|
Post by Chua VietNam on Jul 22, 2017 13:22:29 GMT -5
CHÙA BỒ ÐỀ (Vũng Tàu)
Địa Chỉ: 25 Vi Ba, Phường 1
TP. Vũng Tàu
Điện Thoại: 090 645 916 - 090 870 371
Trụ Trì: Tỳ khưu CHÁNH MINH
Khoảng thập niên 60, phái đoàn hoằng pháp của HT. Hộ Tông và nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu kiến tạo Thích Ca Phật Đài hoàng tráng, có nhiều Phật tích để giới Phật giáo hành hương lễ bái cúng dường, tạo một tiếng vang khá tốt cho cả nước và giới Phật tử nhiều tông phái thời đó. Ngày lễ Khánh Thành năm 1963 có rất nhiều tôn giáo bạn và giới Phật giáo đến tham dự. Thế nên sau ngày lễ Khánh Thành Thích Ca Phật Đài, Phật Giáo Nguyên Thủy không những nổi tiếng ở Vũng Tàu mà còn cả trong nước và ngoài nước.
Hòa trong niềm hoan hỷ đó, năm 1968, Nhóm Phật tử Vũng Tàu phát tâm trong sạch hiến cúng 7000m cho HT. Hộ Tông để kiến tạo một ngôi chùa Phật giáo Nguyên Thủy nằm trên núi lớn Vũng Tàu. Địa thế cách mặt biển khoảng 200m, phương tiện lên chùa có thể bằng xe 2 bánh hoặc 4 bánh, khung cảnh êm ả, thanh tịnh xứng đáng cho các vị Sa Môn dừng chân sống đời độc cư thiền định. Lúc bây giờ HT chỉ cho xây một vài liêu cốc cho Ngài và Chư tăng tu thiền. Càng ngày thấy đạo tâm và lòng thành của Phật tử, nên Ht và chư tăng quyết định xây ngôi chùa để chính thức hoằng pháp.
* Năm 1970, Ht trồng cây Bồ Đề tại đây, cây Bồ Đề lấy giống từ bên Ấn Độ. Cũng trong năm này HT chỉ đạo cho Đại chúng tiến hành xây dựng Chánh Điện chùa, vì mới trồng cây Bồ Đề nên ngài lấy Bồ Đề đặt tên cho bảng hiệu chùa. Và kể từ đó mọi người kêu là Bồ Đề Tịnh Xá.
* Năm 1972, một số Phật tử nữ muốn xuất gia Tu Nữ theo truyền thống của Phật giáo Nguyên Thủy như: TN. Mộng Sa, TN. Tư Miên, TN. Tư Của, TN. Hai Tàu v.v… nên HT hoan hỷ tiếp độ những người này xuất gia, và HT thành lập một Ni Viện có khoảng 9 phòng cho giới nữ có trú xứ tu học thiền định.
* Năm 1981, Hòa Thượng viên tịch. Bồ Đề Tịnh Xá tín nhiệm Đại Đức Võ Lâm quản lý, điều hành sinh hoạt và hướng dẫn Tăng Ni tu học theo giáo lý chơn truyền của Phật Thích Ca.
* Năm 1985, Bồ Đề Tịnh Xá nằm trong khu giải tỏa, quy hoạch, thế nên Đại Đức Võ Lâm bàn giao lại cho địa phương, Giảng đường và 3 Liêu Cốc và Đại Đức về chùa Nam Tông- Huyện Bình Chánh tu học với HT. Siêu Việt.
* Năm 1986, Đại Đức Chánh Minh (người địa phương Vũng Tàu) biết tin việc giải tỏa và Quy hoạch Bồ Đề Tịnh Xá có thay đổi. Nên Đại Đức về vận động Ông Nguyễn Văn Trắng (con Tư Hoàng Cát) và Ông Nguyễn Văn Thời đệ tử thân tín của HT. Hộ Tông mượn lại Giảng đường và 3 liêu Cốc tu học.
* Năm 1987, Đại Đức Chánh Minh nhận lời mời của Ban Tu Thư tạng Diệu Pháp về chùa Nam Tông để phụ làm việc với ban Tu Thư, có sự cố vấn của HT. Siêu Việt.
* Năm 1994, HT. Siêu Việt tăng trưởng Phật giáo Nguyên Thủy có văn bản gởi các ban nghành trong Phật giáo và nhà nước giới thiệu Đại Đức Chánh Minh và sư Tịnh Hạnh về quản lý Chùa Bồ Đề, lúc bây giờ Bồ Đề Tịnh Xá được đổi lại thành Chùa Bồ Đề để phù hợp với truyền thống PG Nguyên Thủy lúc này.. Đồng thời trong thời điểm này ông Nguyễn Văn Thời qua đời và nội nội chùa Bồ Đề có quá nhiều quan niệm khác nhau, nên nhân dịp này Công Ty Lâm Viên thu hồi và niêm phong lại chùa và 3 liêu thất giao lại cho Ủy ban Nhân Dân Tp. Vũng Tàu quản lý. Trong tình thế khó khăn này, Đại Đức Chánh Minh chỉ còn lại liêu cốc của Đại Đức và Liêu cốc của ni viện, chùa không có. Đại Đức Chánh Minh vận động Phật tử cải tạo 2 liêu cốc làm chánh điện thờ phật để duy trì sinh hoạt tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của Chư tăng và Phật tử. Đồng thời Đại Đức tu tạo một Phật cảnh, một bảo tháp thờ xá lợi Phật vào năm 1993. Mặc dù đây là công trình không quy mô, nhưng để đánh dấu và khẳng định sự hiện diện và hoằng pháp của Đại Đức tại thánh đại di tích của HT. Hộ Tông.
* Năm 2006, cơn bão số 9 Durant thổi vào Tp. Vũng Tàu, chùa Bồ Đề hư hại 98% chỉ còn lại duy nhất Bảo tháp và pho tượng Phật cảnh là vô sự.
Sau cơn bão, nhà nước trao tặng những địa điểm bị cơn bão gây thiệt hại, ủy ban Phường 1, Tp. Vũng Tàu trao cho Đại Đức 3.000.000 đồng. Tăng Ni và Phật tử trong và ngoài nước hay tin chùa Bồ Đề bị cơn bão thiệt hại, bằng tất cả tấm lòng gởi tịnh Tài về cúng dường cho đại đức để xây dựng lại ngôi tam bảo.
Được phép của địa phương, cuối năm 2006 khởi công xây dựng chánh điện chùa Bồ Đề với chiều dài: 10m, ngang: 6m, xây dựng trong vòng hơn 1 tháng hoàn thành vào ngày 11 tháng 12 năm Bính Tuất. Vào ngày 15 tháng 01 năm Đinh Hợi khánh thành chánh điện chùa Bồ Đề có sự tham dự của HT. Thanh Minh (viện chủ Thanh Minh Thiền Viện, Q. Phú Nhuận), Thượng tọa Thiện Pháp (Ủy viên Ban Từ Thiện TW. GHPGVN), Thượng tọa Thiện Nhân (giảng sư Ban hoằng pháp TW. GHPGVN), Thượng tọa Bửu Chánh (phó ban trị sư Phật giáo tỉnh đồng Nai) và đông đảo Chư tăng, Tu nữ đại diện các chùa Phật giáo Nguyên Thủy - Nam tông và đông đảo chư Phật tử đến tham dự. Kinh phí xây dựng cho công trình trên khoảng 250 triệu đồng.
Ngày 20 tháng 4 năm Đinh Hợi, khởi công xây dựng giảng đường, với chiều ngang: 10m, dài 15m và trùng tu tất cả các liêu cốc bị thiệt hại trong cơn bão số 9. Đồng thời Đại Đức kiến tạo một pho tượng Phật Thích Ca đứng xoay mặt xuống biển cả mênh mông cao 8m. Khánh thành nhân dịp đại lễ dâng y kathina vào ngày 16 tháng 9 năm Định Hợi, trong buổi lễ có nhiều Chư tăng và Phật tử đến tham dự. Kinh phí xây dựng những công trình trên khoảng 500.000 triệu đồng. Những ngày lễ ở chùa Bồ Đề:
- Mùng 1,2,3 đón xuân theo truyền thống dân tộc
- 15 tháng giêng: lễ Phật hứa với ma vương 3 tháng Níp bàn. Đại hội Thánh tăng
- 15 tháng Tư; Đại lễ Tam hợp (Đản Sanh, Thành Đạo, Níp bàn)
- 15 tháng 7: Vu lan- mùa báo hiếu
- 16 tháng 9: Đại lễ dâng y Kathina
- Mỗi ngày chủ nhật có tổ chức lớp giáo lý Vi Diệu Pháp
Đại Đức Chánh Minh thế danh Nguyễn Thành Châu sinh năm 1953 tại Vũng Tàu. Xuất gia Sa di năm 1984 với HT. Phạm Kim (brahm Suvanna) trụ trì chùa chandaransey, Q. 3, Tp. HCM. Xuất gia tỳ Khưu năm 1985 với HT. Phạm Kim và 2 vị yết ma: Đại Đức Danh Sol và Đại Đức Trí Nguyệt.
Hiện nay, Đại Đức là Giảng sư ban hoằng Pháp TW, Phó ban Hoằng Pháp Tp. Vũng Tàu, Ủy viên ban dịch thuật kinh điển (Viện nghiên cứu Phật học VN). Đại Đức đã trước tác và biên soạn hơn 10 quyển kinh Phật quan trọng nhằm đóng góp cho nền văn hóa Phật giáo VN nói chung và Phật Giáo Nguyên thủy nói riêng. Và còn một số quyển sách đang biên soạn và sắp in như quyển; Luận giải kinh Sa môn, Đường vào Thắng Pháp, duyên Hệ, 45 hạ của Đức Phật v.v…
|
|
|
Post by Chua VietNam on Jul 22, 2017 13:25:27 GMT -5
Chùa HUYỀN KHÔNG
Địa Chỉ: Thôn Nham Biều
Hương Hồ - Hương Trà
Thừa Thiên - Huế
Điện Thoại: 054. 3550 138 - 0913 457 006
Trụ Trì: Tỳ khưu Pháp Tông
Chùa Huyền Không hiện nay là hậu thân của chùa Huyền Không ở Lăng Cô, Phú Lộc, bên chân đèo Hải Vân được Thượng tọa Viên Minh, sư Tịnh Pháp, sư Trí Thâm và sư Tấn Căn xây dựng vào năm 1973. Do hoàn cảnh đổi thay, vào năm 1978, chùa Huyền Không được dời về thôn Nham Biều, Hương Hồ, Hương Trà, TP Huế và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Diện tích chuà khoảng hơn 6000 m2.
Ðây là ngôi chùa Phật giáo Nam Tông khá nổi tiếng ở cố đô Huế từ cuối thập niên 1980. Vào viếng chùa, khách thập phương phải qua cầu Bạch Yến. Chiếc cầu này chư Tăng Huyền Không xin tài trợ của Hiệp hội Schmitz - Tây Ðức xây dựng nên, để nhân dân địa phương và du khách đến chùa đi lại thuận tiện.
Qua cầu, rẽ về trái khoảng 100m du khách sẽ thấy cổng chùa cao lớn, đắp nổi dòng đại tự CHÙA HUYỀN KHÔNG. Sân chùa lát gạch, rộng, thoáng mát. Nhìn vào chánh điện, lồ lộ một bức hoành phi sơn son thiếp vàng treo trên chánh môn, điêu khắc nổi hàng chữ Pàli: ABHISUNNÀTÀRÀMA. Chánh điện có diện tích 12m x 24m, cao khoảng 8 - 9 mét, lợp ngói măng âm - dương; đường nét mạnh mà không thô, trầm hùng và uy nghiêm. Hoạ tiết đơn giản mà cổ kính, tôn trí duy nhất một tượng Phật Thích Ca màu vỏ trứng sẫm, vẻ mặt thanh thoát và từ ái, tay phải đưa lên, tay trái đặt trên lòng bàn chân - với tư thế này Ðức Phật như đang đàm đạo cùng các đệ tử. Dáng dấp tượng có đường nét tương tự mô típ tượng của các xứ Phật giáo Nam Tông nhưng tính dân tộc và nhân bản được thể hiện rất cao. Bảo tượng cao 1,54m, đặt trên toà sen cao 1,5m. Một bảo lan bằng bê tông giả gỗ phân cách phần thờ phụng và lễ bái của Phật tử tạo nên một không gian trang nghiêm, tôn kính. Chánh điện trang trí đơn giản, thanh tịnh và trong sáng. Phật tử vào lễ Phật trong khung cảnh đó sẽ cảm thấy tâm hồn mình thảnh thơi, lắng dịu. Khi nghe lời kinh của chư Tăng lại càng hoan hỷ hơn, vì âm điệu kinh Pàli vang vọng nhẹ nhàng, trầm bỗng ngân nga như tiếng sóng biển dội vào bờ từng đợt, từng đợt.
Bên phải sân Phật điện là khu vườn cảnh bố cục tự nhiên có tên là Thanh Tâm viên: giữa những đồi cỏ lúp xúp có năm ba gốc dương liễu cổ kính, xương xẩu, tàn lá xanh rì, dăm bảy cụm lạc thạch là những lối mòn quanh co lát đá. Một mái lương đình ngói đỏ thấp thoáng sau mấy gốc hoa sứ lão trượng, cội thiên tuế tuổi tác gần thế kỷ, cặp thạch đăng xứ Phù Tang xa xôi biểu tượng thanh kiếm, chiếc khiên của một võ tướng Samurai qui phục cửa Thiền đang ngày đêm nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước của Hàm Nguyệt Trì.
Bên hông phải Phật điện là một kiến trúc thu hút sự chú ý của khách thập phương: Yên Hà Các. Vẻ đẹp của toà nhà này nằm ở các điểm: đường nét nhẹ nhàng, uyển chuyển; nhiều tầng mái; kết hợp nhuần nhuyễn hai loại vật liệu: bê tông và gỗ, mà đỉnh cao là các bộ cửa gỗ nhiều kiểu cách trang trí. Công trình này được xây dựng vào các năm 1999 - 2000, thay thế cho toà gác gỗ, mái tranh, vách nứa giàu tính nghệ thuật dân gian đã hư hỏng nhiều sau 15 năm tồn tại. Tầng trệt của toà nhà là phòng khách và phòng trụ trì; tầng trên dành tiếp khách Tăng lưu trú.
Khu vườn cảnh Hứa Nhất Thiên nối tiếp Yên Hà Các là nơi trưng bày các chậu bonsai; cạnh đó là giàn phong lan với hơn 500 giò lan nhiều chủng loại. Nổi bật trên mặt hồ nhỏ giữa vườn là chiếc phù kiều sắc đá xám, nơi du khách thích dừng chân chụp ảnh lưu niệm.
Bên trái Phật điện là nhà khách, tăng xá, nhà học... cũ kỹ, tạm bợ. Tương lai sẽ được xây dựng lại để đáp ứng nhu cầu ăn ở, sinh hoạt của Tăng chúng ngày càng đông và hoà hợp hơn với kiến trúc của chính điện và Yên Hà Các.
Ðây cũng là Phật học viện của Phật giáo Nam Tông tại Thành phố Huế. Chùa đã trải qua những đời trụ trì:
- Thượng tọa Viên Minh (1973-1975)
- Thượng tọa Giới Ðức (1975-1989)
- Thượng tọa Pháp Tông (1989 tới nay).
|
|
|
Post by Chua VietNam on Jul 22, 2017 13:30:00 GMT -5
CHÙA HUYỀN KHÔNG SƠN THƯỢNG
Địa Chỉ: Hương Hồ, Hương Trà
TP. Huế
Điện Thoại: 0913 417 886
Trụ Trì: Tỳ khưu GIỚI ĐỨC
RỪNG THIỀN HUYỀN KHÔNG SƠN THƯỢNG
I. Địa điểm:
Nằm cách cố đô Huế chừng 14 cây số, về huớng Tây, với địa danh là thôn Đồng Chầm (Hòn Vượn), xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, có một ngôi chùa - được gọi là Huyền Không Sơn Thượng (hoặc Huyền Không 2).
Khách thập phương muốn đến đây, đi quá chùa Linh Mụ, men theo con lộ dọc sông Hương, qua Văn Thánh, Võ Thánh, qua cầu Xước Dũ; rồi chừng hơn 01 cây số nữa sẽ gặp ngã rẽ bên phải vào thôn Đồng Chầm. Từ đây, xin lưu ý là chừng 500 mét, hương lộ này sẽ cắt ngang đường tránh Huế, thẳng trước mặt sẽ thấy chiếc cổng làng Văn hóa thôn Đồng Chầm. Qua cổng này chừng 200 mét, bên phải có một tấm biển chỉ đường, theo lộ trình này, gần 3km nữa là đến vùng núi non Triều Sơn Phương tức Huyền Không Sơn Thượng. (1km đường phía xóm làng, bên ngoài, trải bê-tông tương đối tốt, 1,5km bên trong, vào núi, đường đất không được tốt - nhưng có thể thuận tiện cho tất cả các lọại xe - kể cả xe 50 chỗ ngồi). Do đặc điểm địa lý - đồi tiếp đồi - nên đường vào chùa uốn lượn quanh co, dốc cao; nay đã được cải tạo, nâng cấp, tương đối khá thuận lợi cho mọi phương tiện lui tới.
II. Cảnh quan, môi trường:
Năm 1988, hưởng ứng chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc của Nhà Nước - nhà chùa làm đơn xin được 50,4ha để trồng cây gây rừng. Thế rồi, từ năm 1989-1990, nhà chùa vào đây để lập trang trại, dọn mặt bằng, đào giếng, tự ươm cây giống, trồng lúa, khoai sắn, bí bầu, rau cải… để “lấy ngắn cắn dài”. Với chủ trương tự lực mưu sinh là chính nên giai đoạn đầu khá gian lao, vất vả. Do đã quen mười mấy năm lao động sản xuất, nên các sư, các chú cùng một số Phật tử tình nguyện đã trở thành những nông dân thực thụ, việc gì cũng làm được. Riêng trồng rừng, nhà chùa phải hợp đồng thuê mướn… Vậy là trải qua 17 năm, từ một vùng đồi núi hoang hóa, khô cằn, hố bom, hố đạn, không một bóng cây cao, trải dài lúp xúp chỉ toàn là sim mua tràm chổi và gai lùm lau lách, sâm si cỏ dại, bây giờ, cây rừng đã khép tán, màu xanh bạt ngàn, tàn cao bóng lớn - tạo nên một môi trường thiên nhiên mát mẻ và trong lành.
Nơi đây, núi rừng bao bọc - có chừng 22ha thông nhựa (chương trình PAM), chùa tự ươm trồng 20ha keo lá tràm, keo tai tượng, keo lai; và chừng 5 - 7ha là giữ lại cây rừng tự nhiên rất phong phú chủng loại; nhiều dáng cây và nhiều sắc lá đan xen khá ngoạn mục. Bên trong có một thung lũng, được gọi là “thung lũng treo”, rộng chừng 3,7ha - dành cho không gian chùa viện và vườn cảnh. Nhờ cây rừng trồng, cây rừng tự nhiên và lớp cây thực bì che phủ đất; lại còn nhờ có 5 hồ nước - gần 1ha - điều hòa khí hậu nên rừng cảnh luôn luôn xanh tươi, ôn hòa, dễ chịu… Mùa đông, bao giờ cũng lạnh hơn Huế chừng 2-3oC; mùa hè, lúc nóng nhất cũng chỉ có 34-35oC. Nhờ đặc điểm sinh thái ấy nên hệ thực vật và hệ động vật được duy trì gần với tự nhiên. Tuy chưa có số liệu chuyên khảo, nhưng bất cứ ai ở đây cũng biết là có ít nhất 20-30 loại chim khác nhau ca hót râm ran, líu lo suốt ngày; thỉnh thoảng có những đàn cò trắng, vẹt mỏ xanh đến rồi đi. Thứ đến là hàng trăm chú gà rừng, rất nhiều sóc và thỏ - là cư dân quen thuộc tạo nên sự sinh động vui mắt, vui tai cho ngôi rừng vừa được phục hồi sự sống này. Lâu lâu lại xuất hiện vài chú kỳ đà, vài chú mang “tác”vào độ mỗi hè. Còn các loại cóc, nhái, ễnh ương cùng với bà con, họ hàng của chúng thì vô thiên lủng! Điều đặc biệt là nước giếng ăn uống rất tốt; và suốt 17 năm qua mọi người ở đây sức khỏe đều khả quan, chỉ có bớt bệnh chứ không thêm bệnh.
III. Quy mô Vườn Rừng:
Với một không gian thoáng đãng, rừng cây trên 50ha bốn mùa xanh lá - nhà chùa đã dựa vào yếu tố thiên nhiên ấy để thiết kế thành 02 khu vực chính:
1. Ngoại viện: Diện tích 30 ha, được chia thành hai không gian khá lớn:
1.1. Không gian chùa viện: Chiếm diện tích 10.000m2, gồm có Chánh điện, Am mây tía, Nghinh lương đình, Nhà khách, Chúng hòa đường, Quá thiện đường (nhà trù), Tăng xá, Cốc liêu chư Tăng, Cốc liêu chư Ni, Cây cảnh, Giàn phong lan, và các công trình phụ, …
- Chánh điện:
Mượn cốt ngôi nhà rường Huế, cơi nới, thay đổi một vài chi tiết cấu trúc mà thành. Với phong cách kiến trúc dị giản, vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ, ngói vảy cá - mang dáng dấp hồn Huế và hồn Việt, không ảnh hưởng cung đình, không bắt chước rồng phượng, họa tiết Tàu, Nhật; không sơn phết sắc màu đền miếu dân gian… Lấy sự hài hòa với thiên nhiên, với hồn thơ, hồn dân tộc, hồn của các giá trị nhân văn… làm ý tưởng chủ đạo; nhẹ vai trò tôn giáo, tín ngưỡng mà xem trọng tâm hướng sống thiền, sống đạo trong tương quan nhân giới và nhiên giới. (Những câu thơ thư pháp Việt được chưng bày ở đây thường cố gắng hiển lộ nội dung ấy).
Chánh điện này còn được gọi là chùa ngoài, thờ Phật Sakya, thờ Xá-lợi Phật cùng Xá-lợi chư vị Thánh Tăng. Diện tích ước chừng 150m2 để Phật tử và khách thập phương đến lễ bái, cúng dường hoặc nghe Pháp. Đây được sử dụng làm chỗ tọa thiền và hai thời khóa công phu mỗi ngày của đại chúng. Cũng là nơi tổ chức các buổi lễ chính trong năm, như An cư kiết hạ, lễ Dâng y tắm mưa, lễ Dâng y Kathina, Vesak, Rằm tháng Miệc, các buổi trai Tăng, chư Tăng làm lễ Uposatha, giới tử xin giới, sám hối, thọ giới…(Tuy nhiên, các buổi lễ chính thường tổ chức tại chùa Huyền Không (Sơn trung) để Phật tử lui tới dễ dàng hơn).
Hiên cột Chánh điện có ba cặp đối, thư pháp Việt được khắc chạm lên thân dừa:
“Cư sĩ, rộng nương trồng hữu hạnh,
Tăng nhân, y bát hướng vô công!”
“Trúc tùng hạo hạo sum la sắc,
Lan thảo phân phân bát-nhã hương”
“Nghe đạo, hương rừng theo gió đến,
Đọc thơ, trăng sáng vượt non về!”
Mặt tiền chánh điện, hướng minh đường, có 4 mảnh sân cao thấp liên hoàn - có trồng tùng, trúc, mai, đào, dương liễu, mộc, hoàng hậu trắng, hoàng yến, phượng vàng, phượng tím, móng rồng nâu vàng, móng rồng tím, móng rồng xanh ngọc… cùng các loại cây cảnh khác. Tại mảnh sân thứ tư có chiếc cầu gỗ đi qua hồ nước; tiếp đến là chiếc cổng cổ lầu xi-măng giả tre - có một cặp đối:
“Ngõ trúc, sương len hồn trí giả.
Cửa không, mây níu áo hiền nhân”
- Am mây tía (Tử vân am): Xung quanh trồng 5 khóm trúc vàng (lệ trúc), là hậu thân của Phong trúc am đã hư mục, gợi nhớ Am tử tiêu ở núi Yên tử - là nơi ở, làm việc, uống trà, tiếp khách… của sư trú trì. Với diện tích chừng 80m2, chiếc am này vóc dáng đồng bộ với ngôi chánh điện, kiến trúc mở - để thiên nhiên, cây lá, cỏ hoa tràn vào nhà. Xung quanh am có hồ nước, các loài hoa thân thảo, thân mộc, phong lan, địa lan, cây cảnh thay nhau chưng bày bốn mùa, tám tiết… Và chữ, và thơ được treo quanh năm. Vào xuân Đinh Hợi, 2007, bên trong am có cặp đối:
“Bút vẫy rừng không, mây gió buâng khuâng, trăng sáng chữ,
Thơ chơi lũng vắng, khói sương lãng đãng, đá ngời văn!”
Mặt tiền có hai cặp đối:
“Bút dựng rừng tùng, mây nước lung linh, khách quý, gió thơm hương lá bối,
Thơ reo vườn trúc, khói sương bát ngát, bạn lành, nắng ấm sắc hiên văn!”
Cặp đối thư hai khá đặc biệt - vì mỗi vế có 91 chữ - nội dung, bên nói về “không”, bên nói về “có”:
“Thanh dương hạo bút, tâm ngời thiên thượng, bồng bềnh một cõi kinh thư, danh tướng vốn không. Không xuân thu tuế nguyệt, không hạ chí đông phân, không thua được nhục vinh, không tranh danh đoạt lợi, không bát nạn tam đồ, không thân không thế, không sự nghiệp gia hương. Lãng đãng khoác áo tuyết sương, chơi cõi bụi hường, mượn gió mượn trăng, mượn núi rừng u tĩnh, chuyết họa rèn văn, thức cùng thung lĩnh, chim xưa về cội, đợi hiền nhân trí giả đáo không viên.
Thiền khí lăng vân, tình ngút sơn cao, phất phới bốn mùa lan thảo, nhân duyên sẵn có. Có tùng trúc phong sương, có nhật tà nguyệt hiên, có tụ tán suy thịnh, có xả trược cầu thanh, có ngũ minh thập độ, có cảnh có thơ, có chùa am tử đệ. Khinh linh xua làn mây khói, dạo miền cát tía, học trí học ngu, học hoa lá phong nhiêu, khiêm tu tập định, sống với non triền, khách cũ sang bờ, mừng du tử tao ông tầm hữu hạnh”.
- Nghinh lương đình: Diện tích chừng 50m2, cũng là nhà vuông, ngói móc và gỗ tạp lấy được từ rừng trồng; ba mặt để trống; không gian mở - được thiết kế với mục đích sử dụng:
Khách thập phương có chỗ dừng chân, ngồi nghỉ, uống trà, đàm đạo…
Thường chưng bày thư pháp Việt, Hán; đôi khi điểm xuyết hội họa, tranh tượng, ảnh nghệ thuật, hoa, cây cảnh…
Hiện ở đây có một cặp đối:
“Lãng đãng càn khôn, thơ thắp con tim, tình ấm lại.
Phiêu bồng nhật nguyệt, thiền soi nét bút, chữ trong hơn”.
- Nhà khách: Diện tích chừng 60m2, nằm bên sau Nghinh lương đình; có 01 phòng lớn và 4 phòng nhỏ, dành cho 5, 7 Phật tử hoặc khách xa tạm thời nghỉ lại khi có công việc. Vật liệu cũng ngói và gỗ tạp; nội thất còn tạm bợ, thiếu thốn tất cả mọi tiện nghi - do chưa có điện.
- Quá thiện đường: Mấy ngôi nhà nhỏ liên kết với nhau - chừng 120m2 - dùng làm nhà bếp, nhà thọ trai cho Chư Tăng và chúng điệu. Ở đây cũng có một cặp đối:
“Bình bát rừng sâu, chim cúng trái,
Tâm thiền khe vắng, gió dâng hương!”
- Chúng hòa đường: Gồm một dãy nhà cấp 4, phỏng chừng 160m2, có 5 phòng; một căn nhà cấp 4, có 2 phòng - là nơi ở của Chư Tăng và chúng điệu. Tất cả còn sơ sài và tạm bợ. Đây được xem như là Tăng xá nếu có điều kiện xây dựng.
Mấy năm truớc, khi chưa có truờng học của PGNT Thừa Thiên - Huế, tại đây có một phòng học có tên là Tuệ học đường; có nhiều cặp đối đã thất lạc hết, chỉ còn sót đâu đó một cặp:
“Bút ẩn sĩ, chút trăng soi giọt mực,
Trí sa-môn, tí lửa cháy câu kinh!”
- Cốc liêu Chư Tăng: Hiện có 7 cốc, diện tích mỗi cốc chừng 9 - 12m2 - nằm rải rác ven núi, giữa vườn - thường dành cho các vị tỷ-kheo hoặc sa-di lâu năm, lớn tuổi. Chúng có những tên như sau: Tùng vân sơn cốc, Thạch vân sơn cốc, Tử vân sơn cốc, Tử tiêu sơn cốc, Ngọa vân sơn cốc, Lan vân sơn cốc… Vật liệu gồm gạch xây, ngói, gỗ, ván…trông dị giản, đồng bộ với toàn cảnh - nhưng vẫn còn tạm bợ so với các nơi khác.
- Cốc liêu Chư Ni: Cách xa Chánh điện, vể phía trái, chừng 50 mét, sát núi có một gác xây và lác đác vài cốc liêu nhỏ - thường dành riêng cho chư ni và tu nữ ở xa đến tu học, hành thiền. Vẫn còn tạm bợ, thiếu thốn các tiện nghi sinh hoạt.
- Giàn phong lan: Trước đây rất phong phú, ước chừng trên 1000 giò lan nội và ngoại. Do mất qua nhiều thì giờ chăm sóc nên bây giờ thu nhỏ lại, chỉ còn hơn 200 giò - nằm trong mái che, diện tích chừng 120m2. Còn tất cả lan địa phương được trả về tự nhiên nơi các gốc cây, chậu có trụ gỗ nơi này và nơi khác.
- Cây cảnh: Trước đây có trên 500 chậu lớn nhỏ đủ loại; nhưng do thiếu công chăm sóc - nên bây giờ, đa phần đã trả xuống đất rải rác quanh hồ, quanh vườn; chỉ còn giữ lại chừng 200 chậu, chủ yếu là mai, trà mi, đỗ quyên và một số hoa thân thảo khác. Tất cả cây cảnh ở đây do tự ươm trồng nên dường như chưa có cây nào có giả trị công phu hay nghệ thuật - mục đích chỉ để trang trí vườn chùa cho xanh mát mà thôi. Chỉ có mấy gốc mai già là có chút giá trị: từ 50-70 đến 100-120 tuổi.
1.2. Không gian nghệ thuật: Gồm có Vườn cỏ đá, Không sơn thiền uyển, Cụm nhà dành để triển lãm các lại hình nghệ thuật, hội thảo thơ, thiền…
- Vườn cỏ đá: Chỉ có cỏ xanh và đá xám nằm trên diện tích chừng 500m2. Nó chỉ là một mảng nhỏ của Rừng thiền với ý tưởng thể hiện là ngôn ngữ của Cỏ và ngôn ngữ của Đá. Có mấy câu thơ trên đá:
“ Ta cúi xuống, nhặt dấu chân trên cỏ,
Thấy tiền thân, sương ướt, áo chưa khô”
“ Thương ai đá đứng, cỏ nằm,
Khói sương cảo lục - con trăng cõi về!”
“Đá nằm trên đỉnh vô vi,
Chiêm bao bước xuống tà huy mấy nghìn!”
- Không sơn thiền uyển: Đây là một cụm kiến trúc khá lớn, nằm trên không gian chừng 1,5ha - gồm các công trình nghệ thuật dị giản - được kết hợp, tương hòa với thiên nhiên, với hồn quê, hồn thiền, hồn thơ và hồn chữ… Dường như đây mới chỉ là bảng vẽ phác thảo chưa hoàn chỉnh ở chi tiết này và chi tiết khác…
Không gian của Không sơn thiền uyển có những công trình chính và phụ:
5 hồ nước, được gọi là ngũ hồ: Hiện mới đào đắp được 3 hồ, diện tích chừng 0,5ha. Hồ chính có tên là Thủy nguyệt (do hứng trăng trọn đêm), giữa có 2 đảo nhỏ, có cầu bê-tông giả gỗ dài 5m, rộng 0,8m để đi vào đảo, tên cầu là Lãm thúy kiều (cầu ngắm xanh). Đảo lớn tên là Văn Bút đảo - vì có một chòi tranh hình nấm, có cây bút lông dựng giữa trời. Đảo nhỏ có tên là A-la-hán đảo - vì có cụm giả sơn để chưng thờ 18 vị A-la-hán - mẫu Đài Loan. (Do trẻ nít hay lấy cắp, bẻ gãy nên 18 ngôi tượng này không còn nguyên vẹn nữa!). Hồ được thả sen trắng, sen hồng và chừng 8 loại súng, tám màu nội và ngoại. (Súng và sen cũng không được yên ổn …)
Hồ thứ hai tên là Sơn ảnh hồ (vì luôn luôn lưu bóng núi), được nối với Thủy nguyệt hồ bởi một eo đất, có chiếc cầu lát đá giả gỗ sát nước, có tên là Giải trần kiều .Hồ thứ ba cách một đồi thông, chưa có tên vì đang còn hoang dã, chen chúc rong bèo, sen súng và cỏ dại…Hai hồ phía trên, cách một con đê ngăn lũ, rộng chừng 0,3 - 0,4ha - có nước, nhưng vẫn còn hoang dã. Hai hồ được ngăn bởi hai đảo trồng tre gai, um tùm lau lách - chưa có bàn tay cắt tỉa. vĐồi thông: Nằm trên một bán đảo, chừng 200 cây thông 15 năm tuổi, là bóng mát chủ yếu trong khu vực để thập phương ngồi chơi, thư giản, picnic… Ở đây có đặt mấy bàn xi-măng giả gỗ cho mọi người có chỗ nghỉ chân
Thư pháp am: Đối diện với đồi thông, bên kia Sơn ảnh hồ - có một ngôi nhà thủy tạ được gọi là Thư pháp am. Cái am này có cấu trúc dị giản, toàn tranh tre, có chút nghệ thuật - là nơi quanh năm chưng bày thư pháp với những câu thơ được thay đổi theo mùa tiết, hội lễ trong năm.
Tại đây có một cặp đối:
“Chữ chẳng là mây, thăm phố chợ, dạo non xanh, sương khói lơ thơ hòa khí bút.
Thơ đâu phải nước, ngủ suối trăng, mơ sông biếc, rong bèo lác đác dệt tình văn”.
Ngoài ra, không gian này còn có: thảm cỏ xanh quanh hồ, điểm xuyết hằng trăm cây cảnh lớn, hoa thân thảo, thân mộc; hai mái lương đình và 8 hiên thơ rải rác trên lối đi. Và ở đâu cũng có thơ! Bên kia Giải trần kiều có một vách núi - xi măng giả vách đá - có một chữ Phật - thư pháp Hán, đại bút (viết không đạt), và hai câu thơ lục bát: “Ta còn hơi thở, nụ cười - là còn bát ngát đất trời nguyên xuân” (nguyên xuân - mượn chữ của Bùi Giáng)
Ngôn ngữ nghệ thuật của Không sơn thiền uyển là tĩnh lắng, an bình, đạm phác và dân dã! Đấy là ý tưởng thể hiện chủ đạo của không gian này!
Đến địa phận Huyền Không Sơn Thượng - từ dốc núi đi lên, hai mảng cây hai bên đường thuộc rừng trồng, đã thu hoạch gỗ để làm cốc liêu, bán củi gỗ lấy tiền để tu bổ rừng. Dốc núi cuối cùng, nhìn bên trái có một ngọn đồi có tên là Độc thụ sơn (do trên đỉnh có một cây mít nài cổ thụ bám trên cụm đá đã hàng trăm tuổi), bên cạnh có mái lương đình có tên là Bạch vân hiên để cho khách có chỗ nghỉ chân - đúng như câu thơ đề ở đây:
“Đầu non dựng một mái nhà - để cho mây trắng ta bà ghé chơi!”
Phía phải là dãy núi dài hình con thanh long, chùa có trồng hơn 5 vạn cây thông - nên đặt tên dãy núi này là Vạn tùng sơn. Sát sườn núi, bên trong cổng có một mái lương đình. Dự kiến trong tương lai, các sườn núi, các ngọn đồi nhỏ, các thung lũng và dọc lối đi nhà chùa sẽ thiết kế thêm những công trình nghệ thuật: Nhà và cảnh chưng bày hội họa, Nhà và cảnh chưng bày ảnh nghệ thuật, Vườn tượng nghệ thuật…
- Cụm nhà triển lãm, hội thảo: Với ý tưởng ban đầu là nơi để dành cho Thượng tọa Phước Thành, trú trì chùa Châu Lâm triển lãm thư pháp Hán; nhưng khi thực hiện xong - với sự hỗ trợ kinh phí của nhiều người (như Hòa thượng Giác Viên - Đà Nẵng) - do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chưa tổ chức được một cuộc triễn lãm nào.
2. Nội viện:
Nếu ngoại viện là nơi để cho Phật tử các giới lui tới học đạo, hỏi đạo, làm phước, cúng dường,…; để cho thập phương bá tánh có chỗ tham quan, du lịch văn hóa, sinh thái… thì nội viện là nơi hoàn toàn dành cho sự tĩnh tu. Và đây là không gian biệt lập, là Rừng Thiền để cho hành giả tu tập Samatha (thiền định, thiền chỉ) và Vipassanā (thiền quán, tuệ quán, minh sát). Đây là mô hình tương tợ các Rừng Thiền ở Thailand và Myanmar, chưa hề có ở Việt Nam.
Hiện nay, Thiền không còn là cái gì có vẻ riêng tư của Phật giáo; nó đã là sản phẩm chung cho văn minh tâm linh của nhân loại. Ít nhất, Thiền đã được đưa vào trên 250 trường Đại học lớn trên thế giới, đã đưa vào hàng trăm bệnh viện lớn nhỏ trên toàn cầu. Nền kinh tế thị trường tạo nên các tiện nghi vật chất tối ưu cho nhân loại, đồng thời nó mang đến không biết bao nhiêu căn bệnh và hiểm họa về tinh thần, tác động đến toàn bộ tâm sinh lý của con người mà không có thuốc thang nào có thể chữa trị được. Thiền định và thiền tuệ giúp con người ổn định tâm sinh lý, điều hòa âm dương thủy hỏa (tâm bình, khí hòa), làm lắng dịu, tiêu tan tất cả phiền lụy, đau khổ và mọi căn bệnh nguy khốn của thời đại. Đây là con đường tự cứu mình và cứu đời mà Phật giáo có thể hiến tặng cho nhân loại một cách vô công, vô danh và vô vị lợi…
Nếu điều kiện cho phép thì Rừng Thiền sẽ có quy mô như sau:
- Một Thiền đường chừng 100 - 150 chỗ ngồi (mỗi chỗ chừng 1,5m2). Dự kiến xây dưng một Thiền đường đẹp, bề thế, diện tích bên trong 12m x 26m; cấu trúc bê-tông kiên cố, phối hợp xi-măng giả gỗ và gỗ tốt lót tường, sàn và các cánh cửa. Lấy tinh thần đặc thù của các nước PG Theravāda đan xen dân tộc tính làm nghệ thuật kiến trúc chủ đạo. Đây là nơi có nhiều chức năng khác nhau:
Tọa thiền tập thể (ưu tiên cho Tăng ni sinh đang theo học tại trường TCPHNT Thừa Thiên - Huế).
Giảng pháp hành.
Họp đại chúng.
Và sau này là nơi hành thiền tập thể: Tăng ni, Phật tử và đại chúng…
- Cốc cho thiền sư: Vị thiền sư dạy thiền cho chư tăng ni, Phật tử phải có một liêu thất tương đối tiện nghi và rộng rãi. Đòi hỏi phải có chỗ tịnh chỉ thoáng mát, phòng vệ sinh bên trong; và nhất là một căn phòng cho thiền sinh đến trình pháp. Dự kiến là 80m2.
- Cốc liêu cho hành giả: Ven các sườn đồi sẽ xây dựng chừng khoảng 30 thiền thất dành cho hành giả tu tập. Buổi đầu chỉ để dành Chư tăng ni và Phật tử tha thiết với pháp hành. Sau này khi phát triển, và nếu có đủ điều kiện cho phép, sẽ có một số thiền thất khác nằm trên những cụm đồi riêng biệt dành cho nam nữ cư sĩ hoặc thập phương có khả năng tu tập. Mỗi liêu thất như thế phải có các nhu cầu tối thiêu về ăn ở, lối kinh hành, tọa thiền, điện, nước, vệ sinh.. diện tích chừng 24m2 (không được nấu ăn trong liêu thất).
- Các công trình phụ: Đó là công trình vệ sinh công cộng dành cho Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ. Hiện tại chùa chưa có điện, nên phải thiết kế giếng nước, bể chứa, máy bơm nước và hệ thống dây dẫn đến các nơi để phục vụ sinh hoạt. Sau khi thiền đường hoàn thành, một hệ thống đường đi lối lại cũng phải được tính toán, thực hiện sao cho mỹ quan và tiện ích. Các loại cây trồng ở vùng này cần phải chọn lựa kỹ vì chúng là linh hồn của Rừng Thiền.
Kết luận
Sau khi đi thăm thú nhiều nơi, trong và ngoài nước, thấy rõ Rừng Thiền Huyền Không Sơn Thượng như phác thảo ở trên sẽ đáp ứng được hai nội dung quan trọng của Phật giáo. Đấy là sinh hoạt văn hóa nghệ thuật (ngoại viện) và sinh hoạt tâm linh tu chứng (nội viện). Là một mô hình tương đối cần thiết cho PGNT hiện nay ở Việt Nam và Thừa Thiên – Huế.
|
|