Post by tk on May 12, 2012 18:36:35 GMT -5
Tứ Diệu Đế (Bốn Chân Lý Cao Thượng )
Hòa Thượng Sīlānanda giảng
Hòa Thượng Kim Triệu hiệu đính
Sư Khánh Hỷ soạn dịch
Hòa Thượng Sīlānanda giảng
Hòa Thượng Kim Triệu hiệu đính
Sư Khánh Hỷ soạn dịch
Tứ Diệu Đế hay Bốn Chân Lý Cao Thượng hoặc Bốn Sự Thật Cao Thượng là những lời dạy vô cùng quan trọng trong toàn bộ giáo pháp của Đức Phật. Những lời dạy của Đức Phật trong bốn mươi lăm năm truyền bá giáo pháp có thể tóm gọn trong Bốn Chân Lý Cao Thượng. Bởi vậy Bốn Chân Lý Cao Thượng là một đề tài rất quan trọng. Trước khi tìm hiểu sâu xa hơn về Bốn Chân Lý Cao Thượng, chúng ta cần phải hiểu nghĩa chữ Chân Lý theo giáo pháp của Đức Phật.
Chân Lý là sự thật, vậy cái gì có thật là Chân Lý, chỉ đơn giản thế thôi. Vậy cái gì có thật, cái gì không ngược lại tình trạng có thật của nó là Chân Lý, là Sự Thật.
Vậy Chân Lý (Sự Thật) không phải là ảo tưởng như trò ảo thuật trên sân khấu bởi vì những gì ta thấy trong trò ảo thuật là không thật. Chân Lý (Sự Thật) cũng không đánh lừa, hay làm ta lầm lẫn như ảo tượng trên sa mạc. Trong những ngày nắng nóng ta thấy ảo tượng từ đằng xa và lầm tưởng đó là nước, nhưng khi đến gần, ảo tượng biến mất. Vậy Chân Lý (Sự Thật) không giống như ảo tượng, gây ra sự lầm lẫn.
Chân Lý là những gì có thể khám phá hay hiểu rõ được. Đó là nghĩa của chữ Chân Lý trong Phật Giáo. Như vậy, theo Phật Giáo cái gì có thật là Chân Lý. Chân Lý hay Sự Thật không nhất thiết phải đẹp hay tốt, nhưng những gì có thể khám phá hay hiểu rõ được thì đó là Chân Lý (Sự Thật).
Sức nóng của lửa là Chân Lý, là có Thật. Vật gì tiếp xúc với lửa sẽ bị đốt cháy hay nóng lên. Sức nóng của lửa này là Chân Lý, là Sự Thật.
Như các bạn từng biết, Sự thật hay Chân Lý thứ hai là Ái Dục. Ái Dục là một tâm sở bất thiện; nhưng theo Phật Giáo, Ái Dục cũng là Chân Lý. Như vậy, trong Phật Giáo Chân Lý (Sự Thật) không nhất thiết phải đẹp hay tốt. Chân Lý (Sự Thật) có thể tốt hay xấu, thiện hay ác.
Người ta thường nói "chỉ có một Sự Thật", "chỉ có một Chân lý", và mỗi vị giáo chủ diễn tả Sự Thật theo một cách riêng, khác nhau. Nhưng trong Phật Giáo không phải chỉ có một sự thật mà có bốn Sự Thật. Bốn Sự thật này gọi là Bốn Sự Thật "Cao Qúy" hay "Bốn Chân Lý Cao Thượng".
Nghĩa thứ nhất của Chân Lý Cao Thượng: Được gọi là cao thượng vì những Chân Lý này được khám phá, được chứng ngộ hay được xuyên thấu bởi những bậc cao thượng. Trong Phật giáo những ai đạt đạo quả được gọi là bậc cao thượng hay thánh thiện. Đó là Đức Phật Toàn Giác, Đức Phật Độc Giác hay A La Hán kể cả những vị đạt đạo quả thấp hơn. Bốn Chân Lý được Đức Phật dạy dỗ mệnh danh là cao thượng vì được hiểu rõ, được chứng ngộ hay được xuyên thấu bởi những bậc cao thượng. Thật vậy, khi trở thành bậc thánh là các vị ấy đã chứng ngộ bốn Chân Lý Cao Thượng. Chúng ta dùng chữ cao thượng ở đây để chỉ cho những ai đang cố gắng trở thành bậc cao thượng. Tóm lại, được gọi là cao thượng vì những Chân Lý này được khám phá, được chứng ngộ hay được xuyên thấu bởi những bậc cao thượng.
Nghĩa thứ hai của Chân Lý Cao Thượng: Được gọi là cao thượng vì những Chân Lý này là Chân Lý của bậc thánh, bậc cao thượng. Bậc thánh ở đây có nghĩa là Đức Phật. Vậy, đây là Chân Lý của Đức Phật. Có nghĩa là Chân Lý được Đức Phật khám phá hay tìm ra. Nhờ Đức Phật khám phá ra Bốn Chân Lý Cao Thượng này, và đem ra dạy dỗ mà những người khác chứng ngộ được Chân Lý này.
Nghĩa thứ ba của Chân Lý Cao Thượng: Được gọi là cao thượng vì những Chân Lý này giúp cho người chứng ngộ trở thành bậc thánh cao thượng. Chân Lý này cao thượng vì có khả năng tạo nên người cao thượng, hoặc người nào chứng ngộ Chân Lý này sẽ trở thành cao thượng.
Chân Lý Cao Thượng:
Có bốn Chân Lý Chân Lý Cao Thượng. Trước tiên tôi muốn các bạn biết tên của Bốn Chân Lý Cao Thượng này bằng tiếng Pāḷi. Chân Lý đầu tiên là Dukkha sacca. Chân Lý thứ hai là Samudaya sacca. Chân Lý thứ ba là Nirodha sacca. Và Chân Lý thứ tư là Dukkha nirodho gāmini padipadā sacca
1. Chân Lý đầu tiên: Dukkha
Dukkha thường được dịch là khổ. Nhưng chữ khổ không thể diễn tả trọn vẹn nghĩa của từ Dukkha. Chú giải giải thích rằng: trong chữ Dukkha do hai chữ 'du' và 'kha' ghép lại. Chữ 'du' có nhiều nghĩa và chữ 'kha' cũng có nhiều nghĩa. Trong sách Thanh Tịnh Đạo chữ 'du' có nghĩa là ti tiện hay hạ liệt, không giá trị. Và 'kha' có nghĩa là trống không. Cái gì ti tiện, hạ liệt, cái gì trống không là 'dukha'. Tại sao gọi hạ liệt vì nó gây ra nhiều hiểm nguy và đau khổ. Nó trống rỗng có nghĩa là nó trống vắng một thực thể trường cửu, trống vắng sự tốt đẹp, trống vắng sự vững bền, trống vắng niềm vui và lạc thú. Bởi vậy nó được gọi là 'dukkha', có nghĩa là cái gì vừa hạ liệt vừa trống rỗng.
Những chú giải khác đã giải thích: 'Du' có nghĩa là khó, và 'kha' có nghĩa là chịu đựng. Dukkha là cái gì khó chịu đựng. Nghĩa này có vẻ dễ hiểu, bởi vì mỗi lần nghe chữ dukkha ta hiểu được đó là những gì làm ta đau đớn và khổ sở. Rồi bạn, khi thực hành, cũng sẽ hiểu, theo định nghĩa của Đức Phật, những gì ta gọi là 'hạnh phúc' cũng là dukkha vì chúng không bền vững. Như vậy, chúng ta hiểu dukkha là: cái gì ti tiện, hạ liệt và trống rỗng hay cái gì khó chịu đựng.
2. Chân Lý thứ hai: samudaya
Samudaya hay dukkha samudaya: sam-udaya do ba chữ ghép lại. 'sam', 'u', và 'aya'. 'Aya' có nghĩa là nguyên nhân, 'u' là khởi sinh, 'sam' là cùng đến hay phối hợp với cái gì. Như vậy samudaya có nghĩa là tạo nhân và phối hợp với những điều kiện khác làm khởi sinh sự đau khổ. Điều quan trọng ở đây là phối hợp với những điều kiện khác. Phần lớn chúng ta nghĩ nguyên nhân của đau khổ là gì? Tham ái, phải không? Đúng vậy. Nhưng tham ái không phải là nguyên nhân duy nhất của đau khổ. Có những nguyên nhân hay điều kiện khác nữa, nhưng tham ái là nguyên nhân quan trọng hay vượt trội nhất trong số những nguyên nhân đó; bởi vậy, ta nói tham ái là nguyên nhân hay nguồn gốc của đau khổ. Tham ái không khởi sinh một mình mà cùng khởi sinh với một tâm sở khác. Đó là Vô Minh, và cộng thêm những điều kiện khác nữa. Khi tham ái hợp với vô minh và những yếu tố khác thì gây ra dukkha. Nghĩa của chữ samudaya phải được hiểu như vậy. Nó phối hợp với những điều kiện khác tạo nhân hay khiến cho, làm cho đau khổ khởi sinh.
3. Chân Lý thứ ba: dukkha nirodha
Chân Lý thứ ba là Chân Lý về sự chấm dứt khổ. Tiếng Pāḷi là dukkha nirodha hay chỉ là nirodha. Chữ nirodha gồm hai chữ 'ni' và 'rodha'. Chữ 'ni' có nghĩa là không hay 'vắng mặt', chữ 'rodha' có nghĩa là ngục tù, hay giam hãm. 'Ngục tù' hay 'giam hãm' ở đây có nghĩa là ngục tù hay giam hãm trong vòng luân hồi tái sinh. Vậy nirodha có nghĩa là không bị ngục tù hay giam hãm trong vòng luân hồi tái sinh. Đây là một nghĩa của chữ 'nirodha'. Theo nghĩa được ghi trong chú giải thì Chân Lý thứ ba là: Chân Lý giác ngộ về sự vắng bóng ngục tù của luân hồi tái sinh (samsāra). Điều này có nghĩa là khi giác ngộ Niết Bàn thì sẽ không còn luân hồi sinh tử trong tương lai. Như vậy Chân Lý thứ ba là Niết bàn hay Diệt (nirodha).
Một nghĩa nữa được chú giải đề cập đến là: Chân Lý thứ ba chỉ có nghĩa đơn thuần là nirodha, có nghĩa là không khởi sinh nữa trong tương lai. Đôi khi chúng ta dịch là đoạn diệt. Đoạn diệt có nghĩa là không còn khởi sinh trong tương lai. Khi một người giác ngộ và loại trừ phiền não thì những phiền não này không còn khởi sinh trong tương lai. Như vậy, nirodha có nghĩa là không còn phát sinh trong tương lai, là Diệt, diệt phiền não và không còn phát sinh trong tương lai, Chân Lý thứ ba là Niết Bàn. "Niết Bàn" hay "diệt phiền não" là đối tượng của tâm giác ngộ, tâm này khiến phiền não không còn phát sinh trong tương lai.
4. Chân Lý thứ tư: Dukkha nirodho gāmini patipadā sacca
Chân Lý thứ tư là Bát Chánh Đạo hay tám yếu tố của Đạo. Vào lúc giác ngộ đạo tâm khởi sinh và tám yếu tố này đi kèm với đạo tâm. Đạo Tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng, và tám yếu tố này cũng lấy Niết Bàn làm đối tượng. Lấy Niết Bàn làm đối tượng, có nghĩa là Đạo Tâm chạy đến đối tượng Niết Bàn. Như vậy, Đạo hay sự thực hành hướng đến hay chạy đến chỗ chấm dứt đau khổ, tức đến Niết Bàn, được gọi là 'dukkha nirodha gāminī pādipadā'. Như vậy thực ra Chân Lý thứ tư là Chân Lý chứng ngộ Chân Lý thứ ba, Chân Lý thứ tư này lấy chân lý thứ ba (Niết Bàn hay chấm dứt đau khổ) làm đối tượng. Như vậy, không phải Đạo đã dẫn đến chỗ chấm dứt đau khổ mà đạo lấy sự chấm dứt đau khổ làm đối tượng.
Đây là những ý nghĩa được ghi trong chú giải. Tôi nghĩ sự hiểu biết như vậy có thể giúp chúng ta hiểu biết thấu đáo bốn Chân Lý Cao Thượng hơn. Sau khi đã hiểu ý nghĩa của chữ bốn Chân Lý Cao Thượng, chúng ta có thể gọi bốn Chân Lý Cao Thượng này bằng những tên thường dùng: Chân Lý về sự khổ, Chân Lý về nguyên nhân của sự khổ, Chân Lý về sự dứt khổ và Chân Lý về con đường dứt khổ.
Bốn Chân Lý này thật quan trọng. Trước tiên, Đức Phật đã khám phá ra bốn Chân Lý Cao Thượng này. Bốn Chân Lý Cao Thượng này không phải do Đức Phật sáng tạo ra. Thật vậy, khi không có những vị Phật xuất hiện trên thế gian thì bốn Chân Lý này bị che kín trong lớp vô minh dày đặc. Khi Đức Phật xuất hiện, Ngài khám phá, xuyên suốt, và làm hiển lộ bốn Chân Lý này. Do khám phá, xuyên suốt, chứng ngộ bốn Chân Lý này, Ngài trở thành một vị Phật. Sau đó, Đức Phật làm hiển lộ bốn Chân Lý này cho thế gian. Như vậy Bốn Chân Lý Cao Thượng không phải được Đức Phật sáng tạo ra, nhưng Đức Phật đã khám phá ra và dạy dỗ cho chúng sinh.
Đức Phật không nhờ vào ai để khám ra Bốn Chân Lý Cao Thượng này. Điều này có nghĩa là Đức Phật không nhờ sự trợ giúp của ai, cũng không nhờ ai dạy dỗ để tìm ra Bốn Chân Lý Cao Thượng này. Ngài tự mình khám phá, và chỉ dựa vào chính mình mà thôi. Trong bài Pháp đầu tiên, chúng ta thấy có câu: "Trong Giáo Pháp ta chưa từng nghe trước đây". Câu này có nghĩa là trước khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, không chúng sinh nào biết được Bốn Chân Lý Cao Thượng này, và Đức Phật đã thuyết Bốn Chân Lý Cao Thượng trong bài Pháp đầu tiên.
Đúng hai tháng sau ngày chứng ngộ đạo quả, Đức Phật dạy bài pháp đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như. Trong bài pháp đầu tiên này, Đức Phật dạy Bốn Chân Lý Cao Thượng. Như vậy, chúng ta hiểu rằng Bốn Chân Lý Cao Thượng thật là quan trọng. Đây là một phần quan trọng trong giáo pháp của Đức Phật vì Đức Phật đã dạy phần này trước, trong bài pháp đầu tiên cho năm người học trò của Ngài.
Bốn Chân Lý Cao Thượng thật là quan trọng bởi vì phải chứng đắc Bốn Chân Lý Cao Thượng này mới giác ngộ. Đức Phật đã dạy: "Vì không liễu ngộ, không xuyên thấu Bốn Chân Lý Cao Thượng này mà ta và các con lang thang lâu dài trong vòng luân hồi sinh tử". Như vậy, Đức Phật đã dạy rõ ràng rằng: Vì không liễu ngộ, không xuyên thấu Bốn Chân Lý Cao Thượng này nên Ngài và các học trò của Ngài đã luân lưu trong vòng luân hồi này trong nhiều thời gian lâu dài. Bởi vì không thể nào đạt thành đạo quả mà không liễu ngộ, hay không trực tiếp, bằng trí tuệ, thấy rõ Bốn Chân Lý Cao Thượng. Bốn Chân Lý Cao Thượng này thật là quan trọng.
Đức Phật hiểu biết thấu đáo, và chứng ngộ Bốn Chân Lý Cao Thượng này nên Ngài đã tuyên bố một cách xác quyết rằng: "Chỉ có Bốn Chân Lý Cao Thượng, không nhiều hơn, cũng không ít hơn. Và không ai, ngoài Đức Phật có thể dạy Bốn Chân Lý Cao Thượng này". Có thể dạy, có nghĩa là có thể khám phá ra, và có thể dạy cho chúng sinh. Như vậy, Bốn Chân Lý Cao Thượng quan trọng cả về hiểu biết lẫn chứng ngộ.   ;   ;   ;   ;
Bây giờ chúng ta tìm hiểu sâu hơn về Bốn Chân Lý Cao Thượng. Chúng ta sẽ theo lời giảng giải của chính Đức Phật. Bạn có thể tìm thấy lời giảng giải này trong bài kinh đầu tiên là Kinh Chuyển Pháp Luân hay trong kinh Đại Niệm Xứ.
1. Đức Phật gọi Chân Lý đầu tiên là Chân Lý Cao Thượng về sự khổ. Sinh là khổ, già là khổ, chết là khổ, lo âu phiền muộn là khổ, uất ức than khóc là khổ, khổ thân, khổ tâm, thất vọng là khổ, gần người hay vật không thương là khổ, xa người hay vật thương yêu là khổ, mong muốn không được là khổ, tóm lại ngũ uẩn thủ là khổ. Đây là những điều Đức Phật giảng giải.
Chúng ta hãy xét từng điểm một.
Đức Phật dạy sinh là khổ. 'Sinh' có nghĩa là hoài thai thành con người, hoài thai trong bụng mẹ. Sinh là khổ bởi vì đó là mầm mống, là nguyên nhân của mọi đau khổ mà chúng ta gặp trên cõi đời. Vì sinh ra làm người nên chúng ta phải già, đau chết, lo âu phiền muộn, uất ức than khóc v.v... Bởi vậy, Đức Phật nói sinh là khổ.
Già là khổ. Chúng ta không muốn già, chúng ta muốn được trẻ hay ít nhất được người khác nhìn thấy mình trẻ. Dù chúng ta có thiết tha mong muốn không bị già, thiết tha mong muốn được trẻ trung hay muốn được người nhìn thấy mình trẻ trung. Nhưng ngày qua ngày chúng ta trở nên già nua, phút qua phút, giây qua giây chúng ta trở nên già nua. Như vậy, già là điều chúng ta không muốn, nhưng chúng ta phải chịu. Bởi vậy già là khổ.
Đau là khổ. Chúng ta không muốn bị bệnh. Nhưng không ai tránh khỏi bệnh tật được. Bị bất kỳ một bệnh gì cũng khổ. Bởi vậy, bệnh là khổ.
Chết là khổ. Chúng ta không muốn chết. Chúng ta sợ chết. Nhưng một ngày nào đó ta phải đối diện với cái chết. Không ai có thể tránh khỏi cái chết. Bởi vậy, chết là khổ.
Lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, thất vọng, xuống tinh thần, khổ thân, khổ tâm v.v... là khổ. Ai cũng biết điều này, khỏi phải nói nhiều.
Gần người hay vật không thương là khổ. Đây cũng là điều không khó khăn để hiểu. Khi phải sống với người không ưa thích, chúng ta khổ. Nếu có vật gì mà ta không thích, chẳng hạn như làm chủ một chiếc xe mình không ưa thích mà phải lái chiếc xe đó hoài thì bạn sẽ cảm thấy khó chịu. Đó là bạn đang khổ.
Xa người và vật thương yêu. Nếu phải xa rời những gì mình thương yêu, quí mến, chẳng hạn như xa chiếc xe mới, xa căn nhà mới hay xa một thứ gì đó thì bạn cũng đau khổ.
Mong muốn điều gì mà không được cũng là khổ. Muốn có cái gì đó mà không được thì đau khổ. Đó là sự hiểu biết về khổ một cách hời hợt, bề mặt. Một sự hiểu biết sâu xa hơn về khổ, về câu: "Không đạt được cái gì mình muốn là khổ" có nghĩa sâu xa hơn: Chẳng hạn, như chúng ta không muốn bị già, chúng ta không muốn bị bệnh, chúng ta không muốn bị chết, nhưng những điều đó xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta, thế là chúng ta khổ.
Đức Phật dùng những chữ trên để giảng giải về Chân Lý Cao Thượng thứ nhất, Chân Lý Cao Thượng về sự khổ. Đây là Chân Lý mà chúng ta có thể hiểu một cách dễ dàng. Không ai có thể chối bỏ những đau khổ này.
Có những khía cạnh đau khổ khác trong Chân Lý thứ nhất, được Đức Phật giảng trong phần cuối của của Chân Lý này, đó là: Tóm lại, ngũ uẩn thủ là khổ. Đây là câu nói mà ít người hiểu rõ nghĩa. Chúng ta dễ dàng chấp nhận sinh là khổ, già là khổ... lo âu phiền muộn, uất ức, than khóc v.v... là khổ. Nhưng với câu cuối cùng: Tóm lại, "ngũ uẩn thủ" là khổ thì không phải dễ dàng để hiểu.
Đôi lúc chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Chẳng hạn như, lúc còn là một thanh niên trẻ, bạn hưởng thụ một số lạc thú của thế gian. Phải chăng đó là niềm vui? Đó là hạnh phúc? Hay không phải là hạnh phúc? Đối với Đức Phật hạnh phúc cũng là dukkha. Đức Phật dạy: Hầu hết chúng sinh đều là tập hợp của Ngũ uẩn: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn. Hầu như tất cả Ngũ uẩn là đối tượng của sự nắm giữ, dính mắc. Trong câu cuối:
"Tóm lại, Ngũ Uẩn Thủ (năm uẩn làm đối tượng cho sự chấp thủ) là khổ" Đức Phật muốn dạy chúng ta rằng mọi sự vật trên thế gian là khổ. Những gì chúng ta nghĩ là hạnh phúc, dưới mắt phân tích của Đức Phật đều là khổ.
Tại sao Đức Phật nói mọi sự vật trên thế gian là khổ?
Bởi vì Đức Phật dạy "Tất cả những gì vô thường là Dukkha".
Như vậy những gì bị luật vô thường chi phối đều là Dukkha. Dầu cho chúng ta có dịch Dukkha là đau khổ hay không, thì những gì vô thường đều là Dukkha. Cơ thể chúng ta là thường hay vô thường. Cơ thể chúng ta không tồn tại lâu dài. Tư tưởng của chúng ta, những cảm nghĩ của chúng ta vừa đến lại đi ngay. Bởi vậy, những gì ta cho là hạnh phúc cũng đều đến và ra đi mau chóng. Bạn hưởng thụ cuộc đời, hưởng thụ dục lạc thế gian, nhưng những dục lạc này cũng không tồn tại lâu dài. Chúng đến rồi đi, bởi vì chúng vô thường. Chúng có khởi đầu và chấm dứt nên chúng là Dukkha.
Đó là lý do tại sao chúng ta phải hiểu chữ dukkha là cái gì hạ liệt và trống rỗng theo tinh thần của chú giải. Nó hạ liệt vì nó là sào huyệt, là chỗ trú ngụ của vô số hiểm nguy. Nó trống rỗng vì nó không phải là một thực thể trường tồn; nó không có linh hồn, không có tự ngã.
Chúng ta phải hiểu Chân Lý thứ nhất qua hai mức độ - mức độ thông thường và mức độ triết lý cao thâm hơn. Chỉ khi nào hiểu dukkha theo hai mức độ này, mới có thể nói rằng chúng ta hiểu Chân Lý Cao Thượng thứ nhất, và lúc đó chúng ta mới có thể chấp nhận dukkha có mặt khắp mọi nơi.
Hiểu dukkha theo nghĩa này không làm chúng ta xuống tinh thần hay bi quan đâu. Nhiều người nói rằng họ không thích Phật giáo vì Phật giáo nói đến dukkha quá nhiều. Nhưng giống như trường hợp vị thầy thuốc cho bệnh nhân biết rằng người đó bị bệnh. Khi vị thầy thuốc khám thấy bệnh nhân bị bệnh, vị này sẽ nói: Bạn bị bệnh này, bệnh kia v.v... Chúng ta không thể trách vị thầy thuốc bi quan hay muốn làm cho bệnh nhân xuống tinh thần; bởi vì đó là một sự kiện thực tế. Chúng ta chẳng khác nào những người bị bệnh, Đức Phật là vị thầy thuốc. Sau khi tìm thấy bệnh của chúng ta, Đức Phật nói: "Các con bị bệnh dukkha". Đó là Đức Phật nói ra một sự kiện thực tế, chứ không phải để làm cho chúng ta lo âu, phiền muộn, xuống tinh thần.
Nếu chúng ta hiểu nghĩa câu cuối của Đức Phật nói về dukkha rằng "ngũ uẩn thủ" là khổ thì chúng ta sẽ hiểu và chấp nhận thế gian này thật sự là dukkha. Căn cứ vào câu cuối cùng trong Chân Lý Cao Thượng thứ nhất, chúng ta nên hiểu cuộc đời chính nó là dukkha, hay cuộc đời tương đồng với dukkha. Khi nói đến cuộc đời có nghĩa là ta nói đến dukkha, và khi nói đến dukkha có nghĩa là ta nói đến cuộc đời.
2. Tiếp theo, Đức Phật chỉ cho thấy nguồn gốc của dukkha. Đức Phật nói nguồn gốc của dukkha là Tham Ái. Tham Ái ở đây bao gồm cả tham ái, dính mắc, tham lam, tham dục, luyến ái, thèm khác v.v... có nghĩa là tất cả mọi trạng thái tâm khởi sinh cùng với tham ái. Tóm lại, Đức Phật chỉ ra tham ái là nguồn gốc của đau khổ, nguồn gốc của dukkha.
Đức Phật giải thích rằng Tham Ái này làm khởi sinh tâm tái sinh mới. Tái sinh là đời sống. Tái sinh là khởi đầu của đời sống. Tái sinh là đời sống. Đời sống là tái sinh. Vậy đời sống tái sinh này là dukkha. Ở đây Đức Phật dạy rằng tham ái làm khởi sinh sự tái sinh mới. Cũng chẳng khác nào nói rằng tham ái làm khởi sinh hay đem lại dukkha.
Đức Phật cũng nói rằng tham ái này đã gắn bó với vui thú và thèm khát. Thật ra, vui thú và thèm khát chính chúng là tham ái. Như vậy, tham ái, vui thú, thèm khát, dính mắc, tham lam v.v... đều là tham ái cả.
Đức Phật cũng dạy:
"Tham ái luôn luôn truy tầm những lạc thú mới chỗ này, chỗ kia".
Chỗ này, chỗ kia - có nghĩa là trong kiếp sống này, trong kiếp sống kia hay trong các kiếp sống. Chúng ta biết rằng tâm tái sinh đầu tiên của đời sống đồng hành với "tham ái vào đời sống". Bất kỳ tái sinh vào chỗ nào, ngay cả tái sinh vào địa ngục - tâm tác động đầu tiên của đời sống cũng gắn bó với "tham ái vào đời sống". Như vậy tham ái luôn luôn ham thích hưởng lạc thú "chỗ này chỗ kia".
Có ba loại tham ái được nói đến trong bài pháp đầu tiên và cũng được nói đến trong những bài pháp khác. Nguồn gốc của Dukkha là Tham Ái, ở đây Đức Phật nói tham ái làm khởi sinh tâm tái sinh mới v.v... điều này có nghĩa là tâm tái sinh hiện tại là kết quả của tham ái trong quá khứ, và tham ái hiện tại sẽ là nguyên nhân của tái sinh trong tương lai. Bằng cách này chúng ta cần hiểu Chân Lý Cao Thượng thứ hai.
Một cách khác để hiểu Chân Lý thứ hai là hãy xem xét hiện trạng trong đời sống hiện tại để có thể thấy rằng tham ái gây ra đau khổ. Chúng ta thường nghe tin tức về tai nạn máy bay. Nhiều người bị chết trong những tai nạn này. Khi nghe tin tức như vậy chúng ta đau khổ được bao nhiêu, đến mức độ nào. Có thể chúng ta đau khổ chút xíu thôi, và chúng ta có thể nói: "Ô! tội nghiệp quá!" hoặc một vài câu tương tự như thế. Có thể chúng ta không đau khổ lắm. Nhưng nếu trong số những nạn nhân đó có một người bạn của chúng ta, chúng ta sẽ đau khổ nhiều hơn. Nếu trong tai nạn đó có thân nhân của chúng ta thì sao? Hoặc có một người rất thân yêu của chúng ta thì sẽ như thế nào? Chúng ta sẽ đau khổ vô cùng. Như vậy, thật ra đau khổ của chúng ta không phải gây ra bởi sự chết của một con người, nhưng gây ra bởi sự luyến ái dính mắc mà ta có trên người đó. Càng luyến ái người đó ta càng đau khổ hơn. Như vậy, thủ phạm thật sự ở đây là "tham ái, dính mắc" hay "tham ái, dính mắc vào người đó" chứ không phải sự chết hay sự mất người đó.
Tương tự như vậy, đối với những vật ta đặt nhiều giá trị vào vật đó. Nhiều khi một vật không đắt giá bao nhiêu, nhưng nếu chúng ta đặt nhiều giá trị tình cảm trong đó quá, ta trân quí nó quá thì nếu vật đó mất đi, hay bị hư hại chúng ta sẽ đau khổ rất nhiều. Như vậy, vì chúng ta đã đặt nhiều luyến ái, nắm giữ, nhiều giá trị tình cảm vào nó nên chúng ta mới tham ái. Do đó, sự đau khổ của chúng ta không phải gây ra bởi sự mất mát đồ vật đó, nhưng bởi sự tham ái dính mắc mà ta đặt vào đồ vật đó.
Nếu hiểu theo cách này, chúng ta có thể hiểu được rằng tham ái, dính mắc là nguyên nhân của đau khổ. Sự giải thích của Đức Phật còn sâu xa hơn những gì chúng ta hiểu nhiều. Đức Phật dạy rằng tham ái làm khởi sinh sự tái sinh mới. Bây giờ, tất cả chúng ta đều dính mắc vào đời sống của mình. Chúng ta không muốn chết. Chúng ta dính mắc vào đời sống của mình cho đến giây phút cuối cùng. Như vậy, sự dính mắc mạnh mẽ vào đời sống có sức mạnh, có tiềm năng tạo nên một đời sống khác. Chúng ta dù chết ở đây, nhưng tham ái chúng ta tạo ra sẽ làm phát khởi một sự sinh khác trong tương lai. Như vậy tái sinh trong tương lai thực ra là kết quả của tham ái trong đời sống hiện tại.
Thật vậy, Đức Phật và những vị có thần thông có thể nhớ lại kiếp trước hoặc có thể thấy rõ chúng sinh chết từ kiếp sống này và tái sinh vào một kiếp sống khác, thấy rõ tham ái làm phát khởi một sự tái sinh mới. Chỉ những vị này mới có thể thấy rõ. Chúng ta đã nghe những lời dạy của Đức Phật, suy xét chín chắn và đem ra thực hành nên chúng ta hiểu và tin rằng tham ái làm phát khởi một sự tái sinh mới.
Đức Phật dạy có ba loại tham ái. Các bạn nên quen thuộc với ba từ này bằng tiếng Pāḷi. Nếu không hiểu rõ ba từ này thì dễ có sự hiểu lầm. Ba loại tham ái đó là: kāmataṇhā, bhavataṇhā, và vibhava-taṇhā.
*Kāmataṇhā có nghĩa là tham ái do luyến ái vào sự vật. Đó là tham ái vào những đối tượng đáng ưa thích: hình sắc, âm thanh, mùi, vị, sự xúc chạm, và những đối tượng của tâm.
Tóm lại tham ái, dính mắc vào những đối tượng vừa lòng, toại ý là Kāmataṇhā.
*Bhavataṇhā: Chữ "bhava" có nghĩa là có mặt (hiện hữu) hay trở thành. Nhưng chữ bhava ở đây theo chú giải không chỉ có nghĩa là hiện hữu hay trở thành, nhưng là tà kiến, hay hiểu biết sai lầm. Hiểu biết sai lầm rằng chúng sinh là thường còn, hay quan niệm rằng có một cái ngã hay linh hồn thường còn. Như vậy bhava ở đây có nghĩa là "thường kiến", cho rằng sự vật là thường còn, sự vật là vĩnh hằng. Tham ái đi liền với quan kiến sai lầm loại này là bhavataṇhā. Như vậy, bhavataṇhā không có nghĩa là là tham ái vào hiện hữu hay trở thành. Bởi vì tham ái vào hiện hữu hay trở thành bao gồm trong loại tham ái thứ nhất, kāmataṇhā. Bhavataṇhā ở đây có nghĩa là phối hợp hay đi kèm với thường kiến. Bạn có thể có quan niệm rằng sự vật là thường còn, sự vật là vĩnh hằng. Tóm lại tham ái, dính mắc phối hợp hay đi kèm với thường kiến là bhavataṇhā.
*Vibhavataṇhā: là quan kiến cho rằng chúng sinh chết là hết, chẳng còn gì trong tương lai. Chúng sinh trở thành hư vô sau khi chết, trong tương lai không còn chúng sinh ấy nữa. Tham ái đi liền với quan kiến sai lầm loại này là vibhavataṅhā. Như vậy, tham ái đi liền với hay phối hợp với đoạn kiến hư vô là vibhavataṇhā.
Nhiều người dịch vibhavataṇhā là tham ái vào tự ngã hư vô hay linh hồn hư vô. Dịch như vậy là một sai lầm tai hại. Có lần nọ tôi đưa một cuốn sách cho một thanh niên. Một tuần sau vị này gặp tôi và nói: "Phật giáo chấp nhận tự sát". Tham ái đi liền với, hay phối hợp với đoạn kiến hư vô được nói đến trong bài kinh này. Vibhavataṇhā không phải là tham ái vào linh hồn hay tự ngã hư vô, nhưng tham ái đi liền hay phối hợp với quan kiến này. Như vậy, có ba loại tham ái được Đức Phật giảng giải trong chân lý thứ hai này.
Trở lại câu chuyện về vị thầy thuốc. Một vị thầy thuốc thông minh trí tuệ không dừng ở chỗ tìm ra căn bệnh. Vị thầy thuốc cũng phải tìm ra nguyên nhân gây ra bệnh nữa. Thật vậy, đầu tiên Đức Phật khám phá ra chúng sinh trên thế gian này có bệnh đau khổ. Nhưng Ngài không dừng lại ở đây. Ngài tìm ra nguyên nhân hay nguồn gốc của căn bệnh. Sau khi tìm ra nguyên nhân hay nguồn gốc của căn bệnh, vấn đề tiếp theo là bệnh này có thể chữa lành được không? Cũng vậy, sau khi khám phá ra chúng sinh trên thế gian này có bệnh đau khổ và nguyên nhân hay nguồn gốc của đau khổ, chúng ta cần biết thêm là có thể có sự vắng bóng của đau khổ không. Chúng ta cần biết bệnh đau khổ này có thể chữa trị được không?
3. Đức Phật chẳng khác nào một vị thầy thuốc. Vị thầy thuốc bắt mạch, tìm ra bệnh, rồi tìm ra nguồn gốc hay nguyên nhân của căn bệnh. Đức Phật chẩn đoán và tìm ra bệnh của chúng sinh, biết bệnh của chúng sinh là đau khổ, và đau khổ này có nguyên nhân là tham ái.
...