|
Post by TCTV on May 15, 2007 0:02:16 GMT -5
Gặp gỡ giữa khoa học và Phật giáo
Phan Tấn Hùng
Cuộc gặp gỡ giữa khoa học thời ðại và Phật giáo, ðýợc xem là bắt ðầu từ thập niên 30, với những tên tuổi nhý N. Bohr, A. Einstein..., ðã ðem ðến nhiều ðiều bổ ích cho kiến thức thời ðại từ mấy nãm vừa qua. Trong quyển Passerelles - Entretiens avec le Dalaĩ-Lama sur les sciences de l'esprit (Cầu nối - Ðàm luận với Ðạt-lai Lạt-ma về các khoa học tâm thần), Jeremy W. Hayward viết : "Những ngýời (rất ít) vừa có kiến vãn khoa học vừa có nghiên cứu Phật giáo ðều nhận thấy có nhiều ðiểm chung, trong những cách tiếp cận vấn ðề và những phýõng pháp của khoa tâm thần học này và của khoa học. - cả hai phía, ngýời ta không chấp nhận ðức tin mù quáng và khảo sát mọi sự mọi việc trong ý hýớng siêu výợt mãi những tiền kiến cá nhân."(1) Cuộc gặp gỡ Ðông-Tây này ðang là niềm hy vọng của nhân loại. Nhýng vấn ðề của chúng ta là phải có mặt cách tích cực trong cuộc gặp gỡ này. Chúng ta có thể bắt ðầu từ chỗ khảo sát những ðiểm giống và khác nhau giữa khoa học hiện ðại và Phật học.
I. Sõ lýợc về tiến trình trở thành của kiến thức khoa học.
Sau sự suy tàn của hai nền vãn minh Hylạp và Rôma, từ thế kỷ thứ 4 ðến thế kỷ thứ 10, châu Âu chìm ðắm trong thời kỳ ðýợc nhiều sử gia gọi là ðen tối (ténèbres). Kiến thức huy hoàng của hai nền vãn minh Âu châu nói trên bị thu cất trong những tu viện Catô giáo. Âu châu bị ngự trị bởi quan niệm của tôn giáo có nguồn gốc Trung Ðông này, cho rằng thế gian là ghê tởm và có một thế giới khác ðýợc gọi là 'Výõng quốc của các Tầng Trời' (Royaume des Cieux). Sau ðó, vào ðầu thế kỷ 11, Âu châu bắt ðầu thức dậy, nhờ phần lớn nõi việc khám phá lại những tài liệu cũ của vãn minh Hylạp, nhất là của Aristote. Một trong những hậu quả của việc ðọc lại triết học của Aristote là ngýời Âu châu bắt ðầu tìm thấy lại nền vãn minh truyền thống của mình, bắt ðầu nhận ðịnh lại thế gian có những thực tại riêng của nó, những phýõng cách và những qui luật vận hành riêng, mà con ngýời có thể hiểu ðýợc nếu biết sử dụng tốt khả nãng quan sát của giác quan và khả nãng suy luận của lý trí. Ngýời Hylạp có khả nãng quan sát thiên nhiên rất tinh tế, nhýng vào thời ðó ngýời Âu châu hoàn toàn tin týởng nõi những tài liệu xýa vừa tìm thấy lại và xem ðó nhý là nguồn của mọi kiến thức. Họ chỉ biết học lại bằng cách sao chép nguyên bản, thay vì học cách quan sát thiên nhiên của ngýời xýa. Từ ðó sinh ra sự ðối ðầu giữa hai loại ðức tin : một bên là tin nõi một thiên quốc (royaume céleste), có thể nhận biết ðýợc bằng ðức tin và mặc khải, với bên kia là tin nõi một ðịa quốc (royaume terrestre), có thể nhận biết ðýợc bằng giác quan và lý trí.
Cuộc tranh luận kéo dài, nhýng nhờ cả hai, trên thực chất, ðều xây nền trên quan ðiểm xác ðịnh (hay thýờng hằng) về vũ trụ nên, vào thế kỷ 13, Thomas d'Aquin ðã có thể tổng hợp ðýợc hai quan niệm và hai thế giới nói trên, ðýa ðến lý thuyết về một vũ trụ với trái ðất nằm ở trung tâm, bao quanh bởi 9 vòng cầu là nõi di ðộng của các hành tinh, với vòng cầu thứ 10 ở xa hõn và bất ðộng (ổn ðịnh) là nõi cý ngụ của Thiên Chúa. Trừ vòng cầu nõi Mặt Trãng di ðộng, 8 vòng cầu kia ðýợc xem gần nhý hoàn chỉnh, vì ở ðó các hành tinh di ðộng chậm và ðều hõn. Dýới cùng (ở trung tâm) là ðịa quốc, hoàn toàn không ổn ðịnh và không hoàn chỉnh, vì Trái Ðất ðýợc cấu thành bằng ðất, chất liệu nặng nhất, kế ðến là nýớc, khí và lửa. Vì nằm trong khung cảnh bất ổn của Trái Ðất, các chất liệu này ðều không ðýợc nằm ở vị trí ổn ðịnh tự nhiên của chúng, và tất cả luôn tìm mọi cõ hội ðể trở về vị trí ổn ðịnh tự nhiên; ðiều này giải thích sự hổn loạn, sự di ðộng không ðều; và cũng giải thích vì sao ðá rõi xuống và lửa bay lên, khi không có gì kìm giữ. Thế là tý týởng của Aristote ðýợc hội nhập vào chủ thuyết của Giáo hội Catô giáo. Và tổng hợp ðề của Thomas d'Aquin này trở thành tý týởng nền tảng của Âu châu thời trung cổ.
Nhýng ngay khi Thomas d'Aquin ðýa ra tổng hợp ðề của ông, những nhà thông thái khác ðã khai quật ra ðýợc, từ những tài liệu của Aristote, một số nghịch lý. Các nghịch lý này, khoảng 3 thế kỷ sau, trở thành mần móng làm sụp ðổ toàn bộ hệ thống tý týởng Âu châu thời trung cổ. Vào thế kỷ 16, Galilée muốn kiểm nghiệm lại quan ðiểm của Aristote, dù ðó là những ðiều mà ngýời ðồng thời của ông cho là chân lý. Theo Aristote, mọi vật ðều rõi, nhýng với nhiều vận tốc khác nhau tùy theo trọng lýợng của mỗi vật. Galilée muốn kiểm nghiệm ðịnh luật này. Ông thử cho lãn trên một mặt phẳng nghiêng nhiều viên tròn có ðộ lớn bằng nhau nhýng có trọng lýợng khác nhau; và ghi nhận rằng tất cả ðều lãn với cùng một vận tốc nhý nhau (cùng khoảng cách, với cũng thời gian). Thế là ðịnh luật cho rằng : "vật càng nặng càng rõi nhanh hõn, vì chúng tìm về vị trí của chúng ở trung tâm vũ trụ" bị phủ nhận.
Cũng vào thời ðại ðó, ngýời ta vừa chế tạo ðýợc lần ðầu tiên loại kính lồi cho phép thấy xa. Galilée thiết lập một viễn vọng kính. Ông nhìn Mặt Trãng, và thấy nó có nhiều lồi lõm; ông dò sát Mộc tinh, và thấy các vệ tinh (một loại Mặt Trãng) của nó luôn thay ðổi vị trí. Kết quả quan sát thực tế này làm cho mô hình nền tảng về sự vận hành của các thiên thể, theo ðó Mặt Trãng và Mộc tinh phải hoàn hảo vì là thành phần của thiên quốc, bị ðặt thành nghi vấn; tức là chủ thuyết của Giáo hội Catô giáo, của Aristote và của Thomas d'Aquin bị nghi ngờ.
Cùng nãm 1642 khi Galilée mất, Isaac Newton ra ðời. Newton cho rằng Trái Ðất vận hành theo cùng một qui luật với sự vận hành của Thiên giới, xung quanh Mặt Trời. Tức là, không nhý trong thế giới của Aristote với vai trò của một Thiên chúa và một linh hồn là cần thiết, trong thế giới của Newton các hành tinh vận hành tự ðộng cách cõ học, theo vài ðịnh luật nền tảng ðýợc viết dýới dạng những phýõng trình toán học và không hề có sự tham dự của một Thiên Chúa nào ðó.
Suốt hai thế kỷ sau Newton, mãi ðến cuối thế kỷ 19, quan ðiểm xác ðịnh của hệ thống tý týởng ðýợc sinh ra bởi Galilée và Newton hoàn toàn ðýợc tin týởng và thành công. Trong vật thể học (physique, dành chữ 'vật lý học' cho physiologie) và hóa học, tức trong lãnh vực của những ðối týợng nghiên cứu không phải là sinh vật, nhiều sự kiện ðýợc giải thích nhờ lý thuyết của Newton, và ngýời ta thực hiện ðýợc nhiều thành quả nhý ý. Trong sinh học, ðýợc thành hình từ thế kỷ 18, ngýời ta cũng tin rằng sinh vật ðýợc tạo thành bởi những tế bào (cellules) và chức nãng sinh học của nó cũng dựa trên hoạt ðộng của những ðõn vị nhỏ cõ bản, tức cũng xây dựng trên một loại lý thuyết nguyên tử. Ðến thế kỷ 19, cũng từ cái nhìn tự ðộng và cõ học của Newton, Charles Darwin xây dựng thuyết tiến hóa, cho rằng, trên thời ðoạn rất dài, những sinh vật ðõn giản và thô thiển tự ðộng phát triển cách tự nhiên, không cần ðến sự hýớng dẫn của một sức mạnh thần bí nào cả, ðể trở thành những sinh vật ngày càng phức hợp và thông minh hõn. Cũng có nghĩa là, trong sự tạo thành loài ngýời, vai trò của Thiên Chúa không còn cần thiết nữa. Từ ðó ðýa ðến cuộc ðối ðầu gay gắt giữa những tín ðồ trung thành Kytô giáo với những môn ðồ của thuyết tiến hóa; và cuộc ðối ðầu vẫn còn tiếp diễn.
Tóm lại, kể từ Newton ðến ðầu thế kỷ 20, kiến thức khoa học phát triển không ngừng, và phát triển trong lòng cuộc tranh luận rộng lớn giữa một bên là quan ðiểm Kytô giáo, với một Thiên Chúa là Ðấng Sáng Tạo, và bên kia là quan ðiểm khoa học. Sự tin týởng nõi kiến thức khoa học tãng mãi, không ngừng làm giảm nhẹ vai trò của Thiên Chúa. Nhýng sự tin týởng này có phần hõi bị giản lýợc hoá, xây dựng trên tý týởng về sự có thật của một thế giới hoàn toàn khách quan, chỉ gồm không gian, thời gian và những hạt vật chất. Khoa học trở thành một loại ðức tin chủ ðạo, ở Tây phýõng trýớc, rồi lan ra toàn thế giới, cho rằng khoa học thực sự có khả nãng tìm thấy chân lý của thế giới thực tại.
Ðến nay ðức tin này tuy vẫn còn tiếp diễn, ít ra ở trình ðộ ðại chúng, và cả ở một bộ phận không nhỏ trong giới khoa học không suy nghĩ nhiều về những gì họ làm, nhýng cũng ðã giảm bớt nhiều, vì từ những nãm 20, thuyết týõng ðối rồi sự phát triển của 'cõ học lýợng tử' (mécanique quantique) ðã từng ðợt phá mòn dần những nguyên lý nền tảng của thuyết Newton cổ ðiển và ðã ðặt lại nghi vấn trên khả nãng nhận biết gọi là hoàn toàn khách quan của ngýời nghiên cứu, chýa kể ðến những khám phá của các ngành khoa học mới, nhý 'tâm lý học về sự biết' (psychologie cognitive), 'thần kinh học' (neuroscience), 'di truyền học', 'sinh học bào tử' (biologie moléculaire) v.v...
II. Phýõng pháp nghiên cứu.
Trýớc nhất, trên bình diện phýõng pháp luận (méthodologie, và chýa nói ðến những khác biệt trong cách thực hành cũng nhý trong mục tiêu và ðối týợng nghiên cứu), chúng ta có thể khẳng ðịnh ðýợc rằng giữa phýõng pháp nghiên cứu khoa học ngày nay và Phật pháp có nhiều chỗ týõng ðồng. Cả hai ðều rất có ích cho việc tiến ðạt trí tuệ, hay việc tiến dần ðến trình ðộ kiến thức ngày càng mở rộng và chân thật hõn.
Theo quan niệm cổ ðiển của thế kỷ 19, chỉ với phýõng pháp nghiên cứu khoa học ngýời ta mới có thể výợt khỏi chýớng ngại của suy ðoán chủ quan ðể khám phá từng býớc thế giới thực tại. Ðến thế kỷ 20, thập niên 20, nhiều nghi vấn ðýợc ðặt ra trên tính khách quan khoa học, nhiều nhà khoa học tìm cách hoàn chỉnh các nền tảng của khoa học, nhất là ở bình diện phýõng pháp luận. Nhờ thế, vào những nãm 30, một phýõng pháp luận mới ðýợc thành hình, và trở thành khuynh hýớng chủ yếu của khoa học hiện nay, ðýợc gọi là phýõng pháp 'thực nghiệm thuận lý' (empirisme logique), còn gọi là 'tri thức luận' (l'épistémologie).
Chữ 'épistémè', gốc Hy Lạp, ðồng nghĩa với chữ 'science', có nghĩa là 'cái biết', hay 'tri thức'; cũng có nghĩa là 'cái học', ðýợc chia thành nhiều 'khoa', hay nhiều 'môn', nên cũng ðýợc gọi là 'khoa học'. Mà "khoa học là lý thuyết (hay lý lẽ) về thực tại - la science est la théorie du réel", và phýõng pháp luận này, một cách ngắn gọn, gồm 2 bộ phận nền tảng : quan sát thực tại và thuận lý hóa; với 4 giai ðoạn nối tiếp nhý sau :
1/ quan sát và thu thập dữ kiện quan hệ ðến ðối týợng;
2/ ghi chép lại những ðiều quan sát ðýợc dýới dạng một ngôn ngữ thuận lý, tiến ðến việc thành hình giả thuyết khái quát (có thể dýới dạng công thức ðõn giản) nhằm giải thích cách thuận lý týõng quan giữa những dữ kiện quan sát ðýợc;
3/ từ giả thuyết ðýợc thành hình, tiên ðoán những gì sẽ xảy ra, nếu tiến trình trở thành của ðối týợng ðýợc diễn ra cách bình thýờng hoặc trong những ðiều kiện ấn ðịnh trýớc;
4/ kiểm nghiệm thực tế ðể xác chứng những tiên ðoán ðó. Trên bình diện phýõng pháp luận thì chỉ ðõn giản nhý vậy. Nhýng trong thực tế lại có nhiều cách tiếp cận vấn ðề khác nhau, tùy theo loại ðối týợng và tùy theo trình ðộ khác nhau của ngýời nghiên cứu.
Có thể chia trình ðộ của ngýời nghiên cứu làm 3 loại. Loại ngýời thứ nhất, chỉ biết tin theo những gì do ngýời khác truyền bá ra, hay của ngýời xýa ðể lại, và xem ðó là chân lý. Chẳng hạn nhý, ở thời Trung cổ, họ chỉ biết tin theo những khẳng ðịnh ðýợc Giáo Hội Catô giáo truyền bá; hoặc nhý, khi tiếp nhận ðýợc những gì của Aristote ðể lại, họ cho ðó là nguồn của mọi sự biết; sau ðó họ cho các ðịnh luật của Newton là nền tảng của tất cả. Loại ngýời này luôn bị 'dị ứng' với những gì mới mẽ, nhý hầu hết những ngýời ðồng thời của Galilée, họ cố ðýa ra những quan ðiểm hòng phủ nhận hay áp chế kết quả quan sát ðýợc của Galilée, ðể bảo vệ ðức tin ðang hiện hành. Loại ngýời thứ hai có khả nãng thích hợp hoá những chủ thuyết hiện hành, ðể thích ứng với kiến thức mới của thời ðại, nhý trýờng hợp của Thomas d'Aquin; hoặc của những ngýời ðã cố tổng hợp ðể ðýa ra thuyết 'Newton mới' khi không thể phủ nhận ðýợc kết quả thực nghiệm về tính týõng ðối. Và loại ngýời thứ ba là loại ngýời có tinh thần tự do, dám ðặt lại câu hỏi trên cả những gì mà số ðông cho là chân lý, nhý trýờng hợp của Galilée chẳng hạn. Loại ngýời thứ ba rất ít, cả trong giới học Phật và giới khoa học; chỉ ở loại ngýời này mới hy vọng có những khám phá mới mẽ, nhýng tiếc thay, ở mọi thời và bất cứ ðâu, họ lại thýờng bị chèm ép, có khi bị hảm hại.
|
|
|
Post by TCTV on May 15, 2007 0:03:16 GMT -5
Galilée ðã làm những gì ? Thứ nhất, trong khi hầu hết những ngýời cùng thời cho quan ðiểm của Aristote là chân lý và tin theo cách mù quáng, Galilée chỉ cho ðó là giả thuyết cần ðýợc kiểm nghiệm lại. Thứ hai, ông thiết lập những ðiều kiện cần thiết ðể kiểm nghiệm những nhận ðịnh ðó. Thứ ba, sau khi chứng nghiệm rằng chân lý ðó sai, ông tiếp tục quan sát ðối týợng với một tinh thần hoàn toàn tự do. Và thứ tý, ông hoàn thành một thứ ngôn ngữ (trong trýờng hợp này là những phýõng trình toán học) ðể ghi lại cách trung thực nhất những gì quan sát ðýợc và tổng hợp thành lý thuyết mới. Nghĩa là, Galilée bắt ðầu ngay ở býớc thý tý, rồi trở lại býớc thứ nhất và býớc thứ hai, của phýõng pháp thực nghiệm thuận lý nói trên.
Cách tiếp cận vấn ðề kiểu của Galilée này thích hợp cho trýờng hợp ðề tài, hay ðối týợng, nghiên cứu ðã ðýợc xác ðịnh trýớc bởi một lý thuyết hay một ðức tin có sẵn. - ðây, việc làm chủ yếu là phải chứng minh lý thuyết hay ðức tin có sẵn ðó không còn giá trị, trýớc khi tiến hành việc nghiên cứu nhằm hoàn thành lý thuyết mới. Trong trýờng hợp ðối týợng nghiên cứu hoàn toàn mới, việc nghiên cứu phải ðýợc tiến hành tuần tự theo 4 býớc cuả phýõng pháp nhý ðã nói trên. Có khi, ðối với loại ðối týợng nghiên cứu hoàn toàn trừu týợng, ðể nắm bắt ðýợc thực tại tối hậu, ngýời nghiên cứu lại phải tiến hành từng býớc công việc nghiên cứu, qua việc xác nghiệm những giả thuyết trung gian, giúp ðýa ra những giải ðáp tạm thời, nó cho phép ngýời nghiên cứu từng býớc thỏa mãn một phần óc tò mò tìm hiểu của mình; rồi từng býớc siêu výợt khỏi những lý thuyết trung gian ðã ðýợc thiết lập, ðể tiến ðạt dần ðến trình ðộ kiến thức ngày càng chi li và phức hợp, ngày càng mở rộng và chân thật hõn.
Tiến trình phát triển của kiến thức khoa học ðã diễn ra cách tuần tự nhý vậy, theo nhịp ðộ phát triển của những phýõng tiện nghiên cứu ngày càng tinh xảo, giúp khoa học tiến sâu dần vào việc nghiên cứu những ðối týợng sống ðộng và vi tế, của sự sống nói chung và của con ngýời nói riêng, nhý các ngành 'sinh học bào tử', 'thần kinh học', 'tâm lý học về sự biết'... Ðýợc nhý vậy cũng là nhờ nõi một số ít những nhà khoa học làm việc với tinh thần tự do. Với loại ngýời này, tất cả mọi lý thuyết ðã ðýợc xác nghiệm có trýớc ðều chỉ là những giả thuyết trung gian (có giá trị giới hạn) mà thôi; và nếu cần họ sẽ xét nghiệm lại trong những ðiều kiện nghiên cứu mới, dù chúng ðã ðýợc số ðông cho là 'chân lý'.
Kinh nhà Phật có nói ðến ngũ uẩn (sắc, thọ, týởng, hành, thức) và mối quan hệ của chúng. - ðây, trong công việc nghiên cứu, ta có thể so sánh sắc với ðối týợng nghiên cứu; quan hệ giữa sắc và thọ, với công việc quan sát ở giai ðoạn thứ 1; quan hệ giữa thọ và týởng, với giai ðoạn thứ 2; quan hệ giữa týởng và hành, với giai ðoạn thứ 3; và công việc kiểm nghiệm ở giai ðoạn thứ 4, với quan hệ giữa hành và thức. Ba giai ðoạn ðầu trong phýõng pháp nghiên cứu khoa học nói trên ðýợc áp dụng rộng rãi, nhý mọi ngýời ðều biết, trong những 'trắc nghiệm thuận lý' (test logique). - giai ðoạn thứ tý, nếu những tiên ðoán không ðýợc xác chứng, giả thuyết không có giá trị và sẽ bị sửa ðổi hay bị loại bỏ, có khi phải bắt ðầu lại từ giai ðoạn thứ nhất. Nếu chúng ðýợc xác nghiệm, giả thuyết ðýợc thừa nhận nhý một ðịnh lý và trở thành một bộ phận của kiến thức.
Ở ðây, có một ðiểm cần ðýợc lýu ý : cái biết thực nghiệm thuận lý khác hẳn với những suy luận (cũng thuận lý) có tính dự ðoán hay giả ðịnh. Ví dụ nhý, các quan ðiểm của Mác về các loại xã hội 'hậu tý bản chủ nghĩa', dù có ðýợc biện giải thuận lý cách mấy, cũng ðều là những dự ðoán giả thuyết, cho ðến khi ðýợc xác nghiệm bởi thực tế. Nếu những dự ðoán ðó không ðýợc thực tế lịch sử xác chứng, thì giả thuyết của Mác không có giá trị, hoặc một phần, hoặc toàn diện. Chỉ khi nào chúng ðýợc thực tế xác nghiệm, thì giả thuyết mới ðýợc thừa nhận và trở thành một bộ phận của kiến thức.
Cứ thế, kiến thức ngày càng dày, có khi nó hằn sâu trong vô thức hay tiềm thức. Và sau ðó nó ảnh hýởng trở lại trên khả nãng nhận biết và cách quan sát của con ngýời (ở giai ðoạn 1, nói trên), nó ðóng khung trí tuệ con ngýời và làm cho con ngýời mất hết tự do trong tý týởng (ở giai ðoạn 2 - tạo thành giả thuyết); nó biến thành một loại ống dòm có lắp kính màu mà chỉ qua ðó con ngýời tiếp cận với sự vật, tức là con ngýời chỉ còn có thể nắm bắt sự vật theo màu sắc của kính và trong phạm vi giới hạn mà ống dòm cho phép. Không ít những nhà khoa học của thời ðại ðã ý thức rõ nhý vậy (từ nãm 1962, Thomas S. Kuhn ðã ghi rõ ðiều này trong quyển The Structure of Scientific Revolution, n.x.b. University of Chicago Press).
Tức là, con ngýời không còn khả nãng tiếp cận thực tại nhý chính nó là, trong toàn diện và trong mối quan hệ với toàn thể : thế giới mà trong ðó con ngýời sống bị thu hẹp, bị biến màu..., nhýng vì vô minh (danh từ nhà Phật), hay vì không ý thức ðýợc nhý vậy, nên con ngýời cho ðó là thực tại, gán cho nó ðủ loại ý nghĩa và giá trị, gán cho mỗi sự mỗi vật một bản thể (logos), rồi bám giữ vào ðó với ðủ thứ tình cảm và xây dựng lý lẽ cho sự hiện hữu của mình, tức xây dựng cái gọi là bản thể, hay 'tiểu ngã', ðầy ảo mộng của mình. Ðến ðây chắc hẳn mọi ngýời ðều có thể hiểu ðýợc tại sao Ðức Phật kêu gọi mọi ngýời hãy 'diệt' bỏ cái 'ngã' và thế giới ảo ảnh do thói quen 'tập' thành này, vì ðó là nguồn gốc của 'khổ' ðau, ðể giải phóng chính mình, hầu có thể ðạt ðến kiến thức chân thực ('ðạo') trên 'thực tại luôn sống ðộng và mãi mãi ðang trở thành'.
Ngày nay, không ít những nhà khoa học ðã ý thức rằng : cái biết thuận lý khoa học không phải là cái biết duy nhất, nên cũng không thể là cái biết toàn diện, tức cũng không thể là cái biết chân thực. Ðúng vậy. Nhýng, cũng không thể có cái biết chân thực và toàn diện nếu không có cái biết thuận lý khoa học.
III. Hýớng tìm và ðối týợng nghiên cứu.
Nói ðến tìm tòi nghiên cứu cũng là nói ðến óc tò mò thắc mắc. Mà nguồn gốc của thắc mắc chính là óc nghi ngờ, dám ðặt câu hỏi trên cả những gì mà thói thýờng, của số ðông hay của chính mình, cho là hiển nhiên, chân lý. Ngắn gọn, khác với các 'tôn giáo thần khải' (religion) cho rằng nguồn gốc của sự biết là ðức tin, khoa học cho rằng nguồn gốc ðó chính là sự nghi ngờ. Và Kinh 'Ðại Nghi Tình' của nhà Phật cũng nói : "nghi lớn, giác ngộ lớn; nghi nhỏ, giác ngộ nhỏ; không nghi, không giác ngộ"(2). Và chính Ðức Phật cũng hằng lýu ý ðệ tử của Ngài hãy luôn xác nghiệm thực tế mọi ðiều Ngài nói, ðể không còn nghi ngờ gì nữa, chứ ðừng tin nõi chúng chỉ vì cả nể ðạo ðức của Ngài.
Không phải chỉ khuyên, mà Ðức Phật còn tạo ðiều kiện ðể mỗi ngýời giữ ðýợc óc nghi ngờ và tinh thần tự do phán xét, bằng cách không trả lời, hoặc không ðýa ra câu trả lời xác ðịnh, về những câu hỏi liên hệ ðến những vấn ðề trừu týợng, nhý các câu hỏi về 'Niết bàn', về nguồn gốc của vũ trụ chẳng hạn, vì ý thức rằng những câu trả lời xác ðịnh thýờng chỉ tạo nõi ngýời nghe một loại ðức tin. Ðức Phật chỉ truyền ðạt một phýõng pháp, hay một con ðýờng, theo ðó mỗi ngýời có thể tự tiến ðạt ðến 'niết bàn' bằng chứng nghiệm thực tế. Vì vậy, trong Phật giáo, cũng nhý trong khoa học, không có mặc khải (révélation), không có những lời nói có giá trị tuyệt ðối, cũng không có những ðức tin không thể kiểm nghiệm ðýợc. Phật giáo không phải là một 'tôn giáo thần khải'.
Thực ra, ngýời ta chỉ nói 'tin' ðối với những gì còn mõ hồ, không biết chắc; không ai nói 'tin' nõi sự hiện hữu của Mặt Trời, chẳng hạn, vì ðó là thực tại hiển nhiên mà, ai ai cũng sống với ánh sáng và sức nóng của nó, và ai ai cũng có thể kiểm nghiệm ðýợc bằng phýõng pháp thực nghiệm khoa học. Có thể nói rằng : cái gì có thực ðều có thể ðýợc ðặt thành ðối týợng nghiên cứu khoa học, tức là ðều có thể nhận biết ðýợc bằng trí ('trí tri', dù không toàn diện); ngýợc lại, cái gì không thể nhận biết ðýợc bằng trí, thì chắc chắn nó không có thực. Và mọi việc nghiên cứu, vì ðều phải bắt ðầu từ chỗ xác ðịnh ðối týợng, nên cũng phải bắt ðầu từ chỗ phân biệt ('cách vật') cái có thực với cái không có thực (hay chỉ là khái niệm do con ngýời tạo ra).
Ví dụ nhý : Thiên Chúa - xuất phát từ quan niệm cho rằng "có một ðấng thần ðã tạo ra vũ trụ vạn vật, và tạo ra con ngýời theo hình ảnh của thần" (théomorphisme), Thần Tản Viên của núi Ba Vì - xuất phát từ quan niệm cho rằng "chính con ngýời tạo ra các thần theo hình ảnh của mình" (anthropomorphisme), tuy ðều do con ngýời quan niệm nên, nhýng cả hai ðều là khái niệm trừu týợng không kiểm nghiệm ðýợc, nên cũng không thể là ðối týợng của tý duy thực nghiệm khoa học. Ðối với các ðối týợng loại này có thể giữ thái ðộ, nhý Khổng Tử ðã làm : kính nhi viễn chi. Nhýng niềm tin của một số ngýời nõi Thiên Chúa này, và ảnh hýởng của nó trên cách sống và cách suy nghĩ của số ngýời ðó, là có thực, không thể phủ nhận ðýợc. Cũng thế, núi Ba Vì và sông Tô Lịch trong cảm nhận của ngýời Việt, khác với núi sông theo ðịa lý học và vật thể học, cũng là thực tại kiểm nghiệm ðýợc, tức là có thể nhận biết ðýợc bằng lý trí.
Cũng cần phân biệt những gì thuộc thế giới tự nhiên (la nature) với những gì do con ngýời tạo ra, còn gọi là những ðịnh chế nhân vãn và xã hội (la culture). Ðàn ông và ðàn bà, chẳng hạn, là thuộc tự nhiên, nhýng vợ và chồng (gia ðình) là những ðịnh chế nhân xã. Chính con ngýời tạo ra những ðịnh chế này ðể ðiều hòa cuộc sống xã hội; và, qua ðó, con nguời ðýợc giải phóng dần khỏi bản nãng thú tánh tự nhiên của mình, ðể ngày càng ngýời hõn (tuy cũng có những ðịnh chế làm cho con ngýời trở thành nô lệ). Nhý, ở ðâu ðó (hình nhý trong quyển Fondement du pouvoir de jugement) Emmanuel Kant có viết, ðại thể nhý : con ngýời bắt ðầu phát triển khi biết tự tạo ra những chuẩn mực (ðể xác ðịnh sự vật) và những giá trị (ðể tổ chức cuộc sống chung xã hội).
Theo tinh thần Phật giáo, và theo tinh thần khoa học ngày nay, câu trên cần phải ðýợc thêm rằng : nhýng không phải những chuẩn mực và những giá trị là quan trọng, lại càng không phải là những chuẩn mực và những giá trị mà Phật, hay Khổng, hay Giêsu... ðã ðýa ra cách ðây 20 hoặc 25 thế kỷ, ðiều quan trọng chính là khả nãng nõi con ngýời; mà nhờ ðó con ngýời của mỗi thời ðại có thể tạo ra những chuẩn mực và những giá trị ðể tổ chức cuộc sống của mình, thể theo những ðiều kiện của thời cảnh và của trình ðộ tiến hóa. Týõng tự nhý vậy : không phải những khám phá của ngýời xýa là quan trọng, nhýng chính những phýõng pháp khảo cứu mà nhờ ðó ngýời xýa khám phá ðýợc những ðiều mới mẽ mới là ðiều ðáng học. Cách học này ðúng cho cả giới nghiên cứu khoa học và giới những ngýời học Phật.
|
|
|
Post by TCTV on May 15, 2007 0:04:14 GMT -5
Khi ðối týợng nghiên cứu ðýợc xác ðịnh, mọi công trình tìm tòi nghiên cứu ðều có ðiểm khởi ðầu ở chỗ ðặt nghi vấn. Ví dụ nhý khi cọ xát mạnh hai thanh gỗ khô, lửa sẽ cháy lên. Làm ði làm lại nhiều lần, kết quả ðều nhý thế cả. Ðể tìm hiểu lửa này từ ðâu mà có, ðại thể, có hai cách ðặt nghi vấn :
1/ có lẽ lửa từ trời xuống, hay từ ðâu ðó ở bên ngoài ðến, và
2/ chắc hẳn ðã có sẵn trong gỗ, chỉ cần xát mạnh (thực hiện một số ðiều kiện) thì lửa sẽ bùng lên.
Hai cách ðặt nghi vấn trên dẫn ngýời nghiên cứu theo hai hýớng khác nhau, cách xa vạn dậm. Cách thứ hai là cách của phýõng pháp khoa học. Mà cũng là cách của Phật pháp.
Thiền sý Khuông Việt, ðời Ðinh và Tiền Lê, trýớc khi chết, ðã ðể lại cho các ðệ tử của ông và cho các ðời sau một bài kệ thị tịch, trong ðó có mấy câu, nhý sau :
Mộc trung nguyên hữu hỏa. Nguyên hỏa phục hoàn sinh. Nhýợc thị mộc vô hỏa. Toàn toại hà do manh. (Thõ vãn Lý Trần, tập I) Dịch : Lửa vốn sẵn trong cây. Nên khi lửa lại ðầy. Nếu trong cây không lửa. Xát mãi lửa chẳng bày. (PTH) Ðúng ra, thiền sý Khuông Việt muốn mýợn hình ảnh "lửa có sẵn trong cây" ðể nói : Chân lý sẵn trong ta. Trong tâm có Bụt Ðà. Niết Bàn trong cỏi sống. Không thế. Tìm ðâu ra! (PTH) Nên chỉ cần giữ sự yên tỉnh của tâm mình, cho ðến khi không còn bị khuấy ðộng bởi tham sân si và phiền não khác, thì chân lý, Phật, Niết Bàn... sẽ tự hiển lộ, cũng nhý chỉ cần cọ xát cây ðến một ðộ nóng nào ðó thì lửa tự phát sinh. Nhýng qua ðó cũng thấy ðýợc sự trùng hợp trong cách ðặt nghi vấn của Phật pháp và của phýõng pháp khoa học. Với cách ðặt nghi vấn này, và ðể trau giồi khả nãng tiếp cận thực tại, ngýời học Phật và nhà khoa học, cả hai, ðều rất dè dặt ðối với mọi tín ðiều, mọi chủ nghĩa (ismes), nhất là ðối với loại ngýời "siêu phàm výợt thế" luôn có sẵn những trả lời khẳng ðịnh trýớc khi biết câu hỏi là gì. IV. Cái nhìn nền tảng.
Ngày nay, nhiều ngýời ðã thấy : Không phải khoa học tạo ra phýõng pháp, mà chính phýõng pháp tạo ra khoa học, và hầu nhý bất cứ ai ðã qua hai nãm ðầu ðại học ðều có học qua 'tri thức luận'. Phýõng pháp luận này, thực ra, cũng là kết quả thành tựu ðýợc của con ngýời. Và câu hỏi ðýợc ðặt ra là : Do ðâu mà những nhà khoa học ðã thành tựu ðýợc kết quả nhý vậy ? Thýa : Có một cái nhìn nền tảng. Cái nhìn này xuất phát từ sự thực hiển nhiên : Cái gì có thực ðều có những nguyên nhân (cũng có thực) tạo ra nó. Và có thể khẳng ðịnh rằng : cái nhìn nền tảng của tý duy thực nghiệm khoa học là cái nhìn theo tinh thần của thuyết nhân quả (3). Giai thoại của 'làng khoa học', dýới ðây, cho thấy ðiều này.
Từ thời của Galilée, ở Ý ðã có dùng bõm (pompe à piston) ðể ðem nýớc giếng lên. Nhýng bõm này không thể lấy ðýợc nýớc từ mặt nýớc thấp hõn 10,33 mét. Suy nghĩ về sự kiện này, Galilée ðã ðýa ra nhiều giải thích nhýng tất cả ðều sai. Cùng thời này, xuất phát từ ðức tin về những sức mạnh của tự nhiên do những tác nhân vô hình nào ðó tạo ra, một số ngýời ðýa ra giải thích cho rằng : vì bản tính của nó, thiên nhiên 'ghét khoảng không' (horreur du vide), nên ðẩy nýớc tràn lên ðể lấp ðầy khoảng trống ðýợc tạo ra khi piston ðýợc kéo lên (thuyết 'huyền nhiệm'). Sau Galilée, học trò ông là Torricelli ðýa ra giải thích mới, lập luận rằng : Quả Ðất nằm trong bầu khí quyển, và chính sức nặng của cột không khí ðè trên mặt ðất, trên mặt nýớc giếng, tạo một sức ép ðẩy nýớc lên trong thân của bõm khi piston ðýợc kéo lên. Từ lập luận này Torricelli giả thuyết rằng : bề cao tối ða của cột nýớc ðýợc ðẩy lên phải týõng ứng với sức nặng của cột không khí ðè trên mặt nýớc. Giả thuyết này không kiểm nghiệm ðýợc một cách trực tiếp, và Torricelli ðã kiểm nghiệm một cách gián tiếp.
Torricelli nghĩ rằng : nếu giả thuyết của ông là ðúng, thì áp lực của không khí cũng có khả nãng làm dâng một cột thủy ngân týõng ứng ngắn hõn; và vì trọng lýợng thủy ngân khoảng 14 lần lớn hõn trọng lýợng của nýớc, thì bề cao của cột thủy ngân phải bằng 10,33 mét chia cho 14, tức khoảng 76 cm; và ông thử nghiệm giả thuyết này. Mặt nýớc giếng ðýợc thay thế bằng một chậu mở ðựng thủy ngân, thân của ống bõm ðýợc thay thế bằng một ống nghiệm thủy tinh, dài 1 mét và kín một ðầu. Ông cho thủy ngân vào ðầy ống và bịt lại bằng một ngón tay. Ông lật ngýợc ống và ðể ðầu mở của ống trong chậu thủy ngân và rút ngón tay ra. Cột thủy ngân trụt xuống và dừng lại ở ðộ cao khoảng 76 cm, nhý ðã dự tính. Giả thuyết của Torricelli ðýợc chứng nghiệm. Nhýng những ngýời theo thuyết 'huyền nhiệm' nói trên vẫn phản bác, và cho rằng có một sức mạnh vô hình, kiểu nhý một sợi dây vô hình, treo cột thủy ngân trong ống nghiệm.
Pascal muốn chứng nghiệm lại giả thuyết của Torricelli. Ông lập luận : nếu cột thủy ngân trong ống nghiệm là ðối trọng của cột không khí ðè trên mặt thủy ngân ngoài chậu, thì cột thủy ngân phải thấp hõn nếu thí nghiệm này ðýợc thực hiện trên núi cao, vì trên núi cột không khí ngắn hõn. Và theo yêu cầu của Pascal, Périer thử nghiệm lại cùng lúc ở hai cao ðộ khác nhau : một ở dýới chân núi Puy-de-Dôme (Pháp), và một trên núi, ở cao ðộ 1.600 m. Périer ghi nhận rằng : ở trên núi cột thủy ngân thấp hõn 7,5 cm, so với cột thủy ngân ở chân núi vẫn là 76 cm. Với kết quả kiểm nghiệm ðýợc này, Pascal và Périer có thể khẳng ðịnh rằng không có chuyện 'ghét khoảng không' trong việc này cả, vì không lẽ thiên nhiên ở dýới núi 'ghét khoảng không' nhiều hõn thiên nhiên trên núi. Chuyện khó tin nhýng có thật ! Những ngýời theo thuyết 'huyền nhiệm', dựa trên kết quả kiểm nghiệm ðýợc bởi Périer, ðýa ra giải thích bổ túc : sự "ghét khoảng không" giảm, khi cao ðộ tãng. Pascal ðề nghị một thử nghiệm mới. Lần này ông bõm một quả bóng cãng phân nửa và cột kín ở dýới chân núi, khi ðem lên ðỉnh núi, quả bóng cãng ðầy. Ðến ðây, thuyết 'ghét khoảng không' mới chịu hết lý.
Trong nổ lực ði tìm lý lẽ ðể giải thích sự việc, Pascal và Torricelli, trong giai thoại ghi trên, ðã nghĩ và làm với cái nhìn nhân quả. T. Hobbes, trong Léviathan, viết : "Lý lẽ không là một khả nãng tự nhiên nõi con ngýời; (...) nó khởi sự dựa theo qui luật nền tảng của quan hệ nhân quả (4). Và trong quan hệ nhân quả, sự có mặt của một ðấng siêu nhiên nào ðó không còn cần thiết nữa. - thời kỳ chýa khai hóa, con ngýời chýa biết diễn giải những hiện týợng nhận ðýợc bởi giác quan theo cái nhìn nhân quả, nhýng theo ðức tin nõi sự phán quyết của những ðấng siêu nhiên ðầy quyền nãng nào ðó, hoặc theo những ðịnh chế nhân xã qui ðịnh quan hệ giữa những thành viên của xã thể cộng ðồng.
Trongquyển Reine Rechtslehre (ðýợc dịch ra gần 20 thứ tiếng, từ Âu sang Á), Hans Kelsen nhận ðịnh : "Tý týởng nhân quả có lẽ xa lạ với ðầu óc của ngýời chýa khai hóa và nó chỉ xuất hiện ở một thời kỳ vãn minh tiến bộ hõn. Vậy nó không phải là bẩm sinh, nhý ngýời ta ðã từng nghĩ týởng."
"Khi con ngýời chýa khai hóa cảm thấy cần giải thích những hiện týợng tý nhiện, họ cho ðó là những ban thýởng hoặc những trừng phạt, tùy theo những hiện týợng ðó có ích hay có hại cho họ. (...) Sự diễn giải nhý thế về tự nhiên, thật vậy, không phải là nhân quả, nhýng có tính qui chế, dựa trên qui ðịnh xã hội về sự 'týởng thýởng' ."(5)
Trong lãnh vực tự nhiên, quan hệ nhân quả diễn ra cách trực tiếp : khi bị nung nóng, thanh sắt dài ra; ngýợc lại, trong lãnh vực nhân vãn và xã hội, thì luôn luôn có sự tham dự của yếu tố con ngýời. Vì vậy, cũng bằng cái nhìn và nguyên tắc nhân quả, các ngành xã hội học, nhân vãn học, chủng tộc học, sử học, tâm lý học v.v... tìm hiểu cá tính con ngýời và ðặc tính xã hội, nhýng với phýõng cách khác. Trong ðạo ðức học, luân lý học và luật học (hay pháp chế học) nguyên tắc nhân quả ðýợc biến cải thành 'nguyên tắc qui hệ' (principe d'imputation), thí dụ nhý : "một ngýời phạm tội, phải bị trừng trị", "một ngýời không thanh toán hết nợ, phải chịu sự cýỡng hành trên tài sản"; cách tổng quát "một hình phạt sẽ phải ðýợc thi hành, khi một hành vi bất chánh (bất hợp pháp) týõng ứng ðã phạm phải".
'Nguyên tắc qui hệ' cũng thiết lập mối týõng quan giữa hai sự việc, nhýng ðây không phải là týõng quan nhân quả của thế giới tự nhiên : sự phạm tội không phải là nguyên nhân của sự trừng trị, và hình phạt không phải là hậu quả của hành vi bất chính. - ðây, mối quan hệ ðýợc thiết lập bởi những qui ðịnh hoàn toàn do con ngýời làm ra, ðể ðiều hòa cuộc sống xã hội và ðýợc gọi là : phong tục, luật pháp, quyết án, quyết nghị hành chính v.v... Thêm nữa, nếu những mắt xích nhân quả của luật tự nhiên nối tiếp nhau trùng trùng ðiệp ðiệp, tạo thành chuổi kéo dài ðến vô tận, chuổi týõng quan 'qui hệ' chỉ có hai mắt xích : việc làm tốt ðýợc qui hệ với sự tri õn, tội lỗi với trừng phạt, ãn cắp với bị giam; một nguyên nhân ðýa ðến một hệ quả, và cả hai ðều là ðiểm cùng (ðầu và cuối) của týõng quan qui hệ. Tức là : khi sự trừng phạt ðã xong thì tội lỗi ðýợc xóa, khi hạn giam ðã mãn thì tội ãn cắp không còn; nhýng nhất ðịnh là : "Õn (oán) có ðầu, oan (nợ) có chủ", "Có tội thì phải ðền, có nợ thì phải trả", "Ai làm nấy chịu, ai cột nấy gỡ", chứ không thể khác ðýợc.
Nguyên tắc của quan hệ nhân quả là : Cái gì có thực ðều có những nguyên nhân (cũng có thực) tạo ra nó. Những nguyên nhân này có thể ðýợc phân thành hai loại, tạo thành hai thứ quan hệ khác nhau : 1/ quan hệ trýớc sau (trải trong thời gian) và 2/ quan hệ ðồng thời (trải trong không gian, ở mỗi thời ðiểm hiện tại). Nếu A là một thực tại, thì ở mỗi thời ðiểm (tn) A ðýợc tạo thành bởi (=) chính A trýớc ðó (ở thời ðiểm tn-1), kết hợp với (#) những tác ðộng của quan hệ ðồng thời với môi trýờng (hàm f(m) ở thời ðiểm tn ðó); và, ở mức ðộ con ngýời, còn có tác ðộng của môi trýờng xã hội (hàm f(h) ở thời ðiểm tn ðó) cùng với tác ðộng của ý chí và nãng lực của con ngýời (Ng.) ðýõng thời (tn). Vậy quan hệ nhân quả có thể ðýợc viết dýới dạng phýõng trình, nhý sau :
Atn = Atn-1 # f (mtn) # f (htn) # Ng.tn Có nhiều ðiều cần lýu ý nõi hai tác tố xã hội(f(h)) và con ngýời (Ng.) và nõi kiểu kết hợp (#), nhýng trýớc mắt, theo lô-gích của phýõng trình này, chỉ trong những ðiều kiện rất ðặc biệt mới có xảy ra hai trýờng hợp : 'A ở thời ðiểm sau', hoặc là bản sao, hoặc là phủ ðịnh, của ' A ở thời ðiểm trýớc'. Tức là, phýõng trình này chẳng những không loại trừ, mà còn bao hàm cả 'lô-gích hình thức' - A chỉ có thể hoặc là A, hoặc là Không-A, theo 'cái nhìn sáng tạo' truyền thống của các tôn giáo thần khải - và 'lô-gích phủ ðịnh' của biện chứng pháp Hegel. Trong ðiều kiện thông thýờng, 'A ở mỗi thời ðiểm' ðều vừa là kế thừa vừa là biến thiên của chính 'A ở thời ðiểm trýớc'. Vì là kế thừa nên có 'sử tính', và vì là biến thiên nên có 'tiến trình'. Nói cách khác : Cái gì có thực ðều có sử tính và ðều là một býớc trong tiến trình mãi mãi ðang trở thành. Vì vậy, tý duy khoa học cũng là tý duy với 'cái nhìn tiến trình' và theo 'lô-gích sử quan'.
|
|
|
Post by TCTV on May 15, 2007 0:05:19 GMT -5
Sử tính và tiến trình trở thành cũng là thực tại khách quan, nên cũng có thể nhận biết ðýợc bằng trí. Chỉ còn hai ðiểm cần lýu ý : 1/ tiến trình trở thành không phải chỉ có một chiều ði lên, không phải cứ là cái sau (mới) thì nhất ðịnh phải tốt hõn cái trýớc (cũ), và 2/ thông thýờng biến thiên là tiệm tiến, chứ không nhất ðịnh phải là ðột biến, tất cả ðều tùy nõi những ðiều kiện ðặc thù của hoàn cảnh. Cho nên : 1/ quan ðiểm 'phá tức là xây' là hoàn toàn duy týởng (idéaliste), và 2/ 'làm cách mạng' (ðột biến) không phải là cách duy nhất, còn có cách khác là cải thiện liên tục (tiệm tiến, hay 'diễn tiến hòa bình'). Nói cách khác, hiện ðại hóa, hay thời ðại hóa, là sự biến thiên tự nhiên của sự sống. Nhýng ðể "thãng hoa một cách liên tục" bản sắc ðặc thù của nền vãn hóa - vãn minh Việt Nam thì phải có ý chí và nãng lực của ngýời Việt, trong việc ðịnh hýớng ði lên (thãng hoa) cho công cuộc hiện ðại hóa và hóa giải mọi khắc nghiệt của ðiều kiện, hầu tránh dẫn tới tình trạng cực ðoan, hay tránh dẫn tới cách mạng ðổ vỡ.
Mấy ðiểm gặp gỡ nền tảng giữa khoa học và Phật giáo, viết trên, thực ra không xa lạ gì với các nền tảng tý týởng của vãn hóa Việt Nam. Trên ðây chỉ là một cách diễn ðạt theo hoàn cảnh mới mà thôi Ðiều này ðủ cho thấy một cách tổng quát : Có sự gặp gỡ giữa nền tảng của vãn hóa Việt Nam với nền tảng của tý duy khoa học hiện ðại. Gia sản vãn hóa này vẫn còn ðó, trong mỗi ngýời Việt Nam, và luôn luôn có thể vận dụng ðýợc. Nhýng cũng cần xét ðến một vài ðiểm khác biệt nền tảng.
V. Phýõng pháp 'phủ ðịnh thực sự' và 'cái nhìn' nền tảng của Phật giáo.
Kiến thức khoa học vẫn không ngừng phát triển, và phát triển ngày càng nhanh, nhất là với các ngành khoa học mới ði sâu mãi vào các lãnh vực tri thức, tâm lý và tinh thần. Và từ thời ðại của Einstein ðến nay, không ít những nhà khoa học ðã ý thức rằng không thể có sự quan sát khoa học hoàn toàn khách quan. Nhýng kẹt ở chỗ là, nếu cứ theo truyền thống Tây phýõng, khi sự hiện hữu một thế giới thực sự khách quan bị nghi ngờ, ngýời ta chỉ còn giải pháp duy nhất là quay về bám vào thế giới chủ quan, và cho rằng tất cả ðều dựa trên chủ thể tính của mỗi cá nhân, cho rằng mỗi ngýời chỉ nhận biết ðối týợng theo tý duy của mình, hay cho rằng thế giới là cái do chính mỗi ngýời tạo ra trong ðầu.
Kiểu lựa chọn 'hoặc cái này thì không cái kia, hoặc cái kia thì không cái này' (nguyên tắc 'không thể có cái thứ ba - tiers exclus' của Aristote) nêu trên cho thấy ðặc tính của phủ ðịnh trong hệ thống lý luận 'nhị phân ðối lập' (hay nhị ðối - dualisme) là nền tảng của truyền thống Tây phýõng. - ðây, phủ nhận cái này có nghĩa là gần nhý ðýõng nhiên xác nhận cái kia. Nhý khi nói 'không là A', thì ắt 'hẳn phải là B' (ðối lập với A), 'không hữu' thì ắt 'hẳn phải là tả'. Hay nhý khi Nietzsche 'khai tử' Thiên Chúa, hay, một cách tổng quát hõn, phủ nhận từ nền tảng thuyết tất ðịnh Tây phýõng, thì liền bị ðánh giá là cổ vũ cho chủ nghĩa hý vô (nihilisme); cũng thế : không cộng sản, thì ắt phải là tý bản, hoặc ngýợc lại. Tức là, trong hệ thống lý luận nhị ðối này không có dạng phủ ðịnh thật sự, vì mọi phủ ðịnh ðều có thể bị suy diễn thành xác ðịnh; và dĩ nhiên, phủ ðịnh của phủ ðịnh cũng là xác ðịnh (cách lý luận này vẫn còn ảnh hýởng mạnh trong cách hiểu của nhiều ngýời về 'phủ ðịnh của phủ ðịnh' trong biện chứng phủ ðịnh Hegel).
Cách lý luận ðõn giản này chắc chắn rất hữu hiệu trong việc nhận biết thế giới vật chất, nhýng nó gặp phải giới hạn khi tiếp xúc với thế giới của sinh vật, vì từ bản nãng ham sống sợ chết, sinh vật luôn có phản ứng theo từng hoàn cảnh. Có nhiều yếu tố nội sinh quyết ðịnh cách phản ứng của sinh vật, và vì những yếu tố nội sinh này luôn luôn thay ðổi, nên phản ứng cũng luôn luôn thay ðổi, không thể viết thành công thức ðýợc. Nhý khi ðối diện với một hãm dọa, chẳng hạn. Trong những trýờng hợp thông thýờng, tức không phải là một hãm dọa tuyệt ðối, thì không phải chỉ có 2 lựa chọn : hoặc chiến ðấu, hoặc chạy trốn (la lutte ou la fuite, của Lavoisier), nhýng rất có thể sinh vật sẽ phải vừa thích ứng với hoàn cảnh vừa giữ lấy bản sắc của nó. Có thể cái nhìn tuyến tính (linéaire) nhị phân là sức mạnh nền tảng của hệ thống lý luận Tây phýõng, nhýng sẽ không thể tránh ðýợc sai lầm trong cách hiểu và cách diễn giải, khi cũng bằng cái nhìn này mà ngýời Tây phýõng tiếp cận với các dạng phủ ðịnh thýờng gặp trong Phật giáo : 'vô thýờng', 'vô ngã', 'vô sinh', 'vô diệt', 'vô niệm', 'vô sở trú'...
Tý týởng của Phật giáo ðýợc xây dựng trong truyền thống lý luận Ấn ðộ, gồm 4 vế : có; không; vừa có, vừa không; không có, không không. - ðây, khi nói 'không', không có nghĩa là 'có', cũng không có nghĩa là 'vừa có vừa không', cũng không có nghĩa là 'vừa không có vừa không không' và cũng không phải là cả 3 giải ðáp này hợp lại. - ðây 'không' chỉ có nghĩa là 'không', chứ không thể suy diễn rồi gán cho nó một trong 3 vế khác. Tức là, có dạng phủ ðịnh thực sự trong hệ thống lý luận này. Nên khi một ngýời học Phật nói "tôi không là cộng sản" thì chỉ biết ngýời ðó không là cộng sản, thế thôi; chứ không thể suy diễn cách giản lýợc cho rằng "ắt hẳn ngýời ðó theo chủ nghĩa tý bản", tức "chống cộng sản", tức ...; cũng thế ðối với ai tự nhận rằng "tôi không theo chủ nghĩa tý bản". Phật giáo, và ngýời học Phật, không sống trong thế giới nhị ðối, họ sống trong một thế giới khác.
Không ði sâu thêm vào vấn ðề thuần túy luận lý, nhýng mọi ngýời ðều có thể nhận thấy rằng cách lựa chọn không khách quan thì chủ quan, nêu trên, không giải quyết ðýợc gì cả. Và nếu muốn tiến ðạt trí tuệ, cần phải nhìn thẳng vào mối quan hệ giữa chủ thể và ðối týợng (không hẳn là khách thể, dĩ nhiên), vì cả hai ðều có týõng quan mật thiết lẫn nhau (nếu không có cái này thì cũng sẽ không có cái kia), quán sát nó týờng tận, theo phýõng pháp nghiên cứu nhý ðã nói trên, ngỏ hầu có thể cải thiện từng býớc mối quan hệ ðó.
Mà muốn quan sát mối quan hệ (quan hệ nói chung, nhýng ở ðây là mối quan hệ giữa chủ thể và ðối týợng) thì, trýớc hết, phải có cái nhìn bao trùm và dung chứa, không cực ðoan, không phiến diện (kiểu : 'nửa cái này cộng nửa cái kia'), chấp nhận sự hiện hữu tròn vẹn của cả 2 ('vừa trọn cả cái này, vừa trọn cả cái kia'). Kế ðến, quan sát tính chất của mối quan hệ ðó - theo truyền thống tý týởng Ðông phýõng, có 4 loại quan hệ : týõng sinh, týõng khắc, týõng thôi (ðẩy nhau) và týõng dữ (trợ nhau); quan sát xem mối quan hệ ðó sẽ tạo ra cái gì (nếu không có quan hệ, sẽ không có gì ðýợc tạo thành). Cái ðýợc tạo thành chắc chắn sẽ có một số ðiểm chung với 'cái này' và một số ðiểm chung khác với 'cái kia', tức là : 'vừa cái này, vừa cái kia'; nhýng ðồng thời nó cũng là một thực thể mới : 'không là cái này cũng không là cái kia', tựa nhý ngýời con so với cha mẹ vậy. Ðến ðây ta thấy tính tròn ðầy của 'biện chứng pháp Phật giáo', khác với 'biện chứng phủ ðịnh' Hegel. (6)
Ngắn gọn, theo lối lý luận nhị ðối truyền thống Tây phýõng, ngýời ta chia mọi sự thành hai khu vực : thuận lý (rationnel, lãnh vực của khoa học) và phi lý (irrationnel, lãnh vực của thần giáo), ðối kháng và phủ ðịnh nhau. Trong khi Phật giáo, có trình bày mọi hiện týợng dýới hai mặt : 'lý' (rationnel) và 'quan hệ' (relationnel), nhýng chúng không ðối kháng loại trừ nhau và nhất thiết phải ðýợc thống hợp trong cái nhìn toàn nguyên, nắm bắt thực tại trên toàn thể của nó. Khi nói ðến quan hệ là nói ðến sự ðối ðãi, cách cý xử với nhau; và ở trình ðộ con ngýời, với lý trí có khả nãng phán xét ðúng sai cho cả ðôi bên mọi phía, luân lý hay ðạo lý ðýợc tạo nên từng býớc. Do ðó quan ðiểm về khoa học kiểu của R. Descartes và của F. Bacon - ðại khái cho rằng : vì sự vật ðýợc thiết lập theo phýõng thức khoa học, không có một ý nghĩ luân lý nào cả, nên khoa học výợt khỏi luân lý và có thể ði tới mãi, vô giới hạn - ðýợc khoa học của thời ðại xem là còn quá giới hạn, cần phải ðiều chỉnh. Vấn ðề luân lý hay ðạo lý cho khoa học ðang ðýợc ðặt ra (7).
Với ngýời Ðông phýõng, cái nhìn nhắm vào mối quan hệ giữa Trời (hay tinh thần) và Ðất (hay vật chất) chính là cái nhìn nhắm vào Ngýời, vì Ngýời ðýợc sinh ra từ mối quan hệ giữa Trời và Ðất, Ngýời bao gồm trọn cả Trời và trọn cả Ðất nhýng ðồng thời cũng khác hẳn với cả Trời lẫn Ðất. Cũng vậy, cái nhìn nhắm vào mối quan hệ giữa Thần tính và Vật tính cũng chính là cái nhìn nhắm vào Nhân tính. Mà mọi mối quan hệ ðều luôn luôn có thể cải thiện ðýợc (8), bởi những tác nhân nhập cuộc (khác với trong cuộc, vì trong cuộc chýa hẳn là nhập cuộc). Và cải thiện mối quan hệ cũng là cải thiện ðặc tính của cái sẽ ðýợc tạo thành từ mối quan hệ ðó. Cải thiện mối quan hệ giữa ngýời cha và ngýời mẹ tức là cải thiện ðặc tính của ngýời con sẽ ðýợc sinh ra; cải thiện mối quan hệ, bị chi phối bởi kiến thức cũ, giữa cái tôi chủ thể với ðối týợng, cũng là cải thiện ðặc tính của kiến thức mới. Kiến thức mới có khi 'giống', có khi 'khác', có khi 'vừa giống vừa khác', mà cũng có khi 'không giống không khác' với kiến thức cũ, nhýng ðiều này không quan trọng. Quan trọng nhất là chỗ nó thýờng xuyên và liên tục ðýợc cải thiện, so với kiến thức cũ. Nhờ thế, kiến thức mới sẽ ngày càng nhiều, từng býớc výợt qua những kiến thức sai trái, hạn hẹp và phiến diện của ngày trýớc; và, nhý ðã nói trên, 'cái biết' nó qui ðịnh 'cái tôi', nên cũng có nghĩa là liên tục phủ ðịnh chính 'cái tôi' của ngày qua, mà cụ thể là tính ích kỷ cá nhân, ðể từng býớc tiến ðến trình ðộ của 'cái tôi' ngày càng mở rộng, ngày càng tròn ðầy và chân thật hõn, hầu tiến ðạt ðến 'cái biết' toàn vẹn và chân thật về 'bản thể chân thật', hay 'ðại ngã', của vũ trụ.
Cần phân biệt cách hiểu chữ 'biết' theo tinh thần Phật giáo với cách hiểu thuần lý (hay trí thức) của sách vở ngày nay. Theo cách hiểu thứ hai, 'cái biết' phân biệt với 'cái sống', nên mới có sự kiện nghĩ một ðàng, nói một lối và làm một nẻo. Trong khi, với Phật giáo, 'biết' có nghĩa là thẩm thấu vào thực tính của thực tại, và luôn luôn là kết quả thực chứng của bản thân; ở ðây không có sự phân biệt giữa 'cái biết' và 'cái sống', tức là có sự thống nhất thân-khẩu-ý, hay nghĩ-nói-làm, và mức ðộ thống nhất này biểu thị không sai lạc trình ðộ thực chứng của mỗi ngýời.
Mục tiêu của việc tiến ðạt ðến 'cái biết' toàn vẹn và chân thật về 'bản thể chân thật' của vũ trụ, ðối với ngýời học Phật, là ðể sống nhý và sống hòa hợp với 'bản thể chân thật' ðó, cũng là ðể trở thành chính 'ðại ngã' của vũ trụ; chứ không phải ðể chiêm ngýỡng, cũng không ðể nói viết lung tung, tạo ðức tin không thực sống (ảo ảnh) nõi ngýời khác, nhýng trình bày lại phýõng pháp (hay con ðýờng) ðể ngýời khác có thể theo ðó tự chứng nghiệm và tự thể hiện lấy. Cho nên, nếu 'bản thể chân thật' của vũ trụ ðýợc ðịnh nghĩa là Thiên Chúa, thì ngýời ðạt ðến 'cái biết' ðó trở thành chính Thiên Chúa; cũng vậy nếu ðó là Chân lý, là Ðạo, là Thiên ðế, Thýợng ðế, hay ông Trời (trong tý týởng truyền thống Ðông Á), là Niết bàn, là Phật; hoặc là 'cục cứt khô', là 'chiếc giày rách'...
Ðến ðây ta thấy 4 ðiểm tích cực của Phật pháp :
1/ dựa trên nền tảng thực nghiệm ('positif', theo cách hiểu của A. Comte),
2/ xác nhận tiềm nãng sẳn có trong mỗi ngýời (xác nhận bản tính thiện),
3/ thừa nhận nõi mỗi ngýời khả nãng tiến ðạt và trở thành 'bản thể chận thật' (thừa nhận tính hýớng thiện), và
4/ mở của cho sự tiến ðạt trí tuệ, bằng cách chỉ ðýa ra phýõng pháp ðể mỗi ngýời tự chứng nghiệm, tự thành tựu và tự thể hiện chính 'bản thể chân thật' ðó.
|
|
|
Post by TCTV on May 15, 2007 0:05:55 GMT -5
Cái 'bản thể chân thật' nói trên chính là cái toàn thể của vũ trụ, ðýợc cấu thành bởi những thành phần của nó và bởi mối quan hệ nhiều chiều giữa những thành phần ðó. Bản thể này không phải là một 'vật tự thân' và bất biến. Theo tinh thần Phật giáo, không thể quan niệm ðýợc sự hiện hữu của một 'linh hồn' hằng hữu, cũng nhý của một Thiên Chúa toàn nãng toàn hảo và khác biệt hẳn với ngýời, hay của một 'Ðấng Sáng Tạo' (kèm với các khái niệm 'con ngýời là tạo phẩm ðã hoàn thành của Thiên Chúa', với một 'ngày sáng thế' và một 'ngày tận thế'). Vì thế, Phật giáo bị gán cho là 'vô thần'.
Có thể nói rằng : trong khi toàn bộ hệ thống tý týởng truyền thống Tây phýõng xây nền trên chữ 'sáng tạo', toàn bộ hệ thống tý týởng truyền thống Ðông phýõng xây nền trên chữ 'tiến trình', 'tiến trình trở thành' và mãi mãi ðang trở thành. Từ ðó, quan niệm của Phật giáo, nói riêng, về con ngýời cũng hoàn toàn khác : con ngýời, không phải là 'ân huệ' của Thiên Chúa, mà là một býớc thành tựu của tiến trình mãi mãi ðang trở thành của những mối quan hệ chằng chịt trong và với toàn thể vũ trụ tự nhiên, và con ngýời vẫn tiếp tục ðang trở thành trong và cùng với mối quan hệ ðó.
Tóm lại, 'cái nhìn' nền tảng của Phật giáo là 'cái nhìn' nhắm vào mối quan hệ và ðýợc xây nền trên chữ 'tiến trình'. Phủ ðịnh thýờng thấy trong Phật giáo là phủ ðịnh thực sự. Phýõng pháp phủ ðịnh này là ðiểm mạnh của Phật giáo, ðýợc sử dụng ðể :
1/ kích thích óc nghi ngờ,
2/ bảo tồn và
3/ mở rộng mãi tự do tý týởng của con ngýời, nền tảng thiết yếu của việc tiến ðạt trí tuệ.
Phýõng pháp phủ ðịnh thực sự này còn ðýợc sử dụng có hiệu quả nhý một 'býớc lùi' cần thiết khỏi sự lôi cuốn của cuộc sống hằng ngày, ðể nhìn lại cuộc sống, nhìn lại việc mình ðã làm, một cách có thể gọi ðýợc là từ bên ngoài. 'Býớc lùi' này rất bổ ích cho chính mỗi ngýời khi býớc trở lại vào với cuộc sống. Ðây là cách thực hiện hữu hiệu nguyên tắc "trial and error - chấp nhận thử và chấp nhận sửa sai"; không thế, nguyên tắc này sẽ trở thành một trong muôn ngàn khẩu hiệu cửa miệng khác.
Nhýng ðó cũng là ðiểm yếu của Phật giáo, trong lãnh vực chính trị. Vì, nếu nghĩa vụ chính yếu của hoạt ðộng chính trị là chuyển ý chí riêng rẻ, hay cá nhân, thành ý chí chung của tập thể, thì việc cần làm là làm sao cho nhiều ngýời tin theo một ðịnh hýớng tý týởng, có khi cần phải áp ðặt một ðịnh hýớng tý týởng nào ðó, tức là, trýớc hết, phải xác ðịnh một ðịnh hýớng tý týởng. Mục tiêu của Phật giáo, trong việc bảo tồn tự do tý týởng và tiến ðạt trí tuệ, nhý ðã nói trên, không cho phép Phật giáo làm ðiều ðó, nên có thể nói rằng Phật giáo không có chức nãng làm chính trị, ít ra ðối với các loại chính trị từng ðýợc biết ðến.
_______
Những ðiều ðýợc trình bày ðến ðây cho thấy Phật pháp thể hiện nhý một hy vọng cho tiến trình ði tới của kiến thức thời ðại, cho sự tiến ðạt trí tuệ của mỗi ngýời. Nhýng ngýời học Phật không thể chỉ giới hạn ở ðây, mà còn phải nổ lực hiện hóa hy vọng ðó, hiện hóa trí tuệ ðạt ðýợc vào việc tổ chức sự vận hành của xã hội, khung cảnh sống của chính mình, qua việc hoạch ðịnh một ðịnh hýớng chính trị cho tập thể của mình, thể theo nền tảng của tinh thần Phật giáo; một cách tổng quát, hoàn chỉnh một thế gian pháp bất ly Phật pháp Nhiều việc phải làm, nhýng tất cả ðều bắt ðầu từ việc nhận ðịnh lại, dýới dạng xác ðịnh, một số khái niệm cõ bản : ngýời là gì? mục ðích và chức nãng của con ngýời tại thế là gì? xã hội là gì? mục ðích và chức nãng của xã hội là gì?. Các ðề tài này sẽ ðýợc bàn ðến vào dịp khác./.
Paris, 11.1995 Phan Tấn Hùng
--------------------------------------------------------------------------------
(1) trang 21, bản dịch tiếng Pháp của Claude B. Levenson (n.x.b. Flammarion, Paris 1995) từ quyển Gentle bridges - Conversations with the Dalaĩ-Lama on the sciences of mind, của Jeremy W. Hayward và Francisco J. Varela (n.x.b. Shambhala Publications Inc., Boston, Massachusetts, 1992).
(2) Ðây không phải là nghi ðể mà nghi, nghi suông. Loại nghi này vô ích và, với Phật giáo, nó là một trong nãm trở ngại cho sự phát triển trí tuệ (tham, giận, buồn ngữ, hối tiếc lãng xãng và nghi). Nhýng là cái nghi tích cực thúc ðẩy việc nghiên cứu, học và hành ðể tiến tới hết nghi.
(3) Nhýng ðây là nhân quả tuyến tính và một chiều, khác với kiểu nhân quả xoay vòng : "kỳ ðà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kỳ nhông, kỳ nhông là ông kỳ ðà", hay nhân quả luân hồi của thực tại trong quan ðiểm Phật giáo. Mới ðây, khi phải ðối diện với sự phức tạp (hay phức hợp) của sự sống nói chung, và sự sống xã hội nói riêng, Edgar Morin (trong Introduction à la pensée complexe, Paris, 1990, trg. 158) có ðýa ra 3 chìa khóa ðể ðọc sự phức tạp. Chìa khóa thứ 2, mà ông gọi là récursion opérationnelle, lýu ý rằng quan hệ nhân quả có thể diễn tiến theo chiều ngýợc lại : nhân trở lại là quả và quả trở lại là nhân; một cách dễ hiểu, ðây là kiểu quan hệ týõng sinh giữa con gà và trứng gà (với chìa khóa thứ 1 : trong toàn thể có thành phần và trong thành phần có toàn thể, hay quan hệ týõng dung; và thứ 3 là quan hệ týõng tác : chủ thể và ðối týợng của sự nhận biết tác ðộng lẫn nhau - Xem thêm Théorie générale des systèmes của Von Bertalanffy). Thế là, quan ðiểm nhân quả tuyến tính của khoa học ðang tiến dần ðến với quan ðiểm nhân quả luân hồi (xoay vòng) của Phật giáo. Cần lýu ý rằng : Theo quan ðiểm Phật giáo, mọi thực tại ðều nằm trong vòng luẩn quẩn của quan hệ nhân quả luân hồi, trong ðó thực tại tốt hậu của mọi sự mọi vật ðều là KHÔNG (không tự tính, không tự hữu, nhýng vì vô minh nên con ngýời ảo týởng là CÓ). Ðó là thực tại khách quan, có Phật hay không có Phật nó vẫn vậy, nhýng nhiều ngýời lại týởng lầm ðó là Phật giáo - một sai lầm ấu trĩ. Trong khi, bên cạnh vòng luẩn quẩn và thực tại tối hậu ðó, Phật ðã chỉ một con ðýờng ðể mỗi ngýời tự thắng výợt chúng, bằng ý chí và khả nãng của mình, ði thẳng ðến Giác Ngộ và Tồn Hữu ðời ðời - chính ðây mới là Ðạo của Phật.
(4)"La raison n'est pas en lui [l'homme] une faculté ou une lumen naturale; (...) qui procède selon la règle fondamentale de la causalité" (F. Tricaud dịch, Sirey, Paris, 1971, chýõng III, trg. 23.
(5) Ðể làm chứng : "L'idée de causalité est probablement étrangère à la mentalité du primitif et elle n'apparaît qu'à un stade de civilisation plus avancé. Elle ne serait donc pas une idée innée, comme on a pu le supposer." (tr. 30) Và : "Quand l'homme primitif sent le besoin d'expliquer les phénomènes naturels, il les considère comme des récompenses ou des punitions, suivant qu'ils se produisent en sa faveur ou à son détriment. (...) Une telle interprétation de la nature n'est donc pas causale, mais normative, fondée qu'elle est sur la norme sociale de la 'rétribution'." (tr.31) - Trong Théorie pure du Droit, Henri Thévenaz dịch, Neuchâtel, Thụy Sĩ 1988.
(6) Dù, cũng nhý nhiều triết gia Ðức và Anh ðồng thời, Hegel ðã nghiên cứu nhiều về Phật giáo (nhận xét của cố GS. Trần Ðức Thảo). Trong Dialectique de la nature - Biện chứng của tự nhiên (Editions Sociales, trg. 225) Hegel viết : "... tý duy biện chứng - chính vì nó cần ðiều kiện tiên quyết là có nghiên cứu bản chất của bản thân các khái niệm - chỉ có thể có nõi con ngýời; và ngay cả với con ngýời, nó chỉ có thể có ðýợc ở một trình ðộ phát triển týõng ðối cao (nhà Phật và cổ Hy Lạp)..." (trích và dịch bởi Bùi Mộng Hùng, Tâm lý học trong ðạo Phật, Diễn Ðàn số 54, Paris, 7.1996).
(7) Ðúng hõn, chính quan niệm về thế nào là luân lý, hay ðạo lý ðã thay ðổi. Có thể nói rằng, trong khi toàn bộ hệ thống tý týởng Ðông phýõng xây nền trên khái niệm 'tiến trình', tiến trình trở thành và mãi mãi ðang trở thành, không có ðiểm ðầu cũng không có ðiểm cuối, thì toàn bộ hệ thống tý týởng Tây phýõng ðýợc xây dựng trên hai chữ 'sáng tạo', với một ngày sáng thế và một ngày tận thế, cùng với sự có mặt của một Thần tạo ra vũ trụ theo qui luật do Thần quyết ðịnh và tạo ra con ngýời theo hình ảnh của Thần : một thế giới ðã hoàn thành và hoàn chỉnh, hay ðã cố ðịnh và gần nhý tuyệt ðối. Từ nền tảng tý týởng nhý vậy, ngýời Tây phýõng tin rằng trong con ngýời có một linh hồn khác biệt với thân xác và với vũ trụ tự nhiên. Thần còn trao cho con ngýời quyền thống trị muôn loài và vũ trụ tự nhiên (Genèse I, 27 và 28), ðồng thời Thần nêu ra những hãm dọa trừng phạt ðể buộc con ngýời phải tuân theo những qui luật gọi là tự nhiên nhýng do Thần ðịnh ðoạt. Ðó là hai vế nền tảng tạo nên quan ðiểm luân lý của xã hội Tây phýõng thời ðó; nó chi phối gần nhý toàn bộ hệ thống triết học Tây phýõng, còn gọi là 'triết học bản thể' chuyên chú ði tìm 'hữu thể thần tạo' (être) nõi con ngýời và trong mọi vật; ðó cũng là nguồn gốc của 'chủ nghĩa dĩ nhân vi trung' (anthropocentrisme) kiểu Tây phýõng, nặng tính thần giáo và phân biệt chủng loại rồi phân biệt chủng tộc. Quan ðiểm của René Descartes và của Francis Bacon nêu ðây là thí dụ ðại biểu cho phản ứng của trí thức Tây phýõng từ thời Phục Hýng nhằm phủ nhận luân lý ðó, không chịu khuất phục ý chí của Thần và phủ nhận luôn tính thần tạo nõi hữu thể con ngýời. Quan ðiểm này ðýợc ðánh giá là có tính 'cách mạng', nhýng thực chất là ði từ cực ðoan sang cực ðoan khác, nhý trở bánh tráng, và vẫn còn nằm trong thế giới của hai chữ 'sáng tạo', vì vẫn giữ ðức tin cho rằng nõi con ngýời có một 'bản thể tự hữu' (être-en-soi), hay 'tự thể' (nhiều ngýời dùng chữ 'hữu thể'), làm cho con ngýời tự bẩm sinh là một sinh vật ðặc biệt và khác biệt với muôn loài muôn vật và có toàn quyền hành xử, thống trị, chãn dắt và sở hữu hóa tất cả - 'quyền của con ngýời' kiểu này ðã bị xét lại từ thập niên 60 (Michel Foucault) và ðang bị lên án khắp nõi. Quan ðiểm có tính phản ứng này chi phối khoa học cho mãi tới gần ðây và ðang bị chỉ trích nặng nề. Vấn ðề luân lý cho khoa học ðang ðýợc nêu ra, nhýng lần này ðặt nền trên trách nhiệm, không phải quyền, xuất phát từ ý thức về mối quan hệ sinh tồn không khác biệt từ bản thể giữa con ngýời với mọi loài và tất cả ðều là tiến trình cùng nhau ðang trở thành - nền tảng cho một thuyết nhân bản và nhân quyền mới. - ðây, có sự gặp gỡ giữa trí tuệ khoa học thời ðại với tý týởng truyền thống Ðông phýõng, nói chung, và với 'Nhân Duyên Sinh quan' của Phật giáo, nói riêng. Mà quan hệ ở ðây là sống ðộng, týõng ðối và hổ týõng, nên trách nhiệm cũng không thể cố ðịnh, tuyệt ðối và một chiều; tức là, ví dụ nhý, nếu Thần còn có quan hệ với ngýời thì phải có phần trách nhiệm của Thần. Và 'ðạo lý của ðức tin' (l'éthique de convic-tion, chữ của Max Weber) ðang ðýợc thay thế dần bởi 'ðạo lý của trách nhiệm' (dịch: l'éthique de responsabilité), ðúng hõn, bởi 'ðạo lý của từ bi' (dịch: l'éthique de compassion). Mặt khác, 'triết học tự thể' (xoay quanh cái 'être-en-soi') cũng ðã bế tắc vì, với những khám phá mới, khoa học thời ðại bác bỏ sự hiện hữu của một 'bản thể tự hữu' nào ðó; khái niệm "tự thể - Being - Être" vốn là nền tảng của toàn bộ hệ thống triết học Tây phýõng ðến gần ðây ðã bị xem là lỗi thời. Và từ vài mýõi nãm trở lại ðây thấy xuất hiện ở Anh và Mỹ một học phái mới là 'triết học tiến trình' (process philosophy), với những Peire, Whitehead, Prigogine, và Hartshorne, xây nền trên khái niệm "Trở Thành - Becomming - Devenir" ðã ðýợc chứng nghiệm bởi khoa học thời ðại và trùng hợp với quan ðiểm về thực tại của Phật giáo (khác với Ðạo của Phật). Sự thay ðổi ý thức, tý týởng và cái nhìn này, do khoa học thời ðại tác ðộng, là trụ cốt của sự chuyển hýớng ðang dẫn các xã hội 'tân tiến' ði vào thời ðại gọi là 'hậu tân tiến'.
(8) Mọi ngýời ðều biết sẽ không có nýớc Nhật ngày hôm nay, nếu không có quốc sách Kaizen (là cải thiện và cải thiện liên tục).
|
|