giác ngộ này, chỉ phát sinh khi bất an và hối hận vắng mặt. Chữ Pali để chỉ thư thái giác chi là passaddhi, có nghĩa là an tịnh, mát mẻ. Khi tâm không bị giao động thì sự mát mẻ an tịnh mới phát sinh.
Trong thế giới ngày nay, con người có nhiều đau khổ tinh thần. Nhiều người dùng ma túy, thuốc an thần và thuốc ngủ để làm cho tâm an tịnh và vui thú. Thường những người trẻ tuổi dùng ma túy để vượt qua những giai đoạn khó khăn và giao động. Nhiều người cảm thấy thích thú trong khi dùng ma túy nên dùng mãi và sanh ra ghiền. Thật là tội nghiệp. Sự an tịnh do thiền đem lại cao quí gấp bội những loại ma túy hay các loại lạc thú từ ngoài đem lại. Dĩ nhiên, mục đích của thiền cao hơn chứ không phải chỉ là sự an tịnh, nhưng an lạc tĩnh lặng là những lợi ích mà bạn gặt hái trên con đường dẫn đến giải thoát hoàn toàn.
An Tịnh Thân Tâm
Ðặc tính của thư thái là làm an tịnh thân tâm, làm cho mọi giao động trở nên tĩnh lặng.
Làm Cho Tâm Mát Mẻ
Thư thái giác chi có công năng hút và loại bỏ sức nóng của tâm. Sức nóng này do sự bất an, tán loạn và hối hận đem lại. Khi tâm bị các loại phiền não này tấn công sẽ trở nên nóng bỏng như bị nung lửa. Tâm thư thái diệt tắt sức nóng này và thay thế bằng sự mát mẻ dễ chịu.
Không Giao Ðộng
Biểu lộ của thư thái giác chi là sự an tịnh của thân và tâm: thân và tâm không bị giao động.
Là một thiền sinh, bạn dễ dàng quán sát sự an tịnh tĩnh lặng lớn lao mà thư thái giác chi đem lại.
Chắc chắn là bạn đã quen thuộc với sự vắng bóng của thư thái giác chi. Khi không có thư thái giác chi bạn sẽ bị thúc bách phải di động, phải đứng dậy, phải làm chuyện này chuyện kia. Thân thể bạn vặn vẹo, tâm bất an của bạn nhảy tới nhảy lui. Khi mọi phiền não này dừng nghỉ, bấy giờ không còn những cơn sóng trong tâm bạn. Tâm bạn sẽ ở vào trạng thái êm dịu, tĩnh lặng. Mọi hoạt động của bạn trở nên nhẹ nhàng, êm ái, thư thái.
Thư thái giác chi theo sau hỉ giác chi. Khi hỉ giác chi trở nên mạnh nhất, phần lớn sẽ hội nhập với thư thái giác chi. Khi hỉ lạc tràn ngập cơ thể, thiền sinh sẽ hoàn toàn không muốn di chuyển, không muốn sự tĩnh lặng của tâm bị quấy phá.
Sau khi thành đạo, Ðức Phật đã để ra bốn mươi chín ngày để hưởng quả giải thoát. Ngài giữ mỗi tư thế trong bảy ngày ở bảy nơi khác nhau, hưởng quả giải thoát bằng cách nhập và xuất khỏi quả đã đạt được. Nhờ hiệu lực của pháp hỉ (Dhamma piti), toàn thể thân Ngài luôn luôn thấm nhuần sự an tịnh tĩnh lặng nên Ngài không có ý định di chuyển hay nhắm mắt lại nữa. Mắt của Ngài luôn luôn mở hay khép hờ. Bạn cũng có thể có kinh nghiệm được điều này khi hỉ lạc mạnh mẽ phát sinh, lúc bấy giờ mắt của bạn sẽ mở ra một cách tự nhiên ngoài ý muốn. Có thể bạn cố nhắm lại nhưng nó lại mở ra. Thế là cuối cùng bạn quyết định tiếp tục hành thiền với đôi mắt mở. Nếu bạn có được kinh nghiệm này, bạn sẽ thưởng thức được niềm hạnh phúc lớn lao của Ðức Phật và năng lực của pháp hỉ.
Chú Tâm Sáng Suốt Ðem Lại Thư Thái
Theo Ðức Phật thì phương pháp phát sinh thư thái là chú tâm sáng suốt, nhất là chú tâm sáng suốt đến sự phát triển những tư tưởng thiện, những tâm sở thiện, và quan trọng hơn là những tâm sở thiền để cho thư thái giác chi và hỉ giác chi phát sinh.
Bảy Cách Phát Triển Thư Thái Giác Chi
Chú giải nói đến bảy cách làm phát sinh thư thái giác chi.
1. Thực Phẩm Thích Hợp và Bổ Dưỡng
Cách thứ nhất giúp thư thái giác chi phát triển là phải có thức ăn thích hợp. Thực phẩm phải đáp ứng hai yếu tố cần thiết và phù hợp với cơ thể người dùng. Yếu tố dinh dưỡng là yếu tố quan trọng. Thức ăn không cần phải cầu kỳ, nhưng phải cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Nếu cơ thể không đủ chất dinh dưỡng, bạn sẽ không đủ sức mạnh cơ thể để tiến bộ trong việc hành thiền. Thực phẩm phải phù hợp với cơ thể và sức khỏe của từng người. Thực phẩm làm sự tiêu hóa rối loạn hay thực phẩm mà bạn không thích cũng khiến cho bạn khó hành thiền. Nếu bạn không cảm thấy khỏe khoắn hay cứ bị ám ảnh bởi thực phẩm mà bạn mong ước thì việc hành thiền của bạn cũng khó tiến bộ.
Chúng ta có thể rút ra một bài học hữu ích từ thời Ðức Phật. Một thương gia giàu có và một tín nữ là hai người lãnh đạo và tổ chức phần lớn các buổi làm phước trong khu vực của Ðức Phật lưu trú giảng dạy. Khi có hai người này thì mọi việc đều chu đáo. Chìa khoá bí mật của sự thành công là họ nắm vững nguyên tắc "cần thiết" và "thích hợp". Họ thường tìm hiểu nhu cầu của chư Tăng, chư Ni và thiền sinh, những người được mời đến nhận lãnh thực phẩm cúng dường. Họ cũng tìm hiểu từng vị để biết nên cúng dường thứ gì cho phù hợp. Khi có thực phẩm cần thiết và thích hợp, bạn sẽ dễ dàng tìm thấy an lạc và định tâm.
2. Khí Hậu Tốt
Cách thứ hai giúp cho thư thái giác chi phát triển là phải hành thiền ở một nơi có khí hậu tốt. Khí hậu tốt khiến bạn thoải mái an vui để hành thiền. Tuy nhiên cơ thể con người có khả năng thích ứng với mọi thời tiết. Trừ trường hợp khí hậu quá khắc nghiệt, ta có thể dùng các phương tiện hỗ trợ để điều chỉnh như quạt trong mùa nóng, sưởi trong mùa lạnh, v.v...
3. Tư Thế Thoải Mái
Cách thứ ba giúp cho thư thái giác chi phát triển là có tư thế thoải mái trong khi hành thiền. Chúng ta thường đi hay ngồi trong khi hành thiền minh sát. Ðó là hai tư thế tốt nhất cho người mới bắt đầu hành thiền. Thoải mái không có nghĩa là giải đãi quá. Nằm hay ngồi trên ghế dựa có thể được xem là quá giải đãi, trừ trường hợp bạn bị bệnh. Khi bạn ngồi không có chỗ tựa hay khi kinh hành, bạn cần phải có tinh tấn để giữ cho thân thẳng đứng. Trong khi nằm hay tựa lưng vào ghế, sự tinh tấn này bị mất đi khiến bạn dễ ngủ quên. Khi tâm bạn quá thoải mái ngơi nghỉ, chẳng bao lâu bạn sẽ khuấy rối không khí yên tĩnh bằng những tiếng ngáy vang của mình.
4. Duy Trì Sự Quân Bình Tinh Tấn Trong Khi Hành Thiền
Bạn không nên quá phấn chấn hay quá nhu nhược biếng nhác. Nếu bạn quá tinh tấn hay tự thúc đẩy quá mức, bạn sẽ vượt quá mục tiêu, mất đề mục và trở nên mệt mỏi. Nếu bạn làm biếng thì bạn sẽ không với đến nơi và không thể nào đạt đến mục tiêu. Người quá phấn chấn chẳng khác nào kẻ leo núi vội vã mong muốn đạt đến đỉnh một cách mau lẹ. Họ leo thật nhanh, nhưng vì sườn núi dốc nên họ phải dừng lại nhiều lần để nghỉ ngơi. Cuối cùng họ phải để một thời gian lâu dài mới lên được đỉnh núi. Mặt khác, bạn cũng không được làm biếng. Làm biếng là một hình thức của nhu nhược chảy thây. Nó chẳng khác nào con ốc sên bò xa tít mãi đằng sau.
5 & 6. Tránh Người Nóng Nảy, Thân Cận Người An Tịnh
Thân cận người nóng nảy, thô tháo, hung dữ sẽ làm bạn bất an. Tránh xa các hạng người này có thể giúp bạn thư thái thoải mái. Ðiều rõ ràng là nếu thân cận với người tính tình nóng nảy, luôn luôn cau có giận dữ, la mắng nạt nộ bạn thì bạn chẳng bao giờ đạt được tâm tĩnh lặng. Nếu bạn thân cận với người có tâm an định, thân tâm bạn sẽ an lạc tĩnh lặng.
7. Hướng Tâm Vào Việc Hành Thiền
Cách cuối cùng để phát sinh thư thái giác chi là hướng tâm vào việc hành thiền với mục đích là thành tựu sự bình an thư thái. Nếu bạn tinh tấn chánh niệm hướng tâm vào sự an tịnh thì thư thái giác chi sẽ phát sanh một cách tự nhiên.
Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Sáu: Ðịnh Giác Chi
Ðịnh là tâm sở nằm trên đối tượng quán sát. Ðịnh ghim tâm vào đối tượng, xuyên thấu vào trong và nằm trong đó.
Không Giao Ðộng
Tính chất của định là không tách rời, không tán loạn, không phân tán, nghĩa là tâm dán chặt vào đối tượng, chìm trong đối tượng và duy trì sự an tịnh tĩnh lặng ngay nơi ấy.
Ðịnh Vào Ðối Tượng Cố Ðịnh Và Ðịnh Vào Sự Biến Ðổi Của Ðối Tượng
Có hai loại định tâm. Thứ nhứt là liên tục định tâm trên một đề mục cố định. Ðây là thiền chỉ hay thiền vắng lặng. Thứ hai là sát na định, nghĩa là tâm định trên từng biến đổi một của đề mục. Sự định tâm thứ nhất có tính cách liên tục vì mục đích của sự định tâm này là trụ tâm vào đề mục không tán loạn. Sự định tâm thứ hai là trụ tâm vào sự biến chuyển của đề mục.
Ðịnh tâm liên tục sẽ đạt được khi định tâm trên một đề mục duy nhất. Ðây là loại định tâm đạt được trong thiền chỉ hay thiền vắng lặng. Tâm của thiền sinh phải đặt trên chỉ một đối tượng và không một đối tượng nào khác. Người hành thiền vắng lặng sẽ kinh nghiệm được điều này, đặc biệt là khi họ đắc được các tầng thiền chỉ.
Sát na định đạt được trong thiền minh sát. Mục đích của Thiền Minh Sát là phát triển trí tuệ và hoàn tất các tuệ minh sát. Thiền Minh Sát đặt căn bản trên trí tuệ trực giác như: trực giác phân biệt thân và tâm, hay danh và sắc; trực giác được sự liên hệ nhân quả của danh sắc, trực giác về vô thường, khổ não, vô ngã của các hiện tượng thân tâm... Ðó là những tuệ giác căn bản của trí tuệ nội quán. Còn có những tuệ giác kế tiếp nữa mà thiền sinh phải chứng nghiệm trước khi đạt được đạo và quả tâm, lấy Niết Bàn hay sự chấm dứt mọi khổ đau làm đối tượng.
Trong thiền minh sát, đối tượng để hành thiền rất quan trọng. Ðối tượng này là các hiện tượng của thân và tâm, hay danh và sắc. Khi hành thiền, thiền sinh quán sát trực tiếp các hiện tượng này để thấy rõ bản chất của chúng mà không dựa vào sự suy nghĩ hay tưởng tượng. Nói cách khác, khi hành thiền minh sát, thiền sinh quán sát theo dõi nhiều đối tượng khác nhau với mục đích trực giác được bản chất của chúng. Trong thiền minh sát, sát na định đóng vai trò quan trọng thiết yếu. Ðối tượng của Thiền Minh Sát sinh rồi diệt liên hồi. Sát na định sinh ra từng thời điểm một với đối tượng quán sát. Mặc dầu sát na định có tính cách tạm thời nhưng nó có thể khởi sinh từ thời điểm này sang thời điểm khác, hay từ sát na này sang sát na khác mà không có sự gián đoạn bên trong. Nếu sát na định được khởi sinh liên tục không gián đoạn thì nó cũng giống như liên tục định, trấn áp phiền não và tạo nên an lạc tĩnh lặng.
Gom Tụ Tâm
Khi bạn ngồi quán sát chuyển động phồng xẹp của bụng, bạn nỗ lực chánh niệm vào tiến trình chuyển động này, và bạn đang ở trong khoảnh khắc hiện tại. Với mỗi khoảnh khắc của nỗ lực tinh tấn, bạn bành trướng khả năng chánh niệm bao hàm trong những hoạt động của tâm để quán sát đối tượng. Tâm dính chặt vào đối tượng quán sát, bạn rơi vào hay ở trong đối tượng. Không những tâm an trụ hay xuyên thấu vào đối tượng, không những tâm ở yên, tĩnh lặng trên đối tượng vào thời điểm ấy, mà định tâm sở này còn có năng lực gom tụ các tâm sở khác một cách tức khắc vào thời điểm ý thức trên. Công năng của định tâm là gom tụ các tâm sở khác lại với nhau. Nó giữ tất cả các tâm sở liên hệ thành một nhóm để chúng khỏi phân tán hay tách rời ra. Thế là tâm an trụ vững chãi sâu xa vào đối tượng.
Bình An Tĩnh Lặng
Ðây là câu chuyện về cha mẹ và con cái. Cha mẹ đạo đức luôn luôn muốn con mình lớn lên có đủ tư cách và phẩm hạnh tốt. Nhằm mục đích này, cha mẹ đã cố gắng tìm mọi cách để giáo dục và kiểm soát các con mình. Con trẻ chưa đủ kinh nghiệm, chưa già dặn nên cha mẹ thường ngăn cấm chúng làm bạn với những trẻ con tinh nghịch, thiếu giáo dục. Tâm sở của chúng ta chẳng khác nào những đứa trẻ. Những đứa trẻ thiếu sự hướng dẫn của cha mẹ thường có những hành động tai hại đến chính mình và người khác. Cũng vậy, tâm không được kiểm soát huấn luyện sẽ đau khổ vì những ảnh hưởng xấu. Phiền não luôn luôn lảng vảng gần kề đợi cơ hội nhảy vào quấy phá. Nếu tâm không vững chãi sẽ bị các phiền não như tham sân si xâm nhập. Khi bị các loại phiền não xâm chiếm, tâm trở thành hư đốn, và sự hư đốn này được biểu hiện qua hành động và lời nói. Tâm chẳng khác nào trẻ con. Lúc đầu, bị ép vào khuôn khổ, nó sẽ tức giận và có phản ứng chống lại. Tuy nhiên, dần dần, tâm trở nên thuần thục, hiểu biết, yên tĩnh, và ít bị phiền não chi phối. Tâm định ngày càng vững chãi và trở nên tĩnh lặng, yên tịnh, bình an. Sự bình an và tĩnh lặng là biểu lộ của sự định tâm. Trẻ con cũng vậy. Chúng có thể được giáo huấn thích hợp để có thể trở thành đứa trẻ tốt. Lúc đầu, có thể chúng bướng bỉnh, nhưng dần dần khi lớn lên, chúng sẽ hiểu tại sao người lớn dạy chúng làm điều này điều kia. Chúng sẽ hiểu tại sao người lớn không cho chúng thân cận bạn xấu. Chúng sẽ bắt đầu biết ơn sự săn sóc, sự kiểm soát của cha mẹ chúng. Chúng có thể xem xét những đứa trẻ khác vì cha mẹ không nghiêm dạy nên đã có những hành vi tội lỗi và phạm pháp. Chúng sẽ biết được ai xấu ai tốt trong khi chọn bạn. Càng lớn và càng trưởng thành, chúng sẽ khai triển thêm được những tính tốt hơn nhờ ở sự giáo dục mà chúng đã hấp thụ được từ lúc còn bé.
Ðịnh Tâm Giúp Trí Tuệ Phát Triển
Ðịnh tâm là nguyên nhân gần của sự phát sanh trí tuệ. Ðiều này rất quan trọng. Một khi tâm yên tịnh tĩnh lặng thì trí tuệ có chỗ phát sinh, rồi thiền sinh có thể thấy được bản chất thật sự của thân và tâm. Nhờ trực giác phát sinh từ tâm tĩnh lặng, thiền sinh phân biệt được thế nào là danh sắc và sự tương quan nhân quả của danh và sắc. Từng bước từng bước, trí tuệ sẽ ngày càng xuyên thấu sâu vào chân lý. Thiền sinh sẽ trực nhận được ba đặc tính vô thường, khổ và vô ngã, và cuối cùng trí tuệ tiến đến chỗ chấm dứt khổ đau. Khi sự đạt đạo này xảy ra, thiền sinh sẽ không bao giờ trở thành một người bất thiện nữa dầu ở trong hoàn cảnh nào.
Cha Mẹ và Con Cái
Cha mẹ và những người sắp làm cha mẹ nên chú ý đọc đoạn này. Ðiều quan trọng nhất là những bậc làm cha mẹ phải biết kiểm soát tâm mình bằng sự định tâm. Cuối cùng, họ nên hoàn tất các tầng tuệ minh sát. Những người có tâm định cao rất có tài năng giáo dục con cái vì họ có thể phân biệt được một cách rõ ràng các hành vi thiện ác, và họ có đủ bình tĩnh, đủ sáng suốt, đủ khả năng để hướng dẫn con đi theo đường thiện. Ðiều đặc biệt và quan trọng nhất là họ có thể làm gương mẫu cho con cái. Cha mẹ không kiểm soát tâm mình, có tư cách kém cỏi, thiếu đạo đức, không thể giúp con cái phát triển thiện tâm và trí tuệ.
Một số học trò của tôi ở Miến Ðiện, lúc mới hành thiền, họ chỉ săn sóc con cái về phần vật chất và học vấn. Họ chỉ quan tâm đến việc học hành và việc sinh sống của con cái trong xã hội sau này. Khi những bậc cha mẹ này đến thiền viện, họ chăm chỉ thực hành và sau khi trở về nhà, họ có một thái độ và kế hoạch mới. Bấy giờ, họ thấy rằng điều quan trọng hàng đầu, là phải cho con cái học cách kiểm soát và phát triển thiện tâm chứ không phải chỉ lo cho con cái thành công trong xã hội này mà thôi. Khi con cái đến tuổi thích nghi, cha mẹ thúc giục con cái đi hành thiền. Thật vậy, khi tôi hỏi các bậc cha mẹ có thấy sự khác biệt giữa những đứa con sanh ra trước khi cha mẹ đi hành thiền và những đứa con sinh ra sau khi cha mẹ đi hành thiền không, thì được trả lời: "Những đứa trẻ sanh ra sau khi chúng tôi hoàn tất việc hành thiền thì ngoan ngoãn và vâng lời. Chúng lại có thiện tâm hơn những anh chị của nó sanh ra trước đây".
Chú Tâm Sáng Suốt Giúp Tâm Ðịnh Phát Triển
Ðức Phật dạy rằng sự liên tục chú tâm sáng suốt, hướng tâm vào việc phát triển sự định tâm là nguyên nhân giúp phát sinh tâm định. Ðịnh tâm trước giúp cho định tâm sau phát sinh. Chú giải nói đến mười một cách phát triển định tâm.
1. Sạch Sẽ
Trước hết là làm sạch nội ngoại xứ, tức là làm sạch cơ thể và hoàn cảnh xung quanh. Sạch sẽ ở đây là sạch sẽ bên trong và sạch sẽ bên ngoài, tức là sạch sẽ chính cơ thể mình và những gì quanh mình. Sạch sẽ bên trong hay sạch sẽ thân là phải năng tắm rửa, đầu tóc gọn gàng, móng tay móng chân cắt ngắn, và đừng để bị bón uất. Sạch sẽ bên ngoài là ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng, phòng ốc thứ tự sạch sẽ. Ðiều này giúp cho tâm trong sáng. Khi mắt thấy bụi bặm, hỗn loạn và thiếu ngăn nắp thì sự bối rối, lo lắng, hỗn loạn cũng phát sanh theo. Nhưng khi mọi điều kiện và hoàn cảnh chung quanh đều gọn gàng tươm tất thì tâm sẽ trong sáng. Một tâm trong sáng là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển trí tuệ.
2. Quân Bình Tâm
Cách thứ hai giúp cho định tâm phát triển là quân bình ngũ căn: Quân bình trí tuệ và đức tin, quân bình tinh tấn và định. Tín, tấn, niệm, định, huệ phải được phát triển hài hoà. Tín và huệ phải quân bình với nhau. Tinh tấn và định phải quân bình với nhau. Việc hành thiền tùy thuộc vào sự quân bình các lực qua từng cặp này. Nếu đức tin quá mạnh hơn trí tuệ thì trở thành cả tin, bất cứ cái gì cũng tin được, hoặc sẽ bị lôi cuốn bởi những tư tưởng quá sùng tín, quá mộ đạo, chỉ lo nghĩ đến việc làm phước, giúp đỡ người khác, tụng kinh quá nhiều làm cản trở việc hành thiền. Ðức tin rất cần thiết, nhưng trong lúc hành thiền phải biết quân bình với trí tuệ, nếu không thì đức tin biến thành một trở ngại.
Mặt khác, nếu trí tuệ hay sự thông thái quá trội sẽ khiến tâm vọng động, suy nghĩ, đánh giá, nhiều lúc đưa đến việc thiền sinh sẽ tự lừa dối mình bằng nhiều cách. Những người có nhiều trí tuệ nhưng thiếu đức tin thường coi nhẹ các việc làm phước, lễ bái, kính trọng Phật, Pháp, Tăng, v.v... Họ bị sự thông thái quá trớn của mình hướng đi những đường sai lạc, nhiều lúc trở thành láu cá, quanh co, ngụy biện, tự đánh lừa mình, đánh lừa sự thật.
Sự quân bình giữa tinh tấn và định hoạt động như sau: Nếu quá thích thú và hăng say thực hành thì tâm sẽ giao động bất an, không thể an trụ trên đề mục quán sát. Khi tâm trượt khỏi đề mục, vọng động tán loạn sẽ gây ra nhiều sự khó chịu. Nếu định nhiều quá lại có thể dẫn đến làm biếng và dã dượi buồn ngủ. Khi tâm trở nên tĩnh lặng và dường như dễ dàng an trụ trên đề mục không rời thì thiền sinh bắt đầu muốn nghỉ ngơi và buông lỏng, lúc ấy dã dượi, buồn ngủ sẽ sớm bước chân vào.
Quân bình ngũ lực là một điểm quan trọng thiết yếu mà thiền sư phải biết thấu đáo để hướng dẫn thiền sinh. Phương pháp căn bản nhất để quân bình và tái lập lại sự quân bình là tăng cường sức mạnh cho lực còn lại, đó là chánh niệm.
3. Thiện Xảo Về Tướng
Nguyên nhân thứ ba giúp phát triển định tâm liên quan đến thiền chỉ, hay là thiền vắng lặng hơn là thiền minh sát. Ðó là thiện xảo trong sự tập trung vào đề mục, đó là duy trì rõ ràng các tướng của đề mục (hình ảnh trong tâm) khi hành thiền chỉ.
4. Nâng Ðỡ Tâm Khi Tâm Suy Yếu
Cách thứ tư giúp định tâm phát triển là nâng đỡ tâm khi nó nặng nề, suy yếu và xuống tinh thần. Vào lúc ấy việc hành thiền của bạn đầy dẫy sự rối loạn, bạn phải cố gắng nâng đỡ tâm. Nên dùng kỹ thuật làm phát sanh tinh tấn, hỉ và trạch pháp. Nâng đỡ, khuyến khích tâm của thiền sinh là một trong những nhiệm vụ của thiền sư. Khi thiền sinh vào trình pháp với khuôn mặt dài thoòng, nhăn nhó, bực tức, thiền sư sẽ biết cách hướng dẫn để thiền sinh phấn chấn trở lại.
5. An Ðịnh Tâm Khi Tâm Quá Phấn Chấn
An định tâm quá phấn chấn là nguyên nhân phát triển tâm định. Khi thiền sinh có những kinh nghiệm đê mê ngây ngất trong khi thực hành, thiền sinh trở nên quá phấn chấn và khích động. Lúc đó sự tinh tấn của họ quá trội. Trong trường hợp này thiền sư không nên khích lệ thiền sinh, mà phải nói thế nào để đưa thiền sinh trở về với vị trí thích hợp, hoặc là khuyên thiền sinh nên thản nhiên, chỉ cần trở về quán sát theo dõi mà không cần cố gắng quá mức.
6. Khích Lệ Tâm Bị Héo Mòn Vì Sự Ðau Nhức
Nếu tâm bị co thắt hay héo mòn suy nhược vì bị đau nhức, cần phải làm cho tâm trở nên vui tươi an lạc. Ðây là cách thứ sáu làm cho định tâm phát sinh. Một thiền sinh có thể bị xuống tinh thần vì hoàn cảnh chung quanh hoặc do bệnh cũ tái phát. Vào lúc ấy, tâm cần được nâng đỡ để tâm trong sáng và sắc bén trở lại. Bạn có thể dùng nhiều cách để nâng đỡ tâm, hoặc thiền sư cũng có thể giúp cho bạn vui tươi an lạc trở lại bằng những lời giảng giải khích lệ.
7. Liên Tục Quân Bình Chánh Niệm Trong Mọi Lúc
Ðôi khi việc hành thiền của bạn tiến triển sâu xa. Lúc ấy dường như bạn chẳng cần cố gắng mà vẫn chánh niệm dễ dàng trên đề mục khi chúng sanh và diệt. Khi ấy, bạn đừng xen vào, đừng đẩy thêm tinh tấn gì cả, mặc dầu bây giờ tốc độ thoải mái của bạn dường như chậm lại và bạn muốn nhấn thêm ga, bạn muốn mau chóng thấy được giáo pháp. Nếu bạn cố gắng gia tăng tốc độ, bạn sẽ làm cho tâm quân bình bị xáo trộn, và chánh niệm của bạn bị cùn lụt. Mặt khác, khi thấy việc hành thiền của mình có vẻ trơn tru đẹp đẽ, bạn lại ỷ y và có khuynh hướng nghỉ xả hơi quá nhiều; điều này cũng khiến việc hành thiền của bạn bị thụt lùi. Khi việc hành thiền tiến triển tốt đẹp, nhận thấy không cần cố gắng nhiều mà vẫn ghi nhận dễ dàng mọi hiện tượng, mọi diễn biến xảy ra, thì đừng ỷ y coi thường, tự đắc, mà phải duy trì đều đặn sự tinh tấn, giữ vững tốc độ đừng để mất trớn, mất đà đang có trong hiện tại.
8 & 9. Tránh Người Không Ðịnh Tâm, Gần Người Ðịnh Tâm
Cần phải tránh người không định tâm và cần phải thân cận, gần người định tâm. Ðó là cách thứ tám và chín giúp định tâm phát triển. Những người không bình an tĩnh lặng, chưa từng phát triển một loại định tâm nào, thường có nhiều bất an giao động. Những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình có cha mẹ là những người định tâm thì tâm của chúng cũng bình an. Những đứa con sinh ra trong gia đình có cha mẹ là những người không định tâm thì tâm của chúng cũng không bình an tĩnh lặng.
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Thân cận người có tâm định, tâm bạn cũng sẽ bớt giao động. Người ta còn gọi một danh từ "điện hút" để chỉ ảnh hưởng quan trọng của hoàn cảnh chung quanh. Nhiều người trước đây chưa từng hành thiền, khi đến thăm một trường thiền, họ bắt đầu cảm thấy bình an tĩnh lặng. Họ đã bắt được tầng số rung động của các thiền sinh đang tinh tấn hành thiền. Thế là họ quyết định đến thực tập.
Vào thời Ðức Phật có vua A Xà Thế (Ajatasattu) đã giết cha để đoạt ngôi. Nhà vua đã trải qua nhiều đêm mất ngủ vì bị dày vò bởi tội lỗi đã làm. Cuối cùng, nhà vua quyết định đến gặp Ðức Phật để xin lời chỉ giáo. Ông cùng các cận thần băng qua khu rừng đến nơi chư tăng đang ngồi định tâm tĩnh lặng nghe Ðức Phật giảng dạy. Hàng ngàn người chăm chú nghe, không một tiếng động. Sự an tịnh này đã ảnh hưởng đến nhà vua và khiến mọi giao động bất an, hối hận trong tâm nhà vua biến mất. Nhà vua cảm thấy một sự bình an tĩnh lặng tràn ngập tâm mình, một hạnh phúc an tịnh mà nhà vua chưa từng có trước đây.
10. Nhớ Ðến Sự Bình An Tĩnh Lặng của Sự Nhập Ðịnh.
Ðiều này có liên quan đến những người có hành thiền chỉ. Mục đích của thiền chỉ là đạt được sự vắng lặng. Nhớ lại phương thức đã áp dụng để đạt được các tầng định trong thiền, thiền sinh có thể xử dụng phương thức này một cách giản lượt để đạt được sự định tâm trong hiện tại.
Những người chưa đắc được các tầng thiền có thể nhớ lại đôi lúc tâm định rất mạnh trong một thời gian, hoặc khi hành thiền mà họ cảm thấy an lạc hạnh phúc và lúc tâm an chỉ vào đề mục. Nhớ lại những cảm giác an lạc thoát khỏi các chướng ngại và sự an lạc tĩnh lặng của tâm có được do sự hoạt động liên tục của sát na định sẽ làm phát sanh sự định tâm.
11. Hướng Tâm Vào Việc Phát Triển Ðịnh Tâm
Nguyên nhân thứ mười một và là nguyên nhân cuối cùng giúp phát triển tâm định là kiên trì hướng tâm vào việc phát triển định tâm. Tất cả đều tùy thuộc vào sự tinh tấn trong từng phút từng giây. Nếu cố gắng định tâm, bạn sẽ thành công.
|
|