|
Post by TCTV on Feb 25, 2010 21:06:53 GMT -5
Phạn ngữ Pāli
Chương VI - Phần Phụ Lục Phụ lục 1: Cách phát âm Phạn ngữ Pāli Phụ lục 2: Các ngày lễ và ngày giới Phụ lục 3: Ý nghĩa các kinh văn Phụ lục 4: Ý nghĩa của nghi thức và thờ phượng
Phụ lục 1 - Cách phát âm Phạn ngữ Pāli
Ngôn ngữ Pāli còn được gọi là Māgadhī là ngôn ngữ của xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà). Ðó là một trong những trung tâm Phật Giáo quan trọng bao gồm các địa danh nổi tiếng Vương Xá thành (Rājagaha), Linh Thứu Sơn (Gijjhakūta), Nalanda. Cũng chính tại vương quốc nầy, vua Ajātasattu đã tổ chức Ðại Hội Kết Tập Tam Tạng đầu tiên cách ba tháng sau ngày Phật viên tịch.
Pāli được gọi là Nam Phạn để phân biệt với tiếng Sanskrit là Bắc Phạn. Vào thời Phật trụ thế tiếng Sanskrit là tiếng của giới quí tộc và hàng giáo sĩ Bà la môn mang tính kinh viện và dùng cho nghi lễ theo kinh Veda. Ðức Phật dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau và Ngài khuyến khích dùng ngôn ngữ địa phương để diễn đạt chánh pháp. Có lẽ vì tính cách đại chúng và địa dư nên Nam Phạn Pāli được chọn trong lần kết tập kinh điển lần đầu. Thật ra Pāli có nghĩa là điển ngữ hay ngôn ngữ để chép kinh điển.
Ngày nay Nam Phạn Pāli đã trở thành cổ ngữ. Tuy vậy tất cả các quốc gia Phật giáo nguyên thủy đều dùng tiếng Nam Phạn làm tiêu chuẩn cho kinh điển và nghi lễ. Các học giả Tây Phương đầu thế kỷ nầy đã dùng Nam Phạn làm biểu chuẩn cho việc nghiên cứu và giới thiệu Phật học. Hiện đang có những nỗ lực để quốc tế hoá thuật ngữ Phật học từ các ngôn ngữ Sanscrit, Nhật ngữ, Hoa ngữ và tiếng Tây Tạng.
Tiếng Pāli tương đối dễ đọc. Có tất cả 41 mẫu tự gồm 8 nguyên âm và 33 phụ âm.
8 nguyên âm:
a - ā - i - ī - u - ū - e - o
33 phụ âm chia thành 6 nhóm:
k - kh - g - gh - ṅ c - ch - j - jh - ñ ṭ - ṭh - ḍ - ḍh - ṇ t - th - d - dh - n p - ph - b - bh - m y - r - l - v - s - h - ḷ - ṃ
Cách đọc nguyên âm a đọc là ă như há td: anīka (á ni ká) ā đọc là a như cha td: bālā (ba la) i đọc là í như tí td: isi (í sí) ī đọc là i như nghi td: īhā (i ha) u đọc là ú như tú td: udara (ú đá rá) ū đọc là u như du td: ūkā (u ka) e đọc là ê như đê td: eka (ê ká) o đọc là ô như tô td: okāra (ô ka rá)
Các nguyên âm: ā, ī, ū, e, o phát âm dài Các nguyên âm có phụ âm đi sau phát âm dài; thí dụ: sattha (sát-thá) âm "sát" đọc dài, tunha (tun-há) âm "tun" đọc dài.
Cách đọc phụ âm lưu ý: những phiên âm có gạch nối là những "âm láy" khi phát âm đọc nhanh như "bờ" trong "bờ-há" .
1. Nhóm âm họng . k đọc là ká như ka ki td: kata (ká tá) kh đọc là kờ-há như khá td: khaya (khá dá) g đọc là gá như gỗ td: gati (gá tí) gh đọc là gờ-há td: ghaṭī (gờ-há ti) ṅ đọc là ngá như ung td: saṅkā (săng ka)
2. Nhóm nóc giọng c đọc là chá như cháu td: canda (chanh đá) ch đọc là chờ-há td: chando (chờ-hanh đô) j đọc là dzá như dzu td: jāni (dza ní) jh đọc là dzờ-há td: jhāna (dzờ-ha ná) ñ đọc là nhá như nhà td: ñāṇa (nha ná)
3. Nhóm âm não (không có âm Việt tương đương) Khi phát âm giống như nhóm âm răng nhưng cong lưỡi lại,dồn hơi lên óc. ṭ td: ṭaṅka (tăng ká) ṭh td: ṭhāna (tha ná) ḍ td: ḍāka (đa ká) ḍh td: oḍḍha (ốt đơ-há) ṇ td: iṇa (í ná)
4. Nhóm âm răng t đọc là tá như tú td: taṭa (tá tá) th đọc là tờ-há như thứ td: thala (thá lá) d đọc là đá như đong td: dati (đá tí) dh đọc là đờ-há td: dhana (đờ-há ná) n đọc là ná như non td: naga (ná gá)
5. Nhóm âm môi p đọc là pá như pa-pa td:pajā (pá dza) ph đọc là pờ-há như phải td:phala (phá lá) b đọc là bá như báo td: bāhā (ba ha) bh đọc là bờ-há td: bhaya (bờ-há dá) m đọc là má như mơ td: mana (má ná)
6. Các phụ âm không thuộc nhóm y đọc là dá như du td: yoni (dô ní) r đọc là rá như rõ td: rajani (rá dzá ní] l đọc là lá như lo td: laya (lá yá) ḷ đọc là lá td: ḷīyati (li dá tí) v đọc là quá như qui td: vati (quá tí) s đọc là sá như sử td: sati (sá tí) h đọc là há như hổ td: hati (há tí) ṃ đọc là ăng như băng td: taṃ (tăng)
Cách đọc vần ngược Pāli
k, g trong vần ngược đọc như "c" trong "nam bắc" td: agga (ắc gá), sakka (sắc cá).
ṅ, ṇ, ṃ trong vần ngược đọc như "ng" trong "ngang dọc" td: saṅgha (săng gờ-há), taṇḍa (tăng đá), dhammaṃ (đờ-ham măng).
c, j, ṭ, ḍ, t, d trong vần ngược đọc như "t" trong chữ chén bát (giọng bắc) td: satta (sát tá)
ñ trong vần ngược đọc như "nh" trong "nhanh chóng" td: añña (anh nhá).
n trong vần ngược đọc như "n" trong "than đá" (giọng bắc).
p, b trong vần ngược đọc như "p" trong "áp đảo" thí dụ uppannaṃ (úp pan năng).
l, ḷ trong vần ngược đọc "l" trong all của Anh ngữ. td: virūḷha (quí run há).
s trong vần ngược đọc "s" trong Texas (không có âm Việt tương đương)
y trong ey đọc như "ây" trong "đông tây" td: āhuneyyo (a hú nây dô)
ṅ, ṃ chỉ đi với nguyên âm trong vần ngược, tương đương với NG. thí dụ: taṃ [đọc là tăng]
Một chữ thường thấy xuất xứ từ Bắc phạn là Brahma (phạm chí) đọc là "bờ-ram má". Người học cần nhớ cách phiên âm để tự học chỉ là tương đối, nên học với thầy dạy là tốt nhất. Dưới đây là một bản thí dụ về cách phát âm Phạn ngữ Pāli với phiên âm bài kinh "Dâng Hoa"
Pūjemi buddhaṃ kusumenanena Pu jê mí bút d-hăng kú sú mê nánê ná Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ Pun nhê námê tê nácháhô tú mốc khăng Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me Púp phăng mí la da tí dátha í đăm mê Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ. Ka dô tátha da tí quí na sápha quăng
-ooOoo-
Phụ Lục 2 - Các ngày lễ và ngày giới
Các ngày lễ truyền thống Phật Giáo
Ngày Phật Bảo (Visākhapūjā) nhằm đúng rằm tháng Tư âm lịch. Tên thông dụng của ngày lễ nầy là Vesakh được dùng bởi tất cả tổ chức Phật giáo quốc tế, kỷ niệm ba sự kiện trọng đại của đức Phật Thích Ca Mâu Ni: đản sinh, thành đạo và viên tịch. Vì vậy còn được gọi là Ðại Lễ Tam Hợp. Theo Phật giáo Bắc truyền chỉ kỷ niệm sự kiện đản sinh nên gọi là Ngày Phật Ðản.
Ngày Pháp Bảo (Māghapūjā) nhằm Rằm tháng Giêng âm lịch. Kỷ niệm ngày đức Phật thuyết kinh Giải Thoát Giáo (Ovādapāṭimokkha) về tôn chỉ của Giáo Pháp và tinh thần hoằng pháp. Bài kinh được thuyết trong thánh hội gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị thánh nhân vô lậu. Cũng ngày Rằm tháng Giêng, Ðức Phật xác định nền tảng của Giáo Pháp đã thiết lập vững vàng và Ngài sẽ viên tịch.
Ngày Tăng Bảo (Kathina) có thể tổ chức bất cứ ngày nào trong vòng một tháng sau mùa kiết hạ của chư Tăng, tức từ Rằm tháng Chín đến Rằm tháng Mười. Vì nghi thức chính của Ðại Lễ là cúng dường và thọ nhận một lá y theo thể thức được qui định bởi chính đức Phật nên Ðại Lễ nầy thường có tên Lễ Tăng Y Kathina. Chư Tăng theo Phật Giáo Bắc Truyền nhập hạ từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy.
Các ngày lễ văn hoá dân tộc
Ngày Tết Nguyên Ðán kéo dài nhiều ngày đầu tháng Giêng âm lịch đánh dấu năm mới. Ðây là ngày lễ trọng thể mang nhiều sinh hoạt văn hoá dân tộc. Nhiều người đi chùa lễ Phật cầu phước đầu năm vì vậy ngày Nguyên Ðán trở thành một đại lễ hằng năm tại các chùa.
Ngày Cha Mẹ. Cũng gọi là đại lễ Vu Lan Báo Hiếu tổ chức vào Rằm tháng Bảy âm lịch. Ðại lễ mang ý nghĩa ghi nhớ thâm ân sinh dưỡng và cầu phước cho cha mẹ hiện tiền cũng như quá vãng. Ảnh hưởng truyền thống Trung Hoa ngày lễ cũng là ngày cầu siêu độ cho người quá vãng nên cũng được gọi là ngày Xá Tội Vong Nhân.
Ngày Thiếu Nhi. Cũng gọi là Tết Trung Thu nhằm Rằm tháng Tám âm lịch. Mặc dù bắt nguồn từ Trung Hoa ban đầu không liên quan đến tuổi trẻ nhưng các sinh hoạt vui chơi như múa lân, rước đèn, ca hát đã biến ngày nầy trở thành ngày của tuổi trẻ.
Các ngày kỷ niệm, tưởng niệm, và các lễ khác
Ngày Quốc Tổ. Cũng gọi là Giỗ Tổ Hùng Vương nhằm mùng Mười tháng Ba âm lịch đánh dấu triều đại đầu tiên lập nên nước Việt.
Ngày Hiệp kỵ. Là ngày giỗ chung chư vị tôn túc tiền bối dày công xây dựng và phát huy mối đạo tại Việt Nam. Giáo Hội thường chọn Rằm Tháng Chạp để tổ chức lễ nầy.
Ngày Chu Niên. Mang tánh cách địa phương kỷ niệm ngày thành lập ngôi chùa. Ðây là dịp tưởng lệ ghi công những Phật tử hữu công và hun đúc đạo tình trong một ngôi chùa.
Ngày An Cư Kiết Hạ. Có tánh cách nội bộ hàng xuất gia. Nhằm Rằm tháng Sáu âm lịch. Ngày lễ vốn được qui định trong Tạng Luật (Vinayapitaka). Ðức Phật cũng cho phép người cư sĩ tổ chức cúng dường y tắm mưa đến chư Tăng vào dịp lễ nầy. Ðây cũng là thời gian người cư sĩ tu bát quan trai trường trọn ba tháng. Cũng cần ghi nhận rằng Rằm tháng Sáu là ngày đức Phật chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển.
Ngày Thiền Học. Ðể phát huy truyền thống pháp hành. Thường được tổ chức theo điều kiện địa phương với một khoá tu học tiêu biểu. Thời lượng có thể là một hay nhiều ngày.
Lịch trình kiểu mẫu các ngày lễ trong năm theo thứ tự tháng dương lịch Dương Lịch Ngày Lễ Âm Lịch Ghi chú Tháng 1 Ngày Hiệp Kỵ Rằm tháng Chạp Tháng 2 Tết Nguyên Ðán Ðầu tháng Giêng Tháng 3 Ngày Pháp Bảo Rằm tháng Giêng Tháng 4 Ngày Quốc Tổ Mùng Mười tháng Ba Tháng 5 Ngày Phật Bảo Rằm tháng Tư Tháng 6 Tháng 7 Ngày An Cư Rằm tháng Sáu Tháng 8 Ngày Cha Mẹ Rằm tháng Bảy Tháng 9 Ngày Nhi Ðồng Rằm tháng Tám Tháng 10 Ngày Tăng Bảo Rằm tháng chín đến Rằm tháng Mười Ngày thiền học tùy duyên Ngày chu niên tùy duyên
Những điểm cần lưu ý
Ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo Trung Hoa, các chùa Việt Nam thường khai kinh cúng dường đại lễ từ ngày mùng Tám cho đến ngày Rằm. Lâu ngày một số lớn Phật tử hiểu lầm rằng chính lễ là ngày mùng Tám. Trên thực tế các đại lễ trong Ðạo Phật đều nhằm ngày Rằm.
Tại các quốc gia Âu Mỹ, người Phật tử tổ chức đại lễ theo "mùa" hơn là đúng ngày ghi trong lịch bởi vì chỉ có thể tổ chức vào cuối tuần và tình trạng thiếu Tăng Ni cũng khiến các ngày tổ chức lễ phải được linh động.
Những ngày lễ nêu trên đã được Hội Ðồng Chưởng Quản Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thông qua trong phiên họp ngày 11-3-1997 tại Tự Viện Liên Hoa, Irving, Texas, Hoa Kỳ dưới sự chứng minh của Hoà Thượng Tăng Thống Hộ Giác và các thành viên trong Hội Ðồng.
Các Ngày Trai Giới
Ngày trai dịch từ phạn ngữ Uposatha có nghĩa là lấy sự qui định hạn cuộc thời gian làm nền tảng tu tập. Có những học giới mà người cư sĩ không thể hành trì trọn đời,tuy nhiên nếu phát nguyện gìn giữ trong một thời gian ấn định chẳng những có thể trong sạch mà còn hoan hỷ tinh tấn nhiều hơn. Yếu tố thời gian đó được qui định bởi đức Phật và cần hiểu rõ khi thực hành trai giới. Thông thường có sự hiểu lầm về chữ "Trai" hay đọc trại là "chay" có nghĩa là ăn lê hoát nhưng chữ trai (uposatha) nguyên nghĩa là thời gian tu tập tịnh giới (trai hựu tác thời).
Lịch Ấn Ðộ chia mỗi tháng thành hai tuần: thượng tuần và hạ tuần. Thượng tuần là tuần trăng đầy kể từ mùng một đến ngày Rằm; hạ tuần tính từ trăng tròn đến ba mươi.
Thời Phật trụ thế ngày trai gồm các ngày đầu, giữa và cuối thượng tuần cũng như hạ tuần. Như vậy tổng cộng có 6 ngày: Mùng 1, mùng 8, 15,16,23 và 30 (tháng thiếu 29). Về sau các vị tôn túc thêm hai ngày mùng 5 và 20.
Nếu tính như trên thì ngày sóc đúng mùng 1 và ngày vọng đúng 16 (trăng tròn). Nhưng vì vài sự sai biệt (...) nên các ngày sóc vọng và trai giới được qui định như sau: Mùng 5, mùng 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30 âm lịch. Tháng thiếu: 28, 29.
-ooOoo-
Phụ lục 3 - Xuất xứ, Ý nghĩa và cách dùng các kinh văn
Hầu hết các kinh văn trong kinh tụng Phật giáo Nguyên Thủy là Phật ngôn trích từ Tam Tạng Kinh Ðiển. Theo tinh thần tụng niệm thì uy lực nhiệm mầu của sự gia trì dựa trên bốn yếu tố:
a) Lời Phật là lời linh diệu. Ðức Phật là bậc đại bi đại đức. Những lời Ngài không phải chỉ đầy đủ nghĩa văn mà còn chân xác, tương ứng với sự vận hành của thiên nhiên. Tôn giả Ananda trùng tụng lời Phật thường với thoại đầu "Evam me sutam (tôi nghe như vầy)." Dầu trong tông phái nào thì Phật ngôn là căn bản của các kinh văn tụng niệm.
b) Chân ngôn là lời huyền nhiệm. Khi một sự thật được nói lên có nhiều sức mạnh cả hai phương diện mật và hiển. Trong kinh văn thường có câu: "Etena saccavaccena hotu me jayamaṅgalaṃ / Nguyện nhờ chân ngôn nầy phát sanh điều cát tường". Khi tâm thành và ý kinh được hợp nhất thì lời kinh được xem là chân ngôn.
c) Hiệu năng khai thị cũng là uy lực kinh. Ðức Phật dạy quả nhập lưu cao quý hơn đế nghiệp chuyển luân vương. Người tụng đọc kinh văn tâm được tịnh, trí được sáng thì đã nhận được sự lợi lạc to lớn của sự tụng niệm.
d) Ðức tin trong sạch là hạt giống của thiện pháp. Tụng niệm ân đức Tam Bảo là cách tăng trưởng niềm tin nhờ vậy tâm hồn hướng thượng và sự tu học được vững tiến. Có thể nói đây là lợi ích thiết thực mà sự tụng niệm mang lại.
Chính do bốn yếu tố trên, phần phụ lục nầy được thêm vào nhằm giúp quí Phật tử tìm hiểu về xuất xứ, ý nghĩa và duyên sự tụng đọc của các kinh văn.
Kinh Hạnh Phúc
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 46 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ Mahamaṅgalasutta.
Chữ Hạnh Phúc được dịch thoát từ phạn ngữ maṅgala có nghĩa là cát tường hay điềm lành. Một vị chư thiên bạch hỏi Phật cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất trong cuộc đời.
Ðức Phật trả lời bằng mười một bài kệ bao gồm ba mươi tám điều liên hệ mọi lãnh vực tu thân, gia đình, xã hội... Vì đề cập đến cát tường nên bài kinh rất thường được tụng trong các khoá lễ cầu phước. Những lời dạy trong kinh trở thành kim chỉ nam cho đời sống người Phật tử.
Kinh Từ Bi
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 25 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ Mettasutta.
Ðây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba bài kệ đầu dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát triển hạnh từ ái; đoạn thứ hai gồm 2 bài kệ nói về đối tượng của từ tâm; phần kế, 2 bài kệ đề cập những bất thiện pháp có hại cho lòng từ; tiếp theo là phương thức tu dưỡng; và bài kệ cuối cùng là quả phúc của từ bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các tỳ kheo trì tụng nhằm mục đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các thầy đang tu tập trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh thường được dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu của chúng sanh khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang cho người tu tập lòng từ.
Kinh Châu Báu
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 39 London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ Ratanasutta.
Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị vượt bực ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí nhất. Không phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết đặc tính của Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng trong hành trình tâm linh của mình. Mười bài kệ trong số mười lăm đoạn của bài kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên hệ bất khả ly của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu tập và quả vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Ðức Phật dạy bài kinh nầy tại Vesalì nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và phi nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì niệm trọn đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalì. Kết quả mọi tai ách đều được giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh đều đặc thù nên Kinh Châu Báu trở thành quan trọng nhất trong các bài kinh cầu an.
Kinh Chuyển Pháp Luân
Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm ( Mahavagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka) cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikāya) [PTS Kindred Saying V.420-431) Tựa kinh Phạn ngữ Dhammacakkappavattana Sutta.
Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe Chánh Pháp. Gọi như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng đạo của đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, đức Thích Ca Mâu Ni đã trình bày giáo lý Tứ Diệu Ðế, đồ hình của giáo pháp, để giới thiệu con đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như, bậc thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp Luân mà liễu ngộ. Bài kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp hàng thiên chúng. Ðiều đó tạo nên một giá trị truyền thống trong nghi lễ đạo Phật. Bài kinh được dùng trong các khoá lễ cầu an.
Kinh Vô Ngã
Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm ( Mahāvagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka I. 13-14) cũng tìm thấy trong Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikāya I. 57. Tựa kinh Phạn ngữ: Anattalakkhaṇasutta.
Ðây là bài kinh dạy về lý vô ngã qua phương pháp quán niệm năm uẩn: xác thân, cảm thọ, nhận thức, hành hoạt và các giác quan. Kinh chia làm bốn đoạn chính. Ðoạn I nói về sự trạng vô hộ vô chủ của năm uẩn. Ðoạn II dạy về sự liên hệ tự nhiên của vô thường, khổ não và vô ngã. Ðoạn III xác định bản chất vô ngã của tâm lý, vật lý trong mọi hình thái, không gian, thời gian. Ðoạn IV nói về trình tự giải thoát của hành giả quán niệm vô ngã. Nguyên văn được giảng từng uẩn riêng biệt thích hợp cho sự tu tập quán niệm. Bản dịch gom chung năm uẩn tiện cho sự tụng đọc. Bài kinh được đức Phật thuyết nhằm khai thị năm tỳ kheo Kiều Trần Như đến quả vị hoàn toàn giải thoát nên thường được tụng trong các khoá lễ cầu siêu.
Kinh Đáo Bỉ Ngạn
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Dasapāramī (Mười hạnh Ba la mật).
Ðáo bỉ ngạn hay ba la mật là pháp hành của các vị bồ tát trên đường hướng đến giác ngộ. Ðáo bỉ ngạn có nghĩa là pháp đưa đến bờ kia nên còn gọi là Pháp Ðộ. Mười ba la mật là bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện, từ tâm và hành xả. Có ba bậc tu ba la mật: một là vì đại nguyện tu tập hy sinh tất cả vật ngoại thân; hai là hy sinh tứ chi hoặc một phần thân thể; ba là hy sinh mạng sống. Vì vậy mười pháp đáo bỉ ngạn được tính là ba mươi.
Bản dịch khai triển ý nghĩa từng pháp nhằm tác động tín tâm tu tập. Theo truyền thống, bài kinh nầy lợi lạc cho kẻ hiện tiền lẫn người quá vãng nên được dùng chung cho khoá lễ cầu an và cầu siêu.
Kinh Phật Lực
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Buddhajayamaṅgalagāthā.
Kệ tụng đề cập tám trường hợp đức Phật hoán chuyển nghịch cảnh. Những đối tượng cảm hoá gồm trời, người, mãnh thú. Ðức Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau từ thần thông, đức độ cho đến tuệ giác. Ðây là những sự kiện tiêu biểu các chướng duyên xảy ra trong quãng đời hoá đạo của đức Thế Tôn. Sự trì tụng bài kinh không những mang lại năng lực nhiệm mầu mà còn là những bài học soi sáng thái độ hành xử trước nghịch cảnh của người tu tập. Kinh nầy được tụng đọc trong các khoá lễ cầu an, cầu tiêu tai.
Kinh Thắng Hạnh
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Jayaparitta.
Nội dung kinh đề cập ý nghĩa của sự kiết tường. Mở đầu là hình ảnh của đức Phật với sự thành tựu đạo quả vô thượng mang lại những tốt lành cho quyến thuộc và tất cả chúng sanh. Tiếp theo là Phật ngôn về thế nào là ngày tốt, giờ tốt theo đạo lý thánh hiền. Bởi vì đề cập đến pháp kiết tường nên bài kinh nầy thường được đặc biệt dùng để chú nguyện trong các khoá lễ cầu an.
Kinh Lễ Chánh Giác Tông
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Sambuddhagāthā.
Là bài kinh lễ bái chư Phật. Bởi vì trong mười phương ba đời có vô số Phật ra đời nên những con số được nêu ra có tánh cách đặc trưng nói lên sự biến mãn của Phật giới. Những con số nầy dựa theo thắng duyên gặp chư vị Thế Tôn của ba bậc đại bồ tát trong suốt quá trình huân tu giác hạnh.
Bậc Trí Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi hai mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua mười hai ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua năm trăm ngàn vị Phật.
Bậc Tấn Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi bốn mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua hai mươi bốn ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua một triệu vị Phật.
Bậc Tín Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi một trăm lé chín vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua bốn mươi tám ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua hai triệu vị Phật.
Có hai ý nghĩa chính của bài kinh: thứ nhất là nói về truyền thống của chư Phật, thứ hai nói về quá trình tu tập khó thể nghĩ bàn của các đấng chánh đẳng chánh giác. Vì hai ý nghĩa nầy bài kinh trở thành quan trọng trong các thời khoá cầu an.
Kinh Bồ Ðề Phần
Xuất xứ từ Abhiddhammasangaha (Vi Diệu Pháp Tập Yếu). Tựa kinh Phạn ngữ Bodhipakkhiyasangaha.
Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm trong các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Ðức Phật dạy rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị biệt về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu nền tảng chung của tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy là bản đồ tu Phật. Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng và cầu an.
Kinh Vô Úy
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Abhayaparittagāthā.
Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những âu lo, sợ hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi đó là chốn hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều bất tường. Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư Phật toàn giác, độc giác và thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành thanh thản, không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu an tiêu tai.
Kinh Quán Niệm
Xuất xứ từ Dhammapada và Sutta Nipātā. Tựa kinh dựa theo nội dung quán niệm.
Ðây là một sưu tập ngắn các Phật ngôn về ba pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã. Sự suy niệm về thực tướng của đời sống giúp khai thông những bế tắc do dính mắc, mê lầm tạo nên. Ba đoạn đầu nói lên sự có mặt cùng khắp của vô thường, khổ, vô ngã trong ba cõi; đoạn giữa dạy về sự chết và thái độ sáng suốt của người hiểu đạo; ba bài cuối nói về con đường giải thoát xuyên qua sự liễu ngộ thực trạng cuộc đời. Kinh nầy được tụng trong khoá lễ cầu siêu và nghi thức nhật hành.
Kinh Duyên Sinh
Xuất xứ từ Mahasaccakasutta, Trung Bộ Kinh I. M.I.237-251. Tựa kinh Phạn ngữ Paṭiccasamuppāda.
Nội dung là một trình bày cô đọng về mười hai duyên sinh. Ðề tài nầy vừa trình bày tiến trình phức tạp tạo thành sự hiện hữu của người, cõi, nghiệp vừa minh định cái nhìn của giáo lý Phật đà không nằm ở những biên kiến hữu, vô, thường, đoạn. Ðây là một trong những giáo lý thâm sâu nhất của Phật Pháp. Theo truyền thống thì bài kinh nầy có uy lực phá tan kiến chấp và được tụng trong khoá lễ cầu siêu.
Kinh Suy Niệm Về Nghiệp
Phật ngôn sưu tập trong Tạng Kinh (Sutta Pitaka)
Gồm những lời Phật dạy chỉ rõ về luật nhân quả và đời sống. Qua bài kinh nầy, giáo lý nghiệp báo không những được minh định trên nhiều phương diện mà còn là đề mục thiết thực để quán chiếu trong lời nói, hành động và tư tưởng hằng ngày. Với nội dung chân xác, kinh nầy có thể dùng trong tất cả khoá lễ nhằm mục đích soi sáng tâm ý, vun bồi phước hạnh.
Kinh Vạn Pháp Tổng Trì
Xuất xứ từ Bộ Pháp Tụ (Dhammasangini), Tạng Diệu Pháp.
Ðây là một trình bày hệ thống về bản thể vạn pháp. Mỗi tiêu đề (Mātikā) bao gồm trọn "biểu đồ pháp giới". Những chiết trung nầy được dùng để trình bày lý duyên hệ (paccayo) như những thành tố năng duyên và sở duyên. Theo sớ giải thì đây là bài kinh có thắng lực vượt thoát mê đồ vãng sinh lạc cảnh. Chính vì vậy Kinh Vạn Pháp Tổng Trì trở thành chánh kinh cho các khoá lễ cầu siêu bằng phạn ngữ.
Kinh Chúc Nguyện
Trích từ Kinh Tập (Sutta Nipāta), Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya)
Ðây là một bài kinh chú nguyện được dùng nhiều nhất. Mục đích là phát huy công đức và hướng nguyện. Ba hình ảnh được dùng làm biểu tướng cho sự gia trì là biển cả đón nhận nước của muôn sông rạch chảy vào; ánh trăng tròn toả chiếu đêm rằm; và ngọc như ý ma ni khiến mọi ước vọng thành tựu. Y cứ trên công đức đã làm và hướng nguyện theo Phật ngôn chúc phúc sẽ mang lại phước lành đầy đủ. Bài kinh được dùng trong tất cả khoá lễ.
Kinh Hồi Hướng Vong Linh
Trích Bộ Tiểu Tụng (Khuddakapāṭha), Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya), tựa kinh Phạn ngữ Tirokuḍḍasuttam.
Nội dung bài kinh là Phật ngôn được thuyết dạy trong một duyên sự cầu phước cho thân nhân quá vãng. Nhiều người sau khi qua đời sanh làm ngạ quỷ vì bất thiện nghiệp. Những hương linh nầy thường tìm đến nhà thân quyến mong đợi phước lành hồi hướng. Ðức Phật dạy về sự tạo phước hợp đạo và làm thế nào hồi hướng đúng cách. Kinh nầy được tụng trong lễ trai tăng và cầu siêu.
Kinh Ghi Ri Ma Nan Ða
Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttaranikāya), tựa kinh Phạn ngữ Girimānanda.
Bài kinh dạy về mười phép nội quán vô thường, vô ngã, bất tịnh, hệ lụy, đọan tận, ly dục, tịch tịnh, vô trước, yểm ly và hơi thở có công năng giúp hành giả thành tựu tuệ giác, khắc phục bệnh căn. Ðức Phật truyền dạy mười pháp môn nầy cho tôn giả Ghi Ri Ma Nan Ða khi vị nầy đang bị bệnh nặng. Nhờ nghe kinh tôn giả khỏi bệnh. Do duyên sự như vậy nên kinh nầy đặc biệt trì tụng trong các khoá lễ cầu tiêu tai thân bệnh.
Kinh Tứ Niệm Xứ
Trích từ Kinh Trung Bộ (Majjhimanikāya), tựa kinh Phạn ngữ Satipathanasutta
Ðây là bài kinh căn bản của thiền quán. Một trình bày toàn diện bốn lãnh vực quán chiếu từ sắc thân, cảm thọ, trạng thái của tâm và sự tương quan các pháp. Bài kinh cũng nêu rõ về phương pháp quán và những thành tựu do sự tu tập nầy mang lại. Trong tất cả pháp hành, tứ niệm xứ được đức Phật dạy là cốt tủy của thiền định. Sự thọ trì kinh nầy trên cả hai phương diện tụng niệm và thực hành được xem là ưu việt nhất trong tất cả pháp tu dưỡng. Bài kinh được tụng trong khoá lễ nhật hành và cầu an.
Kinh Lễ Bái Sáu Phương
Trích đoạn từ kinh Siṅgalovada, Trường Bộ Kinh (Dìghanikāya).
Bài kinh nầy đức Phật dạy cho gia chủ Singàla về nghi lễ trong đạo lý của thánh nhân. Vị gia chủ nầy lễ bái sáu phương theo tập tục. Ðức Phật dạy phép thờ phượng nằm ở sự quí kính và tôn trọng. Sự quí kính chánh đáng nhất là làm tốt bổn phận. Sáu phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới được hiểu như sáu cương vị quan hệ với một người trong cuộc sống. Ðó là quan hệ cha mẹ con cái, vợ chồng, thầy trò, bằng hữu, xuất gia tại gia, chủ tớ. Những tương quan nầy nếu được lưu tâm và làm tốt thì là cốt tủy của lễ nghi.
Ðức Phật đã nêu lên một cách chi tiết về những gì đáng làm trong đời sống người cư sĩ. Bài kinh được tụng trong các thời khoá nhật hành và đại chúng.
Kinh Sám Nguyện
Dựa theo tinh thần tu tập truyền thống.
Nội dung chính là sám hối mười bất thiện nghiệp từ thân khẩu ý và những khiếm khuyết trong hành xử hằng ngày. Những tâm sám nầy không phải chỉ phản tỉnh những gì thuộc quá khứ mà còn là những soi sáng mọi hành vi trong đời người.
Cũng trong nội dung kinh văn sám nguyện có cả một trình bày toàn diện thế nào là tinh thần giới luật của một cư sĩ Phật tử. Bài kinh nầy là bài tụng căn bản cho khoá lễ sám hối cũng có thể tụng trong nghi thức nhật hành.
Kinh Lễ Hồng Danh
Trích trong bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Xưng tán hồng danh của hai mươi tám vị Phật. Ðây là những bậc toàn giác đã thọ ký cho đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni trong giai đoạn sau cùng của quá trình tu tập ba la mật hạnh. Kính lễ các ngài là bày tỏ lòng qui ngưỡng đối với ân lành truyền đăng tục mệnh của chư Phật.
Nghi thức lễ bái nầy được trì tụng trong những duyên sự đặc biệt làm tăng trưởng lòng tịnh tín và nghị lực tu tập.
Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu và Kệ Sám Hối Phụ Mẫu
Dựa theo tinh thần kinh Sonadanta, Kinh Bổn Sanh (Jataka).
Là kệ tụng xưng tán ân đức cao dày của cha mẹ và lời sám hối về lỗi lầm của con cái. Ðức Phật dạy bất hiếu là trọng tội và hiếu hạnh là thắng hạnh. Sự tâm niệm về thâm ân cha mẹ trong các thời khoá tụng niệm là một cảnh tỉnh tâm linh. Qua đó thể hiện được tinh thần tri ân và báo ân của người tu tập.
Kệ Phật Sử
Y cứ theo Kinh Phật Bản Hạnh (Buddhacarita), Kinh Tiểu Bộ.
Nội dung tóm lược cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Ba thời kỳ được nêu rõ là thân thế và đời sống của thái tử Siddhattha, quãng đời trước khi thành đạo và những năm hoá đạo. Ðức Phật không những là hiện thân của những đức lành mà còn là một nhân vật lịch sử với vô vàn cao đẹp. Cuộc sống và lời dạy của Ngài không mảy may khác biệt. Bài kệ nầy được tụng trong các đại lễ và các khoá tu.
Kệ Chiêm Bái Xá Lợi
Dựa vào Biên Niên Sử của Bộ Tiểu Phẩm, Tạng Luật.
Xá lợi Phật là phần di cốt của đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni. Lịch sử Xá lợi gắn liền với lịch sử Ðạo Phật. Xá lợi và cây Bồ Ðề là những linh thể biểu tượng cho đức Phật được chính Ngài cho phép tứ chúng thờ tự. Bài kệ nầy ngoài ý nghĩa tôn kính còn nêu rõ những giai đoạn lịch sử và các sắc dạng xá lợi. Bài kệ được tụng trong những buổi lễ chiêm bái xá lợi Phật.
Kệ Ba Pháp Ấn
Một trình bày các thực tướng vô thường, khổ, vô ngã qua hiện thực đời sống. Với văn thể bình dị, bài kệ hướng dẫn sự quán chiếu đối với mọi biến đổi, phiền lụy của thân tâm. Kệ nầy được tụng trong các khoá tu học.
-ooOoo-
Phụ lục 4 - Nghi thức và Thờ phượng
I. Nghi Thức
Nghi thức các khoá lễ luôn luôn có 4 phần:
1. Tác bạch: Gồm cả phần niêm hương cúng Tam Bảo. Phần tác bạch như một lời trình về duyên sự của buổi lễ. Tiếp theo là bài thỉnh chư thiên. Ðây là khởi đầu của tất cả khoá lễ
2. Lễ Tam Bảo: Là phần xưng tán ba ngôi Tam Bảo. Tất cả các thời khoá đều có phần nầy dù đầy đủ hay giản lược.
3. Phần Kinh Văn: Gồm những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh thần của khoá lễ đã xướng trong lời tác bạch. Phần nầy có thể linh động. Vị chủ lễ có thể chọn những bài kinh thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và căn cơ của những người tham dự khoá lễ.
4. Phần hoàn kinh: Là phần sau cùng của mỗi khoá lễ với kinh Từ Bi Nguyện, Hồi hướng và Phục nguyện.
Chương I của quyển kinh nầy là các khoá lễ được sắp sẵn với thời lượng và kinh văn cố định thích hợp cho những khoá lễ đông người.
II. Thờ phượng
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Dưới đây là vài gợi ý.
Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng. Nên thường xuyên lau dọn bàn thờ. Những lễ phẩm cúng dường nên tinh khiết như nhang, đèn, hoa, trái.
Nên thiết lập bàn thờ ở nơi trang trọng. Ðộ cao của bàn thờ chừng ngang vai trở lên là thích hợp.
Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần.
Không nên xem thường yếu tố thẩm mỹ. Hình thức trang nhã tạo nên sự hoan hỷ của mọi người trong gia đình.
III. Tinh thần của nghi lễ
Có mười hạnh lành mang lại phước báu mà đức Phật gọi là Mười Phước Hạnh (puññakiriyāvatthu). Sự tụng niệm của người Phật tử dựa theo tinh thần của mười phước hạnh nầy.
Bố thí. Danh từ nầy cần được hiểu rộng theo kinh điển là bất cứ sự hy hiến nào dù là cho, tặng, cúng. Cúng dường hương đăng hoa quả cũng được kể trong hạnh lành nầy.
Trì giới. Giới là quyết tâm tránh những nghiệp bất thiện. Ngũ giới, bát quan trai giới là những luật nghi được Phật dạy cho người cư sĩ. Nên tụng giới trong các thời khoá. Nếu có chư Tăng thì xin thọ giới.
Thiền định. Có nhiều phương pháp thiền định nhưng nói chung hướng tâm đúng cách, đúng đối tượng là phương pháp chính. Niệm Phật, từ bi quán cũng là một trong những phép tập thiền. Trong tất cả các thời khoá tụng niệm đều có cả hai phần nầy.
Cung kính. Là giữ lòng kính quí đối với những giá trị cao thượng. Lòng cung kính nuôi đức khiêm cung, giảm lòng kiêu căng ngã chấp. Trong hình thức lễ bái lòng cung kính là điều tối cần.
Phục vụ. Là lòng vị tha vì lợi ích cho người khác. Ðối với người tu tập, tinh thần phục vụ là cách hữu hiệu giảm thiểu thái độ vị kỷ, tự cô lập. Trong các khoá lễ tụng niệm đều có ý nghĩa lợi tha qua các bài tác bạch cầu an, cầu siêu và kỳ nguyện.
Thuyết pháp. Là sự chuyển đạt những lời dạy có khả năng khai thị tri kiến. Hầu hết các kinh văn là Phật ngôn. Tụng kinh là thuyết pháp cho mình và cho bất cứ ai có duyên lành lắng nghe.
Thính Pháp. Là nghe, học lời Phật dạy. Nghe pháp là tạo cơ hội cho tâm trí được suy tư trong điều kiện khách quan. Tụng kinh có nghĩa là vừa thuyết pháp vừa thính pháp.
Hồi hướng phước. Là nguyện lành hồi hướng công đức đến tha nhân. Hồi hướng phước không phải chỉ tăng phần công đức mà còn thể hiện được tình cảm, bổn phận với người thân. Trong tất cả các buổi tụng niệm đều kết thúc bằng lời hồi hướng phước báu.
Tùy hỷ phước. Là cùng vui với phước hạnh của người khác. Niềm vui nầy biểu lộ lòng rộng rãi không ganh tỵ và cũng là thái độ quý trọng thiện pháp. Lời tùy hỷ "Sàdhu lành thay" được dùng rất phổ biến tại các quốc gia Phật giáo.
Huân tu chánh trí. Là làm thế nào cái nhìn được sáng suốt và chân chánh. Người tu tập nếu sống với tà kiến là làm hỏng tất cả công phu. Tụng kinh có cả hai tác dụng định tâm và khai thị.
Người có tín tâm chuyên trì tụng niệm lấy mười phước hạnh kể trên làm tinh thần nghi lễ thì không bao giờ sợ lầm lạc và càng hoan hỷ hơn với sự tu học của mình.
|
|
|
Post by tk on Oct 29, 2012 20:37:11 GMT -5
[ 02 ]
BÀI TỤNG CĂN BẢN
RATANATTAYAPŪJĀ = LỄ DÂNG CÚNG TAM BẢO
ratanattayapūjā = ratanattaya + pūjā: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "pūjā "), nữ tánh, nguyên thể.
ratanattaya = ratana-t-taya: nhóm từ (loại kammadhāraya), "t" là từ thêm vào để sự phát âm được dễ dàng = ba ngôi báu, Tam Bảo.
ratana: danh từ, trung tánh = ngọc quý, vật giá trị.
taya: số đếm, biến thể của "ti "= 3, số ba.
pūjā: danh từ, nữ tánh = sự cúng dường, sự tôn kính.
Nghĩa: Sự cúng dường đến ba ngôi Tam Bảo.
Imehi dīpadhūpādisakkārehi buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ abhipūjayāmi mātāpitādīnaṃ guṇavantānañca mayhañca dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.
Imehi: đại từ (được sử dụng như tính từ bổ nghĩa cho "dīpadhūpādisakkārehi" ), nam tánh, cách thứ 3 của "ima", số nhiều = những vật này (ở trong tầm tay).
dīpadhūpādisakkārehi = dīpa + dhūpa + ādi + sakkārehi: nhóm từ (loại dvanda, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "sakkāra"), nam tánh, cách thứ ba, số nhiều = với những vật trang trọng như là đèn, nhang, v.v...
dīpa: danh từ, nam tánh = đèn, đuốc, vật thắp sáng, ánh sáng.
dhūpa: danh từ, nam tánh = nhang thắp bàn thờ.
ādi: tính từ, bổ nghĩa cho "sakkāra" = bắt đầu với, như là: ... v.v...
sakkāra: danh từ, nam tánh = vật trang trọng, quý giá.
buddhaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "buddha", số ít = đức Phật.
dhammaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "dhamma", số ít = Giáo pháp.
saṅghaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "saṅgha", số ít = Tăng chúng.
abhipūjayāmi: động từ "abhipūjayati=abhi + pūj + aya + ti", nhóm 7 (curādigaṇa), tha động cách (attanopada), thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi thành kính cúng dường.
mātāpitādīnaṃ: nhóm từ (loại dvanda, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "ādi," bổ nghĩa cho "guṇavantānaṃ"), nam tánh, cách thứ sáu, số nhiều = của các bậc như là cha, mẹ, v.v…
mātāpitaro: danh từ, nam tánh, số nhiều, lúc kết hợp với từ khác trở thành "mātāpitu " ( + ādi = mātāpitādi ), "u " biến mất theo quy luật kết hợp hai nguyên âm (sara sandhi ) = cha mẹ.
mātu: danh từ, nữ tánh = mẹ
pitu: danh từ, nam tánh = cha
ādi: đã giải thích ở trên.
guṇavantānañca = guṇavantānaṃ + ca. Trường hợp này gọi là Phép kết hợp âm thanh (Sandhi, loại niggahita - ṃ).
guṇavantānaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ sáu của "guṇavantu", số nhiều = của các bậc có đức hạnh.
ca: giới từ, không đổi = và.
mayhañca: mayhaṃ + ca (Sandhi, loại niggahita - ṃ).
mayhaṃ: đại từ nhân xưng, cách thứ sáu của "amha", số ít = của tôi.
dīgharattaṃ = dīgha + rattaṃ: nhóm từ (loại abyayībhāva được dùng làm trạng từ), cách thứ hai, số ít = một cách lâu dài.
atthāya: danh từ, nam tánh, cách thứ tư của "attha", số ít = nhằm sự tiến bộ. hitāya: danh từ, trung tánh, cách thứ tư của "hita", số ít = nhằm sự lợi ích.
sukhāya: danh từ, trung tánh, cách thứ tư của "sukha", số ít = nhằm sự an vui.
Nghĩa: Tôi thành kính cúng dường Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo với những vật trang trọng như là đèn, nhang, v.v... nhằm sự tiến bộ, sự lợi ích, sự an vui một cách lâu dài của tôi và các bậc có đức hạnh như là cha, mẹ, v.v...
-ooOoo-
BUDDHARATANAPAṆĀMA = LỄ BÁI PHẬT BẢO
Buddharatanapaṇāma = Buddharatana + paṇāma: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "paṇāma."
Buddharatana = Buddha + ratana:: nhóm từ (loại kammadhāraya).
paṇāma: danh từ, trung tánh, nguyên thể = sự cúi chào, sự khom mình làm lễ, đảnh lễ.
Nghĩa: Sự khom mình làm lễ Phật bảo.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo: tán thán từ, không đổi = cung kính.
tassa: đại từ nhân xưng, cách thứ tư của "ta", số ít = đến vị ấy.
bhagavato: danh từ, nam tánh, cách thứ tư của "bhagavantu", số ít = đến đức Thế Tôn.
arahato: danh từ, nam tánh, cách thứ tư của "arahan", số ít = đến bậc A la hán.
sammāsambuddhassa = sammā + sambuddhassa: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "sambuddha"), nam tánh, cách thứ tư, số ít = đến dấng Chánh Biến Tri.
sammā: trạng từ, không đổi = một cách hoàn toàn, một cách chân chánh.
sam: tiếp đầu ngữ = tự bản thân, cùng với, hoàn toàn.
buddhassa: danh từ, nam tánh, cách thứ tư của "buddha", số ít = bậc đã giác ngộ, Phật bảo.
Nghĩa:
Cung kính đến Ngài là đức Thế Tôn, bậc A la hán, đấng Chánh Biến Tri! Cung kính đến Ngài là đức Thế Tôn, bậc A la hán, đấng Chánh Biến Tri Cung kính đến Ngài là đức Thế Tôn, bậc A la hán, đấng Chánh Biến Tri
Yo sannisinno varabodhimūle māraṃ sasenaṃ mahatiṃ vijeyyo sambodhimāgacchi anantañāṇo lokuttamo taṃ paṇamāmi buddhaṃ.
Yo: đại từ tương ứng (với từ "taṃ"ở hàng thứ nhì), nam tánh, cách thứ nhất của "ya," số ít = vị nào, người nào.
sannisinno: quá khứ phân từ thể thụ động (của động từ sannisīdati = saṃ + ni + sad + a + ti), được dùng như thể chủ động bổ nghĩa cho "yo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã ngồi.
varabodhimūle = vara + bodhi + mūle: nhóm từ (loại kammadhāraya – vara + bodhimūle và tappurisa – bodhi + mūle, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "mūle"), trung tánh, cách thứ bảy, số ít = nơi gốc cây (mūle) bồ đề (bodhi) quý báu (vara).
māraṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "māra," số ít = ma vương.
sasenaṃ = sa + senaṃ, nhóm từ (loại bahubbīhi, có nhiệm vụ như tính từ, bổ nghĩa cho "māra"; bởi vì "senā" tuy là nữ tánh vẫn trở thành nam tánh để phù hợp với "māra") nam tánh, cách thứ hai, số ít = cùng với quân binh.
mahatiṃ: tính từ (bổ nghĩa cho "senaṃ"), nữ tánh, cách thứ hai, số ít = lớn lao, vĩ đại.
vijeyyo: phát xuất từ "vijeyya" quá khứ bất biến của động từ "vijināti hoặc vijayati= vi + ji + a + ti," bổ nghĩa cho "yo," nam tánh, cách thứ hai, số ít = sau khi đã chiến thắng, đã khuất phục.
sambodhimāgacchi: sambodhiṃ + āgacchi do phép kết hợp âm thanh (Sandhi, loại niggahita - ṃ).
sambodhiṃ = saṃ + bodhi: danh từ, nữ tánh, cách thứ hai, số ít = sự giác ngộ hoàn toàn. (Sam: tiếp đầu ngữ = cùng với, hoàn toàn).
āgacchi = ā + gacchi: động từ "āgacchati=ā + gam + a + ti " (nhóm thứ nhất, thì quá khứ, ngôi thứ ba, số ít = đã đi đến, đã đạt đến, đã chứng ngộ.
anantañāṇo = ananta + ñāṇo nhóm từ (có bản chất là loại kammadhāraya nhưng làm nhiệm vụ của loại bahubbīhi, bởi vì "ñāṇo" tuy là trung tánh vẫn trở thành nam tánh, có nhiệm vụ như tính từ bổ nghĩa cho "yo"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = có trí tuệ (ñāṇo) vô biên (ananta).
ñāṇo: danh từ, trung tánh = trí tuệ
ananta = an + anta
an = na: phủ định từ = không, vô.
anta: danh từ, nam & trung tánh = điểm tận cùng, chót.
lokuttamo = loka + uttamo: tính từ (loại tappurisa, bổ nghĩa cho "yo"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = tối thượng (uttamo) trong thế gian (loka).
uttama = ud + tama: tính từ = cao nhất.
ud: tiếp đầu ngữ = phía trên, ở trên.
tama: so sánh bậc nhất.
loka: danh từ, nam tánh = vũ trụ, thế gian, đời, loài người.
taṃ: đại từ chỉ định (tương ứng với từ "yo" ở hàng thứ nhất, được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "buddhaṃ"), nam tánh, cách thứ hai, số ít = vị ấy.
paṇamāmi: động từ "paṇamati=pa + nam + a + ti," nhóm thứ nhất, thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi xin cúi chào, đảnh lễ.
buddhaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "buddha," số ít = Phật bảo.
Nghĩa: Vị Phật nào đã ngồi ở gốc cây bồ đề quí báu, sau khi chiến thắng ma vương cùng với đám quân binh lớn lao, đã đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, có trí tuệ vô biên, là bậc tối thượng trong thế gian; tôi xin đảnh lễ vị Phật ấy.
Ye ca buddhā atītā ca ye ca buddhā anāgatā paccuppannā ca ye buddhā ahaṃ vandāmi sabbadā.
Ye: đại từ tương ứng (với từ "te" được hiểu ngầm), nam tánh, cách thứ nhất của "ya", số nhiều = những vị nào, những người nào.
buddhā: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "buddha," số nhiều = các vị Phật, những bậc giác ngộ.
atītā: quá khứ phân từ thể thụ động của "ati-eti=ati + i + a + ti," bổ nghĩa cho "buddhā," cách thứ nhất, nam tánh, số nhiều = thời quá khứ, thời điểm đã qua.
anāgatā: quá khứ phân từ thể thụ động của "an + ā + gacchati (na + ā + gam + a + ti)", bổ nghĩa cho "buddhā," cách thứ nhất, nam tánh, số nhiều = thời vị lai, thời điểm chưa đến.
paccuppannā: quá khứ phân từ thể thụ động của "paṭi + uppajjati =paṭi + ud + pad + a + ti," bổ nghĩa cho "buddhā," cách thứ nhất, nam tánh, số nhiều = thời vị lai, thời điểm chưa đến.
ahaṃ: đại từ nhân xưng, cách thứ nhất của "amha," số ít = tôi, ngôi thứ nhất.
vandāmi: động từ "vandati=vand + a + ti," nhóm thứ nhất, thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi xin cúi chào, đảnh lễ (có nghĩa tương tợ như động từ paṇamati).
sabbadā = sabba + dā: trạng từ = vào mọi lúc, luôn luôn, hàng ngày.
Nghĩa: Tôi luôn luôn đảnh lễ các vị Phật thời quá khứ, các vị Phật thời vị lai, và các vị Phật thời hiện tại.
-ooOoo-
BUDDHAGUṆA - ÂN ÐỨC PHẬT
Buddhaguṇa = Buddha + guṇa: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "guṇa"), nam tánh, nguyên thể.
guṇa: danh từ, nam tánh = phẩm chất, đức hạnh.
Nghĩa: Phẩm hạnh thánh thiện của bậc đã giác ngộ.
Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Vijjācaraṇasampanno Sugato Lokavidū Anuttaro Purisadammasārathi Satthā devamanussānaṃ Buddho Bhagavāti.
Itipi = iti + api (sara sandhi do sự gặp nhau của 2 nguyên âm "i" và "a").
iti: trạng từ, không đổi, dùng để trích dẫn một lời nói = như vầy: "..."
api: liên từ, không đổi = cũng thế, cho dầu, ngay cả, chí đến.
so (cách thứ nhất của "ta"): đại từ nhân xưng được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "Bhagavā," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = vị ấy, người ấy.
Bhagavā: tính từ, nam tánh, cách thứ nhất của "bhagavantu," số ít = đáng kính trọng, có oai lực, thánh thiện. Trong trường hợp là danh hiệu của đức Phật thì trở thành danh từ = đức Thế-tôn.
Arahaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "arahant," số ít = người không còn ô nhiễm, bậc A la hán, bậc Ứng Cúng.
Sammāsambuddho = Sammā + sam + buddho: biến thể tính theo từ cuối "buddho,"danh từ, nam tánh, cách thứ nhất, số ít = vị đã giác ngộ hoàn toàn một cách chơn chánh, đấng Chánh Biến Tri. (Xem lại ở trên phần "Namo tassa ...").
Vijjācaraṇasampanno = Vijjācaraṇa + sampanno: nhóm từ (loại tappurisa, bổ nghĩa cho "so"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = Minh Hạnh Túc.
vijjācaraṇa = Vijjā + caraṇa: nhóm từ (loại dvanda).
vijjā: danh từ, nữ tánh = kiến thức, trí tuệ.
caraṇa: danh từ, trung tánh = đạo đức, tánh hạnh tốt.
sampanno: quá khứ phân từ thể thụ động của động từ "sampajjati = sam + pad + a + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "so," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = thành tựu một cách trọn vẹn.
Sugato = Su + gato: tính từ = đã ra đi một cách trọn vẹn, đã Niết-bàn, bậc Thiện Thệ.
su: tiếp đầu ngữ, bất biến = khéo, tốt, đẹp.
gato: quá khứ phân từ thể thụ động của động từ "gacchati = gam + a + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "so," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã ra đi.
Lokavidū = Loka + vidū: nhóm từ (loại tappurisa, bổ nghĩa cho "so"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = hiểu biết về thế gian, Thế Gian Giải.
loka: danh từ, nam tánh = thế gian, cuộc đời.
vidū: tính từ = khôn ngoan, hiểu biết, thiện nghệ.
Anuttaro = An + uttaro: tính từ, bổ nghĩa cho "so," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = không gì hơn được, Vô Thượng Sĩ.
an = na: phủ định từ = không.
uttaro = ud + taro = so sánh cấp hai của "ud," = ở trên, vượt trội.
Purisadammasārathi = Purisa + dammasārathi: nhóm từ (loại tappurisa), biến đổi theo từ cuối "sārathi," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = người lái xe có khả năng điều khiển, huấn luyện kẻ khác, Ðiều Ngự Trượng Phu.
purisa: danh từ, nam tánh = người nam, chúng sanh (nói chung).
dammasārathi = damma + sārathi: nhóm từ (loại kammadhāraya)
damma: quá khứ phân từ của tha động từ "dammeti = dam + aya(e) + ti," = đã làm kẻ khác được thuần hoá.
sārathi: danh từ, nam tánh: người điều khiển xe, xa phu.
Satthā: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "satthu," số ít = vị thầy.
devamanussānaṃ = deva + manussānaṃ: nhóm từ (loại dvanda), biến đổi tuỳ thuận vào từ cuối "manussānaṃ," danh từ, nam tánh, cách thứ sáu, số nhiều = chư thiên và loài người.
deva: danh từ, nam tánh = vị trời, thiên thần.
manussānaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ sáu của "manussa," số nhiều = loài người.
Satthā devamanussānaṃ = vị thầy của chư thiên và loài người, Thiên Nhơn Sư.
Buddho = danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "buddha," số ít = bậc đã giác ngộ, đức Phật.
Bhagavāti = Bhagavā + iti: đã giải thích ở phía trên.
Nghĩa: Thật vậy, bậc đáng kính trọng ấy là: "A la hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn."
-ooOoo-
BUDDHĀTTAPAṬIÑÑĀ - LỜI BỐ CÁO QUY Y PHẬT BẢO
Buddhāttapaṭiññā = buddha + attapaṭiññā: nhóm từ (loại tappurisa).
buddha: danh từ, nam tánh = Phật bảo, đức Phật, bậc đã giác ngộ.
attapaṭiññā = atta + paṭiññā: nhóm từ (loại tappurisa).
atta: từ chữ "attan"danh từ, nam tánh = cá nhân, bản ngã.
paṭiññā: danh từ, nữ tánh = lời hứa, lời thề, lời khẳng định.
Nghĩa: Lời khẳng định của cá nhân đối với Phật bảo.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ buddho me saranaṃ varaṃ etena saccavajjena hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi = na + atthi
na = bất biến từ, có ý nghĩa phủ định = không.
atthi = động từ bất qui tắc "asti," thì hiện tại, ngôi thứ ba, số ít = là, có.
me: đại từ nhân xưng, cách thứ sáu của "amha", số ít = của tôi, thuộc về tôi.
saraṇaṃ: danh từ, trung tánh, cách thứ nhất của "saraṇa", số ít = sự nương tựa, sự quy y.
aññaṃ: tính từ (bổ nghĩa cho "saraṇa"), trung tánh, cách thứ nhất, số ít = cái khác.
buddho: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "buddha", số ít = vị Phật, bậc giác ngộ.
varaṃ: tính từ (bổ nghĩa cho "saraṇa"), trung tánh, cách thứ nhất, số ít = quý báu.
etena: đại từ chỉ định (được dùng như tính từ, bổ nghĩa cho "saccavajjena") trung tánh, cách thứ ba, số ít = với cái này, bằng việc này.
saccavajjena = sacca + vajjena: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "vajja"), trung tánh, cách thứ ba, số ít = do việc nói lên sự thật, do lời chân thật.
sacca = danh từ, trung tánh = sự thật.
vajja = danh động từ ("vad" nói), trung tánh = sự nói lên.
hotu = động từ bất qui tắc "hoti," mệnh lệnh cách, ngôi thứ ba, số ít = hãy là, hãy có, mong là, xin được.
jayamaṅgalaṃ = jaya + maṅgalaṃ: nhóm từ (loại dvanda, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "maṅgalaṃ"), trung tánh, cách thứ nhất, số ít = sự thắng lợi và sự hạnh phúc.
jaya = danh từ, nam tánh = sự chiến thắng, sự khuất phục, sự chế ngự.
maṅgalaṃ = danh từ, trung tánh = sự may mắn, thuận lợi, hạnh phúc.
Nghĩa: Tôi không nương nhờ một nơi nào khác (= không có nơi nào khác là nơi nương nhờ của tôi), đức Phật là nơi nương nhờ cao quý của tôi. Do lời chân thật này, xin cho tôi được sự thắng lợi và sự hạnh phúc.
-ooOoo-
BUDDHAKHAMĀPANA= SÁM HỐI PHẬT BẢO
Buddhakhamāpana = buddha + khamāpana: nhóm từ (loại tappurisa," biến đổi tùy thuận theo từ cuối "khamāpana "), trung tánh, nguyên thể.
khamāpana: danh từ, trung tánh = sự xin tha thứ, sự cầu xin bỏ lỗi.
Nghĩa: Sự cầu xin đức Phật tha thứ lỗi lầm.
Uttamaṅgena vandehaṃ pādapaṃsuṃ varuttamaṃ buddhe yo khalito doso buddho khamatu taṃ mamaṃ.
Uttamaṅgena = Uttama + aṅgena: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "aṅgena "), trung tánh, số ít = với cái đầu (là bộ phận thân thể (aṅga) ở trên cùng (uttama)).
aṅga: danh từ, trung tánh = một bộ phận của cơ thể, chi phần.
vandehaṃ: vande + ahaṃ: tôi xin đảnh lễ, cúi đầu chào.
vande: động từ nhóm thứ nhất "vandati," thể tự động, thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi xin cúi chào, đảnh lễ.
ahaṃ: đại từ nhân xưng, cách thứ nhất của "amha", số ít = tôi.
pādapaṃsuṃ = pāda + paṃsuṃ: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "paṃsuṃ"), nam tánh, cách thứ hai, số ít = bụi bặm ở hai bàn chân.
pāda: danh từ, nam tánh = bàn chân
paṃsu: danh từ, nam tánh = bụi bặm, đất cát.
varuttamaṃ: vara + uttamaṃ: nhóm tính từ (loại dvanda, bổ nghĩa cho "pādapaṃsuṃ"), nam tánh, số ít = cao quý (vara) và tối thượng (ud + tamaṃ).
buddhe: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "buddha", số nhiều = đến các vị Phật, đến các bậc giác ngộ.
yo: đại từ tương ứng (với từ "taṃ" ở câu kế), cách thứ nhất của "ya", nam tánh, số ít = việc nào, điều gì.
khalito: quá khứ phân từ thể thụ động của động từ "khalati," biến đổi tùy thuận theo từ "doso," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = bị làm rơi, làm hỏng, xúc phạm.
doso: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "dosa," số ít = tội lỗi, điều xấu xa.
buddho: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "buddha," số ít = vị Phật, bậc giác ngộ.
khamatu: động từ nhóm thứ nhất "khamati," thể sai khiến (với nghĩa cầu xin, ước muốn), ngôi thứ ba, số ít = xin hãy tha thứ, xin bỏ lỗi.
taṃ: đại từ chỉ định (tương ứng với "yo doso"), nam tánh, cách thứ hai, số ít = việc ấy, điều ấy.
mamaṃ: đại từ nhân xưng, cách thứ sáu của "amha", số ít = của tôi, thuộc về tôi.
Nghĩa: Tôi xin đê đầu đảnh lễ bụi bặm cao quý và tối thượng ở hai bàn chân (của đức Phật). Tội lỗi nào của tôi đã xúc phạm đến chư Phật, xin đức Phật hãy tha thứ việc ấy.
-ooOoo-
DHAMMARATANAPAṆĀMA - LỄ BÁI PHÁP BẢO
Nghĩa: Sự khom mình làm lễ Pháp bảo. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
Atthaṅgikāriyapatho janānaṃ mokkhappavesāya ujū ca maggo dhammo ayaṃ santikaro paṇīto nīyyāniko taṃ paṇamāmi dhammaṃ.
Atthaṅgikāriyapatho = Atthaṅgika + ariyapatho: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "patho"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = Thánh Đạo tám ngành, đạo lộ của các bậc thánh gồm có tám chi phần.
Atthaṅgika = attha + aṅgika = nhóm từ (loại digu).
attha: tám (số đếm).
aṅgika = aṅga + ika: tính từ = gồm có các chi phần.
ariyapatho = ariya + patho: nhóm từ
Nếu chọn "ariya"là tính từ thì nhóm từ trên thuộc loại kammadhāraya = Thánh Đạo.
Nếu chọn "ariya" là danh từ nam tánh thì nhóm từ trên thuộc loại tappurisa = đạo lộ của các bậc thánh.
patho = danh từ, nam tánh, cách thứ nhất, số ít = con đường.
janānaṃ: danh từ nam tánh, cách thứ sáu, số nhiều = loài người, thế gian.
mokkhappavesāya = mokkha + (p) + pavesāya: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "pavesāya"), nam tánh, cách thứ tư, số ít = đưa đến lối vào sự giải thoát.
mokkha: danh từ, nam tánh = sự giải thoát, Niết-bàn.
pavesāya: danh từ nam tánh, cách thứ tư của "pavesa,", số ít = đưa đến lối vào.
ujū: tính từ (bổ nghĩa cho "maggo "), nam tánh, số ít = ngay, thẳng, chơn chánh.
ca: liên từ, không đổi = và.
maggo: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất, số ít = con đường.
dhammo: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất, số ít = Pháp bảo.
ayaṃ: đại từ (được sử dụng như tính từ bổ nghĩa cho "dhammo"), nam tánh, cách thứ nhất của "ima", số ít = vật này, cái này.
santikaro = santi + karo: nhóm từ (loại tappurisa biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "karo"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = tạo nên sự an tịnh, đưa đến Niết-bàn.
santi: danh từ, nữ tánh = sự an tịnh, sự bình lặng, Niết-bàn.
karo: tính từ, đi sau danh từ khác để tạo nên nhóm từ = tạo ra, đem lại.
paṇīto: tính từ bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, số ít = thánh thiện, tuyệt vời.
nīyyāniko: tính từ bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, số ít = có thể đưa ra khỏi.
taṃ: đại từ (được sử dụng như tính từ bổ nghĩa cho "dhammaṃ"), nam tánh, cách thứ hai của "ta ", số ít = vật ấy, cái ấy.
paṇamāmi: động từ "paṇamati=pa + nam + a + ti," nhóm thứ nhất, thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi xin cúi chào, đảnh lễ.
dhammaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "dhamma," số ít = giáo pháp.
Nghĩa: Pháp bảo này tức là Thánh Đạo tám ngành, là con đường chơn chánh, dẫn đến lối vào sự giải thoát cho chúng sanh, đem lại sự an tịnh, là pháp thánh thiện, có khả năng đưa ra khỏi (luân hồi). Tôi xin đảnh lễ giáo pháp ấy.
Ye ca dhammā atītā ca ye ca dhammā anāgatā paccuppannā ca ye dhammā ahaṃ vandāmi sabbadā.
Nghĩa: Tôi luôn luôn đảnh lễ các giáo-pháp thời quá khứ, các giáo-pháp thời vị lai, và các giáo-pháp thời hiện tại. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
-ooOoo-
DHAMMAGUṆA - ÂN ÐỨC PHÁP BẢO
Dhammaguṇa = Dhamma + guṇa: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "guṇa," nam tánh, nguyên thể
guṇa: danh từ, nam tánh = phẩm chất, đức hạnh.
Nghĩa: Phẩm chất tốt đẹp của giáo pháp.
Svākkhāto bhagavato dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti.
Svākkhāto = su (trở thành sva) + akkhāto = đã khéo được thuyết giảng.
su: tiếp đầu ngữ = khéo léo, tốt, đẹp.
akkhāto: quá khứ phân từ thể thụ động của động từ "akkhāti=ā + khyā + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã được thuyết giảng, đã được tuyên bố.
bhagavato: danh từ, nam tánh, cách thứ sáu của "bhagavantu," số ít = của đức Thế Tôn.
dhammo: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "dhamma," số ít = giáo pháp.
sandiṭṭhiko = san + diṭṭhiko: tính từ, bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = hoàn toàn hiển nhiên, được thấy rõ ràng.
san = sam: tiếp đầu ngữ = hoàn toàn.
diṭṭhiko = diṭṭha + iko: tính từ, nam tánh = rõ ràng, có thể thấy được.
akāliko = a + kāla + iko = tính từ, bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = không đợi thời gian, không bị chi phối bởi thời gian.
a: phủ định từ = không.
kāla: danh từ, nam tánh = thời gian.
ehipassiko = ehi + passa + iko: tính từ, bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = hãy đến và hãy thấy.
ehi: động từ "eti," mệnh lệnh cách, ngôi thứ hai, số ít = hãy đến.
passa: động từ "passati," mệnh lệnh cách, ngôi thứ hai, số ít = hãy thấy.
ika: tiếp vĩ ngữ, tín hiệu cho biết là tính từ.
opanayiko = opanayiko (phát xuất từ "upa (đến gần) + nayati (dẫn dắt)"): tính từ, bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = dẫn dắt về hướng (Niết-bàn).
paccattaṃ: trạng từ, không đổi = tự cá nhân, riêng rẽ.
veditabbo: tương lai phân từ thể thụ động của động từ "vidati = vid + a + ti," bổ nghĩa cho "dhammo," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = nên được hiểu biết.
viññūhīti = viññūhi + iti
viññūhi: tính từ, được dùng như danh từ, nam tánh, cách thứ ba, số nhiều = bởi các bậc trí tuệ.
iti: trạng từ, không đổi, dùng để trích dẫn một lời nói = như vầy: "..."
Nghĩa: "Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời gian, hãy đến và hãy thấy, có khả năng dẫn dắt về hướng (Niết-bàn), và nên được hiểu biết tự cá nhân bởi các bậc trí tuệ."
-ooOoo-
DHAMMĀTTAPAṬIÑÑĀ - LỜI BỐ CÁO QUY Y PHÁP BẢO
Nghĩa: Lời khẳng định của cá nhân đối với Pháp bảo. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ dhammo me saraṅaṃ varaṃ etena saccavajjena hotu me jayamaṅgalaṃ.
Nghĩa: Tôi không nương nhờ một nơi nào khác (= không có nơi nào khác là sự nương nhờ của tôi), Pháp bảo là nơi nương nhờ cao quý của tôi. Do lời chân thật này, xin cho tôi được sự thắng lợi và sự hạnh phúc. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
-ooOoo-
DHAMMAKHAMĀPANA - SÁM HỐI PHÁP BẢO
Nghĩa: Sự cầu xin đức Pháp tha thứ lỗi lầm. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
Uttamaṅgena vandehaṃ dhammañca duvidhaṃ varaṃ dhamme yo khalito doso dhammo khamatu taṃ mamaṃ.
dhammañca = dhammaṃ + ca: (Sandhi, loại niggahita - ṃ).
duvidhaṃ = du + vidhaṃ: nhóm từ (loại bahubbīhi, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "vidhaṃ"), nam tánh, cách thứ hai, số ít = có hai loại, có hai thứ.
du: (từ chữ "dve ") = hai (số đếm).
vidhaṃ: danh từ, nam tánh, số ít = loại, thứ.
varaṃ: tính từ bổ nghĩa cho "dhammaṃ" nam tánh, cách thứ hai, số ít = cao quý.
Nghĩa: Tôi xin đê đầu đảnh lễ đức Pháp cao quý và có hai loại (Pháp học và Pháp hành). Tội lỗi nào của tôi đã xúc phạm đến các Pháp, xin đức Pháp hãy tha thứ việc ấy. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
-ooOoo-
SAṄGHARATANAPAṆĀMA - LỄ BÁI TĂNG BẢO
Nghĩa: Sự khom mình làm lễ Tăng bảo. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
Saṅgho visuddho varadakkhiṇeyyo santindriyo sabbamalappahīno guṇehinekehi samiddhipatto anāsavo taṃ paṇamāmi saṅghaṃ.
Saṅgho: danh từ, nam tánh, cách thứ nhất của "saṅgha," số ít = Tăng chúng.
visuddho: quá khứ phân từ thể thụ động của "visujjhati = vi + sudh + a + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "saṅgho", nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã được thanh tịnh, đã được làm cho trong sạch.
varadakkhiṇeyyo = vara + dakkhiṇeyyo: nhóm từ (loại dvanda, bổ nghĩa cho "saṅgho"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = cao quý (vara) và đáng được cúng dường (dakkhiṇeyyo).
santindriyo = santa + indriyo: nhóm từ (có bản chất là loại kammadhāraya nhưng làm nhiệm vụ của loại bahubbīhi, có nhiệm vụ như tính từ bổ nghĩa cho "saṅgho," nam tánh, cách thứ nhất, số ít. (Danh từ trung tánh "indriya" được biến đổi như là danh từ nam tánh).
santa: quá khứ phân từ thể thụ động của "sammati = sam + (m) + a + ti," = đã được thanh tịnh, đã được trong sạch.
indriya: danh từ, trung tánh = giác quan, căn,quyền.
sabbamalappahīno = sabba + mala + (p) + pahīno: nhóm từ (loại kammadhāraya – sabba + mala và tappurisa – sabbamala + (p) + pahīno) = đã đoạn trừ tất cả điều ô nhiễm.
pahīno: quá khứ phân từ thể thụ động của "pajahati = pa + hā + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "saṅgho," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã được dứt bỏ, đã được trừ diệt.
sabba: đại từ (được sử dụng như tính từ bổ nghĩa cho "mala," trung tánh = tất cả, mọi thứ.
mala: danh từ, trung tánh = tội lỗi, điều ô nhiễm.
guṇehinekehi = guṇehi + na + ekehi: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "ekehi "), nam tánh, cách thứ ba, số nhiều = với vô số đức hạnh.
guṇehi: danh từ, nam tánh, cách thứ ba của "guṇa," số nhiều = với nhiều đức hạnh.
na + ekehi: (eka = một) = không phải một, nhiều, vô số.
samiddhipatto = sam + iddhi + patto: nhóm tính từ (loại tappurisa), bổ nghĩa cho "saṅgho," nam tánh, cách thứ ba, số ít = đã được thành đạt nhiều thần thông.
sam: tiếp đầu ngữ, bất biến = với, hoàn toàn.
iddhi: danh từ, nữ tánh = thần thông, quyền lực siêu nhiên.
patto: quá khứ phân từ thể thụ động của "pāpuṇāti = pa + āp + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "saṅgho," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã được chứng đạt, đã được thành tựu.
anāsavo = an + āsavo: nhóm từ (loại bahubbīhi), có nhiệm vụ như tính từ bổ nghĩa cho "saṅgho"), nam tánh, cách thứ nhất, số ít = không còn lậu hoặc, không còn phiền não.
taṃ: đại từ (được sử dụng như tính từ bổ nghĩa cho "saṅghaṃ"), nam tánh, cách thứ hai của "ta ", số ít = vật ấy, cái ấy.
paṇamāmi: động từ "paṇamati=pa + nam + a + ti," nhóm thứ nhất, thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi xin cúi chào, đảnh lễ.
saṅghaṃ: danh từ, nam tánh, cách thứ hai của "saṅgha," số ít = Tăng chúng.
Nghĩa: Tăng chúng đã được trong sạch, đã đoạn trừ tất cả điều ô nhiễm, có các giác quan đã được thanh tịnh, với vô số đức hạnh, đã thành đạt được nhiều thần thông, không còn phiền não, là bậc cao quý và đáng được cúng dường Tôi xin đảnh lễ Tăng chúng ấy.
Ye ca saṅghā atītā ca ye ca saṅghā anāgatā paccuppannā ca ye saṅghā ahaṃ vandāmi sabbadā.
Nghĩa: Tôi luôn luôn đảnh lễ chư Tăng thời quá khứ, chư Tăng thời vị lai, và chư Tăng thời hiện tại. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
-ooOoo-
SAṄGHAGUṆA - ÂN ÐỨC TĂNG BẢO
Saṅghaguṇa = Saṅgha + guṇa: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "guṇa," nam tánh, nguyên thể (dùng cho tiêu đề), số ít.
guṇa: danh từ, nam tánh = phẩm chất, đức hạnh.
Nghĩa: Phẩm hạnh thánh thiện của Tăng chúng.
Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho yadidaṃ cattāri purisayugāṇi atthapurisapuggalā esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaranīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.
Supaṭipanno = su + paṭipanno = đã khéo được huấn luyện
su: tiếp đầu ngữ = khéo léo, tốt, đẹp.
paṭipanno = paṭi + panno: quá khứ phân từ thể thụ động của động từ "paṭipajjati = paṭi + pad + a + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "sāvakasaṅgho," nam tánh, cách thứ nhất, số ít = đã được huấn luyện.
bhagavato: danh từ, nam tánh, cách thứ sáu của "bhagavantu", số ít = của đức Thế Tôn.
sāvakasaṅgho = sāvaka + saṅgho: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "saṅgho "), nam tánh, số ít = Tăng chúng đệ tử.
sāvaka = su(=sav) + aka = danh từ, nam tánh = người nghe, đệ tử.
saṅgho: danh từ, nam tánh = Tăng chúng.
ujupaṭipanno: uju + paṭipanno = đã được huấn luyện đúng đắn.
ñāyapaṭipanno: ñāya + paṭipanno = đã được huấn luyện có phương pháp.
ñāya: danh từ, nam tánh = phương pháp
sāmīcipaṭipanno = sāmīci + paṭipanno: đã được huấn luyện làm tròn nhiệm vụ.
sāmīci: danh từ, nữ tánh: nhiệm vụ, sự chính xác.
yadidaṃ = yad + idaṃ = điều trên (yad) có nghĩa là thế này (idaṃ).
yad và idaṃ: đại từ chỉ định, trung tánh, số ít.
cattāri: tính từ, bổ nghĩa cho "yugāṇi," trung tánh, số nhiều = bốn (số đếm).
purisayugāṇi = purisa + yugāṇi:: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "yugāṇi "), trung tánh, cách thứ nhất, số nhiều = (bốn) cặp hạng người.
purisa: danh từ, nam tánh = người nam, người (nói chung).
yugāṇi: danh từ, trung tánh = đôi, cặp, hai cái.
atthapurisapuggalā: attha + purisapuggalā: nhóm từ (loại digu là một thể đặc biệt với số đếm của kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "puggalā "), nam tánh, số nhiều = tám hạng người tính đơn.
attha: tính từ = tám (số đếm).
purisapuggalā = purisa + puggalā: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "puggalā "), nam tánh, số nhiều = (tám) hạng người tính đơn.
esa = eso: đại từ chỉ định được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "sāvakasaṅgho," nam tánh, số ít = nhóm người ấy, nhóm người đã nói ở trên.
bhagavato: danh từ, nam tánh, cách thứ sáu của "bhagavantu", số ít = của đức Thế Tôn.
sāvakasaṅgho = sāvaka + saṅgho: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "saṅgho "), nam tánh, số ít = Tăng chúng đệ tử.
āhuneyyo = ā + huneyyo: tương lai phân từ thể thụ động của động từ "ā + huti," được dùng như tính từ, bổ nghĩa cho "sāvakasaṅgho," nam tánh, số ít = đáng được cung kính.
pāhuneyyo = pā + huna + eyyo: tương lai phân từ thể thụ động của động từ "pā + huti," được dùng như tính từ, bổ nghĩa cho "sāvakasaṅgho," nam tánh, số ít = đáng được thân cận.
dakkhiṇeyyo = dakkhiṇa + eyyo: tính từ, bổ nghĩa cho "sāvakasaṅgho," nam tánh, số ít = đáng được cúng dường.
añjalikaranīyo = añjali + karanīyo: nhóm từ (loại tappurisa, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "karanīyo "), nam tánh, số ít = đáng được chắp tay, đáng được lễ bái.
añjali: danh từ, nam tánh = tư thế chắp tay đưa lên trán tỏ ý cung kính.
karanīyo: tương lai phân từ thể thụ động của động từ "karoti," được dùng như tính từ, bổ nghĩa cho "sāvakasaṅgho," nam tánh, số ít = đáng được làm.
anuttaraṃ: an + ud + taraṃ (đã giải thích ở trên) = tĩnh từ bổ nghĩa cho "puññakkhettaṃ," trung tánh, số ít = không gì hơn được, vô thượng.
puññakkhettaṃ = puñña + (k) + khettaṃ: nhóm từ (loại kammadhāraya, biến đổi tùy thuận theo từ cuối "khettaṃ"), trung tánh, cách thứ nhất, số ít = nơi để gieo nhân phước báu, phước điền.
puñña: danh từ, trung tánh = phước báu, điều thiện.
khettaṃ: danh từ, trung tánh = thửa ruộng.
lokassāti = lokassa + iti
lokassa: danh từ, nam tánh, cách thứ sáu của "loka," số ít = của thế gian.
iti: trạng từ, bất biến, thường dùng để trích dẫn một lời nói = như vầy: "..."
Nghĩa: "Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã khéo được huấn luyện. Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã được huấn luyện đúng đắn. Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã được huấn luyện có phương pháp. Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn đã được huấn luyện làm tròn nhiệm vụ. Điều trên có nghĩa là thế này: bốn cặp hạng người (bốn đôi Đạo Quả), tám hạng người tính đơn (bốn Đạo và bốn Quả là tám). Tăng chúng đệ tử ấy của đức Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được thân cận, đáng được cúng dường, đáng được lễ bái, là nơi để gieo nhân phước báu của thế gian không gì hơn được."
-ooOoo-
SAṄGHĀTTAPATIÑÑĀ - LỜI BỐ CÁO QUY Y TĂNG BẢO
Nghĩa: Lời khẳng định của cá nhân đối với Tăng bảo. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ saṅgho me saraṇaṃ varaṃ etena saccavajjena hotu me jayamaṅgalaṃ.
Nghĩa: Tôi không nương nhờ một nơi nào khác (= không có nơi nào khác là sự nương nhờ của tôi), Tăng bảo là nơi nương nhờ cao quý của tôi. Do lời chân thật này, xin cho tôi được sự thắng lợi và sự hạnh phúc. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
-ooOoo-
SAṄGHAKHAMĀPANA - SÁM HỐI TĂNG BẢO
Nghĩa: Sự cầu xin đức Tăng tha thứ lỗi lầm. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
Uttamaṅgena vandehaṃ saṅghañca duvidhottamaṃ saṅghe yo khalito doso saṅgho khamatu taṃ mamaṃ.
saṅghañca = saṅghaṃ + ca (Sandhi, loại niggahita - ṃ).
duvidhottamaṃ = duvidha + uttamaṃ: nhóm tính từ (loại tappurisa), bổ nghĩa cho "saṅghaṃ", nam tánh, cách thứ hai, số ít = hai hạng tối thượng.
du: (từ chữ "dve " = tính từ) = hai (số đếm).
vidha: danh từ, nam tánh = loại, thứ.
uttamaṃ = ud + tamaṃ: tĩnh từ so sánh hạng nhất = , trên hết, tối thượng.
Nghĩa: Tôi xin đê đầu đảnh lễ đức Tăng tối thượng gồm có hai hạng (Phàm Tăng và Thánh Tăng). Tội lỗi nào của tôi đã xúc phạm đến chư Tăng, xin đức Tăng hãy tha thứ việc ấy. (Xem giải thích ở phần Phật bảo).
-ooOoo-
LỄ BÁI XÁ LỢI
Vandāmi cetiyaṃ sabbaṃ sabbaṭṭhāne supatiṭṭhitaṃ sārīrikadhātu mahābodhiṃ buddharūpaṃ sakalaṃ sadā.
vandāmi: động từ "vandati, " nhóm thứ nhất, thì hiện tại, ngôi thứ nhất, số ít = tôi xin cúi chào, đảnh lễ (có nghĩa tương tợ như động từ paṇamati).
cetiyaṃ: danh từ, trung tánh, cách thứ hai của "cetiyaṃ," số ít = tháp thờ, bảo tháp.
sabbaṃ: đại từ (được sử dụng như tính từ bổ nghĩa cho "cetiyaṃ"), trung tánh, cách thứ hai của "sabba," số ít = tất cả, mọi thứ.
sabbaṭṭhāne = sabba + (ṭ) + ṭhāne: nhóm từ (loại kammadhāraya biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "ṭhāne," trung tánh, cách thứ hai, số nhiều = ở tất cả các địa điểm.
ṭhāne: danh từ, trung tánh, cách thứ hai của "ṭhāna," số nhiều = địa điểm, chổ, xứ.
supatiṭṭhitaṃ = su + pati + (ṭ) + ṭhitaṃ
su: tiếp đầu ngữ = tốt, đẹp, khéo léo.
pati + (ṭ) + ṭhitaṃ: quá khứ phân từ thể thụ động của "supatiṭṭhāti = pa + sthā + ti," được dùng như tính từ bổ nghĩa cho "cetiyaṃ," trung tánh, cách thứ nhất, số ít = đã được xây dựng, đã được lập nên.
sārīrikadhātu = sārīrika + dhātu: nhóm từ (loại kammadhāraya biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "dhātu") nam & nữ tánh, cách thứ hai, số ít = xá lợi.
sārīrika: tính từ, bổ nghĩa cho "dhātu" = thuộc về cơ thể (sarīra).
dhātu: danh từ, nam & nữ tánh = phần tinh chất, phần tử.
mahābodhiṃ = mahā + bodhiṃ: nhóm từ (loại kammadhāraya biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "bodhiṃ,") nam & nữ tánh, cách thứ hai, số ít = cây Bồ-đề cổ thụ.
mahā: tính từ (nguyên thể là "mahanta"), bổ nghĩa cho "bodhi."
buddharūpaṃ = buddha + rūpaṃ: nhóm từ (loại tappurisa biến đổi tuỳ thuận theo từ cuối "rūpaṃ," trung tánh, cách thứ hai, số ít = hình tượng của đức Phật.
sakalaṃ: tính từ, bổ nghĩa cho ba nhóm từ biến đổi theo cách thứ hai là: "sārīrikadhātu, mahābodhiṃ, buddharūpaṃ" = toàn bộ, toàn thể, tất cả.
sadā: trạng từ, không thay đổi = luôn luôn.
Nghĩa: Tôi luôn luôn đảnh lễ tất cả các bảo tháp, toàn bộ xá lợi, cây Bồ-đề cổ thụ, và hình tượng của đức Phật đã được xây dựng ở khắp các địa điểm.
-ooOoo-
|
|