|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:16:26 GMT -5
Quán Niệm Hơi Thở (Anapana Sati)Bình Anson Ghi chú: Các đoạn chính của bài nầy được trích dịch từ một quyển cẩm nang tu thiền của ngài thiền sư U Acinna, người Miến Điện ("Light of Wisdom", W.A.V.E., Malaysia, 1996). -ooOoo- Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên. Có người hỏi là ta nên định tâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi thở ? Câu trả lời là chỉ nên định tâm vào hơi thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Sự chạm xúc là một đề tài thiền quán khác biệt, thuộc về pháp môn quán danh (quán danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giới và các tâm sở có liên quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệm vững mạnh và tuệ giác tri. Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở, hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào hơi thở sau một vài buổi thiền, thì có thể tập đếm hơi thở. Việc nầy để giúp họ phát triển định lực. Thiền sinh đếm số sau mỗi hơi thở, như sau: "thở vào ... thở ra ... một", "thở vào ... thở ra ... hai", "thở vào ... thở ra ... ba", ... cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có thể đếm từ năm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên, thiền sinh nên đếm đến số tám rồi trở lại từ đầu. Số tám là để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác ngộ. Các bạn cần phải cương quyết không để phóng tâm, tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 rồi trở lại 1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi thở như thế, tâm sẽ trở nên an định hơn. Thông thường thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm được an định và vững chắc. Sau đó, khi tâm an định, bạn có thể bỏ lối đếm hơi thở và chuyển sang giai đoạn kế. Nếu bạn thở vào một hơi dài, bạn biết đó là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơi dài, bạn biết đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạn thở vào một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Nếu bạn thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Ở đây, dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian. Nếu cần một thời gian dài để thở thì đó là hơi thở dài. Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơi thở ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cố gắng ép hơi thở. Không nên đặt tên nó là "dài" hay "ngắn". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Chỉ cần biết nó là hơi dài hay ngắn, nhưng lúc nào cũng phải chú tâm vào luồng hơi đang chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoài thân thì sẽ không thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú tâm ghi nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi hay môi trên trong một, hai, hoặc ba giờ. Đến đây, định tướng (nimitta, ni-mít-tá) sẽ phát sinh. Nếu định tướng không phát sinh thì bạn có thể chuyển sang hành trì như sau: thiền sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơi liên tục từ đầu đến cuối. Bạn không nên đặt tên là: "chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Trong lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi từ đầu đến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố định (lỗ mũi hay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào bên trong thân thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì như thế trong một hay hai giờ thì định tướng có thể sẽ phát sinh. Bây giờ, cho dù định tướng có hiện ra hay không, thiền sinh tiếp tục sang giai đoạn kế. Trong giai đoạn nầy, bạn tạo một ước nguyện trong tâm: "Nguyện cho hơi thở của tôi được nhu nhuyễn". Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn. Bạn không nên cố tình ép hơi thở để nó nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu, bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khi hơi thở tự nó trở nên nhẹ nhàng và tâm an định theo nó, qua thiền lực, hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng, như thể là họ không có đầu, không có mũi, không có thân nữa, mà cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấy là không có "tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ, chỉ còn có một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm được an định và chăm chú vào đó trong một giờ, thì trong thời gian nầy, tâm không còn liên hệ đến các chuyện thế tục nữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện (kusala), và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái cận định (upacara samadhi). Đến đây, tùy theo giới hạnh của từng cá nhân, định tướng sẽ hiện ra. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định tướng khác nhau. Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiền sinh sẽ thấy định tướng hiện ra, có khi như là một làn chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùm cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một viên ngọc thạch, một viên ngọc trai. Nó hiện ra trong các hình sắc khác nhau là vì nó do tưởng uẩn (saññā) tạo ra. Lúc ban đầu, định tướng có thể giống như có màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở, hơi thở và màu khói xám trở thành đồng nhất với nhau, không khác biệt. Sau đó, nếu tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dù là màu trắng, nhưng nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở, hơi thở sẽ trở thành định tướng và định tướng chính là hơi thở. Nếu hơi thở và định tướng là một, không khác biệt, khi bạn chú mục vào hơi thở thì bạn cũng chú mục vào định tướng, và khi bạn chú mục vào định tướng thì bạn cũng chú mục vào hơi thở. Và như thế, bạn hành thiền tốt và nghiêm túc. Nếu định tướng trở nên vững bền và nếu bạn chỉ chú tâm vào định tướng của hơi thở (anapana nimitta), mà không chú tâm vào hơi thở nữa, tâm bạn trở nên tập trung vào định tướng lúc đó. Trong giai đoạn nầy, điều quan trọng là thiền sinh không nên tìm cách chuyển hóa định tướng. Bạn không nên tìm cách đẩy nó đi xa, hoặc làm cho nó thay đổi hình dạng. Nếu làm như thế, định lực của bạn sẽ không phát triển, và định tướng có thể sẽ biến mất. Tuy nhiên, nếu định tướng hiện ra quá xa đối với lỗ mũi thì thiền sinh chưa có đủ lực để chuyển sang mức thiền định hơi thở (anapana jhana samadhi). Tại sao? Bởi vì đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc quán niệm hơi thở. Bản luận giải có đề cập rằng việc luyện tâm thiền định niệm hơi thở (anapanasati samadhi bhavana) chỉ hoàn tất khi nào tâm quán niệm được giữ tại nơi mà hơi thở chạm xúc với cơ thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định. Do đó, khi định tướng còn ở xa, thì thiền sinh không nên chú tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại một nơi cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòa nhập vào hơi thở. Khi định tướng có màu khói xám thì đó là sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu trắng như một nhúm bông gòn, đó là học tướng (uggaha nimitta). Đây là một trạng thái định khá cao. Nếu màu trắng nầy được vững bền, thiền sinh phải an định tâm và chú mục vào đó. Trong giai đoạn nầy, bạn không nên chú ý đến màu sắc của nó, mà chỉ chú tâm vào đó như là một loại định tướng mà thôi. Thí dụ như một ly nước và có một hạt ngọc trai trong đó. Ta chỉ nhìn hạt trai, như thể đem tâm vào định tướng. Không nên điều tra, trạch vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã. Không cần biết nó nóng hay lạnh, cứng hay mềm, mà cũng không cần phân tích màu sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm an định và chú mục vào định tướng. Làm như thế, dần dần định tướng sẽ chuyển từ màu trắng đục sang một màu chói sáng. Đây là tợ tướng (patibhaga nimitta). Nếu tâm vẫn giữ an định và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến 2 giờ, hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiền chi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúc đó. Năm thiền chi đó là: 1. Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng, 2. Tứ (vicara): bám sát vào định tướng, 3. Hỷ (pity): ưa thích định tướng, 4. Lạc (sukha): cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúc với định tướng, 5. Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đó là định tướng) Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che. Đó là: 1. Tham dục (kamachanda) 2. Sân hận (vyapada) 3. Hôn trầm (thiramiddha) 4. Trạo cữ (udhaccakukucca) 5. Nghi ngờ (vicikiccha) Thiền sinh phải duyệt xét từng triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu. Khi năm thiền chi đều cùng hiện diện đầy đủ, thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng thiền thứ nhất (đệ nhất thiền), với tợ tướng là đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế khoảng 1 đến 2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường tận. Trong các buổi thiền kế tiếp, thiền sinh tiếp tục ôn tập, và hành trì thuần thục trong tầng thiền thứ nhất. Có năm loại thuần thục: 1. Thuần thục phân biệt: phải thuần thục trong việc phân biệt các thiền chi sau khi xuất thiền 2. Thuần thục nhập định: phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc nào mà mình muốn 3. Thuần thục quyết tâm: phải thuần thục giữ mức thiền trong suốt thời gian mà mình đã định trước 4. Thuần thục xuất định: phải thuần thục xuất ra khỏi tầng thiền mỗi khi mình muốn 5. Thuần thục xét duyệt: phải thuần thục xét duyệt các thiền chi. Tương tự như mục số 1. Thiền sinh nên nhận thức rằng tầng thiền thứ nhất rất gần với năm triền cái - tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ, và nghi ngờ. Thiền sinh cũng nên nhận thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ trong tầng thiền thứ nhất làm cho tầng thiền nầy không an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, từ ước muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ nhì, vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên. Sau đó, thiền sinh nhận thức rằng Hỷ cũng không đem lại an định, nên có ước muốn bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ còn hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên. Sau đó, thiện sinh nhận thức rằng nếu cứ duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên, với ý định bỏ Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ tư. Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinh ra: Xả và Niệm, thay thế Nhất Tâm. Lúc bấy giờ, thiền sinh ở trong trạng thái "xả niệm thanh tịnh", không còn câu chấp vào các cảm giác, và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, hầu như tan biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen thuộc, gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một cách nhẹ nhàng, bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên. Thiền sinh nên tìm đọc bộ Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) của Ngài Buddhaghosa, nhất là phần Niệm Hơi Thở trong chương VIII. Sau cùng, thiền sinh cũng cần nên biết rằng công phu hành thiền để đắc bốn tầng thiền như trên chỉ là một giai đoạn sơ khởi, tạo định lực bền vững, dùng đó để làm cơ sở phát triễn tuệ minh sát và tiến đến giải thoát. Trong tiến trình tu học, thiền sinh không nên dừng ở đó, mà cần phải tiếp tục nỗ lực hành trì các giai đoạn kế tiếp, như quán từ bi, quán niệm ân đức Phật, quán tứ đại, quán các sắc pháp, quán thân thể (32 bộ phận), quán các danh pháp, quán lý duyên sinh và các giai đoạn thanh lọc tâm. Bình Anson trích dịch, Perth, Tây Úc, tháng 12-1997
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:19:36 GMT -5
Về pháp quán niệm hơi thở
Pháp sư Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra - Chúng-Hiền) Tỳ kheo Tâm Hạnh dịch Việt
Trích: "Chú giải Luật Thiện Kiến", quyển 10-11, Pháp sư Tăng-già-bạt-đà-la dịch sang Hoa văn năm 488 TL, Tỳ kheo Tâm Hạnh dịch sang Việt văn năm 2000 TL.
-oOo-
... Ðây là pháp niệm A-na-ba-na (Anàpànasati - quán hơi thở) mà trong luật bản đã nói đến. Sau đây tôi sẽ trình bày đầy đủ về câu văn và ý nghĩa pháp thiền vô thượng mà đức Phật dạy cho các Tỳ kheo. Các vị hãy chú tâm lắng nghe để ghi nhận.
Tỳ kheo hiện tại này, Phật bảo các Tỳ kheo: - Không chỉ có tu tập pháp quán bất tịnh mới trừ diệt được phiền não mà pháp quán hơi thở này cũng trừ diệt được phiền não.
Pháp sư nói: - Tuần tự sẽ giảng rộng, A-na-ba-na (anàpàna) nghĩa là hít vào và thở ra. Như trong kinh có dạy: Tướng trạng hít vào không phải là tướng thở ra, tướng thở ra không phải là tướng hít vào, niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra, niệm hơi thở ra vào thì tâm được định. Niệm hơi thở vào hơi thở ra chính là chánh định. Các vị hãy biết rõ ý nghĩa như vậy.
Sổ quán: nghĩa là nuôi dưỡng (chánh niệm) làm cho tăng lên.
Làm lại: nghĩa là tư duy đi, tư duy lại đến giai đoạn rất tịnh hảo.
Hỏi: - Hai pháp này ý nghĩa thế nào?
Ðáp: - Không giống nhau, bởi vì A-na-ba-na làm cho tâm không còn loạn động, còn quán bất tịnh thường làm cho tâm không ổn định. Tại sao? Vì nhàm chán. Trong luật bản có nói: Pháp này rất an tịnh vi diệu tăng thêm làm cho an lạc mãi, ngay từ khi mới phát tâm cũng đã không bị não loạn nên Như Lai khen ngợi pháp này rất tốt đẹp an tịnh, có khí vi, làm cho thân tâm hoan hỷ thoải mái, dễ thâm nhập.
Pháp khởi là không bị trụ lại, không bị che đậy làm cho pháp ác bị tiêu diệt rất nhanh, đạt bốn đạo quả tùy theo khả năng. Như vào nửa tháng không mưa giữa mùa xuân, voi, ngựa, người, bò dẫm đạp làm cho bụi bay khắp không trung. Vào tháng năm đầu mùa hạ mưa to gió lớn làm cho trên không chẳng còn chút bụi nào nữa. Pháp quán A-na-ba-na diệt trừ phiền não như mưa làm mất bụi.
Phật bảo các Tỳ kheo: - Ðối với pháp thiền định A-na-ba-na (anàpànasati-samàdhi) thì tư duy, chánh niệm và hành trì như thế nào để biết tu tập về niệm hơi thở. Các Tỳ kheo, người nào (vì lòng tốt mà) xuất gia học đạo, ở tại nơi trống vắng, dưới gốc cây, nơi rừng núi là những nơi đưa đến sự an tịnh.
Hỏi: - Thế nào là đưa đến sự an tịnh?
Ðáp: - Tránh xa nơi ồn ào. Như người chăn bò có một con bò nghé phải bú sữa mẹ từ khi mới sinh ra cho đến khi lớn. Khi muốn lấy sữa bò mẹ, phải cột bò nghé vào cây trụ. Bò nghé nhớ sữa nên cứ kéo dây và đạp chân liên tục. Do dây chắc, trụ cứng nên con nghé không thoát ra được phải dựa trụ mà thở. Tỳ kheo như người chăn bò, bò mẹ như làng xóm, tâm là con nghé, sữa là năm dục, cây trụ là A-lan-nhã (aranna), dây cột là pháp niệm hơi thở, tất cả thiền định về niệm hơi thở là pháp được chư Phật, A-la-hán, Duyên giác tôn trọng. Nếu không xa lánh làng xóm tụ lạc thì tu tập niệm hơi thở khó có kết quả. Tỳ kheo tu thiền nào nắm rõ được định này rồi, tức là thâm nhập vào thiền thứ tư và lấy đó làm nơi y cứ để quán sát về khổ, không, vô ngã. Khi quán sát được thành tựu thì chứng quả A-la-hán. Do đó, vì người tu tập thiền mà đức Phật quy định về trú xứ A-lan-nhã.
Ðức Phật như thầy địa lý (vatthuvijjàcariya) muốn xây dựng thành phố, đất nước phải biết phân biệt rõ tướng tốt xấu của các thế đất và tâu vua rằng vùng đất này tốt có thể dựng nước, lập làng xóm... thì vua được lợi lớn. Nghe theo lời, nhà vua cho dựng nước, làng xóm và ban thưởng cho thầy địa lý.
Ðức Phật cũng vậy, biết rõ về các cảnh giới thiền nên nói với người tu tập thiền rằng pháp này dễ thành tựu được thiền. Nghe lời và làm theo Phật dạy, những người tu thiền tuần tự chứng quả A-la-hán, khen ngợi đức Phật cũng như nhà vua tạ ơn thầy địa lý. Những người tu thiền như sư tử ở trong rừng rậm ẩn kín thân để rình cầm thú. Con nào đến gần, sư tử liền vọt ra bắt ăn thịt. Cũng vậy, Tỳ kheo sống ở nơi A-lan-nhã theo dõi từng đạo quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và tuần tự chứng đắc theo từng quả vị. Xưa có bài kệ:
Cũng như vua sư tử, Ở ẩn trong núi rừng, Rình các thú đến gần, Liền bắt ngay, ăn thịt, Phật tử cũng như vậy, Ẩn cư nơi yên tịnh, Tu tập đạo vô thượng, Chứng đắc quả sa-môn.
Dưới gốc cây (rukkhamùlagata) là ngồi hay kinh hành dưới gốc cây.
Tịnh thất (sunnàgàragata), là trừ dưới gốc cây và chỗ A-lan-nhã ra, các chỗ ở yên tịnh khác đều gọi là tịnh thất. Thời tiết thích hợp với thân thể là thuận tiện cho việc tu tập niệm hơi thở. Thế nên trong luật nói: Ngồi kiết già, đó là biểu hiện sự tu tập niệm hơi thở... cũng dễ hiểu.
Ngồi kiết già: dễ hiểu.
Ngồi thẳng là 18 đốt xương sống nối thẳng nhau, thư thả lỏng gân, mạch, da. Nếu ngồi mà giữ cứng các cơ thì rất nhanh mệt nhọc và thối thất khỏi thiền.
Ðặt niệm ở trước (mặt) (parimukham), là chánh niệm vào pháp thiền và đặt nó trước mặt.
Hơi thở vào ra, là sau khi ngồi kiết già ổn định, Tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác niệm hơi thở vào ra như sau: Biết rõ thở hơi dài, biết rõ thở hơi ngắn. Nhờ biết rõ hơi thở dài ngắn nên tâm được tịnh, không còn tán loạn; nhờ không tán loạn nên thành tựu chánh niệm. Nhờ niệm và tuệ phát sinh nên biết rõ hơi thở dài, ngắn. Như đứa bé trong thai, mới vừa ra khỏi thai; (hành giả) có thể biết được hơi thở dài hay ngắn ban đầu của nó.
Biết như thế nào? Cũng như nước chảy tùy theo vật dài ngắn, như voi và rắn vì thân to, dài nên hơi thở vì vậy mà dài, thân con ếch ngắn nên hơi thở ngắn. Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy, nhờ ví dụ này mà biết hơi thở dài ngắn, nhờ chánh niệm nên tâm sinh lạc, nhờ lạc nên hơi thở ra vào dài và vi tế. Tâm trở nên an lạc nhờ hơi thở ra vào và càng an lạc thì hơi thở càng nhẹ và dài. Nhờ lạc nên tâm hoan hỷ và thêm hoan hỷ nửa, hơi thở nhờ vậy càng thêm vi tế khó phân biệt và tiến đến tâm xả. Ðây là chín pháp (nava àkàrà), các vị hãy biết lấy.
Biết rõ toàn thân, ta thở ra; biết rõ toàn thân, ta thở vào, biết rõ hơi thở vào ra toàn thân; biết rõ hơi thở dài, ngắn, trước, giữa, sau một cách rõ ràng, bằng tâm biết rõ sự biết này, biết hơi thở trước và sau. Lại nữa, có Tỳ kheo tu tập thiền thấy hơi thở ra như rải bụi. Thấy rõ trong hiện tại, thấy bắt đầu thở ra, không thấy giữa và sau, muốn thấy giữa và sau thì tâm cũng không cảm nhận được. Lại nữa, khi đã thở ra thì chỉ thấy hơi thở ở giữa chứ không thấy hơi thở trước và sau. Lại nữa, khi thấy hơi thở ra ở đoạn sau thì không thấy hơi thở ở đoạn đầu và giữa.
Lại có Tỳ kheo thấy rõ hơi thở ở cả ba giai đoạn đầu, giữa, cuối, vì tâm vị ấy không có mệt mỏi. Ai đạt được như vậy là thiện xảo với pháp thở ra vào.
Người học về thiền này không nghỉ, không ngưng lại, luôn luôn quán sát hơi thở ra vào thì hộ trì được ba nghiệp thân, miệng, ý, gọi là giới học và định, tuệ. Tâm định gọi là định-học. Nếu phân biệt rõ được giới và định thì gọi là tuệ. Ðây là ba học. Ðối với quán xứ này, dùng chánh niệm đem tâm tùy thuận theo pháp đã học và liên tục duy trì như vậy cho đến về sau.
Người nào chuyên cần học như vậy sẽ diệt được hơi thở vào, hơi thở ra. Phần thô của hơi thở ra và vào bị diệt. Diệt nghĩa là (diệt) sự trú vào (phần thô). Thô là gì? Tỳ kheo mới vào thiền thì thân tâm mệt mỏi nên hơi thở ra vào thô nặng đầy cả hai lỗ mũi và theo miệng thở ra vào nên thô. Khi thân tâm không còn mệt nhọc thì hơi thở dần dần nhẹ đến vi tế và Tỳ kheo sẽ sinh ý nghĩ phân vân ta còn có hơi thở ra vào hay không. Như người leo lên núi cao, thân tâm mệt nhọc, hơi thở nặng nề, nhưng lúc đi xuống núi đến chỗ bằng phẳng, có ao nước và cây lớn. Người này sau khi xuống ao tắm, đến nghỉ dưới bóng cây, hoặc ngủ hoặc ngồi nghỉ, thân tâm trở nên mát mẻ và hơi thở trở nên nhẹ nhàng vi tế. Tỳ kheo vừa nhập định cũng như vậy, khi chưa điều phục đuợc thân tâm nên hơi thở ra vào thô nặng. Vì sao? Vì không chánh niệm. Niệm trở nên vi tế vì điều phục được thân tâm. Như có bài kệ:
Thân tâm rất mệt nhọc, Nên hơi thở thô nặng.
Thiền thứ nhất thô (olàrika), thiền thứ hai vi tế (sukhuma), thiền thứ ba tế hơn, thiền thứ tư là định. Thiền thứ ba là thô, thiền thứ tư gọi là tế. Ðây là chỗ tận cùng của hơi thở. Nếu không giữ lấy hơi thở thì hơi thở vào ra thô, nếu giữ hơi thở vào ra thì hơi thở tế. Không giữ nghĩa là thả hơi thở. Giữ hơi thở nghĩa là bắt đầu thiền thứ tư chỉ còn giữ tâm, đến khi vào thiền thứ tư thì không còn hơi thở vào ra. Ðây gọi là pháp Xá-ma-đà (samatha - thiền chỉ).
Pháp Tỳ-bà-xá-na (vipassanà - thiền quán) không giữ phần rất thô của hơi thở ra vào, quán sát bốn đại là tế, nếu quán Ưu-ba-đà-na sắc tế (upàdàrùpapariggahe sukhuma - sở tạo sắc biến thủ vi tế), sắc thô (năm căn và năm cảnh - người dịch) do bốn đại tạo thành. Lại quán sát tất cả sắc tế, sắc thô do bốn đại tạo thành, lại quán vô-sắc tế, tất cả sắc thô sở tạo. Lại quán sắc và vô sắc tế, vô sắc sở tạo thô, lại quán nhân duyên tế, sắc và vô sắc sở tạo thô. Lại quán nhân và danh sắc tế, nhân duyên sở tạo thô. Lại quán tướng quán Tỳ-bà-xá-na tế, nhân và danh sắc sở tạo thô, quán tiểu tỳ-bà-xá-na tế, quán tướng tỳ-bà-xá-na sở tạo thô, quán đại tỳ-bà-xá-na tế, quán tiểu tỳ-bà-xá-na sở tạo thô. Theo thứ tự như trước, thứ tự trước là tế, sau dần là thô. Thô tế Ba-tát-đề (passaddhi - yên tịnh không mệt nhọc) được nói trong Tam-bạt-đà (patisambhidà).
Hỏi: - Thế nào là học về diệt hơi thở ra, hơi thở vào? Thế nào là hơi thở ra? Thế nào là hơi thở vào?
Ðáp: - Niệm về thân có hơi thở vào, học diệt hơi thở ra và hơi thở vào, nhờ vậy thân tâm không nghiêng ngả, rút lại, lay động, yên tịnh đến vi tế cực độ như không còn thân. Ðây gọi là học diệt hơi thở vào hơi thở ra. Với hơi gió an trụ như vậy mà chưa thành tựu niệm A-na-ba-na thì cũng chưa thành tựu quán, chưa thành tựu trí tuệ thì chưa vào được định này và cũng chưa xuất định này. Nếu học diệt hơi thở vào, hơi thở ra mà thành tựu thì hơi gió an trụ không còn sinh nữa, gọi là đã mở được trí tuệ hoàn toàn. Người nhập được vào pháp này thì cũng từ đó xuất ra được.
Tại sao biết được? Ví như đánh vào vật bằng đồng, bắt đầu phát tiếng to sau đó nhỏ dần. Ðã nhớ rõ tiếng lớn thì sau đó cũng ghi nhớ rõ tiếng nhỏ dần trong tâm. Sa đó tiếng nhỏ dần rồi mất hẳn nhưng âm thanh vẫn còn ghi trong tâm. Hơi thở ra, hơi thở vào cũng như vậy, trước thô sau vi tế, ghi nhận bắt đầu là thô và dần dần đến tế. Ðến khi tế thì hơi thở không còn, nhưng vẫn còn ghi nhớ trong tâm, do sự ghi nhớ ấy nên tâm định trụ. Như vậy là đắc (định nhờ) hơi thở về gió. Tâm đã định trụ do tập luyện mà thành tựu về quán hơi thở vào, thở ra. Như vậy là thành tựu về định hơi thở vào hơi thở ra. Người trí nhập vào và xuất khỏi định này do sự chứng đạt trên. Do đó, trong luật nói rằng diệt hơi thở ra, hơi thở vào rồi thì sau đó (có thể) tùy theo niệm mà phát sinh, nên gọi là tùy quán.
Biết rõ hơi thở vào, hơi thở ra không phải tùy niệm, tùy niệm cũng không phải hơi thở vào hơi thở ra. Nhờ hai pháp này, biết quán sát rõ về thân này nhờ đó chứng đắc quả A-la-hán. Người mới học thiền phải học theo trình tự sau: Tỳ kheo với tâm thiện phải hộ trì thanh tịnh bốn loại giới.
Thanh tịnh có ba:
Một, không phạm giới. Hai, lỡ phạm phải sám hối. Ba, không bị các phiền não phá hoại.
Hộ trì giới thanh tịnh như vậy thì thành tựu chánh niệm và đồng thời nên làm phòng Phật, xây dựng khu vực cây Bồ đề, làm phòng tắm cho hòa thượng, A-xà-lê; làm nhà thuyết giới. Trong phần xây cất phòng xá thuộc 82 kiền-đà-ca có nói đến bốn loại xây cất như vậy (cetiyangavatta- bodhiyanganavatta- upajjhàyavatta- àcariyavatta- jantàgharavatta- uposathàgàravatta- dvevisatikhandhakavattàni-cuddasavidhamahàvatta). (Ai) thực hiện được như vậy là khéo trì giới. Tỳ kheo nào ưa thích học giới này nên giữ đầy đủ. Nếu Tỳ kheo nói: Tôi giữ giới đầy đủ không bị hư khuyết, mà không (suy nghĩ rằng ta sẽ chết nên từ bỏ các việc làm vô ích khác, để chăm chỉ chuyên cần trì giới. Tỳ kheo như vậy mà đầy đủ giới thì không thể có. Tỳ kheo nào khéo giữ giới thì Tỳ kheo ấy viên mãn về giới. Nhờ viên mãn giới nên đắc định. Tại sao? Như trong kinh có nói: Phật bảo các Tỳ kheo rằng nếu người không học tập hoàn hảo về giới thì giới của người ấy khó đầy đủ. Có bài kệ:
Chùa, gia định, lợi dưỡng, Chúng, xây dựng là năm, Ði chơi, thân thuộc, bệnh, Ðọc, thần thông là mười.
Ai có thể xa lìa mười pháp quyến luyến này (dasa-palibodhà - mười pháp trở ngại cho sự giác ngộ) thì sau đó mới có thể nhập định. Pháp thiền định có hai loại. Một là quán tất cả (sabbatha kammatthàna). Hai là nhiếp thân thuộc (parihàriya kammatthàna).
Hỏi: - Thế nào là quán tất cả?
Ðáp: - Ðầu tiên là đối với Tỳ kheo tăng, có tâm đại bi, niệm chết, quán bất tịnh. Tỳ kheo có tâm từ thì bắt đầu quán từ tâm này như thế nào. Khi bắt đầu quán, Tỳ kheo phải quán theo từng phạm vi. Ðầu tiên là quán về Tỳ kheo tăng, sau đó là quán về các vị trời, người sau đó quán về đại phú gia, rồi quán đến người thường, sau đó quán đến khắp cả chúng sinh.
Hỏi: - Vì sao phải quán tâm từ về Tỳ kheo tăng trước?
Ðáp: - Vì sống chung. Nếu tâm từ bao phủ khắp chúng Tỳ kheo thì được sống an lạc.
Hỏi: - Vì sao phải quán tâm từ về các vị trời?
Ðáp: - Vì sự hộ trì, nếu tâm từ bao phủ khắp chư thiên thì chư thiên làm theo thiện pháp với tâm nhu hòa.
Hỏi: - Tại sao phải quán tâm từ về đại phú gia?
Ðáp: - Ðể họ làm theo pháp thiện.
Hỏi: - Tại sao phải quán tâm từ về người thường?
Ðáp: - Vì cùng hành pháp như nhau nên không hại nhau.
Hỏi: - Tại sao phải quán tâm từ về tất cả chúng sinh?
Ðáp: - Vì cho chúng không còn khổ nạn.
Hỏi: - Tại sao phải niệm cái chết?
Ðáp: - Ðể tăng trưởng tâm thương mình nên không còn biếng nhác.
Quán bất tịnh là thánh quán. Quán pháp bất tịnh này thì được xa lìa dục và tất cả pháp ác. Dục là căn bản, nên phải tôn trọng pháp quán bất tịnh vì nó thành lập được các pháp thiện, nên gọi là quán tất cả.
Ðối với 38 pháp quán (atthatimsàrammanàni), tùy ý tu tập, tu tập liên tục thì gọi là nhiếp quán. Ðây gọi là niệm A-na-ba-na thể nhập nhiếp quán.
Pháp sư nói: - Nay tôi nói lược, vị nào muốn biết rõ thì xem đủ trong A-tỳ-đàm Bà-sa (Visuddhimagga, Thanh tịnh đạo).
Giữ tịnh giới như vậy và xa lìa các duyên sự (upacchinnapalibodha) thì nhập định A-na-ba-na. Nhờ vào định A-na-ba-na nên đi sâu vào bốn thiền và tiếp theo là quán khổ, không, vô thường. Quán như vậy rồi, đến hỏi vị A-la-hán. Nếu không có vị A-la-hán thì hỏi vị A-na-hàm. Nếu không có vị A-na-hàm thì hỏi vị Tư-đà-hàm, nếu không có vị Tư-đà-hàm thì hỏi vị Tu-đà-hoàn. Nếu không có vị Tu-đà-hoàn thì đến hỏi vị đã đắc thiền.
Hỏi: - Tại sao phải hỏi những vị như vậy?
Ðáp: - Những vị ấy đã đắc thiền nên dễ chỉ dẫn cho ta.
Ví như theo dấu chân voi thì dễ tìm đường, không bị lạc lối. Người đắc đạo, đắc thiền cũng như vậy. Tại sao? Vì chỉ dạy cho ta dễ dàng.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ nói bước đầu về sự tu tập. Vị Tỳ kheo với trang phục gọn gàng đơn giản, không chứa vật dư, đầy đủ uy nghi đi đến gặp vị thầy. Ðến nơi, hành giả phải phục vụ (vatta) hoàn toàn theo ý muốn của vị thầy. Từ từ, vị thầy với lòng thương nên cho nhận năm việc. Ðó là: lấy, hỏi, bắt đầu, giữ, tướng.
- Lấy (thủ) là cho nhận lấy pháp thiền. - Hỏi là được hỏi theo trình tự. - Bắt đầu là đi vào pháp thiền định. - Giữ là giữ vững lấy pháp thiền định. - Tướng là phân biệt tướng mạo thiền định.
Ðây là năm phần.
Bước đầu phải nhận lấy năm phần ấy vì làm cho thân thể không mệt nhọc và không làm cho thầy dạy bị mệt nhọc. Năm phần này dễ ghi nhớ và dễ tu tập theo nên được dạy trước.
Nhận lấy năm phần này rồi, nếu tại chỗ ở của thầy thuận tiện thì ở lại, nếu không tiện thì đi ở nơi khác. Người không có trí tuệ thì ở cách xa thầy một do-tuần. Người có trị tuệ thì được ở xa hơn. Nên xa lìa 18 loại trú xứ thì tốt (atthàrasesanàsana). Có năm chỗ ở nên nhận (pancasenàsana). Nhận rồi nên chấm dứt các công việc nhỏ nhặt, sau khi dùng bữa trưa nên nghỉ ngơi một chút. Sau khi nghỉ trưa xong, nên niệm đến Tam bảo làm cho tâm hoan hỷ. Phải theo lời thầy dạy, không được quên mất. Phải ghi nhớ rõ pháp a-na-ba-na này trong tâm.
Pháp sư nói: - Tôi đã nói sơ lược, trong A-tỳ-đàm nói rộng hơn, ông hãy tìm hiểu lấy.
Ghi nhận trong tâm là đếm, theo dõi (tùy), xúc chạm, an trí, quan sát, quay lại, thanh tịnh, quán sát lại (ganàna anubadhanà thabanà sallakkhanà vivattanà pàrisuddhi tesan ca patipassanà).
- Ðếm là bắt đầu với số một, hai. - Theo dõi là ghi nhận liên tục hơi thở ra vào. - Xúc chạm là nơi hơi thở tiếp xúc (khi ra vào). - An trí là đạo. - Tịnh là kết quả. - Quán lại là pháp tướng.
Với người mới học, ban đầu niệm rõ trong tâm pháp đếm số mà bắt đầu từ số nhỏ từ một đến năm và đếm trở lại, không được chỉ đếm đến ba hay bốn. Số lớn hơn là đếm từ một đến mười rồi đếm ngược lại, không được đếm đến tám, chín.
Hỏi: - Nếu đếm chỉ đến ba hay bốn thì có gì không tốt?
Ðáp: - Nếu hơi thở bị thúc ép thì khó điều khiển được tâm, như trong chuồng có quá nhiều bò đang chen chúc lấn ép nhau thì chúng sẽ phá chuồng để ra. Nếu đếm đủ mười thì thân thể thoải mái như chuồng rộng rãi. Chuồng rộng thì bò được nuôi dưỡng dễ dàng.
Hỏi: - Nếu đếm đến tám, chín thì có gì không tốt?
Ðáp: - Không làm cho nhầm lẫn nhưng sinh tâm phân vân, hoặc cho rằng ta được thiền vị, nên sinh tâm mê hoặc. Với lỗi lầm như vậy, ông hãy từ bỏ. Nếu đếm hơi thở mà đếm rõ chậm rãi từ từ từng số, thì như người đong ngũ cốc, đầu tiên đổ vào cho đầy rồi mới đếm một, sau đó mới đong phần ấy sang. Nếu có cỏ đất thì ông ta nhặt vứt bỏ ra, khi đổ vào đầy và đếm hai (rồi mới đong), tuần tự đong như vậy cho đến mười. Tỳ kheo tọa thiền đếm số (trước) hơi thở ra vào cũng như vậy.
Nếu đếm nhanh thì như mục đồng đếm bò. Ðếm như thế nào?
Mục đồng có trí, tay cầm roi, ngồi ngay trên trụ cửa chuồng, dùng viên...làm số (sakkaram khipitvà) (để đếm) và lùa bò ra ngoài. Khi lùa bò ra thì ông ta bắt đầu đếm một, hai,ba, bốn, năm... đến mười con.
Tại sao đếm như vậy? Có lúc bốn đại không đều hòa, hơi thở vào ra nhanh thì tùy theo sự vào ra của hơi thở mà đếm nhanh 1. 2. 3. 4. 5; 1.2.3.4.5. Khi đếm bò, người chăn đứng ngay cửa mà đếm, không đếm bò đang ở trong hay ngoài cửa. Nhờ theo dõi số đếm mà tâm được định. Vì sao? Như người đi thuyền ngược dòng nước chảy xiết (candasota), dùng cây sào chống một, hai, ba, bốn, năm làm cho con thuyền được vững vàng (để đi lên). Thở vào thở ra cũng vậy. Vì sao? Tâm ví như chiếc thuyền, hơi thở vào ra như cây sào chống, (thuyền) tâm trôi chảy theo (sông) năm dục mà được hơi thở vào thở ra chế ngự làm tâm ổn định. Nếu hơi thở vào mà tâm theo vào, như chất bổ vào thân làm cho no đầy. Nếu thở ra mà tâm tùy theo ra, làm pháp quán bị rộng lớn (phân tán). Do phân tán rộng nên tâm khó được điều phục. Trừ hai pháp này, vị ấy chỉ trụ tâm tại chỗ hơi thở tiếp xúc (chóp mũi hay đầu môi trên) thì sau đó sẽ đắc định. Thế nên trong luật bản nói: Không được đếm theo hơi thở ở trong hay ngoài.
Vậy đếm đến bao giờ mới ngưng? Nếu tâm không còn loạn mà vẫn biết rõ hơi thở ra vào thì không cần đếm nữa. Như vậy là đã bằng phương tiện đếm mà được tùy niệm (an trú niệm).
Thế nào là tùy niệm? Biết rõ hơi thở ra vào, không cần nhờ vào sự đếm nữa mà vẫn biết rõ và an trú niệm trên ba chỗ (hơi thở ra đi). Nếu thở ra thì bắt đầu là rốn, giữa là tim, cuối là chóp mũi (nàbhi àdi hadayam majjham hàsikà poriyosàham). Nếu thở vào thì bắt đầu ở chóp mũi, giữa là tim và rốn là cuối. Nếu tâm đi theo hơi thở thì tâm không định. Do tâm không định thì tâm bị dao động. Thế nên trong luật nói: Nếu tâm đi theo hơi thở ra, hơi thở vào thì bên trong tâm không định và trong tâm ngoài thân đều dao động. Do dao động nên không đắc định. Nếu đi theo hơi thở vào và ra là như vậy. Thế nên không được theo hơi thở vào và ra ở giai đoạn giữa và sau, chỉ chú tâm ở chóp mũi, bám chặt vào đó và ghi nhận hơi thở ra vào. Nếu từ bỏ sự đếm số thì tâm ghi nhận tự vào định. Như có người bị què trông giữ em bé bằng cách đặt em bé trong cái nôi treo ở giữa nhà, ngồi một chỗ, lắc cái nôi qua lại mà (người ấy) vẫn ở một chỗ chứ không phải di chuyển bằng tay. Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy. Lại nói: Ví như người giữ cửa, không cần hỏi trước với những người ra vào, chỉ hỏi khi họ đến ngay cửa, cũng không hỏi họ từ đâu đến và cầm những vật gì, chỉ biết họ có ra vào mà thôi. Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy, không cần biết trước và nghĩ lấy thở ra vào. Như vậy, ông hãy tự biết lấy.
Phật dạy: -Ai biết rõ ba pháp thì tâm được định.
Ba pháp ấy là:
Một, ưa thích vào. Hai, phương tiện. Ba, được tăng trưởng.
Như cây gỗ lớn được đặt vững trên mặt đất. Có người muốn xẻ cây này, trước tiên xem xét vỏ cây, sau đó dùng cưa xẻ ra, tâm luôn chuyên chú nhìn (chỗ) răng lưỡi cưa (tiếp xúc với gỗ), làm cho nó đi thẳng đường chứ không nhìn lưỡi cưa qua lại. Quán hơi thở ra vào cũng vậy. Tư duy về pháp thiền đang hành trì, với phương pháp hoàn bị như cây gỗ lớn vững trên đất. Quán sát kỹ chung quanh cây, như tâm khéo tư duy về pháp thiền. Hơi thở ra vào cũng như lưỡi cưa qua lại. Tâm chú ý vào lưỡi răng cưa, như chú ý vào đầu mũi. Tỳ kheo tọa thiền nên hiểu ví dụ này, với thiền định trong hiện tại, với phương tiện hoàn bị thì đật đến chỗ tăng thượng.
Hỏi: - Thế nào là thiền định?
Ðáp: - Thân tâm tinh tấn và thành tựu nhuần nhuyễn là thiền định.
Hỏi: - Thế nào là phương pháp (payoga) hoàn bị?
Ðáp: - Với dũng mãnh tinh tấn làm tiêu trừ phiền não và diệt tận suy nghĩ.
Hỏi: - Thế nào là đạt đến chỗ tăng thượng?
Ðáp: - Bằng dũng mãnh tinh tấn làm tiêu trừ kiết sử (samyojana).
Ba pháp (tướng, thở vô, thở ra) không phải được thành tựu chỉ do nhất tâm quán sát mà cũng phải nhờ biết rõ ba pháp ấy. Và tâm không dao động là nhờ vào pháp thiền định trong hiện hành, phương pháp hoàn bị thì đưa đến chỗ tăng thượng. Khi đắc được như vậy rồi, sau đó tâm dán chặt vào A-na-ba-na thì gọi là thành tựu. Tỳ kheo nào thực hành pháp niệm A-na-ba-na thì vị ấy làm sáng chói thế gian như mặt trăng ra khỏi mây.
Trong thiền định này, có người mới làm thì có tướng lành xuất hiện, có người nhờ sổ-tức mà hiện ra tướng lành.
Tướng lành ấy thế nào? Tỳ kheo này ngồi dưới đất hay trên giường, không có tọa cụ, mà (có cảm giác) chỗ ngồi ấy lại mềm mại như bông gòn. Vì sao? Vì đã sổ-tức nên làm cho thân thể nhẹ nhàng thoải mái, và tuần tự, hơi thở ra vào thô bị diệt, thân tâm nhẹ nhàng vô cùng, như ở giữa không trung. Khi hơi thở trở nên vi tế thì như có như không. Như người đánh khánh thì (âm thanh phát ra) trước lớn sau nhỏ. Tỳ kheo tọa thiền sổ tức cũng vậy. Thế nên trong luật nói trước to lớn sau nhỏ dần.
Pháp sư nói: - Thiền định sổ tức này khác với những thiền định khác. Những thiền định khác thì trước vi tế sau thô. Tỳ kheo nào vào thiền sổ tức này mà thiền tướng không hiện rõ thì không nên đứng dậy mà nên yên tâm ngồi ngay thẳng và tư duy. Tư duy như thế nào? Khi đã biết thiền tướng không hiện rõ, vị ấy nên tự nói: hơi thở vào hơi thở ra này nơi nào có nơi nào không, có với ai, không có với ai. Và tự nói rằng người đang ở trong thai mẹ, không có hơi thở ra vào, khi đang lặn trong nước không có hơi thở ra vào, chư thiên ở cõi Trường Thọ cũng không có hơi thở ra vào, nhập vào thiền thứ tư cũng không có hơi thở ra vào, thây chết cũng không có hơi thở ra vào, sắc hay vô sắc giới cũng không có hơi thở ra vào, diệt tận định cũng không có hơi thở ra vào.
Sau khi suy nghĩ như vậy rồi, hành giả tự chê trách thân mình: Ngươi là người trí tuệ, không phải đang ở trong bụng mẹ, không ở trong nước, không ở cõi trời sắc và vô sắc giới, không phải đang vào định diệt-tận, không phải đang ở cõi trời Trường Thọ, chẳng phải là thây chết, cũng không phải đang ở cõi thiền thứ tư. Ngươi đang có hơi thở ra vào rất vi tế mà không thể biết được, hãy chú tâm lại. Nếu với người có mũi dài, thì đặt tâm ở lỗ mũi (nàsàputa). Nếu người có mũi ngắn thì chú tâm trên đầu môi trên. Thế nên phải giữ chặt ở vị trí này.
Như trong kinh có nói: Phật bảo các Tỳ kheo, người nào hay quên, không tỉnh giác chú tâm được thì không thể nhập thiền định A-na-ba-na. Không chỉ riêng thiền định A-na-ba-na mà đối với các thiền định khác cũng vậy. Nếu ai chánh niệm được thì thiền định sẽ hiện rõ. Thiền định A-na-ba-na này rất trọng yếu. Chư Phật, Bích-Chi-Phật, đại A-la-hán (Buddhapahà) đều dùng pháp niệm A-na-ba-na này làm nền móng và sau đó mới được đắc đạo, tùy niệm đưa đến cực tịnh. Thế nên trong định này tùy niệm phải được tăng trưởng cùng trí tuệ.
Như may trên tấm vải rất mỏng thì phải dùng kim chỉ rất nhỏ. Kim ví như tùy niệm, chỉ như trí tuệ, liên kết với nhau không gián đoạn, nhờ vào hai pháp này, không cho quên mất hơi thở vào và hơi thở ra. Như người cày ruộng, khi con bò đã mệt và người cày cũng mệt thì thả cho bò nghỉ ngơi. Sau được thả ra, bò đi vào rừng. Nghỉ ngơi xong, người kia lại đi tìm bò nhưng không cần tìm theo dấu chân bò, mà đi thẳng vào rừng, đến nơi bò thường đi lại uống nước và nằm hoặc ngồi chờ cho bò uống nước xong, dùng dây xỏ mũi bò và cầm gậy tiếp tục lùa nó trở lại cày ruộng. Cũng như vậy, Tỳ kheo thiền định về thở ra thở vào khi quá mệt thì tạm thời ngừng lại và nghỉ ngơi, không theo dõi hơi thở ra vào nữa mà chỉ đặt (niệm) ở chóp mũi, chú ý và đếm hơi thở ra vào với chánh niệm ví như sợi dây (cột mũi bò) và trí tuệ ví như cây gậy và cứ tiếp tục chú ý đến (chỗ) hơi thở vào ra.
Nếu làm được như vậy thì không bao lâu thiền tướng (nimitta) sẽ hiện rõ (trở lại) và thân thể khoan khoái như tiếp xúc với bông gòn, thân cảm thấy mềm mại. Có người thấy như chạm vải kiết bối, có người thấy như chạm luồng gió mạnh, có người thấy như các vì sao, có người thấy như chuỗi ngọc, có người thấy như ngọc trắng bị vung vãi, có người thấy như (chạm) phải hạt hoa kiết bối, có người thấy như sợi dây, có người với sự tiếp xúc thô cứng, có người thấy như ánh lửa, có người thấy như con khỉ, có người thấy như mây nổi, có người thấy như hoa sen, có người thấy như bánh xe, có người thấy như trăng tròn.
Vì sao? Như trong kinh nói: Các Tỳ kheo tập họp tụng kinh nhưng mỗi người lại thấy điềm lành khác nhau. Có người thấy như núi non, như dòng sông, như cây rừng, tuy rằng với sự bắt đầu như nhau.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:21:24 GMT -5
Hỏi: - Với núi non, dòng sông và cây rừng, do đâu mà có sự khác nhau này?
Ðáp: - Từ tâm tưởng mà có. Do ý tưởng của từng người khác nhau nên sinh ra tướng khác nhau. Có người quán về hơi thở ra, có người quán hơi thở vào, có người quán thiền tướng (nimittàranamana). Nếu không quán như vậy thì cũng không phát minh được pháp A-na-ba-na (anapana-sati) và không thành pháp sơ thiền. Nếu có ba pháp này thì thành tựu thiền định.
Tỳ kheo tọa thiền nếu có xuất hiện tướng như vậy nên đi thưa với thầy: Con thấy tướng trạng như vậy.
Thầy đáp rằng là tướng thấy chứ không nói là tướng thiền nhưng cũng không nói chẳng phải tướng thiền.
Sau khi dạy như vậy, vị thầy nói: - Trưởng lão! Thầy hãy gia tâm thêm.
Pháp sư nói: - Vì sao vị thầy không nói đó là thiền tướng hay chẳng phải thiền tướng?
Ðáp: - Nếu nói với vị ấy cụ thể riêng từng phần, đấy là thiền tướng thì (vị ấy) sinh tâm giải đãi (vì kiêu căng nên bỏ phế); nếu nói không phải thiền tướng thì (vị ấy) thối tâm. Do đó không nói từng phần mà chỉ ân cần dạy bảo, thì thiền tướng tự hiện.
Xưa có bài kệ:
Dán tâm nơi pháp quán Sẽ hiện ra nhiều tướng, Nếu người có trí tuệ, Giữ tâm tiếp tục niệm Ở hơi thở ra vào, Tinh cần không tán loạn.
Khi thiền tướng xuất hiện, thì các triền cái bị quản thúc, các phiền não lặng yên tự ngưng lại. Nhờ hai pháp này mà tâm được an trụ và trở thành định, hoặc đắc sơ địa, hoặc đắc trừ phiền não địa, hoặc nhờ vào sự xuất hiện các thiền chi mà đắc sơ địa (cận hành định). Ðây là đang đắc sơ định địa.
Hỏi: - An trú vào định (an chỉ định) và sơ định (cận hành định) là khác hay giống nhau?
Ðáp: - Khác nhau, sơ định - cận hành định - là tâm đã thuần thục, đi vào chỗ an trú của tâm (Bà-bàn-già - Bhavanga, hữu phần: chỗ tâm yên nghỉ). An trú vào định - an chỉ định - là tâm trong cảnh giới này luôn cả ngày đã thuần thục không còn tùy thuộc vào Bà-bàn-già. Hai pháp này khác nhau như vậy.
Nếu thiền tướng đã hiện rõ, do quán sắc hoặc quán tướng mạo thì phát triển thêm. Như vua Chuyển Luân còn ở trong thai, được cha mẹ yêu mến bảo hộ, ở nơi điều hòa ấm mát và dùng các thức ăn thích hợp. Nếu khéo nuôi dưỡng thì sẽ được kết quả tốt đẹp.
Tỳ kheo hộ trì thiền tướng cũng vậy, nếu không hộ trì luôn thì bị mất. Vậy hộ trì như thế nào?
Một: Ở trú xứ thích hợp. Hai: Khu vực đi lại (khất thực) thuận tiện. Ba: Thân cận người thiện. Bốn: Thực phẩm thích hợp. Năm: Khí hậu điều hòa. Sáu: Chọn uy nghi đi, đứng, ngồi, nằm thích hợp. Bảy: Tránh xa sự ồn ào và nhất là ăn uống.
Nhờ bảy pháp này hộ trì thì thiền tướng được an trú kiến cố.
Tuần tự, thiền tướng tăng trưởng và hiện rõ rồi, các căn được rất thanh tịnh nhu nhuyến thì đối với tâm, nếu muốn thì có thể giữ lại hay buông thả, sinh khởi hay điều phục, hoan hỷ hay xả một cách dễ dàng, gần gũi người đắc thiền tướng và tránh xa người chưa đắc thiền tướng, chí tâm đối với thiền và biết rõ thiền tướng. Ðối với mười pháp này người trí khéo an trú tâm vào, không được biếng nhác, nên tinh cần tu tập, nên suy nghĩ rằng ta hãy an trú vững vào định và xả bỏ tâm Bà-bàn-già (hữu phần) mà khởi lên ý muốn hướng tâm (manadvàvajjanam uppajjati) trụ trong một sát na rồi diệt, lại khởi lên bốn hay năm (4,5) xà-bà-na (javana - tốc hành tâm).
Năm tâm này gồm có: 1- Tâm tác động; 2- Tâm học (cận-hành); 3- Tâm tùy thuận; 4- Tâm trung gian; 5- Tâm an trú.
Nếu gom năm tâm này thành bốn, thì: 1- Tâm tác động cận hành; 2- Tâm tùy thuận; 3- Tâm trung gian; 4- Tâm an trụ. Tâm thứ tư này cũng gọi là tâm thứ năm, không có thứ sáu và thứ bảy.
Những tâm trước thuộc dục giới, tâm thứ năm (an trụ) này thuộc sắc-giới. Nhờ vào tâm này nên diệt năm chi (triền cái) và phát sinh năm thiền chi (tầm, từ, hỷ, lạc, nhất tâm), đầy đủ mười tướng (đặc tính) tốt đẹp cả ba (giai đoạn) và đắc thiền thứ nhất rồi, thì tư niệm trong pháp quán này hoàn toàn bị diệt và đắc thiền thứ hai, diệt tướng này luôn thì chứng thiền thứ ba, đến thứ tư. Huấn luyện tâm và vượt lên trên.
Pháp sư nói: - Ðây là nói lược, nếu nói rộng thì hãy xem trong Thanh-tịnh-đạo (Visuddhimagga).
Tỳ kheo đã đắc thiền thứ tư rồi, khéo ghi nhận và làm cho tăng trưởng. Nếu muốn đạt đến chỗ hoàn toàn chân thật thì thiền thứ tư này có năm điều tốt đẹp. Một, tâm trú; hai, nhập vào; ba, sắc (quyết định); bốn; xuất ra; năm, quán sát trở lại. Nhờ năm pháp này mà đạt đến chỗ chân thật.
Tỳ kheo này đã tụ tập thông suốt (pháp thiền này) có thể bắt đầu quán sát với sắc, hoặc bắt đầu với vô sắc. Quán sắc và vô sắc rồi lại tu tập tăng lên với pháp Tỳ-bà-xá-na (Vipassana, niệm xứ). Tăng lên như thế nào?
Tỳ kheo xuất khỏi thiền thứ tư rồi, vẫn nắm vững thiền chi (jhànanga). Sau khi nắm vững thiền chi này trong tâm, tâm y vào bốn đại chủng (cattàibhutani) mà quán sát thân bốn đại. Từ thiền chi này mà nói thì bắt đầu là phi sắc (tâm) xứ. Do pháp sắc, phi sắc (tâm) này mà thấy (tâm) thức. Bắt đầu với bốn đại chủng mà có sắc cộng với các sắc tâm thức không phải sắc. Nếu xuất khỏi định và (trở lại) thở vào thở ra thì thân và tâm là nhân của nó. Như ống bệ bằng da của người thợ rèn, nhờ sức chuyển động nên có hơi gió vào. Hơi thở ra vào cũng vậy, nhờ vào thân tâm nên thở ra vào. Tỳ kheo này thấy hơi thở ra vào nên thấy thân, thấy sắc tâm sở.v.v... cùng với các pháp phi sắc tâm này. Nhờ thấy rõ danh sắc như vậy, lại quán sát thấy rõ nhân duyên làm cho danh sắc nối tiếp mãi không ngừng trong ba đời.
Do danh sắc nối mãi nên sinh hoài nghi. Sau khi đoạn trừ nghi ngờ (kankhà) rồi thì quán sát ba tướng (của danh sắc là khổ, vô thường, vô ngã), sau khi quán ba tướng rồi, lại quán sát sự sanh diệt. Nhờ quán sát sanh diệt nên trước tiên thấy ánh sáng và xa lìa mười phiền não thuộc Tỳ-bà-xá-na (dasavipassanùpakilesa). Sau khi xa lìa (mười phiền não trên) vị ấy phát sinh trí tuệ về đạo (patipadà-nàna, hành đạo tri kiến). Sau khi vượt qua pháp đã phát sinh, lại thấy rõ pháp sanh diệt (udayam pahàya bhangànupassanam patvà) và các niệm kế tục nhau bị tiêu diệt. Nếu hai trí này (đạo trí và hoại diệt trí) đã phát sinh thì đối với ba cõi, hành giả sinh (tâm) nhàm chán (sabbasankhàresunibbindanto). Và tuần tự đắc bốn đạo như vậy, hành giả đạt đến quả A-la-hán. Có 19 trí quán sát (ekùnavísatibhedassapacavekkhan ànànassa pariyatappatto sadevakassa lokassa aggadakkhineyyo hoti) biết rõ (các pháp) đến cùng tận, và vị này trở thành bậc ruộng phước vô thượng cho ba cõi gồm cả phạm, ma, Sa-môn, Bà-la-môn.
Ðây là pháp niệm hơi thở vào hơi thở ra. Và đã giải thích xong bốn câu đầu của phần thứ nhất (bốn đề tài niệm về thân).
Bốn câu trong ba phần còn lại cùng với các thiền khác không khác. Thế nên, tôi sẽ giảng giải.
Giác là đang cảm giác về hỷ: (trong đề tài) tôi đang (cảm giác) hít vào thở ra rõ ràng với hỷ. Ðược cảm giác hỷ nhờ vào hai việc. Ðó là:
1- Ðối tượng quán. 2- Không mê mờ.
Thế nào là có cảm giác hỷ đối với đối tượng quán? Khi vào hai thiền thì có hỷ. Ở trong thiền này, khi muốn được (hỷ thọ) với trí tuệ thì với đối tượng quán, tự nhiên được cảm giác hỷ thọ. Thế nên nhờ vào đối tượng quán mà được cảm giác hỷ thọ.
Thế nào là nhờ không mê mờ mà có cảm giác hỷ thọ? Hai thiền đều có hỷ, sau khi nhập và xuất thiền này thì trí tuệ quán sát hỷ ấy (sẽ bị) tiêu diệt nơi thiền quán, thấu suốt tướng của nó (tướng quán) không bị mê mờ; nhờ không mê mờ nên đạt đến cảm giác hỷ thọ.
Trong kinh Bà-trí-tam-tỳ-bà (Patisambhidà - Vô ngại giải) nói: Bằng hơi thở vào hơi thở ra mà đạt được nhất tâm. Tâm không tán loạn thì biết tỉnh thức rõ ràng. Nhờ biết tỉnh thức rõ ràng mà có cảm giác hỷ thọ. Nhờ thở ra dài nhờ thở vào ngắn mà cảm giác được toàn thân, cảm giác được sự diệt của thân. Nhờ thở vào thở ra thành tựu nhất tâm mà biết rõ. Nhờ hai pháp này mà cảm giác phát sinh.
Do an tâm nên có cảm giác hỷ thọ, nhờ biết rõ, nhờ pháp quán, quán ngược xuôi làm tâm ổn định lại, chí tâm giữ tinh tấn mà phát sinh hiểu biết, tâm tập trung ổn định biết rõ với trí tuệ, cái cần phải biết thì biết rõ, cái cần phải xả bỏ thì xả bỏ, cái cần phải quán sát thì quán sát, cái hiện rõ (tu tập) thì hiện rõ và đưa đến cảm giác hỷ thọ. Như vậy là đạt được cảm giác hỷ thọ. Các câu sau ý nghĩa cũng theo như vậy. Trong ba thiền định có điểm khác vì có cảm giác lạc còn ở bốn thiền định là cảm giác tâm hành (cittasànkhàrapatisamvedita- cảm giác tâm hành)
Hỏi: - Tâm hành là gì?
Ðáp: - Thọ và tưởng ấm (vedanàdayo duve khandhà) là tâm hành.
Cảm giác lạc đây thuộc về thiền tuệ Tỳ-bà-xá-na. Lạc có hai: một là lạc thuộc thân; hai là lạc thuộc tâm. Trong Vô-ngại-giải có nói: Diệt tâm hành tức là ổn định tâm hành thô và diệt nó (olàrikam cittasankhàram passambhanto nirodhento ti attho) cũng gọi là định chỉ. Nếu nói rộng thì được giải rõ trong phần thân hành, hãy tự nghiên cứu (yasankhàra). Hỷ trong câu nói (cảm giác hỷ) về thọ là thuộc hành. Nếu chọn lấy lạc thì thuộc cảm thọ. Cả hai trường hợp cảm giác trên trong câu tâm hành (cảm giác tâm hành) thì gồm cả tưởng và thọ tâm sở (sanna vedanà cetasika - tưởng thọ tâm sở). Hai pháp này không rời tâm, nếu chọn lấy tâm hành thì bao gồm cả tưởng và thọ. Bốn câu trong phần này là nói xong về quán cảm thọ, hãy tự nghiên cứu.
Câu cảm giác về tâm trong bốn câu thuộc pháp thứ ba (niệm tâm) là thuộc về cả bốn thiền định.
Cảm giác về tâm (abhippamodaya-citta) nghĩa là gì? Cảm giác tâm hoan hỷ, hoan hỷ hoàn toàn, tâm rất hoan hỷ, tôi đang cảm giác thở ra, thở vào. Có hai mặt hoan hỷ, đó là nhờ vào định và nhờ vào tuệ quán.
Thế nào là nhờ định? Có cảm giác hỷ và đi vào hai thiền định và khi đã vào rồi cũng có hỷ, trong một sát na tâm cùng với hỷ.v.v.. hân hoan vào trong tâm và rất hoan hỷ.
Thế nào là nhờ tuệ quán mà nhập vào hai thiền định? Có hỷ (thay đổi) theo thiền định (nhập vào) và xuất, và nhờ thấy hỷ có thể bị tiêu diệt nên luôn tiếp xúc với thiền hỷ (bằng tuệ). Như vậy, tuệ quán Tỳ-bát-xá-na (vipassanàkkhana) luôn luôn hoạt động với hỷ rong từng sát na là nhờ vào tuệ quán mà tâm có hỷ như vậy, tùy theo tâm mà có hân hoan.
Tôi đang hít vào thở ra với tâm hoàn toàn ổn định. Nhờ vào thiền định thứ nhất, đặt tâm hoàn toàn ổn định trên đối tượng quán, (hoặc là) sau khi đã nhập và xuất thiền, hành giả thấy tâm thiền định bị diệt theo từng pháp trong tuệ quán Tỳ-bát-xá-na này. Tâm định trong một sát na do hiện-quán vượt qua tưởng. Tâm định khởi lên trong một sát na ấy là nhất tâm định. Và tâm hoàn toàn an trụ trong tuệ quán này.
Câu " Tôi cảm giác (hít vào thở ra) với tâm giải thoát"
Nghĩa là giải thoát khỏi phiền não, thoát ly tư và niệm (tầm và tứ) ở thiền thứ hai, thoát ly hỷ ở thiền thứ ba, thoát ly khổ và lạc ở thiền thứ tư, giải thoát theo tuần tự như vậy. Sau khi (nhập) và xuất khỏi thiền, thấy rõ tâm diệt theo từng pháp trong thiền tuệ Tỳ-bà-xá-na này. Khi hành giả thấy vô thường thì xả bỏ pháp thường, thấy pháp khổ thì xả bỏ tưởng về lạc, thấy vô ngã thì xả bỏ tưởng về lạc (ngã?), tâm không còn tham đắm. Do không tham đắm nên quán sát ly dục, từ nơi dục mà quán diệt tưởng, từ chỗ sinh tưởng mà quán xả bỏ (chấp thủ), từ chấp thủ mà tâm được giải thoát. Thế nên, trong luật nói: (quán) hơi thở vào hơi thở ra thì tâm được giải thoát. Trên đây là (giải thích) câu thứ tư trong phần quán tâm.
Trong bốn câu ở phần thứ tư thì quán vô thường là tưởng vô thường, nên biết rõ về quán vô thường, nên biết rõ về sự quán liên tục về vô thường.
Hỏi: - Cái gì vô thường?
Ðáp: - Năm ấm vô thường.
Hỏi: - Tại sao năm ấm vô thường?
Ðáp: - Vì chúng là pháp sanh diệt.
Hỏi: - Sanh diệt như thế nào?
Ðáp: - Là pháp biến đổi tướng trạng, vì biến đổi nên các pháp đã sinh (bị biến đổi) không có tướng cố định trong từng sát na sát na. Ðây gọi là quán vô thường. Bắt đầu là quán về sắc. Quán sắc vô thường là quán sắc luôn luôn vô thường. Quán sát nhân (của sắc) là do bốn đại chủng nên có hơi thở ra hơi thở vào, chúng là pháp hoại diệt, nên gọi là quán vô thường.
(Ðề tài) quán ly ái dục.
Có hai loại quán ly ái dục là: Một, quán tiêu trừ ái dục. Hai, quán hoàn toàn không còn ái dục.
Hỏi: - Thế nào là tiêu trừ ái dục?
Ðáp: - Các pháp bị diệt trong từng sát na (sát na diệt)
Hỏi: - Thế nào là hoàn toàn không còn ái dục?
Ðáp: - Quán hoàn toàn không còn ái dục là Niết-bàn.
Nhờ hai pháp này mà đạt đến chỗ thấy đạo; nhờ thấy đạo mà thấy được pháp Tịch diệt.
Thấy tịch diệt rồi thì quán xả ly. Nhờ quán tuệ Tỳ-bà-xá-na mà xả ly phiền não, chuyển hướng về Niết-bàn.
Như vậy, đây là (giải thích) phần cuối của pháp niệm hơi thở.
Hết phần Niệm hơi thở (Ànàpànasatisamàdhikathà nitthìtà).
Trích: "Chú giải Luật Thiện Kiến", quyển 10-11, Pháp sư Tăng-già-bạt-đà-la dịch Hán, Tỳ kheo Tâm Hạnh dịch Việt.
|
|
|
Post by TCTV on Jun 19, 2010 12:43:59 GMT -5
Sự Mầu Nhiệm của Hơi thở
Phật Thắng Ma Vương
Đức Phật tham thiền về sổ tức quán
Ngồi trên bồ đoàn
Dưới bóng cây Bồ Đề quí báu
Và đắc thắng toàn bọn Ma Vương
Mà thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác
Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh
Con xin hết lòng thành kính mà làm lễ Ngài
(Kinh Nhựt tụng, Phật Giáo Nguyên Thủy)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một trong những kinh quan trọng cho những người muốn hành thiền. Trong kinh nầy hơi thở là đề mục chánh để quán niệm, để đi đến mức toàn định và các tầng thiền sắc giới và vô sắc giới. Từ giữa thế kỷ trước đến nay, nhiều thiền sư nhứt là quý thiền sư Miến Điện, khởi đầu do thiền sư danh tiếng Mahasi Sayadaw, dạy thiền dùng kinh Tứ Niệm Xứ, và các thiền sư giảng trong kinh cho rằng thiền tứ niệm xứ là "con đường duy nhứt" để đi đến giải thoát. Vậy mà theo kinh Tứ Niệm Xứ, hơi thở cũng được dùng làm một trong những bốn đề mục để đặt nền tảng cho chánh niệm.
Bài viết nầy để nói lên tầm quan trọng của cả hai kinh Quán Niệm Hơi Thở và kinh Tứ Niệm Xứ trong việc thực hành thiền quán, và sự hỗ trợ lẫn nhau của hai kinh nầy để hợp thành "con đường duy nhứt" để "thanh lọc tâm, chứng ngộ Niết Bàn" vì đó mới thật là con đường của Bát Chánh Đạo, một "đạo đế" trong Tứ Diệu Đế vậy. Nếu xét thật kỹ, chúng ta phải đi đến kết luận rằng chỉ có hơi thở mới là một đề mục hay đối tượng căn bản của việc thực hành thiền, cả thiền chỉ cũng như thiền quán. Hai phương pháp thiền nầy nếu thực hành kỹ lưỡng, sẽ đưa hành giả đến sự giải thoát tột cùng là Niết Bàn. Đây mới thật là "hơi thở mầu nhiệm."
Trong bài nầy chúng tôi cũng sẽ nói về sự quan trọng của sự phát triển tâm chánh định mạnh lấy hơi thở làm đề mục trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, cũng như sự phát triển tâm chánh niệm mạnh lấy hơi thở làm đề mục trong Kinh Tứ Niệm Xứ.
Hai kinh Quán Niệm Hơi Thở và Tứ Niệm Xứ đều là kim chỉ nam cho hành giả thực hành theo để đi đến con đường giác ngộ và đạt được giải thoát Niết Bàn. Hai kinh nầy có cùng một mục đích và về phương pháp thực hành cũng không khác nhau mấy, vì cả hai kinh đều nhấn mạnh về sự quan trọng của chánh niệm, và sự quan trọng của chánh định. Chánh định và chánh niệm là động từ làm chủ thể mà đối tượng của chánh định và chánh niệm chính là hơi thở.
Hơi thở mầu nhiệm
Chúng ta bắt đầu cuộc đời bằng hơi thở, và chúng ta chấm dứt cuộc đời cũng bằng hơi thở. Hơi thở đến rồi hơi thở lại đi. Đúng vậy, cái gì gần gũi với chúng ta nhiều nhứt, gắn bó với chúng ta nhiều nhứt, trung thành với chúng ta nhiều nhứt, lợi ích cho chúng ta nhiều nhứt mà không phải mất tiền mua? Có phải là hơi thở của chúng ta không? Nhưng cái mà chúng ta xem thường nhiều nhứt, chúng ta bỏ bê nhiều nhứt, chúng ta không chăm sóc nhiều nhứt, chúng ta thờ ơ nhiều nhứt, có phải cũng là hơi thở của chúng ta không?
Hơi thở sống chết với chúng ta 24/7 từ lúc mở mắt thức dậy cho đến khi nhắm mắt đi ngủ. Thậm chí đến khi chúng ta ngủ say mê, hơi thở cũng ở bên cạnh ta như một người bạn trung thành. Khi ta không ngủ được, chúng ta thở vắn thở dài, ta mới nhớ đến hơi thở để đếm hơi thở để dỗ giấc ngủ. Hơi thở sẵn sàng hiện diện bất cứ lúc nào khi ta cần đến, nhưng chúng ta có khi nào để ý đến nó đâu.
Hơi thở giúp ta trong hai phương diện vật chất và tâm linh: (1) hơi thở là mạng sống con người, và (2) hơi thở cũng là phương tiện để chúng ta tu giải thoát trong cuộc sống tâm linh.
1. Hơi Thở Là Mạng Sống Con Người
Chúng ta sống là nhờ hơi thở. Nếu chúng ta có thể không ăn trong ba tuần chúng ta mới chết; nếu chúng ta không uống trong vòng ba ngày chúng ta mới chết; nhưng nếu chúng ta ngưng thở trong ba phút chúng ta chết queo. Trong tứ đại đất, nước, lửa, gió thì hơi thở rất quan trọng là vì hơi thở thuộc về gió hay phong đại là yếu tố rất căn bản. Hơi thở cũng thuộc về phần nước vì tánh chất dính liền và tánh chất nâng đỡ của nước. Đồng thời hơi thở cũng thuộc về phần lửa vì hơi thở có hơi nóng hay lạnh - quí vị cũng từng nghe nói là thở ra lửa. Hơi thở cũng thuộc về đất vì có khi hơi thở mạnh hay hơi thở yếu, thở nặng hay thở nhẹ hay thở hổn hển. Tóm lại thì hơi thở đóng một vai trò rất nòng cốt trong tứ đại, bốn phần tử hợp thành cái phần vật chất của một chúng sanh.
Về sự đóng góp quan trọng của hơi thở trong cơ thể một con người, dĩ nhiên, chúng ta là những người thường, nghĩa là không thuộc về hàng chuyên môn như một bác sĩ chẳng hạn, chúng ta cũng biết hơi thở là quan trọng như thế nào.
Thí dụ như khi chúng ta bị nghẹt thở, hay hơi thở không đều hòa, hay bị hơi thở ngắn hay hơi thở bị ngộp, hay hơi thở bị gián đoạn v.v... thì lập tức chúng ta gọi khẩn cấp 911, để gặp bác sĩ ngay lập tức. Bác sĩ ở nhà thương cấp cứu lập tức điều chỉnh lại bộ máy hô hấp để cho hơi thở được thông, được trở lại bình thường, cứu sống được sanh mạng một con nguời cũng nhờ điều hành lại hơi thở. Có khi phải dùng phương pháp hô hấp nhân tạo để cứu sống một mạng người.
Khi quí vị đi khám bịnh, thường bác sĩ bảo quí vị thở vào một hơi mạnh, để xem đường lưu thông có được ổn định hay không cũng bằng cách so sánh với hơi thở. Hơi thở vô cùng quan trọng chẳng những cho đời sống, mà nó còn dính liền chặt chẽ với sức khỏe của quí vị nữa. Thí dụ như khi quí vị thở vào không khí trong lành, quí vị được sức khỏe. Nếu quí vị thở vào không khí không trong sạch, ô nhiễm, dĩ nhiên là quí vị sẽ đau bịnh nhứt là bịnh ở phổi. Ngoài ra nếu quí vị hút thuốc lá, dĩ nhiên, không sớm thì muộn, quí vị sẽ mắc bịnh ung thư phổi. Chẳng những người hút thuốc lá bị bịnh, mà cả đến người thở vào hơi thuốc lá cũng sẽ bị bịnh như nhau.
Khi ngủ say, quí vị thường bị ngáy, nhiều khi rất là ồn ào, chẳng những làm quí vị không ngủ một giấc ngủ ngon, mà lại làm ồn người bên cạnh. Để giúp người bên cạnh khi họ ngáy, quí vị chỉ cần đánh nhẹ vào người ấy, họ sẽ ngưng ngáy ngay, vì lúc đó người ấy sẽ lấy lại được hơi thở bình thường.
Khi quí vị bơi lội, cái gì giúp quí vị để được biết lội, để được nổi trên mặt nước, cũng do quí vị biết cách thở vô thở ra khi lội dưới nước, và một tay thiện nghệ về bơi lội, họ phải biết cách điều hòa hơi thở ở miệng hay lỗ mũi, nghĩa là biết cách để nín thở bao nhiêu lâu để cho tốc vận của sự bơi lội nhanh hay chậm.
Ngoài chức năng là bảo trì sức khỏe và những công dụng liên quan đến sức khỏe, hơi thở từ mũi cũng đóng một vai trò khá quan trọng là hơi thở dính liền với mùi khi mũi thở không khí bên ngoài vào. Khi có mùi vào qua cửa mũi, thì mùi và hơi thở thành một vì khó phân biệt được cái không khí nào mang cái mùi, và cái không khí nào là hơi thở. Đây là một hiện tượng khá đặc biệt của chức năng của tỉ thức, hoàn toàn khác với những thức khác như nhãn thức, thiệt thức, nhĩ thức, thân thức và ý thức, vì mỗi giác quan nầy chỉ có một chức năng đặc biệt riêng của giác quan đó mà thôi. Nhãn thức chỉ biết về cái thấy của mắt, thiệt thức chỉ biết về cái vị của lưỡi mà thôi, nhĩ thức chỉ biết về cái nghe của tai mà thôi, thân thức chỉ biết về sự đụng chạm của thân, ý thức là cái biết của ý hay của tâm ý. Có sự bàn cãi về cái căn của ý thức, có người cho rằng căn của ý thức là ở trái tim, có người cho rằng căn của ý thức ở bộ óc. Đức Phật không có ý kiến, cái nào cũng được cả, có lẽ vì thấy nhất thời không quan trọng cho sự tu giải thoát.
Trở lại sự quan trọng về hơi thở trong đời sống của con người. Khi chúng ta đang bị mệt mỏi nhứt là khi bị nhiều áp lực trong cuộc sống, chúng ta được khuyên là nên thở một hơi dài, thư giãn... là cơn mệt nhọc hay áp lực cũng thuyên giảm được một phần nào. Trong khi bị sân hận, chúng ta cần quay về hơi thở, chú tâm vào hơi thở nhẹ nhàng, đếm một hơi thở, hai hơi thở, ba hơi thở... nhứt định cường độ ban đầu sự sân hận sẽ từ từ hạ xuống ngay. Lấy lại sự bình tĩnh, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề một cách khéo léo hơn là khi còn trong cơn sân hận. Tại sao chúng ta không dùng cái hơi thở của chúng ta trong những lúc chúng ta giận hờn hay buồn khổ, hay những lúc ta cảm thấy cô đơn, chúng ta chỉ nhìn nó, và nhìn cho thật kỹ, chúng ta sẽ thấy êm dịu ngay, vì hơi thở sẽ sẵn sàng làm bầu bạn với ta.
2. Hơi thở rồi cũng sẽ ra đi
Hơi thở luôn luôn ở bên ta từ khi ta mở mắt chào đời, nhưng rồi một ngày nào đó nó cũng sẽ từ giã ta để ra đi trong một giây phút nào đó mà ta cũng không biết, không hay, không muốn. Biết rằng sẽ có một ngày từ giã, một ngày ra đi vĩnh viễn, tại sao trong giờ phút hiện tại khi ta và hơi thở còn khắn khít bên nhau, chúng ta không nâng niu trân trọng nó, giữ gìn nó như một bảo vật ở trên đời nầy?
Chưa hết, hơi thở còn có một thiên chức cao thượng quý báu hơn gấp ngàn lần trong chức năng của nó là bảo trì mạng sống, đó là chức năng giúp chúng ta đi đến giải thoát sanh tử luân hồi, đến Niết Bàn, vô sanh, bất diệt.
3. Hơi Thở Là Sự Giải Thoát
Tại sao dùng hơi thở trong thiền quán?
Hơi thở rất thích hợp dùng làm đối tượng cho thiền quán vì mục đích của thiền quán là phải thấy đặc tánh chung vô thường, khổ, vô ngã của chúng sanh và vạn pháp. Hơi thở rất căn bản vì tự nó đã có những điểm vô cùng đặc biệt rất thích hợp và hữu hiệu cho sự thực hành quán niệm như sau đây:
1. hơi thở có thể dùng làm đề mục trong thiền chỉ và cũng dùng làm đề mục trong thiền quán
2. hơi thở cũng là hơi gió, nếu hơi thở là gió ở ngoài không khí, hơi thở nầy thuộc về khái niệm tục đế; nếu hơi thở cũng là yếu tố gió trong nghĩa của phong đại, một trong bốn yếu tố kết hợp phần "thân" của một chúng sanh, hay gọi là tứ đại, thì hơi thở ở đây thuộc về chân đế.
3. hơi thở dùng làm đề mục trong thiền chỉ, hơi thở nầy nằm trong khái niệm tục đế, hơi thở vô ra mà ta thấy được, cảm giác được v.v... Để ngón tay ngay ở hai lỗ mũi, ta sẽ cảm giác một hơi gió ra khi thở ra hơi gió hơi mạnh, và cảm giác hơi ấm ấm vì hơi thở từ trong người thở ra cho nên cảm giác hơi ấm ấm. Khi thở vô, ta cảm giác một khoảng vắng lặng, vì khi thở vô không khí bên ngoài vào trong mũi rất nhẹ nhàng, cho nên ngón tay ta hình như không cảm thấy gì cả, nhưng nếu chú ý thêm một chút, ta sẽ thấy một chút lạnh lạnh vì không khí ở bên ngoài vào.
4. Các thiền sư cho rằng nếu hơi thở dùng làm đề mục trong thiền quán, hơi thở nầy phải nằm trong khái niệm chân đế, có nghĩa là hơi thở có trạng thái sanh diệt, nặng nhẹ, cứng mềm... Trong mấy trang sau đây, quí vị sẽ thấy sự phân biệt giữa thiền chỉ và thiền quán, chỉ trong nháy mắt, từ hơi thở bình thường ở cửa mũi hay đầu chót mũi, cho đến hơi thở là hơi gió chuyển động ra vào ở mũi và cảm giác cứng mềm, nóng lạnh, của gió ở cửa mũi. Sự phân biệt nầy quá tế nhị. Thiền sinh mới không cần để ý phân biệt, vì các thiền sư hướng dẫn sẽ giải nghĩa rõ ràng quan niệm chân đế và tục đế rõ ràng hơn khi trong các buổi thuyết pháp khi quí vị đi dự các khóa thực tập thiền.
5. hơi thở tự nó là trung lập rồi, nghĩa là chỉ là hơi thở, chỉ vô rồi ra, ra rồi vô, không có gì đặc biệt để gây ra sự thích hay không thích của chúng ta. Quí vị không nghe ai nói là tôi thích hơi thở của tôi, cũng không nghe ai nói là tôi không thích hơi thở của tôi. Vì tánh chất trung lập của hơi thở, hơi thở hôm qua cũng như hơi thở hôm nay, và hơi thở hôm nay cũng giống như hơi thở ngày mai, thế nên hơi thở không làm cho "tưởng" thấy sai hay thêm bớt gì cả.
6. hơi thở có tánh chất đều đặn, có vô và có ra, có ra lại có vô, không đi ngược hay đi xuôi, lộn xộn. Cho nên khi niệm hơi thở, ta sẽ thấy rất đều đều, bình thản, êm êm, giống như ngồi trên chiếc võng đong đưa, đưa qua đưa lại rất là êm đềm, nhẹ nhàng thoải mái. Khi niệm hơi thở quá đều đều như vậy, quí vị sẽ đạt được tâm định mau hơn, vì tâm của quí vị khắn khít với hơi thở.
7. Nếu chú ý một chút, niệm hơi thở cho ta thấy rõ ràng từng giai đoạn, đoạn đầu, đoạn giữa, và đoạn cuối của hơi thở vô và đoạn đầu, đoạn giữa, và đoạn cuối của hơi thở ra và cứ thế mà đều đều như vậy. Chính đặc tánh nầy của hơi thở, đã cho ta thấy trạng thái "vô thường", nghĩa là có sanh (đoạn đầu của hơi thở) và có diệt (đoạn cuối của hơi thở). Nếu chú ý thêm một chút, khi đến đoạn cuối của hơi thở vô trước khi bắt đầu hơi thở ra, hay đoạn cuối của hơi thở ra trước khi bắt đầu hơi thở vô, quí vị sẽ thấy một sự va chạm, một sự dừng lại, một sự đụng, một cảm giác như "cứng," một đặc tánh của "đất."
8. cái cuối của hơi thở có thể coi đó là sự chấm dứt, cái đầu của hơi thở có thể coi đó là sự khởi đầu, như vậy hơi thở sẽ cho ta quan niệm về sự sinh và sự diệt. Nếu tính thêm phần giữa của hơi thở, chúng ta sẽ thấy rõ ba giai đoạn: phần đầu, phần kéo dài, phần cuối của hơi thở, hay thành, trụ, hoại không của hơi thở, và của vạn vật. Sự sanh diệt nầy giúp ta thấy rõ đặc tánh vô thường.
9. hơi thở luôn luôn ở trong hiện tại, một hơi thở vừa qua đã trở thành quá khứ, một hơi thở tương lai đang đến, trở thành hiện tại ngay lập tức, nghĩa là hơi thở không có quá khứ và cũng không có tương lai, hơi thở luôn luôn là hơi thở hiện tại. Ta niệm hơi thở tức nhiên ta niệm trong giây phút hiện tại, vì ta không bắt được hơi thở quá khứ, và cũng chưa kịp bắt hơi thở tương lai, tất cả chỉ bắt được hơi thở ở hiện tại. Khi niệm hơi thở, hành giả niệm những gì xảy ra trong giây phút hiện tại.
Nếu tâm hành giả khắn khít với hơi thở, dĩ nhiên sẽ không có những tâm sở khác chen vào được, có nghĩa là những phiền não không chen vào được, vì hơi thở đã choán chỗ rồi. Hai tâm sẽ không bao giờ xảy ra cùng một lúc. Điểm nầy vô cùng quan trọng trong sự hành thiền, vì mục đích của sự thực tập thiền, là để diệt trừ tham sân si, những tâm sở bất thiện. Khi những tâm sở phát sanh, hành giả phải bắt kịp để niệm ngay. Khi niệm tức nhiên tâm sở bất thiện sẽ mất, ở đây hành giả niệm hơi thở ngay trong giây phút hiện tại thì những tâm bất thiện không có cơ hội để phát sanh. Quí vị sẽ thấy điểm nhận xét nầy rõ ràng hơn khi quí vị thực tập thiền do các vị thiền sư hướng dẫn trong các khóa thiền nhứt là khi quí vị niệm tâm. Thí dụ như khi quí vị có tâm tham phát sinh, thiền sư sẽ hướng dẫn là nên niệm "tham, tham" thì tham sẽ mất, hay khi sân phát sanh, quí vị được hướng dẫn là niệm "sân, sân, sân..." thì sân sẽ biến mất. Thay vì niệm tham tham hay sân sân... quí vị nếu đã có sẵn thói quen niệm hơi thở, và vừa biết tham sân phát sanh, quí vị niệm hơi thở, tức nhiên tham sân cũng sẽ biến mất. Như vậy, công dụng của sự niệm hơi thở và công dụng của sự niệm tâm đều như nhau. Điểm nầy dựa theo nguyên tắc là hai tâm không bao giờ phát sanh cùng một lúc.
10. hơi thở luôn luôn hiện diện, chỉ cần một chút chú ý là sẽ thấy được hơi thở ngay, khỏi phải tìm kiếm đâu xa, trái với những đề mục hay đối tượng khác như cảm thọ, tâm hay pháp. Mặc dù trên thực tại, thọ, tâm, pháp luôn luôn hiện diện mỗi khi có điều kiện. Hơi thở luôn luôn hiện diện vô điều kiện, chỉ trừ khi nào ta tắt thở chết thì hơi thở đi luôn.
11. vì đặc tánh đều đều, luôn luôn có mặt của hơi thở, hơi thở là một đối tượng rất thích hợp cho sự thực hành thiền quán. Vì thế nên hầu như tất cả thiền sư hiện đại, ít nhứt là những thiền sư từ giữa thế kỷ 20 đến nay, nhứt là các thiền sư Miến Điện mà vị lãnh đạo phong trào thiền quán là thiền sư Mahasi Sayadaw, các ngài đều dùng hơi thở làm đề mục chánh trong phần về niệm thân, và các ngài có một hệ thống rất rõ ràng chi tiết trong phương pháp để dạy thiền.
Lúc sau nầy có thiền sư cư sĩ U Ba Khin, và kế thừa là thiền sư cư sĩ S.N. Goenka, dựa theo phương pháp dùng cảm thọ làm đối tượng hay đề mục chánh của thiền quán. Lý do cũng dễ hiểu là theo thực tại, cảm thọ luôn luôn hiện hữu nơi con người, nhứt là thân thọ, cũng như hơi thở vậy, nhưng vì chúng ta chưa có đủ chánh định thế nên chúng ta chưa thấy cảm thọ đó thôi. Thế nên trong phương pháp thiền quán của Goenka, thiền sinh được hướng dẫn thực tập thiền định trước. Thiền định nầy được tập trong ba ngày đầu của khóa thiền mười ngày. Như vậy chứng tỏ rằng phải có một tâm định khá vững chắc trước khi sang thiền quán. Có được sự định tâm căn bản rồi, kế đó sẽ dùng tâm chánh định và tâm chánh niệm để đi tìm các cảm giác ở thân, bằng cách là đi rà, đi tìm hay đi quét cảm thọ ở khắp châu thân thứ tự từ đầu đến chân, từ chân lên đầu, phương pháp nầy gọi là quét, rà, hay sweep, vì không tìm thì thôi, nếu đã cố gắng tìm thì thế nào cũng sẽ thấy.
Hơi thở không cần phải đi tìm, đi rà, đi quét gì cả, vì hơi thở luôn luôn hiện hữu, chúng ta chỉ cần một chút chú ý là thấy hay cảm giác nó ngay. Các đề mục khác, thí dụ như đề mục tâm thức, hay đề mục pháp, rất khó để thực hành, vì chúng xảy ra không theo thứ tự, không tiên đoán được, cũng không có một hệ thống nhứt định, mặc dù chúng luôn luôn xảy ra khi có điều kiện. Vì tánh cách không đều đặn không hệ thống của đề mục tâm và pháp, thế nên chúng ta không thấy hay chưa thấy có một phương pháp có hệ thống hoàn toàn dạy về thiền niệm tâm hay thiền niệm pháp ra đời, mặc dù chúng ta cũng thấy có vài thiền sư danh tiếng trong thế kỷ của chúng ta giảng dạy về thiền về niệm tâm như thiền sư Shwe Oo Min, và đệ tử xuất sắc của ngài bây giờ là thiền sư trẻ U Tejaniya... cũng dạy thiền về niệm tâm, nhưng phương pháp dạy của thiền sư cũng chưa cho ra một phương pháp có hệ thống như thiền Mahasi hay thiền Goenka chẳng hạn, mà thiền sư dạy niệm tâm thường giảng dạy hay viết sách dựa theo phương thức câu hỏi vấn đáp mà thôi. Chúng ta nên để ý, là mặc dù dạy thiền cảm thọ của Goenka, hay thiền niệm tâm, các thiền sư nầy cũng vẫn trở lại và dựa vào hơi thở mỗi khi hành giả bị trở ngại trong lúc hành thiền thí dụ như bị phóng tâm, hay suy nghĩ thái quá v.v... các thiền sư đều hướng dẫn hành giả trở lại hơi thở để định tâm và thư giãn.
12. hơi thở có đặc tánh rất đặc biệt là tự động và điều khiển (voluntary and involuntary.) Thí dụ ta có thể điều khiển hơi thở, bằng cách thở mạnh, thở hổn hển, thở nhẹ, thở dài thở ngắn, hay nín thở trong một thời gian ngắn, nhưng tuyệt nhiên chúng ta không thể biểu nó ngưng hoạt động hay tắt thở, chỉ trừ ta muốn chết. Xét cho kỹ, dù chúng ta biểu hơi thở nín đi, nó sẽ nín thở một thời gian ngắn thôi, rồi nó cũng chịu không nổi nữa, nó phải thở trở lại. Nếu muốn nín thở thật sự, chúng ta phải tìm cách khác hữu hiệu hơn. Chúng ta không thể biểu hơi thở ra, đừng thở ra, và biểu hơi thở vô đừng thở vô. Đặc tánh không kiểm soát được của hơi thở là một đặc tánh hết sức quan trọng trong thiền quán, đó là đặc tánh của "vô ngã." Như ta đã thấy ở điểm (5) và (6) ở trên, hơi thở giúp hành giả thấy được trạng thái vô thường, và ở đây, hơi thở cho ta thấy trạng thái vô ngã, hai đặc tánh nầy, thiết tưởng có phải là mục đích của sự hành thiền quán hay không? Phải thấy ba đặc tánh vô thường, khổ, vô ngã của đối tượng, hoặc là hơi thở, cảm thọ, tâm hay pháp trong sự hành thiền vì đó là sự thấy của trí tuệ minh sát vậy. Thấy được vô thường, khổ, vô ngã hành giả sẽ chán nản, không còn vì tà kiến mà dính mắc vào ngũ uẩn nầy nữa. Giải thoát sanh tử, chứng ngộ Niết bàn là đây.
13. Ngoài ra, khi quán niệm hơi thở, nếu cố gắng, sẽ đưa hành giả đến trạng thái tâm định mạnh, đến sự hỷ lạc, và tiếp tục thực tập, sẽ đưa hành giả đến các tầng thiền sắc giới, và các tầng thiền vô sắc giới. Nếu có duyên muốn đạt đến những trạng thái cao hơn, hành giả cũng có thể đạt đến các thần thông v.v...
14. Ở đây chúng ta cũng nên đặt ngay câu hỏi là: đạt đến các tầng thiền sắc giới và các tầng thiền vô sắc giới có cần thiết cho sự giác ngộ không? Vài thiền sư cho rằng trong hai kinh Quán Niệm Hơi Thở và Tứ Niệm Xứ, Đức Phật không có nói đến các tầng thiền nầy, và ngụ ý rằng có lẽ về sau, các vị tu hành thiền quán đạt được các tầng thiền cao, cho nên các ngài viết thêm vào trong tài liệu giảng dạy của các kinh trên. Vài vị thiền sư cho ý kiến rằng, hành giả cố gắng tinh tấn hành thiền cho được một tâm chánh định mạnh, tâm chánh định mạnh sẽ hỗ trợ tâm chánh niệm mạnh cần thiết để quán chiếu thấy ba đặc tánh vô thường, khổ, vô ngã của vạn pháp, như vậy sự tu tập của hành giả mới được gọi là thành công. Đạt đến các tầng thiền sắc giới được các ngài khuyến khích để có được một tâm định mạnh, nhưng đạt đến các tầng thiền vô sắc giới và đạt đến thần thông sẽ không cần thiết cho con đường tu giải thoát của hành giả.
15. Đức Phật giảng rõ ràng trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, là khi hành giả hành niệm hơi thở một cách rốt ráo, sẽ đưa hành giả đến nơi giải thoát Niết Bàn.
Trong quyển kinh Nhựt Hành có đoạn nói về
"Đức Phật tham thiền về sổ tức quán
Ngồi trên bồ đoàn
Dưới bóng cây bồ đề quý báu
Mà đắc thắng toàn bọn ma vương
Và thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác..."
Cư sĩ Nga Nita Truitner
June 2010
|
|
|
Post by tk on Apr 15, 2011 3:30:45 GMT -5
Chánh Niệm Hơi Thở Tháng Ba 20, 2009 — MT Thầy Dhammapala Bài thuyết pháp tối 15 tháng 9 năm 2008 của Thày Dhammapala. Khóa thiền từ ngày 14 tháng 9 năm 2008 đến ngày 23 tháng 9 năm 2008 Chuyển ngữ: Cô Viên Hương, cô Nguyệt Minh Chuyển thành văn bản: Tu nữ Santa CittaCÁCH NIỆM HƠI THỞ Trước khi nói pháp xin đại chúng cùng tôi niệm Phật gia hộ, Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Kính thưa hành giả hôm qua tôi đã nói cho quý vị nghe về nơi chốn thích hợp cho việc hành thiền. Tối nay tôi xin nói về các chi tiết trong việc thực hành niệm hơi thở. Phương pháp đếm được sử dụng cho hành giả nào có quá nhiều phóng tâm, còn đối với những hành giả có ít phóng tâm và đã từng có những kinh nghiệm thiền tập trước đây thì họ không cần thực tập phương pháp đếm này. Trong chú giải có giải thích về cách sử dụng phương pháp đếm này ra sao. Khi đếm xin quý vị không đếm dưới năm và không đếm quá 10. Lý do chúng ta không đếm dưới 5 là vì khi đếm số ít quá, tâm của quý vị có cảm giác giam hãm và tù túng. Trong chú giải ví dụ giống như một đàn gia súc bị nhốt vào một chỗ quá nhỏ và chật hẹp. Còn nếu như hành giả nào đếm quá 10 thì khi đó tâm của quý vị chỉ chú ý đến con số đếm mà quên mất đối tượng chính là hơi thở của mình. Điều thứ ba cần nhớ là không được gián đoạn và ngắt giữa số đếm vì lúc đó tâm sẽ thắc mắc, không biết là đã đếm đến số nào, tâm nghĩ rằng không biết mình đã đếm đến số 5 hay số 7 rồi. Trong chú giải có đưa ra thí dụ đầu tiên trong phương pháp đếm là giống như người chuyên đong gạo, cách đếm này rất chậm rãi. Theo phương pháp này, khi thở vào từ lúc bắt đầu thở vào đến lúc hơi thở kết thúc, quý vị đếm một, một, một… liên tục như vậy. Khi thở ra từ lúc bắt đầu thở ra cho đến khi hơi thở ra kết thúc quý vị đếm một, một, một… liên tục như vậy. Bởi vì có những hành giả phàn nàn với tôi rằng ngay trong một hơi thở vào-ra, họ đã có phóng tâm. Thành ra nếu người nào có quá nhiều phóng tâm như vậy thì nên thực tập theo kiểu đếm chậm tức là đếm một, một, một,…liên tục cho đến khi hơi thở chấm dứt. Quý vị có thể dừng lại bất cứ con số nào từ 5 đến 10, hoặc sáu, hoặc bảy, hoặc tám, hoặc chín hoặc 10 v.v. Chúng tôi đề nghị nên lấy số 8 vì nó nhắc nhở cho chúng ta Bát Thánh Đạo là con đường quý vị cố gắng phát triển để thành tựu. Phương pháp đếm thứ hai là khi hơi thở đã rõ thì đếm như kiểu đếm bò. Khi hơi thở đã trở nên rõ thì quý vị có thể từ phương pháp đếm chậm như trên chuyển sang phương pháp kiểu đếm bò tức là đếm nhanh hơn. Khi biết rõ hơi thở vào và hơi thở ra quý vị đếm một, khi biết rõ hơi thở vào và hơi thở ra đếm hai v.v. và cứ tiếp tục như vậy. Tôi xin giải thích tại sao lại được đếm như kiểu đếm bò. Mỗi buổi sáng người chăn bò lùa bò ra đồng và anh ta sẽ ngồi ngay tại cổng và chuẩn bị sẵn một cái túi và những viên sỏi. Mỗi khi từng con bò đi ra kỏi cổng, anh ta sẽ bỏ một viên sỏi vào trong túi và đếm một, hai, ba, bốn, năm, sáu v.v. Khi đếm theo kiểu này hơi thở ra và vào sẽ nhanh, nhưng quý vị chú ý biết hơi thở không trước và không sau khi nó đi qua điểm xúc chạm tức là ngay khi nó ở điểm xúc chạm thì quý vị sẽ đếm. Khi thực hành phương pháp đếm này giúp hành giả gom tâm hợp nhất lại, để tâm trên đối tượng giống như bánh lái có thể giữ được con thuyền đứng yên trong dòng nước chảy xiết vậy. Điều này có nghĩa là hành giả không được can thiệp hoặc tác động vào hơi thở tự nhiên của mình, đừng cố điều chỉnh hoặc sửa hơi thở mà chỉ điềm tĩnh nhẹ nhàng biết hơi thở tự nhiên khi nó ra-vào tại điểm xúc chạm và đến cuối mỗi hơi thở thì quý vị đếm một, hai, ba v.v. Với kiểu đếm này hành giả có thể dễ dàng định tâm một cách nhẹ nhàng trên đối tượng hơi thở, một điểm nữa là quý vị nhận biết được hơi thở tại điểm nào. Khi đếm nhanh kiểu này thì hơi thở phát triển rõ rệt nhưng tiến trình hơi thở không bị gián đoạn, cứ tiếp tục đếm và biết rõ hơi thở không trước và cũng không sau, chỉ đúng lúc hơi thở đi qua điểm xúc chạm, không đi vào trong cũng không đi ra ngoài. Nếu hành giả theo hơi thở vào bên trong cơ thể quý vị sẽ có cảm giác phía bên trong chứa đầy gió và nó căng phồng lên như một quả bóng đầy hơi. Đó là lý do tại sao khi thiền với đối tượng chánh niệm hơi thở thì quý vị không đi theo hơi thở vào bên trong cơ thể mà chỉ luôn luôn để tâm tại điểm xúc chạm. Tôi khuyên các hành giả, không để tâm mình chạy theo hơi thở vào bên trong cơ thể, bởi vì nhiều hành giả cảm thấy bị nhức đầu hoặc cảm thấy căng do đặc tính đẩy của gió rất mạnh khi quý vị theo hơi thở vào bên trong cơ thể. Khi đặc tính đẩy của gió rõ ràng thì lập tức đặc tính cứng của đất cũng sẽ dần dần xuất hiện và các đặc tính khác của hơi thở như 12 đặc tính của hơi thở càng lúc càng rõ ràng hơn. Như vậy quý vị đã đổi tâm sang một đối tượng khác là đối tượng đặc tính của tứ đại chứ không phải là đối tượng hơi thở nữa. Tương tự như vậy hành giả cũng không để tâm theo hơi thở đi ra bên ngoài cơ thể. Tức là khi hơi thở xúc chạm vào phần dưới chóp mũi và phía trên của môi trên nó sẽ đi ra ngoài. Nếu hành giả theo hơi thở ra ngoài, tâm sẽ bị phân tán theo các đối tượng bên ngoài. Khi thực hành phương pháp đếm, đến một lúc quý vị sẽ có một câu hỏi: “Khi nào mình có thể dừng phương pháp này lại?” Câu trả lời là: “Hành giả có thể dừng phương pháp đếm khi tâm của hành giả tự nó có thể giữ được trên đối tượng hơi thở vào-ra mà không cần phải gắng sức hay nỗ lực. Khi tâm không còn lang thang hay lăng xăn nữa.” Phương pháp đếm là một phương tiện để đối trị phóng tâm, tránh cho sở hữu tầm không vượt ra ngoài một đối tượng nào khác ngoài đối tượng hơi thở. Phương pháp này giúp hành giả có chánh niệm trên đối tượng hơi thở. Một khi tâm đã yên ổn và hay biết hơi thở một cách liên tục không gián đoạn thì phương pháp đếm không cần thiết nữa. Vậy hành giả nào có thể nhận biết hơi thở một cách rõ ràng thì không cần dùng phương pháp đếm nữa. Điều quan trọng hành giả nên nhớ khi thực tập phương pháp đếm là luôn luôn giữ tâm tại điểm xúc chạm, không theo hơi thở đi vào bên trong cơ thể hoặc đi ra ngoài cơ thể. Trong Thanh Tịnh Đạo có ba ví dụ để giải thích điểm này. Thí dụ thứ nhất là một người bị tật ở chân ngồi đưa xích đu, thí dụ thứ hai là người gác cổng, thí dụ thứ ba là một người thợ cưa. -Thí dụ thứ nhất, một người bị tật ở chân ngồi yên cạnh một chiếc xích đu để đẩy chiếc xích đu cho bọn trẻ và mẹ của anh ta. Không hề rời khỏi chỗ của mình anh ta ngồi quan sát hình vòng cung mà chiếc xích đu tạo nên khi nó chuyển động lên xuống. Cũng như thế đó một vị Tỳ Kheo tu tập chánh niệm hơi thở, đặt tâm mình tại điểm xúc chạm theo dõi hơi thở Ra-Vào cũng giống như người bị tật ngồi yên nhìn hình vòng cung mà chiếc xích đu tạo ra khi nó chuyển động lên xuống. - Thí dụ thứ hai, một người gác cổng, anh ta không kiểm tra từng người khi họ ra vào thành phố và cũng chẳng hỏi xem họ là ai, từ đâu đến và có cầm gì trên tay hay không? Bởi vì những điều này không phải là phận sự của anh ta, anh ta không quan tâm đến chi tiết của từng người. Nhiệm vụ của anh là ngồi đó để thấy mỗi người khi họ đi ra vào tại cổng. Cũng tương tự như vậy hơi thở khi đi vào trong cơ thể hoặc đi ra ngoài cơ thể không phải là mối quan tâm của hành giả. Hành giả chỉ nhận biết khi nó đi ngang qua điểm xúc chạm trong phạm vi giữa chóp mũi và phía trên của môi trên. -Thí dụ thứ ba, người thợ cưa cắt một thân cây nằm trên mặt đất. Chánh niệm của anh ta được đặt trên răng cưa nơi cái cưa tiếp xúc với thân cây. Anh ta không cần để ý đến lưỡi cưa khi nó di chuyển vào phía bên trong hoặc bên ngoài mình. Bằng cách đó anh ta nổ lực thực hiện nhiệm vụ của mình và cuối cùng thành tựu kết quả cưa ngang qua thân cây. Ở đây thân cây được ví như điểm xúc chạm và răng cưa được ví như hơi thở. Cũng như thế đó chánh niệm của vị Tỳ kheo được cột chặt vào hơi thở tại điểm xúc chạm trong vùng từ chóp mũi đến phía trên của môi trên, cũng giống như người thợ cưa chỉ để ý đến răng cưa nơi mà nó tiếp xúc với thân cây chứ không để ý đến lưỡi cưa khi nó đi vào hay đi ra.Và cũng như vậy vị Tỳ Kheo không chú ý đến hơi thở khi nó đi vào trong hoặc đi ra ngoài cơ thể mà vị đó chỉ tinh tấn thực hiện nhiệm vụ là thấy được hơi thở tại điểm xúc chạm và cuối cùng thành tựu được kết quả. Tinh tấn ở đây có nghĩa là gì? Tinh tấn để tạo ra và thành tựu một số phẩm chất của tâm. Tinh tấn được thể hiện ở chỗ hành giả đầy nhiệt huyết và không mệt mỏi, miên mật để tâm và thân mình vào nhiệm vụ giữ và phát triển chánh niệm trên đối tượng là niệm hơi thở. Với nổ lực đó tâm hành giả trở nên vô cùng nhu nhuyến, dễ thuần hóa và dễ thành công trong bất cứ một việc gì. Nhiệm vụ ở đây là gì? Nhiệm vụ ở đây được hiểu là diệt trừ những ô nhiễm của tâm cũng như những triền cái tham, sân, hoài nghi, trạo cử, hôn trầm thụy miên. Khi đắc sơ thiền các triền cái bị diệt trừ. Khi đắc nhị thiền, tầm bị diệt và cuối cùng kết quả hành giả đạt được là những trói buộc và dính mắc của tâm bị diệt từ, các ô nhiễm ngủ ngầm đi đén chỗ đoạn diệt và đó là lúc hành giả đạt đến quả vị A-La-Hán. Thành quả này được biểu hiện trong một bài thơ của vị A-La-Hán, Ngài Maha Kabina: Những ai dần dần Phát triển và thành tựu viên mãn Chánh niệm hơi thở Theo lời dạy của Đức Thế Tôn Người đó sẽ tỏa sáng chói chan Giữa cuộc đời nàyGiống như mặt trăng Thoát khỏi mây đen. Nếu viên mãn chánh niệm trên hơi thở ra vào tại điểm xúc chạm, hành giả nhớ rằng không đi theo hơi thở vào bên trong hoặc ra ngoài cơ thể, định sẽ dần dần phát triển và lúc đầy đủ hành giả sẽ đắc được thiền. Khi hành giả làm được điều này tức là hành giả thành công trong việc thực hành giáo pháp của Đức Phật dạy chánh niệm hơi thở. Đức Phật dạy rằng: “Chánh niệm vị ấy thở vào, chánh niệm vị ấy thở ra.” Đây là những cơ bản trong bước thực tập hơi thở, tôi nghĩ quý vị là người biết rõ nhất là mình có thể thực tập được điều này hay không? Tôi thấy phần lớn hành giả thường phải đánh vật với những phóng tâm của mình. Do vậy tôi nhắc đi lại với hành giả môt khi còn trong tình trạng đánh lộn với phóng tâm của mình thì quý vị cứ nên thực tập phương pháp đếm cho đến khi nào quý vị biết được hơi thở ra vào một cách hết sức rõ ràng. Và phương pháp đếm sẽ không còn cần thiết nữa nếu như hành giả có thể thực tập được phương pháp này trong vòng một tiếng đồng hồ mà không có một phóng tâm nào, và hành giả có thể chuyển sang bước tiếp theo. Bước tiếp theo đức Phật dạy: “Thở vào một hơi dài vị ấy biết ta đang thở vô dài. Thở ra một hơi dài vị ấy biết ta đang thở ra dài. Thở vô một hơi ngắn vị ấy biết ta đang thở vô ngắn. Thở ra một hơi ngắn vị ấy biết ta đang thở ra ngắn.” Tôi xin giải thích cho quý vị nghe thế nào là hơi thở ngắn thế nào là hơi thở dài. Hơi thở ngắn và dài ở đây không có ý nói chiều dài về không gian có thể được tính bằng centimetre hoặc bằng inch. Nó được hiểu là thời gian ngắn và dài trong suốt quá trình hơi thở xảy ra. Hơi thở dài được biết là thời gian xúc chạm dài, hơi thở ngắn là thời gian xúc chạm mau. Vì vậy thời gian hơi thở đi vào ngang qua diểm xúc chạm dài gọi là hơi thở dài và thời gian hơi thở đi vào ngang qua điểm xúc chạm ngắn gọi là hơi thở ngắn. Trong đời thường chúng ta có thể hiểu được hơi thở dài và ngắn một cách dễ hiểu như sau, hơi thở dài tức là khi chúng ta thở chậm, khi nào chúng ta thở nhanh sẽ có hơi thở ngắn. Trong trường hợp này làm thế nào chúng ta có thể biết được hơi thở dài và hơi thở ngắn. Làm sao chúng ta có thể nhận biết được độ dài của hơi thở. Khi bắt đầu thực tập niệm hơi thở quý vị thực tập phương pháp đếm để làm định tâm của mình. Khi hơi thở trở nên vi tế tâm ổn định, không còn những phóng tâm thì quý vị chuyển sang chỉ nhận biết hơi thở dài và ngắn mà thôi. Trong suốt nửa tiếng đồng hồ khi hành giả ngồi vào bắt đầu phương pháp nhận biết hơi thở thì trong nửa tiếng đó quý vị chỉ nhẹ nhàng nhận biết hơi thở ra-vào, sau nửa tiếng đó hành giả nhận biết nó dài hay ngắn. Hành giả biết được hơi thở dài hay hơi thở ngắn bằng thời gian hơi thở đi ngang qua điểm xúc chạm là dài hay ngắn, lâu hay mau. Tự hành giả sẽ quyết định là đối với mình hơi thở này được xem là dài hay ngắn tùy theo thời gian lâu hay mau. Hành giả phải xác định được hơi thở này dài hay ngắn trong mỗi một hơi thở tức là trong mỗi hơi thở ra vào đều phải xác định. Có những thời thiền hành giả sẽ thấy hơi thở của mình toàn những hơi thở dài hoặc có những thời thiền toàn hơi thở ngắn hoặc có những thời hơi thở đổi từ hơi thở dài sang hơi thở ngắn, quý vị thực tập hai bước dài ngắn cùng một lúc. Điều này có nghĩa rằng có những thời quý vị thở rất chậm thì toàn hơi thở dài. Có những thời thở rất nhanh, đó là hơi thở ngắn. Nhưng đặc biệt hành giả không được cố gắng tạo hoặc chỉnh sửa hơi thở theo ý mình. Đức Phật dạy đơn giản chúng ta chỉ biết hơi thở này dài hay ngắn mà thôi, đó là điều cần thiết hành giả phải làm. Đồng thời quý vị cũng không được niệm trong tâm lúc thở là vô-ra dài, vô-ra ngắn. Không niệm trong tâm mà chỉ đơn giản biết được là hơi thở dài hay ngắn mà thôi, bởi vì khi niệm như vậy tâm quý vị sẽ bắt đầu phán đoán xem thực ra hơi thở này có dài lắm không và nếu mình gọi nó là dài thì có đúng hay không? Khi không tự điều chỉnh hơi thở của mình thì hành giả vẫn phải làm một điều là nên chắc chắn xem hơi thở ra-vào có độ dài bằng nhau không? Hoặc ngắn có bằng nhau không? Nếu như quý vị thấy hơi thở vô dài, hơi thở ra ngắn có nghĩa là tư thế ngồi của quý vị bị ngửa ra phía sau. Nếu như hơi thở vô ngắn, hơi thở ra dài có nghĩa là tư thế ngồi bị cúi ra phía trước. Trong cả hai trường hợp này hơi thở không được êm. Điều này có nghĩa là hơi thở không đi theo một đường thẳng mà nó bị chặn tại một điểm nào đó và nó không đều, vì vậy định sẽ giảm sút, hành giả khó có khả năng giữ và phát triển định tâm. Trong trường hợp hơi thở ra-vào không bằng nhau, hành giả hãy cố gắng cân bằng hơi thở bằng cách kéo dài hơi thở ngắn ra và làm ngắn hơi thở dài. Tức là nếu hơi thở vô ngắn hơi thở ra dài thì quý vị cố gắng cân bằng hai thở và đổi tư thế ngồi thẳng lại. Ngay khi hai hơi thở đã bằng nhau thì phải trở lại để hơi thở hoàn toàn tự nhiên, không can thiệp hay dụng công uốn hơi thở theo ý mình nữa. Nếu hành giả có thể tập trung một cách nhẹ nhàng và bình an trên hơi thở ngắn và dài trong mỗi thời ngồi là một tiếng đồng hồ và trong vài ngày thì nimitta sẽ xuất hiện. Nhưng nếu quý vị chưa thấy nimitta thì quý vị có thể chuyển sang bước tiếp theo. Tôi đã trình bày về hai bước đầu tiên trong bốn bước của đề mục niệm hơi thở, đó là hơi thở ngắn và hơi thở dài. Sáng mai tôi sẽ nói đến bước thứ ba là cảm giác toàn thân hơi thở. Tôi xin dừng lời tại đây. Bài thuyết pháp sáng 16 tháng 9 năm 2008 của Thày Dhammapala.
|
|