|
Post by tk on Apr 19, 2011 16:28:11 GMT -5
Nghệ thuật Phật Giáo Thai tạng giới Mạn-đà-la (tiếng Phạn: garbhadhātumaṇḍala) // Nghệ thuật Phật giáo – nhất là các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ có liên quan đến Phật, Pháp và Tăng – bắt đầu từ thời ban sơ trước đây 2.500 năm đã phát triển một hệ thống đồ tượng biểu trưng đa dạng và phức tạp. Nghệ thuật Phật giáo bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ, ngay sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni (≈563–483 TCN) viên tịch. Trong thời kì tối sơ, nghệ thuật Phật giáo thuộc loại phi thánh tượng (tiếng Anh: aniconic), như vậy là chưa thể hiện hình tượng Phật dưới hình người. Thời kì hưng thịnh của nghệ thuật Phật giáo đầu tiên có lẽ là thời vua A-dục trị vì (≈268–232 TCN), ông đã đóng góp rất nhiều cho việc truyền bá Phật giáo tại Ấn Độ cũng như phổ biến đến các khu vực khác như Trung Á, Tích Lan, và ngay cả khu vực Đông Nam Á như các ghi nhận trong lịch sử. Những hình tượng đầu tiên, đặc biệt là các tượng tạc hình Phật, xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 1 CN ở các vùng Càn-đà-la (Gandhāra) và Ma-thâu-la (Mathurā). Với việc phổ phiến Phật giáo đến những vùng Trung, Đông, và Đông Nam Á thì nghệ thuật Phật giáo lại trải qua nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá khác, thu nhận chúng và phát triển một hệ thống đồ tượng tinh tế và phức tạp. Thời kì phi thánh tượng – thế kỉ thứ 5 TCN đến thế kỉ thứ 1 CN Đại tháp tại Kiến-chí (Ấn Độ, tk. 3 TCN) Pháp luân (Tây Tạng) Người ta không thể xác định rõ ràng nguồn gốc của nghệ thuật Phật giáo. Những tác phẩm nghệ thuật đầu tiên được xem là thuộc về Phật giáo xuất phát từ lĩnh vực kiến trúc. Đó là những Tháp-bà (zh. 塔婆, sa. stūpa, pi. thūpa), thường được gọi tắt là “tháp”, ban đầu có cấu trúc vòm và là nơi chứa Xá-lợi (sa. śarīra) của Phật. Ở các tháp này, người ta cũng tìm thấy những minh hoạ nghệ thuật cổ nhất dưới dạng chạm trổ (relief sculpture). Tuy nhiên, các tác phẩm này không có những nội dung đặc thù Phật giáo – có nhiều cảnh được miêu tả rất có thể có nguồn trước Phật giáo, ví dụ như hình của một phụ nữ đang sầu muộn, lõa thể với búi tóc xõa, hoặc các loại La-sát, những thần linh đã có trong truyền thống Ấn Độ giáo. Nhiều hình chạm trổ mang những nét đặc thù Phật giáo xuất hiện trong thế kỉ thứ 2 TCN. Mặc dù nghệ thuật Ấn Độ đã có truyền thống điêu khắc hình người trước đó rất lâu, nhưng Phật ban đầu không được trình bày dưới hình người. Thường thì Phật và giáo lí của ngài được thể hiện bằng những biểu trưng khác nhau và chúng đã trở thành những thành phần chính trong nghệ thuật Phật giáo đến ngày nay. •Hoa Sen (liên hoa 蓮華, sa. padma, kamala, puṇḍarīka): vì không để nước và chất bẩn bám vào lá, là biểu tượng của sự trong sạch và Phật tính trong mỗi chúng sinh. Hoa sen dưới dạng mãn khai hoặc dạng bán khai cũng là biểu tượng của sự hạ sinh của thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm. •Bồ-đề thụ (zh. 菩提樹, sa. aśvattha, bodhiruma, bodhitaru, lat. ficus religiosa). Tương truyền Phật đắc đạo dưới cây này và vì vậy nó mang tên “bồ-đề“, là cách phiên âm của từ “giác ngộ“. Nhưng biểu tượng này cũng đã có nguồn từ những phong tục tín ngưỡng lực phồn thực vốn sẵn có trong xã hội Ấn Độ trước Phật giáo, được xem là “cây của sự sống”. Thỉnh thoảng người ta cũng thấy cách trình bày một toà ngồi trống dưới cây bồ-đề, nhắc đến sự thành đạo của Phật. •Pháp luân (zh. 法輪, sa. dharmacakra) – bánh xe (cakra) pháp (dharma), tượng trưng cho Tứ thánh đế và Bát chính đạo. Nhưng Pháp luân cũng nhắc đến lần Phật thuyết pháp đầu tiên tại Lộc Dã uyển, được gọi là lần đầu tiên “quay bánh xe pháp” (zh. 轉法輪, sa. dharmacakrapravartana) và qua đó, phổ biến Phật pháp khắp nơi trên thế gian. Pháp luân vừa được thể hiện qua những hình điêu khắc nổi, vừa được chạm trổ trên đỉnh các cột trụ mà vua A-dục đã dựng trên khắp vương quốc của ông (xem thêm A-dục vương thạch khắc văn). •Sư tử (zh. 獅子, sa. siṃha), biểu tượng của sự cai trị và hoàng gia của vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni (“Trí giả trầm lặng của dòng Thích-ca”). Thời vua A-dục, người ta cũng gọi Phật là Thích-ca Sư tử (sa. śākyasiṃha), “Sư tử xuất thân từ dòng Thích-ca”. Tương tự Pháp luân, sư tử cũng là một biểu tượng của Phật giáo được vua A-dục đặt trên những cột trụ của ông. Quốc huy Ấn Độ hiện nay là một cột trụ có hình sư tử xuất phát từ Sarnath. •Phật túc thạch (zh. 佛足石, sa. buddhapada)- bàn chân Phật trên đá, được xem là một biểu trưng cho sự “khắc Phật pháp” vào thế giới của Phật Thích-ca. Thông thường, biểu tượng này thường đi cùng với hàng loạt biểu tượng khác, ví như pháp luân, bát cát tường (zh. 八吉祥, sa. aṣṭamaṅgala), v.v. •Tháp-bà (zh. 塔婆, sa. stūpa, pi. thūpa), tượng trưng cho vũ trụ, đặc biệt là Niết-bàn. Trong thế kỉ thứ 2 và đầu thế kỉ 1 TCN, các tác phẩm hình tượng, điêu khắc, và hội hoạ dưới nhiều dạng như đai viền trang trí (en. frieze), bài vị thờ cúng (en. votive tablet) miêu tả các giai đoạn trong cuộc đời đức Phật, ngày càng quan trọng và phổ biến vì chúng được xem là những tác phẩm nghệ thuật minh hoạ Phật pháp cho người không biết đọc. Mặc dù hình người được trình bày trong các tác phẩm này nhưng Phật vẫn được miêu tả bằng những biểu tượng nêu trên. Nguyên nhân ở đây có thể là một lời nói của Phật trong Trường bộ kinh và theo đó, Phật không tán thành việc trình bày ngài trong tranh tượng sau khi ngài nhập Niết-bàn. Theo các nhà sử học tôn giáo thì có lẽ các nghệ nhân, tăng sĩ thời đó thấy việc miêu tả một nhân vật đã vượt ra khỏi vòng sống chết, đã lìa xa tất cả những việc đời thường cũng như vật chất, tâm thức,… bằng hình tượng là một việc không thể thực hiện. Thời kì thánh tượng – thế kỉ thứ 1 đến nay Càn-đà-la, thế kỉ 1. Bồ Tát Di-lặc, Ma-thâu-la, thế kỉ 2. Tại Nam Ấn Độ, truyền thống biểu hiện Phật bằng biểu tượng vẫn còn được gìn giữ đến thế kỉ thứ 2 (xem trường phái A-ma-la-bà-đề, sa. amāravatī). Nhưng trong thế kỉ 1, hình tượng trình bày đức Phật đầu tiên đã xuất hiện ở hai khu vực miền Bắc Ấn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, hình tượng Phật có thể đã xuất hiện trước đó nữa, nhưng vì được khắc hoặc vẽ trên những vật liệu nhanh mục như gỗ, vải hoặc lá cọ nên chúng không thể lưu dấu tích để chứng minh. Tuy nhiên, cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm được một bằng chứng cho giả thuyết này từ phía khảo cổ học. Càn-đà-la và Ma-thâu-la Tại khu vực Càn-đà-la (vị trí hiện nay là miền Đông Afghanistan, miền Tây Bắc Pakistan và có thời kì lấn sâu vào Punjab) và Ma-thâu-la (phía nam thủ đô Delhi của Ấn Độ ngày nay), các trào lưu nghệ thuật trình bày Phật dưới hình người xuất hiện gần như cùng lúc và ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng người ta vẫn chưa xác định được việc trình bày Phật dưới hình người thực sự có trước ở miền nào. Trong mọi trường hợp, phong cách của các nghệ nhân Ma-thâu-la chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo truyền thống trong khi nghệ thuật Càn-đà-la lại phản ánh ảnh hưởng của nghệ thuật Hi Lạp vốn đã có mặt ở đó hơn vài thế kỉ. Trong cuộc viễn chinh cuối Alexander Đại đế (356 – 323 TCN) đã chiếm đóng được Taxila (gần Peshawar), là thủ đô kể từ thời vua người Achaemenid là Darius I (549 – 486 TCN). Càn-đà-la trở thành một phần của khu vực cai trị rộng lớn của Alexander Đại đế và tiếp tục là khu vực cai trị của Hi Lạp sau khi ông qua đời. Do vậy, ở nơi này, tín ngưỡng Phật giáo và truyền thống nghệ thuật cũng như mĩ học Cổ Hi Lạp và sau đó mĩ học địa phương La Mã đã hoà hợp nhau. Trong thế kỉ 1, cả Càn-đà-la và Ma-thâu-la đều bị vương triều Quý Sương (zh. 貴霜王朝, Kuṣāṇa) chiếm đóng và chịu ảnh hưởng của nó nhiều thế kỉ (tk. thứ 5 vương triều mới rơi vào tay quân Bạch Hung – Hephthalite). Trong thời gian này, vua Ca-nị-sắc-ca (zh. 迦膩色迦, sa. Kaniṣka) giữ một vai trò quan trọng với việc ủng hộ Phật giáo nói chung và nghệ thuật Phật giáo nói riêng. Càn-đà-la, thế kỉ 1-2 Sự hoà hợp và ảnh hưởng lẫn nhau của nghệ thuật mang đậm sắc thái Ấn Độ tại Ma-thâu-la và của nghệ thuật mang dấu ấn Hi Lạp tại Càn-đà-la đã tạo ra một dạng nghệ thuật căn bản cho tất cả các trường phái nghệ thuật Phật giáo sau này, đó là Phật giáo Hy Lạp. Mặc dù không xác định được những đồ tượng miêu tả Phật dưới nhân dạng xuất phát từ nơi nào, nhưng trong các tượng được tạc, người ta vẫn thấy được những dấu tích của hai truyền thống nguyên thuỷ: tóc xoắn, pháp y che hai vai, giầy hoặc những nét trang trí với những chiếc lá Acanthus được xếp theo trật tự Ca-lâm-đa (Corinthian order) được xem là bắt nguồn từ Càn-đà-la. Ngược lại, pháp y với những nét tinh tế hơn và chỉ che bên vai trái, đài hoa sen làm chỗ ngồi của Phật cũng như Pháp luân trong bàn tay của ngài được xem có nguồn từ Ma-thâu-la. Tại Ấn Độ, nghệ thuật Phật giáo tiếp tục phát triển trong các thế kỉ tiếp theo trên cơ sở này. Đáng kể là nghệ thuật của các nhà tạc tượng tại Ma-thâu-la, đặc biệt là việc sử dụng sa thạch đỏ làm chất liệu trong thời kì vương triều Cấp-đa (Gupta, tk 4-6). Nơi đây, các sắc thái nghệ thuật chính được kết tụ trong thế kỉ thứ 7-8, được xem là tiêu chuẩn cho hầu hết tất cả những nước ở châu Á có truyền thống Phật giáo sau này: thân và tứ chi của Phật thanh nhã và cân xứng, lỗ tai dài có lỗ bấm nhắc đến thời kì ngài còn là thái tử Tất-đạt-đa, búi tóc trên đầu gợi nhớ lại thời Phật tu khổ hạnh như một Du-già sư (sa. yogin) và cuối cùng, cặp mắt chỉ hé mở, không nhìn người đối diện mà chỉ hướng nội thiền định. Từ đó về sau, cách trình bày Phật đều mang những nét hiện thực được lí tưởng hoá. Tượng Phật đứng, Ba-mễ-dương (Bāmiyān, thế kỉ 6) Tại Ấn Độ, từ thế kỉ thứ 10 trở đi, Phật giáo và nền nghệ thuật hệ thuộc dần dần bị Ấn Độ giáo trong lúc đang phục hưng lấn át. Sau đó, Ấn Độ bị Hồi giáo từ phương Tây xâm chiếm, Phật giáo gần như hoàn toàn bị mai một ở xứ Ấn. Cùng với sự phổ biến Phật giáo, nhiều trường phái nghệ thuật Phật giáo xuất hiện song song với các trường phái giáo lí Phật giáo lớn như là Tiểu thừa, Đại thừa và Kim cương thừa. Các trường phái này có nhiều điểm giống nhau, nhưng mặt khác cũng phát triển những nét rất đặc thù. Thông thường, người ta phân biệt giữa hai nhánh chính, đó là Nghệ thuật Phật giáo Bắc truyền (Đại thừa) và Nghệ thuật Phật giáo Nam truyền (Tiểu thừa). Trong khi các thành phần đối xứng và tư thế ngày càng được nghệ thuật Bắc truyền lí tưởng hoá nhằm ứng đáp quan điểm Phật là “xuất thế nhân”, mang những đặc tướng siêu việt thì các trường phái Nam truyền có vẻ vẫn biểu hiện Phật với những nét của “thế nhân”, xem ngài vẫn là một người, mang thân thể của con người. Phật giáo Bắc truyền Phật Thích-ca Mâu-ni (nhà Nguỵ, Trung Quốc, tk. 6) Phật A-di-đà tại Long Môn (Trung Quốc, nhà Đường, tk 7-9) Bồ Tát Di-lặc (Lạc Sơn, Trung Quốc, tk. 8) Bồ Tát Quán Thế Âm với tượng Phật A-di-đà trên đỉnh đầu (nhà Tống, Trung Quốc, tk. 13) Nhà Minh (Trung Quốc, tk. 16) Phật giáo Bắc truyền dưới dạng Đại thừa được truyền bá có gốc xuất phát là Càn-đà-la, trước hết xuyên Con đường tơ lụa đến Trung Á và Trung Quốc, sau đó tiếp tục đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Một cung cách riêng với hệ thống đồ tượng rất đa dạng và đặc thù được tìm thấy trong Kim cương thừa tại Tây Tạng. Phật giáo Bắc truyền, như trường hợp Đại thừa nói chung, được đánh dấu bằng một hệ thống đồ tượng phức tạp với rất nhiều vị Phật và Bồ Tát khác nhau. Trung Á Khu vực ảnh hưởng Phật giáo Càn-đà-la tồn tại đến thế kỉ thứ 7, khi Hồi giáo bắt đầu chiếm lĩnh phần lớn khu vực Trung Á. Song song với những tác phẩm xác lập phong cách của các nhà điêu khắc, các tượng Phật tại Ba-mễ-dương (Bāmiyān) cũng thuộc vào những di sản của nền văn hoá Phật giáo đầu mùa này. Vì địa thế đặc biệt nên Trung Á luôn là một địa điểm hội tụ của các nền văn minh cổ – văn minh Trung Hoa bên phía Đông, văn minh Ấn Độ và Ba Tư ở miền Nam, sau đó là các nước dưới quyền Alexander Đại đế, vương triều Tắc-lưu-tây (en. seleucid), và cuối cùng là văn minh La Mã từ miền Tây. Người Hán đã tiếp xúc với văn minh Hy Lạp trong thế kỉ thứ 2 TCN trong thời kì bành trướng sang hướng Tây. Những mối quan hệ ngoại giao được thành lập và cuối cùng, các tuyến lộ thương mại xuất hiện, được biết đến ngày nay dưới tên “Con đường tơ lụa“. Phật giáo được phổ biến dọc theo con đường này. Tháp, tự viện, và một số vương quốc Phật giáo nhỏ được kiến lập trong những ốc đảo bên cạnh Con đường tơ lụa. Rất nhiều công trình kiến trúc và đồ tượng của thời kì này còn được tìm thấy tại nhiều vùng phía đông của Trung Á, miền Tây Bắc Trung Quốc hiện nay (Thổ Nhĩ Kì Tư Thản – Turkestan – Bồn địa Tháp-lí-mộc – Tarim Basin – và Tân Cương), chẳng hạn như những bức hoạ và chạm trổ trên tường trong một loạt tự viện được xây trong hang đá, những bức tranh được vẽ trên vải, tượng đá và những khí cụ được dùng trong nghi lễ. Đặc biệt là những tác phẩm cổ nhất ở đây cho thấy rõ ảnh hưởng của nghệ thuật Càn-đà-la. Ngay cả văn bản được viết bằng chữ Kharoṣṭhī của vùng Càn-đà-la cũng được tìm thấy ở những ốc đảo. Với sự phát triển quan hệ thương mại, ảnh hưởng của Trung Quốc tăng trưởng rất nhanh, văn hoá và nghệ thuật của những dân tộc sống dọc theo Con đường tơ lụa sau cũng biến đổi theo.
|
|
|
Post by tk on Apr 19, 2011 16:34:42 GMT -5
Trung ÁKhu vực ảnh hưởng Phật giáo Càn-đà-la tồn tại đến thế kỉ thứ 7, khi Hồi giáo bắt đầu chiếm lĩnh phần lớn khu vực Trung Á. Song song với những tác phẩm xác lập phong cách của các nhà điêu khắc, các tượng Phật tại Ba-mễ-dương (Bāmiyān) cũng thuộc vào những di sản của nền văn hoá Phật giáo đầu mùa này. Vì địa thế đặc biệt nên Trung Á luôn là một địa điểm hội tụ của các nền văn minh cổ – văn minh Trung Hoa bên phía Đông, văn minh Ấn Độ và Ba Tư ở miền Nam, sau đó là các nước dưới quyền Alexander Đại đế, vương triều Tắc-lưu-tây (en. seleucid), và cuối cùng là văn minh La Mã từ miền Tây. Người Hán đã tiếp xúc với văn minh Hy Lạp trong thế kỉ thứ 2 TCN trong thời kì bành trướng sang hướng Tây. Những mối quan hệ ngoại giao được thành lập và cuối cùng, các tuyến lộ thương mại xuất hiện, được biết đến ngày nay dưới tên “Con đường tơ lụa“. Phật giáo được phổ biến dọc theo con đường này. Tháp, tự viện, và một số vương quốc Phật giáo nhỏ được kiến lập trong những ốc đảo bên cạnh Con đường tơ lụa. Rất nhiều công trình kiến trúc và đồ tượng của thời kì này còn được tìm thấy tại nhiều vùng phía đông của Trung Á, miền Tây Bắc Trung Quốc hiện nay (Thổ Nhĩ Kì Tư Thản – Turkestan – Bồn địa Tháp-lí-mộc – Tarim Basin – và Tân Cương), chẳng hạn như những bức hoạ và chạm trổ trên tường trong một loạt tự viện được xây trong hang đá, những bức tranh được vẽ trên vải, tượng đá và những khí cụ được dùng trong nghi lễ. Đặc biệt là những tác phẩm cổ nhất ở đây cho thấy rõ ảnh hưởng của nghệ thuật Càn-đà-la. Ngay cả văn bản được viết bằng chữ Kharoṣṭhī của vùng Càn-đà-la cũng được tìm thấy ở những ốc đảo. Với sự phát triển quan hệ thương mại, ảnh hưởng của Trung Quốc tăng trưởng rất nhanh, văn hoá và nghệ thuật của những dân tộc sống dọc theo Con đường tơ lụa sau cũng biến đổi theo. Trung Quốc Truyền thuyết cho rằng, thời vua A-dục trị vì (thế kỉ thứ 3 TCN) đã cử nhiều vị tăng đến Trung Quốc truyền đạo. Việc truyền bá Phật giáo đến Trung Quốc được ghi nhận rõ ràng bắt đầu vào thế kỉ thứ 1 CN. Từ thế kỉ thứ 4 trở đi, người ta có thể tìm thấy một nghệ thuật Phật giáo tự lập và đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực tạc tượng, vẽ tranh trên tường và sau đó, dưới dạng tranh cuốn (Thangka). Ngoài vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, tranh tượng còn trình bày Phật A-di-đà, Đại Nhật và các vị Bồ Tát khác (Quán Thế Âm,…). Các vương triều miền Bắc – Bao gồm khu vực cai trị của các vương triều (Bắc Nguỵ 北魏, Đông Nguỵ 東魏, Tây Nguỵ 西魏, Bắc Tề 北齊, Bắc Chu 北周) về mặt địa lí đều rất xa nguồn gốc Phật giáo tại Ấn Độ. Trong thế kỉ thứ 5-6, một phong cách nghệ thuật rất đặc thù được hình thành, bao gồm những thành phần biểu đạt trừu tượng có tính chất sơ đồ. Ban đầu, cách trình bày còn mang những đặc điểm được tìm thấy trong các hình tượng thần linh truyền thống bản địa: trán rộng, sống mũi thon, sắc nét và miệng nhỏ cười mỉm. Hào quang không tròn với mũi nhọn đưa lên tương tự một chiếc lá. Chỗ thờ cúng và tưởng niệm thường được trình bày trong hang động theo truyền thống Ấn Độ (xem A-chiên-đà). Các hình tượng thường được biểu hiện dưới dạng chạm trổ, đục từ vách đá ra. Những di tích quan trọng và nổi tiếng nhất được tìm thấy trong những hang đá tại Long Môn (Long Môn thạch quật, bắt đầu từ thế kỉ thứ 5 nhà Bắc Nguỵ, nhà Đường; gần Lạc Dương, tỉnh Hà Nam). Đến thế kỉ thứ 6 người ta còn tìm thấy nhiều hình tượng được làm bằng đất nung, sau đó tượng đồng ngày càng xuất hiện nhiều hơn và cũng được truyền đến Hàn Quốc. Nhà Đường – Hai vương triều kế đến là nhà Tuỳ và nhà Đường lại chú tâm đến các tài liệu gốc Ấn Độ hơn. Nhiều cao tăng Trung Quốc đã sang Ấn Độ trong thời gian giữa thế kỉ thứ 4 và 11. Một trong những cao tăng du học trong thế kỉ thứ 7 được nhắc đến là Huyền Trang và nhờ vị này mà người ta có được một bài tường thuật về các tượng Phật tại Ba-mễ-dương. Cuộc giao lưu văn hoá giữa Trung Quốc và Ấn Độ dưới vương triều Cấp-đa đã dẫn đến sự một kiện quan trọng là: từ lúc này, nghệ thuật Phật giáo Trung Quốc ngày càng có xu hướng đi sát với nghệ thuật Ấn Độ; Nếu tranh tượng của các vị Phật và Bồ Tát trước đây thon gầy và theo truyền thống Càn-đà-la, mang pháp y có nhiều nếp pli phủ từ cổ xuống chân, thì giờ đây, thân thể của chư vị có vẻ “mập” hơn và cũng có một phần thân không được che phủ (vai bên phải, bán thân phía trên). Cổ của chư vị có ba “ngấn thẩm mĩ”, mô típ hoa sen ngày càng được dùng như một thành phần trang trí, hào quang giờ đây có hình tròn. Mặc dù tư thế được trình bày vẫn còn cứng và không tự nhiên, nhưng gương mặt lại mang những nét dễ gần và tự nhiên hơn. Kể từ thế kỉ thứ 7 người ta lại thấy một phong cách nghệ thuật mới: gương mặt tròn trịa, bộ tóc được trang điểm phức tạp hơn với nhiều trang vật khác nhau. Song song với nghệ thuật tạc tượng, ban đầu hội hoạ trên vách của các tự viện và thạch động là chủ yếu. Nhưng đến cuối đời nhà Đường thì một phong cách hội hoạ đặc thù được phát triển trên những bức tranh cuốn. Các nghệ nhân thời đó thường lấy hình tượng các vị Bồ Tát hoặc chư thiên, hộ thần đã được thuyết phục ủng hộ Phật pháp – vốn được trang trí rực rỡ hơn – làm mô típ thay vì lấy hình tượng giản dị của Phật Thích-ca Mâu-ni. Nhà Đường rất rộng mở cho những ảnh hưởng bên ngoài. Trong thế kỉ thứ 9, vào khoảng cuối nhà Đường, sự phóng khoáng nghệ thuật này cuối cùng đã chuyển biến thành cực biên khác. Vào năm 845, Đường Vũ Tông (武宗 814–846, tức Lí Viêm 李炎) ra lệnh đàn áp tất cả những “tôn giáo ngoại lai” như Cảnh giáo (景教, Nestorianism), Toả-la-á-tư-đức giáo (瑣羅亞斯德教, Zoroastrianism) và Phật giáo. Tự viện Phật giáo bị đóng cửa và Phật tử giờ đây bị đàn áp, buộc phải ẩn náu tu hành. Phần lớn những thành tích nghệ thuật đời Đường chỉ trong vài năm đã bị phá huỷ. Qua Pháp nạn này, sự phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại Trung Quốc cũng bị đình chỉ gần như hoàn toàn. Thiền tông – Là một trong những tông phái Phật giáo sống sót sau Pháp nạn 845, Thiền tông đã được chấn hưng vào đời nhà Tống (1126-1279). Các thiền viện lúc này cũng được xem là trung tâm của văn hoá và giáo dục. Từ thế kỉ 13 trở đi, Thiền tông chính thức được truyền sang Nhật Bản. Xem thêm Phật giáo Trung Quốc Hàn Quốc Hàn Quốc, thế kỉ 8-9 Tượng Phật Thích-ca tại Minh Nhật Hương Thôn (明日香村, ja. asuka-mura, Nhật Bản, 609). Đây là tượng Phật cổ nhất tại Nhật có ghi chính xác thời điểm hoàn tất. Ngũ Trùng tháp (五重塔) tại Hưng Phúc tự (興福寺), Nại Lương, Nhật Bản, tk. 8 Liêm Thương Đại Phật (鐮倉大佛, ja. Kamakura Daibutsu) tại Cao Đức viện (高徳院), Nhật Bản, thế kỉ 13 Nghi thức dùng trà Phật giáo được truyền sang Hàn Quốc trong thế kỉ thứ 6 từ Trung Quốc qua sự tiếp xúc với những bộ tộc thảo nguyên tại Trung Á và Bắc Á. Ban đầu, nghệ thuật Phật giáo Hàn Quốc chịu ảnh hưởng Trung Quốc cũng như ảnh hưởng của nghệ thuật truyền thống bản xứ: hình dạng trừu tượng nhưng đồng thời mang nhiều trang vật truyền thống. Tuy nhiên, khác với những những hình tượng mang nhiều trang vật sặc sỡ của nghệ nhân Trung Quốc, người Hàn chuộng phong cách đơn giản, rõ ràng hơn như có thể thấy được ở phong cách biểu hiện các vị Phật siêu việt như Đại Nhật Phật. Truyền thống nghệ thuật này sau cũng có ảnh hưởng lớn tới nền Phật giáo Nhật Bản. Nhật Bản Phật giáo cũng được truyền sang Nhật Bản vào thế kỉ thứ 6 qua các tăng sĩ Hàn Quốc và Trung Quốc và đã được phổ biến trong thế kỉ 7. Vì địa thế ốc đảo đặc biệt, là miền cực Đông của Con đường tơ lụa nên nhiều truyền thống Phật giáo cũng như nghệ thuật Phật giáo vẫn được lưu tồn ở đây trong khi bị đàn áp và suy tàn ở những khu vực phương Tây khác như Ấn Độ, Trung Á và Trung Quốc. Trong lĩnh vực nghệ thuật thì ban đầu, phong cách Hàn Quốc được tiếp nối và có phần bị ảnh hưởng bởi phong cách nghệ thuật truyền thống Nhật Bản thời Minh Nhật (明日, ja. asuka, 593-710). Thời đại Nại Lương (奈良, ja. nara, 710–794), nhiều nghệ nhân và tăng sĩ sang Trung Quốc học hỏi và mang các tranh tượng cũng như văn bản về bản xứ. Thời kỳ nhà Đường, nghệ thuật Phật giáo Trung Quốc mang nặng ảnh hưởng của vương triều Cấp-đa (sa. gupta) tại Ấn Độ, và vì vậy, ảnh hưởng này cũng được truyền sang Nhật Bản: Các bức tranh trên tường có nhiều nét giống các bức tranh trong những hang động tại A-chiên-đà (zh. 阿旃陀, sa. ajantā); nhiều nét của chủ nghĩa hiện thực – vốn đã có mặt trong thời Minh Nhật và chịu ảnh hưởng Hàn Quốc rõ rệt – tiếp tục được nhấn mạnh; các nếp pli (nếp xếp) của pháp y được đơn giản hoá và được làm rõ ràng hơn, đồng thời nụ cười mỉm trong các gương mặt đã nhường chỗ cho nét mặt yên tĩnh, êm dịu. Từ thế kỉ thứ 8, nghệ thuật Phật giáo Nhật Bản bắt đầu khác biệt phong cách của các nước láng giềng phương Tây. Các tượng Phật giờ đây có thân thể và tư thế hùng vĩ. Các bức tượng ngày càng được tạo với số lượng lớn bằng đất nung và gỗ (với kĩ thuật sơn đặc biệt của người Nhật) thay vì bằng đồng. Một trong những tượng Phật lớn và quan trọng nhất còn được đúc bằng đồng là tượng Đại Phật (ja. daibutsu) tại Đông Đại tự (zh. 東大寺, ja. tōdai-ji), được hoàn tất năm 749. Nhưng song song với đó, nhiều tự viện được kiến lập với những kiến trúc đặc biệt như Tháp ngũ tầng (Ngũ trùng tháp 五重塔 gojū-tō) tại Nại Lương, Đại Kim đường (大金堂, ja. daikondō) tại Pháp Long tự (zh. 法隆寺, ja. hōryū-ji) hoặc Hưng Phúc tự (興福寺, ja. kōfuku-ji). Hội hoạ và tranh thuỷ mặc (có phần được tô màu) hay được dùng để minh hoạ các bộ kinh, thường theo những mô típ và phong cách của nghệ thuật Trung Quốc và Trung Á. Thời đại Bình An (平安, ja. heian, 794–1185) được đánh dấu bởi sự chuyên chú vào các nhánh Mật giáo với nhiều vị Phật siêu việt (Đại Nhật Phật, A-di-đà Phật, Di-lặc v.v…) và các vị Bồ Tát. Cùng với khuynh hướng này, một phong cách thoát li ảnh hưởng cũ (Đường, Cấp-đa) xuất hiện. Thời đại Bình An được xem là thời vàng son của nghệ thuật Phật giáo tại Nhật. Vật liệu điêu khắc được chuộng nhất là gỗ, thường được mạ vàng hoặc được sơn. Chỉ gỗ có hương mới được để nguyên không xử lí. Trong lĩnh vực hội hoạ, nhiều Mạn-đà-la xuất hiện, được các thế hệ sau xem là tiêu chuẩn và được sao lại rất nhiều. Kể từ thế kỉ 12, nghệ thuật tạo hình Nhật Bản tập trung vào cách trình bày này những mô típ thuộc trường phái tôn xưng Phật A-di-đà, tức là Tịnh độ tông hoặc Tịnh độ chân tông. Nghệ thuật Phật giáo Nhật đạt đến đỉnh cao tột độ trong thời đại Liêm Thương (鐮倉, ja. kamakura, 1185–1333). Đặc biệt trong lĩnh vực tạc tượng, các nghệ nhân đã hoàn tất nhiều bức tượng đặc biệt tả chân bằng gỗ, thường được tô hoạ và trang trí với cặp mắt bằng thuỷ tinh. Ngoài các vị Phật và Bồ Tát, người ta cũng bắt đầu tạo tượng của các vị Cao tăng. Thêm vào đó, tuy không nhiều, một số tượng Phật vĩ đại được đúc tạo, ví dụ như tượng Đại Phật cao 11m tại viện Cao Đức (高徳院, ja. kōtokuin, 1252). Trong các bức tranh, khuynh hướng hiện thực được nhấn mạnh quá mức và nhiều bức tranh giờ đây xem lại lại giống như biếm hoạ. Kể từ thế kỉ 12 và 13, một dạng Phật giáo rất đặc thù phát triển song song với các trường phái Tịnh độ tại Nhật, đó là Thiền tông. Thiền sư Minh Am Vinh Tây (明菴栄西, ja. myōan eisai) đã học Thiền tại Trung Quốc và sau đó khai sáng Lâm Tế tông tại Nhật. Đạo Nguyên Hi Huyền (道元希玄, ja. dōgen kigen) – một thời cũng là đệ tử của Vinh Tây – trở thành tổ khai sáng Tào Động tông sau đó. Nghệ thuật Thiền phát triển một loạt phong cách, hình thức rất đặc biệt, chẳng hạn như: Thư đạo (書道, ja. shodō), Nghệ thuật vườn Nhật (Nhật Bản đình viên 日本庭園), tranh mực tàu (mặc hội 墨絵, ja. sumi-e) hoặc thơ Bài cú (俳句, ja. haiku). Đặc điểm chung của tất cả các nghệ thuật trên là sự cố gắng thể hiện “bản chất” của các hiện tượng trên thế gian theo chủ nghĩa ấn tượng, không màu mè và nguyên lí bất nhị. Quá trình “tạo” một sản phẩm nghệ thuật ở đây không chỉ là một hành động sáng tạo đơn thuần, mà hơn nữa, được xem như một tiến trình tu tập, là biểu thị của tâm thức nỗ lực tiến đến giác ngộ “lập tức”. Chính từ cơ sở này mà xuất phát nhiều nhánh nghệ thuật khác như Nghệ thuật cắm hoa (生け花, ikebana), Trà đạo (茶道, ja. sadō) hoặc nghệ thuật bắn cung, Cung đạo (弓道, ja. kyūdō). Cuối cùng thì, theo quan điểm nhà Thiền, mỗi hành động đều có thể được xem là một nghệ thuật hàm dung ý nghĩa thẩm mĩ và ý nghĩa tâm linh. Ngày nay, tính về mặt dân số thì Nhật Bản là một trong những quốc gia Phật giáo lớn nhất. Người ta liệt kê được ở Nhật khoảng 80.000 ngôi chùa, trong đó có nhiều tự viện rất cổ, được kiến tạo bằng gỗ và được trùng tu đều đặn. Tây Tạng và khu vực Hi Mã Lạp Sơn Tượng Kim Cương Tát-đoá (sa. vajrasattva) mạ vàng, Tây Tạng Dạ-ma (Tây Tạng, tk. 17-18) Phật giáo Kim cương thừa – thường được các nhà Phật học châu Âu cho là một dạng Phật giáo “bí mật”, dùng “huyền thuật” – là sự phối hợp giữa truyền thống Bà-la-môn/Ấn Độ giáo (dùng Chân ngôn, các phép Du-già, tế lễ), cũng được gọi là Đát-đặc-la giáo (sa. tantrayāna), và giáo lí truyền thống của đức Phật. Trong thế kỉ thứ 8-9, Kim cương thừa được Đại sư Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava), vốn xuất thân từ khu vực Càn-đà-la, truyền sang Tây Tạng. Ban đầu, nghệ thuật Phật giáo Kim vương thừa Tây Tạng chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo Hy Lạp cũng như ảnh hưởng của Bengal và Trung Quốc. Một trong những phát triển nghệ thuật quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng là các Mạn-đà-la (sa. maṇḍala). Mạn-đà-la là việc miêu tả một cách rất chính xác và rõ ràng các “cung điện của thiên giới” với trung tâm là một hình vuông được bao bọc bằng một hình tròn trình bày một vị Phật hoặc Bồ Tát. Khu vực vây quanh – thường là một hình tròn – được một số hình tượng chiếm giữ tuỳ theo mô típ (các vị Phật, Bồ Tát, chư thiên, Hộ Pháp, La-sát… hoặc Cao tăng) hoặc các biểu tượng khác (khí cụ được dùng trong lúc thực hiện nghi lễ, toà kiến trúc, các mẫu hình trừu tượng). Phong cách của các Mạn-đà-la thường được bắt chước nghệ thuật Ấn Độ thời Cấp-đa và nghệ thuật Ấn Độ giáo. Mạn-đà-la xưa nay được dùng làm đối tượng thiền quán, giúp thiền giả tập trung vào mô típ nhất định và qua đó, tập trung vào nội dung giáo lí gắn liền với nó. Tăng sĩ Tây Tạng đang tạo một Mạn-đà-la bằng cát Song song với các Mạn-đà-la dưới dạng hình cuốn (xem thêm Thăng-ca) và tranh treo tường, một dạng đặc biệt khác cũng được phát triển, đó là Mạn-đà-la cát. Một Mạn-đà-la cát được nhiều tăng sĩ cùng nhau tạo trong phạm vi của một nghi lễ lớn nhất định nào đó. Thông thường, họ cần nhiều ngày liên tục để tạo Mạn-đà-la và sau khi hoàn tất thì nó bị phá huỷ ngay – cát được gom lại và rắc xuống sông hay được chia nhỏ ra cho các Phật tử chiêm bái. Mạn-đà-la cũng được dùng như một sơ đồ mặt bằng cho các cấu trúc trong một tự viện. Các cổng vào, chỗ ở, chỗ thắp hương niệm Phật và chính điện được sắp xếp như trong một Mạn-đà-la và người ta quả thực đã tạo nhiều sản phẩm nghệ thuật, đền thờ, tự viện không gian ba chiều theo những Mạn-đà-la mặt phẳng hai chiều. Hình tượng tại Tây Tạng thường được tạo bằng gỗ hoặc kim loại, ít khi bằng đá. Sau thế kỉ 16, ảnh hưởng nghệ thuật Phật giáo Trung Quốc tăng dần. Việt Nam Tượng Phật tại chùa Long Sơn, Nha Trang, thế kỉ 20 Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm tại chùa Bút Tháp, 1656 Tuy nằm trong khu vực Đông Nam Á cũng như thuộc về những nước Phật giáo Nam truyền về mặt địa lí, nhưng Việt Nam được xếp vào những nước theo Phật giáo Đại thừa, nghĩa là Phật giáo Bắc truyền. Từ thế kỉ thứ nhất đến thế kỉ thứ 9, Bắc Việt trực thuộc Trung Quốc và đã thừa kế truyền thống Nho giáo và Phật giáo Đại thừa từ xứ này – và cùng với Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo cũng được truyền bá tại Việt Nam. Tại miền Nam Việt Nam hiện nay – thời xưa một phần thuộc về vương quốc Phù Nam, một phần thuộc về vương quốc Champa – chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ du nhập trực tiếp bằng đường biển. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa đã được biết đến rất sớm, nhưng tôn giáo chính ở đây vẫn là Ấn Độ giáo. Phong cách nghệ thuật “Ấn Độ hoá” tại miền Nam – vốn có nhiều điểm giống với nghệ thuật Khmer thời kì Angkor. Cả hai đều chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Java (Indonesia) – tồn tại đến thế kỉ 15, khi Champa bị Việt Nam xâm chiếm (1471), và cuối cùng, bị tiêu diệt hoàn toàn vào khoảng 1720. Nhiều di tích nghệ thuật của vương quốc Champa còn tồn tại, ví dụ như một số đền thờ (tháp Chàm) và hình tượng bằng đá cát. Ngoài ra, gỗ cũng sớm được dùng cho những tác phẩm nghệ thuật. Di tích cổ nhất là một bức tượng Phật bằng gỗ, được tạc trong thế kỉ thứ 6 và hiện đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng Lịch sử tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đời nhà Mạc (1527-1592) và nhà Hậu Lê (1533-1788) được xem là thời kì vàng son của nghệ thuật Phật giáo. Tượng Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt tại chùa Bút Tháp được nghệ nhân Trương Thọ Nam đúc vào năm 1656 là một trong những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo quan trọng nhất của Việt Nam. Tuy có khác chút ít về chi tiết, nhưng tượng Quán Thế Âm tại chùa Bút Tháp có thể được xem là được đúc theo một mô hình Ấn Độ. Đây là bức tượng được triều đình cung tiến cho chùa, nên có sự đầu tư lớn và là bức tượng duy nhất trong hệ thống tượng cổ Việt Nam có ghi niên đại năm tạc, danh tính người tạc. Trên tượng có ghi: “Tuế thứ Bính Thân niên, thu nguyệt, cốc nhật doanh tạo. Nam Đông Giao Thọ nam tiên sinh phụng khắc”. Tượng phối hợp cả hai dạng xuất hiện của Quán Thế Âm, đó là Quán Thế Âm Thập nhất diện đại bi thế tự tại (zh. 十一面大悲世自在, sa. ekādaśamahākāruṇika-lokeśvara) với 8 tay và Thiên thủ thiên nhãn thế tự tại (zh. 千手千眼世自在, sa. sahasrabhuja-lokeśvara) với gần 1000 cánh tay, đồng thời, trong lòng mỗi bàn tay đều có chạm một con mắt, làm cho bức tượng mang ý nghĩa kép. Những cánh tay ở đây vừa là ánh hào quang độ lượng của Phật, vừa tượng trưng cho những bàn tay dang ra cứu vớt đời, vừa là những con mắt thấu suốt coi sóc đến chúng sinh. (Riêng tượng Quan Âm ở chùa Mễ Sở, Hưng Yên thì có hơn 1000 cánh tay và mắt). Truyền thuyết kể lại rằng, khi nhìn nỗi khổ của chúng sinh trong địa ngục, ngài kinh hoảng đến mức đầu vỡ tung thành 10 mảnh. A-di-đà, vị Phật đỡ đầu của ngài, biến mỗi mảnh đầu vỡ đó thành một đầu (hoặc gương mặt) nguyên vẹn. 9 gương mặt hiền hậu, gương mặt thứ 10 là hung tợn vì người ta cho rằng, với một gương mặt hung tợn Bồ Tát dễ xua đuổi các loại tà ma. Gương mặt thứ 11 (hoặc nguyên hình tượng) là Phật A-di-đà. Trong tượng “nghìn tay nghìn mắt” (một con số lí tưởng không thể thực hiện được) thì mỗi tay của Quán Thế Âm cầm một con mắt, tượng trưng cho lòng đại bi của ngài, vốn không loại chúng sinh nào ra; cho biết là lòng quan tâm của ngài đi đến mọi nơi và ngài có đủ phương tiện để cứu độ tất cả chúng sinh đúng theo lời nguyện của một vị Bồ Tát. (Xem chi tiết bài Tượng Quan Âm chùa Bút Tháp). Nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ viết như sau về pho tượng này [1]: Tác giả Trương Thọ Nam đã tiếp thu và nâng nghệ thuật của pho tượng này lên đỉnh cao bởi giao lưu với nền nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ, và điêu khắc Chăm, nhất là những cánh tay của Phật như những cánh tay vũ nữ thanh khiết của người Chăm. Trang phục của Quan Âm được tác giả chuyển sang hình khối, bố cục đường nét rất lãng mạn theo phong cách Việt Nam mà ông đã tiếp thu được từ nền nghệ thuật Lý-Trần qua cách miêu tả sen. Sen thời Lý được chạm rồng trên các cánh hoa, sen thời Lê được chạm khắc theo những nét lửa Lê – ngọn lửa của truyền thống chống ngoại xâm. Châu Á là nơi đạo Phật khởi nguồn nên chủ đề “Quan Âm nghìn mắt nghìn tay” được tạc ở nhiều nước, nhưng tác phẩm do nhà điêu khắc thiên tài Trương Thọ Nam sáng tác có nội dung hoàn chỉnh bậc nhất về thế giới quan và nhân sinh quan theo quan điểm Phật giáo truyền thống, có hình thức nghệ thuật đạt được sự hoàn mỹ tuyệt vời. Pho tượng này đã đạt giải đặc biệt khi tham gia triển lãm nghệ thuật Phật giáo Quốc tế tại Ấn Độ năm 1958
|
|
|
Post by tk on Apr 19, 2011 16:41:38 GMT -5
Phật giáo Nam truyền Angkor, tk. 12. Ayutthaya, tk. 14-15. Phật giáo được truyền sang Tích Lan vào thế kỉ thứ 3 TCN, và trong thiên niên kỉ đầu đã được truyền từ Ấn Độ đến các nước Đông Nam Á khác dọc theo đường biển từ Ấn Độ đến Trung Quốc. Đại thừa – ban đầu là tông phái chủ yếu ở đó – cũng như Thượng toạ bộ và Ấn Độ giáo đều có tín đồ ở Pagan (Miến Điện), Thái Lan hiện nay, Campuchia trước đây (Vương quốc Phù Nam), Việt Nam (Champa) và Indonesia. Trong khi Hồi giáo chiếm chỗ Phật giáo tại Indonesia và bán đảo Mã Lai thì khoảng giữa thiên niên kỉ thứ hai, Thượng toạ bộ có gốc từ Tích Lan trở thành tông phái chính tại Đông Nam Á. Cùng với những hệ thống tôn giáo Ấn Độ, ngôn ngữ và chữ viết (tiếng Phạn, tiếng Pali, chữ Thiên thành,…) cũng như các sắc thái nghệ thuật của tiểu lục địa Ấn Độ đã được phổ biến tại Đông Nam Á. Mối quan hệ trực tiếp với các thương gia và học giả từ các khu vực Ấn Độ sau hơn 1.000 năm đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển văn hoá tại Đông Nam Á, nhưng mặt khác, các nền văn hoá tại đây cũng đã phát triển những phong cách, những truyền thống rất đặc thù để lưu lại đời sau. Thế kỉ 1 đến thế kỉ 8: Trong thời gian này, các vương quốc lớn đầu tiên xuất hiện tại Đông Nam Á. Vương quốc Phù Nam được thành lập trên khu vực miền Nam Việt Nam và miền Đông Nam Campuchia. Về hướng Tây, khu vực Miến Điện bây giờ và vùng đất phía sau là vương quốc Môn. Các vương quốc này chịu ảnh hưởng của vương triều Cấp-đa. Ngoài những đồ tượng được tìm thấy (tượng Phật, bài vị thờ cúng) và những bia văn được viết bằng tiếng Phạn, người ta còn tìm thấy nhiều tranh tượng của các thần thể Ấn Độ giáo trong khu vực này. Thế kỉ 9 đến thế kỉ 13: Vào khoảng thế kỉ thứ 9, trên các đảo miền Tây của Indonesia hiện nay xuất hiện hai vương quốc Sri Vijaya và Sailendra. Hai vương triều này đã sản sinh nhiều tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo (xem Borobudur). Ở miền Bắc, vùng đại lục, thì vương quốc Khmer tại Angkor trở thành một vương quốc hùng mạnh, đứng ngang hàng với vương quốc Champa nằm phía Đông. Vương quốc Angkor và Champa ban đầu mang đậm sắc thái Ấn Độ giáo, nhưng lại có tính dung hoà, tìm cách kết hợp những thành phần Ấn giáo, Phật giáo và các truyền thống bản xứ. Cả hai đều phát triển những phong cách nghệ thuật giống nhau, có thể được kiểm nhận qua những công trình kiến trúc còn tồn tại. Vào cuối thời kì này, tất cả những vương quốc nêu trên đều chuyển sang Đại thừa Phật giáo, nhưng cuối cùng, kể từ thế kỉ 13 thì Thượng toạ bộ lại trở thành tông phái chủ yếu. Ngay những vương quốc mới phát sinh của dân tộc Thái là (Sukhothai và sau đó là Ayutthaya) phía Tây Angkor cũng lấy Thượng toạ bộ làm tông chỉ. Từ thế kỉ 14: Trong khi Hồi giáo chiếm chỗ Phật giáo và Ấn Độ giáo gần như toàn vẹn ở những miền phía Nam của Malaysia, ở Indonesia và Philippines thì Phật giáo Thượng toạ bộ trên châu lục vẫn là tôn giáo chủ yếu, ngày càng được phát triển và phổ biến (Campuchia, Lào, Thái Lan, Miến Điện). Tích Lan Dagoba tại Colombo, Tích Lan Bên trong “Chùa Răng Phật” (Dalada Maligava) tại Kandy, Tích Lan Khi ảnh hưởng Phật giáo tại Ấn Độ giảm dần, vào khoảng cuối vương triều Cấp-đa, thì Thượng toạ bộ đã đạt vị trí vững chắc tại Tích Lan từ nhiều thế kỉ và cũng đã ảnh hưởng lớn đến nền văn hoá và nghệ thuật xứ này. Nơi đây, Xá-lợi đóng một vai trò đặc biệt trong truyền thống tín ngưỡng, ví dụ như một chiếc răng của Phật được bảo tồn trong tại Dalada Maligava, “Chùa Răng Phật”, hoặc cây Bồ-đề trong một tự viện ở cố đô Anuradhapura, được xem là phát sinh từ một nhánh của cây bồ-đề mẹ tại Bồ-đề đạo trường (bodhgayā), nơi Phật Thích-ca thành đạo. Một thành phần mới xuất hiện trong lĩnh vực kiến trúc Phật giáo Tích Lan: Bodhighara, “đền thờ cây bồ-đề” và Āsanaghara, “đền thờ chỗ ngồi của Phật”. Thay vì tôn xưng cây bồ-đề một cách trừu tượng như tại Ấn Độ thì giờ đây, một cây bồ-đề sống được tôn thờ ngay giữa Bodhi-Ghara. Một trong những phát triển quan trọng nhất của nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ là việc tiếp tục phát triển kiến trúc tháp-bà. Nguyên có dạng vòm cung bán nguyệt, giờ đây các bảo tháp được kéo dài lên trên, có hình chuông và được gọi là Dāgäba (thường được phát âm như Dagoba; nguyên là từ gốc Tích Lan, xuất phát bởi hai từ tiếng Phạn là dhātu, garbha). Các nghệ nhân không chạm trổ bên ngoài và trang trí các cổng đi vào như người Ấn, qua đó họ đề cao cao vẻ đẹp tổng thể giản dị của bảo tháp. Cùng với Thượng toạ bộ, kiến trúc bảo tháp của Tích Lan được phổ biến khắp Đông Nam Á và được xem là mô hình kiến trúc cho các Chedi tại Thái Lan và That tại Lào. Người ta có thể tìm thấy những nét điêu khắc rất tinh tế trên những “nguyệt thạch”, là các viên đá mỏng hình bán nguyệt được xếp đặt theo hình vòng cung trước ngưỡng cửa ra vào của các tự viện. Chúng cho thấy nhiều mô típ được chạm trổ rất đẹp và công phu như hoa, thực vật (sen, chùm nho, hoa, lá…) và thú vật (bò, voi, sư tử, ngan…). Ý nghĩa của chúng là cho người bước lên cảm nhận được sự biến chuyển trọng đại khi họ bước qua ngưỡng cửa vào chùa, đi vào một cõi nội tâm thanh tịnh sau khi gác qua thế giới hiện hữu với tất cả những gì hệ thuộc. Tượng Phật tại Tích Lan chịu ảnh hưởng của nghệ thuật A-ma-la-bà-đề và Cấp-đa; Phật thường được trình bày dưới dạng ngồi thiền (thế ngồi Kết già phu toạ, hai tai xếp lại dưới rốn), nhưng cũng có lúc ngài nằm bên phải, miêu tả thời điểm ngài nhập Niết-bàn Miến Điện Là láng giềng của Ấn Độ nên các khu vực của Miến Điện hiện nay đã sớm chịu ảnh hưởng của xứ này. Theo truyền thuyết thì người Môn, vốn cư trú từ khu vực biển Andaman phía Nam cho đến miền Bắc lấn tới vùng núi thuộc Thái Lan hiện nay, đã tiếp xúc với Phật giáo trong thế kỉ thứ 3 TCN qua sứ giả truyền giáo của vua A-dục. Các ngôi chùa cổ nhất ở đây được kiến lập từ thế kỉ 1-5. Nghệ thuật Phật giáo của người Môn chịu ảnh hưởng của phong cách Cấp-đa và những thời đại kế thừa. Cùng với việc di cư khắp vùng Đông Nam Á của người Môn thì phong cách nghệ thuật Môn cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến truyền thống của những nơi họ đến. Có hàng nghìn bảo tháp và tự viện đã được kiến tạo tại vương quốc Pagan từ thế kỉ 11 đến 13 và trong đó, trên 2000 di tích vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các viện bảo tàng tại Yangoon và Mandalay vẫn còn bảo tồn nhiều bức tượng được trang trí và mạ vàng rất tinh vi được kiến tạo trong thời kì này hoặc thậm chí trễ hơn nữa, sau khi Pagan bị quân Mông Cổ xâm chiếm (1287). Indonesia Borobudur, tk. 9 Từ thế kỉ 1, các nền văn minh Indonesia đã chịu ảnh hưởng của văn hoá Phật giáo Ấn Độ (đặc biệt là hai đảo lớn Java và Bali) và chúng sau này cũng ảnh hưởng đến nghệ thuật tạo hình của Đông Nam Á đại lục (kiến trúc, điêu khắc). Borobudur nhìn từ xa Trong khi các vương quốc tại Đông Nam Á lục địa như như Phù Nam và Angkor theo Ấn Độ giáo thì tại Indonesia, trung tâm Bali, vương quốc Phật giáo Sri Vijaya (~tk. 8 đến tk. 13) được hình thành. Vương quốc biển với khu vực cai trị lan rộng đến bán đảo Mã Lai này đã tiếp thụ truyền thống Đại thừa và Kim cương thừa dưới triều đại Sailendra. Những di tích quan trọng nhất của nghệ thuật Phật giáo Indonesia là hệ thống tự viện Phật giáo lớn nhất thế giới, được kiến lập trên một hòn núi tại Borobudur, và một bức tượng trình bày Bồ Tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa rất đặc sắc. Campuchia Gương mặt của Quán Thế Âm Bồ Tát được tạc trên các tháp tại đền Bayon tại Angkor, tk. 12 Đền Bayon tại Angkor, tk. 12 Vào khoảng thế kỉ 1, một trong những vương quốc tồn tại sớm nhất tại Đông Nam Á đã ra đời trên khu vực Nam Việt Nam hiện nay và Campuchia, đó là Phù Nam. Vào thời hưng thịnh, biên giới phía Tây vương quốc này là Miến Điện và phía Nam là Mã Lai. Phù Nam là vương quốc sống bằng thương mại và nằm trên tuyến đường biển giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ấn Độ đặc biệt đã gây ảnh hưởng lớn: chữ viết, tôn giáo và nghệ thuật được tiếp nhận và cùng với sự hoà hợp với truyền thống bản xứ, nhiều phong cách biểu đạt đã phát sinh. Khác với trường hợp Phật giáo Bắc truyền, tư tưởng và nghệ thuật Phật giáo du nhập Đông Nam Á trực tiếp từ Ấn Độ bằng đường biển. Mặc dù Ấn Độ giáo là tôn giáo chủ yếu trong một thời gian dài, nhưng Phật giáo Đại thừa từ ban đầu cũng đã có nhiều tín đồ. Trong thế kỉ thứ 9, vương quốc Khmer xuất hiện trên khu vực Angkor, thừa kế vương quốc Phù Nam. Nơi đây, thần Thấp-bà (sa. śiva) và Tì-thấp-nô (sa. viṣṇu, là vị thần chính được tôn xưng tại di tích nghệ thuật Angkor Wat) là hai vị được tôn thờ nhiều nhất. Từ thế kỉ 12 trở đi, Phật giáo hưng thịnh dưới sự cai trị của vua Jayavarman VII. Nhiều công trình kiến trúc được thực hiện như đền Bayon với nhiều rất nhiều tháp nhỏ hệ thuộc và mỗi tháp đều được chạm khắc khuôn mặt Bồ Tát Quán Thế Âm (sa. avalokiteśvara) với chiều cao vài thước (ở đây được gọi là Lokeśvara, là Thế tự tại chủ, “đấng tự tại trên thế gian”), hoặc Đại học Phật giáo Ta Prohm được phụng hiến cho Bồ Tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Nghệ thuật Khmer được phổ biến qua sự bành trướng của vương quốc Khmer trên các khu vực Đông Nam Á, trở thành phong cách tiêu chuẩn cho nghệ thuật Phật giáo Thái Lan, Lào và Champa (Việt Nam). Đặc điểm của tranh tượng Phật giáo tại Angkor là gương mặt thoát li thế gian của các vị Phật, các vị Bồ Tát cũng như tính rõ ràng của các nét thẳng không được trang trí như có thể thấy được tại Trung Quốc. Trong lúc giao thời của thế kỉ 13 và 14 thì Śrīndravarman lên trị vì, và ông cũng là quốc vương Khmer đầu tiên theo Phật giáo Nam tông là Thượng toạ bộ. Đồng thời, vương quốc Angkor cũng dần dần mất vai trò chủ yếu trên khu vực này, cũng một phần vì các vương quốc Thái phương Tây ngày càng lớn mạnh. Sự biến đổi này cũng để lại dấu tích trong nghệ thuật. Các công trình tự viện lớn đều bị đình chỉ và hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được ưa chuộng trước đây giờ bị rơi vào lãng quên. Tượng Phật còn được tạo, nhưng chỉ được đúc bằng đồng hoặc vàng, không còn được tạc bằng đá. Về mặt phong cách thì các tượng Phật này giống các tượng tại Lào và Thái vốn có truyền thống theo Thượng toạ bộ: tượng thon, thanh nhã với những nét rõ ràng mạch lạc. Phong cách nghệ thuật này được xem là dấu ấn của nghệ thuật tôn giáo Campuchia cho đến ngày nay. Thái Lan và Lào Tháp Vàng, Bangkok, Thái Lan Sukhothai, tk. 14 Sukhothai, tk. 14 Trong những vương quốc cổ trên địa phận Thái Lan hiện nay, đặc biệt là các vương quốc được dân tộc Môn sáng lập, đã có sự giao lưu văn hoá với Ấn Độ trên cơ sở thương mại. Tương tự trường hợp Miến Điện, nghệ thuật nơi đây chịu ảnh hưởng của thời đại Cấp-đa tại Ấn Độ. Một số hình tượng và kiến trúc đặc sắc được kiến tạo, ví dụ như bảo tháp (Chedi) của Nakhon Pathom, cao 127m, được xem là kiến trúc Phật giáo cao nhất thế giới. Từ thế kỉ thứ 9 trở đi thì các truyền thống nghệ thuật Thái chịu ảnh hưởng của các vương quốc láng giềng như Angkor miền Đông và Sri Vijaya ở miền Nam. Trong thời gian này, Phật giáo Đại thừa là giáo lí chính, được thể hiện qua nhiều hình tượng của các vị Bồ Tát khác nhau. Đầu thế kỉ 13, Thượng toạ bộ gốc Tích Lan lại được phổ biến và dần dần nắm ưu thế, tương tự như ở một số quốc gia khác thuộc khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, vương quốc Sukhothai được kiến lập. Về mặt nghệ thuật thì người ta thấy được một sự chuyển biến từ phong cách giống nghệ thuật Khmer đến một phong cách biểu đạt rõ ràng, ít rườm rà, thậm chí có tính chất hình học trừu tượng. Các tượng Phật được biểu hiện với những sắc thái thanh nhã, trôi chảy, với pháp y trông như trong suốt và đầu hình oval với đỉnh đầu là một ngọn lửa (sa. ketumālā). Trong triều đại kế đến là Ayutthaya (tk. 14-18) thì mô típ này càng được trau chuốt tinh tế hơn, nhiều hình tượng thường được mạ vàng và được chạm gắn với đá quý. Thời kì này được xem là thời kì kiến lập phong cách và gây ảnh hưởng đến ngày nay. Một điểm đặc biệt của nghệ thuật Phật giáo Thái Lan là miêu tả Phật đang đi trong tranh tượng. Sự xuất hiện và phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại Lào có mối tương quan mật thiết với các vương quốc Thái láng giềng. Vật liệu được dùng cho các công trình kiến trúc và điêu khắc là gỗ, thường được sơn và vẽ. Đến thế kỉ thứ 15 thì các tác phẩm nghệ thuật ở đây rất giống các tác phẩm của Sukhothai. Nhưng kể từ thế kỉ 16 trở đi thì một phong cách đặc thù được xác lập: tượng Phật ngày càng thon dần với tay chân rất dài. Nghệ thuật Phật giáo thế kỉ 21 Tây Tạng, tk. 20 Nhìn chung việc sáng tạo chân dung, tranh, đồ tế lễ hoặc công trình kiến trúc ở các nước châu Á, nơi phần lớn có hơn ngàn năm văn hóa phật giáo, thường mang đậm dấu ấn truyền thống. Những đặc điểm chân dung của Đức Phật như tư thế cơ thể và các thủ ấn (sa. mudrā), một số chi tiết nhỏ như đôi tai và kiểu tóc cũng như các biểu tượng (bồ-đề thụ, liên hoa, pháp luân…) đều mang ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng và hình thức biểu đạt không thay đổi. Các tác phẩm tranh tượng mới đều tuân theo những khuôn mẫu truyền thống, trong đó những yếu tố mang tính tượng trưng vốn đã có sẵn đóng vai trò chủ đạo chứ không phải là sự biểu đạt nghệ thuật mang dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ. Bên cạnh nền nghệ thuật truyền thống này, nhiều phương thức biểu đạt hiện đại cũng đã phát sinh thông qua sự tiếp xúc với nền văn hóa Tây phương. Đặc biệt ở các nước như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc hay Indonesia (Bali), nơi có sự giao lưu mạnh mẽ với các nền văn hoá Tây phương, các nghệ nhân lấy những mô típ có gốc từ hệ thống đồ giải Phật giáo, kết hợp nó một phần với các phương thức biểu đạt nghệ thuật Tây phương, một phần với sự phát triển kế thừa của phong cách nghệ thuật của địa phương. Qua đó, hình thái nghệ thuật này đã tạo nên được những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo mới mẻ và hiện đại. Tuy nhiên, những tác phẩm mới này gần như luôn luôn chỉ là “nghệ thuật thuần túy”, dĩ nhiên có nền tảng tôn giáo nhưng thường là để “trang trí” chứ không phải được tạo ra để phục vụ thực hành tín ngưỡng. Trong các tác phẩm nghệ thuật này, ở cả mảng điêu khắc lẫn hội họa, chân dung của Đức Phật, các biểu trưng Phật giáo hoặc các bức tượng được vẽ lại nhưng khuynh hướng sáng tác vị nghệ thuật cao hơn mục đích tôn giáo. Phật giáo từ thế kỷ thứ 12 đã biến mất khỏi Ấn Độ, ngoại trừ một số khu vực trong dãy Himalaya. Mãi cho đến khi chính quyền thực dân Anh quan tâm đến các ngôi chùa phần lớn đã đổ nát hoang tàn này, người ta đã phát hiện và bắt đầu công việc trùng tu các chùa (tại Kiến-chí (kāñcī), A-chiên-đà (ajantā), chùa Đại Bồ-đề tại Bồ-đề đạo trường (bodhgayā)). Giữa thế kỷ 20 những người ủng hộ nhà cải cách Bhimrao Ramji Ambedkar (Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên của đất nước Ấn Độ độc lập – người đã tuyên truyền rằng việc cải đạo sang Phật giáo là con đường giải thoát cho tầng lớp khốn cùng – Dalit – hay còn gọi là những người không được xếp vào tầng lớp nào trong xã hội) đã làm hồi sinh lại truyền thống đã và đang tiếp tục bị lãng quên. Cùng với phong trào này là sự bắt đầu các phương thức nhân bản và ghi lại các chân dung cổ của Đức Phật phục vụ cho mục đích thực hành tín ngưỡng. Tương tự, tại một số nước Phật giáo khác, đặc biệt là Nhật, Tây Tạng, Tích Lan (śrīlaṅkā) và Thái Lan, các phật tử dùng tranh tượng cúng dường để trang trí các chùa chiền mới được dựng theo mô hình kiến trúc cũ. Bên cạnh đó, ngay chính ở Ấn Độ việc vẽ các chân dung Phật cũng được bắt đầu khôi phục trở lại. Vì nền văn hóa Phật giáo mới của Ấn Độ còn tương đối non trẻ nên chưa có chuẩn tắc đồ giải (Ikonographie) đậm nét nào hình thành. Do đó, phong cách và các đặc trưng truyền thống được pha lẫn với phương thức biểu đạt đầy màu sắc của nghệ thuật thường nhật của Ấn Độ giáo tại đất nước này
|
|
|
Post by tk on May 21, 2011 18:34:05 GMT -5
Cuộc Đời Đức Phật Qua Tranh ẢnhSuu TamBồ Tát Hộ Minh Tiền sanh của Đức Phật Sau nhiều kiếp tu hạnh Bồ Tát, Ngày sanh lên cung trời Đâu Suất làm chủ Nội Viện, danh hiệu là Bồ Tát Hộ Minh. Quán xét thấy quốc vương Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da ở cõi Diêm Phù Đề có nhân duyên nhiều kiếp làm cha mẹ, nên Ngài quyết định giáng thần. Hoàng Hậu Ma Da Nằm Mộng Thọ Thai Bấy giờ, hoàng hậu Ma Da vợ vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, nằm mộng thấy voi trắng đi xuống vòng quanh bà ba vòng rồi từ hông bên phải mà vào, từ hôm đó bà thọ thánh thai một bậc Như Lai Đại Giác. Thái Tử Đản Sanh Bảy Bước Nở Hoa Đức Phật giáng sanh từ bên hông phải của mẹ trong vườn Lâm Tỳ Ni, với bảy đóa sen đỡ bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà rằng: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" (trên trời dưới đất, chỉ có trí huệ siêu phàm của bậc Giác Ngộ mới là tôn quý). Khi ấy là lúc rạng sáng ngày mùng 8 tháng 4 năm 623 trước Công nguyên. Lễ đặt Tên Thái Tử Đức Phật giáng sanh ở cõi đời này với thân tướng cao quý của bậc Chuyển Luân Thánh Vương cùng cốt cách phi phàm báo hiệu bậc thánh nhân xuất thế. Vua cha rất yêu quý thái tử, làm lễ đặt tên là Tất Đạt Đa, họ là Thích Ca. Tiên A Tư Đà Xem tướng Thái Tử Vua Tịnh Phạn thỉnh tiên nhân về hoáng cung xem tướng cho thái tử. Xem xong, tiên bật khóc mà thốt rằng: "Với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của thánh nhân, thái tử sau này sẽ thành bậc Giác Ngộ vĩ đại! Chỉ đáng thương cho tôi đã già không còn được nghe lời pháp giải thoát của Ngài". Ngồi Nhập Định Thấy Chúng Sanh Khổ Năm lên bảy tuổi, một hôm theo cha dự lễ cày ruộng. Nhìn thấy cảnh xâu xé lẫn nhau của mọi loài, thái tử sanh lòng thương xót. Ngài ngồi dưới bóng mát của tàn cây chiêm nghiệm về lẻ sống ở đời với trạng thái suy tư mà vào thiền quán. Văn Võ Thái Tử Hơn Người Tuy chỉ mới vừa 16 tuổi nhưng thái tử đã tinh thông tất cả văn chương và võ học đượng thời. Mặc dù văn võ song toàn là người tương lai kế vị ngai vàng, Ngài cũng không hề có chút gì tỏ ra ngạo mạng, huênh hoang mà luôn nhân từ nhã nhặn. Kết Hôn Với Công Chúa Da Du Đà La Năm 17 tuổi, thái tử sánh duyên cùng công chúa Da Du Đà La xinh đẹp và hạ sanh được một người con trai đặt tên là La Hầu La. Tuy sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, nhưng lòng thái tử vẫn luôn phảng phất đôi điều suy ngẫm về lẽ vô thường của hạnh phúc. Thái Tử Yêu Thương Mọi Người Sâu Sắc Với lòng yêu người thương vật, luôn tươi cười và bình đẳng với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, nên thái tử và công chúa được nhân dân vô cùng kính mến, nồng nhiệt đón chào, triều thần nể vị tôn vinh: Thiệt là một đấng minh quân thời thịnh trị. Dạ Tiệc No Say Lộ Thể Xấu Xí Môt hôm, sau yến tiệc do vua cha thiết đãi nhằm muốn dùng cảnh hoan lạc vui tươi để giữ chân người ở cung son kế vị ngai vàng, thái tử bất chợt nhìn thấy cảnh say sưa lăn lóc của mọi người sau khi vui vẻ khiến Ngài nhận ra bản chất thực của cuộc sống. Từ đó, lòng suy tư ngày càng trĩu nặng trên gương mặt trẻ của vị thái tử đương triều. Dạo Bốn Cửa Thành Thấy Bốn Tướng Khổ Sau khi dạo bốn cửa thành, chứng kiến cảnh sanh - già - bệnh - tử của chúng sanh cùng dáng dấp trang nghiêm thoát tục và ý nghĩa của sự tu tập để giải thoát sự ràng buộc của một vị Sa môn. Thái tử thấm thía hơn nữa nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh và Ngài quyết trí xin phép vua cha xuất gia tìm đường giải thoát. Nữa Đêm Từ Biệt Vợ Con Tuy không được sự đồng thuận của phụ vương với chí nguyện xuất gia tìm đạo, nhưng bởi nhân duyên tu tập nhiều đời thôi thúc. Thế rồi, vào một hôm nọ khi màn đêm buông trùm khắp kinh thành, mọi người đang chìm vào giấc mộng. Thái tử lặng lẽ từ biệt vợ và con, bỏ lại sau lưng đền đài lầu các, nhẹ nhàng rời khỏi cung vàng, thực hiện chí nguyện xuất gia tìm đạo. Rời Cung Xuất Gia Giữa khuya mùng 8 tháng 2, cảnh vật lặng yên, đầy trời sao sáng. Với ánh sao khuya như dẫn lối, trăng non đưa đường, thái tử cùng người hầu Xa Nặc cưỡi ngựa Kiền Trắc, vượt dòng A Nô Ma, quyết chí xuất gia tầm đạo, cứu độ chúng sanh thoát khỏi sanh - già - bệnh - tử, đoạn diệt phiền não đau khổ, sanh tử luân hồi. Kiếm Huệ Cắt Tóc Dòng A Nô Ma là dấu ấn lịch sử khi thái tử Tất Đạt Đa quyết tâm tìm cầu chân lý. Bên bờ sông khi ánh trăng vàng còn in trên mặt nước khuya, Ngài tự tay cắt mái tóc xanh, cởi hoàng bào gởi Xa Nặc đem về hoàng cung dâng lên vua cha tạ tội. Từ đây, Ngài bắt đầu dấn thân trên con đường tu hành, tầm cầu giải thoát để tìm ra lẽ đạo nhiệm mầu. Liễu Ngộ Trung Đạo Xả Bỏ Khổ Hạnh Sáu năm khổ hạnh nơi rừng già, biết bao chướng ngại với nhiều pháp môn. Mỗi ngày, Ngài chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo cho đến khi kiệt sức. Một hôm nghe tiếng đàn giữa không trung, Ngài chợt hiểu rằng tu theo lối khổ hạnh ép xác thì không thể tìm ra con đường giải thoát, chỉ có tu theo trung đạo là con đường duy nhất vô cùng thực tiễn, hợp lý và hữu ích để dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn. Mục Nữ Cúng Dường Sau khi ngộ ra lý trung đạo, rời bỏ lối tu khổ hạnh ép xác sai lầm. Ngài rời khỏi chỗ ngồi, đến dòng Ni Liên tắm gội sạch sẽ. Sau đó Ngài đến ngồi tu tập dưới cội cây Bồ Đề và nhận bát cháo sữa từ nàng chăn cừu Tu Xa Đề cúng dường. Thề Nếu Chứng Đạo Bát Này Xin Chảy Ngược Dòng Sau khi dùng xong bát cháo sữa, sức khỏe Ngài dần bình phục, tâm hồn sảng khoái, khí lực được phục hồi. Ngài đứng dậy đi đến bờ sông Ni Liên thả chiếc bát xuống dòng nước và nói: "Nếu ta được chứng thành Phật quả thì chiếc bát này phải nổi trên mặt nước và trôi ngược dòng sông". Để minh chứng cho lời thề nguyện của Ngài, chiếc bát từ từr tôi ngược dòng nước chảy. Long Vương Hộ Pháp Từ dòng sông Ni Liên, Ngài trở lại gốc cây Tất Bát La, dùng cỏ Cát Tường lót làm tòa ngồi. Ngài ngồi tư thế kiết già mà phát đại nguyện rằng: "Dù cho thịt nát xương tan, nếu không tìm ra chánh đạo, ta quyết không rời khỏi cội cây này". Thệ nguyện rung động đất trời, cảm đến Long Thần hiện thân che mưa chắn gió khi Ngài nhập định tầm tu. Ma Nữ Chướng Ngại Sự tinh tấn tu hành của thái tử làm chấn động cảnh giới Ma vương Ba Tuần, vì thế Ma vương sai ba cô con gái đến dùng sắc đẹp quyến rũ, thân hình mê hoặc, để Ngài lung lay ý chí, từ bỏ sự tu hành, nhưng Ngài vẫn giữ chí tư duy, ngồi yên bất động. Địa Thần Bảo Hộ Người Tu Ma vương nhìn thấy thái tử không bị sắt đẹp cám dỗ, ma nữ dao động nên vô cùng tức giận, bèn điều khiển thế giới ma quân đến bao quanh dọa nạt, nhất quyết không để cho Ngài chứng đạo. Lúc này có vị Kiên Lao Địa Thần từ dưới đất hiện thân, cảm phục ý chí kiên định tầm tu của thái tử. Địa thần vuốt mái tóc dài, nước từ mái tóc cuồn cuộn chảy thành dòng làm ngập trôi tất cả ma quân. Ma Quân Đầu Hàng Suốt 49 ngày đêm ngồi yên tu tập, quán chiếu nội tâm. Trãi qua biết bao hiểm nguy bởi nạn quỷ dữ, Ma vương, những cám dỗ của ý thức, những ma chướng tự thân. Tất cả đều hòng làm Ngài lung lạc ý chí, phế bỏ đường tu. Nhưng tất cả đều bị khuất phục bởi sức mạnh phi thường của bậc vĩ nhân xuất thế. Quán Tưởng Duyên Khởi - Chứng Vô Thượng Chánh Giác/center] Mặc cho những chướng ma quấy phá, Ngài vẫn điềm nhiên ngồi vững dưới cội Bồ Đề, trên đỉnh đầu một vầng hào quang bắt đầu rạng rỡ. Màn đêm buông xuống, đất trời trở lại yên tịnh và trong suốt như gương, Ngài nhìn thấy rất rõ cả bản thể của vũ trụ, mọi nguồn gốc của sự khổ đau. Cuối đêm, khi ánh sao mai vừa ló dạng Ngài đã thấu suốt được "Tam Minh", chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hôm ấy là ngày mùng 8 tháng 12. Phạm Thiên Thỉnh Phật Chuyển Pháp Luân Sau khi chứng quả, Đức Phật quán sát căn tánh chúng sanh nơi cõi nhân gian căn lành ít, bướng bỉnh khó giáo hóa, thấy khổ nhưng không muốn thoát khổ, chưa đủ lòng tin để tiếp nhận giáo pháp. Khi ấy Trời Đại Phạm hiểu thấu ý Phật, nên đến dâng hoa cúng dường, ân cần cầu thỉnh Đức Phật thuyết pháp hóa độ chúng sinh. Cảm lòng thành khẩn của vua Trời Đại Phạm, Đức Phật từ bi hứa khả. Tại Lộc Uyển Sơ Chuyển Pháp Luân Độ Năm Tỳ Kheo Sau khi nhận lời thỉnh cầu của vua Trời, Ngài rời khỏi cội Bồ Đề, đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại. Đầu tiên, Đức Phật chuyển pháp luân khai thị bốn chân lý nhiệm mầu: "Khổ, Tập, Diệt, Đạo" cho năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Thập Lực Ca Diếp, Ma Ha Nam và Bạc Đề. Kể từ đây ngôi Tam Bảo thường trụ thế gian đã hình thành, bắt đầu sự nghiệp giáo hóa chúng sanh. Độ Hơn Ngàn Đệ Tử Từ khi ngôi Tam Bảo được hình thành, ánh sáng tỉnh thức từ lời dạy của bậc Đại Giác đã được ngôi Tăng Bảo truyền bá, dần lan tỏa xuống khắp mọi nơi trên quả đất này. Ngài luôn hướng dẫn đệ tử tu tập pháp môn trung đạo sống cuộc đời đơn giản, du hành khắp nơi, tùy cơ giáo hóa tất cả chúng sanh có duyên giải thoát với đạo từ bi. Đức Phật Về Cung Thăm Người Thân Nơi Ca Tỳ La Vệ, vua Tịnh Phạn luôn tưởng nhớ đến người con thân yêu đã vì sự nghiệp giải thoát chúng sanh mà quyết vứt lại sau lưng tất cả. Hay tin thái tử đã tìm ra được đạo giải thoát, chứng thành quả Phật, đang đi giáo hóa khắp nơi, vua liền phái sứ giả đến nơi chỗ Phật, thỉnh Ngài về cung để thần dân trăm họ được mong ân giáo hóa. Vì muốn báo đáp hiếu ân, thăm lại vua cha nên Đức Phật dẫn chư Tăng cùng đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Gặp Lại Da Du Đà La Gặp Đức Phật vua Tịnh Phạn rất đỗi vui mừng lắng lòng cung kính nghe lời thuyết pháp. Công chúa Da Du Đà La và con trai là La Hầu La cũng được nghe lời Như Lai khai thị về hạnh thoát khỏi não phiền, xuất gia giải thoát. Trong thời gian 7 ngày ở lại kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Đức Phật thuyết pháp giáo hóa cho những người từ hoàng thân quốc thích đến hàng thứ dân, đối với ai Ngài cũng dùng tâm bình đẳng không phân biệt mà kiếp độ, hướng dẫn cho họ theo con đường giác ngộ giải thoát. La Hầu La Bái Xá Lợi Phất làm Thầy Được nghe Như Lai khai thị về hạnh xuất gia cao cả, La Hầu La xin với mẹ cùng ông là vua Tịnh Phạn cho được theo Phật xuất gia. Đức Phật dạy La Hầu La lễ Tôn giả Xá Lợi Phất làm Thầy tế độ để xuất gia tu học. Đây là vị Sa Di đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Thuyết Pháp Cho Vua Tịnh Phạn Lúc Lâm Chung Nghe vua cha bệnh nặng, khó qua khỏi định luật tử sinh, Đức Phật liền vội trở về thăm. Nhìn thấy thần sắc tiều tụy của nhà vua, nắm tay người, Đức Phật thuyết giảng giáo pháp, nhờ đó mà vua cha được chứng quả Vô Sanh, thoát khỏi não phiền đau khổ. Sau khi vua cha băng hà, Đức Phật đã làm chọn hiếu đạo tự mình khiêng quan tài để làm gương cho người đời. Dưới Gốc Bồ Đề Thuyết Pháp Cho Chư Thiên Mùa hạ năm đó, nhận lời thỉnh cầu của Chư Thiên và cũng để báo ân đức sanh thành của mẫu hậu Ma Da mà thần thức người hiện đang ngự tại cung trời. Đức Phật đã dùng thần thông lên cung trời Đao Lợi nói kinh Địa Tạng thuyết pháp cho Chư Thiên, nhờ đó mà cõi trời rất nhiều Chư Thiên hiểu rõ lý đạo, tập hạnh giải thoát. Sau Khi Thuyết Pháp Phật Quay Trở Lại Sau khi thuyết pháp tại cung trời xong, Đức Phật trở lại nhân gian bằng đường cầu thang từ cõi Trời đi xuống, Chư Thiên cung kính bao quanh, nhân gian mọi người vui mừng khôn xiết. Sau khi vua cha qua đời dì mẫu của Phật và công chúa Da Du Đà La cũng xin được xuất gia, trở thành những Tỳ Kheo Ni đầu tiên trong giáo đoàn Phật giáo. Đức Phật Độ Nan Đà Có vị vương tử tên Nan Đà, tham luyến sắc đẹp, yêu quý giàu sang, không thuận theo Phật xuất gia. Vì muốn hóa độ, Đức Phật đem ông lên cõi Trời để thấy dung mạo đẹp tuyệt trần của các tiên nữ, dẫn ông xuống địa ngục để nhìn thấy cảnh khổ nóng bức của người tham đắm sắc dục, mê muội lợi danh. Từ đó, vương tử hiểu rõ giá trị sự thật của con người, sắc đẹp giàu sang cũng chỉ là trò đời hư ảo, nên giác ngộ phát tâm xuất gia, tìm cầu giải thoát thật sự. Phật Hiện Tướng Bệnh Sắp Nhập Diệt Vào một hôm, trên đường giáo hóa Đức Phật thọ nhận buổi cúng dường của người thợ rèn Thuần Đà. Sau khi thọ trai xong, Phật bảo với đại chúng: "Đây là buổi thọ trai cuối cùng của Như Lai trên thế gian này". Khoảnh khắc sau, Phật hiện tướng bệnh tật để nhắc nhỡ các hàng đệ tử không nên quên lý vô thường trong cuộc sống, dù là bậc Đại Giác cũng không thoát khỏi khi còn thọ báo thân cõi trần. Và đó cũng chính là điềm báo trước cho nhân thiên: Phật sắp nhập Niết Bàn Dưới Cây Ta La Phật Nhập Niết Bàn Hơn 49 năm độ sanh thuyết pháp, từ vườn Lộc Uyển cho đến thành Câu Ty Na. Trước lúc vào tịch diệt Niết Bàn, Đức Phật khai thị cho chúng đệ tử lần cuối cùng: "Phải nương theo Giới Luật làm thầy, hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi". Sau những lời di ngôn dặn dò đại chúng đường hướng tu hành, Như Lai nằm nghiêng bên phải, an tường vào đại định Niết Bàn. Khi ấy, trái đất rung động, người trời đều thương khóc, vì biết rằng chỗ nương tựa duy nhất của mình từ nay không còn nữa. Cuộc Đời Vĩ Đại Của Đức Phật Tuy hóa thân của Đức Phật đã rời bỏ thế gian nhập Đại Niết Bàn, nhưng pháp thân của Ngài vẫn tồn tại mãi mãi, tồn tại ở trong đoàn thể Tăng già, tồn tại ở trong pháp bảo, tồn tại ở trong hư không giới, chỉ cần có một chúng sanh dù là loài sâu bọ nhỏ nhoi cầu Ngài giúp đỡ, chỉ cần nhân duyên đầy đủ, sự gia trì của Đức Phật vẫn không khác khi Ngài còn tại thế.
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 19:46:42 GMT -5
BÍ ẨN NHỤC THÂN CÁC THIỀN SƯ PGS - TS Nguyễn Lân Cường Suu Tam1- Nhục thân cụ sư Rau (Thiền sư Vũ Khắc Minh). Nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh sau khi tu bổ - Ảnh do tác giả cung cấpNgày 3.5.1983, theo yêu cầu của Văn phòng 10 Hội đồng Bộ trưởng, Viện Khảo cổ học cử một đoàn cán bộ xuống chùa Đậu, thuộc huyện Thường Tín (Hà Tây cũ) để kiểm tra tình trạng xuống cấp của gác chuông. Trong đoàn có tôi. Lang thang vòng ra bên phải, sau dãy hành lang, tôi thấy một chiếc am nhỏ, rêu phong mà bên ngoài cửa phủ mành tre. Nhìn vào bên trong, tôi chợt giật mình vì thấy một nhà sư ngồi thiền, đôi mắt “lim dim” như đang suy tư về cõi Phật. Từ lâu, nhân dân quanh vùng đã truyền tụng với nhau rằng ở chùa Đậu, có hai am nằm ở bên phải và bên trái của chùa. Am bên phải là của thiền sư Vũ Khắc Minh, bên trái là am thiền sư Vũ Khắc Trường. Chuyện kể rằng, khoảng thế kỷ XVII, vào một ngày nọ, thiền sư Vũ Khắc Minh (mà nhân dân trong vùng quen gọi ngài là cụ sư Rau - nhà sư thường chỉ ăn rau trừ bữa) bước vào trong am và nói với các đệ tử rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng, thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta bả lên thi thể...”. Dứt lời, cụ bước vào am tọa thiền và chỉ còn nghe vẳng ra tiếng mõ tụng kinh suốt ngày này qua ngày khác . Tròn trăm ngày, các đệ tử không nghe thấy tiếng mõ nữa, vội mở cửa am ra thì thấy ngài vẫn ngồi đấy như đang trong lúc tọa thiền. Hai chân ken vào nhau đúng vị trí của thiền, còn hai tay hơi bị xệ xuống. Nhớ lời thầy dặn, họ vội lấy sơn ta bả lên thi hài. Trong cuốn “Những chùa, đình và nhà thờ của Hà Đông - Phong cảnh Hà Đông” xuất bản năm 1932 (tiếng Pháp), tác giả cho rằng đó là những “momies” (xác ướp) kiểu Ai Cập. Thật sai lầm! Tệ hại hơn, trong một bài báo đăng trên tờ Thời Mới vào năm 1957 lại có tiêu đề khá giật gân Xác ướp chùa Đậu hàng trăm năm vẫn còn giữ nguyên bộ phận sinh dục! Bằng con mắt nghề nghiệp, tôi phát hiện qua vết nứt ở trên trán có xương sọ ở bên trong, và thế là tôi nảy ra ý định chụp phim X-quang để chứng minh đây là một nhục thân nguyên dạng. Nếu chứng minh được thì rõ ràng phương thức táng này nằm ngoài 5 táng thức đã có trước đây trên thế giới: địa táng hay thổ táng (chôn trong đất); hỏa táng (đốt thi hài); hải táng hay thủy táng (thả xuống nước); thiên táng hay điểu táng (cho chim ăn để được bay lên trời); huyền táng hay táng treo. Chiều 25.5.1983, tôi chuyển nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh về khoa X-quang Bệnh viện Bạch Mai. Với sự giúp đỡ tận tình của PGS - bác sĩ Đặng Văn Ấn, bác sĩ Nguyễn Trọng Đức và các kỹ thuật viên, tôi đã tiến hành soi phần sọ, ổ ngực và ổ bụng. Qua màn hình, tôi thấy toàn bộ xương sườn, xương đốt sống đổ sập xuống nằm gọn trong khoang bụng. Rõ ràng, không có chất dính giữa các xương đốt sống. Hộp sọ còn nguyên vẹn, phần xương lá mía không bị đục vỡ như trên sọ vua Ai Cập Ramsès V để lấy não ra. Từ đó, có thể suy ra não và các nội tạng - về mặt lý thuyết - là vẫn còn nguyên trong nhục thân. Kết hợp giữa chiếu và phim chụp, có thể thấy rõ các xương dưới sọ như xương cánh tay, cổ và bàn tay, xương chậu hông, đùi, xương chày, mác và xương cổ chân, bàn chân đều nằm đúng với vị trí giải phẫu. Trong các xương không có cốt bằng kim loại, rõ ràng đây là một nhục thân nguyên dạng. Bằng phương pháp quang phổ phát xạ vùng tử ngoại và chiếu xạ tia rơn-ghen khi phân tích chất bồi của nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh, Tiến sĩ Lê Nguyên Sóc cũng đã có kết luận phù hợp với ý kiến của chúng tôi về chất bồi. Đó là hỗn hợp của sơn ta, mùn cưa, giấy dó và đất... Tôi mừng quá, vì như vậy là đã chứng minh được đây là một táng thức mới mà tôi đặt tên là tượng táng (táng theo kiểu làm thành tượng) hay thiền táng (táng theo kiểu ngồi thiền). Sau này tôi mới biết nét văn hóa trên cũng có ở Trung Quốc. Vào thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên, kỹ thuật “Giáp trữ tất” (sơn ta bó lụa) đã được thực hiện khi Lục tổ Huệ Năng (638 - 713) viên tịch. Hiện nay, chân thân còn nguyên vẹn để tại Nam Hoa Tự, nằm ở phía tây tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc, thuộc thôn Nam Hoa, huyện Khúc Giang, cách TP Quảng Châu về phía tây hơn 230 km. Tượng đối chứng (trước) và tượng gốc (sau) của thiền sư Vũ Khắc Minh - ảnh: N.L.C Họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân đang thếp vàng tượng gốc thiền sư Vũ Khắc Minh 2- Nhục thân Thiền sư Vũ Khắc Trường Trong chùa còn có pho tượng cổ thứ hai: Thiền sư Vũ Khắc Trường - người trụ trì chùa Đậu kế tục ngay sau Vũ Khắc Minh, không có tài liệu nào nói đây là “chú, cháu” như một số báo đã đưa tin. Năm 1893, chùa bị lụt, tượng Vũ Khắc Trường nằm ở vị trí thấp hơn nên bị nước tràn vào và bị hỏng. Các cụ trong làng đã làm lại một pho tượng khác bằng sơn ta có cốt dựng bằng tre và gỗ rồi xếp xương vào bên trong. Tại Viện Thông tin khoa học xã hội VN ở Hà Nội, chúng tôi tìm thấy hai bức ảnh chụp tượng thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường còn bóng nước sơn, không hề có vết nứt nào. Nhưng chỉ sau vài chục năm, do tượng để trong am cạnh chùa rất ẩm ướt nên đã làm cho cả hai pho tượng xuống cấp trầm trọng. Pho tượng Vũ Khắc Minh bị nứt ở đầu gối và phần mặt. Pho tượng Vũ Khắc Trường, hỏng trầm trọng ở phần chõn, hầu như không còn ngồi được ngay ngắn, nếu không có những miếng gỗ kê ở phía dưới. Tôi bắt tay viết dự án Tu bổ, bảo quản tượng hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu (Hà Tây) ngay vào đầu năm 2000. Nhóm công tác gồm: PGS-TS Nguyễn Lân Cường (Chủ nhiệm dự án), họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, các nhà điêu khắc Phạm Xuân Sinh, Nguyễn Ngọc Lâm, kỹ sư Nguyễn Mạnh Hà. Ngoài ra, còn có 6 cơ quan cùng kết hợp để thực hiện dự án, một hội đồng cố vấn và Ban quản lý dự án được thành lập. Điều khó khăn nhất với chúng tôi là các phương án nêu ra không thể mắc sai lầm vì hai pho tượng này là độc bản, chỉ cần mắc một lỗi nhỏ là không thể sửa chữa được. Ngày 18 tháng 4 năm 2003 (tức 17 tháng 3 năm Quý Mùi) sau vài tháng tranh luận quyết liệt xem tu bổ nhục thân ở đâu, lễ khởi công dự án tu bổ - bảo quản nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu được tổ chức ngay tại chùa. Và thế là bắt đầu những ngày lao động trong suốt 6 tháng trời... Bằng kỹ thuật truyền thống: bó, hom, lót, thí, mài và thếp với các nguyên liệu như: sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất, chúng tôi đã tiến hành sơn 14 lớp và thếp vàng đối với tượng gốc Thiền sư Vũ Khắc Minh, còn nhục thân Thiền sưVũ Khắc Trường thì thếp bạc. Sau mỗi lớp sơn lại tiến hành mài, khiến bề mặt là các lớp sơn đan ken, xoắn quyện với nhau. Đến lớp cuối khi phủ quang dầu xong, chúng tôi phát hiện bề mặt pho tượng không nhẵn. Những hạt bụi lơ lửng trong không trung đã bám vào bề mặt tượng. Chúng tôi quyết định làm lại và thực hiện khâu này trong... màn. Trời nóng, mấy anh em phải xoay trần suốt cả buổi chiều. Thật tuyệt vời, 2 ngày sau kiểm tra trên mình thiền sư mịn bóng, không một gợn bụi... Với pho tượng của thiền sư Vũ Khắc Trường, vốn là pho tượng đã được dựng lại năm 1893, nên có nhiều chi tiết sai lệch về mặt giải phẫu. Trong dự án soạn thảo đầu tiên, tôi có ý định dỡ ra, thu thập xương cốt rồi dựa theo xương sọ để phục nguyên lại đúng với vẻ mặt ban đầu của thiền sư. Đây là phương pháp của Gherasimov (người Nga) mà tôi là người VN đầu tiên và duy nhất được học tập tại nước ngoài. Nhưng nhà chùa và cơ quan văn hóa thông tin địa phương không tán thành, vì cho rằng nhân dân địa phương hơn trăm năm nay đã in đậm trong tâm khảm hình ảnh của cụ Vũ Khắc Trường hiện tại rồi. Dù phục dựng pho tượng mới có giống với hình hài thật của cụ, họ cũng sẽ không chấp nhận. Tôi đành phải theo ý họ, mặc dầu vẫn ấm ức! Pho tượng bị hỏng trầm trọng, bề mặt tượng lớp sơn bị mủn nát. Chỉ cần một tác động nhẹ là cả pho tượng sẽ bị đổ sập xuống. Do đó không thể đổ thạch cao làm khuôn trên chính pho tượng gốc để làm tượng đối chứng. Nhóm chúng tôi quyết định giao cho nhà điêu khắc trẻ Nguyễn Ngọc Lâm làm một pho tượng bằng đất sét có kích thước, hình dáng giống hệt tượng gốc và tiến hành đổ khuôn để tu bổ phần chân và pho tượng đối chứng. Vào một buổi chiều mùa hè, tôi ngồi ngắm pho tượng gốc của Thiền sư Vũ Khắc Trường và cứ suy nghĩ mãi không hiểu tại sao vị thiền sư này có cánh tay dài thế, khi so sánh với tỷ lệ chung của pho tượng. Tôi bàn bạc với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và quyết định “bí mật” khoét bốn ô nhỏ ở vùng gần đầu xương cánh tay và khuỷu tay. Điều này cấp trên không tán đồng, nhưng chúng tôi cứ “liều” vì biết đâu có thể phát hiện ra một chân lý nào đó... Ước mơ ấy của chúng tôi đã thành sự thật. Trong hố khoét của cánh tay phải ở phía trên gần vai, tôi phát hiện ra ròng rọc và chỏm của xương cánh tay (đã bị đặt lộn ngược), bên cạnh nó là xương mác của xương ống chân được ghép vào xương cánh tay và cũng bị lộn đầu. Đây chính là nguyên nhân làm cánh tay của thiền sư dài quá cỡ. Chúng tôi đã tiến hành phủ sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và thếp bạc mà chỗ dày nhất tới 22 lớp. Toàn bộ pho tượng thiền sư Vũ Khắc Trường nặng 31 kg. Ngày nay ai tới chùa Đậu cũng thấy có 2 cụ Minh, 2 cụ Trường, từng cặp giống nhau như hệt. Thật ra chỉ có 2 pho tượng gốc là đặt trong nhà tổ. Hai pho còn lại được làm bằng thạch cao để đặt trong am ở hai bên cạnh chùa. 3- Nhục thân Thiền sư Chuyết Chuyết Chuyện lạ từ làng Phật Tích Nhà điêu khắc Bùi Đình Quang (trái) và nhà nhân chủng học Nguyễn Lân Cường tái tạo hình dạng của nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết dựa vào di cốt còn lại - Ảnh tác giả cung cấp Chùa Phật Tích - ngôi chùa thời Lý nghìn năm tuổi còn giữ được pho tượng đá lớn nhất và những con thú bằng đá, nằm trên lưng chừng núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Nhưng tại sao lại có tên Lạn Kha, Tiên Du và Phật Tích? Chuyện xưa Trèo lên đỉnh núi phía sau chùa, chúng ta sẽ bắt gặp mấy khối đá vuông, mặt phẳng. Các cụ già trong làng bảo đấy là bàn cờ tiên. Tương truyền, trong làng lúc đó có một chàng tiều phu tên gọi là Vương Chất. Một hôm, nhân lên núi đốn củi, Vương Chất thấy hai cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi đánh cờ trên tảng đá bằng phẳng. Hai cụ vừa đánh cờ vừa ăn đào và vứt hột sang bên. Vương Chất vừa xem cờ, vừa nhặt hạt đào để ngậm tiếp. Ván cờ vừa xong, nhìn xuống chân, thấy chiếc cán rìu đã mục và cũng là lúc hai cụ biến vào sau hàng thông hiu quạnh... Soi mình trong bóng nước thấy râu tóc bạc trắng, chàng mới chợt hiểu rằng mình đã lạm sống một thời gian dài ở cõi tiên - một năm bằng sáu, bảy mươi năm ở cõi trần. Thế là, vì có tiên xuống chơi mà người ta gọi là Tiên Du và cũng vì “cán rìu mục nát” mà núi ở đây cũng còn có tên là Lạn Kha... Truyện kể lại, chùa xưa rộng rãi khang trang có tới 300 tòa nhà. Chỉ riêng công việc dọn dẹp đã cần tới 70 người. Đặc biệt ngọn tháp của chùa cao vời vợi, nhòa lẫn trong mây, đến nỗi ở tận kinh thành Thăng Long vẫn còn nhìn rõ. Nhà vua ngạc nhiên hỏi cận thần cớ sao ở nơi thôn dã mà lại có cây tháp cao hơn cả cung điện trong hoàng thành? Sau lời “quở” đó, cây tháp thần kỳ bị đổ dọc theo sườn núi, gạch đổ xuống tới tận đầu làng dài gần cây số, nơi ấy nay còn tên là “Ngõ Gạch”. Dưới lòng đáy tháp lộ ra một pho tượng Phật sừng sững. Pho tượng ấy nay vẫn còn, gọi là tượng Phật A Di Đà. Để ghi lại tích Phật ấy, làng đổi tên là Phật Tích và dời lên sườn núi. Bí ẩn tháp Báo Nghiêm Vào một đêm cuối tháng 8.1989, trời mưa tầm tã, những tia sét cuối hè xé ngang bầu trời tối đen như mực, liếm sang cả phía sau sườn núi Lạn Kha. Chính trong cái đêm mưa bão ấy, kẻ gian đã lẻn lên sau chùa phá ô cửa nhỏ bằng đá của tháp Báo Nghiêm, hòng tìm kiếm vàng bạc, hay tượng đồng đen trong tháp. Tháp Báo Nghiêm, dựng năm Chính Hòa thứ 13 (1692), cao bốn tầng. Mặt tháp có chạm tượng Phật, ngồi trên tòa sen. Bọn trộm có ngờ đâu, trong lòng tháp chỉ vỏn vẹn có một vại sành, trong đó đựng xương và những mảnh vỡ của một pho tượng cổ. Ngày hôm sau, đoàn tham quan gồm bảy nhà sư do Thượng tọa Thích Thanh Quang - trụ trì chùa Quỳnh Lâm (tỉnh Quảng Ninh) dẫn đầu lên thăm khu tháp bỗng nhìn thấy các mảnh xương, mảnh bồi nằm tung tóe dưới chân tháp. Thượng tọa vội báo cho Ban di tích “Tìm thấy di hài của Phật Tổ rồi!...”. Ông Trần Xuân Trường và Ban di tích của chùa vội gom lại xương và các mảnh bồi vào trong một hòm kính đặt ở chùa. Chẳng mấy chốc, cái tin tìm thấy thi hài của “Phật Tổ” lan đi rất nhanh. Đúng vào thời gian này, tôi đang nghiên cứu tại Viện Khảo cổ học Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Liên bang Nga (Liên Xô cũ) ở Moscow. Về nước vào đầu tháng 3.1991, thì giữa tháng 4, tôi được Ban di tích của chùa Phật Tích mời lên nghiên cứu nhục thân của thiền sư. Ngày 26.4.1991, trở lại chùa Phật Tích lần thứ hai, suốt cả một ngày trời tôi loay hoay chắp gắn và khớp được ống chân phải với phần dưới của đùi, tạo thành một góc nhọn, chúng tôi khẳng định tư thế hai chân ngồi xếp bằng tròn của pho tượng. Chúng tôi đã phát hiện ra 209 mảnh bồi và 133 mảnh xương. Nghiên cứu góc xương mu, khuyết ngồi lớn, mỏm chũm... chiều dài xương đùi, chúng tôi cho rằng đây là di hài của một người đàn ông chừng 65-70 tuổi, cao 1,59m. Đặc biệt chúng tôi tìm được bảy đoạn dây đồng nằm lọt giữa mảnh bồi. Như vậy, chắc chắn người ta đã dựng khung xương trước nhờ những đoạn dây đồng và bồi ra bên ngoài để tạo tượng. Chất bồi cũng là sơn ta, vải màn, mạt cưa, đất... giống chất bồi của thiền sư Vũ Khắc Minh, nhưng cách tạo tượng thì khác hẳn vì không bồi trực tiếp lên thi hài. Nhìn chiếc vại đựng thi hài, chúng tôi thấy nét vẽ rồng bằng phẩm màu rất sơ sài, nên tôi và nhà khảo cổ học Trịnh Cao Tưởng đều cho rằng đây là chiếc vại có niên đại rất muộn - chỉ cách ngày nay vài chục năm, không thể so sánh với niên đại của tháp. Thế thì có đúng đây là di hài của thiền sư Chuyết Chuyết hay không? Tại sao bức tượng có xương cốt của ngài lại bị đập vỡ và để trong vại đặt trong tháp Báo Nghiêm của chùa Phật Tích? Tất cả những câu hỏi trên mãi sau này chúng tôi mới có lời giải đáp... Thiền sư Chuyết Chuyết và hành trình tìm về sự thật Ngày 10.10.1992, bà Nguyễn Thị Lan - Phó ban di tích, chính thức đề nghị tôi đứng ra chịu trách nhiệm phục nguyên nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết. Tổ công tác được thành lập ngay gồm: họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, nhà điêu khắc Bùi Đình Quang, họa sĩ Nguyễn Đình Hiển, và tôi, chịu trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp. Nhục thân Thiền sư Chuyết Chuyết sau khi phục nguyên Toàn bộ chi phí cho việc phục dựng được nhiều phật tử đóng góp vỏn vẹn chỉ có 5 triệu đồng! Ngồi tính toán mãi tôi thấy đúng là chỉ đủ tiền mua sơn ta, vàng lá để dát và một số nguyên vật liệu khác. Tôi nói thẳng với anh em là kinh phí quá hạn hẹp, nên việc phục dựng xin cái tâm là chính, chứ không có công xá gì cả... Anh em trong cả tổ đều vui vẻ tán thành. Có khó khăn mới thấy được họ đúng là những người bạn tuyệt vời của tôi. Được sự giúp đỡ của Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh, Phòng Văn hóa huyện Tiên Sơn, ngày 12.1.1993, chúng tôi đã chuyển 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi về Hà Nội để nghiên cứu. Cả nhóm chúng tôi trao đổi, tranh luận với nhau xem nên phục dựng toàn bộ pho tượng bằng cách nào. Lúc đầu, có ý kiến đưa ra là dùng dây đồng nối các xương lại, kết hợp với khung tre làm cốt để dựng tượng. Bàn đi tính lại mãi thấy không ổn, vì bản thân tôi muốn bên trong tượng của thiền sư chỉ nên có di cốt của ngài. Cuối cùng, cả nhóm nhất trí theo phương án từng bước như sau: 1. Tái tạo pho tượng bằng đất sét theo tư thế ngồi thiền. 2. Đổ khuôn pho tượng, bằng cách tạo các mảng khuôn. 3. Bồi sơn ta, lót vải màn, rắc mạt cưa, trộn sơn ta tất cả là 10 lớp ở mặt trong của khuôn. 4. Gắn xương vào đúng vị trí giải phẫu bằng chất liệu sơn ta trộn với mùn cưa. 5. Khi sơn ta với lớp vải màn, mạt cưa đã khô cứng lại, tiến hành phá khuôn thạch cao ở bên ngoài, gỡ các mảnh bó cốt và gắn thành hình tượng thô. 6. Tiếp theo là các công đoạn làm sơn thông thường: “bó” hai nước, “hom” ba nước, “lót” hai nước và “thí” hai nước. 7. Thếp bạc. 8. Quang dầu hai lần. Cả nhóm chúng tôi đã miệt mài lao động trong hơn ba tháng rưỡi và sáng 1.5.1993, nước sơn quang cuối cùng đã phủ kín pho tượng, kết thúc công việc của một phương án táo bạo, mà chưa một nhà điêu khắc nào làm theo kiểu này: tượng hoàn toàn không có cốt bằng sắt, thép hay tre, gỗ làm trụ ở bên trong. Mặt trong của mang khuôn Phục nguyên nhục thân xong, tôi cứ băn khoăn mãi, vì không hiểu có chắc vị thiền sư mà chúng tôi phục nguyên là thiền sư Chuyết Chuyết hay không? Ban Di tích của chùa nói với tôi, vị sư trụ trì ở chùa Phật Tích trong thời gian trước chiến tranh là đại đức Hồng Đức, đã mất năm 1980 (?). Nhưng không thể chỉ có một vị sư ở chùa, nghĩ vậy nên tôi lần dò tìm mãi thì được biết còn có ông già Triệu, vốn là sư bác của chùa vào những năm trước khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Tìm đến thôn Mao Rộc, cách chùa Phật Tích 15 km, tôi gặp được cụ Nguyễn Chí Triệu, vốn là sư bác ở chùa bốn nhăm năm về trước. Tôi mở cặp lấy ra tấm ảnh chụp pho tượng mà chúng tôi vừa phục chế, đưa cho cụ xem. Nheo nheo đôi mắt, cụ trả lời ngay: “Đúng là cái tượng để trong khám rồng đấy”. Trở về Hà Nội, tôi lật tìm cuốn sách Phật Lục của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1943, tới trang 95 thì thấy tác giả cũng khẳng định rõ “khám thờ Tổ đệ nhất bó cốt làm tượng...”. Lại có cả bản vẽ minh họa vị trí đặt pho tượng Chuyết Công trong nhà Tổ, nhưng không có ảnh chụp chiếc khám. Tiếp tục lục tìm kho tư liệu ảnh về chùa Phật Tích của Viện Thông tin khoa học xã hội, tôi không hề thấy ảnh chiếc khám nào. Nhưng thật may mắn khi lật tìm những tư liệu của chùa Bút Tháp, tôi chợt thấy bức ảnh mang ký hiệu số 7956 chụp một chiếc khám vào năm 1930 và có chú thích phía sau bằng tiếng Pháp “Khám gỗ chạm trổ thếp son giữ tượng nhà sư Chuyết Công”. Chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, cách chùa Phật Tích chỉ độ dăm cây số theo đường chim bay. Nơi đây cũng có tháp Báo Nghiêm, nhưng không hề có chiếc khám gỗ thờ Tổ đệ nhất. Chắc chắn người ta đã xếp nhầm bức ảnh này vào số ảnh của chùa Bút Tháp. Tôi lại vội vàng phóng xe máy lên gặp sư bác Nguyễn Chí Triệu để xác nhận xem có đúng chiếc khám của chùa Phật Tích không? Ông đã khẳng định đó là chiếc khám đặt tượng tổ Chuyết Chuyết. Từ những câu chuyện trên, chúng tôi suy đoán rằng: Khi kháng chiến bùng nổ, thấy chùa bị địch pháo kích, sau đó lại bị đốt cháy, nên có thể vị sư trụ trì của chùa đã đập vỡ pho tượng cổ thành nhiều mảnh nhỏ, đưa vào vại sành rồi giấu vào tháp Báo Nghiêm. Đây chính là nhục thân của thiền sư Chuyết Chuyết vốn đặt trong khám rồng ở nhà Tổ. Thế là sự thật được minh chứng... 4- Tu bổ nhục thân thiền sư Như Trí Chụp X-quang tại Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh - Ảnh: N.L.C Ni sư Đàm Chính, chùa Tiêu Sơn (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh), năm nay đã ngót nghét 80 tuổi. Năm 17 tuổi, bà là người đầu tiên nhìn thấy nhục thân thiền sư Như Trí trong tòa tháp ở chùa. Hơn 60 năm trước, ni sư Đàm Chính đã về tu nghiệp ở chùa khi còn là một thiếu nữ 17 tuổi. Năm 1971, khi vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên gạch màu đỏ, trên đó có ghi tên và năm tịch của người trong tháp - Tỳ kheo Như Trí (mất năm 1723). Ni sư là người đầu tiên nhìn thấy nhục thân ngồi trong tháp, qua một khe nứt của tháp. Nhưng rồi cụ bít chặt khe nứt này lại và giữ kín chuyện mãi đến ngày 4.3.1996, khi Hòa thượng Thích Thanh Từ - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư Đàm Chính đã nhờ thiền viện giúp đỡ. Tôi gặp Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt lần đầu tiên tại chùa Đậu (Hà Tây cũ), khi chúng tôi đang tu bổ hai nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường. Tỳ kheo đã yêu cầu chúng tôi giúp tu bổ nhục thân thiền sư Như Trí. Bắt đầu tu bổ Chúng tôi đã soạn thảo dự án “Tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh)”. Theo dự án này, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh là cơ quan lập thiết kế và phương án thi công, Thiền viện Trúc Lâm là đơn vị chủ đầu tư của dự án. Tôi là chủ nhiệm dự án cùng thực hiện với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm, người theo sát dự án để lo kinh phí. Ngày 5.3.2003, nhục thân thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp. Nhục thân ngồi thiền định trong tư thế bán già, tay kiết ấn Tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay. Có một lỗ thủng lớn chính giữa mặt. Xương mũi và xương hàm trên thụt vào hộp sọ. Xương màu đen còn nhìn thấy rõ bên trong hộp sọ. Vết nứt ở tai phải từ thái dương qua trước dái tai xuống cổ và chạy sát tới đầu xương đòn phải. Hai tay bị vỡ từ cánh tay đến hết bàn tay. Các mảnh vỡ rơi rụng xuống nền và lẫn với đất, đá. Xương mỏng và có màu đen. Một vết vỡ lớn khác ở giữa ống chân phải, không nhìn thấy xương. Mặc dầu tượng bị vỡ phần tay, ống tay bị vỡ rụng xuống dưới, nhưng trên ống chân còn dấu vết của một phần bàn tay. Phía trong mảng bồi, nhìn thấy rõ thớ vải bằng mắt thường. Trật tự từ ngoài vào trong là: vải bồi, bó, hom, sơn (màu ngà). Không thấy thếp vàng hay bạc. Nhục thân được sơn phủ bên ngoài một lớp sơn ta màu ngà, mắt và lông mày vẽ bằng sơn đen. Lớp sơn đã bị bong tróc nhiều nơi, nên có màu sắc loang lổ. Do nhục thân đặt trong tháp bịt kín lâu ngày trong môi trường ẩm, mốc làm hỏng lớp sơn và bị bong tróc. Từ các phần hỏng, thủng, hơi ẩm, côn trùng và vi sinh vật đang xâm nhập vào phá hoại phần bên trong của nhục thân. Do ở chùa Tiêu Sơn rất hiếm nước, khách tham quan lại đông nên việc tu bổ, bảo quản được quyết định chuyển về thực hiện tại chùa Duệ Khánh (xã Nội Duệ, huyện Tiên Du - Bắc Ninh). Để diệt khuẩn ở bên ngoài và trong tượng, phải phun thuốc diệt khuẩn và xông thuốc. Bề mặt pho tượng bị nứt, nhiều nơi bị bong tróc lớp sơn ta. Chúng tôi xử lý ngay bề mặt pho tượng bằng cách phủ bề mặt bằng vải màn và phủ sơn rồi rắc mạt cưa lên sơn khi bề mặt chưa khô. Bề mặt pho tượng được gia cố dần. Khi gỡ phần nhục thân khỏi đế, chúng tôi phát hiện đế là một tấm gốm nung màu đỏ, mặt áp vào đáy tượng có in hình nan phên. Phía trong lớp bồi nhìn rất rõ lớp vải màn. Từ mặt đáy, chúng tôi thấy xương sên, gót và xương mác nằm khá đúng vị trí giải phẫu. Như vậy có thể kết luận nhục thân được bó cốt ngay sau khi tịch, không có sắp xếp xương như nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường. Để xác định giới tính, tuổi tác, tầm vóc và bệnh lý của thiền sư Như Trí, chúng tôi đã nghiên cứu tất cả số di cốt bị rơi xuống dưới trong khi đưa nhục thân ra khỏi tháp. Có một đốt sống ngực có chiều cao thân thấp và không cân xứng. Điều này gợi ý cho chúng tôi về bệnh viêm cột sống của thiền sư. Diện khớp mu còn thấy rõ để có thể định tuổi của thiền sư khoảng 40 - 45 tuổi. Phủ tạng còn trong bụng Ngày 11.5.2004, tôi và họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân lật ngược nhục thân để nghiên cứu phần trong lòng và ngạc nhiên khi phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm chính giữa phần bụng. Tượng được phủ kín bằng sơn ta, phía dưới lại có đáy gốm, do đó khối vật chất này từ ngoài không thể lọt vào trong ổ bụng được. Sau khi lấy mẫu phân tích, kết quả thật bất ngờ rằng đó là các chất còn lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư Như Trí. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam chúng ta phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng thiền sư. Điều này có thể suy luận rằng trong bụng thiền sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, huyện Thường Tín (Hà Tây cũ) chắc cũng còn lại khối vật chất là phần nội tạng mà qua phim X-quang không thể phát hiện được, như chúng tôi đã đoán định từ năm 1983. Sau khi đã tu bổ được phần thân, chúng tôi khoét phần gáy để đưa đốt sống cổ bị rời ra ban đầu. Đến độ sâu 1,3 cm bỗng chiếc đục trên tay họa sĩ Đào Ngọc Hân bật trở lại, ánh xanh của gỉ đồng lóe lên. Ngày 4.6.2004, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và chúng tôi đã chuyển nhục thân tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Chúng tôi phát hiện thấy sau khi bồi lớp thứ nhất, người ta đã đặt một tấm đồng lớn trên lưng (chiều dài 65 cm; rộng 15 cm) và một tấm đồng trên ngực (chiều rộng 22 cm). Phía ngoài hai tấm đồng là lớp bồi dày trên dưới 1 cm. Trên đầu và bắp tay cũng được cuốn những dải băng bằng đồng có các kích thước khác nhau. Vòng quanh đầu trên hai tai là ba dải băng: một dải nhỏ 0,6 cm, hai dải lớn hơn 0,79 cm. Có ba dải băng khác từ trên đỉnh đầu dọc theo thái dương xuống sau cằm. Ba dải băng này có một dải to: 1cm và hai dải nhỏ 0,5 cm. Nhìn theo chuẩn sau có bốn dải băng to chiều rộng 2,13 cm, chạy từ cổ lên đỉnh đầu luồn qua dải băng to (vuông góc với nó) gập quay trở lại xuống cổ ở phía sau gáy. Qua phim X-quang thấy rất rõ vết gấp này. Một số dải băng khác được cuốn quanh cổ và hai dải băng có chiều ngang nhỏ: 0,4 cm chạy vòng từ nách vắt qua vai, từ trước ra sau. Đây là hiện tượng đầu tiên ở Việt Nam. Có nhiều khả năng nó giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng và cũng có khả năng để bảo vệ hộp sọ. Lớp bồi bên ngoài nhục thân thiền sư Như Trí dày 0,66 cm, gồm hai lớp: lớp ngoài màu vàng nâu, lớp trong màu đen. Cả hai lớp thành phần đều gồm vải, sơn ta và mạt cưa... Không hề có dát vàng hay bạc như tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, chúng tôi đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Chúng tôi quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Ngày 27.9.2004, Thiền viện Trúc Lâm đã tổ chức lễ cầu nguyện cho thiền sư Như Trí tại chùa Duệ Khánh và làm lễ rước nhục thân về chùa Tiêu Sơn rất trọng thể. Ngày 28.9.2004, lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn. Thế là một dấu son nữa lại được ghi thêm vào trang sử của ngôi chùa cổ kính này. Với riêng tôi thì có một nỗi mừng khôn tả. Vừa mừng, vừa chờ đợi và hy vọng, vì tôi chắc rằng sẽ còn ở đâu đó, trong những ngôi tháp cổ đang bị xuống cấp, những vị thiền sư khác đang "chờ" chúng tôi, lại bắt tay vào một công trình tu bổ mới... Nhục thân thiền sư Như Trí trong khám rồng (sau khi tu bổ) - Ảnh: N.L.C Về thân thế sự nghiệp của thiền sư Như Trí tới nay chưa thấy sử liệu nào ghi rõ, chỉ sơ lược qua một vài tác phẩm văn Nôm mà chúng ta chưa có dịp kiểm chứng. Theo đó, Ngài cùng với một số huynh đệ có cùng chữ NHƯ, phụ giúp thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của thời Trần còn sót lại trong nhân gian như: Khóa hư lục, Thánh đăng lục, Tam tổ trúc lâm, Kiến tánh thành Phật và đặc biệt là tập Thiền uyển tập anh... Theo Thượng tọa Thích Thông Phương - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử thì: “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm do sư tổ Trúc Lâm - Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện ở đây còn tháp đá tôn thờ thiền sư, gọi là tháp Tịch Quang. Đây là mốc lịch sử của dòng thiền Trúc Lâm. Nhiều thiền sư ra đời, những tư liệu của chư tổ được thiền sư Chân Nguyên cùng hàng môn đồ kế tiếp, biên tập, khắc in để giữ gìn, làm cơ sở sách cho người nghiên cứu. Thiền sư Như Trí đã từng khắc in lại bộ Thiền uyển tập anh năm 1715, là bộ sách rất có giá trị về văn hóa của Phật giáo Việt Nam...”.
|
|
|
Post by tk on Aug 21, 2012 18:15:14 GMT -5
Câu chuyện về môtíp Rìa-hu trang trí ở chùa Phật Khmer
Môtíp Rìa-hu ở cổng chùa Khlêang, Sóc Trăng 1. Chùa Khmer luôn thật đặc trưng với chóp mái vút cong, tầng mái trùng điệp, mấp mô trên nền trời, lấp ló giữa những tán cây, và cả những hoa văn trang trí cầu kỳ chen đặc từ ngoài vào trong chùa... nhưng tôi cứ ấn tượng mãi hình tượng con quỷ dữ tợn, hai tay giữ lấy vật tròn lớn cố nhét vào miệng ngấu nghiến trên hầu hết cổng và cửa chùa. Cái ấn tượng đeo đuổi không thôi là cái khuôn mặt dữ dằn ấy được tạo tác mỗi nơi một kiểu có hình tướng đa dạng, màu sắc cực kỳ phong phú... Đó là cái gì?
Về sau ông Acha ở chùa Dơi nói cho tôi biết đó là chằn Rìa-hu nhân vật chủ chốt của câu chuyện thần kỳ giải thích về hiện tượng nhật thực và nguyệt thực(1) của người Khmer. Sự tích thần kỳ này được ông kể như sau:
Ngày xưa, gia đình nọ có ba anh em trai. Hôm nào ba anh em cũng dành phần cơm đặt bát cho các nhà sư khất thực. Một hôm, hai người anh bảo người em út nấu cơm, nhưng vì củi bị mưa ướt nên người em út nhóm mãi lửa không cháy được. Đến khi đoàn các vị khất thực ngang nhà mà cơm vẫn chưa chín.
Không có cơm để đặt bát cho các tu sĩ, hai người anh giận lắm, quát mắng và lấy vá xúc cơm đánh vào đầu người em út. Người em út bị các anh đánh, tủi thân bỏ ra bờ con sông lớn sau nhà ngồi khóc. Nhìn nước sông chảy xiết, người em út nguyện kiếp sau được hóa thành người có sức mạnh như dòng nước chảy để không ai bắt nạt được mình.
Hai người anh thấy em bỏ ra bờ sông ngồi khóc bèn theo ra xem xét. Nghe em cầu nguyện như vậy, hai người anh lấy làm lo lắng và từ đó họ luôn cầu nguyện được hóa thành những người có sức mạnh hơn dòng nước chảy để em mình không làm hại được.
Về sau, lời nguyện cầu của ba anh em nọ đều được toại nguyện: Người anh cả được hóa kiếp thành Pờ-rặc A-tít, tức là mặt trời, người anh thứ hóa kiếp thành Pờ-rặc Chanh tức là mặt trăng, và người em út hóa thành Rìa-hu, một người to lớn, mặt mũi nhăn nhó, xấu xí, có sức mạnh vô địch, không ai có thể ngăn cản, chống chọi lại nổi.
Vốn có thâm thù với hai anh từ kiếp trước, Rìa-hu thường chận bắt mặt trời và mặt trăng “nuốt” vào bụng để trả thù. Lúc đó, trời đất bị mờ đi, hay tối hẳn lại. Thần Pờ-rặc In, vị thần cai quản vũ trụ, thấy vậy bèn dạy cho Pờ-rặc A-tít và Pờ-rặc Chanh hai bài thần chú gọi là Sô bờ-rích/kinh Mặt Trời và Chanh bờ-rích/kinh Mặt Trăng để mặt trời và mặt trăng đọc khi lâm nạn, buộc Rìa-hu phải nhả mình ra. Do vậy, Rìa-hu chỉ “nuốt” mặt trời và mặt trăng được một lát, thì buộc phải “nhả” ra: Trời đất lại được sáng sủa như trước.
Rìa-hu ỷ mình to lớn, có sức mạnh, nên rất kiêu ngạo: tự cho mình là người vô địch trong vũ trụ và nghe ở đâu có một người phi phàm thì tìm đến để... đòi tỷ thí.
Một hôm, nghe vợ nói Phật Cồ-đàm là người lớn nhất thế gian, Rìa-hu liền cõng vợ, bảo vợ chỉ đường đến gặp bằng được Phật Cồ-đàm. Đức Phật có phép thần thông biết Rìa-hu đến tìm mình, liền làm phép biến ngôi chánh điện của mình đang ở nhỏ lại. Rìa-hu bay đến nơi, thấy ngôi chánh điện nhỏ xíu, chỉ bằng nắm tay của mình, thì tự đắc bảo với vợ là mình có thể bóp nát ngôi chánh điện ấy một cách dễ dàng. Nhưng lạ thay, khi Rìa-hu cõng vợ, lách mình qua cửa, thì lọt vào bên trong ngôi chánh điện không bị vướng mắc gì cả.
Rìa-hu càng ngạc nhiên hơn khi thấy bên trong ngôi chánh điện rộng thênh thang và Phật Cồ-đàm mình đắp chiếc y vàng, dáng cao to như quả núi. Chưa kịp định thần. Rìa-hu liền cất tiếng hỏi:
- Trong vũ trụ có phải ông là người lớn nhất không?
Phật Cồ-đàm đáp:
- Trong vũ trụ này không ai lớn hơn thần Ma-ha Pờ-rum/Đại Phạn Thiên.
Nghe nói vậy, Rìa-hu một mực nài Phật Cồ-đàm đưa mình đến gặp thần Ma-ha Pờ-rum ngay. Phật bằng lòng, bảo Rìa-hu bám vào chéo y của mình, để đưa lên thượng giới gặp Ma-ha Pờ-rum.
Ma-ha Pờ-rum thấy Phật đến, vội đem cơm đặt bát cho Phật. Khi đặt cơm vào bát, thần Ma-ha Pờ-rum thấy Rìa-hu ở chéo y của Phật, liền hỏi.
- Bạch đấng Thế Tôn! Sao Ngài để con rệp đu ở chéo y Ngài thế này?
Ma-ha Pờ-rum vừa nói, vừa bắt Rìa-hu bỏ lên bàn tay mình đưa cho Đức Phật xem. Rìa-hu thấy thần Ma-ha Pờ-rum to lớn quá, sợ hãi van xin tha lỗi luôn miệng. Nhưng vì thần Ma-ha Pờ-rum to lớn quá, nên lời van xin của Rìa-hu không đến tai thần được. Thấy thần Ma-ha Pờ-rum không hề đoái hoài đến mình, Rìa-hu hổ thẹn quay sang nài nỉ Phật Cồ-đàm cho mình trở về.
Trước khi ra về, Phật Cồ-đàm dặn dò Rìa-hu không được xuống uống nước trường sinh ở hồ thiêng A-nô-ti. Nhưng vì đường xa, Rìa-hu khát nước khô cả cổ nên khi đến hồ thiêng A-nô-ti, hắn đánh bạo xuống hồ uống nước. Bất ngờ, Rìa-hu bị thần giữ hồ Kom-phôn-lác thổi luồng gió thiêng Căm-ma-viết (luồng gió nghiệp báo) cắt đứt đôi Rìa-hu ngang ngực. Rìa-hu hốt hoảng bỏ nửa phần dưới thân người lại dưới hồ. Còn nửa phần trên, nhờ uống nước trường sinh nên còn sống, vội vã bay vút đi. Rìa-hu bay đến đâu gây mưa bão, cuồng phong đến đó.
Do vậy, mỗi khi có gió to, đồng bào Khmer Nam bộ gõ thùng, gõ mõ... gây tiếng động, hoặc cầm dao và la lớn: “Tránh ra! Tránh ra!” cốt để xua Rìa-hu đi nơi khác, khỏi gây thiệt hại cho ruộng vườn và nhà cửa.
Từ khi biết Rìa-hu liên quan đến nhật thực và nguyệt thực, tôi dò hỏi thì người Khmer nào cũng rành câu chuyện thần kỳ này, nhưng mỗi người kể mỗi khác đi một vài chi tiết. Song qua đó cũng thấy rõ rằng Rìa-hu liên quan đến mùa vụ nông nghiệp nên việc đánh trống, gõ mõ khi Rìa-hu nuốt mặt trời, mặt trăng là tập quán lâu đời.
2. Truy cứu thêm, chúng ta bắt gặp môtíp chuyện Rìa-hu phần nào tương tự với nhân vật Rahu trong thần thoại Khuấy biển sữa(2) của Ấn Độ cổ đại:
“Vì In-đra làm mất lòng đạo sĩ Đuyếc-va-sa, nên đạo sĩ đã phù chú làm cho tất cả các thần linh bị mất phép thiêng và kiệt sức. Quỷ Ba-li là vua của các loài quỷ a-su-ra kéo đến đánh các thần. Nhưng vì kiệt sức, các thần đã bị thua, cầu cứu thần Visnu. Visnu mách bảo phải kiếm được vị thuốc trường sinh ở dưới đáy biển sữa để các thần uống thì các thần mới phục hồi được sức lực. Nghe đến việc tìm thuốc trường sinh, thần và quỷ đều vui mừng nên thần và quỷ tạm hòa với nhau để cùng khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh.
Các thần nhổ núi Man-đa-ra (tức núi Mê-ru, tên gọi thần thánh của núi Hi-ma-lay-a) làm trụ trời để khuất biển sữa.
Con rắn thần khổng lồ Va-su-ki (một biến thái của rắn thần Sê-sa) được dùng làm dây kéo, cuộn vào cột núi Mê-ru để thần nắm một bên và quỷ nắm một bên, thi nhau kéo để xoay chuyển núi, khuấy biển sữa dậy sóng sùng sục.
Bị khuấy động mạnh, núi Mê-ru càng lún sâu xuống biển nên không xoay chuyển được, Visnu bèn hóa thành một con rùa khổng lồ, lặn xuống đáy biển, lấy mai làm trụ đỡ núi và việc khuấy biển lại tiến hành thuận lợi.
Mặt biển sữa bị khuấy động, lần lượt nổi lên những báu vật trước kia bị chìm xuống đáy sâu... và cuối cùng là thầy thuốc Đan-van-ta-ri với chén thuốc trường sinh am-ri-ta. Thấy vậy, thần và quỷ cùng xô lại, tranh nhau uống thuốc. Visnu bèn hóa phép thành nàng Mô-hi-ni xinh đẹp, lẳng lơ kéo lũ quỷ háo sắc sang một bên, rồi đưa thuốc trường sinh cho các vị thần nên lấy lại được sức lực. Khi đó, một con quỷ tên là Rahu đã lẻn đứng vào hàng ngũ các thần để được uống thuốc trường sinh. Khi Rahu vừa uống xong, thì nó bị thần Mặt Trời và thần Mặt Trăng phát hiện báo cho Visnu. Visnu đã chặt đứt thân hình Rahu thành hai mảnh. Tuy vậy, do đã được uống thuốc trường sinh, hai mảnh đó của quỷ vẫn sống và biến thành hai vì sao là Rahu và Ketu. Để trả thù kẻ đã tố cáo mình, Rahu luôn tìm cách bắt nuốt Mặt Trời, Mặt Trăng. Việc này đã tạo nên hiện tượng nhật thực, nguyệt thực...”.
Câu chuyện về Rahu như trên cũng được đề cập trong kinh sách Pali: Samyutta Nikaya. Trong Candima Sutta và Suriya Sutta, Rahu tấn công Chandra - thần Mặt Trăng và Suriya - thần Mặt Trời. Khi đó, Đức Phật đã buộc Rahu phải nhả họ ra. Đoạn thơ được kể lại bởi hai thiên thần và về sau được kết hợp vào nghi lễ Phật giáo: các nhà sư đã tụng đoạn kinh này để cầu xin sự bảo vệ. Như vậy, câu chuyện từ thần thoại Bà-la-môn đã được Phật giáo tiếp biến từ lâu đời và từ đó lưu truyền vào cộng đồng Phật giáo Tiểu thừa Khmer.
3. Truy cứu những cứ liệu khác nhau, chúng ta thấy không có sự thống nhất hoàn toàn về hình dạng của Rahu trong các khu vực văn hóa khác nhau.
Theo thần thoại Hindu, Rahu là một con quỷ bán thân, thường bắt nuốt mặt trời/mặt trăng gây ra nhật thực/nguyệt thực. Puranas miêu tả Rahu với hình tượng bán thân, xuất thân của sư tử cái, giống rắn, có cơ thể khổng lồ và sức mạnh phi thường. Trong nghệ thuật, Rahu lại được mô tả như một con rắn không có phần thân dưới cưỡi trên chiếc xe được kéo bởi tám con ngựa đen. Rahu là một trong chín hành tinh (navagrahas) trong chiêm tinh học Vệ Đà. Thời gian trong ngày dưới ảnh hưởng của Rahu (Rahu kala) được coi là điềm xấu.
Đặc biệt, trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, Rahu (La Hầu La) được coi là đã bị chinh phục bởi Padmasambhava, trở thành một trong những người bảo vệ nguyên tắc của các giáo lý Dzogchen, đặc biệt là Nyingthik Longchen. Rahu thường được miêu tả với chín cái đầu và một nghìn con mắt trên khắp cơ thể màu đen của mình. Bốn cánh tay với các trì vật gồm cây cung, mũi tên, dây thòng lọng và ngọn cờ chiến thắng. Rahu xuất hiện với phẫn nộ tướng, rực cháy với những tia lửa, và phần dưới cơ thể được thể hiện dưới hình thức của một con rắn. La Hầu La là một vị thần to lớn siêu phàm.
Môtíp Rìa-hu phía trên cửa xe tang chùa Luông Ba-sac, Sóc Trăng
Trong Attha Katha, thậm chí cả trong Tim Nidai và Sungyatta Nikai có mô tả kích thước của Phra Rahu: cao 4,800yoch, ngực rộng 1,200yoch, trán rộng 50yoch, và mũi dài 30yoch (yoch là đơn vị đo chiều dài của Thái, 1yoch bằng 16km). Còn trong Triphum Katha, kích thước Phra Rahu có khác: cao 98,000yoch, vòng đầu dài 26,000yoch, trán rộng 300yoch, vòng mũi 300yoch, khoảng cách giữa mắt và lông mày là 90yoch, lông mày dài 200yoch, miệng rộng 200yoch và sâu 300yoch. Lòng bàn tay rộng 200yoch, bàn tay và lông chân dài 30yoch.
4. Rahu ngoài ảnh hưởng đến nghệ thuật tạo hình còn là một đối tượng quan trọng của ngành chiêm tinh. Rahu được tin rằng là đứa con nghịch ngợm và lớn mạnh của Maya (sức mạnh siêu nhiên) và vì vậy có rất nhiều tính chất hai mặt gắn liền với siêu nhiên Maya. Đó là sự liên hệ đến 7 tia năng lượng chiêm tinh bí truyền như là vật biểu trưng cho sức mạnh biểu lộ các tiềm năng, khả năng nội tại của sự sống.
Trong kinh Vệ Đà, Rahu có nhiều tên gọi: Vua của loài quỷ, luôn giận giữ, kẻ áp bức, kẻ thù của ánh sáng: mặt trăng/mặt trời, chúa tể của ảo giác, kẻ đe dọa mặt trời, làm lu mờ mặt trăng, sứ giả hòa bình, sự bất tử (do uống rượu thiêng), ban cho sự thịnh vượng, giàu có và tri thức tối thượng - đầu mối của nguồn năng lượng cơ bản và thuộc tính vật tượng trưng.
Rahu có thể được xem là chưởng quản các hành tinh, vì nó vận hành có chu trình và mục đích. Nó là chủ của sự vận động.
Theo thiên văn học, Rahu và Ketu biểu thị hai điểm giao nhau trên đường đi của mặt trời và mặt trăng khi chúng di chuyển trên bầu trời. Vì vậy, Rahu và Ketu được gọi là giao điểm/điểm nút phía Bắc và phía Nam mặt trăng. Thực tế đó dẫn đến việc che khuất mặt trời và mặt trăng làm phát sinh thần thoại nuốt mặt trời.
Trong chiêm tinh học Vệ Đà, Rahu được xem như là một a-tu-la/asura, nó kiểm soát sự hỗn loạn, sự bí ẩn và xấu xa trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Nó liên quan đến thế giới vật chất hiện hữu và dục vọng thế gian, cũng như sự ngẫu nhiên, phát triển vượt tầm kiểm soát do không hiểu biết hay vô ý.
Rahu đóng vai trò quan trọng liên quan đến sự tổn hại. Tuy nhiên, Rahu cũng mang đến tiếng tăm, may mắn, uy tín và quyền lực. Đó là lý do tại sao các nhà chiêm tinh học phương Tây kính trọng nó như là sức mạnh có lợi ích to lớn nhất.
Chiêm tinh học Thái Lan cho rằng, Phra Rahu được cấu thành bởi 12 cái đầu ma trơi với 12 sức mạnh của gió hay thần bão. Rahu sống trong lâu đài đen. Rahu có cơ thể bằng đồng thiếc và mặc trang phục vàng. Rahu thường sống trong những đám mây và sương mù, cư ngụ phía Tây.
Trong truyền thuyết chiêm tinh khác của Thái, Phra Rahu là ngôi sao của gió, sống ở Đông bắc và kết bạn với sao Thổ. Rahu cũng là cặp cân bằng quyền lực với mặt trăng.
Biểu tượng của Rahu là con số 8, nó được tin rằng là sức mạnh khởi nguyên mọi thứ trên trái đất.
Như vậy, Rahu là bậc thầy huyền thoại của mưu mẹo gian dối, biểu thị của kẻ lừa bịp, kẻ kiếm tìm lạc thú, người điều hành những vùng đất bên ngoài, người buôn bán thuốc, chất độc, sự không thành thật và hành vi vô đạo đức. Đó là biểu thị của kẻ vô tôn giáo, kẻ bị cộng đồng ruồng bỏ; là kẻ lỗ mãng, cục cằn, bất chấp nghĩa lý, những ý nghĩa sai lầm, sự không rõ ràng, lở loét bụng và xương, và sự di cư. Rahu là công cụ tăng cường sức mạnh của một người thậm chí có thể chuyển thù thành bạn. Trong Phật giáo, Rahu là một trong những Krodhadevatas (hung thần, kích động tham dục).
5. Rahu gắn với tín ngưỡng nhật thực/nguyệt thực. Trong lịch sử, nhật thực được xem như là xấu xa và điềm rủi ro.
Những nền văn hóa sớm nhất cho thấy mặt trời ban cho con người sự sống liên tục, không bao giờ chấm dứt. Vì vậy, cái gì có thể phá hủy mặt trời đương nhiên được liệt vào điềm xấu. Mặc cho những nhận thức khoa học đúng đắn về hiện tượng tự nhiên trong xã hội đương thời, người dân vẫn tiếp tục đánh trống, chiêng, thùng chậu và xoong chảo hoặc bắn pháo sáng vào bầu trời hay ẩn nấp trong nhà. Thậm chí có sự liên kết hiện tượng Rahu ăn mặt trời với tai họa, với chiến tranh, lũ lụt, đói kém, đến sự chuyển biến chính trị và điềm rủi của cá nhân.
Ở Ấn Độ, trong suốt thời gian nhật thực, nguyệt thực, thức ăn không được ăn cũng không được nấu. Nhiều tín ngưỡng cho rằng khi tia nắng mặt trời không chạm vào quả đất, vi trùng và mầm bệnh tăng lên. Tất cả những món ăn đã nấu trước nhật thực/nguyệt thực vì vậy phải vứt đi. Người Ấn Độ ngâm mình trong nước lên đến cổ để tẩy rửa. Họ tin rằng việc thực hành nghi lễ thờ cúng sẽ giúp mặt trời đánh bại quái thú Rahu ngấu nghiến mặt trời. Phụ nữ mang thai không được cắt và may vá trong suốt thời gian nhật, nguyệt thực vì điều này sẽ làm cho đứa trẻ sắp sinh bị dị hình.
6. Tín ngưỡng về Rahu bao gồm tín lý trừ tai lẫn cầu khẩn. Đặc biệt, lễ vật cúng Rahu - vị thần của bóng tối, nên lễ vật cúng Rahu là những vật phẩm màu đen. Khi cúng, dân chúng thường bày biện 8 món (8 là con số của Rahu) không giống nhau. Những vật cúng có thể là mì sợi nhuộm đen, thạch đen, cà phê đen, nước ngọt coke, rượu nếp than (đen), gà ác, trứng bắc thảo, xôi nếp than, các loại bánh màu đen... Ngoài ra, người dân còn dâng cúng hoa màu đen, đũa đen và đèn cầy đen.
Ở Thái Lan, những vật cúng như trên cũng là vật cầu may mắn, tránh điềm rủi ro trong suốt năm có nhật thực, nguyệt thực.
Ở Ấn Độ, đền Naganatha (ở Thirunageswaram, Tamil Nadu) là một ngôi đền dành riêng cho Rahu. Thờ cúng Rahu, nơi đây mỗi ngày người ta dâng cúng sữa abhishekam trong suốt dịp Rahu Kaalam, để xoa dịu Rahu. Sữa biến thành màu xanh da trời khi nó chảy xuống sau khi chạm vào bức tượng Rahu. Tín ngưỡng này đã được thực hành trên 1.500 năm.
Rahu cũng được thờ cùng với 9 tinh tú khác trong tất cả đền thờ Hindu ở Miến Điện.
Ở Thái Lan, Phra Rahu cũng được thờ khá phổ biến, tiêu biểu như điện thờ Wat Sisathong, quận Nakon Pathom...
Ngoài các tập tục thờ cúng này, còn có tục cúng sao Rahu (La-hầu) để giải hạn, niệm thần chú để nối kết các thần thánh tạo nên sức mạnh lớn để chiến thắng Rahu và vẽ bùa yểm chú “Pra Rahu” để hộ mệnh. Truyền thuyết Pra Rahu cho rằng “Pra Rahu” đã được tạo bởi hai ẩn sĩ. Họ đã vẽ bùa và thuật chú để thiêng hóa bùa hộ mạng “Pra Rahu”. Một ẩn sĩ vẽ bùa và thuật chú về Suriyabuppa (giai đoạn nhật thực) để thiêng hóa việc Pra Rahu chiếm lấy mặt trời trong miệng của hắn. Ẩn sĩ kia cũng vẽ bùa và thuật chú về Chandrabuppa (giai đoạn nguyệt thực) để thiêng hóa Pra Rahu chiếm lấy mặt trăng trong miệng của hắn. Cả hai làm điều này bởi họ thấy trước tương lai đầy hiểm nguy và đau khổ của con người vì tai họa do Rahu gây ra. Bùa hộ mạng “Pra Rahu” sẽ giúp con người thoát khỏi điều đó. Để thiêng hóa bùa hộ mạng Pra Rahu, nó cần trải qua 8 tiết/ 8 giai đoạn linh thiêng.
Bùa hộ mạng “Pra Rahu” được làm từ một con mắt trên vỏ dừa rất khó để tìm thấy. Do vỏ trái dừa có 3 lỗ trên đỉnh, một trong số đó là lỗ để nảy mầm và hai lỗ còn lại là mắt. Nhưng một con mắt trên vỏ dừa sẽ lấy một cái lỗ để nảy mầm và chỉ còn lại duy nhất một mắt. Chính đặc tính đặc biệt đó mà vỏ dừa được xem là vật làm nên sức mạnh của bùa hộ mạng. Mặc dù vỏ dừa không được thiêng hóa nhưng người ta cho nó chứa đựng sức mạnh của siêu nhiên. Phải chăng đó là hình thức khởi nguyên của việc dùng đồ án Rahu/Rìa-hu để trang trí trên cổng, cửa chùa Khmer, cũng như chùa tháp các quốc gia Phật giáo Tiểu thừa. Ở các xứ sở đó, ngoài việc dùng đồ án Rahu để trấn cửa chùa tháp, còn có những Phật thoại chỉ ra rằng bất cứ ai, dù là kẻ có sức mạnh vô biên, có thể ăn sống nuốt tươi mặt trời, mặt trăng thì chính nó cũng không thoát khỏi luồng gió nghiệp báo “Căm-ma-viết” (karma-vayu) do chính sự ngã mạn của nó trừng trị.
Chú thích
(1) Xem Truyện dân gian Khơ me, Huỳnh Ngọc Trảng sưu tầm và biên soạn, Hội Văn học nghệ thuật Cửu Long xuất bản, 1987.
(2) - Classical dictionary of Hindu mythology and religion, geography, history, and literarure, John Dowson, Rupa &Co, 2004.
- Myths and legends of India, J. M. Macfie, Rupa &Co, 1998.
Huỳnh Thanh Bình
|
|