|
Post by tk on Nov 14, 2014 1:49:56 GMT -5
Lễ Dâng Y Kathina
Soạn giả: Hộ Pháp
01-Mục Lục - Lời nói đầu
02-Xuất xứ của lễ dâng y Kathina
03-Y Kathina thành tựu và không thành tựu
04--Lễ dâng y Kathina thời xưa và thời nay
05-Tấm y thường dùng với y Kathina
06-Quả báu của lễ dâng y Kathina
07-Phần nghi lễ dâng y Kathina của thí chủ
08-Phần nghi thức lễ thọ y Kathina của chư Tăng
09-Quả báu của lễ thọ y Kathina
10-Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng
11-Nhận xét về lễ dâng y Kathina
12-Vấn đáp về lễ dâng y Kathina
oo0oo
Lời nói đầu
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa Con đem hết lòng thành kinh đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahan, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.
Lần thứ nhất
Núi rừng Viên Không năm nay (PL. 2549), một lần nữa, người thí chủ là cô Dhammanandà cùng thân quyến, bạn hữu xin làm Lễ Dâng Y Kathina đến chư tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại núi rừng Viên Không này.
Lần này cô Dhammanandà có lời thỉnh cầu bần sư biên soạn một quyển sách nhỏ giảng giải về tầm quan trọng của Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng.
Nhân dịp này, bàn sư xét thấy rằng Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng là một truyền thống của Phật Giáo từ thời quá khứ xa xưa cho đến thời hiện tại này, đã trải qua từ các thế hệ người xưa mãi cho đến thế hệ cuae chúng ta bây giờ, và trở thành một truyền thống hàng năm trong các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravada. Do đó bần sư đã cố gắng sưu tầm từ Tam Tạng Pàli và Chú Giải để biên soạn thành cuốn sách nhỏ này, để cống hiến cho quý vị độc giả muốn tìm hiểu về Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng:
- Xuất xứ của Lễ Dâng Y Kathina - Tính chất đặc biệt của Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng - Nghi thức làm Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng - Nghi thức chư tỳ khưu Tăng thọ y Kathina - Phước thiện Lễ Dâng Y Kathina và quả báu của phước thiện ấy, v.v...
Đó là những vấn đề mà quý độc giả sẽ được hiểu biết một phần nào qua cuốn sách nhỏ này.
Thật ra, Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng một trong những pháp rộng lớn có nhiều chi tiết nên biết, song quyển sách nhỏ này không đầy đủ được. Vả lại khả năng bần sư cũng có hạn, bần sư cố gắng sưu tầm được bao nhiêu, xin cống hiến đến quý vị độc giả bấy nhiêu.
Quý vị độc giả là bậc thiện trí, xem thấy có điều gì sơ sót, thậm chí có chỗ nào sai, kính xin quý vị từ bi chỉ giáo cho bần sư biết, bần sư kính cẩn tiếp thu những lời chỉ giáo ấy để sửa chữa lại cho đúng.
Bần sư chân thành biết ơn quý vị.
Mùa an cư nhập hạ PL.2549 Núi rừng viên Không, Bà Rịa - Vũng Tàu Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)
Lần thứ nhì
Năm 2006 Phật lịch 2550, Lễ Dâng Y Kathina tại Tổ đình Bửu Long, Quận 9, T.p Hồ Chí Minh do gia đình cô Thái Thị Ngọc Dung, pháp danh: Trí Đăng làm chủ lễ; và tại Thiền viện Viên Không, Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do gia gia đình cô tu nữ Hoàng Thị Nga, pháp danh: Vô Niệm làm chủ lễ. Cả 2 thí chủ chính này có tác ý thiện tâm muốn ấn hành quyển “Lễ Dâng Y Kathina” này để làm món quà Pháp Bảo kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng và kính biếu đến tất cả các bà con, bạn bè đồng thí chủ trong buổi lễ dâng y kathina tại Tổ đình Bửu Long và Thiền viện Viên Không. Những thí chủ làm Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa vừa là một phước thiện vô lượng và rất hy hữu; lại còn thêm phần bố thí Pháp Bảo cao quý hơn các loại bố thí khác, cho nên bần sư vô cùng hoan hỷ cố gắng biên soạn lại quyển Dâng Y Kathina năm 2005, Phật lịch 2549 tại Thiền viện Viên Không.
Lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa là một truyền thống từ khi Đức Phật còn trên thế gian và tiếp tục hàng năm trên các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravada cho đến ngày nay. Phước thiện của lễ dâng y kathina này là vô lương và hy hữu. Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu biết về tấm y goi là "y kathina" và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng. Về phần chư tỳ khưu Tăng cũng phải có sự hiểu biết nghi thức làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Do đó, quyển sách "Lễ Dâng Y Kathina" này có thể giúp cho các thí chủ và chư tỳ khưu về công việc dâng y kathina và thọ y kathina cho được thành tựu, để cho những thí chủ có được phước thiện vô lượng, đồng thời để cho chư tỳ khưu Tăng có quả báu của lễ thọ y kathina được trọn vẹn.
1- Gia đình cô Thái Thị Ngọc Dung, pháp danh: Trí Đăng là người thí chủ chính làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại ngôi Tổ đình Bửu Long. Do nhờ phần phước thiện thanh cao này hộ trì cho toàn thể gia đình bà con thân bằng quyến thuộc của cô Thái Thị Ngọc Dung, nhất là Trần Trung Kính, Trần Thảo Mai, Mickey, Thompson, Billy Trần v.v... Cầu xin tất cả quý vị hoan hỷ phần phước thiện thanh cao này để cho thân tâm thường được an lạc, mọi công việc trong đời được thành tựu như ý, nhất là tiến hóa trong mọi thiện pháp, để tạo duyên lành trên con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Và xin hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến thân bằng quyến thuộc nội ngoại hai bên từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là thân phụ là ông Đào Văn Trà và thân mẫu là bà Thái Thị Em, pháp danh: Chiếu Nguyên v.v... Cầu mong tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện thanh cao này để giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
2- Gia đình cô tu nữ Hoàng Thị Nga, pháp danh: Vô Niệm là người thí chủ chính làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại ngôi Thiền viện Viên Không. Do nhờ phần phước thiện thanh cao này hộ trì cho toàn thể gia đình bà con thân bằng quyến thuộc của cô tu nữ Hoàng Thị Nga, nhất là Hoàng Văn Nút, Hoàng Minh Thái, Hoàng Thị Bạch Vân v.v... Cầu xin tất cả quý vị hoan hỷ phần phước thiện thanh cao này để cho thân tâm thường được an lạc, mọi công việc trong đời được thành tựu như ý, nhất là tiến hóa trong mọi thiện pháp, để tạo duyên lành trên con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Và xin hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến thân bằng quyến thuộc nội ngoại hai bên từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là là ông Hoàng Văn Tính và bà Nguyễn Thị Nhung, ông Trịnh Văn Lùng và bà Đoàn Thị Nhớn v.v... Cầu mong tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện thanh cao này để giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Mùa an cư nhập hạ PL.2550 Núi rừng viên Không, Bà Rịa - Vũng Tàu Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)
01-Xuất xứ của lễ dâng y Kathina
Hằng năm vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), khắp mọi nơi trên các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravàda, chư Tỳ khưu Tăng sau khi làm đại lễ Pavāraṇā (lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau) xong; bắt đầu ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10, trong suốt 30 ngày ấy, tất cả mọi người Phật tử tại gia là cận sự nam, cận sự nữ nô nức chuẩn bị làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại mỗi ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi. Lễ dâng y kathina là một nghi lễ theo truyền thống trong Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay.
Trong đời, có số truyền thống bắt nguồn từ thời gian nào, do một vị nào khởi xướng đầu tiên khó mà biết được, cho nên người ta thường nói: “Xưa bày nay làm”. Nhưng truyền thống lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng có xác định thời gian bắt đầu rõ ràng:
Trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka ghi rõ về tích chuyện bắt đầu Đức Phật cho phép Tỳ khưu thọ y kathina như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anàthapindika gần kinh thành Sàvatthi. Khi ấy nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya[1] đều thọ hạnh đầu đà như: Hạnh đầu đà ở trong rừng, hạnh đầu đà đi khất thực, hạnh đầu đà thọ taṃ y,… Quý Ngài đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Trên đường đi chưa đến kinh thành Sàvatthi, quý Ngài mới đến xứ Sàketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6 (âm lịch) là ngày chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ tại một nơi cố định suốt 3 tháng mùa mưa. Cho nên, quý Ngài đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Sàketa, mà tâm của quý Ngài luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, quý Ngài thường nói với nhau rằng:
“Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sàvatthi, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần[2], nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được”.
1- Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), quý Ngài làm đại lễ Pavàranà (Lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau) xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9), quý Ngài tiếp tục lên đường đi đến kinh thành Sàvatthi. Mặc dù tháng cuối mùa mưa[3] trời vẫn còn mưa nhẹ hột, trên đường có những vũng nước đầy, đường xá lầy lội, quý Ngài mặc trên thân mình bộ y bị ướt đẫm và dính đầy sình lầy, thân phải chịu vất vả, đi đến ngôi chùa Jetavana vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ.
Đức Thế Tôn truyền hỏi chư Tỳ khưu rằng:
- “Này các con, các con có kham nhẫn được không?
Các con có điều hòa thân tứ đại này được không?
Các con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa phải không?
Hằng ngày các con đi khôngất thực không vất vả lắm phải không?”
Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:
- “Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đều kham nhẫn được; chúng con có thể điều hoà thân tứ đại này được; chúng con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa. Hằng ngày chúng con đi khôngất thực không vất vả. Bạch Ngài.
Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con 30 người xứ Pàveyya đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, sau đó sẽ an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại kinh thành Sàvatthi. Khi chúng con đến xứ Sàketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6, chúng con đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại đó, mà tâm của chúng con luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, chúng con thường nói với nhau rằng:
‘Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sàvatthi, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần, nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được’.
Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 chúng con làm đại lễ Pavàranà xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9) tất cả chúng con tiếp tục lên đường đến hầu Đức Thế Tôn.”
Đức Phật Cho Phép Chư Tăng Thọ Y Kathina
Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya, sau khi lắng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, quý Ngài đều chứng đắc thành bậc thánh Arahán.
Nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên Đức Thế Tôn cho phép chư Tỳ khưu, sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Đức Phật dạy rằng:
Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, được thọ y kathina.
Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu là:
1- Khi được thỉnh mời, vị Tỳ khưu ấy có thể ra khỏi ngôi chùa, mà không báo vị Tỳ khưu khác biết. (không phạm giới).
2- Vị Tỳ khưu ấy không giữ gìn đủ taṃ y (không phạm giới).
3- Vị Tỳ khưu ấy được dùng vật thực cùng nhóm (4 vị Tỳ khưu trở lên), dù thí chủ gọi tên vật thực ấy (không phạm giới).
4- Vị Tỳ khưu thọ nhận y dư (ngoài taṃ y) cất giữ quá 10 đêm (không phạm giới).
5- Y phát sinh nơi nào, Tỳ khưu được phép thọ nhận nơi ấy.
Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu này[4].
Sau khi đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, Tỳ khưu nào đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, không thay đổi chỗ ở, dù đi nơi nào, tâm vẫn lưu luyến, ràng buộc với ngôi chùa cũ (chỗ đã an cư nhập hạ), vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu ấy suốt 5 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.
Nếu chư Tỳ khưu Tăng không làm lễ thọ y kathina, cũng không làm lễ hoan hỷ y kathina của chư Tăng, thì chư Tỳ khưu ấy chỉ được hưởng đặc ân 5 quả báu trong 1 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 10, hết hạn quả báu.
Như vậy, sự thật rõ ràng là Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Cho nên, lễ dâng y kathina trở thành truyền thống của Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật mãi cho đến nay.
Đức Phật Gotaṃa cho phép Tỳ khưu Tăng được thọ y kathina từ thời gian nào?
Từ khi Đức Phật Gotaṃa xuất hiện trên thế gian cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn có 45 hạ (vassa: năm). Vào hạ thứ 14, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anàthapindika, gần kinh thành Sàvatthi. Sau khi ra hạ, nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Chính nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên, Đức Thế Tôn cho phép chư Tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina.
Như vậy, lễ dâng y kathina bắt đầu từ sau hạ thứ 14 của Đức Phật và được lưu truyền trở thành truyền thống của Phật giáo mãi cho đến nay.
[1] Tạng luật Thái gọi xứ Patheyya. Nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pàveyya đều là bậc Thánh Hữu Học (bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai) vốn là 30 Hoàng tử huynh đệ cùng phụ hoàng với Đức vua Pasenadi Kosala.
[2] Một do tuần khoảng 20 cây số.
[3] Xứ Ấn Độ mỗi năm có 3 mùa: Mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng; mỗi mùa có 4 tháng.
[4] Tạng Luật, bộ Mahàvagga, phần Kathinakkhandhaka.
|
|
|
Post by tk on Nov 14, 2014 1:51:54 GMT -5
02-Y Kathina Không Thành Tựu và Thành Tựu
Thời xưa, những thí chủ dâng vải đến chư Tỳ khưu Tăng để may y, cho nên, may y là công việc của chư Tỳ khưu. Đặc biệt vải may y kathina phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý. Trong Tạng Luật bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka, Đức Phật quy định có 24 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu và 17 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
* Lễ Thọ Y Kathina Không Thành Tựu
Đức Phật dạy:
Này chư Tỳ khưu, 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu như sau: 1- Tấm vải chỉ vạch đường ngang đường dọc để cắt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
2- Tấm vải mới giặt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
3- Tấm vải mới được chia 5 điều hoặc 7 điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
4- Tấm vải được cắt rời từng điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
5- Tấm y mới được ráp vào: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
6- Tấm y đang được may chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
7- Tấm y được may hai thành đứng hai bên chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
8- Tấm y được may ráp các điều vào chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
9- Tấm y được may hai thành y trên và dưới chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
10- Tấm y mới được may chỗ cột dây (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
11- Tấm y mới được kết gút (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
12- Tấm y nhuộm màu còn nhạt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
13- Tấm vải may y có được do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
14- Tấm vải may y có được do vị Tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
15- Tấm vải may y được mượn của người khác: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
16- Tấm vải may y kathina, vị Tỳ khưu nhận xong cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
17- Tấm vải may y kathina may chưa xong đã qua rạng đông (sang ngày khác): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
18- Tấm y chưa làm dấu tròn kappabindu: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
19- Tấm y không phải là y 2 lớp (saṃghāti): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
20- Tấm y không phải là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
21- Tấm y không phải là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
22- Tấm y không cắt may thành 5 điều hoặc 7 điều: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
23- Không phải là vị Tỳ khưu: Làm lễ thọ y kathina thì không thành tựu.
24- Tỳ khưu thọ y kathina bên ngoài sìmà (ngoài phạm vi) và chư Tỳ khưu nói lời hoan hỷ: Lễ kathina không thành tựu.
- Này chư Tỳ khưu, đó là 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
* Lễ Thọ Y Kathina Được Thành Tựu
Đức Phật dạy:
- Này chư Tỳ khưu, 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu như sau:
1- Tấm vải còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
2- Tấm vải giặt rồi còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
3- Tấm vải cũ may thành y: Làm lễ thọ y được kathina được thành tựu.
4- Lượm lặt những tấm vải dơ (paṃsukūlacīvara) may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
5- Lượm lặt vải người ta xả bỏ may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
6- Tấm vải may y có được không phải do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
7- Tấm vải may y có được không phải do vị Tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
8- Tấm vải may y có được không phải mượn của người khác, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
9- Tấm vải may y kathina mà vị Tỳ khưu may thành y xong, không cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
10- Tấm y kathina may hoàn thành xong trước lúc rạng đông (chưa qua ngày khác): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
11- Tấm y đã làm dấu tròn nhỏ kappabindu xong: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
12- Tấm y ấy là y 2 lớp (saṃghāti): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
13- Tấm y ấy là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
14- Tấm y ấy là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
15- Tấm y cắt may đủ 5 điều (hoặc 7 điều) làm xong trong ngày: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
16- Vị Tỳ khưu là người làm lễ thọ y (không phải nhóm hoặc chư Tỳ khưu Tăng): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
17- Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina bên trong sìmà và chư Tỳ khưu Tăng nói lời hoan hỷ: Lễ thọ y kathina được thành tựu.
- Này chư Tỳ khưu, đó là 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
03-Lễ Dâng Y Kathina Thời Xưa và Thời Nay
Trong thời xưa.
Thí chủ làm lễ dâng vải may y kathina (kathinadussa) đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Sau khi thọ nhận vải may y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sìmà, tuyển chọn một vị Tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā trao tấm vải may y kathina đến cho vị Tỳ khưu đã được chọn ấy.
Việc may y để làm lễ thọ y kathina rất quan trọng và cần kíp, bởi vì tấm y cần phải được may xong trong ngày hôm ấy, để làm lễ thọ y kathina trước lúc rạng đông. Nếu tấm y may chưa xong, trễ sang ngày hôm sau, thì không thể làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy được. Vì vậy, tất cả chư Tỳ khưu trong ngôi chùa, bất luận là vị Tỳ khưu nào đều phải tập hợp chung, lo may cho xong một tấm y, để kịp làm lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Cho nên, mỗi vị Tỳ khưu mỗi việc, trước tiên, vạch đường ngang đường dọc, cắt tấm vải thành tấm y 2 lớp (saṃghāti), hoặc y vai trái (uttarasaṅga), hoặc y nội (antaravāsaka), tất cả chư Tỳ khưu, mỗi vị lo may mỗi phần, ráp vào thành tấm y rồi nhuộm cho đúng màu mà Đức Phật đã chế định. Vị Tỳ khưu kính thỉnh chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy hội họp lại, để cho vị Tỳ khưu đã được tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy xong, tiếp theo vị Tỳ khưu ấy thỉnh mời tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, nếu vị Tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị Tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.
Trong thời nay.
Phần đông thí chủ không làm lễ dâng vải may y kathina, mà dâng y kathina (kathinacīvara), tấm y đã may sẵn, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy. Cho nên, tất cả chư Tỳ khưu không bận rộn chung lo công việc may y, để làm lễ thọ y kathina. Sau khi thọ nhận tấm y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sìmà, tuyển chọn một vị Tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā trao tấm y kathina đến cho vị Tỳ khưu đã được chọn ấy.
Vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy, và thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong rồi, nếu vị Tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị Tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.
* Tấm y kathina như thế nào?
Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do thiện tâm trong sáng của thí chủ. Nếu vải may y kathina (kathinadussa) hoặc tấm y kathina (kathinacīvara) được phát sinh không hợp pháp, bởi do một nguyên nhân, một trong những trường hợp mà Đức Phật đã quy định, thì nghi lễ thọ y kathina chắc chắn không thành tựu, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.
Ví du:
Nếu có vị Tỳ khưu nào tự mình biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina, hoặc Tỳ khưu gián tiếp nói với thí chủ rằng:
“Tấm vải này làm lễ dâng y kathina được” hoặc “Thí chủ làm lễ dâng y kathina được nhiều phước thiện thanh cao” v.v… Khi nghe Tỳ khưu động viên khuyến khích như vậy, thí chủ xin làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì tấm y kathina ấy phát sinh không hợp pháp, vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy chắc chắn không thành tựu lễ thọ y kathina, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.
Trong chú giải bộ Luật Mahāvagga dạy rằng:
“Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭham vaṭṭati, mātaraṃpi viññāpetuṃ na vaṭṭati, ākāsato otiṇṇasadisameva vaṭṭati”[5].
“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y Kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.
Thật ra, Đức Phật cho phép Tỳ khưu có thể xin 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh) từ mẫu thân, phụ thân và những người thân quyến có thỉnh mời trước, thậm chí từ thí chủ có thỉnh mời trước.
Ví dụ:
“Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần thứ vật dụng nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng thứ vật dụng ấy đến cho Ngài”.
Nhưng về y kathina, Tỳ khưu không được phép xin trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, dù thí chủ đó là mẫu thân, phụ thân của mình, huống gì những thí chủ khác. Bởi vì, y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý (kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ).
* Kathina nghĩa là gì?
Danh từ kathina có nhiều nghĩa, trong bộ Vimativinodanīṭīkā, bộ Vajirabuddhiṭīka định nghĩa rằng:
“Kathinan’ti pañcānisaṃse anto karanasamatthatāya thiranti attho”.
Kathina: nghĩa là “vững chắc” bởi vì có khả năng làm cho 5 quả báu được duy trì trong suốt khoảng thời gian 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.
* Tấm y kathina là tấm y nào?
Đức Phật chế định cho phép nhiều loại y như:
- Tấm y 2 lớp là tấm y dùng để đắp mùa lạnh, gọi là tấm y saṃghāti.
- Tấm y vai trái là tấm y mặc che phủ từ cổ xuống dưới đầu gối 4 lóng tay, gọi là tấm y uttarasaṅga.
- Tấm y nội là tấm y mặc che phủ trên lỗ rún xuống dưới đầu gối 8 lóng tay, gọi là tấm y antaravāsaka.
- Tấm y tắm mưa là tấm y dùng để tắm trong mùa mưa, gọi là tấm y vassikasàtika.
- Các tấm y phụ là những tấm y mặc thay cho tấm y trên, gọi là y cìvaraparikkhà-racola.
Trong các loại y trên, Đức Phật cho phép tấm y để làm lễ thọ kathina là 1 trong 3 tấm y: Tấm y saṃghāti, hoặc tấm y uttarasaṅga, hoặc tấm y antaravāsaka, còn lại các tấm y khác không thể làm lễ dâng y kathina được.
|
|
|
Post by tk on Nov 14, 2014 1:53:32 GMT -5
04-Tấm Y Thường Dùng Với Tấm Y Kathina
* Tấm y thường dùng
Gồm các tấm y như tấm y saṃghāti, tấm y uttarasaṅga, tấm y antaravāsaka, các tấm y cìvaraparikkhàracola, v.v… mà vị Tỳ khưu có thể xin từ mẫu thân, phụ thân, bà con thân quyến đã từng thỉnh mời, thậm chí có thể xin từ thí chủ đã từng thỉnh mời rằng:
“Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần tấm y nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng tấm y ấy đến cho Ngài”.
Như vậy, khi nào vị Tỳ khưu cần đến y, có thể đến xin y từ người thí chủ ấy, mà không có lỗi.
* Tấm y kathina
Chỉ là 1 trong 3 tấm y: Tấm y saṃghāti, hoặc tấm y uttarasaṅga, hoặc tấm y antaravāsaka mà Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, được phép làm lễ thọ y kathina.
Tấm y kathina này được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch do thiện tâm trong sạch của thí chủ; tấm y kathina có được không phải do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, hoặc xin trực tiếp hoặc gián tiếp từ thí chủ.
Trong chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga atthakathā dạy rằng:
“Animittakatena atthataṃ hoti kathinaṃ, aparikathākatena atthataṃ hoti kathinaṃ”[1]
“Vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y không phải biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, hoặc vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y không trực tiếp hoặc gián tiếp nói xin thí chủ”.
Bởi vì tấm y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý, không do Tỳ khưu động viên khuyến khích thí chủ làm lễ dâng y kathina.
Thật vậy, trong Chú giải Tạng Luật dạy rằng:
“Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ vaṭṭati, màtaraṃpi vinnàpetum na vaṭṭati, ākāsato otinnasadisameva vaṭṭati”.(2)
“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên, Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.
Thời Gian Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
* Thời gian dâng y thường dùng
Trong một năm có 12 tháng, thí chủ có thể làm lễ dâng y thường dùng bất cứ tháng nào, ngày nào, giờ nào, không hạn định, không bắt buộc, hoàn toàn tuỳ ý của thí chủ. Còn chư Tỳ khưu có thể thọ nhận y mà thí chủ đem đến làm lễ dâng y thường dùng bất cứ thời gian nào, cũng không hạn định.
* Thời gian dâng y kathina
Trong một năm có 12 tháng, Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa xong rồi, chư Tỳ khưu Tăng ấy được phép thọ y kathina, bắt đầu từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10. Trong khoảng thời gian 30 ngày ấy, chỉ có một ngày, đối với chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ tại một ngôi chùa, hoặc tại một nơi chốn nào đó, chư Tỳ khưu ấy chỉ được phép một lần thọ nhận y kathina, mà thí chủ đem đến làm lễ dâng y kathina mà thôi; còn lại 29 ngày khác, chư Tỳ khưu ấy không được phép thọ nhận y kathina nữa.
Còn thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10. Trong khoảng thời gian 30 ngày hay 1 tháng ấy, thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina, còn 11 tháng còn lại, thí chủ không thể làm lễ dâng y kathina được.
Chỗ Ở Được Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
Chỗ ở được dâng y thường dùng
Là chỗ ở của chư Tỳ khưu, như một ngôi chùa, hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, hoặc tại nhà thí chủ, v.v… Thí chủ có đức tin trong sạch đem các tấm y đến làm lễ dâng y thường dùng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) hoặc cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) tại nơi ấy, bao nhiêu lần trong một năm, trong một tháng, trong một ngày cũng được, không hạn chế.
Chỗ ở được dâng y kathina
Là chỗ ở mà chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, v.v… Thí chủ có đức tin trong sạch đem một tấm y đến làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna), không phải đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna). Tại nơi ấy, chư Tỳ khưu Tăng được phép thọ nhận y kathina của thí chủ chỉ có một lần trong một ngày nào trong khoảng thời gian kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10 là hết hạn dâng y kathina.
Cách Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
Bố thí (dâng) có 2 cách:
1- Paṭipuggalikadāna: Dâng đến cá nhân.
2- Saṃghikadāna: Dâng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Dâng (bố thí) đến cá nhân có 14 trường hợp:
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy làm phước dâng đến cá nhân có 14 trường hợp như sau:
1- Dâng cúng dường đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
2- Dâng cúng dường đến Đức Phật Độc Giác.
3- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Arahán.
4- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.
5- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai.
6- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai.
7- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai.
8- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai.
9- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu.
10- Dâng cúng dường đến hành giả đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
11- Làm phước cúng dường đến hành giả ngoài Phật giáo, vị ấy đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc, có ngũ thông.
12- Làm phước cúng dường đến hạng phàm nhân có giới trong sạch như Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ, ...
13- Làm phước bố thí đến hạng người không có giới.
14- Làm phước bố thí đến các loài súc sinh.
Dâng cúng dường đến chư Tăng có 7 trường hợp:
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có 7 trường hợp như sau:
1- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng có Đức Phật chủ trì.
2- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng, sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi.
3- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng (Bhikkhusaṃgha).
4- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu ni Tăng (Bhikkhunisaṃgha).
5- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng và một số Tỳ khưu ni Tăng.
6- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng.
7- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu ni Tăng.
Cách Dâng Y Thường Dùng
Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, đem các y thường dùng dâng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) hoặc dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) cũng được, tuỳ theo tác ý thiện tâm của thí chủ.
Cách Dâng Y Kathina
Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo có trí tuệ hiểu biết rõ rằng: Tấm y kathina chỉ dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) mà thôi, không phải dâng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna).
Người Thí Chủ - Người Thọ Thí
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy Ngài Ānanda rằng:
Này Ānanda, thiện tâm trong sạch của người bố thí và người thọ thí có 4 trường hợp:
1- Người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch.
2- Người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch.
3- Người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
4- Người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch?
Trường hợp này, người bố thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp; còn người thọ thí là người phạm giới, hành ác pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch?
Trường hợp này, người bố thí là người phạm giới, hành ác pháp; còn người thọ thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch?
Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người phạm giới, hành ác pháp
Như vậy, gọi là người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch?
Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạc[2]
[1]- Chú giải Tạng Luật, bộ Mahàvagga, Kathinakkhandhaka.
[2] M.Uparipannasa, kinh Dakkhinàvibhangasutta.
05-Quả Báu Của Paṭipuggalikadāna
Quả báu của phước thiện cúng dường đến 14 hạng cá nhân, Đức Phật dạy mỗi hạng khác biệt nhau như như sau:
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện bố thí đến loài súc sinh như chim, cá, v.v… thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 100 kiếp.
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện bố thí đến người không có giới, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 1000 kiếp.
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến người có giới hạnh trong sạch, như Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 100 ngàn kiếp (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến bậc thiện trí ngoài Phật giáo, vị ấy đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc, có thần thông, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được triệu triệu kiếp (1.000 tỷ kiếp) (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến hành giả đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ vô số kiếp (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán, chư Phật Độc Giác, Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu cao quý đặc biệt trong mỗi cõi được tái sinh. Nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người, thì sẽ là người cao quý đặc biệt, hoặc nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới nào, thì sẽ là chư thiên cao quý có hào quang sáng ngời đặc biệt hơn các chư thiên khác, được vô số kiếp không sao kể xiết. Đặc biệt, thí chủ đã gieo được duyên lành, chắc chắn sẽ được giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Quả Báu Của Saṃghikadāna
Quả báu của phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) trong 7 trường hợp, chắc chắn nhiều hơn quả báu của phước thiện cá nhân thí (paṭipuggalikadāna) gấp bội phần.
Trong 7 trường hợp thí chủ làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, quả báu của mỗi trường hợp chắc chắn có sự khác biệt, nhưng vì lớn lao vô lượng nên không sao kể xiết được.
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy Ngài Đại đức Ānanda có một đoạn rằng:
Này Ānanda, trong thời vị lai sau này, sẽ có số người gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu, còn mảnh y nhỏ quấn cổ, là người không có giới, hành ác pháp. Thí chủ có đức tin trong sạch làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, dù trong nhóm có Tỳ khưu không có giới ấy.
Này Ānanda, phước thiện cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, mặc dù trong nhóm có Tỳ khưu không có giới trong thời kỳ ấy. Như Lai dạy rằng: “Quả báu của phước thiện bố thí ấy được vô lượng không sao kể được! (asaṅkheyyaṃ), không sao lường được! (appameyyaṃ)”.
Này Ānanda, Như Lai không dạy rằng: “Làm phước thiện cúng dường đến cá nhân sẽ hưởng quả báu nhiều hơn làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng”.[1]
[1]M.uparipannasa, kinh Dakkhinàvibhaígasutta.
|
|
|
Post by tk on Nov 14, 2014 1:56:43 GMT -5
06-Phần nghi lễ dâng y Kathina của Thí chủ
Tổ Chức Lễ Dâng Y Kathina
Mỗi ngôi chùa có thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại ngôi chùa ấy. Buổi lễ dâng y kathina thường được tổ chức rất long trọng như một ngày lễ hội trong chùa. Những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có cơ hội tốt rất hiếm có được làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong. Đó là một dịp may, một vinh hạnh lớn lao đối với thí chủ.
Trong thời nay, phần đông thí chủ không dâng vải may y kathina (kathinadussa), mà đã may thành tấm y sẵn, làm lễ kính dâng y kathina (kathinacīvara) đến chư Tỳ khưu Tăng tại một ngôi chùa, hoặc một nơi rừng núi, hang động,… Như vậy, tất cả chư Tỳ khưu Tăng không phải vất vả lo may tấm y cho xong trong ngày hôm ấy, để cho vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Nghi Thức - Lời Cảm Tưởng
Sau khi các Phật tử, cận sự nam, cận sự nữ, lễ bái Taṃ Bảo, kính xin thọ trì phép Taṃ quy và ngũ giới hoặc bát giới xong, trước sự hiện diện của chư Tỳ khưu Tăng, một thí chủ thay mặt tất cả các thí chủ bạch với chư Tỳ khưu Tăng rằng:
“Kính bạch chư Đại đức Tăng, tất cả chúng con hết lòng thành kính đảnh lễ chư Đại đức Tăng, kính xin quý Ngài cho phép con thay mặt các thí chủ nói lên cảm tưởng của chúng con.
Đức Phật dạy: “Buddhuppàdo dullabho lokasmiṃ” Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian này là một điều khó được, rất hiếm có, thật vô cùng hi hữu. Cũng như vậy, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo xuất hiện trên thế gian này cũng là điều khó được, rất hiếm có, thật vô cùng hi hữu. Như vậy, lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng cũng phải là điều khó được, rất hiếm có, thật vô cùng hi hữu. Mà chính hôm nay, tất cả chúng con có cơ hội tốt, một dịp may hiếm có, một vinh hạnh lớn lao, được làm buổi lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại………….(1) này.
Tất cả chúng con thành kính tri ân sâu sắc chư Tỳ khưu Tăng tại………………(1) và chư Đại đức Tăng đã đến tham dự buổi lễ dâng y kathina, theo sự thỉnh mời của chúng con.
Kính thưa quý Ngài, tuy Phật giáo vẫn lưu truyền trên thế gian, chư Tỳ khưu Tăng vẫn còn hiện hữu, nhưng không phải có mặt khắp mọi nơi. Cho nên chúng con phải chờ đợi qua một thời gian lâu, mãi đến hôm nay, tất cả chúng con mới có được cơ hội tốt, một dịp may hiếm có, một vinh hạnh lớn lao, được làm buổi lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại………….(1) Bởi vì, trong một năm có 12 tháng, chỉ có một tháng, tất cả chúng con có cơ hội tốt, có duyên lành làm buổi lễ dâng y kathina. Trong một tháng có 30 ngày, tại ……..……(1) này, tất cả chúng con chỉ có một ngày duy nhất này, mà trong ngày này có 24 giờ, tất cả chúng con chỉ có được giờ này là giờ làm buổi lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng mà thôi. Như vậy, tất cả chúng con không hoan hỷ làm sao được! Thật ra chúng con vô cùng hoan hỷ! Và chúng con vô cùng biết ơn chư Tỳ khưu Tăng đã dành cho tất cả chúng con nguồn phước thiện vô lượng, niềm hạnh phúc vô biên này. Cho nên chúng con không tìm thấy có danh từ ngôn ngữ nào diễn tả được. Tất cả chúng con thành kính đảnh lễ chư Đại đức Tăng với tất cả tấm lòng tôn kính và tri ân của chúng con. Tiếp theo chúng con xin phép làm buổi lễ dâng y kathina”.
Người thí chủ thay mặt tất cả các thí chủ, hai tay nâng tấm y kathina (kathinacīvara) hướng dẫn tất cả các thí chủ khác đồng thanh đọc bài dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng được phát sinh cùng trong lễ dâng y kathina ấy. Tấm y kathina cùng tất cả các thứ vật dụng đều kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng tại……………….(1) bằng tiếng Pàli và dịch ra tiếng Việt như sau:
Lời Dâng Y Kathina (Kathinacīvaradàna)
Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṇghañceva kaṃmaṃ kaṃmaphalañca saddahitvà, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbànassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ saParivāraṃ kathinacīvaraṃ “Viên Không araññe”[1] bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma, kathinaṃ attharituṃ.
Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saParivāraṃ kathinacīvaraṃ paṭiggaṇhàtu, paṭiggaịhitvà iminà kathinacìvarena kathinaṃ attharatu, amhàkaṃ dìgharattaṃ atthāya, hitāya, sukhāya.
Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!
Ý nghĩa:
- Kính bạch chư Đại đức Tăng được rõ:
Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sinh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại “Núi rừng Viên Không”(2).
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận y kathina cùng với các thứ vật dụng này, khi quý Ngài thọ nhận xong, xin quý Ngài làm lễ thọ y kathina với tấm y này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!
Một thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ tự tay đem tấm y kathina dâng đến chư Tỳ khưu Tăng; vị Đại Trưởng Lão thay mặt chư Tăng thọ nhận tấm y kathina để làm lễ thọ y kathina đúng theo luật của Đức Phật đã ban hành.
Phát nguyện - Hồi hướng
Sau khi những thí chủ dâng tấm y kathina cùng với những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng xong, trở về chỗ ngồi, hướng dẫn mọi người thành tâm phát nguyện rằng:
Idaṃ me kathinadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.
Nguyện cầu phước thiện dâng y kathina này, dẫn dắt con chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo Arahán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.
Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.
Cầu mong phước thiện dâng y kathina thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của tất cả chúng con, cầu mong cho những thân bằng quyến thuộc được thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.
Chúng con thành tâm chia phần phước thiện dâng y kathina thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỷ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, được thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Người thí chủ thay mặt thưa rằng:
- Kính thưa tất cả quý vị, phần phước thiện của lễ dâng y kathina của tất cả chúng ta được thành tựu mỹ mãn, về phần vật thí, tuy kẻ ít người nhiều, song về phần phước thiện buổi lễ dâng y kathina thanh cao, tất cả chúng sanh nói chung, mỗi người trong chúng ta nói riêng, phước thiện đồng đều nhau cả thảy.
Kính xin quý vị đồng nói lời hoan hỷ (3 lần)
Sādhu! Sādhu! Anumodāma!.
Lành thay! Lành thay! Tất cả chúng ta đồng hoan hỷ phước thiện lễ dâng y kathina của ngày hôm nay!.
(Xong phần nghi lễ dâng y kathina của tất cả các thí chủ)
1 Tên chỗ ở mà chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ.
2 Tên ngôi chùa đang làm lễ. Ở đây ví dụ núi rừng Viên Không “Viên Không aranne”, hoặc Tổ đình Bửu Long thì đọc “Bửu Long àràme”
3 Hatthapàda là khoảng cách từ người thí chủ đến chỗ ngồi của vị Đại đức 2 cùi tay và 1 gang, khoảng 1 mét.
07-Phần nghi thức lễ thọ y Kathina của chư Tăng
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ tại một ngôi chùa hoặc một nơi núi rừng, hang động, đang tụ họp tại sìmà.
Sau khi tất cả các thí chủ đọc bài lễ dâng y kathina xong, người thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ đem tấm y kathina đến gần vị Đại đức khoảng cách trong hatthapàda([1][3]) cung kính dâng tận tay vị Đại đức ấy. Vị Đại đức thay mặt chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận tấm y kathina của thí chủ, đúng theo luật ([2][4]) của Đức Phật đã chế định. Sau khi thọ nhận tấm y kathina xong, Ngài Đại đức đem tấm y vào trình giữa chư Tỳ khưu Tăng.
Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch do đại thiện tâm hợp với trí tuệ của thí chủ, hiểu rõ phước thiện thanh cao của lễ dâng y kathina và quả báu cao quý của lễ dâng y kathina; cho nên, tấm y kathina ấy ví như từ trên hư không rơi xuống giữa chư Tỳ khưu Tăng, không dành riêng cho một vị Tỳ khưu nào cả.
Thí chủ đã dâng tấm y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, như vậy tấm y kathina ấy là của chư Tỳ khưu Tăng cả thảy, không phải của cá nhân Tỳ khưu nào.
Theo Tạng Luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng: Chư Tỳ khưu Tăng (Bhikkhusaṃgha) hoặc nhóm Tỳ khưu (ganabhikkhu) không thể làm lễ thọ y kathina được, Đức Phật chỉ cho phép một vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina mà thôi.
Tuyển chọn Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, đang tụ họp có mặt đông đủ tại sìmà, và tấm y kathina đã phát sinh đến chư Tỳ khưu Tăng rồi, chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn vị Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Theo luật, tất cả chư Tỳ khưu Tăng thường dành ưu tiên cho Tỳ khưu có y cũ, y rách, Tỳ khưu ấy xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, như chú giải Tạng Luật dạy:
“Yo idha jiṇṇacìvaro, tassa dadeyya”([3][5]).
“Tại sìmà, chư Tỳ khưu Tăng đang tụ hội đông đủ, Tỳ khưu nào có y cũ, y rách, chư Tỳ khưu Tăng nên trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng”.
Trường hợp tại nơi sìmà, nếu không có vị Tỳ khưu nào có y cũ, y rách, thì chư Tỳ khưu Tăng nên trao tấm y kathina đến bậc Đại Trưởng Lão, bậc Đại Trưởng Lão hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, như chú giải Tạng Luật dạy:
“Tena hi vuddhassa dadeyya”(6).
“Nếu không có vị Tỳ khưu có y cũ, y rách thì chư Tỳ khưu Tăng nên trao tấm y kathina đến bậc Đại Trưởng Lão xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng”.
Nếu trường hợp bậc Đại Trưởng Lão không chịu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng thì chư Tỳ khưu Tăng trao tấm y kathina đến vị Đại Trưởng Lão bậc thấp theo tuần tự cho đến khi tuyển chọn được một vị Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
8 Chi Pháp
Vị Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina cần phải hiểu biết đầy đủ 8 chi pháp như trong Tạng Luật, bộ Parivāra dạy:
“Kataṃehi aṭṭhahaṅgehi samannāgato puggalo bhabbo kathinaṃ attharituṃ. Pubbakaranaṃ jānāti, paccuddhāraṃ jānāti, adhiṭṭhānaṃ jānāti, atthàraṃ jānāti, màtikaṃ jānāti, palibodhaṃ jānāti, uddhāraṃ jānāti, ānisamsaṃ jānāti. Imehi aṭṭhahaṅgehi samannāgato puggalo bhabbo kathinaṃ attharituṃ”(7)
Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng cần phải biết đầy đủ 8 chi pháp là:
1- Pubbakaranaṃ jānāti: Biết công việc ban đầu như đo, cắt, may y, nhuộm thành tấm y xong trong ngày, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
2- Paccuddhāraṃ jānāti: Biết cách xả tấm y cũ của mình.
3- Adhiṭṭhānaṃ jānāti: Biết cách nguyện tấm y mới của chư Tăng.
4- Atthàraṃ jānāti: Biết cách làm lễ thọ kathina của chư Tăng.
5- Màtikaṃ jānāti: Biết 8 trường hợp mất quả báu kathina.
6- Palibodhaṃ jānāti: Biết 2 cách gắn bó, ràng buộc: chỗ ở và may y.
7- Uddhāraṃ jānāti: Biết cách tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina cũ.
8- Ānisamsaṃ jānāti: Biết rõ 5 quả báu của kathina của chư Tăng.
Tỳ khưu biết rõ đầy đủ 8 chi pháp này, xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Phần Giải Thích 8 Chi Pháp
1- Biết công việc ban đầu như đo, cắt, may y
Thời xưa, thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, làm lễ dâng vải may y kathina (kathinadussa) đến chư Tỳ khưu Tăng, cho nên, sau khi thọ nhận vải may y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu biết công việc ban đầu may thành tấm y. Công việc ban đầu may tấm y không phải việc riêng của vị Tỳ khưu ấy mà toàn thể chư Tỳ khưu không ngoại trừ vị nào, đều đến tụ họp chung lo đo, cắt, may thành một tấm y, nhuộm cho xong trong ngày hôm ấy, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, không thể để trễ sang ngày hôm sau.
Thời nay, phần đông thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, không làm lễ dâng vải may y kathina, mà đã may thành tấm y, rồi làm lễ dâng y kathina (kathinacīvara) đến chư Tỳ khưu Tăng. Cho nên, sau khi đã thọ nhận y kathina xong, (toàn thể chư Tỳ khưu không phải chung lo công việc may thành một tấm y nữa), chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu xứng đáng, rồi hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā trao tấm y kathina của chư Tăng cho vị Tỳ khưu ấy để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
2- Biết cách xả tấm y cũ của mình
Thời nay, thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, thường làm lễ dâng taṃ y: y saṃghāti, y uttarasaṅga, y antaravāsaka. Nếu có đủ 3 tấm y này, thì chỉ chọn 1 tấm nào là tấm y để làm lễ thọ y kathina, còn lại 2 tấm khác không phải y kathina, mà chỉ là những tấm y quả báu của kathina mà thôi.
* Nếu vị Tỳ khưu ấy muốn thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāti, thì phải xả tấm y saṃghāti cũ của mình như sau:
“Imaṃ saṃghātim paccuddhārāmi”.
(Tôi xin xả bỏ tấm y saṃghāti này).
* Nếu vị Tỳ khưu ấy muốn thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarasaṅga, thì phải xả tấm y uttarasaṅga cũ của mình như sau:
“Imaṃ uttarasaṅgam paccuddhārāmi”.
(Tôi xin xả bỏ tấm y uttarasaṅga này).
* Nếu vị Tỳ khưu ấy muốn thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka, thì phải xả tấm y antaravāsaka cũ của mình như sau:
“Imaṃ antaravāsakaṃ paccuddhārāmi”.
(Tôi xin xả bỏ tấm y antaravāsaka này).
Vị Tỳ khưu muốn thọ y kathina với tấm y nào trong 3 tấm y trên, thì phải xả tấm y cũ ấy của mình.
3- Biết cách nguyện tấm y mới của chư Tăng
Vị Tỳ khưu đã xả tấm y cũ nào của mình rồi, thì nên nguyện tấm y mới ấy của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Trước khi nguyện tấm y nào, vị Tỳ khưu cần phải làm dấu “kappabindum karomi” làm dấu vòng tròn bằng mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xám hoặc màu xanh.
* Nếu vị Tỳ khưu đã xả tấm y saṃghāti cũ của mình xong rồi, thì nguyện tấm y saṃghāti mới của chư Tăng như sau:
“Imaṃ saṃghātim adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y saṃghāti này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã xả tấm y uttarasaṅga cũ của mình xong rồi, thì nguyện tấm y uttarasaṅga mới của chư Tăng như sau:
“Imaṃ uttarasaṅgam adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y uttarasaṅga này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã xả tấm y antaravāsaka cũ của mình xong rồi, thì nguyện tấm y antaravāsaka mới của chư Tăng như sau:
“Imaṃ antaravāsakaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y antaravāsaka này).
Vị Tỳ khưu đã xả tấm y cũ nào của mình rồi, thì nên nguyện tấm y mới ấy của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy.
4- Biết cách làm lễ thọ y kathina của chư Tăng
Vị Tỳ khưu ấy đã nguyện tấm y mới nào của chư Tăng xong rồi, thì làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y mới ấy như sau:
* Nếu vị Tỳ khưu đã nguyện tấm y saṃghāti xong rồi, thì làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāti như sau:
“Imàya saṃghātiyà kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāti này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã nguyện tấm y uttarasaṅga xong rồi, làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarasaṅga như sau:
“Iminà uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarasaṅga này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã nguyện tấm y nội gọi y antaravāsaka xong rồi, thì làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y nội gọi y antaravāsaka như sau:
“Iminà antaravāsakena kathinaṃ attharāmi”
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka này).
Vị Tỳ khưu ấy chỉ được phép thọ y kathina của chư Tăng với một tấm trong 3 tấm y ấy mà thôi.
5- Biết 8 trường hợp mất quả báu của lễ Kathina
Sau khi đã làm lễ thọ y kathina và đã đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, nếu vị Tỳ khưu nào có 1 trong 8 trường hợp sau đây, thì vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina.
5. 1 - Pakkaṃantika: Do từ bỏ ngôi chùa (chỗ ở cũ).
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải phần của mình chưa đủ may thành tấm y, từ bỏ ngôi chùa cũ, hoặc nơi đã an cư nhập hạ cũ, với ý nghĩ rằng:
“Ta sẽ không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) này nữa” bước ra khỏi ranh giới chùa (chỗ ở) cũ.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina do từ bỏ ngôi chùa cũ.
5. 2 - Niṭṭhānantika: Do may y xong.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta sẽ may y tại ngôi chùa này xong rồi không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) cũ nữa”.
Như vậy, khi vị Tỳ khưu ấy may xong tấm y, đồng thời cũng mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do may y xong và không trở lại ngôi chùa cũ.
5. 3 - Sanniṭṭhānantika: Do quyết định không may y và cũng không trở lại.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta sẽ không may y tại ngôi chùa này và cũng không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) cũ nữa”.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do quyết định không may y và cũng không trở lại ngôi chùa cũ.
5. 4- Nāsanantika: Do vải may y bị hư, bị mất.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta sẽ may y tại ngôi chùa này và cũng không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) cũ nữa” Vị Tỳ khưu ấy đang may y chưa xong, thì y của vị Tỳ khưu ấy bị hư, bị mất”.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, khi y bị hư, bị mất.
5. 5- Savanantika: Do nghe tin xả y kathina.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác may y xong sẽ trở lại ngôi chùa cũ. Khi vị Tỳ khưu ấy may y xong, nghe tin rằng:
“Ngôi chùa cũ mà mình đã an cư nhập hạ, chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakaṃmavācā xả y kathina rồi”.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy hết quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do nghe tin tại ngôi chùa cũ chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina xong rồi.
5. 6- Āsāvacchedika: Do mất hy vọng được y.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác với hy vọng rằng:
“Tại ngôi chùa này, ta sẽ hy vọng có thí chủ dâng y và không trở lại ngôi chùa cũ”.
Khi vị Tỳ khưu ấy đến ngôi chùa mới ấy, với hy vọng có được y, nhưng không được y như đã hy vọng.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do mất hy vọng được y.
5. 7- Sìmàtikkaṃantika: Do quá hạn thời gian hưởng quả báu của kathina.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem vải may y đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta may y tại ngôi chùa này xong, sẽ trở về ngôi chùa cũ.”
Khi vị Tỳ khưu ấy may xong y, trở về ngôi chùa cũ, thì thời gian đã qua rằm tháng 2.
Như vậy, thời gian mà vị Tỳ khưu ấy hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina đã hết.
5. 8- Sahubbhàra: Do cùng chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakaṃmavàca xả y kathina.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem vải may y đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta may y tại ngôi chùa mới này xong, sẽ trở về ngôi chùa cũ.”
Khi vị Tỳ khưu ấy may xong y, trở về ngôi chùa cũ đồng thời cùng với chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina tại ngôi chùa cũ.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy hết hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina cùng với chư Tỳ khưu Tăng tại nơi chùa cũ.
Đó là 8 trường hợp mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina.
6- Biết 2 cách gắn bó, ràng buộc: Chỗ ở và may y
Gắn bó, ràng buộc có 2 cách:
6. 1- Àvasapalibodha: Gắn bó, ràng buộc chỗ ở nơi mà mình đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa (cũ), nơi núi rừng, hay hang động...
6. 2- Cìvarapalibodha: Gắn bó, ràng buộc vào sự may y.
* Gắn bó, ràng buộc chỗ ở như thế nào?
Vị Tỳ khưu nào đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, vv… được làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã được nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu ấy có phận sự phải đi đến ở một nơi khác, dù thời gian mau hoặc lâu mà tâm của vị Tỳ khưu ấy vẫn luôn luôn nghĩ sẽ trở lại ngôi chùa cũ hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động cũ, vv... mà mình đã từng an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Vị Tỳ khưu ấy vẫn hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của lễ kathina.
Như vậy, gọi là vị Tỳ khưu gắn bó, ràng buộc nơi chỗ ở cũ đã an cư nhập hạ.
* Gắn bó, ràng buộc vào sự may y như thế nào?
Vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc nơi đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa (chỗ ở) mới khác, để may cho thành tấm y, hoặc hy vọng sẽ có thêm vải để may cho thành tấm y.
Như vậy gọi là gắn bó, ràng buộc vào sự may y.
Nếu vị Tỳ khưu ấy đã cắt, may, nhuộm tấm y xong hoặc tấm y bị cháy hoặc bị mất, không có hy vọng có được tấm y mới nữa, thì vị Tỳ khưu ấy không còn gắn bó, ràng buộc vào sự may y nữa.
Thời nay, phần đông thí chủ không dâng vải may y đến chư Tỳ khưu Tăng, mà làm phước thiện cúng dường đến chư Tỳ khưu những tấm y đã may sẵn. Cho nên, chư Tỳ khưu không phải vất vả, cực nhọc lo cắt, may, nhuộm y nữa. Do đó, vị Tỳ khưu không còn gắn bó, ràng buộc vào sự may y nữa, chỉ còn gắn bó, ràng buộc nơi chỗ ở mà thôi. Vị Tỳ khưu nào còn gắn bó, ràng buộc nơi chỗ ở, vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng, cho đến ngày rằm tháng 2, mới hết thời hạn quả báu của lễ kathina.
7- Biết cách tụng Ñattidutiyakaṃmavācā xả y kathina cũ
Xả y kathina có 2 trường hợp:
7. 1- Sahubbhàra: Vị Tỳ khưu may y xong từ một ngôi chùa khác trở về ngôi chùa cũ (chỗ mà vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ) đúng lúc cùng chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina của chư Tăng, trường hợp này ở trong trường hợp thứ 8, Tỳ khưu hết hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina.
7. 2- Antarubbhàra: Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đang ở tại ngôi chùa mà tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, đang hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina chưa đến ngày rằm tháng 2, (chưa hết thời hạn quả báu của lễ kathina). Trong ngôi chùa này, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí tụ hợp tại sìmà hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina cũ, để thọ y kathina mới không phải thời.
Trường hợp này, trong Tạng Luật, phần Bhikkhunìvibhaíga, tích chuyện được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của Ông phú hộ Anàthapindika, gần kinh thành Sàvatthi, có một trường hợp như sau:
Tena kho pana samayena aññatarena upàsakena samghaṃ uddissa vihàro kàràpito hoti. So tassa viharassa mahe ubhatosaṃghassa akàlacīvaraṃ dàtukàmo hoti. Tena kho pana samayena ubhatosaṃghassa kathinaṃ atthataṃ hoti.
Àtha kho so upàsako samghaṃ upasaíkaṃitvà kathinuddhāraṃ yàci. Bhagavato etaṃatthaṃ àrocesuṃ. Atha kho Bhagavà etasmiṃ nidàne etasmiṃ pakarane dhammiṃ kathaṃ katvā bhikkhū āmantesi: “Anujànàmi Bhikkhave kathinaṃ uddharituṃ, …”[4]
Ý nghĩa:
Khi ấy, một người cận sự naṃ cho người xây cất một ngôi chùa xong, người ấy tổ chức lễ khánh thành ngôi chùa có nguyện vọng dâng y không phải thời (akàlacìvara) đến chư Tỳ khưu Tăng hai phái: chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng, khi ấy, chư Tỳ khưu Tăng hai phái đã làm lễ thọ y kathina xong rồi, người cận sự naṃ đến hầu đảnh lễ chư Đại đức Tăng, kính xin quý Ngài xả y kathina cũ. Chư Tỳ khưu đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch với Đức Thế Tôn về lời yêu cầu của người cận sự naṃ ấy. Khi ấy, trong trường hợp này, nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp giảng dạy chư Tỳ khưu Tăng xong, Ngài gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép các con xả y kathina, …”
Hành Tăng Sự Xả Y Kathina
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí tụ họp tại sìmà, một vị Tỳ khưu luật sư rành rẽ cách tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina của chư Tăng như sau:
“Sunàtu me Bhante Saṃgho, yadi Saṃghassa pattakalaṃ, Saṃgho kathinaṃ uddhareyya, esa natti.
Sunàtu me Bhante Saṃgho, Saṃgho kathinaṃ uddharati, yassāyasmato khamati, kathinassa uddhàro, so tunhassa, yassa nakkhamati, so bhàreyya.
Ubbhataṃ Samghena kathinaṃ, khamati Saṃghassa, Tasmā tumhì. Evametaṃ dhàrayàmi”
Ý nghĩa:
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời tuyên ngôn của con. Nếu việc hành Tăng sự hợp thời đối với chư Tỳ khưu Tăng. Kính xin chư Tăng xả y kathina. Đó là lời tuyên ngôn, kính bạch quý Ngài được rõ.
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời thành sự ngôn của con. Chư Tăng xả y kathina, vị Tỳ khưu nào hài lòng sự xả y kathina, xin vị Tỳ khưu ấy ngồi im lặng; vị Tỳ khưu nào không hài lòng sự xả y kathina, xin vị Tỳ khưu ấy phát biểu lên giữa chư Tăng.
Chư Tỳ khưu Tăng đã xả y kathina rồi, chư Tỳ khưu Tăng đều hài lòng, vì vậy, quý Ngài ngồi im lặng. Con xin ghi nhận trạng thái hài lòng bằng cách im lặng ấy.
(Hành Tăng sự xả y xong)
Sau khi chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí hành Tăng sự tụng Ĩattidutiya-kaṃmavācā xả y kathina của chư Tăng xong, kể từ đó về sau cho đến ngày rằm tháng 2, tất cả chư Tỳ khưu Tăng trong ngôi chùa ấy mất hết quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng.
Xả và Không Nên Xả Y Kathina Của Chư Tăng
* Trường hợp nào nên xả y kathina của chư Tăng?
Trong ngôi chùa đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, nhưng những tấm y phát sinh trong dịp lễ kathina này quá ít, nên phần đông chư Tỳ khưu không có đủ tấm y để mặc, chịu cảnh thiếu thốn y. Nếu có thí chủ phát sinh đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, có ý nguyện muốn làm lễ dâng y kathina không phải thời (akàlacìvara) cùng với rất nhiều y phụ đến chư Tỳ khưu Tăng một cách đầy đủ, tất cả chư Tỳ khưu Tăng trong ngôi chùa hội họp đông đủ tại sìmà, không thiếu vị Tỳ khưu nào, đồng tâm nhất trí xả y kathina của chư Tăng.
Sau khi đã xả y kathina của chư Tăng xong rồi, chư Tỳ khưu Tăng mất hết quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng. Và chư Tỳ khưu Tăng có thể thọ nhận y kathina mới cùng với các y phụ của thí chủ, cốt để cho tất cả chư Tỳ khưu có được đầy đủ y, đồng thời giữ gìn được đức tin trong sạch của thí chủ sau.
Như vậy, trường hợp tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng xét thấy rằng: Lễ thọ nhận y kathina của thí chủ lần trước, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ấy quá ít, cho nên phần đông chư Tỳ khưu không có đủ y để mặc; và nếu thọ nhận y kathina của thí chủ lần sau, thì phần đông chư Tỳ khưu có được đầy đủ y mặc, cho nên tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí xả y kathina của thí chủ trước, để thọ y kathina của thí chủ lần sau.
Nếu trường hợp tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng xét thấy rằng: lễ thọ nhận y kathina của thí chủ lần trước, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ấy, tất cả chư Tỳ khưu cũng có được y mặc, và nếu thọ nhận y kathina của thí chủ lần sau, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina cũng bằng lần trước, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí có thể xả y kathina của thí chủ trước, để thọ y kathina của thí chủ sau, cốt để giữ gìn đức tin trong sạch của thí chủ sau.
* Trường hợp nào không nên xả y kathina của chư Tăng?
Trường hợp tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng xét thấy rằng: lễ thọ nhận y kathina của thí chủ lần trước, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ấy, tất cả chư Tỳ khưu có được y mặc đầy đủ, và nếu thọ nhận y kathina của thí chủ lần sau, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ít hơn lần trước, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng không nên xả y kathina của chư Tăng, để cho chư Tỳ khưu được quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, hết thời hạn quả báu kathina.
4 Chú y: Để buổi lễ thọ y kathina được thành tựu, tấm y kathina mà thí chủ chưa kính dâng đến tận tay của vị Đại Trưởng Lão. Tỳ khưu không được đụng chạm đến tấm y kathina ấy và cũng không được phép dời tấm y kathina ấy sang chỗ khác. Nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý đụng chạm đến tấm y kathina ấy, vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới (durupacinnadukkata). Và nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý dời tấm y kathina sang chỗ khác, vị tỳ khưu ấy bị phạm giới (uggahitakadukkata) tấm y kathina ấy không hợp theo luật. Dù thí chủ dâng tấm y kathina ấy đến chư Tỳ khưu tăng, nhưng vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng không thành tựu, bởi vì tấm y kathina không còn hợp theo luật. (căn cứ theo điều giới Dantaponasikkhàpada).
5 Chú giải Tạng Luật, bộ Mahàvagga, phần Kathinakkhandha.
6 Chú giải Tạng Luật, bộ Mahàvagga, phần Kathinakkhandha.
7 Vinayapitaka, bộ Parivàra, phần Pubbakarananidànàdivibhàga.
8 Vinayapitaka, Bhikkhunìvibhaíga, dasamasikkhapàda.
|
|
|
Post by tk on Nov 14, 2014 1:58:41 GMT -5
08-Biết rõ 5 quả báu của kathina
Đức Phật dạy:
- “Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, được thọ y kathina.
Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu là:
* Khi được thỉnh mời, vị Tỳ khưu ấy có thể ra khỏi chùa, mà không báo vị Tỳ khưu khác biết. (không phạm giới).
* Vị Tỳ khưu ấy không giữ gìn đủ taṃ y (không phạm giới).
* Vị Tỳ khưu ấy được dùng vật thực cùng nhóm (4 vị Tỳ khưu trở lên), dù thí chủ gọi tên vật thực ấy (không phạm giới).
* Vị Tỳ khưu thọ nhận y dư (ngoài taṃ y) cất giữ quá 10 đêm (không phạm giới).
* Y phát sinh nơi nào, Tỳ khưu được phép thọ nhận nơi ấy.
- Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu này”.
Như vậy, khi vị Tỳ khưu do chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn, làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, và tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, nếu vị Tỳ khưu nào không nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina, thì vị Tỳ khưu ấy không hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng.
5 quả báu của lễ kathina như thế nào?
1- Quả báu thứ nhất: Anāmantacāra
Đức Phật chế định điều giới và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng như sau:
“Yo pana bhikkhu nimantito sabhatto samàno santaṃ bhikkhum anàpucchà purebhattaṃ và pacchàbhattaṃ và kulesu càrittaṃ àpajjeyya aññatra samayà, Pācittiyaṃ. Tatthāyaṃ samayo: cìvaradànasamayo, cìvarakārasamayo, ayaṃ tattha samayo”([1][9])
Ý nghĩa:
(Tỳ khưu nào được thỉnh mời dùng vật thực (tại nhà thí chủ), không thông báo cho vị Tỳ khưu khác biết, rời khỏi chùa đi đến nhà thí chủ trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn, vị Tỳ khưu ấy phạm giới Pācittiya. Ngoại trừ trường hợp lúc làm phước bố thí dâng y kathina, lúc may y. Trong trường hợp này, vị Tỳ khưu ấy không phạm giới Pācittiya).
Như vậy, do nhờ hưởng quả báu của lễ thọ y kathina, dù vị Tỳ khưu nào có phận sự đi khỏi chùa, đi đến nhà thí chủ, mà không thông báo cho vị Tỳ khưu khác ở trong chùa biết, vị Tỳ khưu ấy không bị phạm giới Pācittiya này, cho đến hết rằm tháng 2, hết hạn hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.
2- Quả báu thứ nhì: Asamādānacāra
Đức Phật chế định điều giới và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng như sau:
“Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunà ubbhatasmiṃ kathine ekarattaṃpi ce bhikkhu ticìvarena vippavaseyya, aññatra bhikkhusammutiyà nisaggiyaṃ Pācittiyaṃ”[10]
Ý nghĩa:
(Tấm y của Tỳ khưu đã may xong, hoặc đã xả y kathina rồi, nếu vị Tỳ khưu nào ở cách xa taṃ y, ngoại trừ Tỳ khưu bị bệnh, được chư Tăng cho phép, Tỳ khưu ấy phải xả tấm y ấy, rồi xin sám hối giới Pācittiya).
Giải thích:
Tỳ khưu đã nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong:
* Nếu tại chỗ ở ấy không có làm lễ thọ y kathina, thì vị Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu trong vòng 1 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10.
* Nếu tại chỗ ở ấy có thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tăng, Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina và tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì mỗi vị Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, cho đến ngày rằm tháng 2. Trong khoảng thời gian đang hưởng quả báu của kathina,Tỳ khưu có thể ở cách xa taṃ y, mà taṃ y ấy không phải bị xả và Tỳ khưu cũng không bị phạm giới Pācittiya.
Khi hết hạn hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina rồi, nếu Tỳ khưu nào ở cách xa taṃ y hoặc 1 tấm y nào quá khoảng cách 2 hắt tay và 1 gang (khoảng 1 mét) lúc rạng đông, thì tấm y ấy phải bị xả và vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới Pācittiya.
Cách Xả Tấm Y:
Vị Tỳ khưu mang tấm y bị xả ấy đến một vị Tỳ khưu cao hạ khác xin xả tấm y ấy như sau:
“Idaṃ me bhante cīvaraṃ rattivippavuttham aññatra bhikkhusammutiyà nisaggiyaṃ, imàham àyasmato nisajjàmi”.
Ý nghĩa:
(Kính bạch Ngài Đại đức, tấm y này của tôi bị ở cách xa tôi qua đêm, nên phải bị xả. Tôi xin xả tấm y này đến Ngài).
* Nếu có nhiều (2-3) tấm y ở cách xa mình qua đêm, thì cách xả y như sau:
“Imàni me bhante cìvaràmi rattivippavutthàni aññatra bhikkhusammutiyà nisaggiyàni, imàni ahaṃ àyasmato nisajjàmi”.
Ý nghĩa:
(Kính bạch Ngài Đại đức, những tấm y này của tôi bị ở cách xa tôi qua đêm, nên phải bị xả. Tôi xin xả những tấm y này đến Ngài).
Sau khi xả tấm y ấy xong, vị Tỳ khưu ấy xin sám hối phạm giới Pācittiya với vị Tỳ khưu nhận tấm y ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu nhận tấm y ấy phải cho lại vị Tỳ khưu tấm y ấy (không cho y lại không được) như sau:
“Imaṃ cīvaraṃ àyasmato dammi”.
(Tôi xin cho lại pháp hữu tấm y này).
* Nếu có nhiều tấm y thì cách cho lại như sau:
“Imàni cīvarāni àyasmato dammi”.
(Tôi xin cho lại pháp hữu những tấm y này).
Vị Tỳ khưu nhận lại tấm y xong nguyện lại tấm y ấy và giữ gìn tấm y đúng theo giới luật của Đức Phật.
Như vậy, do nhờ hưởng quả báu của lễ kathina của chư Tăng, cho nên Tỳ khưu có thể ở cách xa tấm y khoảng ngoài 2 hắt tay và 1 gang (khoảng 1 mét) lúc rạng đông, thậm chí, Tỳ khưu đi nơi nào không mang theo đủ taṃ y, tấm y ấy không phải bị xả, và Tỳ khưu cũng không bị phạm giới Pācittiya.
Đó là do quả báu của kathina của chư Tăng.
3- Quả báu thứ ba: Ganabhojana
Đức Phật chế định điều giới và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng như sau:
“Gaṇabhojane aññatra samayà Pācittiyaṃ. Tatthāyaṃ samayo gilànasamayo, cìvaradànasamayo, cìvarakàrasamayo, addhànagamanasamayo, nàvàbhiruhanasamayo, mahàsamayo, samanabhattasamayo, ayaṃ tattha samayo”.[11]
Ý nghĩa:
(Chư Tỳ khưu từ 4 vị trở lên dùng các món vật thực theo nhóm Tỳ khưu mà thí chủ thỉnh mời bằng cách gọi tên món vật thực, chư Tỳ khưu ấy bị phạm giới Pācittiya. Ngoại trừ trường hợp lúc bệnh hoạn ốm đau, lúc làm phước bố thí dâng y, lúc may y, lúc đi đường, lúc đi tàu, thuyền, lúc hội chư Tỳ khưu, lúc dùng vật thực của Samôn, những trường hợp này, chư Tỳ khưu không bị phạm giới Pācittiya).
Như vậy, nếu có thí chủ thỉnh mời bằng cách gọi tên món vật thực.
Ví dụ: “Ngày mai, con kính thỉnh quý Ngài đến nhà con dùng món cơm, canh, bánh bột lọc, thịt, cá, v.v…” Nếu nhóm Tỳ khưu từ 4 vị trở lên cùng nhau đi đến nhà thí chủ dùng các món ấy, thì nhóm Tỳ khưu ấy đều bị phạm giới Pācittiya này.
Ngoại trừ 7 trường hợp trên, dù chư Tỳ khưu từ 4 vị trở lên cùng dùng các món vật thực mà thí chủ gọi tên món vật thực ấy, chư Tỳ khưu ấy vẫn không bị phạm giới Pācittiya.
Và trường hợp chư Tỳ khưu từ 3 vị trở xuống cùng nhau dùng các món vật thực mà thí chủ gọi tên món vật thực ấy, bất cứ lúc nào chư Tỳ khưu ấy cũng không bị phạm giới Pācittiya ấy.
Do nhờ hưởng quả báu của kathina, cho nên chư Tỳ khưu từ 4 vị trở lên cùng nhau độ các món vật thực mà người thí chủ thỉnh mời bằng cách gọi tên món vật thực ấy, không bị phạm giới Pācittiya này, cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn hưởng quả báu của kathina.
4- Quả báu thứ tư: Yavadatthacìvara
Đức Phật chế định điều giới và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng như sau:
Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunà ubbhatasmiṃ kathine dasàhaparaṃam atirekacīvaraṃ dhàretabbam, taṃ atikkàmayato nisaggiyaṃ Pācittiyaṃ.[12]
Ý nghĩa:
(Tấm y của Tỳ khưu đã may xong, hoặc đã xả y kathina rồi, Tỳ khưu thọ nhận tấm y dư (ngoài taṃ y) trong vòng 10 ngày, y dư được cất giữ quá 10 ngày phải bị xả và Tỳ khưu bị phạm giới Pācittiya.)
Giải thích:
Trong thời hạn còn hưởng quả báu của kathina của chư Tăng, Tỳ khưu có thể thọ nhận thêm tấm y dư (ngoài taṃ y) dù không nguyện y phụ (parikkhàracola adhiṭṭhāna) hoặc không làm tấm y ấy thuộc của 2 người chủ: của mình và của một vị Tỳ khưu khác (vikappanà), tấm y ấy vẫn không phải bị xả và Tỳ khưu cũng không bị phạm giới Pācittiya. Nhưng khi hết thời hạn hưởng quả báu của kathina của chư Tăng rồi, nếu có vị Tỳ khưu nào thọ nhận thêm tấm y dư (ngoài taṃ y), mà không nguyện thành y phụ (parikkhàracola adhiṭṭhāna) hoặc không làm tấm y ấy thuộc của 2 người chủ: của mình và của một vị Tỳ khưu khác (vikappanà), rồi cất giữ tấm y ấy quá 10 ngày, thì tấm y ấy phải bị xả và vị Tỳ khưu bị phạm giới Pācittiya.
* Cách nguyện trở thành y phụ (parikkhàra cola adhiṭṭhāna)
- Nếu chỉ có 1 tấm y thì cách nguyện như sau:
“Imaṃ cīvaraṃ parikkhàracolam adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y này trở thành tấm y phụ).
- Nếu có nhiều tấm y thì cách nguyện như sau:
“Imàni cīvarāni parikkhàracolàni adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện những tấm y này trở thành những tấm y phụ).
* Cách làm tấm y thuộc 2 người chủ (vikappanà)
Vị Tỳ khưu ấy mang tấm y đến gặp một vị Tỳ khưu khác, xin làm tấm y thuộc của 2 người chủ trực tiếp như sau:
- Nếu có 1 tấm y thì cách làm vikappanà như sau:
“Imaṃ cīvaraṃ tuyham vikappemi”.
(Tôi xin làm vikappanà tấm y này đến Ngài).
- Nếu có nhiều tấm y thì cách làm vikappanà như sau:
“Imàni cīvarāni tuyhaṃ vikappemi”.
(Tôi xin làm vikappana những tấm y này đến Ngài).
Vị Tỳ khưu nhận làm vikappanà đúng theo giới luật xong, trao lại cho vị Tỳ khưu ấy rằng:
“Mayhaṃ santakaṃ paribhunja và vasajjehi và yathāpaccayaṃ karohi”.
(Tấm y thuộc của tôi, xin Ngài tự nhiên sử dụng hoặc xả đến vị nào, hãy làm tuỳ duyên).
Nếu vị Tỳ khưu thọ nhận tấm y dư (ngoài taṃ y) và nguyện tấm y ấy trở thành y phụ (parikkhàracola adhiṭṭhāna) hoặc làm tấm y thuộc của 2 người chủ: của mình và của một vị Tỳ khưu khác (vikappanà), thì tấm y dư ấy không phải bị xả và vị Tỳ khưu ấy cũng không bị phạm giới Pācittiya.
Nếu vị Tỳ khưu thọ nhận thêm tấm y dư (ngoài taṃ y) cất giữ quá 10 ngày, thì tấm y dư ấy phải bị xả và vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới Pācittiya.
* Cách xả tấm y quá 10 ngày
- Nếu có 1 tấm y dư quá 10 ngày thì cách xả y như sau:
“Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasàhàtikkantaṃ nisaggiyaṃ, imàham àyasmato nisajjàmi”.
(Kính bạch Ngài Đại đức, tấm y dư này của tôi đã quá 10 ngày, phải bị xả, tôi xin xả tấm y này đến Ngài).
- Nếu có nhiều tấm y dư quá 10 ngày thì cách xả y như sau:
“Imàni me bhante cīvarāni dasàhàtikkantàni nisaggiyàni, imàni ahaṃ àyasmato nisajjàmi”.
(Kính bạch Ngài Đại đức, những tấm y dư này của tôi đã quá 10 ngày, phải bị xả, tôi xin xả những tấm y này đến Ngài).
Sau khi xả tấm y dư quá 10 ngày xong, vị Tỳ khưu ấy xin sám hối với vị Tỳ khưu khác về cách phạm giới Pācittiya.
Nhận sám hối xong, vị Tỳ khưu khác cho lại tấm y dư ấy cho vị Tỳ khưu như sau:
- Nếu chỉ có 1 tấm y dư thì cách cho lại như sau:
“Imaṃ cīvaraṃ àyasmato dammi”.
(Tôi xin cho lại pháp hữu tấm y dư này)
- Nếu có nhiều tấm y dư thì cách cho lại như sau:
“Imàni cìvaràmi àyasmato dammi”.
(Tôi xin cho lại pháp hữu những tấm y dư này).
Như vậy, lễ dâng y kathina đến chư Tăng, Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina của chư Tăng.
Do nhờ hưởng quả báu của kathina của chư Tăng, cho nên Tỳ khưu có thể nhận thêm y dư (ngoài taṃ y) dù không nguyện parikkhàracola adhiṭṭhāna hoặc không làm vikappanà, tấm y dư ấy vẫn không phải bị xả, và Tỳ khưu cũng không bị phạm giới Pācittiya.
Đó là do nhờ quả báu của kathina của chư Tăng.
5- Quả báu thứ năm: Yo ca tattha cìvaruppàda
Tỳ khưu đang hưởng quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng tại ngôi chùa ấy, nếu có thí chủ có đức tin làm lễ dâng y cúng dường đến chư Tăng, vị Tỳ khưu ấy có quyền thọ y của thí chủ.
Đó là 8 chi pháp mà vị Tỳ khưu cần phải biết đầy đủ, để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Nhận Xét Về Quả Báu Của Lễ Thọ Y Kathina
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy Theravàda, chư Tỳ khưu đều tuyệt đối tôn trọng lời tuyên ngôn của Ngài Đại Trưởng Lão Mahàkassapa trong kỳ kết tập Taṃ Tạng và Chú giải Pàli lần thứ nhất tại động Sattapanni gần thành Ràjagaha xứ Màgadha.
Kỳ kết tập Taṃ Tạng và Chú giải Pàli lần thứ nhất gồm có 500 vị Thánh Arahán, toàn là những bậc chứng đắc Tứ tuệ phân tích, Lục thông,… thông thuộc Taṃ Tạng và Chú giải, do Ngài Đại Trưởng Lão Mahàkassapa chủ trì, Ngài đọc tuyên ngôn (ñatti) và thành sự ngôn (kaṃmavācā) có đoạn quan trọng như sau:
“… Yadi Saṃghassa pattakallaṃ, Saṃgho appaññattaṃ nappaññapeyya, paññattaṃ na samucchindeyya, yathā paññattesu sikkhàpadesu samàdàya vatteyya. Esà ñatti…”[13]
Ý nghĩa:
… Nếu lời tuyên ngôn hợp thời đối với chư Tăng, xin chư Tăng không nên chế định điều nào mà Đức Phật không chế định, không nên cắt bỏ điều nào mà Đức Phật đã chế định. Chúng ta phải nên giữ gìn, duy trì, thực hành nghiêm chỉnh đúng theo những điều giới mà Đức Phật đã chế định. Đó là lời tuyên ngôn cần phải biết …
Tất cả 500 vị Thánh Arahán đều đồng tâm nhất trí tuân theo lời tuyên ngôn của Ngài Đại Trưởng Lão Mahàkassapa, cho nên đoạn cuối lời thành sự ngôn (kaṃmavācā) Ngài khẳng định một lần nữa có một đoạn rằng:
“… Saṃgho appaññattaṃ nappannapeti, paññattaṃ na samucchindati, yathā paññattesu sikkhàpadesu samàdàya vaṭṭati. Khamati saṃghassa, Tasmā tunhì. Evametaṃ dhàràyaṃi”(2).
Ý nghĩa:
… Chư Tăng không được chế định điều nào mà Đức Phật không chế định, không được cắt bỏ điều nào mà Đức Phật đã chế định. Chúng ta cần phải giữ gìn, duy trì, thực hành nghiêm chỉnh đúng theo những điều giới mà Đức Phật đã chế định.Tất cả chư Tăng đều hài lòng, cho nên tất cả chư Tăng đều im lặng. Tôi xin ghi nhận sự hài lòng này bằng trạng thái im lặng ấy …
Ngài Đại Trưởng Lão Mahàkassapa tụng tuyên ngôn (ñatti) và thành sự ngôn (kaṃmavācā) xong, tất cả 500 vị Thánh Arahán đồng hoan hỷ tuyệt đối tuân theo lời giáo huấn của Ngài. Do đó, gọi là “Theravàda” bắt đầu từ đó cho đến nay.
Những điều giới của Đức Phật đã chế định rồi, không có một ai có quyền cắt bỏ điều giới nào dù là điều giới nhẹ. Nhưng có một trường hợp thật vô cùng phi thường. Khi chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa rồi, đã được làm lễ thọ y kathina và tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì mỗi vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina, trong đó có 4 điều giới ngưng hiệu lực (không bị phạm giới) suốt thời gian còn hưởng quả báu của kathina đến thời hạn cuối cùng vào ngày rằm tháng 2. Qua ngày 16 tháng 2 bắt đầu 4 điều giới có hiệu lực trở lại, vị Tỳ khưu nào có tác ý không giữ gìn điều giới ấy, vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới.
9- Bhikkhupàtimokkha, phần Pàcittiya, điều giới thứ 46.
10- Bhikkhupàtimokkha, phần nisaggiya pàcittiya, điều giới thứ 2.
11- Bhikkhupàtimokkha, phần Pàcittiya, điều giới thứ 32.
12- Bhikkhupàtimokkha, phần nisaggiya pàcittiya, điều giới số 1.
13- Vinayapitaka, bộ Cùlavagga, phần Sangitinidàna.
09-Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng
Theo truyền thống của chư Tỳ khưu Tăng tại nước Thái Lan, tất cả chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ xong tại ngôi chùa ấy, và có thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều tụ họp tại sìmà. Trước tiên, chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp xứng đáng thọ nhận tấm y kathina của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng.
Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh 2 vị luật sư làm lễ trao y kathina của chư Tăng, nghi lễ theo tuần tự như sau:
1- Apalokanakaṃma: Việc Tường Trình
Vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất tường trình y kathina giữa chư Tỳ khưu Tăng đang tụ họp tại sìmà như sau:
LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ, y kathina cùng với các thứ vật dụng này của những thí chủ, người thay mặt là……………………(1) cùng với các bà con, bạn bè là những người có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, mong tạo phước thiện ba-la-mật, gieo duyên lành để mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên những thí chủ ấy đã cùng nhau làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt trong 3 tháng mùa mưa tại …………..(tên chỗ an cư nhập hạ)
Y Kathina này đã phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống giữa chư Tỳ khưu Tăng, không phải dành riêng cho một vị Tỳ khưu nào cả.
Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp, để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Chọn lựa đặc biệt ưu tiên cho vị Tỳ khưu nào có y rách, y cũ hoặc bậc Đại trưởng lão cao hạ nhất, là bậc có giới đức trong sạch, có hiểu biết đầy đủ 8 chi pháp để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Vậy bây giờ tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng nhận xét thấy vị Tỳ khưu nào xứng đáng, kính xin quý Ngài cho phép dâng tấm y kathina của chư Tăng này đến vị Tỳ khưu ấy.
2- Giới Thiệu Vị Tỳ khưu Thọ Y Kathina:
LS2: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Con xét thấy vị Đại đức Tissa(2) là bậc xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu nào không chấp thuận, xin phát biểu lên giữa chư Tăng. (ngừng một lát)
Nếu chư Tỳ khưu Tăng đều chấp thuận, kính xin quý Ngài nói lên lời hoan hỷ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!
(Sau khi chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận bằng lời “Sādhu” vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất nói tiếp).
LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận dâng y kathina đến Đại đức “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina, không phải bằng lời apalokanakaṃma, mà phải bằng cách hành Tăng sự Ĩattidutiyakaṃmavācā đúng theo luật của Đức Phật đã ban hành, chúng con xin phép hành Tăng sự bây giờ.
Hành Tăng Sự Trao Y Kathina
Ví dụ: Vị Tỳ khưu được chọn thọ y kathina có đặt tên là Đại đức Tissa, thì pháp hành tăng sự sẽ tụng như sau:
Ñatti:
Suṇàtu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvaraṃ(3) uppannaṃ. Yadi Saṃghassa pattakallaṃ, Saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno dadeyya kathinaṃ attharituṃ. Esà ñatti.
Kaṃmavācā:
Suṇàtu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacìvarạm uppannaṃ, saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno deti kathinaṃ attharituṃ.
Yassāyasmato khamati, imassa kathinacīvarassa “Tissassa” bhikkhuno dànaṃ kathinaṃ attharituṃ. So tuịhassa, yassa nakkhamati so bhàseyya.
Dinnaṃ idaṃ Saṃghena kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno kathinaṃ attharituṃ. Khamati saṃghassa, Tasmā tuịhì. Evametaṃ dhàrayaṃi.
(Kathinatthàra kaṃmavācā niṭṭhità).
Ý nghĩa:
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời tuyên ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã được phát sinh, nếu việc hành Tăng sự hợp thời đối với chư Tăng, xin chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina. Đó là lời tuyên ngôn. Kính bạch quý Ngài đượcrõ.
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe lời thành sự ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã phát sinh, chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina.
Lễ dâng y kathina của chư Tăng đến cho Tỳ khưu “Tissa”để làm lễ thọ y kathina, vị Tỳ khưu nào hài lòng với việc này, xin hãy ngồi im lặng, vị nào không hài lòng, xin phát biểu lên giữa chư Tăng.
Chư Tăng đã dâng y kathina này đến Tỳ khưu, “Tissa”để làm lễ thọ y kathina, chư Tăng đều hài lòng chấp nhận, vì vậy, nên ngồi im lặng. Con xin ghi nhận trạng thái hài lòng bằng cách im lặng ấy.
(Hành tăng sự thọ y kathina xong).
Sau khi tụng xong Ĩattidutiyakaṃmavācā, vị Tỳ khưu luật sư thay mặt chư Tăng dâng tấm y kathina đến vị Đại đức Tissa.
Nhận tấm y kathina xong, vị Đại đức Tissa sẽ làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Nghi Thức Làm Lễ Thọ Y Kathina
Nếu có Taṃ y: tấm y saṃghāṭi, tấm y uttarāsaṅga, tấm y antaravāsaka, thì vị Tỳ khưu chỉ chọn 1 tấm y trong 3 tấm y ấy mà thôi, để làm lễ thọ y kathina.
1- Nếu chọn tấm y saṃghāṭi (tấm y 2 lớp) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:
1. 1- Làm dấu tấm y saṃghāṭi: làm dấu : Kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y saṃghāṭi.
1. 2- Xả tấm y saṃghāṭi cũ của mình.
“Imaṃ saṃghāṭiṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y saṃghāṭi cũ này).
1. 3- Nguyện tấm y saṃghāṭi mới của chư Tăng.
“Imaṃ saṃghāṭiṃ adhiṭṭhàmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y saṃghāṭi mới này).
1. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāṭi.
“Imàya saṃghāṭiyà kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y saṃghāṭi này)
(Lễ thọ y kathina bằng tấm y saṃghāṭi xong).
2- Nếu chọn tấm y uttarāsaṅga (y vai trái) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:
2. 1- Làm dấu tấm y uttarāsaṅga: làm dấu: kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y uttarāsaṅga.
2. 2- Xả tấm y uttarāsaṅga cũ của mình.
“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y uttarāsaṅga cũ này).
2. 3- Nguyện tấm y uttarāsaṅga mới của chư Tăng.
“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ adhiṭṭhàmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y uttarāsaṅga mới này).
2. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarāsaṅga.
“Iminà uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga này).
(Lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga xong)
3- Nếu chọn tấm y antaravāsaka (y nội) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:
3. 1- Làm dấu tấm y antaravāsaka: làm dấu: Kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y antaravāsaka.
3. 2- Xả tấm y antaravāsaka cũ của mình.
“Imaṃ antaravāsakaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y antaravāsaka cũ này).
3. 3- Nguyện tấm y antaravāsaka mới của chư Tăng.
“Imaṃ antaravāsakaṃ adhiṭṭhàmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y antaravāsaka mới này).
3. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka.
“Iminà antaravàsakena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y antaravāsaka này).
(Lễ thọ y kathina với tấm antaravāsaka xong)
Nghi Lễ Anumodanā (hoan hỷ)
Sau khi đã thọ y kathina của chư Tăng xong, vị Đại đức Tissa mặc y chừa bên vai phải, ngồi chồm hổm ở giữa chư Tỳ khưu Tăng, chắp tay thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng rằng:
Atthataṃ Àvuso (Bhante) Saṃghassa kathinaṃ dhammiko kathinatthàro anumodatha.
Thưa quý pháp hữu, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, xin quý vị đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.
* Thành phần chư Tỳ khưu đồng hoan hỷ
Theo Chú giải Luật tạng, bộ Mahavagga dạy rằng:
Những Tỳ khưu có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như sau:
- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước và làm lễ pavàraịà.
- Sadi an cư nhập hạ suốt 3 tháng hạ trước đủ 20 tuổi, được làm lễ thọ Tỳ khưu trong khi nhập hạ, vị tân Tỳ khưu được làm lễ pavàraịà cùng với chư Tăng, được kể một hạ thứ nhất, có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina cùng với chư Tỳ khưu Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.
Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ như sau:
- Atthataṃ Bhante (Àvuso) Saṃghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthàro Anumodāma.
- Kính bạch Đại đức, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, chúng con xin đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.
(Hoàn mãn xong nghi thức thọ y kathina của chư Tăng)
* Thành phần Tỳ khưu không được hoan hỷ
- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ trước, kể từ ngày 16 tháng 6, nhưng bị đứt hạ.
- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ sau, kể từ ngày 16 tháng 7 đến 16 tháng 10.
- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước, ở chùa khác đến tham dự lễ thọ y kathina.
- Tỳ khưu không nhập hạ.
Tất cả những Tỳ khưu trên không có quyền nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, và cũng không được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.
Tất cả Sadi an cư suốt 3 tháng hạ với chư Tỳ khưu, không có quyền hành Tăng sự pavàraịà, không làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng không hành lễ nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, nhưng tất cả vị Sadi được phép hưởng phần quả báu phát sinh trong lễ thọ y kathina của chư Tăng.
1 Tên thí chủ chính của lễ dâng y kathina.
2 Tên vị Đại Đức được giới thiệu để thọ y kathina, ví dụ: Đại Đức Tissa.
3 Kathinacìvaram: Y đã may sẵn để làm lễ thọ kathina. Kathinadussa: Vải để may y làm lễ thọ kathina.
|
|
|
Post by tk on Nov 14, 2014 2:01:10 GMT -5
10-Nhận xét về lễ dâng y Kathina
Lễ dâng y kathina thuộc về phước thiện bố thí rất đặc biệt hơn tất cả mọi phước thiện bố thí khác, bởi vì có những điểm đặc biệt như:
* Thí chủ: Thí chủ làm lễ dâng y kathina là người có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ phước thiện đặc biệt của lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, hiểu rõ quả báu đặc biệt của phước thiện dâng y kathina đến chư Tăng. Cho nên, họ biết tìm chỗ ở mà chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, để xin chư Tỳ khưu Tăng cho phép họ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại nơi ấy.
* Vật thí: Chỉ có 1 trong 3 tấm y đó là tấm y saṃghāti hoặc tấm y uttarasaṅga hoặc tấm y antaravāsaka mà thôi. Còn những tấm y khác không gọi là y kathina mà gọi là những tấm y quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina.
* Thời gian: Thời gian làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10 (âm lịch) trong vòng 1 tháng.
Ngoài thời gian hạn định này, thí chủ có thể làm phước thiện dâng nhiều bộ y đến chư Tỳ khưu Tăng, nhưng không gọi là lễ dâng y kathina.
* Chỗ ở: Là nơi mà chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến sáng ngày 16 tháng 9. Tại nơi ấy, nếu có thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì chư Tỳ khưu Tăng được phép thọ nhận y kathina của thí chủ chỉ một lần duy nhất mà thôi. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ thọ y kathina xong, và hành lễ đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ kathina của chư Tăng, mỗi vị Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina suốt 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.
Nếu chư Tỳ khưu Tăng không làm lễ thọ y kathina, thì mỗi vị Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu chỉ có 1 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến hết ngày rằm tháng 10 mà thôi.
* Tính chất của tấm y kathina: Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý, do đại thiện tâm hợp với trí tuệ trong sáng của người thí chủ, hoàn toàn không do một vị Tỳ khưu nào gián tiếp hay trực tiếp động viên khuyến khích thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý như vậy, khi người thí chủ làm lễ kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng, một vị Đại Trưởng Lão thay mặt chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận tấm y kathina ấy, rồi đem trình giữa chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng tụ họp tại sìmà, thỉnh vị Đại đức luật sư tụng Ñ attidutiyakaṃmavācā trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ kathina với tấm y ấy. Như vậy, lễ thọ y kathina của chư Tăng được thành tựu; tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng, tất cả mọi vị Tỳ khưu hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina suốt 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.
* Quả báu của lễ thọ y kathina: Quả báu của lễ thọ y kathina thật đặc biệt hơn các quả báu của phước thiện bố thí khác là có tính chất bền vững lâu dài đối với chư Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina suốt 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến hết ngày rằm tháng 2.
Còn đối với thí chủ, phước thiện dâng y kathina cho quả báu vô lượng kiếp.
Trong kiếp tử sanh luân hồi, nếu phước thiện dâng y kathina này cho quả tái sinh làm người, người ấy sẽ là người có chánh kiến, giàu sang phú quý hơn người, có của cải được bền vững lâu dài, tránh khỏi những tai họa do lửa cháy, nước lụt cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, phi pháp, v.v…
Nếu phước thiện dâng y kathina này cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, sẽ là vị thiên naṃ hoặc thiên nữ có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời hơn các chư thiên khác, hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Phước thiện dâng y kathina này rất lớn lao vô lượng, cho nên người thí chủ thành tâm phát nguyện như thế nào, chắc chắn sẽ được toại nguyện như thế ấy. Ví dụ: Một người giàu sang phú quý nhất trong đời này, họ muốn có được thứ gì trong đời, muốn ăn món gì trong đời, v.v… đối với họ không phải vấn đề khó, có phải không? Cũng như vậy, người thí chủ đã làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng xong rồi, người ấy có phước thiện dâng y kathina đến vô lượng, cho nên họ phát nguyện như thế nào, chắc chắn sẽ được toại nguyện như thế ấy.
Thật vậy, như tích tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, là một cô bé gái con nhà nghèo khổ làm thuê ở mướn gần 3 năm mới được 1 tấm vải choàng. Cô bé gái phát sinh đức tin trong sạch kính dâng tấm vải choàng mới ấy đến vị Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật Kassapa. Cô thành tâm phát nguyện rằng:
“Kính bạch Ngài, trong vòng tử sinh luân hồi, con nguyện kiếp nào cũng là người nữ xinh đẹp nhất, làm cho người naṃ nào nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, mất trí không còn biết mình nữa. Con sẽ là người phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần”.
Lời phát nguyện của cô đã toại nguyện cho đến kiếp chót, hậu thân của cô là Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa.
Và tiền kiếp của Đức Phật Gotaṃa là một người đàn ông, nhìn thấy vị Tỳ khưu hành pháp hành đầu đà sống trong rừng, Đức Bồ Tát phát sinh đức tin trong sạch dâng một tấm vải cũ đến vị Tỳ khưu ấy rồi phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác; hậu thân của Đức Bồ Tát kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotaṃa của chúng ta.
Làm phước thiện bố thí tấm vải choàng mới đến vị Tỳ khưu của cô gái nghèo khó, tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī; làm phước thiện bố thí tấm vải cũ đến vị Tỳ khưu của người đàn ông, tiền kiếp của Đức Phật Gotaṃa; chính nhờ phước thiện bố thí ấy đã dẫn đến cho quả kiếp chót đều được toại nguyện như thế, huống gì người thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, phước thiện dâng y kathina ấy chắc chắn sẽ cho quả báu cao quý biết dường nào nữa!
Nhân dịp làm phước thiện dâng y kathina này, là phước thiện cao quý vô lượng, những thí chủ nào thành tâm phát nguyện như thế nào, những thí chủ ấy chắc chắn sẽ được toại nguyện như thế ấy.
* Nếu những người nữ thí chủ, cảm thấy nhàm chán kiếp người nữ, có ý nguyện muốn trở thành người naṃ, thì những nữ thí chủ ấy thành tâm phát nguyện rằng:
“Idaṃ no kathinadānakusalam purisattabhāvapatilābhāya samvattatu”.
(Do năng lực phước thiện dâng y kathina này của chúng con, xin sinh quả kiếp sau được trở thành người naṃ cao quý).
Thật ra, chỉ có Đức Bồ Tát, sau khi đã được thọ ký rồi, chắc chắn Đức Bồ Tát không bao giờ trở thành người nữ. Ngoài Đức Bồ Tát ra, các hạng người khác, có khi tái sinh làm người naṃ, có khi tái sinh làm người nữ, tuỳ theo thiện nghiệp cho quả.
Dù là người naṃ hoặc người nữ, còn tử sinh luân hồi trong cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới cũng vẫn còn có khổ. Cho nên ý nguyện giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong taṃ giới, đó là nguyện vọng cao cả nhất.
Như vậy, tất cả mọi người thí chủ nên phát nguyện rằng:
“Idaṃ me kathinadānakusalaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu”.
Do phước thiện dâng y kathina thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong taṃ giới.
Khi phát nguyện mong chứng đạt đến mục đích cứu cánh như vậy, nếu chưa chứng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, còn tử sinh luân hồi trong taṃ giới. Khi thì thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, sẽ là người giàu sang phú quý, có trí tuệ sáng suốt, không say mê trong của cải tài sản ấy, dễ dàng đem của cải làm phước thiện bố thí đến cho mọi người, thậm chí có khả năng từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, hoặc trở thành vị Đạo sĩ trong thời kỳ không có Phật giáo trên thế gian.
Hoặc khi thì thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, tuy là một thiên naṃ hoặc thiên nữ, nhưng không say mê hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy. Bởi vì mục đích cứu cánh của họ là Niết Bàn, không phải là sinh làm người hoặc làm chư thiên, nhưng khi họ chưa chứng đạt đến Niết Bàn, họ hưởng quả báu trong cõi người hoặc quả báu trong cõi trời. Thật ra, mục đích cứu cánh cuối cùng của họ là Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong taṃ giới.
Những Điều Nên Biết Về Lễ Dâng Y Kathina
Vị Tỳ khưu nên thuyết pháp giảng giải cho các hàng Phật tử là bậc xuất gia Tỳ khưu, Sadi, và người tại gia là cận sự naṃ, cận sự nữ hiểu biết về:
* Sự thành tựu của lễ thọ y kathina và sự không thành tựu của lễ thọ y kathina.
* Phước thiện đặc biệt dâng y kathina và quả báu đặc biệt của phước thiện dâng y kathina.
Khi các hàng Phật tử hiểu rõ về phước thiện đặc biệt của lễ dâng y kathina, nên phát sinh đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt, có nhận thức đúng đắn, rồi tự mình quyết định làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, mà không do một vị Tỳ khưu nào động viên khuyến khích làm lễ dâng y kathina.
Như vậy, tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do đại thiện tâm hợp với trí tuệ đồng sanh với hỷ, không cần động viên của người thí chủ. (Somanassasahagataṃ ñaṇasampayutttaṃ asaṅkhārikaṃ).
Do đó, phước thiện dâng y kathina đặc biệt hơn các phước thiện bố thí khác. Cho nên tấm y kathina phải được tôn trọng tuyệt đối.
* Tôn trọng tấm y kathina như thế nào?
Tấm y kathina là tấm y có chủ gọi là gahapaticìvara(4), khi người chủ chưa dâng tấm y đến chư Tỳ khưu Tăng, thì vị Tỳ khưu không được phép đụng chạm đến tấm y kathina.
* Nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý đụng chạm đến tấm y kathina ấy (mà chưa dời chỗ) thì vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới gọi là durupacinnadukkata āpatti. (riêng vị Tỳ khưu ấy không thể sử dụng tấm y ấy được).
* Tấm y kathina mà thí chủ chưa được dâng đến chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu nào tác ý không chỉ đụng chạm tấm y kathina , thì vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới gọi là uggahi-takadukkata āpatti. Và tấm y kathina không còn hợp theo luật nữa. Cho nên, tất cả mọi Tỳ khưu không thể sử dụng tấm y kathina ấy được.
Tuy thí chủ làm lễ dâng tấm y kathina ấy đến chư Tỳ khưu Tăng, chư Tỳ khưu Tăng thọ tấm y kathina ấy, rồi trao cho một vị Tỳ khưu để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, nhưng lễ thọ y kathina ấy không thành tựu, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng. Vì tấm y kathina ấy không còn hợp pháp theo luật do bởi vị Tỳ khưu đụng chạm và dời tấm y kathina sang chỗ khác, phạm giới uggahitakadukkata.
Cho nên, tất cả chư Tỳ khưu không thể sử dụng tấm y kathina ấy được, thì làm sao vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng thành tựu được.
(Căn cứ vào điều giới Dantaponasikkhàpada phần điều giới Pācittiya).
Khi các thí chủ long trọng làm lễ dâng y kathina, một thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ đọc bài dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa nào hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hay động nào xong; Người thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ cung kính đem tấm y kathina đến gần chư Tỳ khưu Tăng khoảng cách 2 hắt tay và 1 gang (khoảng 1 mét) đúng theo luật, dâng đến chư Tỳ khưu Tăng. Vị Đại đức thay mặt chư Tỳ khưu Tăng tại ngôi chùa ấy hoặc chỗ ở ấy thọ nhận tấm y kathina của các thí chủ. Tấm y kathina ấy trở thành tấm y kathina của chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi thọ nhận tấm y kathina của chư Tăng xong, Ngài Đại đức ấy đem tấm y kathina ấy vào trình giữa chư Tăng.
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng không thể thọ y kathina của chư Tăng được. Đức Phật cho phép tất cả chư Tỳ khưu Tăng chọn một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Như vậy, gọi là chư Tỳ khưu Tăng thọ y kathina. Cũng như ngày uposatha hằng tháng, chư Tỳ khưu Tăng từ 4 vị trở lên tụ họp tại sìmà, một vị Tỳ khưu tụng Bhikkhupàtimokkhasìla, chư Tỳ khưu ngồi nghe. Như vậy gọi là Samgha uposatha: Chư Tăng hành uposatha.
Sau khi đã chọn được một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, chư Tỳ khưu Tăng từ 5 vị trở lên tụ họp hành Tăng sự tại sìmà, thỉnh 1-2 vị Tỳ khưu tụng Ñattidutiyakaṃmavàca trao tấm y kathina của chư Tăng cho vị Tỳ khưu mà chư Tỳ khưu Tăng đã chọn. Vị Tỳ khưu ấy thọ nhận y kathina của chư Tăng.
Sau đó, vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và kính thỉnh tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Như vậy, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa ấy hoặc tại nơi ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, mới hết hạn quả báu của lễ kathina.
ĐOẠN KẾT LỄ DÂNG Y KATHINA
Để thành tựu lễ thọ y kathina của chư Tăng, để chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, trải qua nhiều giai đoạn:
* Giai đoạn đầu: Thí chủ làm lễ dâng y kathina
Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (không phải đến cá nhân).
* Giai đoạn thứ nhì: Hành tăng sự làm lễ trao y kathina của chư Tăng đến vị Tỳ khưu.
Chư Tỳ khưu Tăng phải có đủ từ 5 vị trở lên, tụ họp tại sìmà, tuyển chọn một vị Tỳ khưu xứng đáng. Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xong, trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu mà chư Tỳ khưu đã tuyển chọn để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
* Giai đoạn thứ ba: Lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Vị Tỳ khưu thọ 1 trong 3 tấm y là tấm y saṃghāti hoặc tấm y uttarasaṅga hoặc tấm y antaravāsaka. Tấm y này gọi là tấm y kathina của chư Tăng. Sau khi thọ tấm y kathina của chư Tăng xong, vị Tỳ khưu ấy kính thỉnh tất cả chư Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
* Giai đọan thứ tư: Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của lễ kathina.
Nếu vị Tỳ khưu nào không nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì vị Tỳ khưu ấy không được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina.
* Giai đoạn thứ năm: Phân chia y và vật dụng
Những thứ vật dụng cần thiết và những tấm y khác là quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina, được phân chia từ vị Đại Trưởng Lão cao hạ tuần tự xuống vị thấp hạ cho đến các vị Sadi, tất cả đều hưởng được quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina.
4 Gahapaticìvara là y có chủ, còn pamsukùlacìvara là y may bằng các tấm vải dơ, những tấm vải này không có chủ. Khi biết rõ những tấm vải này không có chủ vị Tỳ khưu tự mình có thể lượm những tấm vải ấy đem về giặt cho sạch sẽ, rồi may thành y mặc, mà không cần có thí chủ dâng tận tay đúng theo luật.
***************************
11-Vấn - Đáp Về Lễ Dâng Y Kathina
Vấn: Trường hợp chỉ có1vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi, vị Tỳ khưu ấy có thể thọ nhận y kathina của thí chủ được hay không?
Đáp: Trong trường hợp chỉ có 1 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi, sau khi mãn hạ, vị Tỳ khưu ấy có thể thọ nhận y kathina của thí chủ được. Nhưng sau khi thọ nhận y kathina của thí chủ xong, ngay trong ngày hôm ấy, vị Tỳ khưu ấy nên đem tấm y kathina ấy đến một ngôi chùa có sìmà, thỉnh chư Tỳ khưu trong ngôi chùa ấy từ 4 vị Tỳ khưu trở lên, tụ họp tại sìmà để hành Tăng sự; thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xong, trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy. Vị Tỳ khưu ấy đem tấm y kathina trở về trong ngày hôm ấy, vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định. Sau khi làm lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.
Như Đức Phật dạy trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga rằng:
“Idha pana bhikkhave bhikkhu eko vassam vasati, tattha manussà ‘Saṃghassa demà’ ti cīvarāni denti. Anujànàmi bhikkhave, tasseva tàni cīvarāni yāva kathinassa ubbhàràya”.[5]
Ý nghĩa:
Này chư Tỳ khưu, trong nơi ấy, một Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Trong vùng ấy dân chúng làm lễ dâng y và bạch rằng: chúng con xin dâng những tấm y này đến chư Tăng.
Đức Phật dạy rằng:
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép những tấm y ấy chỉ thuộc về Tỳ khưu ấy mà thôi, Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu cho đến hết thời hạn quả báu của lễ kathina”.
Trong Chú giải dạy rằng:
Vị Tỳ khưu ấy mang tấm y kathina đến thỉnh chư Tỳ khưu Tăng từ 4 vị trở lên tụ họp hành Tăng sự tại sìmà, thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xong rồi trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy. Vị Tỳ khưu ấy trở về nơi mình đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, Ngài làm lễ thọ y tấm y kathina xong, sẽ hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.
Vấn: Trường hợp nếu có 2 vị Tỳ khưu, hoặc 3 vị Tỳ khưu, hoặc 4 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa; chư Tỳ khưu ấy đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong rồi, thì phải hành Tăng sự như thế nào?
Đáp: Hành Tăng sự lễ thọ y kathina, Đức Phật chế định chư Tỳ khưu có ít nhất 5 vị, còn nhiều không hạn định, hành Tăng sự như sau:
- Nếu có 2 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 3 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 1 vị Tỳ khưu hành lễ nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.
- Nếu có 3 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 2 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 2 vị còn lại hành lễ đồng thanh nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.
- Nếu có 4 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 1 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 3 vị còn lại hành lễ đồng thanh nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.
Những chư Tăng khách không có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, và cũng không có quyền hưởng quả báu của kathina.
Chư Tỳ khưu và các Sadi cùng an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại ngôi chùa ấy. Nếu có vị Sadi nào đủ 20 tuổi trong khi đang an cư nhập hạ, thì vị Sadi ấy được chư Tỳ khưu Tăng làm lễ nâng lên thọ Tỳ khưu, vị tân Tỳ khưu này có quyền hành lễ Pavàranà cùng với chư Tỳ khưu Tăng, và được phép tham dự hành lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như chư Tỳ khưu. Vị tân Tỳ khưu này có 1 hạ đầu tiên.
Vấn: Những hạng người nào có thể làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng được?
Đáp: Trong Chú giải Tạng Luật dạy rằng:
“Yena kenaci devena và manussena và pañcannaṃ và sahadhammikànaṃ aññatrena dinnaṃ vaṭṭati”.[6]
Ý nghĩa:
Chư thiên hoặc phạm thiên hoặc nhân loại hoặc 5 pháp hữu đồng phạm hạnh đó là Tỳ khưu, hoặc Tỳ khưu ni, hoặc tu nữ tập sự (sikkhamānā), hoặc Sadi, hoặc Sadi ni. Hạng nào cũng có thể làm lễ dâng y kathina được.
Thật ra, điều kiện để thành tựu lễ thọ y kathina, để tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết thời hạn quả báu của kathina. Thí chủ làm lễ dâng 1 tấm y saṃghāti hoặc 1 tấm y uttarasaṅga hoặc 1 tấm y antaravāsaka, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hay hang động nào đó. Tất cả chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, chư Tỳ khưu Tăng còn lại đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của kathina.
Nếu thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng chỉ có 1 tấm y trong taṃ y gọi là y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì chỉ có 1 vị Tỳ khưu được chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng bằng 1 tấm y ấy, còn lại các vị Tỳ khưu khác đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng thì được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina trong thời vị lai cho đến ngày rằm tháng 2. Trong buổi lễ dâng y kathina này, ngoại trừ vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina ra, còn lại các vị Tỳ khưu khác chưa hưởng được tấm y quả báu phát sinh trong buổi lễ dâng y kathina đến chư Tăng.
Nếu thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa ấy, ngoài 1 tấm y kathina ra, còn cúng dâng nhiều tấm y, nhiều thứ vật dụng cần thiết khác. Cho nên, sau khi một vị Tỳ khưu đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng không những hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, trong thời vị lai cho đến ngày rằm tháng 2; mà còn ngay hiện tại, trong buổi lễ dâng y kathina này, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều có hưởng được phần quả báu phát sinh trong buổi lễ dâng y kathina này đó là tấm y và các thứ vật dụng cần thiết khác,… thì tất cả chư Tỳ khưu được thuận lợi trong sự duy trì sinh mạng, để lo phận sự học pháp học Phật giáo, hành pháp hành Phật giáo, hầu mong duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.
“Sādhu! Sādhu! Anumodāma”.
“Lành thay! Lành thay! Chúng tôi xin hoan hỷ!”
“Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,
Khippameva samajjhatu”
“Điều mong ước, ý nguyện của chúng con,
Cầu mong sớm được thành tựu như ý”
Mùa an cư nhập hạ Pl. 2549 Núi rừng Viên Không, Bà Rịa - Vũng Tàu. Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)
5 Vinayapitaka, Bo Mahàvagga, phần Cìvarakkhandhaka.
6 Chú giải Tạng Luật, Chú giải bộ Mahàvagga, phần Kathinakkhandhaka.
|
|