|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 16:54:53 GMT -5
The Benefits of Walking Meditation Lợi ích của Thiền hànhVenerable Sayadaw U Silananda Hòa thượng Silananda (Bình Anson dịch) At our meditation retreats, yogis practise mindfulness in four different postures. They practise mindfulness when walking, when standing, when sitting, and when lying down. They must sustain mindfulness at all times in whatever position they are in. The primary posture for mindfulness meditation is sitting with legs crossed, but because the human body cannot tolerate this position for many hours without changing, we alternate periods of sitting meditation with periods of walking meditation. Since walking meditation is very important, I would like to discuss its nature, its significance, and the benefits derived from its practice. Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm. Họ phải duy trì chánh niệm trong mọi thời khắc, ở mọi tư thế của họ. Tuy nhiên, tư thế chính trong khi thực tập quán niệm là tư thế ngồi với chân xếp chéo. Bởi vì thân thể con người không thể nào chịu đựng được cách ngồi nầy trong nhiều giờ, nên chúng ta xen kẽ các suất ngồi thiền với các suất đi kinh hành. Vì pháp Thiền Hành, hay đi kinh hành, là một pháp thiền quan trọng, tôi muốn thảo luận ở đây về bản thể, tầm quan trọng, và các lợi ích của pháp thiền nầy. The practice of mindfulness meditation can be compared to boiling water. If one wants to boil water, one puts the water in a kettle, puts the kettle on a stove, and then turns the heat on. But if the heat is turned off, even for an instant, the water will not boil, even though the heat is turned on again later. If one continues to turn the heat on and off again, the water will never boil. In the same way, if there are gaps between the moments of mindfulness, one cannot gain momentum, and so one cannot attain concentration. That is why yogis at our retreats are instructed to practise mindfulness all the time that they are awake, from the moment they wake up in the morning until they fall asleep at night. Consequently, walking meditation is integral to the continuous development of mindfulness. Việc thực hành thiền quán niệm có thể ví như việc đun nước. Khi đun nước, ta đổ nước vào nồi, đặt nồi lên bếp, rồi vặn lửa lên. Nếu ta tắt lửa dù chỉ một thời gian ngắn, nước sẽ không bao giờ sôi, cho dù sau đó ta lại vặn lửa lên nữa. Nếu ta cứ tắt và vặn lửa nhiều lần như thế, nước sẽ không bao giờ sôi. Cũng như thế, nếu có những khoảng hở giữa các thời khắc chánh niệm thì ta sẽ không thể tạo được một xung lực và sẽ không đạt được Chánh Ðịnh. Vì vậy trong các khóa thiền, hành giả được hướng dẫn thực tập chánh niệm liên tục khi họ tỉnh thức, từ lúc mở mắt thức giấc vào buổi sáng cho đến khi bắt đầu ngủ vào ban đêm. Từ đó, pháp thiền hành được dung hợp vào công phu phát triển chánh niệm liên tục của mỗi hành giả. Unfortunately, I have heard people criticize walking meditation, claiming that they cannot derive any benefits or good results from it. But it was the Buddha himself who first taught walking meditation. In the "Great Discourse on the Foundations of Mindfulness", the Buddha taught walking meditation two times. In the section called "Postures," he said that a monk knows "I am walking" when he is walking, knows "I am standing" when he is standing, knows "I am sitting" when he is sitting, and knows "I am lying down" when he is lying down. Một điều đáng buồn mà tôi thường nghe người ta chỉ trích pháp thiền đi kinh hành, cho rằng qua pháp thiền nầy, hành giả không thể thu lợi ích hoặc thành quả tốt đẹp nào. Tuy nhiên, chính Ðức Phật là người đầu tiên dạy dạy pháp thiền hành. Trong kinh Ðại Tứ Niệm Xứ, Ðức Phật đã dạy về pháp đi kinh hành hai lần. Trong đoạn "Các Oai nghi", Ngài giảng rằng vị tỳ kheo phải biết "Tôi đang đi" khi người ấy đi, phải biết "Tôi đang đứng" khi người ấy đứng, phải biết "Tôi đang ngồi" khi người ấy ngồi, và phải biết "Tôi đang nằm" khi người ấy nằm. In another section called "Clear Comprehension," the Buddha said, "A monk applies clear comprehension in going forward and in going back." Clear comprehension means the correct understanding of what one observes. To correctly understand what is observed, a yogi must gain concentration, and in order to gain concentration, he must apply mindfulness. Therefore, when the Buddha said, "Monks, apply clear comprehension," we must understood that not only clear comprehension must be applied, but also mindfulness and concentration. Trong đoạn "Tỉnh giác", Ðức Phật dạy, "Vị tỳ kheo phải biết áp dụng tỉnh giác khi đi tới và khi đi lui". Tỉnh giác ở đây có nghĩa là thông hiểu chính xác những gì ta đang quán sát. Ðể hiểu đúng những gì đang quán sát, hành giả phải đạt chánh định, và muốn có chánh định, hành giả phải biết quán niệm. Vì vậy, khi Ðức Phật nói, "Nầy các tỳ kheo, hãy áp dụng tỉnh giác," thì ta phải hiểu rằng không phải chỉ áp dụng tỉnh giác, mà còn phải áp dụng quán niệm và chánh định. Thus the Buddha was instructing meditators to apply mindfulness, concentration, and clear comprehension while walking, while "going forward and back." Walking meditation is thus an important part of this process. Như thế, Ðức Phật đã dạy các thiền sinh áp dụng chánh niệm, chánh định, và tỉnh giác khi bước đi, khi "đi tới và đi lui." Do đó, đi kinh hành là một phần quan trọng trong tiến trình thực tập thiền định.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 16:57:04 GMT -5
How to Practice Walking Meditation? Ði kinh hành như thế nào? Although it is not recorded in this sutta that the Buddha gave detailed and specific instructions for walking meditation, we believe that he must have given such instructions at some time. Those instructions must have been learned by the Buddha's disciples and passed on through successive generations. In addition, teachers of ancient times must have formulated instructions based on their own practice. At the present time, we have a very detailed set of instructions on how to practise walking meditation. Mặc dù kinh Ðại Niệm Xứ không có ghi lại các chỉ dẫn chi tiết của Ðức Phật về pháp thiền hành, chúng tôi tin rằng Ngài đã dạy cho các vị đệ tử thực hành pháp nầy khi Ngài còn tại thế. Các hướng dẫn đó hẳn đã được các môn đệ của Ngài học, hành và truyền lại từ đời nầy sang đời khác. Hơn nữa, các thiền sư thời xưa hẳn phải thiết lập các công thức giảng dạy dựa vào sự thực tập của các ngài ấy. Ngày nay, chúng ta đã được thừa hưởng một bộ các lời chỉ dẫn chi tiết về phương cách thực tập pháp thiền kinh hành. Let us now talk specifically about the practice of walking meditation. If you are a complete beginner, the teacher may instruct you to be mindful of only one thing during walking meditation: to be mindful of the act of stepping while you make a note silently in the mind, "stepping, stepping, stepping," or "left, right, left, right." You may walk at a slower speed than normal during this practice.
Bây giờ, ta hãy nói chi tiết về cách thực tập đi kinh hành. Nếu bạn hoàn toàn là người mới bắt đầu, vị thiền sư sẽ dạy cho bạn sự chánh niệm về một điều duy nhất khi đi kinh hành: phải chánh niệm về động tác bước chân bằng cách ghi nhận thầm lặng trong tâm là "bước, bước, bước," hoặc là "trái, phải, trái, phải." Trong lúc thực tập nầy, có thể là bạn sẽ bước chậm hơn thường ngày. After a few hours, or after a day or two of meditation, you may be instructed to be mindful of two occurrences: (i) stepping, and (ii) putting down the foot, while making the mental note "stepping, putting down." You will try to be mindful of two stages in the step: "stepping, putting down; stepping, putting down." Later, you may be instructed to be mindful of three stages: (i) lifting the foot; (ii) moving or pushing the foot forward; and (iii) putting the foot down. Still later, you would be instructed to be mindful of four stages in each step: (i) lifting the foot; (ii) moving it forward; (iii) putting it down; and (iv) touching or pressing the foot on the ground. You would be instructed to be completely mindful and to make a mental note of these four stages of the foot's movement: "lifting, moving forward, putting down, pressing the ground."
Sau vài giờ thực tập, hoặc sau một hay hai ngày thiền tập, bạn sẽ được chỉ dẫn đặt chú niệm vào hai động tác: (i) bước, và (ii) đặt chân xuống, cùng lúc ấy ghi nhận trong tâm là "bước đi, đặt xuống", hoặc "bước, đạp". Bạn phải gắng chú tâm vào hai giai đoạn của một bước: "bước đi, đặt xuống; bước đi, đặt xuống". Sau đó, bạn sẽ được dạy đặt chú niệm vào ba giai đoạn: (i) dở chân lên; (ii) đưa chân đến trước; và (iii) đặt chân xuống. Sau đó nữa, bạn sẽ được dạy chú niệm vào bốn giai đoạn: (i) dở chân lên; (ii) đưa chân đến trước; (iii) đặt chân xuống; và (iv) chạm hoặc ấn bàn chân xuống đất (hay đạp xuống). Lúc đó, bạn sẽ được chỉ dẫn là phải ghi nhận trong tâm về bốn giai đoạn của động tác chân: "dở lên, bước tới, đặt xuống, ấn xuống đất." At first yogis may find it difficult to slow down, but as they are instructed to pay close attention to all of the movements involved, and as they actually pay closer and closer attention, they will automatically slow down. They do not have to slow down deliberately, but as they pay closer attention, slowing down comes to them automatically. When driving on the freeway, one may be driving at sixty or seventy or even eighty miles per hour. Driving at that speed, one will not be able to read some of the signs on the road. If one wants to read those signs, it is necessary to slow down. Nobody has to say, "Slow down!" but the driver will automatically slow down in order to see the signs. In the same way, if yogis want to pay closer attention to the movements of lifting, moving forward, putting down, and pressing the ground, they will automatically slow down. Only when they slow down can they be truly mindful and fully aware of these movements.
Ban đầu, thiền sinh sẽ cảm thấy khó bước chậm lại. Tuy nhiên, sau khi họ được hướng dẫn để tâm theo dõi vào mọi cử động của chân, và khi họ thực sự chú tâm theo dõi chặt chẽ, thì tự nhiên họ sẽ bước chậm lại. Họ không cần phải cố gắng bước chậm, nhưng khi họ chú tâm thật kỹ, các cử động chậm rãi sẽ tự động đến với họ. Khi ta lái xe trên đường cao tốc, ta có thể phóng với tốc độ 100 km/giờ. Với tốc độ như thế, ta không thể nào quán sát được tất cả các dấu hiệu bên đường. Nếu ta muốn đọc được các dấu hiệu đó thì ta phải lái xe chậm lại. Không cần phải có ai ra lệnh, "Chạy xe chậm lại!", người tài xế sẽ tự động lái chậm lại nếu người ấy muốn đọc các dấu hiệu bên đường. Cũng như thế, khi thiền sinh theo dõi bám sát các cử động dở chân lên, đưa chân ra trước, đặt xuống, và ấn chân xuống đất, họ sẽ tự động bước chậm lại. Khi bước chậm lại, họ mới có thể có chánh niệm và hoàn toàn nhận thức được các động tác nầy.
Although yogis pay close attention and slow down, they may not see all of the movements and stages clearly. The stages may not yet be well-defined in the mind, and they may seem to constitute only one continuous movement. As concentration grows stronger, yogis will observe more and more clearly these different stages in one step; the four stages at least will be easier to distinguish. Yogis will know distinctly that the lifting movement is not mixed with the moving forward movement, and they will know that the moving forward movement is not mixed with either the lifting movement or the putting down movement. They will understand all movements clearly and distinctly. Whatever they are mindful and aware of will be very clear in their minds.
Mặc dù thiền sinh theo dõi bám sát và bước chậm lại, có thể họ cũng vẫn chưa thấy rõ tất cả các động tác và các giai đoạn của bước đi. Các giai đoạn nầy có thể chưa được minh định trong tâm, và họ tưởng như là chúng kết tạo thành một động tác liên tục. Khi sự định tâm gia tăng mạnh hơn, thiền sinh sẽ dần dần thấy rõ hơn về các giai đoạn khác nhau của một bước đi; và sẽ phân biệt được bốn giai đoạn của động tác đó. Thiền sinh sẽ nhận biết rõ ràng rằng cử động dở chân không trộn lẫn với cử động đưa chân ra phía trước, và họ sẽ biết rõ là cử động đưa chân ra trước không có lẫn lộn với cử động đặt chân xuống hoặc cử động ấn bàn chân xuống đất. Họ sẽ nhận biết rõ ràng và phân biệt được các cử động nầy. Những gì họ quán niệm và tỉnh thức theo dõi sẽ trở nên rõ ràng trong tâm thức của họ.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 16:59:17 GMT -5
The Four Essential Elements Nhận thức được tứ đại
As yogis carry on the practice, they will observe much more. When they lift their foot, they will experience the lightness of the foot. When they push the foot forward, they will notice the movement from one place to another. When they put the foot down, they will feel the heaviness of the foot, because the foot becomes heavier and heavier as it descends. When they put the foot on the ground, they will feel the touch of the heel of the foot on the ground. Therefore, along with observing lifting, moving forward, putting down, and pressing the ground, yogis will also perceive the lightness of the rising foot, the motion of the foot, the heaviness of the descending foot, and then the touching of the foot, which is the hardness or softness of the foot on the ground. Khi thiền sinh tiếp tục hành trì pháp kinh hành, họ sẽ quán sát được nhiều sự kiện hơn. Khi họ dở chân lên, họ thực nghiệm tánh thể nhẹ nhàng của bước chân. Khi đưa chân ra trước, họ thực nghiệm được sự chuyển động từ nơi nầy sang nơi khác. Khi đặt chân xuống, họ thực nghiệm được tánh thể nặng nề của bàn chân, bởi vì bàn chân sẽ trở nên nặng nề hơn khi nó từ từ đưa hạ xuống đất. Khi bàn chân chạm đất, họ cảm nhận được sự chạm xúc của gót chân với mặt đất. Do đó, cùng lúc với quán sát sự dở chân, đưa ra trước, đặt xuống, và ấn xuống đất, thiền sinh cũng sẽ cảm nhận được tánh thể nhẹ nhàng của bàn chân đưa lên, chuyển động của chân, tánh thể nặng nề khi hạ chân xuống, và sự chạm xúc của bàn chân, sự cứng mềm của bàn chân trên nền đất.
When yogis perceive these processes, they are perceiving the four essential elements (in Pali, dhatu). The four essential elements are: the element of earth, the element of water, the element of fire, and the element of air. By paying close attention to these four stages of walking meditation, the four elements in their true essence are perceived, not merely as concepts, but as actual processes, as ultimate realities. Khi thiền sinh cảm nhận được các tiến trình nầy, là họ đang cảm nhận được bốn yếu tố cơ bản (tứ đại, dhatu). Bốn yếu tố cơ bản đó là: đất, nước, lửa, gió. Bằng cách thật sự theo dõi bốn giai đoạn của bước đi kinh hành, bản chất của bốn yếu tố nầy được cảm nhận, không phải chỉ là các khái niệm, mà là các tiến trình thật sự, như là các thực tại tối hậu (chân đế).
Let us go into a little more detail about the characteristics of the elements in walking meditation. In the first movement, that is, the lifting of the foot, yogis perceive lightness, and when they perceive lightness, they virtually perceive the fire element. One aspect of the fire element is that of making things lighter, and as things become lighter, they rise. In the perception of the lightness in the upward movement of the foot, yogis perceive the essence of the fire element. But in the lifting of the foot there is also, besides lightness, movement. Movement is one aspect of the air element. But lightness, the fire element, is dominant, so we can say that in the stage of lifting the fire element is primary, and the air element is secondary. These two elements are perceived by yogis when they pay close attention to the lifting of the foot. Bây giờ, chúng ta hãy đi vào chi tiết hơn về về đặc tính của các yếu tố nầy khi đi kinh hành. Trong động tác thứ nhất, khi dở bước chân lên, thiền sinh cảm nhận được sự nhẹ nhàng; và khi họ cảm nhận được sự nhẹ nhàng, họ hầu như cảm nhận được yếu tố lửa. Một đặc tính của yếu tố lửa là làm cho sự vật nhẹ nhàng hơn, vì khi nhẹ nhàng hơn thì chúng sẽ bay lên. Trong khi cảm nhận được sự nhẹ nhàng của động tác đưa lên, thiền sinh cảm nhận được bản chất của yếu tố lửa. Tuy nhiên, ngoài sự nhẹ nhàng cũng còn có sự chuyển động khi dở chân lên. Chuyển động là một đặc tính của yếu tố gió. Tuy nhiên, sự nhẹ nhàng của yếu tố lửa thì bao trùm hơn. Cho nên ta có thể nói rằng trong giai đoạn dở chân lên, yếu tố lửa là chánh và yếu tố gió là phụ. Hai yếu tố nầy được thiền sinh cảm nhận khi họ chú tâm theo dõi động tác dở chân lên.
The next stage is moving the foot forward. In moving the foot forward, the dominant element is the air element, because motion is one of the primary characteristics of the air element. So, when they pay close attention to the moving forward of the foot in walking meditation, yogis are virtually perceiving the essence of the air element. Giai đoạn kế tiếp là đưa chân ra trước. Khi di chuyển bàn chân ra trước, yếu tố bao trùm là yếu tố gió, bởi vì chuyển động là một trong các đặc tính chủ yếu của yếu tố gió. Vì vậy, khi thiền sinh chú tâm vào sự chuyển động đưa chân ra trước trong khi đi kinh hành, họ hầu như sẽ cảm nhận được bản chất của yếu tố gió.
The next stage is the movement of putting the foot down. When yogis put their foot down, there is a kind of heaviness in the foot. Heaviness is a characteristic of the water element, as is trickling and oozing. When liquid is heavy, it oozes. So when yogis perceive the heaviness of the foot, they virtually perceive the water element. Giai đoạn tiếp theo là sự chuyển động đặt chân xuống. Khi thiền sinh đặt chân xuống, có một sự nặng nề nơi bàn chân. Tính nặng nề là một đặc tính của yếu tố nước, như thể đang nhỏ giọt và sền sệt. Khi một chất lỏng có tính nặng nề, nó trở nên sền sệt, dính nhờn. Như thế, khi thiền sinh cảm nhận tính nặng nề của bàn chân, họ hầu như cảm nhận được thể tính của yếu tố nước.
In pressing the foot on the ground, yogis will perceive the hardness or softness of the foot on the ground. This pertains to the nature of the earth element. By paying close attention to the pressing of the foot against the ground, yogis virtually perceive the nature of the earth element. Khi ấn bàn chân xuống đất, thiền sinh cảm nhận được tính chất cứng hoặc mềm của bàn chân trên mặt đất. Ðiều nầy đưa đến thể tính của yếu tố đất. Bằng cách chú tâm vào sự đè ấn của bàn chân xuống đất, thiền sinh hầu như cảm nhận được thể tính của yếu tố đất.
Thus we see that in just one step, yogis can perceive many processes. They can perceive the four elements and the nature of the four elements. Only those who practise can ever hope to see these things. Như vậy, chỉ trong một bước đi, thiền sinh nhận thức được nhiều tiến trình. Họ cảm nhận được bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió và thể tính của chúng. Chỉ có những thiền sinh nào chịu khó thực tập như thế mới có hy vọng nhận thấy được các điều nầy.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:01:04 GMT -5
Understanding of Mind and Matter Tuệ Danh-Sắc
As yogis continue to practise walking meditation, they will come to realize that, with every movement, there is also the noting mind, the awareness of the movement. There is the lifting movement and also the mind that is aware of that lifting. In the next moment, there is the moving forward movement and also the mind that is aware of the movement. Moreover, yogis will realize that both the movement and the awareness arise and disappear in that moment. In the next moment, there is the putting down movement and so also the awareness of the movement, and both arise and disappear in that moment of putting the foot down on the ground. The same process occurs with the pressing of the foot: there is the pressing and the awareness of pressing. In this way, yogis understand that along with the movement of the foot, there are also the moments of awareness.
Khi thiền sinh tiếp tục hành trì pháp thiền kinh hành, họ sẽ nhận thức được rằng cùng với mỗi cử động, sẽ có một tâm ghi nhận, một sự tỉnh giác về cử động đó. Có một chuyển động dở bước chân lên và cũng có một cái tâm để nhận thức sự dở bước đó. Trong thời khắc kế tiếp, có một chuyển động đưa chân ra trước và cũng có một cái tâm nhận thức sự chuyển động. Hơn nữa, thiền sinh sẽ thấy rằng cả sự chuyển động và sự nhận thức cùng sinh khởi và hủy diệt trong thời khắc đó. Qua giai đoạn kế tiếp, có một chuyển động đưa chân xuống và cũng có một tâm nhận thức sự chuyển động; và cả hai cùng sinh khởi và hoại diệt ngay khi đặt chân xuống đất. Một tiến trình tương tự xẩy ra khi ấn chân xuống đất: có sự đè ấn và sự nhận thức về đè ấn. Bằng cách nầy, thiền sinh hiểu rằng song song với sự chuyển động của chân là có các thời khắc của sự nhận thức.
The moments of awareness are called, in Pali, nama, mind, and the movement of the foot is called rupa, matter. So yogis will perceive mind and matter rising and disappearing at every moment. At one moment there is the lifting of the foot and the awareness of the lifting, and at the next moment there is the movement forward and the awareness of that movement, and so on. These can be understood as a pair, mind and matter, which arise and disappear at every moment. Thus yogis advance to the perception of the pairwise occurrence of mind and matter at every moment of observation, that is, if they pay close attention.
Sự nhận thức trong các lúc như thế gọi là Danh (nama) hay Tâm, và sự chuyển động của chân gọi là Sắc (rupa) hay Vật chất. Như thế, thiền sinh sẽ cảm nhận được tâm và vật chất khởi sinh và hoại diệt trong mỗi thời khắc. Thời khắc nầy có sự dở bước chân và sự nhận thức về dở chân lên, và thời khắc kế là có sự chuyển động đưa chân ra trước và sự nhận thức về chuyển động đó, và cứ tiếp tục như thế. Ðiều nầy được cảm nhận như là một cặp, danh và sắc, khởi sinh và hoại diệt trong từng thời khắc. Như thế, nếu thiền sinh theo dõi chặt chẽ, họ sẽ tiến đến sự cảm nhận về sự hiện diện của cặp danh-sắc, tâm và vật chất, trong mỗi lúc quán sát.
Another thing that yogis will discover is the role of intention in effecting each movement. They will realize that they lift their foot because they want to, move the foot forward because they want to, put it down because they want to, press the foot against the ground because they want to. That is, they realize that an intention precedes every movement. After the intention to lift, lifting occurs. They come to understand the conditionality of all of these occurrences -- these movements never occur by themselves, without conditions. These movements are not created by any deity or any authority, and these movements never happen without a cause. There is a cause or condition for every movement, and that condition is the intention preceding each movement. This is another discovery yogis make when they pay close attention.
Một điều khác nữa mà thiền sinh sẽ khám phá ra là vai trò của ý định, chi phối từng động tác. Họ sẽ trực nhận được rằng họ dở chân lên là vì họ muốn như thế, họ đưa chân ra trước là vì họ muốn như thế, họ đặt chân xuống là vì họ muốn như thế, họ ấn bàn chân xuống đất là vì họ muốn như thế. Có nghĩa là họ sẽ trực nhận rằng có một ý định xẩy ra trước mỗi động tác. Sau khi có ý định dở chân, là dở chân xẩy ra. Từ đó họ thông hiểu được tíng "duyên sinh" của mọi sự kiện -- các động tác nầy không thể tự xẩy ra nếu không có những điều kiện. Các động tác nầy không tạo ra bởi thần linh hay một quyền lực nào, và các động tác nầy không bao giờ xẩy ra nếu không có nguyên nhân. Có một nguyên nhân hay một điều kiện cho mỗi động tác, và điều kiện đó chính là ý định tiên khởi xẩy ra trước mỗi động tác. Ðây là điều mà thiền sinh sẽ khám phá được khi họ chuyên chú quán sát.
When yogis understand the conditionality of all movements, and that these movements are not created by any authority or any god, then they will understand that they are created by intention. They will understand that intention is the condition for the movement to occur.
Khi thiền sinh thông hiểu được tính duyên sinh của mọi động tác, và các động tác nầy không do thần linh hay quyền lực nào tạo ra, họ sẽ thông hiểu được rằng các động tác đó là do ý định. Họ thông hiểu được rằng ý định là điều kiện để động tác được xẩy ra.
Thus the relationship of conditioning and conditioned, of cause and effect, is understood. On the basis of this understanding, yogis can remove doubt about Nama and Rupa by understanding that Nama and Rupa do not arise without conditions. with the clear understanding of the conditionality of things, and with the transcendence of doubt about Nama and Rupa, a yogi is said to reach the stage of a "lesser sotapanna."
Từ đó, sự liên hệ giữa cái tạo điều kiện và cái bị điều kiện, giữa nguyên nhân và hậu quả, được hiểu rõ. Trên cơ sở của sự hiểu biết nầy, thiền sinh sẽ gỡ bỏ các nghi ngờ về Danh và Sắc qua sự nhận thức rằng danh và sắc không thể khởi sinh nếu không có điều kiện. Với sự thông hiểu rõ ràng về tính duyên sinh của vạn vật, và với sự vượt thoát các nghi ngờ về danh và sắc, người thiền sinh được xem như là đã đạt đến giai đoạn của một vị "cận Tu Ðà Hoàn" (tiểu Tu Ðà Hoàn, cula-sotapanna) .
A sotapanna is a "stream-enterer," a person who has reached the first stage of enlightenment. A "lesser-sotapanna" is not a true stream-enterer but is said to be assured of rebirth in a happy realm of existence, such as in the realms of human beings and devas. That is, a lesser-sotapanna cannot be reborn in one of the four woeful states, in one of the hells or animal realms.
Tu Ðà Hoàn là người "nhập dòng" (dự lưu), người đã đạt được quả vị đầu tiên của sự giác ngộ. Vị "cận Tu Ðà Hoàn" không phải là một người "dự lưu" thực thụ, nhưng được xem như là sẽ được tái sinh trong các cõi tương đối an nhàn sung sướng, như là cõi người và cõi tiên. Người "cận Tu Ðà Hoàn" không thể tái sinh trong bốn cõi đau đớn như là địa ngục, thú, cõi a-tu-la, ngạ quỉ.
This state of lesser-sotapanna can be reached just by practising walking meditation, just by paying close attention to the movements involved in a step. This is the great benefit of practising walking meditation. This stage is not easy to reach, but once yogis reach it, they can be assured that they will be reborn in a happy state, unless, of course, they fall from that stage.
Mức độ "cận Tu Ðà Hoàn" nầy có thể đạt được bằng cách hành trì pháp thiền kinh hành, luôn luôn chú tâm vào các động tác của bước đi. Ðây là lợi ích lớn nhất của pháp thiền kinh hành. Tầng giác ngộ nầy cũng không phải dễ đạt được, nhưng một khi thiền sinh đã đạt đến đó, họ biết chắc rằng họ sẽ được tái sinh trong một cõi sung sướng, trừ phi họ lại tạo nghiệp ác mà sa đọa.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:03:07 GMT -5
Three Signs of Being
Tam pháp ấn
When yogis comprehend mind and matter arising and disappearing at every moment, then they will come to comprehend the impermanence of the processes of lifting the foot, and they will also comprehend the impermanence of the awareness of that lifting. The occurrence of disappearing after arising is a mark or characteristic by which we understand that something is impermanent. If we want to determine whether something is impermanent or permanent, we must try to see, through the power of meditation, whether or not that thing is subject to the process of coming into being and then disappearing. If our meditation is powerful enough to enable us to see the arising and disappearing of phenomena, then we can decide that the phenomena observed are impermanent. In this way, yogis observe that there is the lifting movement and awareness of that movement, and then that sequence disappears, giving way to the pushing forward movement and the awareness of pushing forward. These movements simply arise and disappear, arise and disappear, and this process yogis can comprehend by themselves -- they do not have to accept this on trust from any external authority, nor do they have to believe in the report of another person.
Khi thiền sinh thông hiểu danh và sắc được sinh khởi và hủy diệt trong mỗi thời khắc, họ sẽ thông hiểu được sự vô thường của các tiến trình bước đi, và họ cũng thông hiểu được sự vô thường của nhận thức về bước đi đó. Sự hiện hữu của hoại diệt tiếp theo sinh khởi là dấu hiệu hoặc đặc tính của một sự vật gì đó mà ta biết rằng nó không thường tồn. Nếu ta muốn xác định một vật gì đó là thường tồn hay vô thường, ta phải cố gắng xem xét -- qua năng lực của thiền định -- rằng vật đó có phải là đối tượng của một tiến trình sinh khởi rồi hoại diệt hay không. Nếu khả năng thiền định của ta có đủ năng lực giúp ta thấy được sự sinh diệt của hiện tượng, thì lúc đó ta mới có thể quyết định hiện tượng được quán sát đó là vô thường. Bằng cách đó, thiền sinh quán sát được sự hiện hữu của chuyển động dở chân và sự nhận thức của chuyển động đó, rồi chúng lại biến mất đi, nhường chỗ cho chuyển động đưa chân ra trước và nhận thức về chuyển động đưa chân ra trước. Các động tác nầy sinh rồi diệt, sinh rồi diệt, và thiền sinh tự mình thông hiểu được tiến trình nầy -- họ không cần phải chấp nhận hay tin tưởng điều nầy qua một quyền lực ngoại vi nào, mà cũng không cần phải dựa vào báo cáo của một người nào khác.
When yogis comprehend that mind and matter arise and disappear, they understand that mind and matter are impermanent. When they see that they are impermanent, they next understand that they are unsatisfactory because they are always oppressed by constant arising and disappearing. After comprehending impermanence and the unsatisfactory nature of things, they observe that there can be no mastery over these things; that is, yogis realize that there is no self or soul within that can order them to be permanent. Things just arise and disappear according to natural law. By comprehending this, yogis comprehend the third characteristic of conditioned phenomena, the characteristic of anatta, the characteristic that things have no self. One of the meanings of anatta is no mastery -- meaning that nothing, no entity, no soul, no power, has mastery over the nature of things. Thus, by this time, yogis have comprehended the three characteristics of all conditioned phenomena: impermanence, suffering, and the non-self nature of things -- in Pali, anicca, dukkha, and anatta.
Khi thiền sinh thông hiểu danh và sắc khởi sinh rồi hoại diệt, họ thông hiểu danh và sắc là vô thường. Khi họ thấy chúng là vô thường thì tiếp theo là họ sẽ thấy chúng là những gì bất toại ý bởi vì chúng luôn luôn bị trạng thái sinh diệt áp bức và đè nén. Sau khi thông hiểu tính vô thường và bất toại ý của vạn vật, thiền sinh thấy rằng họ không thể làm chủ được chúng; có nghĩa là họ trực nhận rằng không có một bản ngã hay linh hồn nào bên trong để ra lệnh cho chúng được thường tồn. Sự vật chỉ sinh khởi rồi hoại diệt theo luật thiên nhiên. Nhờ thấu hiểu như thế, thiền sinh thấu hiểu được đặc tính thứ ba của các hiện tượng hữu vi -- tùy thuộc điều kiện, đặc tính của vô ngã, một đặc tính của mọi vật vốn không có bản ngã. Một ý nghĩa khác của vô ngã là không có chủ nhân -- nghĩa là không có một thực thể nào, một linh hồn nào, một quyền lực nào có thể làm chủ được bản thể của vạn vật. Như thế, đến lúc đó, thiền sinh đã thông hiểu được ba đặc tính của mọi hiện tượng hữu vi -- Tam Pháp Ấn: vô thường (anicca), khổ (dukkha), và vô ngã (anatta).
Yogis can comprehend these three characteristics by observing closely the mere lifting of the foot and the awareness of the lifting of the foot. By paying close attention to the movements, they see things arising and disappearing, and consequently they see for themselves the impermanent, unsatisfactory, and non-self nature of all conditioned phenomena. Thiền sinh có thể thông hiểu được ba đặc tính nầy qua cách theo dõi bám sát các động tác bước đi và các nhận thức của động tác. Khi chuyên tâm chú niệm vào các chuyển động nầy, họ sẽ thấy vạn vật khởi sinh và hoại diệt, và từ đó, họ sẽ tự mình nhận thức được tính vô thường, khổ, và vô ngã của tất cả mọi hiện tượng hữu vi.
Non-Attachment Tâm Xả Ly
Now let us examine in more detail the movements of walking meditation. Suppose one were to take a moving picture of the lifting of the foot. Suppose further that the lifting of the foot takes one second, and let us say that the camera can take thirty-six frames per second. After taking the picture, if we were to look at the separate frames, we would realize that within what we thought was one lifting movement, there are actually thirty-six movements. The image in each frame is slightly different from the images in the other frames, though the difference will usually be so slight that we can barely notice it. But what if the camera could take one thousand frames per second? Then there would be one thousand movements in just one lifting movement, although the movements would be almost impossible to differentiate. If the camera could take one million frames per second -- which may be impossible now, but someday may happen -- then there would be one million movements in what we thought to be only one movement.
Bây giờ chúng ta hãy khảo sát chi tiết về các động tác của đi kinh hành. Giả sử ta quay phim, thu hình các bước chân dở lên. Giả sử thêm rằng khi dở chân lên thì mất một giây đồng hồ, và giả sử rằng máy quay phim có thể chụp được 36 ảnh trong mỗi giây. Sau khi quay phim, ta nhìn lại từng tấm ảnh trong cuộn phim. Ta sẽ thấy rằng mặc dù dở bước chân lên có vẻ chỉ là một động tác, nhưng thực ra là 36 sự chuyển động. Mỗi tấm ảnh cho ta thấy các cử động khác nhau, mặc dù sự khác biệt nầy rất nhỏ mà ta thường không để ý đến. Nếu máy quay phim đó có thể chụp được một ngàn tấm ảnh trong một giây thì sao? Lúc đó, ta lại sẽ thấy có một ngàn động tác trong một chuyển động dở bước chân, cho dù các động tác nầy hầu như khó mà phân biệt được. Nếu máy quay phim có thể chụp một triệu tấm ảnh trong một giây -- điều nầy chưa xẩy ra, nhưng một ngày nào đó sẽ có như thế -- thì lúc đó, ta sẽ thấy có một triệu động tác trong một hiện tượng mà ta cho rằng chỉ có một chuyển động duy nhất.
Our effort in walking meditation is to see our movements as closely as the camera sees them, frame by frame. We also want to observe the awareness and intention preceding each movement. We can also appreciate the power of the Buddha's wisdom and insight, by which he actually saw all of the movements. When we use the word "see" or "observe" to refer to our own situation, we mean that we see directly and also by inference; we may not be able to see directly all of the millions of movements as did the Buddha.
Nỗ lực trong pháp thiền kinh hành là để thấy các chuyển động của ta như là máy quay phim, từng tấm ảnh một. Ta cũng muốn quán sát sự nhận thức và ý định trước mỗi chuyển động. Như thế, ta mới khâm phục quyền lực trí tuệ minh sát của Ðức Phật, qua đó Ngài đã thấy được tất cả mọi chuyển động. Khi chúng ta dùng chữ "thấy" hay "quán sát" trong tình huống của chúng ta thì chỉ có nghĩa là ta có thể thấy một phần qua lối trực tiếp và một phần qua lối suy diễn; ta không thể nào thấy trực tiếp cả triệu chuyển động như Ðức Phật đã thấy.
Before yogis begin practising walking meditation, they may have thought that a step is just one movement. After meditation on that movement, they observe that there are at least four movements, and if they go deeper, they will understand that even one of these four movements consists of millions of tiny movements. They see Nama and Rupa, mind and matter, arising and disappearing, as impermanent. By our ordinary perception, we are not able to see the impermanence of things because impermanence is hidden by the illusion of continuity. We think that we see only one continuous movement, but if we look closely we will see that the illusion of continuity can be broken. It can be broken by the direct observation of physical phenomena bit by bit, segment by segment, as they originate and disintegrate. The value of meditation lies in our ability to remove the cloak of continuity in order to discover the real nature of impermanence. Yogis can discover the nature of impermanence directly through their own effort.
Trước khi thiền sinh thực tập pháp đi kinh hành, họ tưởng rằng một bước đi chỉ là một động tác. Sau khi thiền quán về động tác đó, họ thấy có ít nhất là bốn động tác. Nếu họ quán sát sâu xa hơn, họ sẽ hiểu rằng mỗi một động tác nầy lại bao gồm cả triệu động tác nhỏ khác. Như thế họ thấy Danh và Sắc, tâm và vật chất, khởi sinh rồi hoại diệt, như là vô thường. Bằng cảm nhận thông thường, chúng ta không thể thấy tính vô thường của vạn vật vì tính vô thường đó bị che phủ bởi một ảo tưởng của sự liên tục. Ta tưởng rằng ta chỉ thấy có một động tác liên tục, nhưng nếu ta nhìn kỷ hơn, ta sẽ thấy rằng cái ảo tưởng về liên tục đó có thể bị phá vỡ. Ảo tưởng đó bị phá vỡ bằng cách quán sát trực tiếp các hiện tượng vật lý, từng phần, từng chút, khi chúng khởi sinh và hoại diệt. Giá trị của thiền quán là ở khả năng của ta để gỡ bỏ màn liên tục và khám phá thực chất của vô thường. Thiền sinh có thể khám phá trực tiếp bản chất của vô thường nầy qua nỗ lực của chính họ.
After realizing that things are composed of segments, that they occur in bits, and after observing these segments one by one, yogis will realize that there is really nothing in this world to be attached to, nothing to crave for. If we see that something which we once thought beautiful has holes, that it is decaying and disintegrating, we will lose interest in it. For example, we may see a beautiful painting on a canvas. We think of the paint and canvas conceptually as a whole, solid thing. But if we were to put the painting under a powerful microscope, we would see that the picture is not solid -- it has many holes and spaces. After seeing the picture as composed largely of spaces, we would lose interest in it and we would cease being attached to it. Modern physicists know this idea well. They have observed, with powerful instruments, that matter is just a vibration of particles and energy constantly changing -- there is nothing substantial to it at all. By the realization of this endless impermanence, yogis understand that there is really nothing to crave for, nothing to hold on to in the entire world of phenomena.
Sau khi trực nhận rằng mọi vật được cấu tạo bởi các phần nhỏ, rằng chúng xẩy ra rời rạc, và sau khi quán sát từng mảnh vụn một, thiền sinh sẽ trực nhận được rằng không có gì trên đời để họ tham thủ, để họ thèm muốn. Nếu ta thấy vật gì mà ta đã tưởng là đẹp nhưng lại có nhiều lỗ trống, đang bị băng hoại và hủy diệt thì ta không còn chú ý đến nó nữa. Thí dụ như khi ta xem một bức tranh sơn dầu thật đẹp. Ta nghĩ rằng nước sơn và tấm vải dường như là một thực thể rắn chắc, đồng nhất. Nhưng nếu ta đưa bức tranh qua một kính hiển vi cực mạnh, ta sẽ thấy bức tranh có nhiều lỗ hỗng và khoảng trống. Sau khi thấy bức tranh được cấu tạo bởi các khoảng trống, ta không còn chú ý đến nó và không còn tham luyến nó nữa. Các nhà vật lý học hiện đại biết rất rõ ý tưởng nầy. Họ đã quan sát, với các dụng cụ cực mạnh, để thấy rằng vật chất chỉ là sự giao động của các hạt tử và năng lượng thay đổi luôn -- không có một bản thể nào trong đó cả. Bằng cách trực nhận sự vô thường bất tận đó, thiền sinh thông hiểu rằng không có gì đáng để thèm muốn, không có gì đáng để chấp thủ trong thế giới hiện tượng nầy.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:04:38 GMT -5
Conclusion Kết luận
Now we can understand the reasons for practising meditation. We practise meditation because we want to remove attachment and craving for objects. It is by comprehending the three characteristics of existence -- impermanence, suffering, and the non-self nature of things -- that we remove craving. We want to remove craving because we do not want to suffer. As long as there is craving and attachment, there will always be suffering. If we do not want to suffer, we must remove craving and attachment. We must comprehend that all things are just mind and matter arising and disappearing, that things are insubstantial. Once we realize this, we will be able to remove attachment to things. As long as we do not realize this, however much we read books or attend talks or talk about removing attachment, we will not be able to get rid of attachment. It is necessary to have the direct experience that all conditioned things are marked by the three characteristics.
Giờ đây chúng ta đã hiểu được các lý do của pháp thiền kinh hành. Ta hành trì thiền quán vì ta muốn gỡ bỏ mọi chấp thủ và luyến ái vào sự vật. Qua sự thông hiểu ba đặc tính của hiện hữu -- vô thường, khổ, và vô ngã của vạn vật -- ta gỡ bỏ được sự luyến ái. Ta bỏ luyến ái vì ta không muốn phiền não. Khi nào còn chấp thủ và luyến ái, thì luôn luôn còn sự hoạn khổ. Nếu ta không muốn hoạn khổ thì ta phải loại trừ chấp thủ và luyến ái. Ta phải thông hiểu rằng mọi vật đều chỉ là danh và sắc khởi sinh rồi hoại diệt, và chúng đều không có tự thể. Khi ta thực chứng được điều nầy, ta sẽ có thể từ bỏ được lòng chấp thủ vào mọi vật. Nếu ta không thực chứng được như thế -- cho dù chúng ta đọc nhiều sách, đi nghe nhiều buổi thuyết giảng hoặc bàn luận về sự từ bỏ tham thủ -- ta sẽ không thể nào thoát khỏi được lòng chấp thủ. Ðiều cần thiết là chính ta phải có một kinh nghiệm trực tiếp để thật sự thấy rằng vạn vật hữu vi đều mang dấu hiệu của vô thường, khổ và vô ngã.
Hence we must pay close attention when we are walking, just as we do when we are sitting or lying down. I am not trying to say that walking meditation alone can give us ultimate realization and the ability to remove attachment entirely, but it is nevertheless as valid a practice as sitting meditation or any other kind of vipassana (insight) meditation. Walking meditation is conducive to spiritual development. It is as powerful as mindfulness of breathing or mindfulness of the rising and falling of the abdomen. It is an efficient tool to help us remove mental defilements. Walking meditation can help us gain insight into the nature of things, and we should practise it as diligently as we practise sitting meditation or any other kind of meditation.
Vì thế, ta phải chú tâm quán niệm khi ta đi, cũng như khi ta ngồi hoặc khi nằm xuống. Tôi không có chủ tâm cho rằng chỉ có thiền kinh hành là đưa đến thực chứng tối hậu và khả năng hoàn toàn từ bỏ lòng tham thủ. Tuy nhiên, pháp đi kinh hành là một pháp thiền có giá trị như là pháp tọa thiền và các pháp thiền minh sát (vipassana) khác. Ði kinh hành khuyến khích phát triển tâm ý. Pháp nầy có nhiều sức mạnh như là pháp quán niệm hơi thở hoặc pháp quán niệm sự phồng xẹp của bụng. Ðây là một dụng cụ hữu hiệu để giúp ta loại bỏ các tâm bất thiện. Ði kinh hành giúp ta được minh triết để thấy thực chất của vạn vật, và ta phải nỗ lực hành trì pháp nầy cũng như ta hành trì pháp tọa thiền và các pháp thiền khác.
By the practice of vipassana meditation in all postures, including the walking posture, may you and all yogis be able to attain total purification in this very life! Qua sự hành trì pháp thiền minh sát trong mọi tư thế, kể cả trong lúc bước đi, tôi cầu mong bạn và tất cả các thiền sinh đạt được sự thanh tịnh viên mãn ngay trong kiếp sống nầy!
Thiền sư U Silananda, Tự viện Dhammananda, California, Hoa Kỳ, 1995.
Bình Anson lược dịch, Perth, Western Australia, tháng 3-1997
(Chân thành cám ơn bác Phạm Kim Khánh, anh Tôn Thất Ðào và chị Hải Trần đã có thiện tâm giúp hiệu đính bản dịch đầu tiên. -- Bình Anson, 1998)
|
|
|
Post by TCTV on Jul 5, 2010 23:35:17 GMT -5
Điều gì xảy ra trong não khi ngồi thiền?
Nghiên cứu não bộ thầy tu đang ngồi thiền, các nhà khoa học Mỹ phát hiện thùy thái dương hoạt động mạnh hơn, còn thùy đỉnh lại hầu như không hoạt động so với bình thường. Điều này dẫn đến sự xóa bỏ cảm nhận về không gian và thời gian, giúp người hành thiền rời bỏ bản ngã.
Bác sĩ Andrew Newberg và cộng sự tại Đại học Pennsylvania (Mỹ) đã dùng kỹ thuật chụp cắt lớp phóng xạ positron (PET: positron emission tomography) để nghiên cứu các phản ứng trong não bộ của các nhà sư Tây Tạng khi họ ngồi thiền khoảng một tiếng đồng hồ.
Newberg nói: "Tôi cho rằng, chúng ta đang ở giai đoạn thuận lợi nhất để khám phá tôn giáo và các vấn đề tâm linh theo những cách mà trước đó người ta không tưởng tượng ra được". Nói như vậy, Newberg muốn đề cao kỹ thuật chụp cắt lớp PET - một kỹ thuật đã giúp việc nghiên cứu não bộ tiến những bước đáng kể trong thời gian gần đây.
Mất cảm nhận về không gian và thời gian
Khi các nhà sư đã chìm sâu vào trạng thái thiền, họ được tiêm vào mạch máu một lượng nhỏ chất phóng xạ màu. Các hạt positron màu này giúp người ta quan sát sự di chuyển của máu lên những khu vực nhất định trong não nhờ một máy đếm phóng xạ; qua đó, đánh giá được sự hoạt động mạnh - yếu của những khu vực này.
Sau đó, Newberg đã so sánh các bức ảnh chụp não bộ nhà sư khi ngồi thiền với các bức chụp lúc bình thường. Ông rút ra kết luận: Khi thiền, phần não bộ ở thùy thái dương nhà sư hoạt động mạnh hơn. (Vùng não này luôn hoạt động mạnh khi người ta tập trung sự chú ý vào một việc gì đó).
Ngoài ra, Newberg còn quan sát được sự giảm hoạt động ở vùng thùy đỉnh sau não. Thông thường, thùy này chịu trách nhiệm về việc định hướng trong không gian. Có lẽ đây là bằng chứng củng cố giả thuyết cho rằng, hành thiền giúp người ta xa rời cảm nhận về không gian.
Theo Newberg, khi thiền, người ta thường xuyên cảm thấy không có không gian và thời gian. Điều này cũng khá trùng lặp với những lời kể thường nghe về các trải nghiệm tâm linh.
Cũng theo Newberg, khi người ta đã có trải nghiệm về những cảnh giới lạ, họ có thể hiểu được thực tại rộng lớn hơn và rõ ràng hơn người khác. Ông nói: "Khi những cảm nhận của họ về về thế giới tâm linh đã trở nên mạnh mẽ và rõ ràng, thì thậm chí họ còn nhận biết thế giới này chính xác hơn tư duy khoa học của chúng ta".
|
|
|
Post by TCTV on Sept 20, 2010 14:50:29 GMT -5
Thiền Ðịnh và Trị Liệu Saturday, January 31, 2009
Minh Phúc, Ph.D. Phật Thích Ca, 2500 năm xưa, đã nguyện ngồi thiền dưới cội Bồ Ðề cho đến khi chứng đạt Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác hay thành Phật. Thiền định gồm có nhiều phương pháp nhằm phát triển chánh niệm, tập trung, thanh tịnh, tỉnh giác và tột đĩnh đạc giác ngộ giải thoát. Những kỹ thuật hành thiền cơ bản được ghi chép trong nhiều kinh sách, cũng như được truyền thừa và đa dạng hóa qua hàng ngàn năm. Trên phương diện sức khỏe, thiền định được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố gắng giảm thiểu sự căng thẳng bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình thân tâm và trị liệu các chứng bệnh. Chỉ riêng trong Phật Giáo cũng đã có hơn 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập và số lượng phương pháp hành thiền cùng những chứng bệnh nan y cứ tiếp tục leo thang theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật. Trong 5 thập niên qua khoa học và y học càng ngày càng chú ý đến thiền, với nhiều nghiên cứu, để được xem như là phương pháp trị liệu bổ sung-thay thế đối với nhiều bệnh trạng khác nhau như trầm cảm, căng thẳng, lo sợ, mất trí nhớ, đau nhức, mệt mỏi, mất ngủ, cảm cúm, ung thư, AIDS (Sida), tê khớp, tim mạch, viêm gan, tiểu đường, suyễn, nghiện ngập, tăng tiến tuổi thọ, vân vân. Ngay chính những tư tưởng tiêu cực, căng thẳng, xúc động và ưu phiền trong cuộc sống làm cho bệnh trạng càng thêm trầm trọng và nguy hiểm. Thiền định chú trọng và có tác dụng làm cho thân tâm được lắng dịu thanh tịnh, từ đó những trăn trở khổ đau do bệnh tật gây nên cũng được thiên giảm hay tiêu trừ. Ðức Phật cũng là bậc y sư khi thuyết về câu chuyện người trúng mũi tên độc, không lo nhổ mũi tên, hút máu độc và dùng thuốc rịt vết thương cho lành, mà cứ bâng khuâng muốn tìm hiểu ai đã bắn mình và vì sao bị bắn, v.v. thì e đã quá trễ, không còn cứu được sinh mạng. Thật ra trong câu chuyện ẩn dụ này, Ðức Phật muốn khuyên nhủ một tỳ kheo nên chuyên chú tu hành hơn là mất thì giờ để tâm vào những tìm hiểu khoa học viển vông như thế giới này là hữu biên hay vô biên, nguồn gốc phát sinh loài người, v.v. Trong thời buổi văn minh tiến bộ này, không phải tất cả mọi sự kiện đều được khoa học giải thích rõ ràng, hoặc những gì được khoa học chứng minh đều là đúng. Tuy vậy “nói có sách mách có chứng” hay căn cứ vào những gì đã được nghiên cứu và công nhận thì vẫn được nhiều người nghe hơn. Cơ chế Thiền ÐịnhNhững tác dụng và ảnh hưởng của thiền định có thể được thể hiện dưới 3 cơ chế sau đây: 1*Cơ chế tín ngưỡngTư tưởng Phật Giáo không chủ trương thần thánh hóa, tôn thờ một thần linh hay đấng thượng đế nào. Do đó nhiều khi đạo Phật được xem không phải là một tôn giáo để tín đồ cầu xin phép lành, ân huệ, hay cứu rỗi như trong các đạo khác. Giáo lý nhà Phật rất thực tiễn và thấu triệt: mọi sự vật đều bị chi phối bởi vô thường biến đổi, nhân quả nghiệp duyên và trầm luân sinh tử. Thiền định được xem như trái tim của nhà Phật và là trung tâm của đời sống đạo hạnh giúp đạt đến mức độ cao xa của tỉnh giác. Từ trạng thái vô minh hay tiêu cực mê mờ của tâm tiến lên trạng thái tích cực sáng suốt hay minh tâm kiến tánh. Mọi chúng sanh đều có Phật tánh (chơn tâm, bản lai diện mục) hay cái tâm thuần khiết trong sáng, nhưng bị những phiền não tham sân si che lấp như án mây đen phủ kín bầu trời. Thiền định có công năng giúp tâm được thanh lọc dứt trừ mọi cấu nhiễm, đạt an lạc thanh tịnh và giác ngộ giải thoát như trời quang mây tạnh, trăng sáng rỡ ràng. Cũng chính là lúc ông Phật hiện ngay trong tâm mình không phải tìm kiếm đâu xa. Ðó là ý niệm “tức Tâm tức Phật” của Ðạo Nhất Mã Tổ, hay hiện tượng đại ngộ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Kinh Kim Cang) của Lục Tổ Huệ Năng, trụ tâm đến không chỗ trụ mà sanh được tâm kia, cái tâm tĩnh tịch - tròn đầy - trong sáng. Vạn pháp do tâm tạo, những bệnh tật khổ đau là do tâm duyên theo trần cảnh, môi sinh ô nhiễm độc hại và cuộc sống bon chen hỗn tạp đầy căng thẳng bức xúc, thì cũng chính tâm sẽ chữa trị chúng qua thiền định. Trong Ðạo Thiên Chúa, căn bản thần học trong thiền định được xem là nằm tận đáy lòng con chiên, là tâm của Giêsu - người đang cầu nguyện trong con chiên, với con chiên và cho con chiên. Ðây là sự quán chiếu diễn tả tột đỉnh đời sống tâm linh và trí thức một cách tích cực trong trạng thái tỉnh giác hoàn toàn. Ấn Ðộ là xứ có truyền thống lâu đời về thiền định, ngay cả trước thời Phật Thích Ca. Theo Ấn Giáo, danh từ thiền định được hiểu như là một trạng thái tĩnh lặng, tỉnh táo và tập trung một cách ráo riết, qua đó tri thức và tỉnh giác được đánh thức dậy từ bên trong, khi chú tâm vào một sự vật hay một dòng tư tưởng cho đến lúc đạt đến và hòa nhập vào sự bình yên thánh thiện, đồng nhất với vũ trụ và Thượng Ðế. Trong phép thiền quán niệm hơi thở (Anapana Sati), Ðức Phật đã chỉ dạy trong Ðại Tạng Kinh Pali (Mahasatipatthana Sutta): Tỳ kheo tìm đến khu rừng, dưới gốc cây hay nơi trống vắng, ngồi tréo chân, giữ lưng thẳng, chú ý hơi thở ra vào nơi chóp mũi và khởi lên chánh niệm trước mình. Khi chánh niệm được duy trì, hơi thở càng trở nên nhẹ nhàng lặng lẽ, thân thể được êm dịu thanh thản như có cơn gió nhẹ thoáng qua. Với sự tĩnh lặng của tâm, hơi thở càng trở nên vi diệu cho đến lúc có cảm giác như ngừng thở, kéo dài trong nhiều phút, nhưng thật sự hơi thở vẫn tồn tại. Dần dà tâm được giải phóng khỏi 5 triền cái (ham muốn, giận hờn, hôn trần, trào hối và nghi hoặc). Hành giả càng đạt thêm sự bình thản và an lạc. Các thiền tướng bắt đầu xuất hiện báo hiệu thành quả của chánh định. Hành giả bắt đầu vào cận định (upacara samadhi) và khi chánh định phát triển thêm nữa sẽ đạt đến toàn định (appana samadhi). Ðến đây khai thông cho sự chứng đạt nhất thiền, và tiếp tục miên mật sẽ vào các quả thiền cao hơn: nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Hành giả tiếp tục phát triển chánh niệm qua tuệ quán (Vipassana). Ở mức độ cao hơn, tâm trạng như được thoát tục và bắt đầu vào giai đoạn nhập lưu, rồi tiến lên các quả vị thanh văn khác trong chánh định. Khi mọi xiềng xích trói buộc không còn dính mắc, dứt sạch ngã chấp, chứng quả vi thanh văn thứ tư - A La Hán, ra khỏi luân hồi sanh tử. Hầu hết những đệ tử lớn của Phật đều chứng đạt quả vị này, ngoại trừ Ðề Bà Ðạt Ða mưu toan giết Phật để được làm Phật. 2*Cơ chế tâm lýTâm lý chung là khi những căng thẳng hay phiền não dấy lên báo hiệu sự dày vò tâm trí, người ta có khuynh hướng làm cho chúng lắng dịu thay vì phải chịu đựng. Khi một chuỗi tư tưởng loạn động gây ra biến cố bức rức tâm trí, hành giả an trú trong thiền định qua sự tập trung hay quán chiếu vào một đề mục làm cho chúng tan biến đi. Từ đó đem tâm trở về trạng thái bình yên, tạo dựng thái độ không còn sợ hãi khiếp nhược, là hiệu quả và đặc tính căn bản của thiền định. Một cơ chế khác về tâm lý là sự thiếu lưu thông giữa các cơ năng tâm thần, gây nên sự bức bách ứ đọng bên trong. Rất thường xuyên, các hiện tượng như lời nói, tưởng tượng, xúc cảm là những ngăn kín chật hẹp mà thiền định là nhịp cầu giúp chúng được thông thoáng hòa hợp với nhau. Chẳng hạn thường xuyên đặt sự chú ý của tâm vào những tác động lên thân-khẩu- ý là một phương cách thông thoáng hữu hiệu nhất. Trái lại, nếu lạm dụng thiền định như một hành vi đè nén - ức chế tâm thì có khi phải gánh chịu những hậu quả khốc hại, như trong trường hợp quá cuồng tín theo một phép thiền sai lệch. Chẳng hạn khi hành giả niệm tên các vị thần linh hay các thần chú vô nghĩa cả hàng ngàn lần, cho đến khi trở thành nhàm chán, tâm trí mờ mịt, lạc vào thế giới mộng du ảo tưởng, không còn lý luận hay phán đoán được gì. Từ đó phát sinh những cảm thọ hỉ lạc giả tưởng, không thể phân biệt quá khứ-hiện tại-vị lai hoặc ngay cả sự chết. Ðây là trường hợp bị “tẩu hỏa nhập ma” mà chính đương sự không hề hay biết, chỉ có người ngoại cuộc mới nhận thấy những hành vi bất thường - điên dại của mình qua sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, trong lúc ngồi thiền, phải luôn cảnh giác, tỉnh thức, và giữ chánh niệm. Nếu cảm thấy quá si mê hôn trầm thì nên đứng lên hay rời khỏi bồ đoàn. Có một hiện tượng tâm bệnh xảy ra cho một tu sĩ trẻ tuổi tại ngoại ô Lhasa - Tây Tạng. Tu sĩ này sinh tâm không thích ngôi chùa mình đang tu tập, nằm ngay dưới chân một ngọn đồi, mà lại phóng tâm ưa thích một ngôi trường kế cận. Từ đó tu sĩ khởi sinh một ý tưởng là mong cho ngọn đồi trượt xuống và đè bẹp lên ngôi chùa trong khi ngôi trường thì vẫn còn nguyên vẹn. Thế rồi cái tâm bất thiện này cứ bủa vây trong đầu óc người tu sĩ, đến nỗi biến thành chứng nhức đầu bức rức và thần kinh khủng hoảng. Cuối cùng tu sĩ thú thật và xin vị trụ trì ngôi chùa cứu giúp. Thầy trụ trì khuyên từ đây luôn luôn quán niệm cho ngọn đồi thật sự đè nát ngôi chùa, đè bẹp mọi thứ trong chùa kể cả thân mạng của chính mình. Người tu sĩ trẻ làm y lời thầy và chỉ trong một thời gian ngắn thì hết chứng đau đầu và không còn ảo tưởng này nữa. Chung qui, điểm căn bản trong tiến trình hành thiền là sư chú tâm, và quan trọng hơn hết, chú tâm là một sự thực hành trong kiên nhẫn chứ không phải lý thuyết gì xa xôi. Có một thiền sinh cảm thấy rất khổ sở vì không đạt được thành quả trong công phu hành thiền nên đến yết kiến thiền sư của mình và nhờ chỉ cho cách vượt qua chướng ngại. Vị thiền sư đang trong thời kỳ tịnh khẩu nên chỉ viết ra trên giấy chữ “chú tâm”. Thiền sinh không hiểu nên nhờ thầy giảng thêm. Thiền sư lại viết thêm “chú tâm, chú tâm” và trao cho đệ tử. Người đệ tử vẫn không đạt được ý thầy mình muốn nói gì nên đòi giải thích thêm nữa. Cuối cùng thiền sinh nhận được toàn bài học trên giấy: “chú tâm, chú tâm, chú tâm... có nghĩa là chú tâm”. 3*Cơ chế sinh lýThật hết sức khó khăn khi phải sử dụng các kỹ thuật và dụng cụ khoa học đề đo lường và kiểm nghiệm những biến chuyển của cơ thể trong lúc hành thiền, nhưng người ta vẫn có thể thực hiện và chứng minh được những tác dụng hữu ích của thiền. Cơ thể con người có những phản ứng tự động không qua ý thức để thích ứng với môi trường sống như các phản ứng run rẩy khi rét lạnh, tim đập nhanh khi chạy nhảy, toát mồ hôi khi trời nóng nực, v.v. Tuy nhiên với những cố gắng có ý thức như qua thiền định người ta cũng có thể điều khiển được những phản ứng tự nhiên này. Hành giả lần đầu tiên khi thâm nhập sâu vào thiền định, hơi thở trở nên chậm rãi, nhẹ nhàng, và có khi ngưng trệ hoàn toàn, chính lúc này có thể trải nghiệm đối diện qua cơn sợ hãi bị ngừng thở và sự chết. Nhưng mối nghi được xóa tan ngay qua sự chú tâm vào hơi thở và giữ vững chánh niệm. Sự hô hấp giảm thiểu hoặc ngừng trệ gây nên tình trạng “hypoxia” - lượng oxy trong máu giảm hạ, có tác dụng làm phóng thích các hormone (endorphins) gây mê và tạo cảm giác êm ái dễ chịu. Những chứng nghiệm cho thấy các đạo sĩ yogi Ấn Ðộ có thể điều chỉnh lượng oxy trong máu theo ý muốn của mình và tự chôn sống trong một thời dài mà không hề hấn gì. Các thiền sư Nhật Bản cũng có thể làm giảm nồng độ oxy 20% trong lúc hành thiền. Với thiền tiên nghiệm TM, lượng oxy có thể giảm đến 40% và tỷ lệ hô hấp chỉ còn 50%, nhiều hơn gấp bội so với lúc ngủ mê. Ðiều này chứng tỏ tác dụng hiệu quả của thiền định trong tiến trình biến hóa của thân-tâm. Những khóa thiền kéo dài 30-40 phút cho thấy lượng lactate giảm hạ và lượng phenylalanine tăng lên 20% trong các cơ mô. Hành thiền cũng làm cho lượng máu đến thận và gan giảm đi trong khi lượng máu đến não gia tăng, huyết áp gia giảm tạo ảnh hưởng tốt cho các bệnh tim mạch. Tính đối kháng của da cũng gia tăng làm giảm hoạt động giao cảm và nhờ đó đem lại trạng thái thư giãn. Những kết quả thực nghiệm cũng cho thấy việc hành thiền làm giảm những kích thích tố gây căng thẳng như cortisol và ATCH, hormone kích thích tuyến giáp TSH và hormone tăng trưởng; trong khi gia tăng hormone thư giãn serotonin và hợp chất arginine vasopressin giúp cho trí nhớ và sự học tập. Kỹ thuật điện não đồ EEG (ElectroEncephaloGraphy) khám phá một điều mới lạ qua hành thiền là làm giảm thiểu các sóng não kích động như beta và delta trong khi gia tăng các sóng có tác dụng êm dịu như alpha, gamma và theta. Khoa học gia thần kinh Richard Davidson công bố kết quả nghiên cứu vào đầu năm 2005, khi sử dụng EEG để đo sóng não các vị sư Tây Tạng trong lúc hành thiền từ bi quán. Kết quả cho thấy các nhà sư luôn luôn có sự hoạt động rất cao của sóng gamma so với người bình thường. Trong thiền định, sự hoạt động của não bộ tập trung ở vùng não phía trước (prefrontal cortex), nơi đây các sóng liên hệ có tác dụng tạo nên sự an lạc và tỉnh giác rất sâu và lâu bền. Vài kỹ thuật tinh vi hơn như fMRI (functional magnetic resonance imaging), cho biết kết quả ngay trong một thời gian ngắn, được sử dụng đo dòng máu trong não và sự hoạt động của não, cho thấy thiền định không có tác dụng như khi ngủ nghỉ mà là một trạng thái thư giãn trong tỉnh thức. Những phép thiền trị liệuHiện tại có rất nhiều phương pháp hành thiền khác nhau của các tôn giáo và trong dân gian, nhưng được nghiên cứu và áp dụng trị liệu nhiều nhất là thiền Tập Trung CM (Concentrative Meditation) và thiền Chánh Niệm MM (Mindfulness Meditation). Thiền Tập TrungThiền tập trung thường được sử dụng như là phương pháp căn bản cho hành giả mới bắt đầu và cũng dành cho bệnh nhân. Người tập thiền chỉ cần chú tâm vào một sự vật như hơi thở, âm thanh, lời niệm, vân vân. Một kỹ thuật đơn giản là có thể ngồi hay nằm (bệnh nhân) thoải mái ở một nơi yên tĩnh, không khí trong lành, mắt nhắm hay mở và chú ý theo dõi hay đếm hơi thở ra vào, tiếng tí tách của đồng hồ, hoặc niệm một vài chữ hay lời kinh mình ưa thích. Khi chú mục như vậy, vọng tưởng lắng dịu, nhịp điệu hơi thở dần dà trở nên chậm rãi nhẹ nhàng, giúp thân tâm được thanh tịnh và an ổn. Những phép tụng niệm như tụng kinh - niệm chú, thì hầu như các tôn giáo đều áp dụng tương tự như nhau. Pháp môn niệm Phật cho đến “nhất tâm bất loạn” cũng chẳng khác gì một phương pháp hành thiền đạt đến sự định tâm. Nhiều Phật tử theo phép Thiền-Tịnh song tu hay vừa tham thiền vừa tụng kinh niệm Phật. Bên Thiền Tông cũng thường tụng Bát Nhã Tâm Kinh trong các khóa thiền. Một thiền sư Việt Nam cho biết có lần mình ngồi thiền niệm “Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” thì tự nhiên cứ thấy phải niệm liên tục như vậy trong suốt cả buổi sáng, không dừng lại được. Từ đó thiền sư này bắt đầu chú trọng về phép niệm Phật. Các thiền đường Lâm Tế ở Nhật cũng thường cho thiền sinh một thoại đầu hay công án để quán tưởng. Như trong công án “vô”, thiền sinh trong lúc ngồi thiền niệm thành tiếng kéo dài “mu...” Một công án khác là “tiếng vỗ của một bàn tay”. Có một thiền sinh nhận công án này rồi cứ phải suy tưởng là tiếng gì, sau đó đem trình thầy những đáp án như tiếng chuông ngân, trẻ khóc, chó sủa, chim hót, ngựa hí, còi hụ, v.v. nhưng đều bị từ khước và bắt phải cố gắng nhiều hơn nữa. Thiền sinh tiếp tục quán chiếu đến lúc tâm tư mệt mỏi chán chường, không còn sức phấn đấu muốn bỏ cuộc, thì đột nhiên khởi lên một ý niệm và vội vã tìm đến trình thầy& đó là tiếng vọng của sự im lặng, tương hợp với ý thầy. Trong thiền tông Trung Quốc cũng có những thiền sư thích niệm một cái gì trong lúc ngồi thiền như “Tĩnh tĩnh lặng lặng, Liễu liễu thường tri” (Tĩnh tĩnh lặng lặng, Rõ ràng thường biết) để nhắc nhở tâm luôn được tỉnh giác. Phật tử trong môn phái Nhật Liên chỉ chú trọng vào Kinh Pháp Hoa và niệm một câu duy nhất “Namu Myo Ho Len Ge Kei” (Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Trong phép niệm Phật thì “Namu Amita Buddha” (Nam Mô A Di Ðà Phật) hay niệm danh hiệu các vị Bồ Tát như Quan Âm, Ðịa Tạng, v.v. Trong Mật Tông Tây Tạng và Mông Cổ, người tu niệm sâu trong cổ họng âm thanh nghe rất trầm hùng câu chú “Om Mani Pad Me Hong” (Án Ma Ni Bát Di Hồng). Trong Thiên Chúa Giáo, các con chiên cũng hành thiền khi tụng kinh cầu nguyện vào mỗi tối trước khi ngủ. Có một số Phật tử Việt Nam tu theo phép thiền xuất hồn (thiền Ông Tám), hiện tại được gọi là “Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp”. Theo nguyên văn ghi trong website chỉ dẫn về phép thiền này “tập trung trí ý lên đỉnh đầu, với ý thầm nguyện xuất hồn lên đảnh lễ Phật. Chỉ chú tâm lên xoáy óc một chút thôi, rồi sau đó nhìn thẳng trung tâm giữa 2 chân mày lâu chừng nào tốt chừng nấy, ý chí thả lỏng, tâm phẳng lặng và ý dỗ cho ngủ. Ngồi càng lâu càng tốt. Khi thiền định, ngứa mình, tê chân hay có ý động loạn thì chỉ niệm Nam Mô A Di Ðà Phật ngay trung tim bộ đầu”. Trong Tịnh Ðộ Tông cũng có rất nhiều phương pháp giúp tâm không bị vọng động như niệm Phật theo hơi thở, niệm liên tục không gián đoạn, tai lắng nghe âm thanh tiếng niệm, lần theo chuỗi hột, tụng kinh theo tiếng mõ, quán tưởng hình ảnh chư Phật-Bồ Tát, v.v. nhưng mục đích tối hậu là để đến phút giây lâm chung được Tây Phương Tam Thánh (A Di Ðà, Quan Âm, Thế Chí) đến rước về Cửu Phẩm Liên Hoa miền cực lạc. Ðặc biệt trong 50 năm qua, các nước phương Tây đã áp dụng thiền tiên nghiệm TM (Transcendental Meditation) cho nghiên cứu y học và ứng dụng trị liệu tại nhiều trung tâm thiền, bệnh viện, công tư sở và học đường. Thiền tiên nghiệm TM do đạo sĩ Ấn Ðộ Maharishi Mahesh Yogi (1917-2008), theo truyền thống Vệ Ðà, mang đến Âu Mỹ từ năm 1958. Chủ trương của Maharashi là tạo ra một trung tâm thiền TM cho mỗi một triệu người. Ông đã đào tạo gần 10,000 giảng viên ở khắp nơi. Nhờ kỹ thuật đơn giản trong ứng dụng nên loại thiền này rất được phổ biến. Cho đến nay đã có chừng 600 nghiên cứu khoa học và y học về thiền TM liên quan đến trị liệu đối với nhiều loại bệnh trạng khác nhau. Ngay trên đất Mỹ có một đại học mang tên Mahashiri. Phương pháp chung là mỗi ngày hành thiền 2 lần, mỗi lần 15-20 phút, trước bữa ăn (bụng trống dễ hành thiền hơn) với mắt nhắm lại. Phải do một người thầy hay giảng viên trực tiếp chỉ dạy và đặc biệt truyền cho câu mật chú mantra, để hành giả có thể niệm thầm hay niệm thành tiếng trong lúc hành thiền. Chương trình gồm có 7 thứ mục với 2 bài học giới thiệu, một cuộc phỏng vấn, và 4 buổi học (2 giờ) cho 4 ngày kế tiếp. Phương pháp thiền TM được cho là khá giản dị, thiên nhiên và không gượng ép. Qua tiến trình hành thiền, hành giả sẽ đạt đến một ý thức tiên nghiệm được gọi là trạng thái chính yếu thứ 4 của ý thức, một trạng thái tỉnh thức hoàn toàn, khác biệt với 3 trạng thái: thức tỉnh, nằm mơ và ngủ say. Thiền tiên nghiệm đã được đăng ký và bảo vệ với thương hiệu (trademark) TM, nên đã trở thành một loại sản phẩm thương mại. Vào thời điểm năm 2007, có nơi học viên phải đăng ký và đóng học phí đến 2,500 đô la cho một khóa học, kèm theo điều kiện không được tiết lộ câu mật chú mà người thầy đã truyền cho, với lý do là mật chú sẽ mất linh nghiệm nếu bật mí cho người khác biết. Tuy trung thành với chủ trương của hệ thống huấn luyện thiền TM, nhưng một số giảng viên khi viết tài liệu hay nghị luận cũng hé mở một số chi tiết về phép thiền này. Ví dụ chọn một nơi yên tịnh, ngồi nhắm mắt, giữ hơi thở tự nhiên, và tự chọn lựa cho mình một vài chữ mantra, có tính cách nhẹ nhàng và trung tính, ví dụ như “tỉnh thức”, “thư giãn”, v.v. hay bất kỳ lời kinh câu kệ ưa thích nào của mình. Có thể niệm thầm hay tụng lớn tiếng mantra này bằng cách lập đi lập lại trong suốt thời gian hành thiền 15-20 phút. Khi tâm xao động cần nhớ trở về với mantra và tiếp tục niệm như trước. Chỉ giản dị vậy thôi, nhưng cũng có tác dụng thư thái dễ chịu như một giấc nghỉ trưa 1-2 giờ. Người Tây phương hành thiền TM tự do rất thích các danh từ, một hình thức mantra, như “peace” (hòa bình) và “love” (yêu thương). Nhưng cũng có khi đang niệm “love, love, love...” giữa chừng bất chợt thành ra “I love candy” (tôi thích ăn kẹo) thì phải làm sao? Ðến lúc này chỉ cần nhớ lại mantra “love” và bắt đầu niệm trở lại cho tâm khỏi nhảy lăng xăng như con khỉ, “tâm viên ý mã” là như vậy. Một loại thiền tân thời được gọi là thiền giải tỏa Avrassana của nhóm Theohumanity do Daniel Stacy Barron - người Ðức- sáng lập, đang còn trong thời kỳ thử thách. Nhóm này chủ trương sự giải thoát cảm thể (Emotional Body Enlightnment): những gì khởi lên trong lúc hành thiền được làm cho tan biến đi trước khi rơi chạm vào người, tương tự như những vẫn thạch hay sao rơi bị tan loãng trong bầu trời trước khi va chạm vào Trái Ðất. Thiền Chánh NiệmDanh từ chánh niệm (sati) cũng được biết là phát xuất từ chi thứ 7 trong Bát Chánh Ðạo (bao gồm đầy đủ Giới Ðịnh Huệ) thuộc phần Ðạo Ðế của Tứ Diệu Ðế (Khổ Tập Diệt Ðạo) mà Phật Thích Ca sau khi chứng đạt dưới cội bồ đề đã tìm đến vườn Lộc Uyển khai thị và hóa độ cho năm anh em Kiều Trần Như. Thiền chánh niệm đặt căn bản trên ý niệm về sự hiện diện đầy đủ của tâm trong tỉnh giác khi nương theo hơi thở ra vào. Tâm luôn nhận thức dòng cảm thọ, tư tưởng, âm thanh, mùi vị, v.v. mà không gắn bó và liên lụy với chúng. Hành giả ngồi thiền trong yên lặng và tỉnh táo, quan sát một cách vô tư những gì đang xảy ra xuyên qua tâm; không phản ứng và dính mắc với những kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ hay những suy tư, toan tính đến tương lai. Hậu quả là tâm đạt được trạng thái tĩnh lặng, trong sáng và an ổn. Tuy lúc mới khởi đầu hành giả cũng cần trải qua một thời gian thực hành phép thiền tập trung để luyện tâm cho thuần thuật, rồi dần đà không còn chú mục vào một đề mục duy nhất nào. Trên thực tế việc ứng dụng trị liệu của thiền chánh niệm được giản dị hóa đi nhiều, không bó buộc phải tuân thủ triệt để các phép thiền chỉ (Samatha) và thiền quán (Vipassana) của giới tu sĩ. Kỹ thuật thông thường là tự tìm một nơi yên tịnh, thoáng sạch, vào sáng sớm hay chiều tối, ngồi xếp bằng thẳng lưng trên sàn nhà có kê gối đệm (bồ đoàn), hoặc cũng có thể ngồi trên ghế và đặt 2 chân thoải mái trên sàn nhà. Hai bàn tay chồng ngửa lên nhau trên đùi với 2 ngón cái chạm nhau, mắt có thể nhắm lại hay hé mở tùy nghi. Nếu ngồi được theo thế kiết già hay bán già thì càng tốt, nhưng rất dễ bị đau chân cho người mới tập. Bắt đầu hít thở một cách tự nhiên và đều hòa. Nếu tâm bị chi phối do vọng tưởng khởi lên thì nên tập trung vào hơi thở bằng cách đếm hay theo dõi hơi thở, hoặc niệm một vài chữ như “chánh niệm”, “tỉnh giác”, v.v. Trong những ngày đầu chỉ cần tập 5-10 phút, sau đó tăng lên từ từ 15-20-30 phút hay nhiều hơn tùy theo khả năng. Khi tâm trở nên ổn định hơn, chỉ cần quan sát ghi nhận một cách khách quan những gì đang xảy ra. Hãy để cho những vọng tưởng, hình ảnh, âm thanh, v.v. khơi dậy, lưu lại và biến đi một cách tự nhiên, không kích động, không đè nén hay xua đuổi chúng, không thêm không bớt và không quan tâm gì đến chúng. Sau khi xả thiền nên làm những vận động cơ thể nhẹ nhàng như các thế tập hatha-yoga, khí công, taichi hoặc đi kinh hành, để giúp thân trở lại trạng thái bình thường và máu huyết lưu thông. Kiên nhẫn thực tập sau vài ba tháng thì có thể hội nhập được với thiền tùy căn cơ của mỗi người. Hành giả có thể chia làm 2 thời hành thiền khác nhau: (1) chính thức nên dành một thời biểu nhất định cho việc ngồi thiền hàng ngày, (2) bán chính thức là thực tập theo tuệ quán tứ niệm xứ (Vipassana) vào bất cứ lúc nào thuận tiện. Ví dụ như khi ăn chỉ chú ý vào việc ăn, biết mình đang gắp thức ăn, nhai, nuốt, mỗi động tác đều biết rõ ràng như vậy. Khi đi để ý theo những bước chân, khi nằm chú tâm vào hơi thở ra vào theo sự phồng xệp lên xuống của bụng, vân vân. Nên bỏ dần những thói quen làm nhiều việc cùng một lúc như vừa ăn cơm, vừa xem tivi, vừa nghe điện thoại. Thêm vào đó lúc thuận tiện cũng có thể tập xen kẽ thêm phép quán từ bi hay trải lòng thương của mình đến người khác, bắt đầu từ bản thân mình rồi vươn dần ra đến những người thân, bạn bè, bà con họ hàng, kẻ thù, muôn loại chúng sanh. Ðối với những nghiên cứu khoa học và y học, người ta thường thực hành thiền chánh niệm theo phương pháp 8 tuần lễ thư giãn của Tiến Sĩ Jon Kabat-Zinn trong chương trình MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction), được phác họa từ năm 1979 tại đại học Massachusetts - nước Mỹ. Học viên tham gia khóa thiền 2 giờ mỗi tuần, nhưng về nhà tự thực tập 45 phút mỗi ngày theo hướng dẫn trong đĩa ghi âm, và sau cùng tham dự một ngày dài thảo luận về kết quả. Có trên 250 cơ sở như bệnh viện, trường học, trung tâm cộng đồng, v.v. ở khắp nơi, hoặc làm công tác nghiên cứu, hoặc ứng dụng trị liệu, hoặc cho cả hai theo phương pháp này.
|
|
|
Post by tk on Jun 15, 2012 18:46:58 GMT -5
Hành thiền dưới ánh sáng khoa họcLương y VÕ HÀ Suu TamThiền là một nét văn hoá đặc sắc của phương Đông. Từ đầu thế kỷ 20, sau khi được du nhập vào phương Tây, thiền đã thoát ra khỏi ranh giới của tôn giáo và nhanh chóng được tiếp nhận như một phương pháp để chữa lành những căn bệnh của xã hội hiện đại do căng thẳng tâm lý gây ra. Ngày nay, với tinh thần khoa học và tính thực tiển của người Âu Mỹ và dưới sự giúp sức của các thiết bị hiện đại, nhiều hiệu quả thực tế của thiền đã dần dần đựoc sáng tỏ. Thiền là quá trình hạ thấp sóng não và giảm chuyển hoá Nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho thấy trong quá trình ngồi thiền, nhịp thở chậm lại, nhịp tim và huyết áp giảm xuống, sóng não hạ thấp và mức độ chuyển hoá giảm theo. Năm 1967, Giáo sư Herbert Benson, trường Đại học Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người tham gia ngồi thiền. Thí nghiệm cho biết khi ngồi thiền nhu cầu oxy ít hơn bình thường 17%, nhịp tim giảm 3 nhịp mỗi phút và có sự gia tăng sóng theta ở não. Một nghiên cứu khác do hai Giáo sư người Nhật Kasamatsu và Hirai thực hiện trong khi thiền sư Soto ngồi thiền cho thấy có sự xuất hiện tuần tự sóng alpha, gia tăng biên độ sóng alpha, tiếp tục là sự giảm thấp sóng alpha và cuối cùng là sự phát triển sóng theta . Sóng não hạ thấp tương ứng với tình trạng an tĩnh của cơ thể. Sóng beta nhanh và không đều (khoảng 20c/s) ứng với điều kiện tâm lý căng thẳng, nhiều tạp niệm. Sóng alpha (khoảng 8 đến 13c/s) là sóng não ứng với tình trạng thư giãn cơ bắp, tâm lý thoải mái và tinh thần minh mẩn. Sự gia tăng biên độ sóng alpha ứng với tình trạng êm dịu thần kinh. Sóng theta (khoảng 4c/s) thường xuất hiện liền trước lúc ngủ. Khi ngồi thiền, sóng theta sinh ra nhưng con người vẫn tỉnh táo, sóng theta ứng với quá trình nhập tĩnh của hành giả. Ở những người nhập tĩnh sâu, điện não đồ có thể xuất hiện sóng gamma (từ 1 đến 2c/s).
Nói chung, sinh hoạt hàng ngày luôn làm cho thần kinh con người ở trong tình trạng căng thẳng, kích thích ở những mức độ khác nhau dễ gây rối loạn thần kinh thực vật, dẫn đến rối loạn hoạt động nội tiết và hoạt động miễn nhiễm. Ngược lại, quá trình hạ thấp sóng não, giảm chuyển hoá và giảm tiêu hao năng lượng của thiền là quá trình chủ động làm cho bộ não được nghỉ ngơi, phục hồi khả năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, qua đó cải thiện các chức năng sinh lý của cơ thể và nâng cao khả năng chống lại những sự quấy nhiểu của môi trường bên ngoài.
Thiền tạo ra sự khác biệt cụ thể trên não bộ, phát triển trí não và làm chậm sự lão hoá
Các nhà thần kinh học cho rằng não bộ có thể nhận biết, thích ứng và tự điều chỉnh các phân tử và các tế bào trên cơ sở kinh nghiệm và sự luyện tập. Ông Kosslyn, một nhà tâm thần học nói “Nếu bạn làm một điều gì đó, bất cứ các gì, ngay cả chơi bóng bàn , trong 20 năm, mỗi ngày 8 tiếng thì trong não bộ của bạn sẽ có một sự khác biệt so với những người không làm việc đó. Điều nầy là tất yếu”. Gần đây, một báo cáo của 2 nhà khoa học Arthur F. Kramer và Mc. Auley trường Đại học Illinois được phổ biến trong tập san chuyên về lão khoa số tháng 9/2006 của Hội Khoa học Mỹ đã xác nhận những người già thường xuyên tập thể dục có thể phát triển vùng não tương ứng và cải thiện trí nhớ. Người tham gia thí nghiệm[ii] là những người có cuộc sống tĩnh tại, tuổi từ 60 đến 79 tuổi. Họ được tập trung mỗi tuần 3 lần để tập những bài tập aerobic nhẹ -tương tự như một loại thiền động- Sau 6 tháng, đối chiếu, so sánh bộ não của những người nầy qua những hình ảnh được chụp bằng máy cộng hưởng từ đã cho thấy có sự gia tăng đáng kể khối lượng não giữa trước và sau đợt thí nghiệm. Đối với thiền tĩnh, kết quả càng khả quan hơn. Bà Sara W. Lazar, Giáo sư trường Đại học Harvard, là người đồng nghiên cứu với Tiến sĩ Benson tại Bệnh viện Massachusettes General Hospital (MGH). Bà cho biết thiền giúp gia tăng chức năng của bộ não, tăng cường khả năng tập trung tư tưởng và cải thiện lão hoá. Đặc biệt, thiền làm gia tăng độ dày của phần vỏ não phía trước trán. Điều nầy tương phản với quá trình thoái hoá não ở người già. Nghiên cứu nầy dựa trên những người từ 25 đến 50 tuổi, ngồi thiền 40 phút mỗi ngày. Bà Lazar nói “Ảnh hưởng của thiền định có thể đảo ngược tiến trình lão hoá”.
Thiền là liệu pháp đối trị các bệnh tâm thể
Từ lâu, khoa học đã phân biệt được mỗi khu vực não có liên quan đến những cảm xúc hoặc những khả năng khác nhau của con người. Ngày nay, với sự hổ trợ của các thiết bị hiện đại, các nhà khoa học đã xác định được rằng quá trình ngồi thiền đã hoạt hoá được vùng não trước trán bên trái, nơi có những tế bào thần kinh cho ta cảm giác phấn khởi, an lạc. Chính điều nầy đã giúp cho các vị thiền sư dễ an định nội tâm, khó bị kích động bởi những cảm giác hận thù, sợ hải, lo âu. Do đó, thiền cũng là biện pháp đối trị hửu hiệu đối với các chứng bệnh do căng thẳng tâm lý gây ra. Giáo sư Herbert Benson cho rằng phần lớn các bệnh nhân đến các phòng mạch đều có liên quan đến stress. Những ca bệnh nầy đáp ứng rất kém đối với thuốc và phẫu thuật nhưng lại rất tốt đối với các liệu pháp tiếp cận tâm thể. Đối với các bệnh có nguồn gốc tâm lý, liệu pháp thiền là cách chữa tận gốc. Những nghiên cứu về thiền đều cho thấy thiền làm giảm sự căng cơ, giúp giải toả sự lo âu, bất an, đặc biệt là làm giảm họat hoá các nội tiết tố stress. Hiện nay có một phương pháp thiền đã được chính thức đưa vào giảng dạy và thực hành lâm sàng tại nhiều trường Đại học và Bệnh viện ở phương Tây, kể cả một số trường lớn ở Mỹ như Umass, Stanford, Duke, Virginia, San Francisco, . .. Đó là MBSR. MBSR là chữ viết tắt của thuật ngử “Mindfullness Based Stress Reduction”, tạm dịch là “giảm Stress dựa trên sự tỉnh giác”. MBSR được xem là một liệu pháp bổ sung giúp điều chỉnh tinh thần, cảm xúc và cải thiện sức khoẻ. Đây là một kỷ thụât phát triển chánh niệm, tức khả năng nhận biết điều gì xảy ra nơi thân và tâm, qua đó có thể làm chủ bản thân và điều hoà cảm xúc. MBSR đã được Giáo sư Jon Kabat-Zinn khởi xướng đưa vào thực hành lâm sàng từ đầu những năm 1970. Cho đến nay, hàng chục ngàn người đã được hưởng lợi từ chương trình huấn luyện và điều trị nầy. Kết quả cho thấy MBSR giúp điều trị những bệnh về tim mạch, các chứng đau nhức mãn tính, rối loạn chức năng ở dạ dày, ruột, chứng đau nửa đầu, cao huyết áp, mất ngủ, lo âu, hoảng loạn. . . Hiện nay, trên thế giới đã có hơn 200 bệnh viện hoặc cơ sở y tế có thực hành điều trị bằng MBSR[iii].
Thiền giúp cải thiện tình trạng rối loạn dương cương.
Hoạt động cương chịu sự chi phối của hệ thần kinh thực vật gồm 2 hệ hoạt động đối nghịch nhau và nằm ngoài tầm kiểm soát của ý chí con người. Hệ đối giao cảm làm cho mạch máu và các cơ trơn của thể hang nở ra thu máu đến để gây cương. Hệ giao cảm làm co mạch nên có thể làm cản trở hoạt động cương. Do đó, những người dễ bị căng thẳng, lo lắng do cuộc sống hoặc do cơ địa có thần kinh yếu, thần kinh thực vật dễ bị rối loạn thường dẫn đến xuất tinh sớm. Đối với những trường hợp nầy, bên cạnh việc ăn uống hợp lý và vận động tốt, tác dụng điều hoà thần kinh giao cảm để giảm stress và gia tăng năng lực kiểm soát cảm xúc của thiền là biện pháp bổ sung tích cực. Về mặt lưu thông khí huyết, những đáp ứng thư giãn trong quá trình ngồi thiền vừa trực tiếp làm nở mạch vừa kích hoạt tiết ra thêm chất Nitric oxide[iv] nên có tác dụng rất tốt trong hoạt động cương dương. Nitric oxide là một hoá chất quan trọng có tác dụng làm giãn nở mạch máu trong cơ chế gây cương. Như vậy, thiền có thể giúp cải thiện suy nhược sinh dục thông qua 2 cơ chế thần kinh và nội tiết. Nguyên tắc nầy cũng đã được vận dụng từ xưa ở phương Đông. Hít thở sâu và điều hoà, một hình thức tập trung tư tưởng thông qua quan sát hơi thở để điều hoà thần kinh giao cảm và kiểm soát cảm xúc có thể giúp người nam làm chậm lại sự phóng tinh. Điều nầy từng được ghi lại trong những tác phẩm Tố Nử Kinh và Ngọc Phòng Bí Quyết, những sách cổ của Trung Quốc về nghệ thuật phòng trung. Đoạn đối đáp giũa Tố Nử và Hoàng Đế về kỹ thuật nầy có ghi[v] “Phải thở sâu và đếm từ 1 dến 30. Và cứ thế làm lại nhiêù lần. Công dụng của cách nầy là làm cho đàn ông có được sức bền bỉ.”
Thiền tăng cường hệ miễn dịch
Nhiều nghiên cứu cho thấy các phương thức hành thiền khác nhau như quán sát hơi thở, lần chuỗi, niệm kinh, nhẩm số hoặc những cử động lập đi lập lại như đi bộ, đi quyền, đan len. . . đều có khả năng làm gia tăng hệ miễn dịch. Có thể kể đến[vi] những cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Kundalini ở Boston vào năm 1976 tại Bệnh viện Cựu Chiến Binh La Jolla ở California, thí nghiệm của nhà Tâm lý học Alberto Villoldo ở trường Đại học Sanfrancisco năm 1980. Nhiều người đặc biệt quan tâm đến công trình nghiên cứu của Bác sĩ Carl Simonton về điều trị ung thư trong những năm 1970. Trong những thí nghiệm này ông hướng dẫn cho người bệnh thư giãn và hình dung những bạch cầu của họ là những chiến sĩ tìm và diệt. Đội quân dũng mảnh đã chiến đấu, chiến thắng và mang đi các tế bào ung thư đã chết. Kết quả thí nghiệm trên những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đã cho biết thời gian sống còn của những bệnh nhân tham gia ngồi thiền tăng lên gấp 2 lần rưởi so với những người không ngồi thiền.
Vào tháng 7/1997, Tiến sĩ Richard Davidson, Giáo sư Tâm lý học trường Đại học Wisconsin đã tiến hành một cuộc nghiên cứu[vii] về tác động của thiền đối với hoạt động thần kinh và khả năng miễn nhiễm trên 48 đối tượng là nhân viên của công ty kỹ thuật sinh học Promega (phần lớn những người này là những nhà khoa học). Những người nầy được hướng dẫn thực hành thiền mỗi lần 3 giờ, mỗi tuần một lần, trong thời gian 8 tuần lể. Cuối giai đoạn 8 tuần, những nhân viên ngồi thiền và những nhân viên khác không ngồi thiền đều được cho chích ngừa vaccin cúm. Ở thời điểm 4 tuần và 8 tuần sau khi chủng ngừa, tất cả mọi người đều được thử máu để kiểm tra số lượng kháng thể. Kết quả cho biết số kháng thể đã gia tăng thêm 50% ở những người có ngồi thiền so với những người không ngồi thiền. Như vậy, cuộc thử nghiệm đã cho thấy việc hành thiền trong một giai đọan ngắn cũng có tác dụng gia tăng hệ miễn dịch. Quan trọng hơn, khả năng nầy có thể kéo dài một thời gian sau khi ngưng ngồi thiền.
Thiền giúp cải thiện hành vi
Các nhà tâm thần học đang cố khám phá xem liệu việc ngồi thiền có thể cải thiện những chương trình của bộ não có khuynh hướng chống xã hội hay không. Mới đây, một cuộc nghiên cứu về tác động của Vipassana, một loại thiền quán niệm hơi thở của Ấn Độ cổ, đối với những tù nhân tại nhà tù Tihar đã được công bố trên tờ the Indian Express số ra ngày 16.12.2006. Nghiên cứu được tiến hành bởi một nhóm sinh viên trường Đại học Vivekanand ở New Delhi. Họ chọn ra 42 tù nhân tình nguyện. Phân nửa số người trên được hướng dẫn thực hành thiền trong thời gian 10 ngày. Sau thời gian thí nghiệm, các tù nhân được đánh giá các tiêu chuẩn về lòng tự trọng, khả năng ổn định cảm xúc và tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Điều ghi nhận được là tất cả những người đã trải qua khoá thiền đều có kết quả tích cực hơn nhiều so với những người không ngồi thiền. Nhà tù Tihar ở New Delhi là nhà tù đầu tiên thực hiện chương trình giáo dục tù nhân thông qua những khoá thiền Vipassana 10 ngày từ năm 1975. Hiện nay chương trình nầy đã được thực hiên ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Ấn Độ, Israel. Mông Cổ, New Zealand, Taiwan, Thailand, Anh quốc và Hoa Kỳ[viii].
Nghiên cứu của Giáo sư David Kavanagh tại trường Đại học Queensland cho thấy đối với những người nghiện rượu, thiền có khả năng chế ngự đựơc cảm giác thèm rượu. Đối với thói quen hay ăn vặt dễ dẫn đến béo phì và các loại bệnh về chuyển hoá khác, nhiều nhà khoa học cho rằng những người có nhiều áp lực trong cuộc sống thường có khuynh hướng hay ăn vặt để làm dịu đi những căng thẳng tâm lý. Trong những trường hợp nầy, thiền có tác dụng điều hoà thần kinh, giải toả stress nên có thể chữa được thói xấu nầy. Đối với những trường hợp bình thường, thiền giúp tạo một tinh thần thoải mái, lạc quan, dễ hoà hợp là điều rất rõ ràng. Michael Slater, một nhà sinh học phân tử ở Promega đã tham gia vào cuộc thực nghiệm về thiền của ông Davidson đã phát biểu “Quả thật tôi là một nhà khoa học thực nghiệm trong mọi lảnh vực của cuộc sống. Tôi nghi ngờ giáo điều. Tôi đã thử thực hành thiền và thiền đã thực sự hấp dẫn tôi. Tôi đã cảm nhận được sự giảm căng thẳng trong tôi. Tôi bớt gắt gỏng, cau có. Tôi có khả năng tiếp nhận những áp lực công việc lớn hơn. Vợ tôi cũng cảm thấy tôi dễ thân cận hơn. Như vậy, thiền đã có những tác dụng rõ rệt. Đối với những nhà khoa học thực nghiệm, như vậy là đủ.” Những người ngồi thiền có vùng vỏ não trước trán bên trái hoạt động nhiều hơn bên phải nên có tinh thần lạc quan, dễ chia sẽ, tha thứ. Mặt khác, họ sẽ phục hồi nhanh chóng sau khi bị tác động bởi những cảm xúc tiêu cực.
Thiền giúp nâng cao chỉ số thông minh cảm xúc
Trước đây, khi nói về sự thành đạt, người ta nhấn mạnh đến chỉ số thông minh, thường gọi là IQ (Intelligent Quotient). Tuy nhiên theo nghiên cứu của một số nhà khoa học, chỉ khoảng 25% số người thành đạt có chỉ số thông minh trên trung bình. Như vậy, chỉ số IQ không giải thích được sự thành công của 75% số người còn lại. Các nhà nghiên cứu cũng loại trừ nhân tố năng lực chuyên môn. Cuối cùng, người ta khẳng định thông minh cảm xúc là yếu tố quyết định sự thành công của những người này. Đặc biệt trong cuộc sống hiện nay, nhịp sống nhanh và tính cạnh tranh cao, mỗi người đều dễ bị tác động bởi Stress thì yếu tố thông minh nầy càng có ý nghĩa quyết định. Nói chung, thông minh về mặt cảm xúc (Emotional Intelligence) hay chỉ số thông minh cảm xúc (Emotional Quotient) là kỹ năng của một người về việc cảm nhận, đánh giá và quản lý cảm xúc của cá nhân mình, của đồng sự hay của đối tác để có được hiệu quả tối đa trong công việc cũng như trong giao tiếp xã hội. Hành thiền có thể giúp gia tăng khả năng kiểm soát cảm xúc, lòng tự tin và niềm hứng khởi trong công việc. Do đó, thiền là khâu quan trọng nhất để nâng cao chỉ số thông minh nầy. Tiến sĩ Daniel Golenan, một chuyên gia tâm lý thuộc trường Đại học Harvard ở Boston, Mỹ, là người tiên phong trong việc chuyên nghiệp hoá lãnh vực đào tạo và huấn luyện về Thông Minh Cảm Xúc. Ông chủ trương nên giảng dạy thiền cho các học sinh, sinh viên và các nhà quản lý để giúp họ kiểm soát cảm xúc và có khả năng tương tác tốt trong mọi quan hệ qua đó sẽ giúp họ nâng cao hạnh phúc gia đình và thành công trong xã hội. Tại Việt Nam, một cuộc hội thảo chuyên đề về “Tập trung trí tuệ, nắm bắt tương lai” đã được Viện Nghiên Cứu Giáo Dục thuộc trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 10.10.2007 vừa qua. Kết quả điều tra mới nhất do công ty nghiên cứu thị trường Research International thực hiện được công bố tại cuộc hội thảo đã cho thấy chỉ có 28% học sinh, sinh viên Việt Nam có thể tập trung hoàn toàn vào công việc hàng ngày! Số 72% còn lại cho biết họ thường gặp phải khó khăn khi phải tập trung trong học tập hoặc trong giao tiếp. Đây là một thực trạng đáng báo động. Nguyên nhân và giải pháp có thể có nhiều. Tuy nhiên, việc đưa hành thiền vào thời khoá sinh hoạt thường ngày là một biện pháp mà mỗi cá nhân và gia đình có thể thực hành được. Còn nhớ, một năm trước đây báo chí có loan tin về em Scott Thương, một học sinh người Việt thi đậu vào Đại học năm 14 tuổi. Thương là con ông Trần văn Thưởng, một giáo sư Toán tại bang Missouri, Hoa Kỳ. Khi trả lời báo chí về kinh nghiệm giáo dục con cái của mình, ông Thưởng đã cho biết, bên cạnh việc truyền đạt cho các em ý chí và động lực của việc học tập thì việc trau dồi thể chất và tinh thần là điều rất quan trọng. Ông nói “Mỗi ngày, các em cần phải có một giờ tập thể dục và nửa giờ ngồi thiền.”
Thiền và cảm giác hợp nhất với vũ trụ
Khi đề cập đến thiền, đến yoga, người ta thường nói đến sự hoà hợp hay hợp nhất. Hợp nhất giữa thân và tâm, giữa con người và bối cảnh chung quanh và cuối cùng là sự hợp nhất hay tính vô phân biệt giữa cái tôi hửu hạn và cái vô cùng của vủ trụ vạn hửu. Qua nghiên cứu bộ não, các nhà khoa học cho rằng cảm giác hợp nhất và vô giới hạn có liên quan đến thuỳ đỉnh não. Năm 1973, Tiến sĩ Gregg Jacobs, một chuyên gia Tâm thần học thuộc Đại học Harvard qua ghi nhận sóng não và ảnh chụp bộ não của những người ngồi thiền cho biết qúa trình thiền làm giảm hoạt động ở thuỳ đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian và thời gian. Bằng cách “tắt” thuỳ đỉnh não, hành giả sẽ có khuynh hướng mất đi cảm giác giới hạn để tiến đến sự hoà hợp và thấy mình và vủ trụ trở thành một.
Tóm lại, dù thiền ngắn hạn hay dài hạn, ảnh hưởng của thiền đối với việc cải thiện các điều kiện tâm lý hoặc thể chất là điều rất rõ ràng. Những kết quả nầy cũng được thể hiện trong đánh giá của Bác sĩ Stephanie Steven, một chuyên gia về tim mạch và các liệu pháp bổ sung qua một bài viết[ix] trên báo Danvers Herald, MA, Mỹ ngày 12.1.2006 “Thiền định làm cho cơ thể bình lặng và an định, áp suất máu giảm , nhịp tim chậm lại. Quá trình thiền khiến một số biến đổi tâm thể lý xảy ra giúp cải thiện sức khoẻ, giảm đau đớn, giảm căng cơ, giảm tính cáu kỉnh, gíup ăn ngon và tăng cường hệ miễn dịch”.
Katsuki Sekida. Zen Training. Shambhala Classics. 2005. Tr63
[ii] Exercise shown to reverse brain deterioration brought by aging. www.news.uiuc.edu/news/06
[iii] Jon Kabat-Zinn. Mindful Yoga (www.steveshealphd.com)
[iv] Tom Corwin. Form of meditation may improve health. chronicle.augusta.com
[v] Tố Nử Kinh. Hoàng Đông Bích (dịch). Xuân Thu XB. USA
[vi] Nancy Poitou M.D. Meditation for Health. mysite.verizon.net/nancy-poitou.
[vii] Stephan S. Hall. Is Buddishm good for your health. The New York Times. Sept.14.2003
[viii] Vipassana Meditation Courses for correction facilities. www.prison.dhamma.org
[ix] Stephanie Stevens. Meditation,an oasis from everyday stress. Danvers Herald. Jan.12.2006.
|
|