|
Post by tk on Dec 25, 2013 16:12:59 GMT -5
Bài thơ kỳ diệu Dòng họ Xu-đa-xá một thuở xa xưa kia trị vì kinh thành Ba-la-nại. Nhà vua chẳng chăm lo đến đời sống của dân mà chỉ ham mê thú săn bắn, bỏ bê triều chính cho lũ hoạn quan cùng bọn gian thần xu nịnh.
Trong một cuộc săn, vì mải miết đuổi theo đàn nai tơ nên đức vua lạc vào rừng sâu. Đến khi dừng lại, mệt quá, vua ngủ thiếp đi. Một con sư tử cái lông vàng óng ả đến nằm xuống một bên dụi đầu liếm chân, liếm tay đức vua ra chiều luyến ái! Nửa mê, nửa tỉnh, đức vua mơ màng vuốt ve nó một cách thân mật như quen biết nhau từ thuở nào...
Tỉnh dậy, đức vua bàng hoàng, “mỹ nhân” đi rồi nhưng hương tình ái như còn thoảng đâu đây?
Câu chuyện đó, tuy thế cũng dần dà theo thời gian mà cũng xóa mờ đi. Rồi hôm kia, một chuyện lạ lùng khác lại đến. Cả kinh thành xôn xao vì sự xuất hiện của một con sư tử lông vàng, trên lưng cõng đứa bé mới sinh, đi thẳng vào cung điện. Hình ảnh này khêu gợi sự tò mò hơn là sự sợ hãi; người ta đi xa xa sau lưng nó với sự ngạc nhiên kỳ thú.
Bà - mẹ - chốn - rừng - xanh không làm gì, cẩn thận đặt đứa bé dưới chân đức vua rồi lặng lẽ trở lại rừng sâu.
Đức vua không nhớ chuyện cũ, lại không có con nên nhận đứa bé làm con mình và đặt tên Kama. Trẻ Kama lớn lên rất nhanh và được đức vua cho đi học ở Tắt-ká-xi-la. Tại đây, Kama làm quen với một trăm vị Hoàng tử từ khắp các tiểu quốc đến theo học. Thầy họ là một Bà-la-môn lỗi lạc, có khả năng đào tạo nên những kẻ lãnh đạo tài ba, những nhà chính trị, quân sự, thiên văn, địa lý... và cả những bậc hiền đức. Ngôi sao sáng ở trong lớp về mọi lãnh vực là Hoàng tử Xu-ta-ma và kẻ tệ hại nhất là Hoàng tử Kama.
Hôm kia, sau cuộc bế giảng khóa học, Thầy Bà-la-môn trứ danh nhìn một trăm lẻ một vị Hoàng tử, tương lai là một trăm lẻ một đức vua của thiên hạ mà nói rằng:
- Cho đến kẻ tệ nhất của lớp học này cũng đã thành tài. Sau này, tuy còn một vài thử thách của Thượng đế và hiểm họa sẽ đến từ một kẻ thất đức trong chư vị; nhưng kẻ trí đức nhất trong lớp học sẽ đem lại hòa bình và an lạc cho một trăm lẻ một tiểu quốc.
Người ta tò mò đưa mắt nhìn trộm Kama, rồi lại nhìn trộm Hoàng tử Xu-ta-ma - người anh cả của lớp học - rồi bâng khuâng về lời tiên tri kín đáo và kỳ lạ của vị thầy.
Kama trở về quốc độ thì vua cha mất, chàng lên ngôi vua, kế tục dòng họ Xu-đa-xá. Cũng như các vua trước, chàng duy trì tôn miếu, xã tắc, lại sáng suốt hơn cha trong việc loại bỏ các nịnh thần, dùng người thực tài, thực học vào các chức vụ. Vua lại không ham mê săn bắn, không đắm say tửu sắc, chỉ thích đấu võ và ăn thịt. Đấy là hai sở tài vô địch của đức vua. Mười viên hổ tướng cùng hợp lực không đỡ nổi thanh đao của ngài. Đức vua có thể túm chân một con voi con bằng hai con bò mộng quăng đi xa hơn trượng. Còn thịt thì vua ăn rất nhiều. Ngài chỉ cần thịt làm món ăn chính và mỗi bữa tối thiểu cũng phải có cho đức vua chừng hai mươi cân. Đây có lẽ là do bản tính di truyền mà đức vua thừa hưởng của sư tử mẹ.
Vua quan ngự trù biết tính vua nên luôn luôn chuẩn bị các loại thịt rất chu đáo. Món ăn nào dọn ra cũng thịt và thịt; lại kho nướng chiên xào tẩm gia vị ngon lành thơm tho. Cho đến một hôm kia, trước bữa ăn, vì sơ ý, các món thịt bị bọn chó săn trong cung của vua trước, lang thang tìm đến và chén sạch hết. Hôm ấy là ngày lễ tôn giáo của đạo Bà-la-môn nên các cửa hàng đều đóng cửa chẳng tìm đâu ra thịt có sẵn. Và trong cung cũng không thể kiếm thịt cho vua dùng. Tình thế thật là nguy cấp. Vợ viên quan ngự trù chợt sáng dạ, chị ta lén xẻo những bắp thịt đùi của người tử tù vừa bị xử trảm đem vào cho kịp bữa ăn. Vừa ngồi vào bàn, đức vua đã đánh hơi được mùi vị khác thường. Vua ăn một miếng, nhai từ từ từng chút một, thấm sâu vào cổ, vào ruột rồi dường như tan nhanh ra các tế bào. Vua ngất ngây. Rồi miếng thứ hai, thứ ba... Đức vua say sưa tận hưởng món ăn tuyệt vời. Bữa ăn đã xong, bụng đã no nhưng miệng còn thèm, nhà vua hỏi quan ngự trù về món thịt kỳ lạ này. Viên ngự trù ban đầu vì sợ hãi nên nói quanh, nhưng làm sao dấu được ông vua vốn rất thiện xảo về nghề nếm thịt? Cuối cùng y phải nói thật. Y hồi hộp và nín thở chờ đợi sự trừng phạt nghiêm khắc của đức vua mà y đoán chắc không thoát nổi tội chém đầu. Nhưng, hắn ngạc nhiên xiết bao, đức vua mỉm cười khen ngợi hắn. Rồi nhà vua kín đáo ban thưởng, lại dặn dò kỹ lưỡng rằng:
- Từ nay về sau, trẫm chỉ thích duy nhất một món thịt ấy mà thôi!
Ở miền khí hậu nóng của xứ Ấn Độ khó mà giữ được thịt tươi đến sáng ngày hôm sau, nên mỗi ngày phải tìm cho ra thịt mới. Thế là mỗi ngày phải hạ thịt một người. Những tên tù lần lượt bị đem ra chém rồi được bí mật mang về lấy thịt dọn cho đức vua. Nhưng rồi đến một ngày kia nhà tù hết người. Viên ngự trù lo lắng không ngủ được. Vợ y lại góp ý bảo rằng, ở kinh đô biết bao tên bợm rượu say sưa khuya về nằm gục trên các khoảng đường vắng, kéo y vào nghĩa địa, thịt xong rồi dấu xác thì đố ai mà biết được? Viên ngự trù mừng rỡ. Và bắt đầu từ đó y làm nghề săn thịt người.
Nhưng rồi không phải lúc nào cũng có người say, viên ngự trù giờ đây lại rình trong bụi chờ những kẻ đi chơi một mình về khuya, những trẻ lang thang không nhà cửa, hoặc những khách lỡ đường nằm ngủ góc đình, xó miếu. Thế là thời gian sau kinh thành lên tiếng báo động vì đã có quá nhiều người mất tích. Một không khí đe dọa, khủng bố bao phủ mọi nơi, mọi chỗ. Nhà nhà đóng cửa sớm và đường sá, phố phường đêm xuống là trở nên lạnh tanh. Tuy thế, nạn mất tích, bị bắt cóc vẫn còn tiếp diễn. Cơ quan hữu trách bắt đầu làm việc vì bà con họ hàng họ cũng đã có kẻ là nạn nhân. Nhiều toán như những bóng ma được phân bố túc trực các ngả đường, các hóc tối.
Mãi cho đến một hôm người ta bắt được tên sát nhân núp trong lùm cây, đao đang còn vấy máu cùng với đứa trẻ bị xẻo hết thịt chưa kịp chôn xác đi. Tên đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là viên quan ngự trù của đức vua.
Người ta dẫn hắn ra pháp đình với cả xâu thịt đỏ tươi đeo ở cổ. Hắn nhận tất cả tội lỗi bấy nay và cung khai chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh, thủ phạm chính là đức vua chí tôn. Pháp đình và dân chúng xôn xao. Nhưng rồi họ chợt liên tưởng đến dòng máu sư tử, sức mạnh hùm beo cùng bản tính ưa ăn thịt và ăn khỏe một cách lạ lùng của đức vua... Họ không còn nghi ngờ gì nữa. Mọi người chợt đâm ra phân vân bất quyết. Đây là vụ án cổ kim chỉ có một. Dẫu là đức vua nhưng pháp luật đâu có biệt lệ. Tuy thế, họ đắn đo vô ích, kinh thành đã nổi loạn rồi. Với giáo, mác, gậy họ đã ùn ùn kéo đến cung điện để đòi nợ cha, con và chồng. Lẽ phải tùy thuộc ở đám đông. Binh mã lính tráng rần rần rộ rộ kéo đi. Sự phẫn nộ và giận dữ của bá tánh bốc lên một cách khủng khiếp. Ông vua ăn thịt người bị bao vây bốn phía tám phương với sát khí đằng đằng.
Quả là dòng giống sư tử chính thống, Kama lao ra, vung một đường đao ác liệt, mở một đường máu, cứu thoát viên ngự trù; rồi như một cơn lốc uy mãnh, nó biến dạng vào rừng sâu...
Trong khi ở Ba-la-nại xảy ra những biến cố kinh hoàng như vậy thì vùng lân bang kế cận, kinh thành In-đờ-ra, không khí sinh hoạt lại khác hẳn. Thái tử Xu-ta-ma, ngôi sao sáng ở lớp học Tắt-ká-xi-la thuở nào, thuộc dòng vua Kuru, là bậc hiền đức. Dân chúng sống yên ổn thanh bình. Người ta đọc lên rất nhiều bài thơ ca ngợi hạnh phúc, ca ngợi non sông gấm vóc, cây cỏ, mùa màng, tình yêu cùng đức hạnh vô song của Thái tử Xu-ta-ma.
Mặc dầu chưa lên ngôi trị vì, Thái tử giúp vua cha mở các lớp học về đạo đức và văn học, các bậc đại hiền đều được triều đình dùng lễ quốc sư mời về làm cố vấn hoặc giữ chứ vụ trọng yếu. Hàng trăm thầy Bà-la-môn uy tín lão thành được mời về ở những biệt điện cao sang; và họ sẽ là người giúp sức cho Thái tử đào tạo anh tài lương đống cho tổ quốc. Về văn học, đặc biệt Thái tử đã trao nhiều giải thưởng quý giá cho những tác phẩm văn thơ lỗi lạc. Đã nhiều lần, Thái tử ban thưởng hàng chục ngàn đồng tiền vàng cho những thi phẩm tuyệt tác đến nỗi vua cha phải tìm cách khuyên can. Nhưng Thái tử một mực xin vua cha cho được như nguyện. Vì theo ý ngài thì không có kho của cải nào trên đời này quý giá bằng những ý tưởng cao đẹp thoát lên từ những lời thơ hay! Thái tử nói:
- Thưa Phụ vương! Tư tưởng dẫn đầu mọi sinh hoạt, tư tưởng dẫn đầu thế giới, làm nên thế giới! Tư tưởng thanh cao, siêu phàm, có thể hướng dẫn cho lòng người đến chỗ thanh cao, siêu phàm. Vật chất cơm áo không thể quyết định đạo đức, lương tri, mà chính tư tưởng thanh cao siêu phàm quyết định nhân nghĩa, hạnh phúc, hướng dẫn hạnh phúc và hoàn thiện hạnh phúc. Vậy thì con thiết tưởng, những phần thưởng vật chất kia dành cho những lời thơ cao đẹp, sợ chưa xứng đáng cho công đức mà nó đã ban phát, mà nó đã thấm nhuần vào những mọi ngõ ngách của tâm hồn và cuộc sống. Phụ vương hãy khuyến khích con hơn nữa thì mới phải.
Vua cha hoàn toàn bị thuyết phục; rồi chợt mỉm cười khi nghĩ rằng, tổ tiên dòng dõi Kuru mấy ngàn năm nay cai trị quốc độ bằng võ lực, pháp lý và binh quyền, đến đây chắc phải cáo chung để nhường cho ông vua trẻ, thời đại mới, bằng “văn thơ mà trị vì thiên hạ”!
Một buổi sáng đầu năm, lúc Thái tử đi dự hội hoa xuân thì ngài gặp một người khách lạ. Đấy là lão Bà-la-môn tóc bạc như tuyết, người gầy khô như hạc, chống cậy gậy trúc đứng chờ bên đường.
Lão Bà-la-môn khẽ nghiêng mình:
- Phải chăng ngài là Thái tử Xu-ta-ma đức hạnh?
Thái tử thấy cốt cách tiêu sái, khác phàm của lão Bà-la-môn, đáp lễ rồi hỏi:
- Vậy thầy là ai?
- Là kẻ quê mùa dân dã ở xứ núi tuyết xa xôi - Lão Bà-la-môn nói - đến chốn đế kinh chỉ mong đọc cho Thái tử nghe bốn câu thơ.
Thái tử sáng mắt lên. Khách lạ say sưa nói:
- Lão suốt đời coi thơ như mạng sống của mình. Nghe nơi nào có thơ hay cũng phải lặn lội đến nơi cho kỳ được. Tuy thế, như đáy bể mò châu, dễ gì kiếm được một vài ý thơ hay giữa đống thơ, núi sách của thiên hạ. Lâu lắm lão cũng gặp được một vài câu thơ tuyệt diệu của những kẻ vô danh. Những khi như vậy, lão như gặp được bạn tri âm, niềm hoan lạc có thể kéo dài suốt tuần lễ! Thưa Thái tử! Gần đây tâm hồn con người đã quá khô khan, cằn cỗi, sa mạc hoang hóa, những bài thơ thanh cao siêu phàm không còn có môi trường thích hợp để nảy nở. Thảng hoặc, thế gian là vùng đất quá trù phú cho những thú vui ngũ dục tầm thường, nên lão đã lánh mình lên núi cao, sống đời giải thoát như hư không. Bốn câu thơ mà lão sắp đọc cho Thái tử nghe đây là bốn chuỗi ngọc trinh tuyền của ý tưởng được đúc kết lại; là thành quả mười năm thai nghén trên tuyết sơn...
Thái tử cúi đầu chăm chú lắng nghe, niềm náo nức rộn ràng như muốn nhảy bung cả lồng ngực.
Lão Bà-la-môn làn tóc phất phới, đôi mắt sáng ngời tiếp:
- Chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ là quá đủ cho giá trị cũng như thành quả tìm kiếm của một đời người. Của báu, lâu đài, vương tước, mỹ nhân thiên hạ chợt như bó giẻ rách tầm thường trước bốn câu thơ bất hủ vô song này. Thưa Thái tử, lão không nói quá lời. Trước Thái tử là nhà bác học văn chương, bậc đức hạnh mà lão khiêm nhường thì lại trở nên lố bịch! Thưa Thái tử! Mấy ngàn bậc hiền triết, đại thi hào xưa và nay; nếu nghe được bốn câu thơ này, họ sẽ tự động thiêu hủy hết tác phẩm của họ; và sẵn sàng ngửa cổ chịu chết, hy sinh danh dự và tánh mạng miễn là nghe được vài lời, vài chữ...
Thưa Thái tử! Vậy thì ai là kẻ xứng đáng đầu tiên được nghe ngoài bậc hiền đức kinh đô Indra. Không có ai! Lão tìm đến đây, sau khi đọc thơ, đừng tưởng là lão sẽ mong một phần thưởng xứng đáng như mọi người tâm phàm xác tục. Đừng! Đừng đánh giá lão thấp thỏi đến như vậy. Chúng ta đừng nên xúc phạm đến những lời thơ với ý tình cao cả!
Thái tử Xu-ta-ma đáp:
- Nhất định! Nhất định ta sẽ thăng hoa tư cách để không làm cho lão thi nhân phải thất vọng.
Lão Bà-la-môn chợt mỉm cười:
- Nhất định! Nhất định Thái tử sẽ có tư cách ấy, “kiếm báu trao tay người hiệp sĩ, thơ hay hiến tặng bậc thanh cao”. Lão đã tìm đúng người. Vậy thì bây giờ xin Thái tử lựa chọn cho một không gian yên tĩnh và thanh khiết, có cỏ cây sơn thủy hữu tình, có một lò trầm kỳ nam thoang thoảng đưa hương. Khi ấy, lão sẽ đọc cho Thái tử nghe những ý thơ được chắt lọc tinh túy từ vạn vẻ đẹp, từ vạn chân lý của cuộc đời...
Mặc dầu Thái tử nôn nóng muốn nghe lắm nhưng nhìn cuộc hội xuân đã bắt đầu khai mạc, người ta đang chờ đợi ngài; nên hẹn lão Bà-la-môn, hôm sau, vào buổi chiều; Thái tử cũng không quên dặn người nhà mời lão Bà-la-môn về nghỉ ngơi tại tòa lâu đài và tiếp đãi cung phụng cho thật chu đáo.
Buổi lễ khai diễn, người ta chào đón Thái tử bằng những điệu múa tươi vui trẻ trung của muôn ngàn đóa hoa xuân nở rộ; nơi những ca khúc trong lành, tinh khiết của nắng ngọc và sương sớm giao hòa... Bỗng một tiếng gầm lớn! Cuộc vui dừng lại. Ca nhi và vũ nữ hoảng hốt chạy tán loạn. Một kẻ lạ mặt cực kỳ to lớn, thân hình đầy lông lá trông vô cùng man rợ đang bươn bả về phía Thái tử Xu-ta-ma. Nhưng đoàn lính hầu cận Thái tử đã sẵn sàng gươm giáo, hàng rào thép để bảo vệ ngài chống với kẻ lạ mặt. Nhận ra Kama, bạn học cũ ở Tắt-ká-xi-la thuở nào, bình tĩnh hơn bao giờ, Ngài khoát tay bảo thủ hạ dạt ra. Kama rống lên như một con thú rừng rồi nhảy xổ tới, trông khỏe như voi núi và nhanh như gió bão. Thái tử không tỏ ý chống cự. Hắn cõng Thái tử lên vai, rồi hú một tiếng, biến đi như làn chớp.
Kama đã làm gì, đã sống như thế nào trong rừng sâu kể từ khi rời bỏ ngôi vua chí tôn kinh đô Ba-la-nại? Thật khó mà kể hết những hành vi tàn bạo ghê rợn của hắn. Kama đã biến thành dã man và rừng rú kể cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Râu tóc hắn mọc dài ra không còn nhận được khuôn mặt người. Áo quần hắn rách bươm bê bết máu đã khô cứng lại. Móng tay, móng chân dài và nhọn hoắc như móng thú. Những sợi gân máu đỏ trong tròng mắt bao giờ cũng long lên dữ dằn. Chỉ cái hình thù khủng khiếp ấy thôi đã đủ làm người ta ngất xỉu mỗi khi trông thấy hắn. Thế là hắn chỉ việc thò tay nhấc con mồi về, sai tên đầu bếp xẻo thịt, nướng quay và ăn một bụng no. Mỗi mạng cả hai thầy trò làm được một ngày.
Hôm kia, hắn săn suốt khắp mấy khu rừng mà không tìm được một kẻ vô phúc nào. Trở về dưới gốc cây to - dùng làm nhà che mưa đỡ nắng bấy nay, thì trời đã hoàng hôn, Kama đói cào ruột. Hắn bỗng thấy một bóng người. Khỏi cần đao và kiếm, hắn thò tay ra và nhảy vồ tới. Móng tay sắt nhọn nắm đúng yết hầu nạn nhân, xớt gọn và nhanh như cánh chim cắt. Những sợi gân cổ đứt lìa, máu tuôn có vòi, hắn quăng xác chết xuống đất chẳng cần biết đàn ông hay đàn bà. Hắn cất tiếng gọi viên quan ngự trù - bây giờ đã trở thành tên đầu bếp chuyên làm thịt người - nhưng gọi hoài cũng chẳng nghe ai thưa, ai hỏi. Hắn gọi đã khan cả cổ. Tức giận hắn định đi tìm thì bỗng nhận ra xác người nằm dưới chân. Đấy rõ ràng là tên đầy tớ trung kiên của hắn, nào phải ai xa lạ đâu. Nhưng không một chút cảm động, hắn tự tay quay thịt tên đầu bếp bất hạnh ngay tại chỗ mà trước đây tên kia đã thịt rất nhiều người. Thế là từ hôm ấy, hắn phải đích thân làm đầu bếp cho mình.
Khu rừng Kama ở, từ đấy người ta gọi là Sát Nhân Lâm. Cái tên gọi thật là khủng bố và kinh hoàng. Trong vòng mười dặm chẳng có ai dám vãng lai. Kỷ thuật giết người của Kama càng lúc càng tỏ ra man rợ và tinh xảo. Hắn có thể xuất hiện từ một chạng cây, một gộp đá, một bờ đất, kẻ bộ hành thoáng nghe động chưa kịp quay lại đã nghe cổ mình bị siết chặt rồi một thanh đao đã xuyên ngọt qua cổ, qua tim, qua bụng từ bao giờ. Chưa có ai chống cự được một phút giây nào.
Càng lúc Kama càng đi làm ăn xa. Mùa nắng thịt không để được lâu nên hai ngày hắn phải kiếm cho ra một người, quay chín rồi ăn dần. Mùa đông và đầu xuân, hắn có thể kiếm một lúc năm bảy người rồi chôn sâu dưới tuyết, nếu chưa chết, hắn cũng có thể cột con mồi ở gốc cây rồi mỗi ngày thịt mỗi mạng.
Hôm kia, nhìn lên tàn cây đa to lớn đã nương náu bấy lâu, hắn khởi lên ý nghĩ là làm một cuộc lễ to lớn. Để tỏ ra xứng đáng, hắn nguyện sẽ bắt sống một trăm vị Hoàng tử, lấy huyết để tế thần cây (một tà thuyết phổ thông thời bấy giờ). Thế là chỉ trong vòng một tháng, hắn đã đi và về chín mươi chín quốc độ - sức hắn còn đi nhanh hơn thần mã - bắt đúng chín mươi chín vị Hoàng tử, đều là bạn học của hắn thời nhỏ ở Tắt-ká-xi-la.
Và Thái tử Xu-ta-ma nữa là người thứ 100.
Vứt Thái tử Xu-ta-ma xuống đất, với phong độ của người thắng trận, Kama cất tiếng cười ngạo nghễ:
- Này hỡi một trăm vị Hoàng tử cao sang tột bực của châu Diêm-phù-đề! Các bạn làm vua thiên hạ, đâu có ngờ hôm nay bại dưới gót chân ta? Các bạn đâu có ngờ được rằng chữ nghĩa, học thức lại trở thành vô nghĩa lý trước sức mạnh của ta? Hà, hà...
Chín mươi chín vị Hoàng tử, đều bị trói và cho ăn uống cầm hơi, riêng Thái tử Xa-ta-ma, con người văn nhược ấy, là ngôi sao sáng của lớp học thời Tắt-ká-xi-la, hắn lại đối xử khác. Nếu Xu-ta-ma chạy trốn mười dặm đường, hắn vẫn tự tin là hắn còn đuổi kịp.
Hắn thân mến trao cho Thái tử một miếng thịt đùi:
- Ăn đi! Ông bạn hiền lành! Đây là phần thịt ngon nhất mà thượng đế dành sẵn cho chúng ta! Hãy cảm tạ ân sủng thiêng liêng ấy!
Thái tử nhìn tình cảnh đã tiên đoán ra mọi sự. Tuy thế, ngài không mất bình tĩnh, từ chối miếng thịt của Kama rồi nói:
- Người thì làm sao mà có thể ăn thịt người hở Kama? Chỉ có người chối từ nhân tính và đồng loại như ngươi thôi, Kama ạ! Đã là người thì từ trong chỗ sâu xa nhất của tâm hồn, phải có cái gì là thanh cao và tinh khiết nhất!
Nói đến ngang đây, Thái tử chợt xúc động và rơm rớm nước mắt khi nghĩ đến bài thơ tuyệt tác của lão Bà-la-môn mà Thái tử chưa được nghe! Thái tử muốn nói đến cái thanh cao và tinh khiết ấy, nhưng Kama thì làm sao mà hiểu được?
Thấy khóe mắt của Xu-ta-ma rơm rớm ướt, Kama chế nhạo:
- Bạn lại sợ hãi cái chết rồi phải không, Thái tử Xu-ta-ma quý mến? Hay là bạn đang liên tưởng ngai vàng cùng thú vui ca xang, chăn chiếu với mấy ngàn cung phi mỹ nữ?
Phải, trong đầu của Kama chỉ có chừng ấy.
Xu-ta-ma tự nghĩ:
- Một trăm cái đầu tạm bợ này rơi đi cũng chẳng có gì phải ân hận cả. Ta chỉ ân hận là lời hứa với lão Bà-la-môn mà chưa thực hiện được. Ôi! Nếu ta là kẻ thất tín, dẫu cho vì hoàn cảnh nào thì lão Bà-la-môn đáng quý trọng kia sẽ thất vọng và buồn khổ biết bao nhiêu? Với giọng tha thiết, Thái tử bèn trình bày câu chuyện lại cho Kama nghe, rồi kết luận:
- Hãy cho ta trở về thực hiện lời hứa, và sau khi nghe thơ xong, ta trở lại đây chịu chết tức khắc.
Kama không tin là trên đời này có kẻ dám thủ tín với cái chết của mình nên y khăng khăng không thuận. Nhưng kìa! Xu-ta-ma đột nhiên đứng dậy, chỉ vào gươm mình và cất cao lời thề danh dự của người Kuru. Chưa ai đã không thể không tin vào lời thề thiêng liêng của người Kuru, kể cả kẻ đã mất hẳn nhân tính này, nên hắn đã chấp thuận cho Xu-ta-ma trở lại kinh đô để thực hiện lời hứa.
Kể sao cho xiết sự đón mừng của mọi người khi thấy Thái tử an toàn trở lại. Nhưng việc đầu tiên của ngài là đến gặp lão Bà-la-môn; và cũng để cho Kama khỏi phải chờ đợi lâu, Thái tử cho lập ngay một khoảng không gian yên tĩnh ở thượng lâu, ở đấy có cây cảnh và núi non u nhã, đốt một lò trầm hương, rồi chuẩn bị trai lòng đón nghe bốn câu thơ bất hủ. Mọi việc đã xong, lão Bà-la-môn gật đầu hài lòng. Chợt lão lim dim đôi mắt lại, trọn cả thân và tâm dường như đã thu liễm sẵn sàng. Tinh anh của vạn chân lý, của vạn vẻ đẹp sẽ được thoát ra từ óc não, trái tim của bậc vĩ nhân vô tiền khoáng hậu này.
Thế rồi... bốn câu thơ đã đọc xong!
Cả vũ trụ im lặng kỳ dị!
Không gian và thời gian không còn nữa!
Chỉ có hào quang, sự sáng, yên tĩnh, hòa bình và thanh khiết là tồn tại. Nó lại còn có một mãnh lực phi thường là kích động tâm can những đức tính cao đẹp nhất của con người. Nó xuất thế hóa, thanh cao hóa những tâm hồn bẩn chật, tối tăm và ô nhiễm. Thái tử hỷ lạc đến từng chân tơ kẻ tóc, tâm trí như lọt vào một thế giới rực rỡ hào quang cao vời ở đâu thuộc thượng tầng thanh khí. Từng lời, từng chữ, từng âm, Thái tử như uống cả vào lòng.
Lâu lắm. Lâu lắm. Thái tử thành khẩn nói:
- Một kiếp người, vạn kiếp người sẽ vô ích nếu không được nghe bốn câu thơ kỳ diệu kia. Này hỡi lão thi nhân siêu việt! Thầy hãy vui lòng cho ta được đáp tạ trong muôn một. Vì ta là kẻ đã nhận được quá nhiều. Quá nhiều.
Lão Bà-la-môn gật đầu, cười hào sảng:
- Được, lão có thể từ chối vật chất nhưng không có thể từ chối tấm lòng.
Thái tử sung sướng sai người mang ra mười viên bảo ngọc, một trăm tấm lụa trắng xứ Kāsi, hai triệu đồng tiền vàng. Tất cả đều được bỏ trên những chiếc mâm bằng pha lê trong suốt.
Lão Bà-la-môn thành kính thọ nhận tất cả. Nhưng sau đó lão chỉ bỏ vào túi một trăm đồng tiền vàng rồi nói:
- Phần lão chỉ bấy nhiêu là quá dư thừa cho một kiếp thi nhân phiêu bồng lãng đãng. Số còn lại xin Thái tử tùy nghi sử dụng vào những việc ích quốc lợi dân, những kẻ nghèo đói, khốn khổ và tật nguyền. Ôi! Ai là kẻ biết cho thì y luôn luôn là kẻ được nhận!
Lão Bà-la-môn khẽ nghiêng chào từ giã trước đôi mắt khâm phục của Thái tử. Thái tử Xu-ta-ma chép miệng:
- Bậc thiện trí thức đến với ta trong đời này dẫu không nhiều nhưng đã tác động đến ta thật mãnh liệt. Ôi! Dễ gì mà sống một kiếp làm người cho xứng đáng!
Lão Bà-la-môn vừa đi khỏi là Thái tử đến từ biệt vua cha và Hoàng hậu. Mặc dầu trước những giọt nước mắt máu mủ buộc ràng, cản ngăn, Thái tử cương quyết dứt áo ra đi và trở lại Sát Nhân Lâm một mình.
Xu-ta-ma về đúng hẹn làm cho Kama phải kinh ngạc. Sự coi thường cái chết của ngài làm cho hắn kinh ngạc hơn nữa. Kinh ngạc lẫn thán phục, Kama tự nghĩ:
- Trên đời này sao lại có chuyện kỳ quái đến như vậy? Bốn câu thơ kia không lẽ giá trị hơn những miếng thịt đùi của ta? Ôi! Những miếng thịt đùi béo ngậy, ngon ngọt, thơm lựng mới quý giá làm sao. Nó lại còn bổ dưỡng cơ thể, tăng sức khỏe, tăng tuổi thọ nữa chứ. Còn những lời thơ bất quá như gió thoảng ngoài tai! Sao thế gian lại có kẻ ngu si, điên rồ dám đánh đổi bốn câu thơ bằng tính mạng của mình? Vì nghĩ như vậy nên Kama chợt đâm ra tò mò. Hắn cũng có học thức nên muốn biết bốn câu thơ kia hay ho tuyệt diệu đến ngần nào. Bây giờ đến lượt hắn, hắn muốn nghe bốn câu thơ quái lạ. Hắn tỏ ý ấy với Thái tử. Nhưng Xu-ta-ma từ chối, ngài nói:
- Lời thơ hay không xứng đáng để lọt vào tai kẻ phàm phu tục tử; nhất là nhà ngươi, Kama ạ! Kẻ chỉ biết giá trị tôn quý trên đời này ngang bằng những miếng thịt đùi!
Kama chột dạ. Nhưng sự tò mò lại lớn mạnh hơn. Thế là hắn cố nén giận dữ để năn nỉ cho bằng được với những lời và cử chỉ từ tốn nhất, khiêm hạ nhất. Tuy thế, Thái tử Xu-ta-ma vẫn từ chối:
- Một bài thơ dẫu vỏín vẹn có bốn câu, nhưng lão thi nhân kia phải bỏ ra mười năm trường thai nghén trên núi cao. Một bài thơ mà ta còn coi trọng hơn cả tính mạng của mình; rồi sau khi nghe xong, ta lại còn năn nỉ người để hậu tạ bằng mười viên bảo châu, một trăm tấm lụa xứ Kāsi, hai triệu đồng tiền vàng bỏ trên những mâm bằng pha lê. Bài thơ như vậy mà có thể để cho ngươi - một con người đã biến thành thú tính, ăn và uống máu thịt đồng loại - nghe được sao hở Kama? Hãy biết rõ cái cuồng vọng và ngu si của chính mình. Ôi! Hãy chặt đầu ta và ăn gan ta, ăn tim ta đi thôi!
Kama lông tóc dựng đứng, khuôn mặt xanh lè đến ghê rợn, hắn gầm lên một tiếng to chấn động cả ngôi rừng. Nhưng quả là hắn đã có sự trấn tĩnh phi thường hay duyên lành đã hỗ trợ hắn, nên hắn đã phủ phục dưới chân Thái tử:
-Cho nghe! Cho nghe! Hỡi Thái tử Xu-ta-ma quý trọng! Kama này cũng dám đánh đổi mạng sống, hy sinh những miếng thịt đùi để nghe bốn câu thơ kỳ diệu kia cho kỳ được!
Tâm cơ máy động, Thái tử biết nhân duyên đã hội đủ, bèn nghiêm trang nói:
- Kama hỡi! Với lòng chí thành ấy, ta sẽ đọc cho ngươi nghe, nhưng ngươi phải chuẩn hứa với ta vài điều!
Kama giật đầu:
-Vài điều, trăm điều, vạn điều... cũng làm được tất cả nếu trong vòng khả năng của ta.
Rồi hắn chỉ vào gươm mình - bao giờ trên người hắn cũng rất nhiều vũ khí - rồi dõng dạc:
- Kama này cũng biết đến lời thề của người Kuru các ngươi!
Thái tử mỉm cười hài lòng, dẫn Kama đến một tảng đá cao. Ngài ngồi xếp bằng ở trên và bắt Kama quỳ ở dưới. Rồi với tất cả sự nồng nhiệt và bừng bừng từ trái tim, Thái tử đọc to lên; âm thanh bàng bạc như quyện khắp cả núi rừng, cây cỏ; tứ và lời sâu thẳm, bao la, bát ngát... tuôn ra...
Bài thơ có tác dụng kỳ diệu, nó khơi dậy các điều tinh khiết, thanh cao ngủ quên quá lâu xa trong tiềm thức của kẻ đã biến hẳn tính người. Nghe xong, Kama bất động như tượng đá. Hắn nghe tiếng gọi đâu đó từ xa xăm, đưa hắn trở về bầu trời quang đãng, bình yên mà hắn đã đánh mất. Hắn khóc. Những giọt nước mắt cứ tuôn ra, rồi rỏ xuống từ hai khóe mắt yên lặng.
Tiếng Thái tử Xu-ta-ma thoảng bên tai như lời gió thì thào nhắn nhủ:
- Kama! Người bạn hiền! Bây giờ tất cả đã đổi mới. Thay vì vài điều chuẩn hứa thì đây chỉ là vài điều ước nguyện cho bạn thôi.
Thứ nhất ta cầu nguyện cho bạn sức khỏe, hạnh phúc, trường thọ để cùng chín mươi chín vị Hoàng tử kia sống với nhau trong tình nghĩa đệ huynh!
Thứ hai, ta cầu nguyện cho bạn sớm từ bỏ cuộc sống này, trở về lên ngôi vương đế lấy chính pháp trị dân!
Ôi! Chỉ hai lời cầu nguyện mà hàm chứa tất cả. Vô lẽ Kama lại không thích người ta cầu nguyện cho mình? Và như vậy thì Kama phải thực hiện mấy điều ẩn tàng trong lời cầu nguyện: thả chín mươi chín vị Hoàng tử, từ bỏ cuộc đời man dã, sống đời hiền lương.
Kama tự nghĩ:
- Y chẳng xin cho y sống, không hận thù ta mà lại còn cầu nguyện sự hạnh phúc và trường thọ cho ta nữa? Ôi! Tâm hồn y cao cả dường ấy? Mọi điều có thể vì kính nể y mà ta làm được. Nhưng từ bỏ đời sống này! Nghĩa là vĩnh viễn không còn những đùi thịt người?
Trong tâm của Kama lúc bấy giờ đang xảy ra một cuộc tranh chấp dữ dội. Y chẳng thiết gì đến ngôi báu, điện ngọc, lầu vàng, mỹ nữ - chỉ để đánh đổi những bữa ăn thịt người khoái khẩu mà bây giờ đành phải đoạn tuyệt ư?
Một chiến trường khốc liệt cũng không dữ dội bằng sự đấu tranh thầm lặng này. Y đã mấy lần cắn răng, đã mấy lần nuốt nước miếng vào sâu trong cổ họng; đã mấy lần thay đổi sắc mặt từ đỏ, xanh sang trắng... Cuối cùng, y hét to lên một tiếng rồi búng người lên cao, rơi xuống... Y vùng đứng dậy:
- Ta đã thắng! Ta đã thắng! Nghĩa là lương tri đã thắng! Thái tử Xu-ta-ma ơi! Hãy cứu ta!
Nói xong, Kama nghiêng ngả dường như đứng không vững. Thái tử Xu-ta-ma bước xuống nắm tay Kama run run cảm động. Ngay khi ấy trời đất và vạn vật thảy đều rung chuyển vì sự thắng lợi huy hoàng của bốn câu thơ kỳ diệu, của Thái tử Xu-ta-ma; và nhất là sự trở về của một con người!
Cả hai yên lặng bên nhau rất lâu. Niềm cảm thông bao la đã làm mát rượi những cõi lòng và cả cây cỏ. Lát sau, chín mươi chín vị Hoàng tử đều được cởi trói. Kama hổ thẹn và ăn năn đến tội nghiệp.
Bây giờ việc khó khăn khác cần phải giải quyết: Làm sao đưa Kama trở về kinh thành Ba-la-nại? Niềm thù hận của những người mất chồng, con, cha đâu dễ phút giây mà xóa mờ được? Tội ác của tên đầu bếp, hắn đã nhận lấy cái hậu quả ở trong bụng của chủ nó rồi. Còn tất cả tội lỗi của Kama ở kinh thành cũng như sau này ở Sát Nhân Lâm thì ai sẽ gánh chịu? Có thể Kama sẽ chuộc lại một phần nào bằng tất cả việc lành sau này của mình, nếu văn võ bá quan cũng như trăm họ đồng ý như vậy, nhưng ai là người đảm bảo cho sự hoàn thiện của Kama? Giải quyết những khó khăn này người ta chỉ trông cậy vào Thái tử Xu-ta-ma, bậc đức hạnh mà uy tín của ngài đã vượt khỏi mọi biên giới.
Thái tử Xu-ta-ma cùng chín mươi chín vị Hoàng tử đưa Kama về thành. Trước triều đình và dân chúng, Thái tử trình bày câu chuyện và hết lời phân giải. Tin vào ngài, người ta bằng lòng tiếp đón Kama.
Ngày hôm sau, kinh thành mở hội. Trước bá quan văn võ, các hàng trưởng lão đại diện bách tính, Kama hứa cải ác tùng thiện, ra sức làm các công đức hữu ích đến mọi người để chuộc lại lỗi lầm xưa. Họ tin vào một điều: kẻ đại ác có thể trở thành bậc đại hiền nếu biết quy hướng trở về với đạo đức - nên họ bằng lòng suy cử Kama lên làm vua. Hôm ấy quốc độ mở tiệc ăn mừng rất lớn. Họ tin tưởng vào một kỷ nguyên mới an lạc và hạnh phúc sẽ phục hưng trên xứ sở họ.
Và quả thật như vậy, sau khi từ bỏ được máu tham thịt người, Kama không còn một đam mê nào khác, đức vua say sưa vì lợi ích của phần đông, lấy chánh pháp trị dân và giữ yên trăm họ.
Không ai không tri cảm ơn đức Thái tử Xu-ta-ma. Và bài thơ kỳ diệu kia được viết, khắc, chạm rồi sơn son thếp vàng, mạ kền, mạ bạc treo tại những nơi trang trọng nhất trong khắp quốc độ.
Sự an cư lạc nghiệp ở nơi này kéo dài được tám ngàn năm...
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:30:16 GMT -5
Đại triệu phú và chiếc bánh chiên
Người triệu phú chầu vua từ hoàng cung trở về, thấy người thôn dân đang ăn một loại bánh chiên bằng bột chua. Y thèm quá, định thò tay vào túi lấy ra một vài xu lẻ. Nhưng rồi y tự nghĩ: “Mua ăn như thế này thì hoang phí quá, hãy cố gắng nhịn đói cho đến nhà”.
Sự thèm muốn thúc bách làm cho bụng y đói cồn cào, nước dãi chảy ra; tuy thế, bước chân lên bục cửa, ý nghĩ khác lại nảy sinh: nếu ta nói ta muốn ăn bánh chiên thì có nhiều người cùng muốn ăn, sẽ tốn kém xiết bao về gạo, thục tô, đường..?
Thế là vị đại triệu phú không dám nói ra với ai. Y cố dằn ép sự thèm muốn, nhưng miếng bánh chiên trong chảo cứ hiện ra ám ảnh y. Vị đại triệu phú đi đi lại lại, sắc da mỗi lúc một vàng bệch, mạch máu nổi lên có vồng, tim đập liên hồi, mồ hôi tay rịn ra. Cuối cùng không chịu được, y bước vào phòng, nằm co ro trên giường. Miếng bánh chiên lại hiện ra, bây giờ lại nhảy múa với sắc vàng lóng lánh mỡ.
Vợ người triệu phú thấy chồng sắc da từ thẫm hồng sang vàng, từ vàng sang tái xanh, mồ hôi tươm ra từng giọt, nước dãi theo nhau nhểu thành dòng; bèn đến bên xoa lưng, quạt mát rồi ân cần hỏi:
- Đi đường xa nắng mệt, chắc ông bị cảm mạo rồi đây?
Đại triệu phú lắc đầu:
- Cảm mạo không làm gì nổi ta, bà biết đấy!
Người vợ cảm thấy yên tâm, hỏi tiếp:
- Thấy ông không được thoải mái. Hay đức vua đã nói một điều gì làm ông chẳng hài lòng?
- Không, không phải thế. Đức vua không có liên hệ gì ở đây!
Người vợ cứ chất vấn:
- Con trai, con gái có đứa nào ngỗ nghịch khó dạy đã làm ông phiền lòng hả?
- Chúng khó dạy thì đánh, thì mắng, thì đuổi cổ nó ra đường cho đỡ tốn cơm, tốn áo. Vị triệu phú cố nói một hơi - chúng là cái thá gì mà làm phiền tôi được?
- Nô tỳ, kẻ làm công, có ai không chu toàn công việc?
Đại triệu phú đã cảm thấy tưng tức:
- Chúng thì như là đôi dép cũ, chiếc áo rách, xài không được thì quẳng đi thôi!
- Vậy thì tôi chắc? Tôi đã có gì không phải với ông rồi?
- Không! Không phải thế - Vị triệu phú phân trần - Bà là một người biết lẽ xướng tùy phu phụ, chưa có khi nào, một điều gì mà tôi trách bà được.
Người vợ ngạc nhiên, nhăn mày suy nghĩ hồi lâu; chợt bà hỏi chỉ vừa đủ nghe:
- Hay ông có một sở thích, một ham muốn, một khát ái nào chưa thỏa mãn chăng?
Miếng bánh chiên trong chảo bằng bột chua lại hiện ra, nhảy múa như khiêu khích. Vị triệu phú nuốt một cái ực. Nhưng sợ tốn kém, ông vẫn im lặng.
Người vợ lại xoa lưng, quạt mát, giọng hờn trách:
- Vợ chồng là bạn đường dài vui khổ có nhau, tối lửa tắt đèn hộ trì nâng đỡ nhau. Là kẻ cùng nói cho nhau nghe những điều khó nói. Nay ông có chuyện kín trong lòng mà không chịu nói ra, thì ông đã coi tôi như kẻ xa lạ mất rồi!
Thấy vợ hờn mát, vị triệu phú chống tay ngồi dậy, cố gắng nuốt một hơi rồi nói như làn gió phất qua ngọn lá:
- Ta sẽ nói. Ta sẽ nói bà ạ! Nó như thế này: có một thèm muốn đang thúc bách ta. Ôi! Ta thèm làm sao một chiếc bánh chiên bằng bột chua mà người thôn dân kia ăn trên đường khi ta từ cung vua trở về.
Đại triệu phú kể chuyện lại. Người vợ “ồ” lên một tiếng, muốn cười mà không dám cười.
- Chỉ có thế mà không chịu nói. Ông là đại triệu phú tiền rừng bạc bể. Nay tôi sẽ làm loại bánh chiên ngọt kia, và dọn cho cả toàn thể mọi người trong thị trấn Sakkhàra cùng ăn nhé?
Đại triệu phú nhíu mày:
- Bà nói cái gì ghê gớm vậy? Cho cả thị trấn Sakkhàra? Chúng cần phải làm mới có ăn.
- Tôi sẽ dọn đầy đủ cho mọi người trong cùng một đường phố vậy. Người vợ nói.
Đại triệu phú bĩu môi, nói mỉa:
- Tài sản của bà còn hơn tài sản của một ông vua giàu sang nhỉ?
- Thế thì tôi sẽ làm cho mọi người trong nhà cùng ăn.
Đại triêu phú xua tay:
- Thôi. Thôi. Thế là hoang phí hết sức.
- Vậy thì ta hãy làm vừa đủ cho con cái nó ăn.
Đại triệu phú lại gắt:
- Sao bà lại đem chúng vào đây?
Người vợ đấu dịu:
- Thế thì cho tôi và ông cũng được.
- Sao bà lại có ở trong đó nữa?
Vợ triệu phú ngoan ngoãn gật đầu:
- Phải rồi. Tôi sẽ làm cho một mình ông ăn thôi.
Đại triệu phú mỉm cười hài lòng. Lại nhỏ giọng:
- Nhưng mà bà này, làm ở tại đây không được đâu. Những ông Sa-môn, đạo sĩ, con cái, nô tỳ, người làm công dòm ngó. Chúng sẽ chờ đợi để xin ăn. Ta sẽ làm nơi kín đáo.
Người vợ gật đầu bước đi, triệu phú còn kêu lại dặn dò:
- Bà hãy đến nơi chỗ gạo thừa, để ra những hạt nguyên, chỉ lấy những hạt gạo vụn rồi đem xay. Xong rồi đừng khua động, lấy lò và chảo, một ít sữa, thục tô, đường cục.. nhớ là thứ đường để dành cho ngựa ăn - rồi chúng ta sẽ cùng lên tầng lầu thứ bảy, chiên tại đấy. Chiên xong, thế là hết phần việc của bà. Hãy để phần việc còn lại cho ta!
Người vợ làm y lời.
Đại triệu phú bước lên tầng lầu thứ nhất khóa cửa bằng chốt sắt kiên cố; leo lên lầu hai, khóa cửa bằng chốt sắt kiên cố. Bảy tầng lầu đều khóa bảy lớp như thế.
Người vợ đốt lửa trong lò, đặt chảo lên. Với đầy đủ bột, sữa, thục tô, đường, mật.. bắt đầu làm bánh chiên...
Bậc Đạo Sư vào buổi sáng, với thiên nhãn siêu nhân thuần tịnh, thấy rõ tất cả mọi việc xảy ra ở gia đình vị triệu phú, bảo trưởng lão Mục Kiền Liên:
- Cách Vương Xá thành khoảng vài do tuần về phía bắc, có thị trấn Sakkhàra - này đại Mục Kiền Liên! Ở đấy có người triệu phú hà tiện. Y thèm muốn một chiếc bánh bằng bột chua. Sợ tốn kém, sợ hao hụt tài sản, sợ người khác cùng ăn nên bảo vợ chiên bánh nơi tầng lầu thứ bảy, lối lên bằng bảy lần cửa khóa kiên cố. Này Đại Mục Kiền Liên, ngươi hãy đến đó, nhiếp phục và hóa độ người triệu phú ấy. Rồi dùng thần lực đem cả hai vợ chồng cùng với tất cả bánh, sữa, thục tô, mật, đường cục... về đây. Hôm nay, Như Lai cùng đại chúng tỷ-kheo năm trăm vị, ngồi tại Kỳ Viên, sẽ ngọ trai bằng những chiếc bánh chiên ngọt ấy.
Cúi đầu đảnh lễ đức Đạo sư, Đại Mục Kiền Liên vận thần thông lực, trong nháy mắt đã đến Sakkhàra. Trước cửa sổ căn lầu thứ bảy của triệu phú hà tiện, ngài Mục Kiền Liên hiện ra sừng sững giữa hư không, với đại y trang nghiêm như một bức tượng vàng chói lọi.
Vị đại triệu phú giật thót mình, quả tim xúc động mạnh, mồ hôi rỏ long tong, tự nghĩ: Ta sợ như vậy nên đã lánh lên đến đây. Nhưng y cũng theo ta, đòi xin những chiếc bánh chiên - Y nói:
- Này ông Sa-môn có thần thông! Đứng giữa hư không như vậy có được gì đâu? Dẫu cho ông có đi kinh hành qua lại, ông cũng không được gì.
Ngài Mục Kiền Liên thay đổi oai nghi, vạch một đường bằng bạch ngọc giữa không gian rồi đi kinh hành qua lại.
- Đi kinh hành như vậy mà làm gì, vô ích thôi - đại triệu phú lắc đầu nói - dẫu ông có ngồi kiết già như Phạm Thiên, ông cũng không được gì.
Đường bạch ngọc lóe lên rồi tắt, ngài Mục Kiền Liên an nhiên ngồi kiết già, quanh thân tỏa hào quang như mảnh trăng rằm chiếu sáng dịu dàng.
Vị triệu phú đã thấy ớn trong người nhưng vẫn nói cứng:
- Kiết già giữa hư không kia ư? Cũng vậy thôi! Dẫu ông có đứng lọt trong cái lỗ thông hơi, ông cũng không được gì.
Bức tượng kiết già châu báu giữa hư không biến mất, trên thành lỗ thông hơi nhỏ bằng con chim có thể bay lọt, Đại Mục Kiền Liên ôm bát đứng uy nghi, trong lúc lỗ hổng kia không lớn ra mà ngài Mục Kiền Liên cũng không nhỏ lại.
Vị triệu phú đã sợ hãi, giọng nói đã mất bình tĩnh:
- Tài... đấy! Giỏi.. giỏi... đấy! Ông Sa-môn à, nhưng nếu ông có phun khói, ông cũng không được gì!
Câu nói vừa dứt, khói từ lỗ hổng tràn vào cuồn cuộn. Lát sau, cả tòa lâu đài như ngập trong biển khói...
Đôi mắt vị đại triệu phú cay xè, buốt đau, nước mắt, nước mũi tuôn ra; y không còn dám nói: dẫu cho có đốt lửa, ông cũng không được gì! Tự nghĩ: không có gì mà ông Sa-môn này làm không được, dẫu bắt mặt trời bỏ trong lòng bàn tay. Ông ta quả thật là gan lỳ. Nếu không cho thì hắn sẽ không bao giờ đi!
Đợi cho khói tan loãng, ông quay qua bảo vợ:
- Này bà, hãy chiên cho ông Sa-môn gan lỳ kia một cái bánh nhỏ, thật nhỏ, rồi tống y đi.
Người vợ lấy một tí bột bỏ vào chảo. Chiếc bánh chợt phồng lên làm đầy miêng chảo. Vị triệu phú nghĩ rằng vợ mình đã bỏ nhiều bột, tức giận nhìn vợ rồi khẽ nhấc đầu chiếc muỗng, khoắng một tí bột. Lạ lùng thay, bánh lại phồng lên, to gấp đôi chiếc bánh trước.
Vị triệu phú hừ một tiếng, cho bột dính một xíu ở đầu chiếc que, búng vào trong chảo. Lạ chưa? Chiếc bánh uốn mình lên, nhúc nhích phồng ra mãi, to gấp ba lần chiếc bánh thứ nhất. Lộn ruột, sôi gan, vị triệu phú kêu ùng ục trong cổ họng, hằn học làm chiếc bánh khác. Cho đến khi bột chỉ còn bằng hạt mè, bằng một tí bụi có thể dính được trên đầu ngọn cỏ... thế mà chiếc bánh vẫn cứ ngang ngạnh phình ra, to lớn hơn mãi.
Thoát hạn dầm dề, vị triệu phú quay lại rơi phịch trên ghế, nản chí:
- Này thôi bà ơi! Lấy cho y một cái. Cái nào đó cũng được.
Rồi đại triệu phú than dài:
- Ôi! Cái ông Sa-môn thi gan với ta mà chiếc bánh cũng muốn thi gan với ta nữa!
Vợ đại triệu phú lấy một chiếc bánh từ giỏ. Kỳ lạ chưa! Tất cả bánh đã dính liền với nhau. Bà đã cố tách ra, nhưng không được. Vị đại triệu phú thấy vậy bước tới. Cả hai người cùng dùng hết sức lực kéo bánh. Nhưng vô ích, bánh đã dính làm một!
Mồ hôi toát ra ướt dầm cả áo. Bao nhiêu thèm muốn biến mất, vị triệu phú thở hổn hển, giọng lạc hẳn đi:
- Ta không còn muốn ăn nữa. Này bà, hãy thí hết, hãy thí tất cả bánh trong giỏ cho y! Ôi! Cái lũ bánh trời đánh!
Người vợ làm theo, đem cả giỏ bánh bố thí. Đại trưởng lão sau khi thọ nhận, rải tâm từ bi như chiếc bánh lớn hơn bao trùm cả không gian to rộng khiến cho tâm tư hai vợ chồng triệu phú lắng dịu, mát mẻ, khinh an. Rồi cất giọng Phạm Thiên, ngài thuyết một thời pháp nói về công đức ba ngôi báu, kết quả rạng ngời như nhật nguyêt của sự bố thí... Do túc duyên nhiều đời kiếp, vị triệu phú nghe xong, khởi tâm tịnh tín:
- Thưa tôn giả, ngài hãy đến đây, ngồi trên chiếc gường bằng bạc này mà độ thực.
Đại Mục Kiền Liên nói:
- Này đại triệu phú, ta chưa thể ăn. Hiện giờ đây, Đức Chánh Đẳng Giác với đại chúng năm trăm vị tỳ khưu đang ngồi tại tịnh xá. Triệu phú và vợ có thể hoan hỷ không, khi tự mình với bánh, bột, sữa, thục tô, đường, mật... đi đến bên chân đạo sư?
Vị triệu phú nghiêng mình cung kính:
- Thưa tôn giả, bậc đại thần thông, Đức Tôn Sư hiện giờ ở đâu?
- Tại Kỳ Viên tịnh xá, cách đây bốn trăm do tuần (1 do tuần bằng 16 km)
- Ôi, xa quá là xa. Thưa tôn giả, làm sao chúng ta đi đến đó mà không mất nhiều thì giờ?
Đại Mục Kiền Liên mỉm cười như sự hé nụ của đóa hoa vô ưu:
- Nếu các ngươi hoan hỷ, thì từ đây đến đó chỉ trong thời gian mấy cái bước chân mà thôi.
Vị triệu phú và vợ ngơ ngác.
- Với oai lực thần thông - Đại Mục Kiền Liên nói - Ta sẽ làm cho đầu cầu thang vẫn nằm ở đây nhưng chân thang sẽ ở Kỳ Viên!
Triệu phú và vợ hoan hỷ bằng lòng.
Ngạc nhiên xiết bao, khi họ vừa bước chân xuống cầu thang thì cửa tịnh xá đã ở ngay trước mắt.
Đức Thế Tôn, tại trai đường lúc ấy đang ngồi trên bửu tọa với đại chúng đoanh vây. Đại triệu phú cung kính đến đổ nước rửa tay cho Đức Phật và Tăng Chúng rồi cúng dường tất cả bánh, sữa, thục tô, bột, đường cục...
Khi Đức Thế Tôn và năm trăm vị tỳ khưu dùng xong, triệu phú và vợ ăn cho đến thỏa thích nhưng bánh cũng không hết. Mấy trăm kẻ tàn thực ăn cho đến căng da bụng nhưng bánh vẫn còn thừa. Thấy chuyện kỳ lạ, một số vị tỳ khưu đến tâu với Đức Thế Tôn, ngài dạy:
- Bánh kia là bánh của công đức. Ai không có nhân duyên với công đức này, không thể nào dùng chúng. Vậy này hỡi các tỳ khưu, số bánh còn lại sẽ đổ xuống nơi cái hố hay một cái hang. (Nay bên cạnh cửa lớn chùa Kỳ Viên còn dấu tích cái hang, tên gọi là “Cái hang bánh chiên trong chảo”)
Đức Thế Tôn dạy thế xong, nói lời tùy hỷ với vợ chồng triệu phú. Cuối lời tùy hỷ, cả hai vợ chồng đều chứng quả dự lưu.
Từ đấy về sau, hai vợ chồng đại triệu phú tinh tấn trong giáo pháp này, như chiếc thuyền nhẹ qua bờ, và an trú vững chắc vào đích đến, họ cúng dường đến Tam Bảo những tám ức tài sản.
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:31:13 GMT -5
Dũng sĩ ngàn vàng
Triều đình đức vua xứ Bá-nhĩ-nam trang hoàng lộng lẫy đẹp đẽ như thiên cung. Hôm nay, đức vua thết đãi các trang dũng sĩ chiến thắng vô địch từ bốn phương tại triều nội.
Giữa buổi tiệc, chợt một trang dũng sĩ to lớn hiên ngang từ cổng chính đi vào. Quân hộ vệ ùa ra chận lại.
Nhà vua nghe tả hữu báo cáo:
- Mười người không chận y lại được!
Vua cả kinh thất sắc.
Lại nghe báo cáo:
- Năm mươi quân cận vệ cũng không chận y lại được!
Vua sửng sốt đứng bật dậy:
- Sao vậy? Các trang dũng sĩ của ta đâu?
Những tiếng rầm rập đồng thanh vang lên. Một ngàn trang dũng sĩ gươm đao nai nịt sáng lòa cùng đứng lên một lượt, khí thế bốc cao chín tầng mây xanh, thần oai lẫm lẫm.
Vua vuốt chòm râu bạc nhìn quanh, vừa dạ, khẽ gật đầu:
-Tốt lắm! Chư khanh hãy bình thân!
Đức vua xứ Bá-nhĩ-nam phất tay rồng rồi mỉm cười nói:
- Chừng này trang dũng sĩ thiên hạ chẳng lẽ lại không hộ vệ được trẫm sao? Vậy thì cứ để cho tên kia vào đây!
Không cần đợi lâu, trang dũng sĩ lạ mặt kia đã hiên ngang đứng trước mặt rồng.
Vua phán hỏi:
- Tên kia! Ngươi là ai? Từ đâu đến?
Dũng sĩ lạ mặt nghiêng thân đáp:
- Tâu đại vương! Hạ thần là dũng sĩ vô địch rừng xanh!
- Ngươi làm nghề gì? Vua phán hỏi tiếp.
- Hạ thần trước đây làm nghề bắt voi, đuổi sư tử, bắn chim đại bàng ...Bây giờ thì đã giải nghệ.
Vua chăm chú nhìn dũng sĩ lạ mặt, da ngăm màu đồng trụ, người cao hơn trượng, bèn hỏi:
- Vậy thì tài nghệ như thế nào?
Dũng sĩ lạ mặt ngẩng cao đầu đáp:
-Muôn tâu! Bàn tay của hạ thần đấm vỡ một lúc mấy tảng đá chồng lên nhau. Mũi tên của hạ thần xuyên thủng qua một quả núi nhỏ...
Cả triều thần và một ngàn dũng sĩ thiên hạ cất tiếng cười ồ ra vẻ chê nhạo. Dũng sĩ lạ mặt vẫn đứng nghiêm trang, khuôn mặt không hề đổi sắc.
Đức vua ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Ngươi còn có tài về môn gì nữa?
Giọng dũng sĩ lạ mặt cất lên trầm vang như chuông ngân:
- Muôn tâu! Hạ thần có thể nhảy lên hư không, thò tay bắt gọn lỏn một con chim đang bay! Có thể nhón chân túm con tuấn mã đang phi nước đại. Sông rộng mười trượng, hạ thần bơi qua chưa quá ba sải tay...
Đến đây dũng sĩ lạ mặt lại mỉm cười tiếp:
- Hiện giờ thì hạ thần có học thêm hạnh bố thí, đức kiên nhẫn, chí hy sinh, lòng từ bi và cả sự trung thành nữa!
Đức Vua xứ Bá-nhĩ-nam nhìn ngắm dũng sĩ lạ mặt, nghi ngờ khôn xiết. Một hồi, bèn hỏi:
- Ngươi đến đây có việc gì?
Dũng sĩ lạ mặt nghiêng mình khiêm tốn:
- Muôn tâu, chỉ xin một chân hộ vệ!
Vua xứ Bá-nhĩ-nam cười ha hả:
- Được lắm. Vậy thì trẫm trả cho ngươi một trăm lượng bạc nhé?
Dũng sĩ lạ mặt lắc đầu:
- Quá ít, tâu đại vương!
- Một ngàn lượng bạc nhé?
- Quá ít, tâu đại vương!
Vua lại lên giá nữa:
- Mười lượng vàng nhé!
Mọi người đồng la lên xiết bao kinh ngạc. Mười lượng vàng cho một chân hậu vệ tầm thường quả là thù lao quá hậu hĩ.
Ngờ đâu, dũng sĩ lạ mặt cũng lắc đầu:
- Vẫn ít quá, tâu đại vương!
Đức vua cười to lên:
- Vậy thì ngươi định giá bao nhiêu?
Dũng sĩ lạ mặt chợt cao giọng:
- Mười lượng vàng chỉ xứng đáng công lao của một dũng sĩ bậc trung. Một trăm lượng vàng chỉ mới xứng đáng công lao của một dũng sĩ bậc thượng. Còn đối với hạ thần... thì... một ngàn lượng vàng không thừa, không thiếu!
Vua vỗ bàn, đứng bật dậy:
- Vậy ngươi là dũng sĩ bậc gì?
- Là dũng sĩ vô địch! Muôn tâu!
Cả triều nội chợt im phăng phắc, một con ruồi bay qua cũng nghe được âm thanh. Một ngàn trang dũng sĩ đang dự yến khinh thị nhìn người lạ mặt. Một ngàn lượng vàng cho một chân hộ vệ, trong lúc số vàng ấy có thể làm chi phí cho một muôn binh mã! Như thế y có xấc xược? Có tự đánh giá mình quá cao? Có bất kính và phạm thượng chăng?
Một trang dũng sĩ to lớn uy nghi từ buổi tiệc đứng dậy báo danh, như cố ý thách thức dũng sĩ lạ mặt:
- Đức thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế! Hạ thần là dũng sĩ vô địch phương bắc!
Cùng lúc ấy, như ‘’đồng thanh tương ứng’’, tại ba hướng khác nhau, có những giọng sang sảng nổi lên:
- Muôn tâu! Hạ thần là dũng sĩ vô địch phương đông.
- Muôn tâu bệ hạ! Ngu thần là dũng sĩ vô địch phương tây.
- Tâu hoàng thượng! Kẻ bầy tôi là dũng sĩ vô địch phương nam.
Đức Vua Bá-nhĩ-nam hài lòng nhìn bốn trang dũng sĩ bốn phương, nhỏ giọng hỏi:
- Này chư khanh thân yêu của trẫm! Các khanh có ước nguyện gì?
Cả bốn dũng sĩ đồng thanh đáp:
- Muôn tâu! Muốn thử tài với dũng sĩ vô địch rừng xanh! Kẻ tự xưng giá của mình là Thiên Kim dũng sĩ (Dũng sĩ ngàn vàng).
Đức Vua xứ Bá-nhĩ-nam phất tay rồng chuẩn lời.
Thiên Kim dũng sĩ nói:
- Chẳng cần thế! Tâu đại vương!
Đức vua cười ha hả:
- Ngươi sợ bốn tay đại dũng sĩ của trẫm rồi sao?
Thiên Kim dũng sĩ ngang nhiên đáp:
- Muôn tâu! Sự sợ hãi không bao giờ có trong tâm một dũng sĩ vô địch, dẫu chỉ là thoáng qua. Chẳng cần thế! Nghĩa là chẳng cần bốn vị, mà hãy cùng ra đây một lúc cả ngàn trang dũng sĩ của đức vua. Nếu hạ thần muốn, thì dẫu có sự tấn công các phía của hàng ngàn đao kích cùng ám tiễn, hạ thần vẫn không thối lui nửa bước!
Sau đó cuộc đấu đã xảy ra.
Thiên Kim dũng sĩ đưa cánh tay lên là mấy chục thanh đại đao rơi đổ loảng xoảng. Thiên Kim dũng sĩ huơ tay một cái là nắm trọn mấy trăm mũi tên từ bốn phía bắn ra đồng loạt. Thiên Kim dũng sĩ hét lên một tiếng là cả ngàn người bất tỉnh và mấy tòa cung điện ngói gạch thi nhau rơi đổ. Thiên Kim dũng sĩ dậm chân một cái là mặt đất rung rinh chuyển động như địa chấn!
Một ngàn trang dũng sĩ vất đao, cởi giáp quỳ xuống xin hàng phục.
Mấy ngàn quan quân tại triều nội quăng cả gươm giáo, mũ nón lên trời tung hô rần rần như sấm dội:
- Dũng sĩ vô địch hoan hô! Hoan hô dũng sĩ vô địch!
- Thiên Kim dũng sĩ! Hoan hô!
Đức vua xứ Bá-nhĩ-nam hồ hởi, đẹp dạ, sai chuẩn bị một ngàn lượng vàng rồi cho Thiên Kim dũng sĩ làm chân hộ vệ thân tín đứng canh gác tại tẩm cung (phòng ngủ).
Từ đây đức vua cảm thấy mình được an toàn không còn sợ bất cứ một nguy hiểm nào từ bên ngoài giữa đêm hôm khuya khoắt...
Thời gian trải qua đã lâu, đức vua vì công việc không còn nhớ đến Thiên Kim dũng sĩ nữa.
Đêm kia trời mưa gió bão bùng, lạnh đến đóng băng, đức vua không ngủ được, đi tới đi lui trong tẩm phòng. Qua màn kính lờ mờ, đức vua nhìn loáng thoáng thấy một người đứng bất động uy nghi như tượng đồng, giáo chống thẳng nơi bức tường phía nam. Đến canh hai trời trở rét hơn, đức vua thức dậy nhìn ra bên ngoài, người kia giáo vẫn chống thẳng chẳng đổi oai nghi. Rồi canh ba, rồi đến khi trời sáng, khi tất cả lính hộ vệ trong cung đã lục tục trở dậy, thay phiên chống giáo đứng gác đầy đặc khắp các nơi, người kia mới trở mình, cúi đầu hướng đức vua tung hô vạn tuế; rồi cắp giáo, nhảy ra bức tường phía đông đi mất.
Hôm sau, những hôm sau nữa. Cứ khi đêm vừa buông xuống là có mặt người ấy, dẫu khí trời băng giá thế nào, y vẫn một mực giữ một oai nghi đứng canh đầu đêm cho đến sáng. Đức vua hỏi vọng xuống:
- Tên kia! Ngươi có bổn phận gì mà dám đứng gác cung điện của ta?
- Muôn tâu! Hạ thần là Dũng Sĩ vô địch của đại vương, được đại vương ban cho là Thiên Kim dũng sĩ. Suốt bao nhiêu năm nay hạ thần đã chu toàn nhiệm vụ không dám xao lãng.
Ngay khi ấy, đức vua nghe một tiếng nói từ rừng sâu vọng lại:
- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi có dám ra đây không?
Vua ngạc nhiên hỏi rằng:
- Ngươi có nghe tiếng nói ấy chứ? Của ai vậy?
- Muôn tâu! Đã lâu lắm rồi, cứ vào quãng cuối canh hai là hạ thần đều nghe rõ tiếng nói ấy, nhưng vì hạ thần bổn phận phải canh gác nghiêm ngặt nên chẳng dám rời chân. Nếu đại vương hạ lệnh, hạ thần tức khắc bắt hắn đem về đây ngay.
- Hãy đi! Đức vua phán - Và hãy tìm cho ra lý do rồi về tâu lại cho trẫm hay.
Thiên Kim dũng sĩ lập tức cắp giáo nhảy ra khỏi tường, lao đi vun vút như vệt khói.
Chẳng kể lạnh lẽo, nhà vua hóa trang che kín mặt rồi tức tốc ra khỏi cổng thành, hướng theo bóng người dũng sĩ.
Đến góc rừng, nhà vua thấy tên dũng sĩ đang đứng chống giáo, và nơi gốc cây là một con quỷ La Sát nhe nanh nhọn hoắt. Thiên Kim dũng sĩ trầm giọng nói:
- Thưa ngài! Đã bao lâu nay, cứ đêm đêm là ngài cất tiếng gọi tên ta, chẳng hay có việc gì vậy!
Quỷ La Sát chợt vươn người cao ba trượng, cất giọng như sấm sét:
- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi canh gác cho đức vua đến khi nào thì mãn nhiệm kỳ!
- Đời đời, mãn kiếp - Dũng sĩ đáp - Nếu đức vua nhân đức còn tín nhiệm ta.
Quỷ La Sát chợt cất giọng than dài:
- Chao ôi! Vậy là mối huyết hải thâm cừu của ta làm sao trả được?
- Ngài có mối thù với đức vua ư? Dũng sĩ hỏi.
- Phải - Quỷ La Sát nói - Một mối thù truyền kiếp. Đức vua đã từng giết ta, vợ ta và con ta, đã từng làm cho ta tán gia bại sản, lênh đênh cơ khổ. Đã mấy kiếp rồi, khi làm ma, khi làm quỷ, ta thường đi theo y hầu tìm cơ hội báo cừu. Nhưng trước đây, trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ y có tu nhơn tích đức, xung quanh bao giờ cũng có thiên thần bảo trợ, cho nên ta đành ôm mối hận mà thôi. Mấy năm nay, y xâm lăng các nước, giết người vô số nên đức xưa giờ đã tổn giảm, các thiên thần lần lượt bỏ đi. Nhân cơ hội này ta tìm đến...
Nghiệp của ta chỉ xuất hiện ban đêm. Nhưng hỡi ôi! Hằng đêm... hằng đêm... đêm nào cũng như đêm nấy... mấy trăm đêm... mấy ngàn đêm, ngươi canh gác nghiêm ngặt quá, chẳng có hình bóng nào lọt ra khỏi đôi mắt “cú vọ” của ngươi, suốt trong cả mấy dãy nội thành. Hơn nữa, ngươi là một trang dũng sĩ vô địch, dẫu có tài thiên biến vạn hóa ta cũng không đánh thắng nổi ngươi thì biết làm thế nào?
Nói đến ngang đây, quỷ La Sát đôi hàng nước mắt tuôn rơi lả chả:
- Đành nuốt hận mà thôi sao? Đành nuốt hận mà thôi sao?
Quỷ La Sát hét lên một tiếng xé trời, phun lửa tung tóe:
- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi không phải là mình đồng da sắt, thế tất có lúc ngươi bệnh, ngươi đau chứ? Chắc cũng có khi canh gác mà ngươi lơ là một vài chớp mắt chứ?
Dũng sĩ gật đầu:
- Chắc cũng có lúc như vậy!
Quỷ La Sát cười hô hố:
- Vậy thì những khi ấy... những khi ấy, ta sẽ lao vào như luồng gió, rồi uống máu, an gan, ăn tim và cắt đầu nhà vua.
Nói xong, khoái chí, quỷ La Sát tung bổng lên cao, lao đi. Nhưng một chiếc bóng nháng lên, dũng sĩ đã chận lại:
- Oán thù nên giải không nên kết. Ngài có thể nào bỏ qua mối thù hận ấy không?
- Chẳng thể - Quỷ La Sát hét to - chẳng thể quên được mối thù sâu tựa bể này!
Quỷ như giận dỗi, căm hờn:
- Thiên Kim dũng sĩ! Nếu có kẻ giết vợ con ngươi thì ngươi có tha thứ cho y được không?
Dũng sĩ gật đầu mạnh mẽ:
- Tha thứ được!
Quỷ La Sát gầm to rồi cất tiếng cười rùng rợn:
- Vậy thì hãy đi! Này Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi hãy đem vợ và con ngươi đến đây cho ta ăn thịt, thì ta sẽ giải hóa mối thù với đức vua.
Dũng sĩ đáp:
- Được lắm! Ta đi ngay! Ta tin lời hứa của ngài.
Nói xong, Thiên Kim dũng sĩ về nhà - mà không biết đức vua cũng đang hối hả theo sau - chàng đánh thức vợ con dậy:
- Này vợ hiền yêu quý! Này con trai thân thương! Vị thánh thượng nhân đức của chúng ta có thể nguy hiểm tính mạng bất cứ lúc nào. Nhưng nếu nàng và con đồng ý hiến dâng tính mạng cho quỷ La Sát ăn thịt, thì sẽ giúp thánh thượng giải tan được mối hiểm họa chết người.
Người vợ hiền cùng chàng trai phúc hậu bèn đáp:
- Phải rồi! Đức vua là vị vua nhân đức. Ngài còn sống ngày nào thì muôn dân được sống an vui hạnh phúc ngày ấy. Ngài mất đi, lỡ kẻ kế vị tàn ác, bất nhơn, thì bao người sẽ điêu linh, đồ thán. Hy sinh vài sinh mạng bé nhỏ như vợ, như con vì hạnh phúc cho muôn dân thì nên làm lắm chứ!
Dũng sĩ gạt nước mắt dẫn vợ và con đến bên chân quỷ La Sát, nói:
- Đây là người vợ hiền đôn hậu và đây là người con trai hiếu thảo của ta. Ngài hãy ăn thịt đi, rồi giữ lời hứa hóa giải mối oán thù với đức vua. Cầu nguyện cho tuổi thọ của đức vua trường tồn. Cầu nguyện cho muôn dân được thái bình an lạc. Cầu nguyện cho ngài được hạnh phúc lâu dài về sau.
Quỷ La Sát nghe trái tim mình rung động mạnh. Đã lâu quá rồi chưa bao giờ trái tim quỷ lại rung động như vậy. Quỷ đưa mắt chăm chú nhìn chàng trai nhân đức, tuấn tú, lại đưa mắt nhìn người đàn bà mỹ miều, đức hạnh... Rất lâu. Rất lâu. Chợt y quát to một tiếng, bắn mình lên cao, thò những móng vuốt nhọn hoắt như gươm, nghiêng đầu chộp xuống thật nhanh như luồng sao xẹt...
Dũng sĩ đứng im bất động.
Nhà vua đứng sau gốc cây bưng mặt lại. Một tiếng động kinh khủng nổi lên. Cát đá bay rào rào. Người đàn bà và chàng trai vẫn bình yên vô sự. Trong lúc đó, mười ngón tay của quỷ La Sát đâm ngập xuống đất thành mười cái hố sâu. Quỷ La Sát thở hào hển, rút tay lên, khóc rống rồi quỳ xuống bên chân dũng sĩ:
- Này người dũng sĩ cao cả! Ngươi đã cảm hóa được ta. Cầu nguyện cho ngươi được hạnh phúc!
Quỷ La Sát đứng dậy, thò tay nhấc mấy gốc cổ thụ quăng lên giữa hư không.
- Ta mà còn thù oán với ai, thì đời đời, vĩnh kiếp sẽ như gốc cây này!
Nói xong, quỷ băng băng phóng vào rừng sâu, để lại giữa hư không tràng cười ghê rợn.
Đức vua thấy tận mắt tất cả mọi việc, vội vã về cung, bước lên lâu phòng đứng tựa cửa sổ như không có chuyện gì xảy ra.
Người dũng sĩ đưa vợ con về nhà, trở lại cung điện cúi mình chào vua và tung hô vạn tuế.
Vua hỏi:
- Ngươi đã về rồi ư? Vậy thì đấy là tiếng nói của ai? Hãy kể lại tỉ mỉ cho trẫm nghe.
Thiên Kim dũng sĩ cung kính đáp:
- Muôn tâu! Đấy là một âm oán cũ đến đòi nợ, nhờ ân đức của hoàng thượng, thù xưa đã hóa giải xong. Và giờ y đã đi xa rồi.
“Y trả lời thật là thông minh và khôn khéo” - Nhà vua tự nghĩ; rồi bất chợt lạnh toát cả người: “Y, vợ y, con y đã làm một việc cao cả trong bóng tối, thi ân cho ta, bố đức cho thiên hạ, lại bảo nhờ ơn đức của ta! Vậy ta phải biết làm người nhân đức”.
Xúc động quá, nhà vua bèn nói:
- Hỡi người dũng sĩ ngàn vàng! Hãy nghe lời trẫm đây! Khi ngươi vừa đi khỏi, ta theo sau bén gót. Và ta đã thấy rõ mọi hành động cao cả của ngươi và vợ con ngươi. Đạo đức, trí và tài ấy mà một ngàn lượng vàng để trả công lao thì đâu có đủ được? Ngươi phải là kẻ đứng đầu muôn dân bách tính mới xứng đáng cho.
Thiên Kim dũng sĩ vẫn cúi đầu nghiêm cẩn.
Như nhớ lại chuyện gì, vua lại hỏi:
- Thiên Kim dũng sĩ! Trẫm hơi tò mò. Trẫm đã thấy rõ ngươi sống trong một gia đình nghèo nàn. Một ngàn lượng vàng đâu có phải là nhỏ. Vậy ngươi chi phí vào việc gì?
Thiên Kim dũng sĩ đáp:
- Muôn tâu! Đại vương đã hỏi thì hạ thần xin thưa: hạ thần không hề dùng vào việc gia đình những thù lao nhân đức của hoàng thượng.
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao thế? Vậy ngươi chi dùng vào việc gì?
- Muôn tâu! Thù lao nhân đức thì chi dùng vào việc nhân đức.
- Trẫm không hiểu!
- Muôn tâu! Năm trăm lượng để cúng dường cho thập phương Sa-môn, đạo sĩ; hai trăm lượng cho kẻ nghèo đói khắp kinh thành; ba trăm lượng để thuốc men vải vóc cho các cơ sở từ thiện.
Đức vua Bá-nhĩ-nam nghe thân mình nổi gai ốc, giây lâu bèn hỏi:
- Vậy thì sự sống của gia đình ngươi, ngươi phải làm sao?
- Muôn tâu! Bằng mồ hôi, sức lực và bằng nghề nghiệp chơn chánh của vợ và con của hạ thần.
Đức vua hỷ lạc dâng lên đầy khắp cả người. Suốt đêm, đức vua nằm ngủ ngon lành rồi ngợp chìm trong một giấc mộng rực rỡ huy hoàng.
Sáng ngày, đức vua cho họp triều thần, kể lại tất cả câu chuyện về chàng dũng sĩ rồi tuyên bố:
- Nãy hỡi các quan đại thần cùng chư khanh mến yêu! Trẫm muốn báo một tin mừng. Hôm nay trẫm sẽ truyền ngôi cho người dũng sĩ vô địch có tâm hồn cao cả này, để tỏ lòng kỉnh mộ và tri ân.
Nói thế xong, đức vua quay qua Thiên Kim dũng sĩ:
- Này khanh yêu quý! Đây là lầu ngọc! Đây là ngai vàng! Đây là các quan đại thần chính trực liêm khiết! Kia là cung phi mỹ nữ hai muôn người đẹp đẽ, đôn hậu! Nọ là giang sơn gấm vóc cùng mấy muôn triệu lương dân ruột thịt mến yêu. Tất cả đó bây giờ là của khanh. Khanh hãy làm cho chúng quang vinh hơn. Khanh hãy làm cho muôn phương đều được tấn hóa trên con đường đạo đức.
Những tiếng vỗ tay và những lời hoan hô reo mừng từ bốn phương như từng đợt hải triều âm rì rào bất tận lan xa đến mấy do tuần.
Thế là, một triều đại chánh pháp huy hoàng như mảnh trăng dịu dàng vừa xuất hiện ở chân trời...
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:32:54 GMT -5
Truyện đức Vê-xanh-ta Đức Vê-xanh-ta do sự thỉnh mời của trời Đế Thích nên từ cung trời Tu-si-ta giáng sanh vào kinh đô Kế-tư-đà làm con của đức vua Thệ Sanh và hoàng hậu Trầm Hương. Sở dĩ gọi là Trầm Hương vì lý do nhân duyên quá khứ, bà bố thí trầm hương đến Đức Phật Tỳ-bà-thi nên trầm hương bao giờ cũng tỏa ngát nơi bà qua các cõi trời và người.
Từ khi thọ thai đức Vê-xanh-ta, mỗi ngày bà bố thí sáu mươi ngàn đồng tiền vàng, sống đời đức tin thanh khiết với thiện pháp.
Đức Vê-xanh-ta giáng thế thì đồng thời, sáu muôn chư thiên cũng giáng sanh xuống rải rác trong quốc độ để sau này làm kẻ tùy tùng hầu hạ. Vì là dòng dõi của chư Phật nên đức Vê-xanh-ta có dung nghi và tư cách khác thường.
Vua Thệ Sanh coi vị hoàng nam này như ngọc báu của quốc độ. Ngài cho xây bốn tòa cung điện. Mười thầy Bà-la-môn uyên bác đảm trách về giáo dục. Hai mươi thị nữ săn sóc và hầu hạ. Mười vị lương y trứ danh túc trực sẵn sàng để coi về sức khỏe cho hoàng tử. Ngoài ra, võng lọng, kiệu xe, ngựa voi, thú vui, vật lạ - chẳng có gì là không đầy đủ.
Lên tám tuổi, đức Vê-xanh-ta xin vương phụ cho được tự do bố thí. Mỗi ngày, ngài bố thí mười ngàn đồng tiền vàng với lời đại nguyện:
- Xin nguyện bố thí bất nghịch ý đến tất cả chúng sanh, không những bạc tiền và sở hữu có được - mà còn bố thí tứ chi, mắt tim, thân thể và luôn cả tính mạng!
Lời nguyện vô thượng làm cho địa cầu rung chuyển, lan xa đến mấy cõi trời. Chư thiên hữu tình rải hoa ca ngợi. Vô lượng chúng sanh cảm thấy trong tâm phát sanh hỷ lạc. Trong khi ấy có con vương tượng từ núi Tu Di đi qua hư không hạ xuống kinh thành, biếu tặng đức Vê-xanh-ta một con voi báu bốn ngà vàng cao quý. Biết đây là thần linh ban cho nên đức Vê-xanh-ta đặt tên là Voi Thần. Khi ngài ngự trên voi báu, vẻ uy nghi và sáng rỡ của cả hai khiến người người chiêm ngưỡng trầm trồ khen ngợi cho sự tương hợp kỳ lạ giữa chúa loài người và chúa loài voi. Đôi khi thích chí, Voi Thần bỏ mặt đất, bước qua cổng thành, chở đức Vê-xanh-ta dạo chơi giữa hư không. Mười ngàn thớt tượng của đức vua mỗi khi thấy Voi Thần đi ngang qua thì run rẩy, hai chân trước khuỵu xuống, phủ phục không dám ngẩng đầu lên.
Từ khi đức Vê-xanh-ta được Voi Thần cũng là lúc vua Thệ Sanh được làm chúa chư hầu. Các nước lân bang từ lâu có ý xâm lăng, dòm ngó - nay đều chịu thần phục và xin triều cống. Mỗi năm, của cải từ bốn phương đem về kinh đô Kế-tư-đà còn hơn trăm con sông đổ nước về biển. Vua Thệ Sanh cho xây mười ngàn cung khố, tuyển thêm mười muôn binh để lo việc chuyên chở, săn sóc và bảo quản. Sáu ngàn cung phi mỹ nữ sủng ái, mười ngàn quan đại thần đều được hưởng lộc vạn thặng.
Cung điện của đức vua Thệ Sanh từ đây biến thành cảnh thiên đường hạ giới, lúc nào cũng cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm!
Đức Vê-xanh-ta lúc ấy đã được phong làm Thái tử. Vợ là công chúa Ma-đà-ly. Ít lâu sau, hai bé Ra-ly và Kanh-ha ra đời. Dường như tâm từ bi và lòng quảng đại của ngài lớn dần theo với tuổi tác. Trong khi triều đình càng lúc càng chìm sâu vào cảnh hưởng thụ, vinh hoa và biếng nhác thì đức Vê-xanh-ta đã cho xây thêm trạm phước xá thứ sáu. Và, mỗi ngày thay vì bố thí mười ngàn đồng tiền vàng, bây giờ đã lên đến một trăm ngàn. Đã thế, ngài cho rằng chưa đủ. Mấy ngàn tay chân thân tín đi khắp tất cả các thôn làng hẻo lánh, núi non xa thẳm để rao truyền tin lành về nước Phật phước thiện và từ bi - rồi tìm đủ mọi cách giúp cho kẻ nghèo đói, khốn khổ được về kinh thành chiêm ngưỡng đức Vê-xanh-ta cùng tấm lòng nhân hậu hiếm có của ngài.
Cổ đức có dạy: “Ma quỷ thường sợ ánh sáng”. Các quan đại thần triều đình vua Thệ Sanh, hôm kia họp nhau vào quỳ dưới chân đức vua.
- Tâu đại vương! Tài sản nước nhà thì có hạn - mà sự bố thí hàng ngày của Thái tử là vô hạn. Xin nghiêm thượng xét lại, quốc độ sẽ có lúc nguy vong.
Một vị khác tâu:
- Không những thế, hằng muôn người lại bỏ bê, lười biếng trong công việc, ăn không ngồi rồi, chỉ chầu chực miếng cơm, manh áo của Thái tử. Sự hưng thịnh của triều đại, tài sản sẵn có không quyết định - mà chính do của cải tăng vượng mỗi ngày, sự bắt tay góp sức của mọi tầng lớp lao động quyết định. Đây là mối nguy cơ nghiêm trọng cho xã tắc - bọn bầy tôi ngu dốt cảm thấy sợ hãi vô cùng!
Trăm người như một, thít tha phụ họa - Vua Thệ Sanh rất lấy làm bối rối.
Các đấng tiên hiền có nói: “Ma quỷ thường núp sau những lý luận bằng vàng ròng”. Vua Thệ Sanh dẫu có đem tâm thiên vị Thái tử, rốt lại cũng phải xuôi theo cái nguyện vọng của phần đông. Thái tử được gọi đến.
Đức Vê-xanh-ta lẳng lặng nghe vương phụ và triều thần trình bày xong, ngài nhăn mày, tự nghĩ:
- Các quan đại thần này vốn không phải là người xấu, nhưng quyền lợi vật chất và đời sống vinh hoa làm cho họ tối ám lương tri. Chúng đã tìm ra kẻ hở của công việc ta làm. Nhưng trí tuệ Ba-la-mật vốn là Kim Cương bất hoại, xin nguyện sẽ đập vỡ những lý luận cứng rắn nhất.
Ngài nói:
- Cả hai điều mà các quan đại thần đưa ra đều hợp lý. Thế nhưng, mười ngàn cung khố của quốc độ, con đâu có đụng chạm đến? Thưa vương phụ! Tiền bạc và của cải bấy nay con chi dùng vào việc lợi tha, vốn là tài sản mà vương phụ và mẫu hậu đã cho con. Như vậy thì, con đâu có lấy của công mà làm việc tư riêng, dẫu là việc tư riêng có ý nghĩa phước thiện?
Đức Vê-xanh-ta lại tiếp:
- Còn việc ăn không, ở rỗi của lê dân. Điều này thật là tai hại. Nhưng sự ăn không ở rỗi của đám ngu dân nghèo đói bất hạnh kia - có nguy vong hơn sự ăn không ở rỗi của những kẻ có bạc tiền, thế lực và quyền uy? Sự xa xỉ, vinh hoa của chúng ta, của cung điện, của mấy chục ngàn gia đình quan đại thần, cung phi, thị nữ, tỳ thiếp mấy muôn người... xem chừng tài sản quốc độ còn mau khánh kiệt hơn nhiều. Đừng vì quyền lợi của mình mà bảo vệ lẽ phải một chiều trong cái hàng rào kiên cố bằng vàng, có ẩn dấu móng vuốt của quỷ ma!
Các quan đại thần hổ thẹn cúi gầm mặt xuống.
Đức Vê-xanh-ta lại quay qua đức vua:
- Thưa Phụ vương! Để giúp cho việc phước thiện được hoàn hảo. Các thầy Bà-la-môn hảo tâm, một ngàn thiện-bằng-hữu đã tiếp tay với con - bằng cách kiếm công ăn việc làm cho những người ở rỗi. Mỗi ngày, một trăm cơ quan hoạt động khắp nước, tạo nghề nghiệp cho mấy muôn người.
Trong nay mai, con lại mời thêm một trăm thầy Bà-la-môn và chuyên gia lỗi lạc khắp trong các tiểu quốc, mở trường dạy học về chữ nghĩa, đạo đức cùng các công nghệ chánh mạng và thực dụng. Thưa vương phụ! Như vậy, xa rộng con đều đã nhìn thấy, trước và sau con đều có nghĩ suy. Nhân, duyên và quả đều nằm trước tầm mắt, thì làm sao con lại có thể tác ý hoặc hành động lầm lỗi?
Lý luận đanh thép chặt chẽ và câu hỏi của đức Vê-xanh-ta như chiếc búa nặng ngàn cân, không ai đỡ nổi.
Vua Thệ Sanh nhìn đám quan đại thần như đàn khỉ cáo run sợ trước uy dũng của thái thử, con ngài, đức vua sung sướng đến phát khóc. Lát sau, để trấn tĩnh cái hoan hỷ đang xôn xao, bừng bừng kia lắng dịu - đức vua sai cấp thêm cho Thái tử mười kho vàng và bạc để cho ngài được trọn quyền sử dụng vào các việc công ích.
Từ đây, mỗi ngày, con sông Hằng đổ về biển đông bao nhiêu lượng nước - thì đức Vê-xanh-ta đổ tâm từ ái và cơm áo ấm no từng ấy đến cho đám tiện dân đói khổ.
Tin đức Vê-xanh-ta bố thí bất nghịch ý đến tất cả mọi người, loan truyền đi chấn động cả mấy trăm tiểu quốc.
Kẻ nghèo đói - và dĩ nhiên có kẻ giả bộ nghèo đói - từ khắp nơi lũ lượt tìm đến kinh đô Kế-tư-đà đông như trẩy hội. Thái tử thỏa mãn tất cả mọi người. Và thế là các kho vàng và bạc cứ vơi dần.
Hôm kia, sáu người Bà-la-môn y áo phủ đầy bụi đường, mặt mày hốc hác và đôi chân tươm máu xuất hiện trước vương cung. Họ lắc đầu trước những của bố thí và chỉ xin được gặp Thái tử.
Đức Vê-xanh-ta tiếp đón họ rất niềm nở và lịch sự, truyền cho nội thị dẫn họ đến nơi tắm rửa, thay áo rồi dọn cơm nước đãi đằng.
Sáu người Bà-la-môn đồng thanh đáp:
- Chúng tôi lên thác xuống ghềnh, gian khổ nửa năm trường mới đến được nơi đây, chẳng phải là để xin một chiếc áo hoặc một bữa cơm cao sang của bậc vương giả!
- Vậy thì các thầy có ước nguyện gì, cứ nói - Thái tử mỉm cười hoan hỷ cho họ an lòng và vững tâm - Chưa có ai gặp ta mà phải thất vọng!
Sáu người Bà-la-môn ngập ngừng nhìn nhau, chưa ai dám mở miệng. Sau rốt, có người đứng lên:
- Tấm lòng của Thái tử rộng lớn như trời biển! Chúng tôi bạo gan xin đức Đông Cung bố thí cho thớt Voi Thần!
Thái tử gật đầu nhận lời. Sáu người Bà-la-môn không ngờ chuyện trọng đại lại chợt trở nên dễ dàng đến thế. Đức Vê-xanh-ta không những sẵn sàng bố thí Voi Thần mà còn bố thí luôn nài, yên cương khảm ngọc, dát vàng; những chuỗi bảo châu làm vật trang điểm, những hạt cườm bằng hổ phách lóng la lóng lánh quý giá vô ngàn. Tất cả đó trị giá là hai triệu tám muôn lượng vàng. Ngài cho đi với cả tấm lòng hoan hỷ và mát rượi tỏa ra trên khuôn mặt. Sáu người Bà-la-môn được Thái tử đổ nước lên tay rồi trao cho Voi Thần, là con voi từ lâu đã làm đức Hộ Pháp cũng như là linh hồn của quốc độ.
Với tất cả sức lực của mình, sáu người Bà-la-môn kéo cương, nài la hét, nhưng Voi Thần đứng yên không lay động, đưa đôi mắt đỏ lệ nhìn Thái tử. Hiểu ý thần vật, đức Vê-xanh-ta đến bên voi, khẽ vỗ vào tai và nói những lời dịu dàng:
- Con mến! Nếu con thương yêu ta thì hãy đi theo người. Con là một giống vật linh hiển thì ở gần ta hay ở xa ta nào có nghĩa gì. Lấy đức mà cảm hóa mọi người, dùng thần oai mà nhiếp phục kẻ nào tự cường tranh thắng muốn gây nạn binh đao máu lửa. Sứ mạng con ở đâu cũng giống nhau. Xa con ta cũng buồn lắm nhưng lời đại nguyện để thành tự quả Vô thượng bồ-đề lại tối thắng hơn. Bao giờ đạt được Đạo Giác Ngộ, ta sẽ cứu độ cho con.
Lạ lùng thay, Voi Thần nghe xong, phủ phục xuống chân Thái tử, rồi chợt đứng lên cất một tiếng rống như sấm động, mặt đất rung rinh, hư không vang động không ngớt. Sáu người Bà-la-môn sắc mặt như chàm đổ, run run đứng không vững. Đức Vê-xanh-ta trấn an, phủ dụ họ rồi lại trao voi. Voi Thần ngoan ngoãn theo chân sáu người Bà-la-môn bước ra cổng thành, phút chốc, cuốn đi như giông như gió.
Tin Thái tử bố thí Voi Thần lan đi rất nhanh. Kinh thành xáo động, phố xá đóng cửa, chợ không đông, nơi nơi tập họp nhau lại xì xầm bàn tán, người ca ngợi Thái tử, kẻ tiếc rẻ Voi Thần. Có kẻ dám đánh cá với nhau: mất Voi Thần là mất quốc độ! Tuy thế, phần đông người ta sống bằng trái tim chứ không phải sống bằng đầu óc. Quần chúng ủng hộ đức Vê-xanh-ta. Có người dám đặt cá lại: Voi Thần, các voi chính thống, không bao giờ phản chủ cũ.
Phía dân chúng thì như thế, ở triều đình thì vô cùng hỗn loạn. Cái thế an toàn, vững chãi, bức tường thành che chở cho họ trong một đời sống vinh hoa xa xỉ - do Voi Thần đem lại - giờ không còn nữa! Voi Thần mất là mất tất cả.
Mấy chục ngàn quan đại thần đến chật cả cung điện. Mười quan Thượng Thư đến quỳ dưới chân vua Thệ Sanh khóc rống lên:
- Sáu người Bà-la-môn là sứ thần bí mật của nước Linh Ga, âm mưu xin Voi Thần để đánh cướp quốc độ. Đức hoàng thượng ôi! Đại họa đến rồi!
Vua Thệ Sanh bàng hoàng cả người, ngồi chết sững trên ngai vàng.
Triều đình ồn ào như vỡ chợ, sự phẫn nộ của họ cuồn cuộn như sóng tràn. Những tiếng la, tiếng hét nổi lên. Tiếng khóc tiếng than xoáy vào tai vua Thệ Sanh như những mũi dùi băng lạnh.
Họ không dừng lại ở đó.
- Hãy trảm đầu tên bán nước.
- Pháp bất vị thân, xin hoàng thượng thẳng tay nghiêm trị.
- Hãy treo cổ Thái tử ngay!
- Hãy lưu đày biệt xứ...!
Đức vua ra lệnh đòi Thái tử vào. Nhìn Thái tử với đôi mắt buồn bã, vua nói:
- Việc gì thì hoàng nhi đã hiểu rồi. Hoàng nhi đã không tiên lường hậu quả. Hãy nhìn vào sự phẫn nộ của mọi người. Hãy nhìn vào gương mặt bất mãn của triều thần. Ta biết là ta không thể bênh vực cho hoàng nhi được nữa. Hoàng nhi có tự biện hộ cho mình được không?
Đức Vê-xanh-ta không hề bối rối:
- Thưa Phụ vương! Nếu quả thật hoàng nhi có tội thì hoàng nhi sẽ tự biện hộ. Nhưng ở đây hoàng nhi không có tội nên chỉ xin trình bày đúng pháp và luật - nghĩa là đúng theo lẽ phải ở đời!
Lời mở đầu của đức Vê-xanh-ta làm cho mọi người không tin ở tai mình. Họ lại xôn xao.
- Voi Thần là do Vương Tượng từ hư không mang xuống biếu tặng cho hoàng nhi! Thưa vương phụ, vậy thì bố thí một vật sở hữu của mình, lẽ phải xưa nay có ai bắt tội? Pháp và luật của quốc độ có điều khoản nào quy định tội trạng những người cho đi vật sở hữu?
Đức vua và triều đình kinh dị. Không ai có thể ngờ chỉ với một câu hỏi, Thái tử trắng án ngay tức khắc. Một cái tội to lớn dường ấy mà Thái tử đã làm cho mình trở thành vô tội!
- Có thể có điều này - đức Vê-xanh-ta tiếp - Voi Thần tuy là sở hữu cá nhân, nhưng nó đã trở thành quyền lợi của cả nước! Thưa Phụ vương! Nếu bắt tội hoàng nhi đã không nghĩ đến quyền lợi chung thì quả là hoàng nhi có tội!
Nhưng than ôi, cái gọi là quyền lợi chung ấy nó mới hàm hồ và vô nghĩa làm sao! Không có quyền lợi chung cho lê dân và bá tánh mà chỉ có quyền lợi của giới chức trị vì, của trăm quan sống đời vinh hoa và hưởng thụ. Từ muôn đời, đám đông bá tánh vẫn bị hy sinh bởi nhân danh và nhãn hiệu!
Đức Vê-xanh-ta lại buộc tội trở lại đức vua và quần thần bằng sự thực không ai chối cãi. Minh thư có dạy: “Ma quỷ không dám nhìn cái bóng của chính mình”. Cũng vậy, sự thật quá trần truồng và gớm ghiếc có ai dám nhìn thẳng bao giờ? Sự thật có thể làm đau xót những trái tim chân thực, nhưng lại là sự phẫn nộ của quỷ ma. Hơn ai hết, đức Vê-xanh-ta biết rõ điều ấy, nên ngài cất giọng dịu dàng:
- Nhưng mà thôi! Chân lý người ta thường hiểu là tùy thuộc đám đông! Thưa vương phụ! Ở đây hoàng nhi chỉ có một mình! Để vừa lòng triều thần, xin vương phụ hãy nghiêm trị hoàng nhi!
Vua Thệ Sanh bối rối vô cùng.
Một vị Thượng Thư dõng dạc nói:
- Tâu bệ hạ! Những lời của Thái tử quả là quá nặng nề. Nhưng dám thưa Thái tử một điều: nếu Voi Thần trở lại xâm lăng quốc độ thì Thái tử nghĩ thế nào?
Đức Vê-xanh-ta mỉm cười:
- Nếu vậy thì ta đúng là một tên bán nước! Nhưng xin lão thần hãy an tâm. Không bao giờ có chuyện đó xảy ra. Voi Thần và ta là đôi bạn thân thiết. Không bao giờ Voi Thần làm cho ta phải bị sự phỉ nhổ của trăm họ!
Cuối cùng, vua Thệ Sanh phán:
- Căn cứ của hoàng nhi không có vững vàng, không được xây dựng trên thực tế. Thực tế là Voi Thần đã rơi vào tay xứ Linh Ca, một lân bang cừu địch. Ta ngồi giữa quần thần và trên đầu trăm họ, vậy thì ta phán truyền cho hoàng nhi án lưu đày biệt xứ mười hai năm, tại dãy núi Gri-văng-ka thuộc Hy Mã Lạp Sơn.
- Con sẽ phục mạng - Đức Vê-xanh-ta nói - nhưng xin vương phụ cho hoãn thêm mấy ngày để con bố thí những gì còn lại.
Vua Thệ Sanh y lời.
Đức Vê-xanh-ta vào nội cung gặp nàng Ma-đà-ly:
- Nàng hỡi! Thái tử nói - Ta mang tội với quốc độ là đã cho Voi Thần đến một lân bang cừu địch. Triều đình phẫn nộ. Cuối cùng, vương phụ đày ta lên núi Gri-văng-ka mười hai năm biệt xứ.
Em yêu quý! Vậy thì châu báu hồi môn và của cải mà phụ hoàng, mẫu hậu cùng ta đã biếu tặng, nàng hãy chi dùng vào việc lợi tha. Hãy bố thí cúng dường đến các bậc tu hành đạo sĩ. Hãy nhường cơm xẻ áo đến đám bần dân. Hãy sống đời trong sạch thiêng liêng với thiện pháp.
Nàng Ma-đà-ly gục khóc trên vai chồng.
Đức Vê-xanh-ta không dấu được xúc động, nhưng trấn tĩnh tiếp rằng:
- Sinh ly, tử biệt người đời chẳng ai tránh được. Đừng đau thương thái quá mà hại đến sức khỏe, ảnh hưởng đến hai con. Ta không bắt nàng phải giữ tiết nghĩa, hy sinh cuộc đời son trẻ cho sự đợi chờ vô vọng. Nếu có vị vua nào vừa ý, nàng có quyền được tái giá để sống đời hạnh phúc lứa đôi. Vương phụ, mẫu hậu, nàng khỏi lo đến việc phụng dưỡng. Hai con là cành vàng lá ngọc, nàng lại chẳng cần lo nghĩ đến chuyện cơm áo và tương lai. Còn ta thì có cả đại nguyện trong lòng thì sá gì cam go trở ngại. Thôi! Mấy lời tâm huyết đã bộc bạch cùng nàng, nguồn cơn đã tỏ, sau trước đã tường, ta xin vĩnh biệt!
Nàng Ma-đà-ly chợt ngồi thẳng dậy dùng khăn lau ráo lệ, giọng nói trấn tỉnh phi thường:
- Thiếp nghe rằng: Gái thì phải có tam tòng và trai thì phải có tứ đức! Từ khi thiếp về gá nghĩa se duyên cùng chàng; chẳng hay thiếp đã có lỗi lầm nào đến nỗi chàng phải đem tâm khi rẻ?
Đức Vê-xanh-ta ngạc nhiên, cầm tay nàng, hối hả nói:
- Ta đâu dám thế! Nàng quả không có lỗi lầm.
Nàng Ma-đà-ly cất giọng giận dỗi:
- Thiếp không lỗi lầm! Thế sao Thái tử lại dám coi thường tiết hạnh trung trinh của người đàn bà mà khuyên thiếp nên tái giá với một bậc vương tôn công hầu nào khác? Lại nữa, nếu thiếp không lỗi lầm thì sao Thái tử đành đoạn cắt đứt tình nghĩa mà nói nên lời vĩnh biệt nọ kia? Thiếp có thể nằm trên loan sàng gấm nệm, vào ra gác ngọc lầu vàng; trong lúc Thái tử dãi nắng dầm sương, đi chân đất, mặc áo vải, lót dạ qua ngày trái chua, củ đắng giữa chốn rừng thiêng nước độc ư?
Nói xong, nàng Ma-đà-ly quay lưng lại, khóc tấm tức.
- Xin lỗi nàng - đức Vê-xanh-ta xuýt xoa nói - Ta đâu dám coi thường nàng. Quả thật ta sợ nàng chân yếu tay mềm, không kham nổi cuộc đời khổ ải.
Nàng Ma-đà-ly ngước đôi mắt còn mọng nước:
- Nếu thiếp không ngại?
- Thì hãy đi - Đức Vê-xanh-ta mạnh mẽ nói - cùng ta chia ngọt xẻ bùi hoặc uống cạn chén đời tân khổ. Nhưng nàng hỡi! Ta còn một điều ngần ngại!
Khuôn mặt ngọc đã lóe niềm vui:
- Thái tử cứ nói!
Trầm ngâm giây lát, đức Vê-xanh-ta nhìn lên ngọn núi Hy Mã ẩn hiện sau làn mây trắng tận cuối trời:
- Ở hay đi, trước sau đại nguyện của ta vẫn kiên định, vững vàng như đỉnh núi kia. Ta sẽ cho đi tất cả, dẫu cả cuộc đời. Nếu muốn đi theo, nàng hãy hứa với ta một điều.
- Thái tử cứ nói!
- Xin nàng đừng ngăn trở bất cứ sở nguyện nào của ta!
Nàng Ma-đà-ly cất giọng ôn nhu mà rằng:
- Dĩ nhiên! Có bao giờ mà thiếp không theo lệnh chàng? Ngay cả cuộc đời, tánh mạng của thiếp, chàng hãy tùy nghi sử dụng, thiếp quyết không cau mày!
Đức Vê-xanh-ta được lời như mở tấm lòng.
Sau đó, ngài bố cáo khắp nơi về ba ngày chẩn bần cuối cùng. Hai trẻ Ra-ly và Kanh-ha cũng đem của cải tư trang ra hùn góp. Nàng Ma-đà-ly xin vua cha thêm hay ngày nữa về phần của cải của nàng. Tất cả năm ngày chẩn bần này trị giá có đến tám muôn triệu đồng tiền vàng, còn to hơn ngân khố của một tiểu quốc.
Đức Vê-xanh-ta, vợ và hai con thảy đều hoan hỷ khi thấy niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt của đám người bất hạnh. Thời gian bố thí đã qua. Đến ngày lên đường, vua Thệ Sanh ban cho Thái tử sáu muôn thuộc hạ, hai mươi xe lương thực cùng của cải, tư trang và tư dụng. Chiếc long xa bốn ngựa đưa gia đình Thái tử ra khỏi cổng thành. Đức vua Thệ Sanh và hoàng hậu Trầm Hương đỏ lệ trông theo nghẹn ngào. Hai vạn cung nga thể nữ lấy khăn vẫy, ôm nhau khóc như ri. Các quan đại thần, muôn dân bá tánh đưa đi chật đường, kéo dài đến hai do tuần. Chư thiên từ hư không nhìn xuống, rải hoa đưa tiễn bùi ngùi.
Ngày thứ hai, đức Vê-xanh-ta cho sáu muôn tùy tùng trở về. Ngày thứ ba, người ta lại xin của bố thí. Đức Vê-xanh-ta cho tư dụng và lương thực, sau đó ngài lại cho luôn bốn ngựa. Bây giờ hai trẻ ngồi trên xe, đức Vê-xanh-ta kéo thay ngựa, nàng Ma-đà-ly đẩy, cùng nhau vượt núi băng đèo. Người ta lại đến xin, ngài cho xe. Thế là chồng bồng trai, vợ ẵm gái tiếp tục con đường vạn dặm...
Hôm kia, họ dừng lại giữa một khu rừng già hoang vu, hổ gầm, vượn hú nghe thật ghê rợn. Nhìn lên thì núi cao chớn chở, nhìn xuống thì vực thẳm mịt mùng. Đêm xuống lạnh, lương thực mang theo đã bố thí hết. Nàng Ma-đà-ly nhìn hai con, tuy không dám thở than nhưng ruột đau đòi đoạn. Đức Vê-xanh-ta đi kiếm trái cây trở về cùng ăn lót dạ qua đêm. Lần đầu tiên ăn trái lạ, vì đói, vì rét, hai trẻ ngộ độc, nôn mửa và lên cơn sốt. Nàng Ma-đà-ly chỉ biết vỗ về, hà hởi. Nhìn sự quằn quại của hai con, đức Vê-xanh-ta chắp tay lại, nhìn giữa thinh không, thốt rằng:
- Hỡi chư thiên hộ trì thiện pháp của châu Diêm Phù Đề! Nếu đây là sự thử thách của pháp, của các ngài; thì dẫu hàng trăm ngàn vợ con thân quyến có bị sinh ly hay tử biệt; dẫu cho hàng ngàn hố lửa lớn, rắn rít và độc xà làm hại - Vê-xanh-ta này cũng không thể thoái lui con đường, dù chỉ là nửa bước!
Lời nguyền vô thượng, một lần nữa, lại làm cho địa cầu chấn động. Chúa trời Đế Thích cảm thấy nóng nảy trên thiên ngai. Các vị thần lập tức hiện xuống tìm cách làm cho hai đứa trẻ dứt bệnh và lành mạnh trở lại.
Họ tiếp tục lên đường vào sáng hôm sau. Đến một thị trấn gần biên giới, người ta nghe tin, lại đến xin ngài bố thí.
Nàng Ma-đà-ly nói:
- Chúng tôi không còn gì!
Đức Vê-xanh-ta khẽ vỗ vai nàng nói:
- Chúng ta còn rất nhiều, em ạ. Có lẽ em quên đấy thôi.
Nói xong, đức Vê-xanh-ta cởi bọc áo quần của mình trao cho người nghèo khổ. Người ta lại đến xin nữa. Nàng Ma-đà-ly noi gương chồng, tặng bọc áo quần.
Người ta lại đến xin nữa. Hai trẻ bắt chước cha mẹ chúng, lấy áo quần của mình cho hết.
Đến tháng thứ nhất, sau khi rời thành, mỗi người chỉ còn một bộ áo quần trên người, ngoài ra không còn gì nữa. Dãi nắng dầm sương, trải qua ba mươi lăm do tuần, hôm kia, họ đến biên địa một nước lân bang. Đức vua chư hầu nghe tin, tức tốc cùng đoàn tùy tùng năm trăm người bươn bả tới nơi. Dân chúng ở đây vật vả khóc than khi thấy tình cảnh thê thảm của gia đình Thái tử. Gặp đức Vê-xanh-ta, vua chư hầu xuống ngựa, dập đầu xin Thái tử về thành nghỉ ngơi, luôn thể xin nhường lại ngôi báu cho bậc đại hiền. Đức Vê-xanh-ta khiêm cung từ chối. Chẳng biết sao hơn, đức vua biếu tặng tư dụng, y phục và lương thực. Đức Vê-xanh-ta cùng vợ con, dùng vật thực đủ no lòng rồi lại lên đường. Vua chư hầu thở than không ngớt, sau đó đích thân xuống ngựa, tiễn gia đình Thái tử đến chân Hy Mã Lạp Sơn.
Dãy núi đầu tiên của Hy Mã Lạp là dãy núi Càng-đà-ma-đằng. Đến đây, đức vua ân cần gởi gắm gia đình Thái tử cho một người thợ săn uy tín - là thủ lãnh mấy trăm thợ săn chốn non thiêng - rồi ngậm ngùi từ giã. Xế trưa, Thái tử dừng nghỉ dưới gốc đa to, tàn phủ mấy chục trượng, có những trái chín và ngọt như mật ong. Độ những trái cây ngon ngọt hy hữu, từ giã Càng-đà-ma-đằng đi đến chóp núi Na-lợi-ka; đức Vê-xanh-ta và gia đình dừng nghỉ nơi một chiếc hồ con xinh đẹp phô thắm tía hồng rực rỡ. Mùi hương sen thoang thoảng dịu dàng. Một đạo sĩ chống gậy sau khóm cây rừng bước ra, không chào hỏi, nhìn Thái tử một hồi lâu.
- Bậc hoàng gia quý tộc lại muốn vào non xanh này làm đạo sĩ sao? Đạo sĩ hỏi.
Đức Vê-xanh-ta đứng dậy thành kính đáp lễ rồi nói:
- Thật chưa dám như thế, thưa tiên nhơn, dẫu là lòng mong muốn lắm. Tôi chỉ là kẻ có tội với quốc độ nên đến Gri-văng-ka sống kiếp lưu đày!
Đạo sĩ “a” lên một tiếng, rồi quẳng gậy chạy lại:
- Vậy ngài chính là đức Vê-xanh-ta, Thái tử con vua Thệ Sanh nước Kế-tư-đà?
- Cái danh của thế tục kia làm dơ tai bậc ẩn sĩ thanh tịnh - Thái tử nói - Còn chẳng hay đạo sĩ pháp hiệu là gì, cho kẻ áo trắng chúng tôi được bái phỏng?
- Là Ngu ẩn sĩ - Đạo sĩ đáp một cách mau mắn. Có kẻ lại gọi là Chơn Nhơn đạo sĩ Na-lợi-ka. Ôi! Nhưng mà tên gọi mà làm gì, hư danh mà làm gì! Chính tấm lòng của Thái tử mới làm cho Ngu sơn nhân này bái phục!
Họ hàn huyên giây lát. Đạo sĩ Na-lợi-ka lấy cây trái đãi đằng rồi sau đó ân cần chỉ lối cho Thái tử đi đến khu rừng thiêng Gri-văng-ka, chúc ngài một đời sống tịnh tu an lạc.
Sau khi đạp qua những cánh rừng hẻo lánh, thâm u, đến chiều tối, họ mới đến được nơi chỉ định. Đây là khu rừng già hiu quạnh, nằm giữa lưng chừng mây. Chim kêu, vượn hú tịch mịch lạ. Ánh nắng mặt trời nhợt nhạt xuyên qua một khoảng đất trống; Thái tử ngạc nhiên xiết bao, ở đây có một hồ sen thiên nhiên kỳ diệu, nước trong xanh biêng biếc, năm sáu màu sen phô sắc và phơi hương. Và ô kìa! Có hai chiếc tịnh thất không xa nhau lắm, dựa lưng một gốc cây cổ thụ với tán lá xanh rì trông thật duyên dáng và ngoạn mục.
Đức Vê-xanh-ta, vợ và hai con lần đến nơi. Một tấm biển có đề chữ đập vào mắt mọi người: “Nơi tịnh tu, xin dâng cúng đến hàng xuất gia đạo sĩ tùy nghi sử dụng”. Biết có thần nhân giúp đỡ, Thái tử phát sanh hỷ lạc, gọi vợ và con đến dạy rằng:
- Đây là chốn thiêng liêng. Ngoài các vị thiên thần lại có cả các loài phi nhân lẫn ác thú ngụ cư. Từ rày ta phải tu hành cho tinh tấn, ghép mình vào phạm hạnh, trú trong vô lượng tâm. Nếu bê trễ, dễ duôi, thiên thần sẽ không hộ trì ta nữa mà còn bị ác thú, độc trùng, phi nhơn làm hại. Phu nhơn và hai con hãy khá ghi lòng.
Đức Vê-xanh-ta lại tiếp:
- Phàm phép tu tịnh hạnh thì trước tiên là phải sống đời tịnh hạnh. Ta với nàng ân nghĩa mặn nồng, lại thêm hai con là sợi dây ràng buộc luyến ái - nhưng nay thì ta hẳn tránh xa. Nàng và các con ở một tịnh thất. Ta ở riêng một tịnh thất. Và chắc chắn thiên thần cũng muốn như vậy mới tạo hai tịnh thất ở hai nơi. Đời sống gần gũi thì tránh sao khỏi những giây phút yếu lòng, chỉ làm cho thiên thần khinh khi ghét bỏ. Vậy thì, nàng đừng bao giờ gặp ta trong lúc ban đêm. Nếu là ban ngày thì cũng phải có hai trẻ. Đã sống đời xuất gia đạo sĩ thì ta phải sống xứng đáng là đạo sĩ xuất gia. Điều này, phu nhân hãy khá ghi lòng.
Nàng Ma-đà-ly hoan hỷ thọ trì lời giáo huấn của đức Vê-xanh-ta, sau đó lại bạch rằng:
- Thái tử chỉ cho thiếp xin một đặc ân, là Thái tử khỏi nhọc công vào non hái trái. Thái tử cho phép thiếp chu toàn mọi bổn phận về cái ăn cái uống cho Thái tử và hai con. Đấy là niềm vui của người đàn bà. Ngoài ra, cây trái, nếu có dư thừa, Thái tử tùy nghi bố thí. Được hầu hạ Thái tử là một hạnh phúc lớn cho thiếp vậy.
Với cảm giác khinh khoái nhẹ nhàng, tinh thần phơi phới, đức Vê-xanh-ta và nàng Ma-đà-ly cùng cắt tóc sống đời đạo sĩ. Từ đây, mỗi buổi sáng, nữ đạo sĩ Ma-đà-ly thức dậy sớm, mặc y, quét dọn sạch sẽ trong ngoài tịnh thất; sắp đặt đâu đó thứ tự rồi xuống hồ sen múc nước đổ đầy các chỗ chứa. Nàng chỉ qua tịnh thất của đức Vê-xanh-ta khi thấy cửa đã mở. Nàng múc nước cho ngài rửa mặt, tay và chân. Quét dọn tịnh thất kỹ càng trong ngoài, sau trước; dạy hai con luẩn quẩn chơi ở gần đức Vê-xanh-ta để chàng tùy nghi dạy bảo.
Trời vừa hừng đông là nữ đạo sĩ đã xách giỏ vào rừng kiếm trái cây ngon ngọt dùng được. Bao giờ nàng cũng cố gắng về sớm để kịp giờ độ ngọ. Nếu về sớm hơn lệ thường, nàng dẫn hai con xuống tắm ở hồ sen. Đến trưa, nàng soạn phần trái cây ngon và đẹp nhất cho đức Vê-xanh-ta, còn nàng và hai con dùng phần còn lại. Độ ngọ xong, nàng dâng tăm xỉa răng và nước; thu dọn tươm tất mọi nơi mọi chỗ, nói lời phúc chúc đến đạo sĩ rồi nàng dẫn hai con về tịnh thất của mình.
Cuộc sống đều đặn trôi qua như thế. Được sự hộ độ chu đáo của nữ đạo sĩ, đức Vê-xanh-ta tu hành tinh tấn. Chỉ một thời gian ngắn là ngài đã có thể trú định một cách vững vàng; tứ vô lượng tâm được làm cho hưng thịnh, viên mãn. Các loài thú dữ trong khuôn vi ba do tuần nhờ tâm từ bi mát mẻ của ngài mà trở nên hiền lành. Rắn rít, độc trùng cùng phi nhơn cũng tránh xa.
Nam và nữ đạo sĩ sống đời an tịnh tự tại như vậy trong một thời gian dài không có cáu bợn phiền não nào khởi lên. Trong khi đó, hai trẻ Ra-ly và Kanh-ha đã chập chững đi chơi với nai, khỉ và vượn. Có một chú sư tử con lẫn lộn giữa đám thú vật hiền lành này. Lại có một chú ngựa rừng nhỏ bé nhưng mạnh khỏe hay cõng hai trẻ rong chơi ven suối, bờ hồ. Các chú chim dễ thương, nhảy nhót ca vui đậu trên vai hai trẻ. Mấy chú thỏ, sóc thường rình trong những bụi sim chơi trò cút bắn. Khi trẻ hoặc vật bị xây xát chút đỉnh vì nô giỡn, cả bọn xúm lại hò hét chí chóe rồi tìm cách hái lá đắp vết thương cho nhau!
Nữ đạo sĩ mỉm cười, thấy cõi lòng vui lên rộn rã.
Xứ kia có người Bà-la-môn già, sống đời ăn xin rày đây mai đó. Suốt bao nhiêu năm trường, lão dành dụm được một trăm đồng tiền vàng. Sợ để trong mình tiêu mất, lão tìm bạn tin cậy gởi số tiền này rồi đi xin ăn phương xa. Hai vợ chồng người bạn thấy lão vắng bóng lâu ngày tưởng là chết mất rồi, liền lấy tiền kia ra tiêu. Khi lão Bà-la-môn trở về thì tiền đã hết sạch. Chẳng biết làm sao, họ xin gả người con gái tên là A Mị cho lão.
Về làm vợ người, A Mị vẫn tỏ ra hết lòng siêng năng tháo vác trong mọi công việc; không cảm thấy xấu hổ về việc lấy chồng già mà chỉ thầm thương mình số kiếp không may. Một số thanh niên thấy A Mị có nhan sắc nên đã nhiều khi trêu ghẹo, nhưng nàng thường lãnh đạm hoặc cúi đầu trước lời ong bướm nọ kia. Thời gian lâu, những khi đi xách nước, kiếm củi là mối bận tâm cho nàng vì những chàng trai kia đã hát hò đối đáp những câu sàm sỡ.
“- Cô kia mà lấy chồng già
Đêm hôm ấm lạnh xương da có gì?”
Cậu kia đáp lại:
“- Thưa rằng, dẫu có được gì,
Xương da ấm lạnh lắm khi cũng buồn!”
Cho đến hôm kia thì A Mị không còn chịu được nữa. Đợi khi lão Bà-la-môn về, nàng khóc tức tưởi:
- Mấy năm nay tôi bị chúng nó chọc ghẹo, bây giờ thì đến lúc quá rồi, thiếu đường cắt mặt mà thôi. Ông phải kiếm người đỡ đần thay tôi xách nước kiếm củi, nếu không tôi không thể ở với ông được nữa.
Lão Bà-la-môn khuyên lơn, an ủi rồi hứa sẽ kiếm trẻ giúp việc cho nàng.
Lão tính thầm trong bụng:
“- Mình nghèo mạt rệp, sống đời tơi bị thì lấy tiền đâu mà thuê trẻ, thuê người giúp việc. Và nếu có làm được việc ấy thì thiên hạ cũng cười cho thúi ruột, sẽ nói nghèo mà học làm sang. Sự bố thí bất nghịch ý của đức Vê-xanh-ta con vua Thệ Sanh kia còn ai là không biết. Nghe đâu, sau khi cho voi báu, ngài bị đức vua cùng triều đình đày lên núi Gri-văng-ca cùng vợ và hai con. Ta sẽ lặn lội đến nơi xin hai trẻ kẻo người khác xin mất cũng uổng.”
Lão lại gật gù:
“- Tuy ta xin hai đấng hoàng tôn về làm tôi đòi, nhưng lại giúp cho đức Vê-xanh-ta quý mến mau đạt sở nguyện. Như vậy, kể ra ta vẫn làm người thi ân, là kẻ có lòng nhân hậu!”
Lão Bà-la-môn lẩm nhẩm đầy đạo lý như vậy xong, nhờ nàng A Mị kiếm cho một đùm bánh nguội; sau đó, nhắm hướng Hy Mã Lạp Sơn, núi Gri-văng-ca trực chỉ. Ngày đi đêm nghỉ, lặn suối trèo non ròng rã mấy tháng dài, lão Bà-la-môn đến chân núi Càng-đà-ma-đằng. Một cây đa to với những chùm trái chín ngọt như mật ong, lão Bà-la-môn ăn uống, nghỉ ngơi ở đó cho lại sức. Kế khu rừng, cạnh hồ sen nhỏ là chòi lá của người thủ lãnh thợ săn, kẻ được đức vua chư hầu ân sủng gởi gắm Thái tử. Lão Bà-la-môn lần bước tới định hỏi đường.
Gã thủ lãnh thợ săn thân to như hộ pháp, thấy lão Bà-la-môn với tơi bị rách rưới, y đanh mặt lại:
- Lão già kia! Tới chốn rừng xanh này mà làm gì? Ngươi ỷ cái thân còm hổ báo chê thịt rồi muốn đi đâu thì đi sao? Cút ngay!
- Cho tôi hỏi chỗ ở của đức Vê-xanh-ta...
Lão Bà-la-môn chưa nói dứt câu, gã thợ săn bước tới, túm cổ lão và quăng ra ngoài gốc cây như bó giẻ. Chưa thôi, đợi cho lão Bà-la-môn lồm cồm ngồi dậy; gã thủ lãnh thợ săn đá văng tuốt xuống hồ. Đợi cho lão Bà-la-môn uống đầy một bụng nước; gã thợ săn sải xuống như con nhái, kéo lên túm chân xách ngược cho nước trào ra rồi lấy dây thừng cột chặt lão vào gốc cây. Y bẻ một khúc củi to làm gậy.
Lão Bà-la-môn vừa lai tỉnh mở mắt ra, gã thợ săn đã chỉ vào mặt, quát như sấm nổ:
- Chính thị bọn bây! Bọn Bà-la-môn ăn xin độc ác dơ dáy! Chính tại bọn bây, bọn Bà-la-môn tơi bị khốn nạn – mà đức Vê-xanh-ta phải bị đày lên núi cao rừng thẳm. Lòng rắn rít và tâm tham lam vô tận, vô độ của chúng bay chưa đủ hay sao mà còn lê lết đến chốn này tìm đức Vê-xanh-ta? Ngài còn gì nữa mà bố thí? Hả?
Gã thợ săn nói xong là đánh. Tay đánh miệng chửi om sòm lên. Lão Bà-la-môn đau đớn quằn quại rên la, không mở miệng phân trần được. Tội nghiệp cho lão bị một trận đòn thừa sống thiếu chết!
Đợi cho đến khi lão Bà-la-môn ngất xỉu, bất tỉnh, gã thợ săn mới quẳng gậy, nghiến răng lẩm bẩm:
- Cho đáng đời cái bọn ăn hại! Cái bọn bay lợi dụng lòng tốt của người mà thỏa mãn cái hố tham không đáy. Ông sẽ bảo vệ đức Vê-xanh-ta, thằng ăn xin nào vác mạng đến đây, ông “đần” cho nhừ xương, ông đập cho toác sọ dừa ra!
Hồi sau, lão Bà-la-môn chống tay dậy.
- Tôi... tôi là người của đức vua Thệ Sanh – lão Bà-la-môn phều phào nói – đức vua hối hận nên phái tôi đến đây thỉnh đức Vê-xanh-ta về kế vị ngôi vương...! Ông đánh nhầm người rồi!
Dẫu tiếng được tiếng mất nhưng gã thợ săn đã nghe rõ ý. Y cả kinh, vọt nhanh lại như con chồn, hối hả cởi trói cho người Bà-la-môn, miệng xin lỗi rối rít.
Lát sau, các vết thâm tím đã được gã thợ săn hái thuốc đắp vào. Niềm nỡ dọn một bữa cơm với mật ong và thịt rừng, gã thợ săn tỏ vẻ ăn năn đến thương hại:
- Tội tôi đáng chết! Tội tôi đáng chết! Xin lão trượng nhân hậu tha thứ cho!
Lão Bà-la-môn gượng cười nói:
- Ông làm như vậy là đúng, chẳng thể trách được. Cái bọn ăn xin Bà-la-môn ấy là nguyên nhân cho Thái tử nhân đức của chúng ta phải bị lưu đày cùng với thê tử. Chỉ đáng tiếc một điều là ông đã quên, đã quên không hỏi rõ nguồn cơn.
- Dạ, phải rồi! Tội tôi đáng chết – Gã thợ săn lại xuýt xoa – Xin lão trượng bỏ qua cho.
Đêm ấy, lão Bà-la-môn được ngủ trên chiếc giường độc nhất của gã thợ săn với những tấm mền bông và da thú ấm áp. Gã thợ săn treo võng nằm trên cây canh chừng thú dữ. Sáng ngày, gã thợ săn đãi lão Bà-la-môn một bụng no nê với thịt nai nướng, gói thêm một đùm nữa, rồi ân cần chỉ lối cho lão Bà-la-môn lên đường. Qua những cánh rừng, bờ vực cheo leo, hiểm trở; vượt lên một đỉnh núi khác, ở đây lại gặp đạo sĩ Na-lợi-ka. Kinh nghiệm trận đòn hôm qua, lão Bà-la-môn khôn khéo giới thiệu mình là người của vua Thệ Sanh, lên thỉnh đức Vê-xanh-ta hồi trào. Chẳng ngờ, khi nghe xong, đạo sĩ Na-lợi-ka cau mày:
- Hồi trào mà làm gì? Đừng có phá rối đời sống tịnh tu phạm hạnh của nam nữ đạo sĩ.
Lão Bà-la-môn thót mình, ngạc nhiên hỏi:
- Thỉnh ngài hồi trào để kế vị ngôi vương, làm bậc chí tôn cao cả, điện ngọc lầu vàng, sung sướng và oai sang hết mực, thưa ngài?
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:37:12 GMT -5
Truyện đức Vê-xanh-ta ( Tiep Theo)
Đạo sĩ Na-lợi-ka “hừ” một tiếng:
- Đó là cái đống bùn! Lão ngốc kia! Có hạnh phúc nào bằng hạnh phúc trầm tư thiền định? Lão biết gì mà xuôi ngược với ta? Cút đi! Để cho đức Vê-xanh-ta thành tựu viên mãn thiền Sắc giới. Hãy đem cái ô trược ở nơi ngươi xuống dưới cuộc đời hôi hám kia thôi!
Nói xong đạo sĩ Na-lợi-ka nhắm mắt lại. Lão Bà-la-môn chẳng biết tính sao, đưa mắt nhìn khu rừng thâm u trước mặt, vượn hú, cọp gầm; xa xa khí đá bốc lên như những đám sương mờ, lúc dày, lúc loãng – thật chẳng biết lối nào mà đến núi Càng-đà-ma-đằng!
Lão chợt nghĩ ra một mẹo:
- Đạo sĩ quý trọng ơi! Nếu tôi gặp đức Vê-xanh-ta để hỏi đạo thì được chứ?
- Dối trá – Đạo sĩ Na-lợi-ka gắt – Ta biết rõ tâm địa của ngươi như trong tay đang nắm một quả xoài. Kìa! Có tâm niệm nào ở nơi ngươi mà ta không biết, lại hòng lấy vải thưa che mắt thánh? Cút đi!
Lão Bà-la-môn sợ hãi. Lão thở dài.
Trong lúc bất ngờ và thất vọng nhất, đạo sĩ Na-lợi-ka lại nói:
- Thôi được rồi, ta sẽ chỉ cho ngươi! Ôi! Ý người là khác mà nhân-duyên-quả thì lại khác. Cái thành tựu sau này của đức Vê-xanh-ta còn to lớn hơn, tối thắng hơn cả những thiền định mà ta nghĩ. Nhưng này lão Bà-la-môn, ta còn biết rõ cái chuyện hồi trào cũng là dối trá đấy nhé!
Lão Bà-la-môn xấu hổ cúi mặt. Đạo sĩ Na-lợi-ka cho lão ăn uống và dọn chỗ ngủ tươm tất. Khi tiễn lão Bà-la-môn lên đường, sáng hôm sau, đạo sĩ Na-lợi-ka lại kể cho lão nghe tình trạng sống hiện giờ của hai nam nữ đạo sĩ và con. Lại còn nói:
- Ngươi đến đây để xin hai trẻ, chuyện đó ta không cản làm gì. Nhưng tâm địa ngươi không tốt thì đời này ngươi sẽ gặt quả không tốt. Ta nói trước cho mà biết.
Lão Bà-la-môn cần biết gì chuyện đó, thấy được chỉ đường chu đáo, lão đã hối hả từ giã cảm ơn rối rít rồi đi ngay.
Lại thêm trọn ngày đường nữa lên thác xuống ghềnh, lão Bà-la-môn đến được núi Gri-văng-ca là đã đuối sức. Tuy thế, khi nhìn được hai chiếc tịnh thất xinh xắn nằm gần hồ sen tươi mát lão thở phào nhẹ nhõm.
Lão ẩn mình trong một góc kín đáo, tự nghĩ:
“- Giờ đây thì nàng Ma-đà-ly về rồi. Lệ thường nữ nhân khó dứt bỏ con cái như là núm ruột của họ. Có mặt nàng là trở ngại lớn cho ta. Hãy ráng đợi đến sáng mai, nàng vào non hái trái, chỉ còn đức Vê-xanh-ta và hai trẻ, ta sẽ đến.”
Cũng trong đêm ấy, nàng Ma-đà-ly không ngủ được. Điều này chưa từng xảy ra. Nàng chợt bâng khuâng và lo lắng không biết tự đâu. Linh tính báo cho nàng hay một việc chẳng lành đến cho chồng và con. Đêm về khuya quá mệt mỏi, nàng thiếp đi, lại rơi vào giấc mộng kinh hoàng. Nàng bị một người hình kỳ dị dạng, với lưỡi đao bén nhọn đến cắt lấy trái tim nàng và mang đi. Tỉnh dậy, mồ hôi dầm dề, tim nhảy thình thịch, cơ thể dường như không còn chút hơi sức. Xiết bao kinh hãi, nàng tự nghĩ:
“- Chẳng biết điềm lành dữ thế nào. Ở đây, chẳng còn ai khác! Hay là ta đến nhờ Thái tử đoán mộng xem sao?”
Tứ bề quạnh quẽ, nàng mạnh dạn đến gõ cửa.
- Ai đấy? Thái tử hỏi.
- Thiếp đây! Nàng đáp.
Giọng đức Vê-xanh-ta vọng ra:
- Giờ là lúc không phải thời. Nàng hãy về đi!
Nàng Ma-đà-ly khẩn khoản:
- Đúng vậy! Bây giờ là không phải thời, thiếp biết rõ chứ. Nhưng mà Thái tử ôi! Thiếp vừa trải qua một cơn mộng kinh hoàng, nên lo sợ quá.
Giọng đức Vê-xanh-ta:
- Vậy thì nàng đừng vào, đứng đấy rồi kể đầu đuôi tự sự cho ta nghe.
Nàng Ma-đà-ly kể lại.
Thái tử chợt biết rằng: ngày mai sẽ có người đến xin hai trẻ, và điều này sẽ là niềm đau đớn cho nàng xiết bao!
Đức Vê-xanh-ta kiếm lời an ủi:
- Đã mộng mị thì hơi đâu mà nàng tin vào những điều mộng mị? Trước đây, phu nhơn vốn quen đời cao lương mỹ vị, nhung lụa ấm êm; nay vì theo ta mà cam chịu dầm mưa dãi nắng, ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm. Sự thể như thế nên sinh ra tứ đại bất hòa, thân chẳng an thì tâm lay động, phát sanh mộng mị hão huyền. Có gì đáng để lo sợ hở phu nhơn? Hãy về mà an giấc đi thôi.
Nàng Ma-đà-ly yên trí trở về tịnh thất. Tuy thế, trong giấc ngủ chập chờn, nàng vẫn phập phồng lo lắng không khuây. Trời rạng sáng, khi muôn chim đang líu lo trên cành; nàng đã xong mọi công việc thường lệ, rửa mặt cho hai con, nàng âu yếm dạy rằng:
- Các con đừng đi chơi đâu xa nhé! Đừng hoang nghịch chạy nhảy mà vấp bụi té bờ. Hãy ngoan ngoãn nghe lời mẹ.
Nói xong, một tay ẵm Kanh-ha, một tay dắt Ra-ly, nàng đến am thất của Thái tử, nói những lời gởi gắm xót xa:
- Khi thiếp đi rồi, xin chàng ghé mắt để ý đến hai con. Chúng nó còn nhỏ dại, đâu có để ý đến cái gai dưới chân, cành cây gãy trên đầu? Lại nữa, hai trẻ hay đi chơi với muông thú; mà muông thú thì biết lúc nào nó trở tính bất ngờ? Thái tử ơi! Chúng nó là người bạn yêu mến, là nguồn an ủi ấm lạnh ngọt bùi hiện nay của thiếp. Xin Thái tử hãy từ bi thương xót chúng, chớ quên!
Đi được một lúc, nàng Ma-đà-ly quày quả trở về, ôm hai trẻ, bồng bế hôn hít như chẳng thể rời chân, như linh tính phút giờ cách trở sinh ly.
- Ôi! Con ôi! Ước gì thân mẹ xẻ làm hai được? Một nửa lên non hái trái, một nửa ở lại với hai con! Ôi! Thương hại hai con tôi! Dẫu không cút côi mà cũng vắng cha thiếu mẹ. Thân danh là hoàng tộc, là lá ngọc cành vàng mà phải chịu đọa đày giữa núi sâu rừng thẳm? Ai kia lên ngựa xuống xe mà con tôi thì phải ăn chay nằm đất; bệnh không thuốc thang, ăn không đầy dạ, lạnh lùng tuyết giá chẳng áo kép, chăn đơn? Ôi! Tội nghiệp hai con tôi.
Đức Vê-xanh-ta thấy và nghe mọi chuyện, tự nghĩ: Ôi! Tình thương của nàng thật bao la như biển lớn, còn ta chỉ là con suối nhỏ. Nhưng ở đâu có tình thương buộc ràng, ở đó có hệ lụy và đau khổ. Tình thương buộc ràng, bi lụy kia như trận mưa lớn, có thể làm tiêu hoại những pháp cao thượng, làm cho hư hủy những hạt giống thiện pháp đang sinh mầm! Vì tình thương bi lụy kia mà nữ đạo sĩ Ma-đà-ly kia dường như thối thất với con đường, với lời nguyện ban đầu.
Tâm của đức Vê-xanh-ta thoáng rung động, nhưng nhờ định căn vững vàng, như gió thoảng qua, lại trở nên yên tĩnh.
Nàng Ma-đà-ly rời tịnh thất chưa bao lâu thì lão Bà-la-môn tìm đến.
Từ xa, thấy lão, Thái tử đã biết rõ, ngài thốt lên trong tâm:
- Ehi va tabbo! Này người Bà-la-môn! Chính ngươi là pháp phương tiện đưa ta đến Niết-bàn. Chính ngươi giúp ta thành tựu bố thí Ba-la-mật.
Đức Vê-xanh-ta dạy Ra-ly tiếp đón, rồi nói với con rằng:
- Này Ra-ly! Con có thích người Bà-la-môn này chăng?
Ra-ly vốn là trẻ thông minh hết mực, biết ý cha nên vội vã đến bên lão Bà-la-môn tỏ lời thân thiện:
- Cụ đã già mà mang xách gì nặng quá, để cháu tiếp hộ cho.
Lão Bà-la-môn tự nghĩ:
- Như loài công vừa sinh ra đã có màu sắc lóng lánh, như gai kia không mài dũa mà vẫn nhọn tự nhiên, trẻ này vốn là giống dòng quý tộc, nếu ta có xin về cũng rắn mắc khó dạy. Phải dằn mặt trước mới được.
Rồi ra vẻ giận dữ:
- Mày là con ai mà vô lễ đến thế? Sao dám lân la đến bậc trưởng thượng?
Bé Ra-ly nhìn bộ tướng hung tợn của lão Bà-la-môn, sợ hãi thụt lùi núp sau lưng cha. Lão Bà-la-môn đến quỳ lạy đức Vê-xanh-ta tỏ vẻ thân thiện:
- Muôn tâu bậc đạo sĩ đức hạnh! Lê dân trăm họ suốt cả các nước chư hầu không ai là không cảm phục ngài dám bỏ điện ngọc ngai vàng, vào rừng sâu sống đời khổ cư tịch mịch. Lão là kẻ ngu hèn, cũng đêm đêm nguyện cầu cho ngài được sức khỏe kiện toàn, an vui đời sống ẩn sĩ thanh tịnh.
Lại mỉm cười hiền lành tiếp:
- Chẳng hay Thái tử ở đây vật thực có đủ no lòng? Các loài ác thú phi nhơn ngỗ nghịch có dám đến quấy rầy bậc tu hành nhân đức không?
Đức Vê-xanh-ta gật đầu, tuy hiểu rõ những lời hoa ngôn xảo ngữ kia, vẫn đáp:
- Cảm ơn sự hảo tâm cùng những lời chúc tốt đẹp của người phương xa. Ta muốn ở chốn rừng sâu hẻo lánh, đã sống hạnh khước từ và yểm ly đô thị, chẳng biết có thể giúp cho người được gì không?
Lão Bà-la-môn cố dệt thêm lời mở đầu cho trau chuốt:
- Nước của năm con sông to, nhất là sông Hằng chảy ra đại hải, mà biển kia cũng không bao giờ tràn ngập thế nào; thì ơn đức của Thái tử đối với chúng sanh này cũng như vậy. Lão là kẻ ăn xin đói khổ thường hay tâm niệm được gặp Thái tử, quỳ lạy và chiêm ngưỡng dung nhan, hầu cho kiếp bần hàn cơ khổ được tăng thêm phước thọ.
Lại tiếp:
- Sau nữa, lão cũng muốn xin một chút lộc mọn cho tuổi già bất hạnh. Nhưng than ôi! Trải bao dặm trường gian lao, chân run gối mỏi, bò núi lội sông, đến được kinh đô Kế-tư-đà thì Thái tử đã vào rừng sâu mất rồi. Nhưng quả là trời cao không phụ tấm lòng của người chí thiết, nắng mưa bươn bả, lão cũng tìm đến được nơi đây. Ôi! Thật đã không uổng một kiếp nhân sinh hèn mọn.
Đức Vê-xanh-ta thấy lão lắm lời, khẽ nhắc lại:
- Thôi được rồi! Lão cứ nói những điều sở nguyện?
- Muôn tâu – Lão Bà-la-môn lại lạy – Thái tử đã mở lời thì lão cũng xin dám thưa: Thái tử bố thí cho lão hai trẻ, để tuổi già được nghe giọng oanh tiếng sáo cho bớt phần quạnh hiu!
Đức Vê-xanh-ta nói:
- Trong kiếp này, chưa ai xin gì nơi ta mà phải bị thất vọng. Được rồi, nhưng lão đi đường xa nhọc mệt, hãy tắm rửa, ăn uống, nghỉ ngơi, rồi đợi đến chiều, được chăng?
Lão Bà-la-môn ngần ngại:
- Không được, lão muốn đi ngay...
Đức Vê-xanh-ta đưa mắt nhìn con đường mòn nhỏ xuyên vào núi sâu, nơi mà nàng Ma-đà-ly thường đi vào mỗi bữa sáng, nói rằng:
- Nữ đạo sĩ Ma-đà-ly vừa có công sanh vừa có công dưỡng. Đi theo ta, sống với ta, nàng cũng sẵn có tâm bố thí. Ta muốn lão nán lại để có sự chứng kiến của nàng.
- Không được đâu – Lão Bà-la-môn lắc đầu – Thái tử vì lòng rộng rãi nên đã đánh giá người nữ quá cao. Chẳng có bà mẹ nào dám dứt bỏ con mình – là núm ruột không lìa – để cho kẻ khác, dẫu là với đại nguyện cao cả thế nào. Đợi lệnh bà về, nếu vì quyến luyến thương tiếc thì trở ngại cho sự bố thí của Thái tử xiết bao? Một ngàn lần chiến thắng được mình, nhưng sẽ một lần thất bại trước giọt nước mắt của người đàn bà. Hãy cho gấp hai trẻ đến lão, rồi lão sẽ đi ngay.
Chẳng biết sao hơn, đức Vê-xanh-ta nói:
- Ta sẽ y lời. Nhưng này lão Bà-la-môn! Sau khi được hai trẻ rồi, lão nên dẫn chúng đến vương phụ ta. Ngươi sẽ được ban thưởng nào là ngựa, bò, trâu, vàng bạc, tôi trai lẫn tớ gái... để lão sống một đời ngũ dục dư dã, hạnh phúc.
Lão Bà-la-môn lắc đầu:
- Không thể được, thưa Thái tử! Lão là dân đầu đường xó chợ, quần túm áo ôm; khi dẫn hai trẻ đến cung vàng hoa lệ thì ai cũng cho rằng lão là tên cướp đường, cướp rừng, cướp biển. Người thành phố cao sang thường truyền tụng câu ngạn ngữ: Người lương thiện không ai mặc áo rách! Chắc Thái tử cũng đã có nghe? Và nếu vậy, khi đức vua ghép lão vào tội ăn cắp hai trẻ, bắt tra khảo đánh đập, xử giảo, lăng trì hay treo đầu, chém cổ thì lấy đâu mà khiếu nại? Giả dụ Thái tử có biết thì cũng đã muộn rồi. Chẳng thể đâu, Thái tử!
Khi đức Vê-xanh-ta và lão Bà-la-môn nói chuyện với nhau, Ra-ly và Kanh-ha đều nghe rõ hết. Biết số phận của mình, hai trẻ run sợ tái xanh mặt. Như chú nai trông thấy móng vuốt của cọp beo, như hai linh hồn yếu đuối bị lưỡi hái của tử thần rượt đuổi sau lưng – hai trẻ tìm đường trốn thoát. Chúng ẩn trong hốc cây, sau đó, chúng lao xuống ao sen, trầm mình dưới nước, rồi lấy lá sen phủ đầu. Bốn con mắt tho lỏ như bốn con mắt nai nhìn về phía tịnh thất, lo lắng, sợ hãi.
Lão Bà-la-môn nhìn quanh không thấy chúng, cảm thấy bất bình, lớn tiếng nói rằng:
- Tôi đến đây áo quần lấm bụi, chưa tỏ hết lời mà Thái tử đã vui lòng bố thí cho hai trẻ. Ôi! Quả như lời đồn: đức Vê-xanh-ta, Thái tử con vua Thệ Sanh và hoàng hậu Trầm Hương, nguyện bố thí bất-nghịch-ý gia tài, vợ con và cả tính mạng đến tất cả chúng sanh. Ôi! Thật là cao cả thay! Thật là lớn lao thay tấm lòng trời bể.
Lão lại quỳ xuống đảnh lễ rồi nói:
- Muôn tâu bậc ẩn sĩ thanh tịnh! Như thế thì lão chẳng hiểu, tại sao ngài lại phải chần chờ, đợi nữ đạo sĩ Ma-đà-ly về? Thái tử cho nhưng lệnh bà cản, thì phải chăng lời đại nguyện kia vẫn cứ thành tựu? Phải thế không? Lại nữa, hai trẻ trốn mất đi, nếu không có ám hiệu của cha chúng thì chúng chẳng dám nào. Lời của Thái tử vốn quý báu như ngọc vàng, như đao phá thạch, lẽ nào hôm nay trước sau chẳng như một?
Bị lão Bà-la-môn sỉ nhục thậm tệ, đức Vê-xanh-ta vẫn ôn tồn nói:
- Hãy bình tĩnh lại, đừng hiểu lầm! Lời ta nói ra chẳng dám coi như kim khẩu, nhưng cũng coi nặng bằng non. Để ta đi tìm hai trẻ.
Nói xong đức Vê-xanh-ta nhìn quanh một hồi rồi bước đến ao sen. Hai trẻ không dấu đâu được trước sự thông minh của ngài. Hướng về hai con, đức Vê-xanh-ta nói rằng:
- Này Ra-ly! Con yêu quý của cha! Con sinh ra trong dòng giống quý tộc, là cháu của đức vua Thệ Sanh oai danh lừng lẫy, là con hiếu thảo của ta! Lẽ đâu con không hiểu điều ấy để người Bà-la-môn này tìm lý do để trách cứ ta? Ra-ly quý mến! Dòng dõi của chúng ta chưa hề bị ai sỉ nhục mà hôm nay đã bị người sỉ nhục!
Con ôi! Ta rất thương hai con, nhưng ta lại thương yêu hơn nữa là con đường cứu khổ chúng sanh. Ta thương yêu sự giác ngộ cao cả vậy.
Con hỡi! Giữa biển lớn, dẫu những kẻ thương buôn cố tìm các loại cây danh mộc để tạo những chiếc thuyền chắc chắn, kiên cố; nhưng chỉ cần bất ngờ một cơn sóng to, một cơn bão rớt – thuyền kia sẽ bị sóng đánh tan hoặc chìm sâu xuống bể cả. Những chiếc thuyền đời chẳng có gì là bền vững vậy.
Con yêu quý! Hãy nhìn thấy xa! Hãy nhìn thấy rộng! Ta với đại nguyện trong lòng làm người thuyền trưởng ra giữa biển sinh tử để độ thoát cho chúng sanh, thì hai con sẽ là chiếc thuyền pháp kiên cố vững bền nhất. Hai con không giúp ta, thì làm sao ta thành tựu được sở nguyện cuối cùng?
Trẻ Ra-ly nghe lời đức Vê-xanh-ta nói, cảm thấy xốn xang khó chịu trong lòng, tự nghĩ:
- Ta đây là dòng dõi cao quý, tại sao lại hèn nhát trốn núp ở đây để cho cha ta bị người mạ lị? Dẫu lão Bà-la-môn tàn ác kia có đánh đập giết hại ta – thì ta cũng đừng vì vậy mà làm tổn thương danh dự cùng tư cách kẻ giống dòng.
Nghĩ thế xong, trẻ Ra-ly mạnh dạn vẹt lá sen lội lên, hôn bàn chân phải của đức Vê-xanh-ta, đứng bên rồi khóc ròng. Noi gương anh, bé Kanh-ha cũng lên khỏi ao, hôn bàn chân trái của cha rồi lấm lét đưa mắt nhìn lão Bà-la-môn.
Trước cảnh ấy, đức Vê-xanh-ta xúc động đến chín lịm người đi. Tuy thế, sau một hồi trấn tỉnh phi thường, ngài cầm tay hai trẻ âu yếm nói:
- Ra-ly và Kanh-ha con ta! – Ngài đưa tay chỉ ra phía hồ – Những cây sen kia mọc từ dưới đáy bùn, chúng vươn lên ngang mặt nước, vượt lên khỏi mặt nước để trổ lá đơm hoa thơm ngát. Cũng vậy, chúng ta cũng từ những ao hồ, những đáy bùn ô trược của cuộc đời, hãy vươn lên mãi, chế ngự những bản chất và cá tính tầm thường để sau này nở thành những đóa sen cao quý, tinh khiết.
Các con hỡi! Hãy ngước mắt lên nhìn ta, và hãy tươi tỉnh và can đảm nở nụ cười, để xứng đáng là con dòng cháu giống. Các con là cái gì trân quý nhất của ta, trân quý hơn trân bảo đến muôn vạn lần. Các con nhé! Hãy vui vẻ mà đi theo người Bà-la-môn. Nếu sau này Thái Thượng Phụ có chuộc hai con, thì Ra-ly phải là một ngàn lượng vàng ròng, Kanh-ha thì phải hơn thế nữa, không những là một ngàn lượng vàng ròng mà còn bò sữa, bò đực, ngựa, tôi trai tớ gái mỗi thứ mỗi trăm mới tạm thời xứng giá. Và khi được trở về với Thái Thượng Phụ rồi, các con sẽ tha hồ mà vui chơi nhảy nhót. Còn bây giờ thì hãy nghe lời ta, hỡi các con hiếu thuận!
Đức Vê-xanh-ta dẫn hai con về phía tịnh thất, lấy nước trong rưới lên bàn tay lão Bà-la-môn, chú tâm rải lòng từ bi, phát sanh tình cảm thanh khiết, vắng lặng rồi nói:
- Hai trẻ là quả tim, là đôi mắt của ta. Này lão Bà-la-môn! Vì thương yêu sự Giác ngộ, yêu thương hết thảy chúng sanh trăm phần hơn nên ta bố thí hai trẻ đến cho người. Nguyện cầu quả bố thí là nhân duyên cho đạo quả Vô Thượng Bồ-đề!
Khi đức Vê-xanh-ta trao trẻ cho lão Bà-la-môn, quả địa cầu dày hai trăm bốn chục ngàn do tuần chấn động mãnh liệt. Sóng ở biển đột ngột dâng cao, vỗ giữa hư không ì ầm không ngớt. Chư thiên nhìn nhau kinh sợ. Trời Đế Thích nóng nảy ngồi đứng không yên.
Lão Bà-la-môn vừa được hai trẻ, đã nói:
- Lão già cả sức yếu, nếu hai trẻ bỏ chạy thì lão làm sao đuổi kịp? Xin Thái tử vì lòng từ tâm, vì lời nguyện vô thượng, trói hai trẻ giùm lão!
Đức Vê-xanh-ta với lòng nhẫn nhục cao độ, trói hai trẻ giao cho lão Bà-la-môn. Được chúng rồi, lão nắm mạnh đầu dây lôi đi. Được vài bước, hai trẻ trì lại, lão quay ngược gậy đánh cho mấy hèo. Hai trẻ khóc, lão lại thẳng tay đánh nữa; vừa đánh vừa chửi, không chút vị nể:
- Trước đây, lũ chúng bay là giống dòng quý tộc cao sang, nhưng giờ đây là tôi tớ lão, ỷ thế gì mà cứng đầu, ngoan cố hả? Lão sẽ đánh cho bò lê bò càng ra, đồ khốn kiếp!
Thảm thương cho hai trẻ, nước mắt tuôn rơi như mưa, đưa đôi mắt khẩn cầu nhìn cha chúng. Đức Vê-xanh-ta quay lưng giấu nỗi xúc động. Lòng như từng đợt sóng trào lên rồi chìm xuống, ngài cứ để tâm trú vào bản chất rỗng không của Pháp, hồi lâu ngài tìm được sự yên tĩnh của mặt hồ. Trong khi ấy có một vị Dạ-xoa định thò tay bóp cổ lão Bà-la-môn, nhưng một vị trời đã ngăn lại, nói rằng:
- Đế Thích thiên vương còn tức giận lão kia hơn nữa kìa, nhưng hãy để yên, đừng tham dự vào sở nguyện Ba-la-mật của đức Vê-xanh-ta!
Trẻ Ra-ly đưa mắt nhìn vào tịnh thất:
- Cha ơi! Sao cha nỡ lòng nào để lão Bà-la-môn đánh đập chúng con? Cha ơi! Sao cha đành bỏ chúng con để cho lão già khốn kiếp, hèn hạ này lôi kéo chúng con đến trầy da tươm máu? Buổi sớm vào non hái trái, mẹ con đã phó thác hai con cho cha như thế nào, cha quên rồi ư? Hãy vì chút tình phụ tử mà cứu chúng con, cha ôi!
Hai trẻ càng khóc la bao nhiêu, lão Bà-la-môn càng đánh đập bấy nhiêu. Đã gãy một cái gậy, lão tìm cái gậy khác. Hai trẻ đau quá, bò dưới đất, năn nỉ xin tha mà lão Bà-la-môn tấm lòng sắt đá dường như chẳng biết xót thương là gì!
Lão Bà-la-môn nghiến răng, đanh mặt lại:
- Tụi bay đừng tưởng con vua cháu chúa mà xấc xược khinh người. Tao sẽ đánh tụi bay như đánh những con chó hoang.
Rồi lão lại giáng gậy như mưa bấc, chẳng khác gì một trận đòn thù. Ra-ly trườn mình tới, đỡ đòn cho em. Một sức mạnh từ đâu không biết, nó đứng bật dậy:
- Này lão già khốn nạn! Nếu lão còn là giống người, đủ can đảm thì hãy đánh ông đây! Sao lão cứ đánh mãi em ta? Nó là gái yếu đuối, đâu chịu nổi cánh tay thú vật của ông? Thật là hèn hạ bỉ ổi!
Lão Bà-la-môn không giận mà lại cất tiếng cười quái gở. Những trận mưa đòn gậy lại ập xuống trên lưng, trên đầu, trên cổ Kanh-ha.
Lại kể lể:
- Bọn bây ngon lắm! Lá ngọc cành vàng ghê gớm lắm! Sung sướng quen rồi. Lão đây thiếu cơm thiếu áo, canh cặn cơm thừa, bị khổ sở suốt cả một cuộc đời khốn nạn. Bọn bây mới bị đánh đập một chút ít thì cũng chưa sao!
Ra-ly ôm Kanh-ha đã ngất lịm đi vì đau đớn. Nó cắn răng chịu đòn thay em. Thương thay, thân thể rướm máu, môi bật máu mà linh hồn chúng dường như cũng rỉ máu:
- Em ơi! Cha chúng ta đã thật sự bỏ chúng ta rồi. Điều này mới chính thật là đau đớn hơn. Mẹ ơi! Mẹ ở đâu? Hãy cứu chúng con, mẹ ơi! Ôi! Đau quá! Vĩnh biệt cha! Vĩnh biệt mẹ!
Đức Vê-xanh-ta ở trong tịnh thất. Mặt hồ đang yên lặng, sóng lại cuộn trào lên. Lần này thì trào lên dữ dội hơn bao giờ. Cứ mỗi tiếng roi vọt, mỗi tiếng kêu la, mỗi lời than thở của trẻ là ngài lại thốn đau, tim thắt lại, ruột gan như bị lửa nung đốt. Thế là một ác niệm khởi lên. Ác niệm kia lớn dần, mạnh dần dường như không kìm hãm nổi. Tuy nhiên, đức Vê-xanh-ta lại chiến thắng, nhờ ngài nghĩ đến chư Phật trong quá khứ đã từng móc gan, móc ruột, cắt tim, khoét mắt mình để cứu chúng sanh. Ngài lại còn nghĩ đến con đường Giác Ngộ Vô Thượng, đến sự luyến ai buộc ràng là nhân của trầm luân sinh tử. Hồi lâu, tâm đức Vê-xanh-ta lại trở nên yên lặng, yên lặng rất sâu. Sắc mặt ngài đã trở nên khoan hòa, mát mẻ.
Lão Bà-la-môn đã dẫn hai trẻ đi xa được một đoạn đường. Cứ mỗi lần hai trẻ đi chậm hoặc chính lão bị vấp té là lão quay lui đánh chưởi vô hồi kỳ trận.
Ra-ly ngước mắt lên trời than:
- Cao xanh hỡi cao xanh!
Kiếp trước nhân chi, nghiệp phải đành
Xót dạ, con đi, sầu chín khúc
Đau lòng, mẹ ở, lệ năm canh
Thương em gầy yếu đời gai góc
Nhớ mẹ đơn côi, kiếp lạnh lùng
Tổ ấm hàn ôn, giờ vĩnh biệt
Phương người, chôn kín bóng song thân!
Chư thiên khắp núi rừng Gri-văng-ca thảy đều ngậm ngùi sa lệ...
Trong lúc ấy, tại rừng sâu, nàng Ma-đà-ly trong lòng quặn thắt, đi tới đi lui, xốn xang, bứt rứt không yên. Nàng chẳng hái được bao nhiêu trái cây trong suốt buổi sáng. Nàng không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, chỉ biết ruột xé tợ dao bào. Mới chia tay hai con mà tưởng chừng như đã lâu lắm, nàng chợt sợ hãi đến lạnh người khi nghĩ rằng: sẽ không còn nhìn mặt hai con được nữa!
Ôi! Sợi dây mẫu tử thiêng liêng tưởng như vô hình nhưng mà nó hiện hữu mãnh liệt xiết bao! Ngay chính khi Ra-ly gào kêu, cầu cứu mẹ đến khản giọng – thì nàng nóng nảy, bươn bả bỏ rừng tìm về. Chư thiên thấy và biết mọi sự, sợ nàng không chịu nổi tình trạng thê thảm của hai con, có thể kinh động, gây trở ngại cho tâm nguyện của Thái tử - nên theo lời dạy của trời Đế Thích – họ hiện ra sư tử, cọp, beo nằm chặn tất cả các con đường.
Nàng Ma-đà-ly trở về ngã nào cũng gặp ác thú, chẳng biết sao hơn, đành chấp tay khấn vái vô cùng tha thiết. Chư thiên tuy cảm động lắm, nhưng chỉ đợi lúc hai trẻ đã đi xa, họ mới không ngăn nàng nữa. Về đến tịnh thất vắng hoe, nàng kêu hai con đến rát cổ mà chẳng nghe lời đáp lại. Tóc tai rối bù, y áo nhàu nát nàng chạy từ hốc cây này qua kẹt đá khác, sục sạo tìm kiếm.
- Ra-ly! Kanh-ha! Hai con yêu quý của mẹ! Hai con ở đâu?
Tiếng vọng dồn dâp, nghẹn ngào của nàng chỉ có núi rừng vọng lại.
Đức Vê-xanh-ta nghĩ:
- Nàng đã về. Không có hai con, nàng có thể sinh ra điên cuồng, quẩn trí. Hãy để cho tâm nàng lắng lại, ta sẽ nói.
Ngoài kia, tiếng gọi của nàng Ma-đà-ly càng lúc càng thê thảm:
- Ra-ly hỡi! Kanh-ha hỡi! Hai con ở đâu? Ôi! Có tai nạn ác nghiệt nào xảy đến cho hai con tôi rồi. Trời xanh ơi! Cao xanh ơi! Sao tôi khổ thế này?
Tiếng gọi tuyệt vọng của nàng vang vang từ cánh rừng này qua cánh rừng khác, hồi lâu lại trở về bên cửa tịnh thất của đức Vê-xanh-ta. Người nàng bây giờ đã kiệt lả ra, như cái xác vô hồn.
- Hai con tôi đâu? Xin Thái tử cho biết là hai con tôi đâu? Hai trái tim và mạng sống của tôi giờ ở đâu?
Hỏi đến lần thứ ba, đức Vê-xanh-ta vẫn im lặng. Nàng lại khóc, kể lể:
- Chàng ôi! Mỗi lần thấy tôi về từ đằng xa thì chúng đã ríu rít, líu lo như sáo cưỡng. Trẻ Ra-ly hôn bên bàn chân phải, trẻ Kanh-ha hôn bên bàn chân trái. Tôi ẵm chúng trong tay. Tôi cười, chúng cười. Đứa chạy trước, đứa chạy sau lúp xúp mới dễ thương làm sao! Ôi! Tôi nhớ Ra-ly có một vết thương nhỏ xíu trên má trái vì cỡi chú ngựa rừng tí hon bị té. Trẻ Kanh-ha có bắp chân tròn mũm mĩm với rất nhiều nốt ruồi son. Tưởng nó là tướng đại phú quý! Chúng vây quanh giỏ trái cây, bảo trái này là của cha, trái này là của mẹ. Chúng đội hoa trên đầu, quàng hoa trên cổ, tung tăng trên lối cỏ xanh ra bờ suối, đến ao sen. Ôi, biết bao tháng ngày quạt nồng ấp lạnh. Chúng đau là tôi đau. Chúng vui là tôi vui. Vắng bóng chúng là tôi vắng mặt trời, là tâm hồn tôi tối tăm lạnh lẽo! Ôi! Chàng ôi! Giờ chúng ở đâu? Sao chàng không nói một lời?
Đức Vê-xanh-ta nghĩ: niềm đau khổ của nàng đã bắt đầu giảm bớt. Ta hẳn đợi một lúc nữa, khi tâm hồn nàng đã hoàn toàn lắng dịu, ta sẽ nói!
Nàng Ma-đà-ly đã hơi tỉnh táo:
- Phu quân kính mến! Dẫu hai trẻ có bị ác thú trở chứng làm hại, dẫu hai trẻ có bị tai họa nguy hiểm chừng nào, thì phu quân cũng cứ cho thiếp biết. Sự im lặng của phu quân làm cho thiếp đau khổ hơn là mất hai con nữa. Phu quân ơi! Hãy nói với thiếp một lời!
Đức Vê-xanh-ta bây giờ mới mở mắt ra.
- Ma-đà-ly yêu quý! Bây giờ nàng đã bình tĩnh và sáng suốt rồi. Ta báo cho nàng hay là hai con ta không bị ác thú làm hại, không có bị tai nạn chết người đâu. Nàng hãy an tâm.
Nàng Ma-đà-ly ngồi bình tĩnh, chờ đợi lắng nghe.
Đức Vê-xanh-ta tiếp:
- Thấy nàng đau khổ thái quá khi vắng bóng hai con nên ta chưa thốt ra lời đó thôi. Nàng hỡi! Ta biết tình mẹ thương con như thế nào, và tình ta đối với hai con cũng sâu đậm lắm, nhưng tuyệt đối không thể so sánh được với nàng. Hai trẻ, vì đại nguyện bố thí bất - nghịch - ý, ta đã cho đến người rồi. Hãy bình tĩnh. Hãy bình tĩnh!
Nàng Ma-đà-ly lặng người đi rất lâu, nước mắt đã khô chảy.
Đức Vê-xanh-ta lại nói:
- Ta yêu quý nàng. Ta yêu quý hai con. Nhưng đối với chúng sanh trầm luân đau khổ ta lại rất tha thiết đi tìm phương thuốc cứu độ. Chư Phật quá khứ thường như thế. Mất nàng, mất hai con, ta có thể chết được, nhưng dẫu sao, cũng chỉ chết một đời. Nhưng mất cơ duyên đại giác, đời chúng ta sẽ chìm đắm trong bóng tối mãi mãi. Nàng hỡi! Hãy giúp ta! Hãy tiếp sức với ta trong tình thương thanh khiết này. Ấy là tình thương của bờ kia, tình thương không hệ lụy, buộc ràng; tình thương không phân ly và nước mắt. Nàng đã phát nguyện tùy thuận với ta, đi theo một con đường, thì nàng hãy cho ta đạt thành sở nguyện chứ? Có bao giờ ta dám dối nàng hoặc hết yêu thương nàng và con để trở thành gỗ đá vô tri? Chính đạo quả Vô Thượng Bồ Đề mới nói lên ý nghĩa tình thương chơn chánh ấy. Ma-đà-ly nàng hỡi! Nàng nghe rõ những điều ta vừa nói đó chứ?
Nàng Ma-đà-ly ngước đầu lên, đôi mắt còn đỏ hoe:
- Nghe rõ! Nghe rõ từ trong chỗ sâu xa nhất của trí não, thưa phu quân! Từ lâu, thiếp chỉ nghe bằng trái tim nên thiếp đã sai lầm. Thiếp đã có hứa cùng chàng thì đâu có thể thay đổi được. Tuy thế, nghiệp chướng của nữ nhân vốn nặng nề về luyến ái, dẫu đồng ý với chàng nhưng vẫn còn đau đớn lắm. Xin phu quân xá tội cho.
Đức Vê-xanh-ta gật đầu:
- Ta đâu dám trách nàng điều chi? Nàng cũng không có tội gì. Tình mẫu tử thiêng liêng là một tình cảm đáng trân trọng. Tuy thế, nàng cũng phải hiểu rằng, đấy là nhân của tử sinh và đau khổ. Bây giờ, nàng đã chiến thắng, nàng đã bước ra khỏi cái thế tình. Nàng đã không phụ lòng ta, nàng đã không thẹn với chư Phật. Bánh xe xuất thế, nhờ nàng đã bắt đầu chuyển nhịp. Quả đất đang rung động đó, nàng có biết không? Chư thiên đang tán thán, ca ngợi nàng làm rung rinh mấy tầng không gian lớn rộng, nàng nghe rõ không?
Những lời đúng đắn, phải lẽ kia như viên thuốc hồi sinh; tình cảm, lý trí và sự sống nơi nàng Ma-đà-ly đã bắt đầu máy động. Khuôn mặt ngọc giờ đã ráo lệ, nàng Ma-đà-ly bất chợt nở nụ cười. Nàng đang cố gắng tìm sự bình an trong trạng thái tình cảm trong sáng và vắng lặng...
Ngay khi ấy, một đạo sĩ nghiêm trang, dung sắc tốt đẹp vô cùng, xuất hiện trước tầm mắt hai người. Đạo sĩ choàng áo da thú, to lớn, chững chạc, trầm tĩnh như chúa sơn lâm vừa bước ra khỏi động báu. Môi mỉm nụ cười hoa sen, đạo sĩ nói:
- Tốt đẹp thay là vị ẩn sĩ thanh tịnh! Tốt đẹp thay là kẻ viễn ly đô thị, sống đời phạm hạnh bằng trí tuệ chiếu sáng như trăng sao! Tốt đẹp thay là người có giới đức như viên ngọc Ma-ni không tỳ vết! Hỡi bậc đại ẩn sĩ! Tôi kỉnh mộ và tịnh tín ngài! Tôi chúc mừng ngài với tất cả những gì thiện hảo nhất!
Đức Vê-xanh-ta và nàng Ma-đà-ly ngạc nhiên đến sửng sốt. Sự xuất hiện đột ngột, ngôn ngữ lưu loát, dung nghi và cốt cách long phụng của đạo sĩ tỏa ra ánh sáng khác phàm. Đức Vê-xanh-ta nghiêng mình đáp lễ rồi nói rằng:
- Hỡi người tu hành khả kính! Mà, mặc y phục bằng da thú là nhân sanh thiện giới của nhiều kiếp vị lai! Cảm ân sự mến mộ của người. Chẳng hay người từ phương nào lại, muốn chỉ giáo tôi điều gì? Hoặc tôi có thể giúp đỡ gì được cho người? Nhưng trước tiên, xin người hãy tắm rửa, rồi tạm dùng các vật thực cây trái có sẵn. Tất cả đều đầy đủ, thơm ngon và tinh khiết. Người hãy tùy nghi sử dụng. Tất cả là của người.
Vị đạo sĩ nghiêng thân nói:
- Hỡi bậc đại ẩn sĩ quý trọng! Trước sự chân tình và lòng hảo tâm của người, ta đã lĩnh ý. Và coi như ta đã thọ dụng rồi vậy!
Đức Vê-xanh-ta tự nghĩ: người này, kẻ này – dung nghi sáng rỡ như một đóa hoa ở cõi trời – chắc chắn không phải là hạng đạo sĩ tầm thường! Y đến đây để dạy bảo ta? Thử thách ta? Hay là sẽ xin ta cái gì trân quý nhất? Bèn gợi ý:
- Ngàn dặm đường xa tới chốn thâm sơn cùng cốc này, chắc chẳng phải ngài chỉ có bấy nhiêu lời thiện cảm và đầy khách sáo? Phải có lý do chính đáng mới làm cho ngài mất công phu và thì giờ? Hỡi đạo sĩ với phẩm cách cao thượng và thoát tục, ngài hãy nói đi và ta xin nghe!
Đạo sĩ mỉm cười khó hiểu:
- Ta đâu dám đến đây để dạy bảo ngài điều gì! Ta cũng chẳng có gì thắc mắc để làm bận tâm bậc tu hành khả kính! Mục đích của ta là đến xin một vật trân quý nhất của ngài thôi!
Đức Vê-xanh-ta thật lòng nói:
- Tiếc thay, ngài đến muộn mất rồi! Trước đây hằng muôn xe vàng bạc và của cải, ta đều cho đi hết sạch. Những thứ trân quý như bảo châu, anh lạc, hổ phách, mã não, xa cừ... ta cũng đã bố thí hết cho lê dân...
- Những thứ ấy chẳng phải là trân quý!
Đức Vê-xanh-ta lại một lần nữa ngạc nhiên:
- Cho chí ngôi vương ta cũng không còn bịn rịn. Hai đứa con ta, hai hoàng tôn vô giá, ta cũng đã bố thí đến cho người!
Đạo sĩ mỉm cười:
- Ta chỉ muốn một thứ quý hơn, cao sang hơn tất cả những thứ mà ngài vừa kể.
Đức Vê-xanh-ta lạ lùng nhìn đạo sĩ, một lát, ngài cũng mỉm cười:
- Vậy thì ta chỉ còn cái cốc tranh, nước lã, cây trái cùng tệ phụ nhân!
Đạo sĩ nói:
- Cốc tranh, nước lã, cây trái... thì ở đâu mà chẳng có!
Đức Vê-xanh-ta chợt hiểu:
- A! vậy thì phu nhơn của ta, chẳng hay người muốn ta bố thí chăng?
- Phải rồi! Chỉ có nàng mới đáng gọi là trân quý đối với ta!
- Nhưng ngài là kẻ tu hành – đức Vê-xanh-ta nói – là sống đời phạm hạnh, có lẽ nào...?
- Còn Ngài thì sao? – Đạo sĩ mỉm cười hỏi – Ngài không là kẻ tu hành phạm hạnh sao? Rồi giọng đạo sĩ chợt trang nghiêm – Ta cần một người đàn bà thủy chung và đức hạnh, mà hương thơm tỏa ra còn tối thượng hơn cả già-la-hương, chiên-đàn-hương! Ngài có giúp cho ta được như nguyện chăng? Bậc đại ẩn sĩ có dám cho ta viên bảo châu vô giá đó?
Biết đạo sĩ nói thật, đức Vê-xanh-ta không còn hoài nghi nữa; khẽ cầm tay nàng Ma-đà-ly – lúc ấy, sắc mặt nàng không có ý phản đối – lấy nước rưới lên tay đạo sĩ, rồi trao nàng tận tay ông ta:
- Viên trân châu bảo ngọc này còn là trái tim, hơi thở và mạng sống của ta, bây giờ là của ngài.
Lại ân cần nói với nàng:
- Đối với ta như thế nào thì với đạo sĩ, nàng cũng phải như vậy.
Nàng Ma-đà-ly kính cẩn nói:
- Thiếp bây giờ do tâm ý chàng mà sanh ra, do tâm ý chàng mà tác thành và hiện hữu! Là hình ảnh, là con thuyền vững bền của chàng để đi đến nơi bến giác xa xăm!
Cả ba người lúc ấy thảy đều mát mẻ.
Quả địa cầu rung động. Thiên âm giữa hư không, hốt nhiên đọc bài kệ tán thán hy hữu:
- Của cải tuy quý,
Nhưng thoắt đến thoắt đi
Vàng bạc, ngọc ngà tuy quý
Nhưng chỉ như màu sắc của mây;
Sự lộng lẫy của bong bóng nước!
Con cái tuy quý,
Nhưng đứa khác sẽ sinh ra!
Còn người vợ mỹ miều và đức hạnh thì,
Thắp đuốc đi tìm trên thế gian
Nào có dễ đâu!
Thế mà đức Vê-xanh-ta
Có thể dứt bỏ luyến ái dễ dàng
Như cắt núm ruột mình
Ném cho loài phi điểu
Ôi! Hy hữu thay là hạnh khó làm!”
Vị đạo sĩ nhận nàng Ma-đà-ly, khoan thai bước đi. Được bảy bước, đạo sĩ trở lại, trao nàng tận tay đức Vê-xanh-ta.
Đức Vê-xanh-ta ngạc nhiên hỏi:
- Nàng Ma-đà-ly, viên trân châu vô giá của ta, không vừa ý, đẹp lòng ngài sao? Chẳng hay nàng có khiếm khuyết gì về sắc đẹp và đức hạnh?
Đạo sĩ mỉm cười lắc đầu:
- Không! Toàn hảo! Nàng là người đàn bà toàn hảo trên thế gian mà ta tìm thấy. Dẫu trong quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng chưa có ai bằng nàng, huống nữa là hơn nàng!
Nói thế xong, hốt nhiên đạo sĩ bay lên giữa hư không, hiện thành vị trời với đai áo mũ miện cẩn ngọc dát vàng, lộng lẫy chiếu sáng cả khoảng không gian lớn rộng. Đức Vê-xanh-ta và nàng Ma-đà-ly chưa kịp ngạc nhiên, thì đạo sĩ đã nói:
- Hỡi này bậc ẩn sĩ khả kính! Sự bố thí Ba-la-mật của ngài đã thành tựu. Ta chính là Đế Thích thiên vương, xuống đây cốt để thử lòng ngài, có đang tâm bố thí vật khó bố thí, xả ly vật khó xả ly, dứt ái luyến buộc ràng với người vợ hiền đoan trang, đức hạnh. Ôi! Cao cả thay! Đức Vê-xanh-ta đã làm được! Ôi! Tối thượng thay là kỳ tích hy hữu!
Đức Vê-xanh-ta cùng nàng Ma-đà-ly như rơi vào giấc mộng.
Trời Sakka lại nói:
- Với oai lực của chúa Chư thiên cõi trời Ba mươi ba, ta hằng giúp mong muốn, sở nguyện đến cho những ai kiên trì và dõng mãnh đi theo thiện pháp. Vậy này hỡi Thái tử con vua Thiện Sanh và bà hoàng hậu Trầm Hương, cũng vậy, người hãy nói lên bốn điều sở nguyện, ta sẽ thành tựu cho.
Biết đây là vị trời có rất nhiều oai lực, ngài đã nói được, tất làm được. Ngẫm nghĩ giây lâu, đức Vê-xanh-ta nói:
- Chúng sanh ở cõi Ta-bà này hằng sống trong cảnh lo sợ hãi hùng vì chiến tranh, chém giết, hận thù, oan trái... Lại bị nạn nước, nạn lửa, cảnh sinh ly, từ biệt... Rồi cái bệnh, cái chết, cái nghèo đói lúc nào cũng như chiếc lưỡi hái của tử thần chực sẵn trên đầu. Vậy thì xin đức Đế Thích, vị trời chúa của những vị trời, mà oai lực bao trùm cả bốn châu thiên hạ, hãy cho tôi thành tự sở nguyện đầu tiên: Làm sao cho chúng sanh hằng thoát khổ được vui, hạnh phúc và an lạc đời đời kiếp kiếp!
Trời Sakka thốt lên:
- Ôi to lớn thay là ước nguyện của bậc đại chúng sánh! Vĩ đại thay là lòng từ của bậc chí nhân, chí thiện. Nhưng điều này ở ngoài uy lực của ta mất rồi. Ta chịu thôi. Hãy nói lên lời ước nguyện khác.
Đức Vê-xanh-ta thở dài, trầm ngâm chốc lát, lại tiếp:
- Biết bao cảnh con giết cha, vợ giết chồng! Cương thường đạo lý ở thế gian càng lúc càng thoái hóa. Lại nữa, chúng sanh hiện đang hăng say vào những việc làm tội lỗi như cướp của, giết người, tham dâm, ác độc, dối trá... Lời dạy của đấng đại hiền, của thánh triết, minh thư, chúng coi như đống giấy vụn, chúng bảo là vì cái đó không đem lại áo cơm, chẳng có lợi ích gì thực tế! Than ôi! Thần đã khóc, quỷ đã khiếp vì sự bạo tàn và hủy diệt lương tri của sinh chúng thời nay. Vậy thì xin đức Thiên Vương cao cả, với uy lực của ngài: làm sao cho chúng sanh thấy rõ nhân quả, tội phước – để chúng tự ngăn mình, hoặc làm nên các thiện sự hữu ích cho chúng lâu dài về sau.
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:41:09 GMT -5
Trời Sakka lại thốt lên:
- Ôi! Kỳ diệu thay là ước nguyện của một chúng sanh hữu tình ưu việt và tối thắng! Ôi! Sáng suốt thay là ước nguyện của vị Phật thời hậu lai! Nhưng thưa Thái tử! Ta là gì mà dám có oai lực vượt ra ngoài oai lực của ta? Tầm vóc của ước nguyện kia còn lớn hơn mười muôn triệu núi Tu Di kết hợp lại. Ta cũng nhờ chút phước lành trong quá khứ, do làm các thiện sự không biết mệt mỏi, nên được ngồi trên đầu một ngọn sóng, giữa vô lượng đợt sóng nhấp nhô chìm nổi của đại hải nhân quả nghiệp báo đó thôi! Ôi! Đức Vê-xanh-ta hỡi! Hãy nói lên lời ước nguyện khác!
Đức Vê-xanh-ta thấy cả hai ước nguyện tha thiết và chân thành nhất của mình mà vị trời nhiều oai lực kia cũng không thành tựu được; chẳng biết sao hơn, tự nghĩ: Hay là ta xin những ước nguyện, mà từ đó, ta có thể dùng làm phương tiện tốt đẹp lâu dài cho Đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, bèn nói:
- Vậy thì điều thứ nhất: cho ta được trùng phùng phụ tử, thân tộc; kế vị ngôi vương để có cơ hội trị vì quốc độ theo chánh pháp.
Trời Sakka hoan hỷ đáp:
- Điều đó được. Rồi ngài sẽ được như nguyện.
- Điều thứ hai: Khi ta làm vua thì của cải, bạc tiền, châu báu hằng có đủ, để ta giúp ích sự ấm no đến cho tất cả mọi người!
Trời Sakka lại gật đầu:
- Ta sẽ cho ngài dư thừa về tài sản. Ta sẽ trút xuống một trận mưa bảy báu tràn ngập cung điện của ngài.
Đức Vê-xanh-ta lại nói:
- Điều thứ ba: Từ Thái Thượng Hoàng, các quan đại thần, bá tánh, ai ai cũng hoan hỷ thọ trì giới luật, đừng ngỗ nghịch chống đối hay phỉ báng các thiện sự!
- Ta sẽ lệnh cho chư thiên ở quốc độ ngài, hộ trì cho ngài, muôn dân cùng bá tánh; trừng trị kẻ ác đức, nâng đỡ người hiền lương – tạo cho chúng thuận thảo với bạch pháp!
- Điều thứ tư: Trí tuệ và từ bi trong ta hằng có đủ, không bao giờ bị che lấp, không mệt mỏi với lợi ích chung, tinh tấn mãi mãi trên con đường Vô Thượng Bồ Đề!
- Rất tốt – trời Sakka nói – Ta sẽ tìm cách khuyến khích và nhắc nhở ngài. Tất cả bốn điều ước nguyện của Ngài sẽ được viên mãn như ý!
Sau khi hứa khả thi những sở nguyện của đức Vê-xanh-ta, trời Đế Thích biến mất giữa hư không trong nháy mắt, trở về Đao Lợi Thiên Cung.
Suốt gần một ngày lão Bà-la-môn chưa đi ra khỏi dãy núi Gri-văng-ca hùng vĩ. Lại thêm hơn hai ngày đêm nữa lão mới tới được chân núi Càng-đà-ma-đằng, vì lão cố ý tìm đường lẩn tránh tên chúa thợ săn hung ác! Hai trẻ thân thể đã rách như xơ mướp, lếch thếch khóc la thảm thiết mà lão Bà-la-môn vẫn cứ lối kéo bừa đi còn tệ hơn con vật. Lão đã nổi thú tính mất rồi!
Đêm xuống, giữa chốn rừng già thâm u ghê rợn, khi muông thú xuất hiện đó đây, lão Bà-la-môn sợ hãi đến dựng tóc gáy. Lão lấy dây cột hai trẻ ở gốc cây rồi leo lên một nhánh cao to ẩn trú qua đêm, tự nghĩ: “Ác thú mà có tới đây, hai miếng mồi kia sẽ đủ no thịt, chúng sẽ bỏ đi. Ôi! Ta là vị Phạm Thiên an toàn và khôn ngoan hết mực!”
Hai vị trời trú ngụ ở nơi này, bực mình lão Bà-la-môn ác độc, lại cảm thương tình cảnh hai trẻ, đợi khi lão đã ngủ, bắt lão trói lại bỏ dưới gốc cây, ẵm hai đứa trẻ lên cây, cho nằm trong chiếc võng của cung trời. Suốt đêm, cả hai vị trời này thay phiên nhau ru ngủ, vỗ về an ủi chúng, cho uống thuốc, xức các vết thương, cho ăn những thực phẩm bằng các tinh hoa ngon bổ. Sáng ngày, thay đổi vị trí xong, họ biến mất.
Hai trẻ thức dậy, thấy các vết thương trên người đã lành lặn hẳn, cơ thể khỏe khoắn lạ thường. Lại nhớ mường tượng như chúng được ngủ ấm cúng trong vòng tay của hai bà tiên đẹp đẽ và hiền lành. Chúng ngẩn ngơ luyến tiếc. Lão Bà-la-môn trái lại, tự nghĩ: Sao ta ngủ trên cây mà người lại nhuốm đầy bụi bẩn? Lại nữa, dường như có kẻ trói ta lại, vùng vậy chẳng được làm cho cơ thể đau đớn và mệt mỏi lạ thường?
Thoáng nhìn hai trẻ, lão ngạc nhiên hết sức. Qua một đêm sao chúng hồng hào tươi nhuận đến thế? Còn các vết thương sưng tím, dấu máu lở loét nơi chúng, biến đâu mất rồi?
Vừa bực mình, vừa ganh tỵ, lão thô bạo kéo bừa hai đứa trẻ đi, lại đánh, lại chửi. Lạ lùng sao, bây giờ chúng không còn thấy đau đớn nữa. Trong giấc ngủ, hai bà tiên đã cho chúng uống thuốc gì mà kỳ diệu đến thế? Đánh đập hoài cũng mỏi tay, hơn nữa, dường như lão không còn hơi sức. Giờ đây, lão lầm lũi lên đường. Ròng rã ngày đi, đêm nghỉ, màn trời, chiếu đất, lão Bà-la-môn đã về được quê nhà. Suốt khoảng thời gian này, mặc dầu hai trẻ bị trói, nằm bờ, bỏ bụi – nhưng thường được các vị trời hảo tâm chiếu cố, săn sóc cho ăn uống, chỗ ngủ, thuốc men, nên hai trẻ chẳng biết mệt mỏi là gì; dường như chúng lại mạnh khỏe tươi đẹp thêm là khác. Lão Bà-la-môn kinh ngạc, mắng thầm: cái giống dòng gì mà kỳ lạ! Bỏ đói, bỏ khát, ngủ hố, nằm đất mà vẫn đẹp đẽ như con trời!
Đến nhà, nàng A Mị tò mò nhìn hai trẻ cốt cách quý phái, siêu phàm, hỏi chồng:
- Hai quý tử này ở đâu?
- Là dòng Hoàng tộc – Lão Bà-la-môn kiêu hãnh đáp – Là con đức Vê-xanh-ta thành Kế-tư-đà!
Nàng A Mị giẫy nẫy lên:
- Trời ơi! Con đức Vê-xanh-ta? Kẻ có lòng từ bi cao cả, bố thí hết của cải bạc vàng, cả voi báu, rồi vua cha đày vào rừng Gri-văng-ka?
- Chính thị! Lão Bà-la-môn gật đầu.
Nàng A Mị giận dữ, xỉa xói vào mặt chồng:
- Vậy thì hãy tức tốc đem trả lại. Tôi cấm ông đụng đến cái sợi lông chân của chúng. Trời ơi! Người ta chỉ còn hai trẻ, là bạn cơ hàn, là quả tim, là chỗ an ủi náu nương, mà ông nỡ lòng nào cắt lìa đành đoạn? Thật ông không phải là giống người, còn tệ hơn sài lang, hổ báo. Sao ông không ngoảnh lại nhìn ông xem? Chúng ta là gì mà đem hai đức hoàng tôn cao quý kia về làm tôi tớ hầu hạ? Rồi ông sẽ bị quả báo bể bụng, vỡ đầu ra mà chết, tôi nói cho ông hay!
Nàng A Mị dẫn hai trẻ đi tắm rửa, thay y phục, cho ăn uống, ngủ nghỉ vài hôm rồi bảo lão Bà-la-môn đem trả về kinh đô Kế-tư-đà. (Kinh sách ghi là: Vì lời nguyện trùng phùng phụ tử, thân tộc của đức Vê-xanh-ta – mà trời Đế Thích xúi nàng A Mị trở mối thiện tâm).
Lão Bà-la-môn thờ A Mị như thờ vị trời ở trong nhà nên sợ hãi mang hai trẻ đi ngay. Lần này, lão săn sóc cho hai trẻ từ cái ăn, cái uống, chỗ ngủ, chỗ nghỉ suốt dọc đường thật chu đáo. Và luôn miệng xin lỗi hai trẻ bỏ qua cho!...
Hôm kia, vua Thệ Sanh nằm mộng, thấy một lão mặt đen ốm nhom, cầm hai hoa sen mới nở vào bệ rồng, cung kính dâng đức vua. Vui mừng, đức vua đeo lên hai tai. Hoa sen rơi xuống tỏa mùi thơm ngào ngạt. Vua giật mình tỉnh giấc.
Điềm triệu được kể lại, một thầy Bà-la-môn đến sụp lạy, tâu rằng:
- Mừng bệ hạ sẽ được trùng phùng với các hoàng tôn xa cách lâu ngày.
Từ khi vua Thệ Sanh đày Thái tử vào rừng sâu, ngài nhớ nhung héo mòn tất dạ, ngủ không yên, ăn không ngon. Những khi đông hàn tuyết rơi, trong cung ấm, nằm ngủ đệm dày chăn bông mà đức vua còn cảm thấy không chịu nổi. Xót thương cho Thái tử, vợ cùng hai hoàng tôn màn trời chiếu đất nơi núi thẳm, rừng sâu. Lại nữa, ở cung đình thì sống đời vương giả, ngày đêm tiếng ca lời nhạc, thức ngon vật lạ thừa thãi – còn ở chốn nước độc, non thiêng, kẻ lưu đày nào có thứ chi? Càng nghĩ, đức vua lệ càng rơi tầm tã, ăn năn, hối hận vô cùng.
Về phần hoàng hậu Trầm Hương thì dường như trầm trọng hơn; Thái tử và các cháu đi bà không còn thiết tha gì nữa cả. Chỉ một thời gian ngắn là bà lâm bệnh võ vàng, thuốc thang không chữa được tâm bệnh.
Thầy Bà-la-môn đoán mộng, chẳng khác chi cho đức vua và hoàng hậu một liều thần dược, cả hai tươi tỉnh lại. Đức vua cho thắng ngựa đi dạo chơi ở ngoại thành. Hôm ấy, lão Bà-la-môn cũng vừa dẫn hai trẻ tới nơi.
Nhìn hai đứa bé đi với lão Bà-la-môn, đức vua kêu quan hầu lại:
- Này khanh! Khanh nhìn thấy chúng chứ? Ôi! Cả hai trẻ đều sáng rỡ, khôi ngô, xinh đẹp. Trai thì giống Ra-ly, gái thì đúng là Kanh-ha rồi! Tướng mạo ấy thì rõ là dòng quý tộc cao sang. Nhìn kia! Cả hai đều đi đứng nghiêm trang, cốt cách như hai sư tử con. Nhìn kìa! Diện mạo hai trẻ như vàng ròng óng ánh, mà, chúa thiên nga cũng không thùy mị, rực rỡ đến như vậy!
Đức vua biết đúng là hai trẻ, bèn trở lại cung điện, cho gọi lão Bà-la-môn cùng hai trẻ vào chầu. Vua hỏi:
- Này lão Bà-la-môn! Hai trẻ này từ đâu mà lão dẫn đến đây? Hãy nói thật, trẫm sẽ ban thưởng trọng hậu.
Lão Bà-la-môn dập đầu lạy:
- Muôn tâu bệ hạ! Là con của đức Vê-xanh-ta, là hai đấng hoàng tôn cao quý của bệ hạ. Đức Vê-xanh-ta vì đại nguyện bố thí bất - nghịch - ý nên đã cho hai trẻ đến hạ thần.
Vua Thệ Sanh biết là đúng như vậy, nhưng cũng giả vờ giận dữ, vỗ long ngai:
- Hay cho ngươi đã xảo ngôn, lộng ngữ! Hai trẻ quý phái cao sang như rồng như phượng kia, ai lại đem cho đi? Hãy khai thật! Nếu trẫm xét thấy có điều dối trá, sẽ xét theo luật hình sửa trị!
Lão Bà-la-môn mặt cắt không còn hạt máu:
- Muôn tâu! Hạ thần đâu dám vọng ngôn với đức hoàng thượng! Đức Vê-xanh-ta với lời phát nguyện cao thượng chẳng ai là không biết. Ngài còn giữ gìn gì cho mình, dẫu là con mắt hay trái tim? Ngài là đám ruộng vàng cho người nghèo đói, là tiên dược cho kẻ ốm đau, là dòng suối ngọt muôn phương cho người, vật và cỏ cây đang khô khát. Hạ thần già cả, ốm đau, cô độc – nên đã đến xin hai trẻ để đỡ đần chân tay lúc tối lửa tắt đèn.
- Im ngay! Vua quát to – sao nhà ngươi lắm lời đến vậy?
Vua Thệ Sanh biết lão Bà-la-môn nói đúng, nhưng cũng tức giận đến run lẩy bẩy. Tức giận cái lão già khốn kiếp, dám xin cháu vua về làm tôi đòi.
Các quan đại thần nghe chuyện thì coi như được chứng kiến một sự kiện hy hữu, bèn mở lời châm chọc, chế nhạo:
- Kỳ lạ đến thế là cùng! Của cải cho được, có lý. Voi báu của quốc độ cho đi, không thể tha thứ. Nhưng con cái là máu mủ, là một phần của sinh mạng mình mà cũng đành đoạn cho đi, thì không phải là giống người nữa...
- Không còn nhân tính – vị quan khác phụ họa – sài lang, hổ báo, kể cả rắn rít có tiếng là tàn độc, hung dữ nhất, chúng cũng biết thương con. Chỉ có đức Vê-xanh-ta của chúng ta là nhân vật mà cổ kim chỉ có một, nên ghi vào sử vàng để lại cho muôn đời sau!
Như lửa cháy đổ thêm dầu, vua Thệ Sanh tím mặt rồng, giận cá chém thớt:
- Hay cho lão Bà-la-môn dám khinh khi dòng dõi Sát-đế-lỵ! Quân bay đâu! Hãy đánh cho nó ba mươi trượng thị oai!
Quân hộ vệ dạ rân, hầm hổ tới trói gô lão Bà-la-môn lại, căng ra, trượng to định giáng xuống...
- Hãy khoan!
Một trẻ chạy ra can, đó là Ra-ly.
Nguyên Ra-ly nghe các quan dám vô lễ chê Thái tử, dám ví cha nó còn tệ hơn sài lang, trẻ đã không chịu được. Bây giờ, thượng hoàng lại ra lệnh đánh lão Bà-la-môn. Tuy mới mười hai tuổi đầu, nhưng con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, trẻ đã sớm biết đâu phải, đâu không phải, nên đã mạnh dạn bước ra ngăn lại.
Đức vua Thệ Sanh thấy cháu mình khuôn mặt không giận mà oai, đang đưa mắt nhìn mọi người ra vẻ chê trách thì cơn giận đã nguôi hơn nửa phần, bèn ôn tồn nói:
- Ta nể cha cháu nên đã không chém đầu lão kia, sao cháu lại can gián? Lão dám xin cháu về làm kẻ tôi đòi, thì đúng ra cháu phải hả dạ khi thấy người ta đánh lão chứ?
Trẻ Ra-ly lắc đầu:
- Không phải thế, tâu Thái Thượng Phụ! Các quan đại thần đã sai lầm mà cho chí Thái Thượng Hoàng cũng sai lầm! Than ôi! Từ khi cha cháu đi khỏi thì triều đình này dường như không còn có ai nữa!
Mọi người nghe như có một làn gió lạnh tựa băng tuyết, quất vào mặt, im thin thít.
Trẻ Ra-ly cất giọng thanh tao, rõ mồn một:
- Chính vì những người Bà-la-môn nghèo đói này mà cha cháu đã phát tâm từ bi bố thí của cải. Chính vì những người Bà-la-môn ác độc kia mà cha cháu cho voi thần đến nỗi mang tội với quốc độ. Cũng chính vì sự đau khổ chung của sanh loại mà cha cháu cam chịu đời cơ cực ở non sâu tuyết lãnh, nằm giường cây, uống nước lã, mặc áo da thú, ăn củ đắng và trái cây chua! Cha cháu dung thứ được cho mọi người. Không những dung thứ mà còn yêu thương. Vì yêu thương nên mải miết đi tìm phương cứu độ. Thế mà Thái Thượng Phụ lẫn cả triều đình chẳng dung thứ nổi một con người ăn xin ngu si đói khổ!
Đức vua và cả triều thần ngồi trân, ruột đau như cắt.
Chưa thôi, như vị quan tòa, Ra-ly quay mặt nghiêm khắc nhìn bá quan:
- Còn các người là gì mà dám to gan lớn mật chê trách cha ta? Một lũ xu phụ bám vào bả vinh quang mà no thân ấm cật! Quốc độ này không có Thái Thượng Hoàng ta tu nhơn tích đức từ nhiều đời kiếp, lấy vương pháp cai trị muôn dân, thì các ngươi có được bình yên mà ngồi hưởng phú quý? Quốc độ này nếu không có cha ta, với đức lớn làm cho Vương Tượng từ núi Tu Di đi qua hư không biếu tặng cho voi thần, thì kinh đô Kế Tư Đà là gì mà làm chủ chư hầu? Khi cha ta cho voi thần, các ngươi đã nhân danh quyền lợi muôn dân rồi xúi Thái Thượng Hoàng lưu đày cha ta! Xin thưa với các ngươi rằng, các ngươi chưa biết xót thương một người, thì có lý nào biết lo đến quyền lợi con dân trong cả nước?
Các quan đại thần tức giận quá đến xanh mặt lại. (Tương truyền rằng, trời Sakka vì muốn sau này hộ trì cho quốc độ, nên xui trẻ dạy cho đức vua và bá quan một bài học về thiện pháp, để chuẩn bị cho sự tốt đẹp của triều đại mới, khi Thái tử trở về lên ngôi vương như bốn điều sở ước). Vì vậy, trẻ Ra-ly không dừng lại ở đó mà còn tiếp tục với giọng lời chững chạc:
- Muôn tâu Thái Thượng Phụ! Hành động bố thí của cải, bạc vàng, voi báu và cả hai con, người trong thế gian không ai làm được. Cha cháu yêu thương hai cháu như sự sống của chính mình thì lẽ đâu không tình thương xót máu mủ, mà bá quan dám ví tệ hơn sài lang, hổ báo?
Những đôi mắt phàm phu, hạ liệt làm sao thấy được việc làm của người cao thượng? Muôn triệu chiếc xe được kéo bởi tuấn mã, phi long, ngựa Sindhu thuần chủng cũng không đuổi kịp chiếc bóng đi trước của một nhân cách siêu việt. Người ta thường không dám cho đi một đồng trinh, một miếng cơm, một manh áo mà bao giờ cũng rêu rao vì quyền lợi kẻ khác! Cha cháu sống một đời dường như hoàn toàn quên mình vì mọi người, mà bá quan dám chê bai – thì coi chừng chư thiên sẽ giận dữ, quỷ dạ xoa sẽ đâp đầu họ vỡ thành ba mảnh, và luật nhân quả báo ứng sẽ quẳng họ vào địa ngục đời đời!
Trẻ Ra-ly nói xong đã lâu mà đức vua và triều thần như còn đang ngồi trong lò lửa. Từ trạng thái tức giận lần lần đến hổ thẹn. Từ hổ thẹn, bây giờ họ đâm ra sợ hãi. Không có ai dám nhìn thẳng vào mặt Ra-ly. Chỉ có đức vua là cất giọng đầu tiên:
-Thôi cháu! Ra-ly! Thái Thượng Phụ sai lầm mà bá quan cũng sai lầm trong hành động vừa qua. Cháu theo cha cháu mấy năm mà đã trở thành người khôn lớn, đã dạy cho ta và bá quan một bài học thấm thía vô cùng. Ôi! Thiệt là hổ phụ sinh hổ tử! Chính ta bị bụi dính đầy mắt thì còn nhìn thấy gì nữa đâu. Cháu đã mở mắt cho mọi người rồi đấy. Ai cũng thấy rõ cả rồi. Cháu bỏ qua nhé? Chúng ta sẽ sửa sai những điều quấy quá. Chúng ta sẽ thỉnh cha cháu về, vì chỉ có cha cháu mới xứng đáng là kẻ hiền đức vô song ở quốc độ này. Thôi nhé, lại đây! Lại đây cả hai cháu. Muôn việc xí xóa hết cả rồi. Ngày mai mặt trời lại mọc. Mùa xuân sẽ về. Lại đây hai cháu. Lại ngồi như xưa trên vế của tổ phụ! Ôi! Tổ phụ nhớ thương hai cháu xiết bao!
Hai trẻ khóc òa. Kanh-ha định chạy tới nhưng Ra-ly nắm tay lôi lại. Đôi mắt đỏ hoe, Ra-ly cố gắng nuốt hơi rồi lắc đầu nói:
- Không thể được, thưa Thái Thượng Phụ, hồi xưa khác, nay khác. Hồi xưa hai cháu là hai hoàng tôn lá ngọc cành vàng, là dòng giống quý tộc vương giả, nhưng bây giờ hai cháu làm thân tôi tớ người – thì đâu dám đến gần Thái Thượng Phụ để Thái Thượng Phụ phải bị ô uế? Thái Thượng Phụ không sợ mình bị giảm giá trị? Không hổ mặt với triều đình bá quan hay sao?
Vua Thệ Sanh nước mắt tuôn dầm dề:
- Thôi cháu ơi! Nói chi lời gai đâm, muối xát làm lòng ta đau đớn, Thái Thượng Phụ sẽ tẩy xóa thân phận tôi đòi, để hai cháu trở lại giống dòng cao quý, sẽ là hai hạt ngọc ma-ni của quốc độ.
Ra-ly nói:
- Cha cháu đã đem hai cháu cho ngươi, tất nhiên là hai cháu đã thuộc về người. Dẫu lão Bà-la-môn kia hèn hạ, ác độc, nhưng hai cháu nào dám không tuân? Vậy thì Thái Thượng Phụ phải bỏ tiền ra chuộc cho đúng với lẽ phải ở đời!
- Phải rồi, cháu nói đúng! Vậy thì chuộc bao nhiêu? Cha cháu ấn định giá cả? Hay cháu? Hay lão Bà-la-môn kia?
Ra-ly nói:
- Lão Bà-la-môn làm sao đủ tư cách để đánh giá hai cháu? Còn hai cháu thì làm sao lại có thể tự đánh giá mình! Cha cháu đã dạy sao thì cháu nói làm vậy. Thưa Thái Thượng Phụ! Trai thì một ngàn lượng vàng ròng không thừa, không thiếu. Gái, không những một ngàn lượng mà còn bò đực, bò sữa, trâu, ngựa, voi, tôi trai, tớ gái – mỗi thứ một trăm mới đủ tiền chuộc được!
Đức vua ngạc nhiên hỏi:
- Chỉ có bấy nhiêu thì đã lấy làm gì đắt đối với hai trái tim yêu dấu của ta. Nhưng mà này cháu Ra-ly! Bình thường trai quý hơn gái, mà sao ở đây, gái lại giá cả vượt mức trai đến như vậy? Cháu có lầm lẫn chăng? Gái quý hơn trai chăng?
Ra-ly rắn mắt nói:
- Muôn tâu! Trai quý hơn gái là đối với ai kia, nhưng đối với Thái Thượng Phụ, phải là gái quý hơn trai!
- Sao vậy? Vua cau mày.
- Muôn tâu! Thái Thượng Phụ chỉ có một trai thông minh, tài trí, hiền đức; thế mà cam tâm đày vào núi sâu, rừng thẳm. Còn ở đây, cung phi mỹ nữ mười sáu ngàn người đều được Tổ phụ sủng ái. Cho đến kẻ nữ nhân tệ nhất ở cung điện này còn sung sướng hơn vạn lần đứa con trai yêu quý của Thái Thượng Phụ! Vậy không phải là nữ quý hơn nam sao?
Đức vua Thệ Sanh cười giả lả nhưng lòng hổ thẹn vô cùng với đứa cháu rắn mắt. Vua sai quan trả giá cả như Ra-ly đã nói. Khi ấy hai trẻ mới nhảy vào lòng đức vua khóc thút thít. Đức vua lòng hoan hỷ không kể xiết, tức tốc cho mời hoàng hậu vào. Cả mấy người mừng mừng tủi tủi. Lát sau, cung phi mỹ nữ tràn vào chật cung điện, xin được thăm hai đức hoàng tôn yêu quý cách biệt lâu ngày. Ai cũng lạ lùng khi nghe được câu chuyện vừa rồi, vừa tò mò, vừa kính nể, vừa yêu thương hai trẻ khôn xiết.
Vua truyền cho triều đình và kinh đô ăn tiệc bảy ngày. Lại sai ban thêm cho lão Bà-la-môn một tòa lâu đài bảy tầng với đầy đủ vật dụng cần thiết để đáp đền công lao mang hai cháu về, lại bố cáo giảm thuế má cho quốc dân, thả tội tù, xuất của kho bố thí khắp mọi nơi mọi chỗ ròng rã mấy tháng trường. Đâu đâu cũng nghe tiếng cười vui an lạc.
Riêng hai trẻ thì khỏi cần phải nói là chúng sống như thế nào. Thật là khồng kể xiết sự cưng chiều của mọi người. Lão Bà-la-môn vì thiếu phước nên không hưởng được đời sống phú quý. Hôm kia, ăn một bữa quá no, trúng thực vỡ bụng, ói mật mà chết. Vua truyền cho họ hàng thân nhân đến lãnh gia tài, nhưng chẳng có ai. A Mị biến đi đâu mất. Rốt cùng, tiền bạc, gia sản lại sung vào quốc khố.
Trong khi hàn huyên với hai cháu, đức vua Thệ Sanh gạn hỏi về đời sống của cha mẹ chúng như thế nào ở rừng sâu. Ra-ly và Kanh-ha cứ thực tình kể lại không giấu giếm điều gì. Đức vua vô cùng cảm động, truyền cho bá quan chuẩn bị ngựa xe để vua đích thân lên rừng đón Thái tử về kế vị ngôi vương. Tin được loan ra làm bừng bừng trái tim mọi người. Ai cũng nôn nả ngóng chờ hình bóng của người nhân đức.
Đúng ngày, một đoàn binh mã rầm rộ xuất cửa thành tây. Đức vua, hoàng hậu, cung nga thể nữ, bá quan mấy ngàn xa mã, theo sau là dân chúng tưng bừng nối đuôi hơn mấy do tuần...
Quan binh tốp trước tốp sau; toán trắng, xanh, đỏ, vàng sặc sỡ, oai vệ như thiên binh cõi trời Ba Mươi Ba. Ngựa phi như giăng mắc, hướng chân núi Hy Mã thẳng tiến. Đoàn người đi trọn bốn mươi lăm ngày, xa một trăm do tuần mới đến chân núi Càng-đà-ma-đằng. Đến cây đa to có trái chín ngọt như mật ong, Ra-ly chỉ cho đức vua xem chỗ trú chân đầu tiên. Đi một ngày đường nữa, họ đến chóp núi Na-lợi-ka. Cả hai nơi đều được gã thợ săn và đạo sĩ Na-lợi-ka ra chào đón, nơi nào cũng được Ra-ly trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc. Đức vua thấy núi rừng quạnh hiu rùng rợn, giữa thiên binh vạn mã mà cũng cảm thấy lạnh lùng – mới thầm phục, thầm thương đức Vê-xanh-ta vô cùng. Càng đi, đức vua càng cám cảnh đời sống cơ cực của gia đình Thái tử mà ngậm ngùi sa lệ. Một ngày đường nữa, họ đến chỗ trú ngụ lưu đày!
Gặp nhau, không ai nói với ai được tiếng nào. Đức vua và hoàng hậu nắm tay con mừng mừng tủi tủi. Thái tử và nàng Ma-đà-ly cùng quỳ mọp dưới đất, không ai dấu được nước mắt...
Nàng Ma-đà-ly chợt thấy Ra-Ly và Kanh-ha, chạy đến ôm chầm hai con rồi ngất xỉu. Bá quan, cung nga thể nữ cảm động rưng rưng lệ.
Lát sau, đức vua và bá quan thỉnh đức Vê-xanh-ta hồi trào lên ngôi thiên tử, nhưng Thái tử từ chối:
- Con đã cho voi thần, đụng chạm đến quyền lợi của triều đình, phải bị đuổi vào rừng sâu. Nay trở về thì danh không chính, ngôn không thuận, xin vương phụ xét cho!
Đức vua nói:
- Voi Thần không chịu bước qua quốc độ biên giới! Các quan thần giữ biên phòng tin về kinh đô cho biết như vậy. Thế là hôm nay con không bị ràng buộc bởi các tội lỗi ngày trước!
Đức Vê-xanh-ta cứng cỏi đáp:
- Con chưa bao giờ nghĩ rằng mình là kẻ có tội. Con chưa bao giờ làm việc gì do ác niệm dẫn dắt thì thưa vương phụ, tội lỗi kia do từ đâu sanh? Hay là tội lỗi và không tội lỗi do triều đình bá quan xét định? Thảng hoặc, căn cứ trên cái gọi là được quyền lợi và mất quyền lợi của những nhân danh và nhãn hiệu?
Lời và nghĩa của đức Vê-xanh-ta sắc bén quá. Các quan đồng quỳ tâu:
- Cái đức lớn của Thái tử có thể linh thông được với voi thần, nhưng vì chúng tôi phàm phu mắt thịt, đã không thấy, không biết, lại còn ngu si a dua kết tội oan. Nay cái hiểm họa mất nước không còn nữa, trái lại, các nước lâng bang đã nhờ đức của Thái tử mà tỏ lòng thuần phục. Chúng tôi nghe rằng: dùng đức mà cảm hóa thì an ổn lâu dài, dùng sức mạnh chinh phục chỉ là ngòi thuốc nổ chậm. Nay cái đức của Thái tử đã cảm hóa mấy trăm tiểu quốc, thì cái thế hòa bình thiên hạ không còn là vấn đề nữa. Thái tử còn chờ đợi gì mà không hồi trào lên ngôi Thiên tử, để trị vì trăm họ theo chánh pháp. Chúng tôi từ khi được đức hoàng tôn làm cho sáng mắt, đã trông chờ Thái tử như hạn hán trông mưa!
Lượng rồng cao cả lẽ nào không xá tội được cho chúng tôi, khi chúng tôi biết rằng mình là kẻ có tội? Chúng tôi còn có nghe rằng: Bậc trí không ăn năn bằng lời nói, mà phải ăn năn bằng chính hành động phục thiện của mình. Vậy thì, tất lòng gan ruột chúng tôi đã bộc bạch, thiên hạ đang trông chờ triều đại hoàng kim của một đấng Minh quân. Xin khải tấu Thái tử rõ!
Lời của bá quan thật cảm động và đáng kính phục. Lòng Thái tử hồ hởi, đẹp dạ vô cùng. Sau ba lần thỉnh mời, Thái tử không còn lý do để từ chối nữa, quỳ lạy đức vua và xin phụng mạng.
Thái tử cởi áo da thú, thay chiếc vương bào, lòng bùi ngùi. Ngài đi quanh tịnh thất ba vòng, rồi đứng lặng hồi lâu nhìn chiếc am tranh thân yêu quen thuộc. Thái tử nói:
- Này hỡi chiếc mái cỏ nghèo nàn! Mấy năm trời nay ngươi đã đỡ nắng, che mưa cho ta; đã cùng ta trải qua những ngày tháng an lạc, vô vi, thanh tĩnh. Ta từ giã ngươi, trở về kinh đô hoa lệ, bỏ ngươi một mình giữa chốn núi rừng quạnh hiu... Nhưng mà rồi ngươi sẽ được hân hạnh đón chờ bước chân của những vị ẩn sĩ khác.
Rồi Thái tử lại nói giữa thinh không:
- Tri ân và cảm tạ núi rừng, các vị chư thiên, thọ thần hảo tâm, đã hộ trì, nâng đỡ ta suốt mấy năm lạc trú. Ta sẽ mang theo mình mối tri cảm này. Và nguyện rằng, công đức, phước huệ mà ta có được do sự phục vụ và tu trì, sẽ là của chung, sẽ là pháp nâng đỡ chúng ta cho đến ngày tìm ra đạo cả!
Ngay khi ấy, Thái tử nhờ thiên nhĩ thuần tịnh, nghe được chư thiên núi rừng Gri-văng-ka tán thán bằng bài kệ:
“- Của chung này là thiện sự!
Của chung này là phước huệ!
Này hỡi đức Vê-xanh-ta, con của Thệ Sanh và hoàng hậu Trầm Hương!
Ngài là chúng hữu tình duy nhất mà chúng tôi sẽ được nhờ nương!
Ngài là chúng hữu tình duy nhất mà chúng tôi sẽ được ở trong hào quang xán lạn!
Quốc độ của Ngài sẽ là mái nhà an ổn cho chúng tôi nhiều đời nhiều kiếp!
Sung sướng thay là được hộ trì!
Hạnh phúc thay là được góp phần công đức!”
Khi Thái tử trở ra thì đức vua và quan quân đã chuẩn bị sẵn sàng cuộc lễ Đăng Cực (lên ngôi vua) ngay tại chỗ. Thái tử được người ta tắm bằng nước thơm, đội vương miện và mặc long bào. Gần mười muôn người tung hô làm chấn động núi rừng Gri-văng-ka. Lễ tôn vương xong, Thái tử leo lên kiệu rồng, tiền hô hậu ủng xuống núi. Hai ngày sau thì đến vùng đất bằng, đổi long xa, nhắm hướng kinh đô tấn phát.
Một quang cảnh diễn ra cực kỳ tưng bừng và náo nhiệt khi tân vương, Thái Thượng hoàng và đoàn ngự giá đến biên địa Kế-tư-đà. Trầm hương đâu mà nghi ngút, ngào ngạt cả không gian! Bông hoa đâu mà chưng bày đầy cả đường sá. Người người đâu mà hàng hàng lớp lớp dài mấy do tuần. Rồi nào là ngựa xe, cờ xí, đèn sao, cổng hoa rộn rã từ làng này sang làng khác. Tân vương đứng trước long xa cho mọi người chiêm ngưỡng. Nhìn dân chúng mừng vui ngài nở nụ cười sung sướng.
Về thành, ngoài mấy muôn ngự vệ túc trực sẵn, Tân vương còn thấy những đoàn sứ giả từ các tiểu quốc đồng đến lạy mừng. Ngoài ra, một đoàn bạch tượng to lớn, bệ vệ, dẫn đầu là voi thần đến phủ phục bên chân ngài. Tân vương đang ngạc nhiên thì sáu người Bà-la-môn độ nọ xuất hiện.
- Khải tấu Tân quốc vương! Họ quỳ tâu - Xứ Linh Ca chúng tôi từ khi được Voi Thần, lòng nóng nảy như ngồi trên lò lửa. Chúng tôi thiếu phước nên Voi Thần không phụng mạng mỗi lần động binh. Từ khi Thái tử bị lưu đày vào rừng sâu, tệ quốc, trăm người như một đều nghiêm khắc lên án bản triều. Nay Voi Thần xin hoàn về cố chủ. Và xin tạ lỗi bằng một trăm con bạch tượng oai hùng. Xin Tân vương hoan hỷ xá tội và dụng nạp lễ vật!
Đức Vê-xanh-ta gật đầu hài lòng. Ngài đến bên Voi Thần như đến với người bạn cố tri, đưa tay vuốt ve, vỗ về thân ái. Voi Thần chợt đưa vòi quấn Ngài bỏ lên lưng, rồi đột nhiên rống lên một tiếng, nhấc mình vọt cao, bay quanh thành ba vòng giữa tiếng hoan hô như sấm động của muôn triệu người ngưỡng mộ.
Trời Sakka lúc ấy ngự giữa đám mây ngũ sắc – Ngài cho một trận mưa bảy báu xuống đầy tràn cung điện – làm cho bá quan, bá tánh lạ lùng chắp tay giữa hư không xá lạy không ngớt. Thế là Đế Thích thiên vương đã thành tựa lời hứa khả của ngài. Lại ra lệnh cho chư thiên trong quốc độ từ nay phải tích cực hộ trì đức vua, để ngài thực hành chánh pháp cho có hiệu quả.
Đức Vê-xanh-ta sống đến một trăm hai mươi tuổi thì thăng hà. Ngài sinh lên cung trời Tusita (Đâu-suất), có tên là Dusita-devaputta.
Những người thực hành theo giáo huấn của ngài đều được sinh lên Đao Lợi thiên cung.
Đức Vê-xanh-ta là tiền thân đức Thích Ca vậy.
Phụ Lục - Lão Bà-la-môn : Tiền thân Đề-bà-đạt-đa - A Mị : Nàng Chinh-cha - Thợ săn : Xa-nặc - Đạo sĩ Na-lợi-ka : Đức Xá-lợi-phất - Trời Đế Thích : Đức A-nậu-đà-la - Trời tạo tịnh thất : Đức Mục-kiền-liên - Ma-đà-ly : Nàng Da-du-đà-la - Vua Thệ Sanh : Vua Tịnh Phạn - Hoàng hậu Trầm Hương : Lệnh bà Mà-yà - Ra-ly : La-Hầu-La
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:42:06 GMT -5
Hoàng tử Nan-đà Nghe tin Đức Phật trở về Ca-tỳ-la-vệ, trái tim của hoàng tử Nan-đà đập lên rộn rã. Đã lâu lắm rồi, người anh tôn quý của chàng, bỏ vương vị ra đi, lang thang lê gót khổ hạnh; nghe đâu bây giờ đã tìm ra con đường vô thượng.
Hoàng tử Nan-đà không bao giờ có thể quên được người anh trai cao cả, uy nghiêm đó. Chàng đã học được nơi con người ấy từ cách đi, dáng đứng, nụ cười. Nhất là sự hiểu biết thâm sâu bao giờ cũng dường như toả ra nơi vầng trán thẳng và mịn. Rồi thể hiện tròn đầy nơi tình thương vô bờ bến lẫn cả đức độ bao la nữa.
Đức Phật đã trở về, và vài ba hôm sau sẽ có lễ thành hôn của chàng cùng công nương Kiều-dạ-lý (Kalyàni)! Ôi ! Thế là niềm vui ở nơi chàng trong sáng và phất phới như mảnh lụa trắng, như nụ cười của thiên thần, như cánh đào mùa xuân phô màu hồng thắm.
Mảnh vương bào chợt tung bay trong ánh nắng ban mai tinh anh hồng ngọc, hoàng tử Nan-đà hối hả thúc con thần mã để báo tin mừng đến vị hôn thê.
- Hỡi con hoàng anh kiều diễm của ta! Chàng đắm đuối nhìn Kiều-dạ-lý rồi nói – Người anh cao cả của chúng ta đã về đến lâu đài của vương phụ. Hãy cùng ta đến thăm người.
- Này chàng! Kiều-dạ-lý nắm tay hoàng tử Nan-đà say sưa nói – Này hỡi con voi chúa với đôi ngà vàng kiêu hùng và mỹ lệ của em! Không nên đến thăm vị sa môn tầm thường ấy. Chẳng có gì tốt đẹp và vinh hạnh cho đôi ta đâu.
Nói xong, Kiều-dạ-lý chớp chớp đôi mắt xanh màu hồ thuỷ, gợn tia lửa nồng nàn như nắng ấm của cung trời. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy lòng mình mềm yếu và ẻo lả như tơ. Chàng chết đuối giữa biển tình của thiên nữ Dạ-ma mất rồi.
Ngày cử hành hôn lễ đã đến. Trong lúc mọi người rộn rịp mang lễ vật đến chúc mừng cho đôi tân giai nhân, thì Đức Phật hiện ra rực rỡ và đẹp đẽ như chúa phượng hoàng, chói ngời hào quang ngũ sắc.
Cả dòng họ Thích Ca vốn kiêu căng, ngã mạn nhưng bây giờ cũng tự động quỳ cả xuống.
Uy nghi như chúa sơn lâm, Đức Phật cất tiếng nói:
- Như Lai cũng đến dự lễ. Như Lai cầu nguyện hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Hoàng tử Nan-đà sững sờ nhìn anh. Nhìn không chớp mắt, tự nghĩ:
- Đây là vị Phật? Ôi cao cả xiết bao! Ở trước ngài, vua núi là đỉnh Hy Mã Lạp Sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp.
Sau khi thọ thực xong, Đức Phật trao bát cho hoàng tử Nan-đà, nói lời phúc chúc rồi đứng dậy ra về.
Hoàng tử Nan-đà kính cẩn ôm bát lặng lẽ đi theo sau, tự nghĩ:
- Đến cửa, Đức Cao Cả sẽ thâu bát lại.
Nhưng không, Đức Thế Tôn vẫn đi thẳng. Vì kính trọng anh, hoàng tử Nan-đà không dám thưa. Cho đến khi rời khỏi cung điện khá xa, Đức Thế Tôn vẫn không hề quay lại. Hoàng tử Nan-đà tự nghĩ:
- Rồi đây, khi nhớ lại, ngài sẽ thâu bát. Ta hãy đưa ngài đến chỗ tạm cư trong vườn Ngự Uyển.
Khi hoàng tử Nan-đà vừa rời khỏi cửa, nàng Kiều-dạ-lý sợ hãi trông theo, linh tính như báo trước cho nàng hay một điềm chẳng lành nào đó về chuyện hạnh phúc lứa đôi. Với hàng lệ ngọc lóng lánh tuôn rơi, với xiêm y tóc tai rối bời, Kiều-dạ-lý phủ phục bên đường, cất tiếng gọi não nùng:
- Hỡi hoàng tử ngọc ngà châu báu của em! Hãy trở lại!
Hoàng tử Nan-đà nghe từng âm thanh quấn quýt, thiết tha, vương vấn đọng lại giữa không gian. Tâm chàng dường như bị bao phủ trọn vẹn trong chiếc lưới của vị thần tình ái; những mũi tên xé gió buốt đau đến tận tâm can.
- Hỡi con voi chúa có đôi ngà vàng của em! Đã đến giờ xây dựng ngôi rừng diễm lệ của đôi ta!
Hoàng tử Nan-đà một chân bước tới, một chân bước lui. Nhưng vị Đại Sa-môn kia, Đức Thế Tôn, người anh cao cả, bậc trưởng thượng đáng kính ấy vẫn như chúa sơn lâm, từng bước, từng bước uy nghi, an nhiên tự tại. Hoàng tử Nan-đà bịt chặt tai lại, cắn răng, hối hả bước theo. Tự nghĩ:
- Cũng không muộn gì. Hãy đưa Đấng Tự Tại đến nơi đến chốn, dâng bát cho ngài, trở về còn kịp giờ cử hành hôn lễ.
Và cứ thế, hoàng tử Nan-đà lủi thủi theo chân Đức Phật đến ngự viên.
Sau khi Đức Thế Tôn rửa chân, ngồi kiết già trên toà sư tử, quay lại nói với hoàng tử Nan-đà – khi ấy vẫn đang lặng lẽ ôm bát đứng hầu một bên.
- Này Nan-đà! Ngươi có muốn sống đời xuất gia với Như Lai không?
Hình ảnh Kiều-dạ-lý kiều diễm lại đến với chàng. Ôi! Vóc ngọc, dáng ngà! Ôi! Đôi mắt biếc, vòng tay mềm và nụ cười như chén rượu say của thần hoan lạc. Nàng đấy! Nàng hiện rõ trong chàng, lả lơi, mời mọc đến ngất lịm cả tâm hồn. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy mình thở hổn hển, trán toát mồ hôi, mệt lả.
Khi trái tim đã hết hồi hộp, hoàng tử Nan-đà trấn tĩnh lại, trước mặt, Đức Phật vẫn an nhiên, trầm lặng, trên môi ngài dường như mãi nở nụ cười bất diệt. Như con beo con đứng trước chúa sơn lâm, hoàng tử Nan-đà chợt quỳ sụp xuống:
- Con... con... ưng thuận đời sống xuất gia!Tỷ-kheo Nan-đà không tìm thấy chút lạc thú nào trong đời sống khước từ. Tinh thần chàng mỗi lúc mỗi mỏi mòn, suy nhược. Hình bóng vị tân nương kiều diễm đã chiếm trọn tâm hồn chàng. Suốt ngày, suốt đêm, vị tân tỷ-kheo kia sống trong cơn mộng trùng trùng của mơ tưởng; bỏ cả ngủ, quên cả ăn, bần thần dã dượi.
Hôm kia dường như không còn chịu đựng nổi nữa, Nan-đà tâm sự với đạo bạn:
- Này chư pháp hữu! Ích gì đời sống xuất gia phạm hạnh này? Tôi bất mãn với nó. Tôi sẽ từ chối phẩm hạnh thanh cao để cam chịu đời sống thấp hèn, làm người cư sĩ.
Đức Phật cho gọi Nan-đà đến hỏi sự thật. Nan-đà thừa nhận sự suy nhược thái quá của mình và tỏ ra lo ngại đến đời sống cô quạnh của Kiều-dạ-lý công nương.
Biết tâm của vị thánh tương lai đang bị lửa ái dục đốt cháy mê loạn, Đức Phật bèn nói:
- Nan-đà! Hãy cùng với Như Lai đi chơi một chút cho khuây khỏa. Ta sẽ đến thăm một cõi trời.
Đức Phật liền dùng oai lực thần thông đưa tỷ-kheo Nan-đà đến cung trời Đẩu Xuất (Tusita).
Trên đường, khi đi qua một khu rừng, Nan-đà để ý thấy một con khỉ cái đã bị mất tai, mũi và đuôi, đang cố bám lấy thân cây cháy trơ trụi giữa đám đất vừa bị thiêu rụi.
Đến cung điện huy hoàng rực rỡ của đệ tứ Thiên Đường, nhạc trời trỗi lên lồng lộng giữa hư không, những cánh hoa mạn đà trải đầy trên lối đi bạch ngọc, óng ánh trân châu và mã não. Một muôn chư thiên lấp lánh ánh sáng, phục sức diễm lệ, kiêu kỳ, phơi phới hiện ra chào đón đấng Thiên Nhơn Sư. Và kìa! Mười muôn thiên nữ sắc đẹp lộng lẫy làm lu mờ nhật nguyệt, đang e thẹn núp sau những đám mây hồng...
Khi đến tòa lâu đài với năm trăm bảo tháp kim cương, hội tụ giữa hư không lóng lánh muôn màu, Nan-đà thấy một chiếc ngai rực rỡ bảy báu, không có chư thiên ngự, năm trăm thiên nữ thân ngọc yêu kiều đứng hầu một bên, bèn rụt rè hỏi:
- Chiếc ngai vô vàn trân trọng kia sao chưa có vị chư thiên diễm phúc nào an ngự, mà lại để trống không như vậy?
Một thiên nữ tủm tỉm cười đáp:
- Chúng thiếp chờ đợi cung nghinh một vị tỷ-kheo đang tu hành trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.
Nan-đà thót mình hỏi:
- Vị nào vậy?
- Vị nào tinh tấn tu hành – Thiên nữ cất giọng lảnh lót đáp – nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà!
Rời khỏi tòa lâu đài, quả tim Nan-đà như còn nhảy loạn trong lồng ngực.
Trên đường trở về hạ giới, Đức Thế Tôn hỏi:
- Này Nan-đà! Những thiên nữ tại Thiên đàng thứ tư, nhất là thiên nữ nơi năm trăm ngôi bảo tháp; so với công nương trân quý Kiều-dạ-lý, ai đẹp, mỹ miều hơn?
Nan-đà đỏ mặt ra đến mang tai, cúi đầu đáp:
- Bạch Đức Thế Tôn! So với các vì thiên nữ, dẫu là thiên nữ mạt hạng, thì Kiều-dạ-lý công nương tựa như con khỉ cái bị cháy, đang cố bám lấy thân cây nơi khu rừng nọ!
Đức Thế Tôn nở nụ cười trong tâm nói:
- Vậy này Nan-đà! Hãy tinh tấn, hãy cố gắng! Như Lai bảo đảm rằng nếu Nan-đà kiên trì thực hành giáo lý, thì một ngày kia, Nan-đà cũng đạt được những công nương mỹ lệ như vậy.
Nan-đà như một đứa trẻ được khuyến khích, hớn hở đáp:
- Nếu vậy, đệ tử sẽ lấy làm thỏa thích mà sống đời phạm hạnh cao thượng!
Từ đó, khi ở tịnh đường, khi thì nơi gốc cây, khi thì tại khu rừng vắng, Nan-đà thiền định rất mực tinh tấn. Các vị tỷ-kheo khác biết chuyện, bàn tán với nhau rằng:
- Tỷ-kheo Nan-đà “người làm thuê”. Tỷ-kheo Nan-đà với mục đích phạm hạnh là đạt cho được năm trăm vì thiên nữ và chiếc ngai vàng thất bảo!
Chuyện đến tai, Nan-đà nhận thấy có một cái gì thấp kém, hạ liệt trong mục đích của mình, nên cảm thấy xấu hổ vô cùng.
Đức Thế Tôn biết tâm của vị tân tỷ-kheo, bèn cho gọi đến, rồi nói:
- Này Nan-đà! Hôm nay, hãy cùng với Như Lai đi chơi một miền xa, đến một cảnh giới đau khổ!
Đức Phật dùng oai lực thần thông đưa Nan-đà vào tầng địa ngục. Dịp này vị tân tỷ-kheo được cơ hội chứng kiến tận mắt những hình ảnh hãi hùng. Đây là một cột trụ đồng đỏ lửa hừng hực, các tội nhân trần truồng phải ôm siết để leo lên, bên dưới những con quỷ mặt trâu đầu ngựa cầm những chiếc đinh ba nhọn hoắt đâm suốt qua lưng, da thịt cháy xèo xèo. Nọ là những chiếc cưa, cưa tội nhân ra làm mấy đoạn, gan ruột đổ lòng thòng. Và thôi, nào là bàn chông lửa cháy ngùn ngụt, tội nhân máu me, giãy đành đạch, la hét kêu gào; nào là những cái cối đồng to lớn, đưa lên đưa xuống nhịp nhàng những chiếc chày to, bên trong là những tội nhân xương thịt bầy nhầy... Nan-đà đi đến một lò nấu người. Những chiếc vạc to lửa cháy ngụt trời, bên trong dầu sôi sùng sục. Những con quỷ mặt xanh, mũi đỏ, thò tay quăng tội nhân vào từng chảo một. Nơi chảo khác, dầu cũng đã sôi như sóng cuộn, lại không có tội nhân. Tỷ-kheo Nan-đà hỏi lý do, quỷ đáp:
- Để dành cho một vị tỷ-kheo đang thối thất trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.
Nan-đà thót mình lên, hỏi:
- Ai vậy?
- Cho vị nào đắm say sắc dục, tưởng tư ái lạc – Quỷ đáp – Nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà.
Từng chân tơ kẻ tóc đều dựng đứng cả lên, da thịt nổi gai ốc, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Nan-đà quày quả theo Đức Thế Tôn trở lại trần gian mà cả tâm thần còn bủn rủn.
Nan-đà phủ phục bên chân đấng Giác ngộ:
- Bạch Đức Thế Tôn! Xin ngài hãy hủy bỏ lời đảm bảo với đệ tử về chuyện các vị thiên nữ diễm kiều.
Biết tâm vị tân tỷ-kheo này đã đầy đủ hai pháp tàm và quý (hổ thẹn và ghê sợ). Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này Nan-đà! Cho đến chừng nào ngươi không còn bám víu vào những sự vật thế gian! Chừng nào ngươi đã vĩnh viễn viễn ly dục lạc, nội tâm hoàn toàn thanh tịnh như viên ngọc trong suốt không tỳ vết ô nhiễm... thì lúc ấy Như Lai hủy bỏ lời hứa cũng không muộn gì!
Nói thế xong Đức Phật đọc lên bài kệ:
"Đau khổ và khoái lạc
Bùn nhơ đáy mặt hồ
Hương hoa sen tỏa ngát
Cho người diệt si mê
Khoái lạc và đau khổ
Xúc động tâm phàm phu
Người vĩnh ly nhiễm ái
Hoa sen thắm mặt hồ!"
Từ đó tỷ-kheo Nan-đà gạt bỏ mọi tư tưởng xấu xa, kiên trì tu tập, không bao lâu đắc quả A-la-hán.
Sau khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, ngài tri ân sâu xa đến phương pháp giáo huấn thù thắng của Đức Thế Tôn, cảm thán thốt lên bài kệ:
"Giữa ao tù vô tận,
Tâm tôi được vớt lên
Đức Thế Tôn vô thượng
Giúp tôi thoát não phiền."
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:43:18 GMT -5
Chó rừng cảm hóa đức vua
Vào một thuở rất lâu xa, Phật Thích Ca với hạnh nguyện Bồ-tát, ngài sinh làm vua chó rừng, cai quản rừng và những khu nghĩa địa mênh mông, luôn đoanh vây bên mình hàng ngàn con chó đủ loại, sống an ổn và thuận hòa với nhau như một quốc độ có nền móng pháp luật vững chắc.
Bậc Đại Chúng Sanh sống tại một cội cây to, lúc nào cũng đầy đủ cận thần và thị vệ, những dũng tướng trung kiên sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ chúa.
Cuộc sống đang yên lành bỗng nhiên tai họa giáng xuống. Hàng chục người, hàng trăm người không biết từ đâu xuất hiện, với mọi thứ vũ khí có được trong tay, họ ra sức giết chó. Lệnh báo động “ăng ẳng” truyền vang từ nghĩa địa này sang nghĩa địa khác.
Bậc Đại Chúng Sanh và đám cận thần cả kinh thất sắc. Viên dũng tướng là một chó vằn to lớn hiên ngang, không đợi lệnh chủ đã vọt đi thi hành nhiệm vụ của mình.
Lát sau chó vằn về tâu lại:
- Chúng là bọn thị vệ, là bọn quân hầu của vua loài người, thưa chúa. Chúng đã tàn sát đánh giết thần dân của chúng ta ở phương đông...
Lời chưa dứt thì từ miệt dưới, hàng trăm con chó tang thương tất tả chạy lên. Con bị què chân, con bị cụt tai, con bị thương nặng với máu me đầy mình. Chúng kêu lên những tiếng thống thiết rồi đứng tràn đầy nghĩa địa mong đợi sự bảo vệ của chúa.
Bậc Đại Chúng Sanh đứng lên, đau xót nhìn đồng loại, đưa đôi mắt buồn rầu nhìn tả hữu như han hỏi lý do.
Một con chó tâu:
- Chúng tôi không ai hiểu lý do! Tai họa từ trên trời đổ xuống cho giống chó nhà ta!
Chó khác hừ một tiếng:
- Trời không có làm hại ai. Chỉ có giống người mới tàn ác như vậy.
Bậc Đại Chúng Sanh phán hỏi:
- Trong các bạn, thời gian trước đây, có ai gặp, thấy, hoặc biết hành tung của bọn người ác độc kia? Thảng hoặc, các bạn đã có ai gây thù chuốc oán gì với họ?
Một cụ chó già nua trong đám chạy nạn, bị thương ở cẳng, lết ra phủ phục nói:
- Thưa chúa, chúa có dạy: gặp giống người thì phải biết “kính mà xa”, vì tâm địa họ tráo trở khó lường. Chúng tôi, thần dân ở phương đông, tìm chút xương thừa nơi nghĩa địa, cơm đổ nơi đường sá, miếu hoang – có bao giờ dám gần họ, đụng chạm đến họ mà sinh thù oán.
Một con chó khác rành rõi trình bày:
- Cách đây hai hôm, bọn kia cùng vua loài người, thị nữ tùy tùng vào chơi nơi khu vườn phía tây thành phố. Chúng ngồi trên hai trăm con ngựa đẹp đẽ giống Sindhu với yên cương da thú láng lẫy. Gần tối họ mới trở về. Đêm đó chẳng biết xảy ra chuyện gì mà sáng hôm sau, rải rác một vài xóm chó ven sông Hằng bị sát hại do đám thị vệ của vua loài người. Một vài thần dân sống sót chạy vào các nghĩa địa nhỏ. Chiều hôm ấy và qua sáng hôm nay, mười ba nghĩa địa gần kinh thành đều bị càn quét. Mấy ngàn chó thiệt mạng, thây chồng núi, xác ngập đường, máu đỏ đất. Và thưa chúa, bây giờ thì chúng đang tảo thanh các nghĩa địa lớn, lại sắp vượt sông.
Ngay khi đám chó đang xôn xao thì mấy trăm đồng loại ướt loi ngoi từ mạn sông lếch thếch chạy lên. Xa một đoạn phía sau, có toán người rầm rộ la hét.
Bậc Đại Chúng Sanh cất tiếng gầm uy dũng, chấn động cả nghĩa địa. Tả hữu bốn dũng sĩ đồng trở oai nghi chồm tới, phóng như bay biến về cuối chân trời, theo chúa.
Chỉ thoáng mắt, bậc Đại Chúng Sanh đã đón chặn đoàn người. Và nói tiếng người:
- Hãy ngừng lại! – Tiếng như sấm dội – các người hãy ngừng lại sự giết chóc dã man ấy! Hãy nói cho chúng tôi biết lý do tại sao các người tàn hại đồng loại chúng tôi?
Toán người kinh dị dừng lại.
Bốn viên dũng tướng như bốn mũi tên cũng vừa lao tới, lông dựng ngược, gầm gừ dữ tợn, phân thành tả hữu hai bên hộ vệ chúa. Toán người chưa hết ngạc nhiên thì không biết từ đâu trùng trùng điệp điệp, lặng lẽ như ma, một đoàn chó khổng lồ lông vằn vện đến bao vây họ ở giữa. Đứng bốn góc như trấn bốn phương là bốn chó cao lớn, phương phi oai hùng như sư tử. Bậc Đại Chúng Sanh mừng rỡ cất tiếng:
- Khá khen cho các bạn đã không quản ngại đường xa đến cứu ứng kịp thời.
Một tiếng hùng dũng tâu:
- Nghe tin muộn, chúng tôi triệu tập đám thần dân tinh nhuệ kề chân núi Hy Mã, cấp tốc ngày đêm lên đường. Thế mà vẫn không kịp. Ngưỡng mong chúa tha tội chết!
Đồng lúc, bốn chú chó rừng như sư tử đến phủ phục dưới chân bậc Đại Chúng Sanh. Vua loài chó lớn tiếng ủy lạo, tỏ lời ban khen nồng hậu. Bốn chó rừng lui ra. Một chốc, vòng vây siết chặt toán người lại với khí thế rần rộ, kinh người.
Tốp tay chân thuộc hạ của đức vua sợ hãi đến xanh mặt. Họ tự nghĩ:
- Loại chó rừng này ở đâu mà có luật lệ quy củ đến thế. Hôm nay, dẫu có chiến thắng, bên ta tất cũng tổn thất nặng nề vì các chiến tướng uy mãnh này.
Khi ấy, bậc Đại Chúng Sanh nói với họ:
- Hỡi giống người hữu phúc và cao sang! Phải chăng đạo đức và công lý đi trước mọi sự? Vậy thì nhân danh đạo đức và công lý, quý vị hãy trình bày lý do cho chúng tôi được tỏ tường. Các người dư thừa sự khôn ngoan, trí xảo cũng như sức mạnh; nhưng nếu cứ tàn hại chúng tôi như thế, chúng tôi cương quyết bảo vệ mạng sống và danh dự chung cho đồng loại, lấy mười đổi một. Các người một trăm người thì chúng tôi hy sinh một ngàn trang dũng sĩ, chắc chắn các người cũng không thể sống sót bình yên mà trở về! Xin giống người đầy đủ lương tri cao cả, hãy lượng xét cho!
Nhìn sắc diện oai nghi của vua loài chó, lời nói tình lý minh bạch, lại thấy lực lượng chó rừng hùng hậu chẳng khác gì thiên binh vạn mã, ai cũng cảm thấy đây chẳng phải là lời nói ngoa.
Người cầm đầu bước ra nói:
- Tất cả là do lệnh của đức vua! Nguyên do như sau: Hai trăm con ngựa giống Sindhu đẹp đẽ của đức vua, với bộ yên cương, dây da bền chắc và tốt đẹp; sau một đêm, đồng loại của các ngươi đã “chén” hết sạch vật trang bị phụ tùng kia. Vua nổi giận ra lệnh giết hết chó trong khắp quốc độ.
Bậc Đại Chúng Sanh cau mặt lại:
- Nếu quả là chúng tôi làm việc ấy thì chúng tôi có tội. Nhưng yên cương, da và dây ấy, đức vua đặt ở đâu?
- Vẫn mắc vào nơi xe, xe để trong nội thành suốt một đêm kia.
Suy nghĩ một lát, bậc Đại Chúng Sanh hỏi:
- Ai là người thấy rõ chúng tôi hay bắt được chúng tôi đang nhai, cắn hoặc đang ăn da và yên ấy?
- Không ai thấy, tên cầm đầu đáp – Nhưng một kẻ hộ vệ bạch với đức vua rằng: “Thưa Thiên Tử, từ miệng cống chui vào, các con chó hoang dã đã “thịt” hết những bộ yên cương bằng da ấy”. Thế là đấng Thiên Tử tức giận đến xám xanh mặt rồng, ra lệnh cho hai ngàn quân cấm vệ tảo thanh giết cho kỳ hết loài chó. Chúng tôi là kẻ thừa hành mà thôi.
Bậc Đại Chúng Sanh than to:
- Ôi! Vua loài người thiệt là ngu si, tàn độc và bất minh. Thôi! Lỗi không tại các ngươi, các ngươi hãy về đi. Ta sẽ đích thân vào cung vua làm cho nội vụ đước sáng tỏ.
Khi toán người đã đi hết, bậc Đại Chúng Sanh quay lại đám thuộc hạ:
- Hãy quay trở về mái nhà yên ổn của chúng ta. Chớ có sợ hãi. Ta sẽ đến chốn của vua loài người và phó thác mình cho chánh pháp.
Bọn chó rừng tuân lệnh rút lui có trật tự, bậc Đại Chúng Sanh hướng tâm đến (àvajjitvà) Ba-la-mật rồi phát nguyện rằng:
- Tâm Từ là đệ nhất pháp. Hãy làm cho Tâm Từ được an trú vững mạnh, không có chao động. Tâm Từ cũng là phương thuốc mầu nhiệm cảm hóa kẻ kiêu căng độc ác. Với năng lực Tâm Từ có được trong vô lượng kiếp, ta phát nguyện như vầy: Trên thế gian này không ai có quyền xâm phạm đến ta bằng đao tên hoặc bằng đá gậy. Rồi bằng Từ, Tuệ tạo nên sức mạnh, ta sẽ cảm thắng đức vua để mưu cầu hạnh phúc cho phần đông.
Phát nguyện xong, bậc Đại Chúng Sanh an nhiên một mình đi vào thành. Nhờ Tâm Từ Ba-la-mật bảo trợ, không một ai khởi ác ý với ngài.
Quân canh vừa phát giác, bậc Đại Chúng Sanh đã đi thẳng đến pháp đình (vinicchaye); thấy vua, đảnh lễ vua rồi ngồi nghỉ ở một bên. Quân canh đã vào đến nơi hò hét với đùi gậy, nhưng đức vua ngăn lại vì ngài linh tính một việc lạ lùng tỏa ra nơi con chó rừng uy nghi nọ.
Nhà vua chưa hề thấy bao giờ một con chó rừng với dung sắc chói sáng rực rỡ đến như vậy, nên cứ đưa mắt tò mò ngạc nhiên nhìn mãi. Bậc Đại Chúng Sanh bấy giờ mới tiến lại, chắp tay với cung cách của một vị đại thần:
- Khải tấu bậc nhơn chủ anh minh sáng suốt! Có phải người đã ra lệnh tàn sát hết tất cả loài chó chúng tôi?
Thấy chó nói được tiếng người, đức vua ngạc nhiên quá:
- Phải! Phải!
Bậc Đại Chúng Sanh trang nghiêm chất vấn:
- Lỗi của chúng là gì? Dám thưa bậc Nhơn chủ quý trọng?
Vua đáp như cái máy:
- Chúng nhai, cắn, ăn, nuốt những đồ da phụ tùng lẫn những yên cương quý giá của ta!
- Thưa bậc chúa loài người! Ngài có tận mắt thấy, hay có ai tận mắt thấy con chó hoang, con chó nghĩa địa hoặc con chó rừng nào ăn không?
- Ta không biết và chẳng có ai tận mắt thấy và biết!
Bậc Đại Chúng Sanh cất giọng dõng dạc của một vị quan tòa:
- Hãy nghe đây! Ngài là bậc minh quân của thiên hạ! Là chúa của nhân gian! Là mặt trời của quốc độ! Là cán cân cho bá tánh! Là đại diện cho công lý, cho pháp (dhammo)! Tuy không thấy, không biết (và chẳng ai thấy và biết) những con chó nào là thủ phạm đã ăn yên cương bằng da; mà vẫn ra lệnh tàn sát tất cả chó được thấy trong quốc độ; như vậy có đúng “pháp” không, có hợp lẽ phải không, thưa bậc nhơn chủ chí tôn?
Bị buộc tội một cách đanh thép, hợp pháp và không có kẻ hở; nhà vua đâm ra bực bội, cất giọng oang oang nói:
- Lũ chó đã ăn nên lũ chó phải chết. Đó là lời phán truyền tối cao của ta! Đó là quyền lực của ta, lẽ phải của ta! Ngươi làm được gì nào?
Lời thách thức của kẻ có quyền uy và sức mạnh không phải là điều dám coi thường; bậc Đại Chúng Sanh tự nghĩ:
“- Đức vua đã tức tối, đã giận dữ vì tự ái và kiêu ngạo. Sự sáng suốt đã bị mây che. Ta hãy tìm phương tiện cho đức vua hoan hỷ bằng tư cách nhẫn nhục của ta”. Bèn nói:
- Nếu vì những lời nói ngay thật kia mà xúc phạm đến oai đức thì xin đức vua cho tôi được sám tội!
Bậc Đại Chúng Sanh quỳ xuống, chấp hai chân trước, lạy đúng ba lạy rồi phủ phục dưới chân vua không dám nói một lời nào nữa.
Thấy thái độ ấy, tự ái được vuốt ve, đức vua đẹp dạ nên sự giận dữ đã tiêu tan:
- Ta cho phép ngươi nói hết những điều muốn nói.
Bậc Đại Chúng Sanh lại nghĩ thầm:
“- Bây giờ ta phải bắt đầu lựa lời khôn khéo như trương ra một cái bẫy bằng vàng ròng. Sau đó, ta sẽ không dừng lại. Sức mạnh của pháp là phải cuốn phăng những cái bất chánh. Phải dũng mãnh dùng trí tuệ như lưỡi gươm vô địch đánh bại và bứt tung những tâm niệm bất thiện của đức vua. Phải chuyển hóa y một cách tức khắc.”
- Thưa bậc nhơn chủ! Hai trăm bộ yên cương bằng da quý báu ấy, bọn chó nào đã ăn thì phải bị trừng phạt một cách xứng đáng. Làm như vậy mới chứng tỏ đức vua chính trực và công minh xiết bao!
Nhà vua vuốt râu cười ha hả:
- Cho đến bây giờ ta mới thấy ngươi nói một câu nghe được!
- Thưa thiên tử – Bậc Đại Chúng Sanh nói tiếp – Tôi hơi tò mò vậy chẳng hay tất cả chó đều phải bị đền tội, hay có một số được ngoại trừ?
- Có chứ! Vua đáp – Mấy ngàn con chó săn cao sang thuộc nòi giống tốt, đầy đủ về dung sắc và sức mạnh của ta đều được tha mạng.
Bậc Đại Chúng Sanh vẫn ôn tồn:
- Tâu đại vương! Chỗ này tôi nghe không được rõ ràng; hay có sự nhầm lẫn nào đây? Trước thì ngài bảo ra lệnh giết tất cả loài chó, bây giờ thì ngài bảo ngoại trừ mấy ngàn chó săn thuộc giống dòng cao sang trong cung điện. Sao kỳ lạ như thế? Hay ở bên trong đại vương còn có thâm ý cao xa mà tôi chưa hiểu thấy chăng?
Đức vua lúng túng ngồi thừ ra chưa biết trả lời sao cho ổn.
Bậc Đại Chúng Sanh tự nghĩ:
“- Lao đã phóng ra rồi. Đây là mũi nhọn quyết định cho cuộc tiến công cuối cùng. Nếu đức vua nổi giận thì ta đành hy sinh thân mạng tạm bợ này. Nếu đức vua không giận thì ta sẽ dễ dàng cảm hóa ngài. Và đấy là do nhờ phước báu của phần đông sanh chúng. Ta hãy theo lao.”
Với dòng máu chánh khí sôi trào cuồn cuộn trong lồng ngực, bậc Đại Chúng Sanh cất cao lời như tiếng vọng của chân lý lồng lộng giữa từng không:
- Hỡi đức nhơn chủ tối cao và quý mến! Nếu sự việc đúng là như vậy thì chính ngài đã thực hiện bốn sở hành vô lý (agatigamanam) và bất thiện, đầy đủ dục, nộ và si. Tức là thiên vị, ghét bỏ, kiêu căng và không minh mẫn. Những sở hành như vậy là không thích đáng, không hợp với chánh trí, chẳng phải pháp, không đúng với vương pháp (ra±gadhamo); chính là con đường ngược, lộ trình đau khổ, trầm luân pháp, địa ngục nóng, phi đạo đức! Ôi đức vua nhân từ! Uổng thay! Tiếc thay!
Đức vua đã bắt đầu thấy mình sợ hãi, đã nhìn ra tội. Tay và chân ngài đã lạnh ngắt.
Bậc Đại Chúng Sanh tiếp tục cất giọng lời liêm khiết và vô úy hết mực:
- Kẻ thừa hành công lý, pháp, thì lời nói, việc làm, ý nghĩ thảy đều quân bình. Quân bình như chiếc cân chính xác nhất. Không thể bên thương bên ghét. Không thể dùng uy quyền và sức mạnh để đàn áp kẻ yếu đuối, tàn sát kẻ có tội. Ma pháp, ma lộ, trược pháp, trược hạnh không phải là sự hành trì và con đường của các đấng Chuyển Luân Thánh Vương, đức vua phải sáng suốt để xa rời, buông bỏ ngay tức khắc tất cả mọi lầm lỗi.
Rồi bậc Đại Chúng Sanh đọc lên bài kệ:
“Nếu biết mình thiên vị
Bảo vệ một giống loài
Tàn hại phía yếu đuối
Công lý thực hành sai
Bậc thánh nhân xưa kia
Tâm quân bình tuyệt hảo
Hạnh phúc cho muôn loài
Lại nhân gieo thiện đạo”.
Nhờ duyên lành đầy đủ và năng lực của Pháp, sau bài kệ, tâm đức vua đã được cảm hóa; ngài ôn tồn hỏi:
- Vậy này hiền trí! Thế ngươi có biết ai là thủ phạm đã ăn hai trăm bộ yên cương da ấy không?
- Có biết – Bậc Đại Chúng Sanh đáp – Chính mấy ngàn con chó săn thuộc nòi gióng tốt của đức vua!
Vua ngạc nhiên quá:
- Này hiền trí! Hãy nói rõ ràng cho ta nghe!
- Thưa bậc nhơn chủ! Tại nội cung hoàn toàn được bảo vệ này, không thể có chuyện hàng trăm đồng loại chúng tôi chui qua ống cống vào đây được. Một vài con thì có thể. Nhưng một vài con thì làm sao là thủ phạm của hai trăm bộ yên cương da? Chính chó của đức vua làm việc ấy.
Vua gật đầu:
- Có lý! Có lý! Ồ! Những việc tầm thường như vậy sao cả triều đình và ta không ai nghĩ ra. Ồ! Mà rồi sao nữa? Có bao giờ suy luận đúng mà thực tế là sai không hở hiền trí?
- Có thể có điều đó. Nhưng thực tế là đây: Đức vua chỉ việc cho cho người lấy một ít cỏ Dabha nghiền nát hòa với nước sữa, cho những chó ấy uống, nó sẽ mửa ra những miếng da. Những loại da đã thuộc, đánh bóng kỹ lưỡng làm yên cương, vào bụng năm ba ngày vẫn chưa tiêu hóa được.
Nhà vua y lời sai người bắt chó, nghiền cỏ Dabha và nước sữa cho uống. Quả nhiên nó mửa ra những miếng da.
Nhà vua phục quá, tán thán:
- Cao minh thay bậc hiền trí! Sự xử kiện của ngài không thua gì một bậc chuyển luân. Ta rất bằng lòng và lấy làm cảm phục vô cùng.
Đến đây thì đức vua chẳng còn một chút gì để kiêu ngạo nữa, ngài quỳ xuống đảnh lễ bậc Đại Chúng Sanh rồi trang trọng dâng một chiếc lọng trắng, phẩm vật biểu lộ sự tôn kính vô hạn.
Bậc Đại Chúng Sanh thuyết một thời pháp nói về vương đạo, khuyến hóa đức vua rồi cho thọ trì năm giới. Cuối cùng kết thúc bằng lời kệ:
“Dòng dõi Sát-đế-lỵ
Chiến thắng vạn hùng binh
Còn khó hơn thế nữa
Tâm, ý giữ quân bình
Hãy hành trì chánh pháp
Rạng rỡ như vầng dương
Trời người đều an lạc
Tối thượng một con đường.”
Bậc Đại Chúng Sanh trao chiếc lọng trắng lại cho đức vua rồi từ giã. Nhưng đức vua đã thành khẩn lưu lại, lấy lễ quốc sư phụng dưỡng ngài, lại truyền cho muôn dân phải biết tri ân và biệt đãi chó trong nước.
Thiên pháp được tồn tại mười ngàn năm ở xứ này.
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:43:56 GMT -5
Bậc đại chiến thắng
“Ta đã chiến thắng! Ta đã chiến thắng!”
Tiếng la từ bờ sông Rohini vút thẳng lên mây. Đức vua Suvera ngạc nhiên cho đoàn hộ tống dừng chân lại. Sao lạ? Ai là kẻ hô chiến thắng trong lúc ta và đoàn quân đang rầm rộ trở về với khúc khải hoàn ca?
“- Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng!”
Tiếng la từ bờ sông Rohini lại vút thẳng lên mây.
- Kỳ lạ chưa? Đức vua Suvera tự nghĩ: Tiếng hô kia không những hùng dũng mà còn toát ra sự an lạc như sự reo ca của ngàn chiếc lá sau ngày tháng đông miên khi ánh mặt trời đầu tiên vừa ló dạng. Hay là ai đã chế nhạo sự chiến thắng của ta? Ồ, mà chế nhạo sao được. Đúng là một trăm lẻ một đức vua đã run rẩy quỳ mọp dưới chân ngựa của ta; và đúng là bốn vạn viên võ tướng lừng danh khắp mấy phương trời đã cởi áo giáp quy hàng trong lửa đỏ. Đoàn quân của ta hiên ngang đầy máu và bụi. Đoàn quân ta hùng dũng đạp qua thành trì đổ nát, sông núi và xác người. Cỏ đã không mọc được dưới chân ngựa của ta. Vậy thì đúng là phần ta mới xứng gọi là chiến thắng, ta đã chiến thắng dưới gầm trời này. Thế mà, thằng nào...
- Tiểu tốt, lũ tiểu tốt – Đức vua Suvera quát tả hữu, rung đùi rồi ghếch chân trên mình con ngựa nòi giống tối thượng. Toán quân hộ vệ được được vua thích ý gọi là “lũ tiểu tốt” dạ rân bốn phía – Tới đằng kia sông, trong nháy mắt lôi cổ cái thằng người nào vừa hô to: Ta đã chiến thắng, ngu ngốc và phạm thượng ấy!
Không bao lâu, không biết là chừng mấy cái nháy mắt, người ta dẫn về trình diện với đức vua một nông dân bình thường như trăm ngàn nông dân hạ liệt trong quốc độ của ông, chỉ có đôi mắt là ngun ngút toát ra tin lửa tự tin và no đầy hoan lạc.
- Cái “thằng người” dơ dáy kia! Đức vua bốc hơi đằng miệng, giận dữ – Phải ngươi là kẻ lếu láo đã hô to: “Ta đã chiến thắng” đầu kia sông Rohini?
- Phải – nông dân ấy gật đầu mạnh mẽ – Tâu đức quyền uy cao cả!
Thấy sự gật đầu quả quyết của thằng dân tôm tép bé mọn, đức vua Suvera bất giác cất tiếng cười to như xé rách cả bầu trời.
- Thiệt là đồ xuẩn ngốc. Vua lại quát – Này thằng người kia, ngươi có thấy đoàn quân bách chiến vô địch của ta? Đấy, ngươi cứ đưa mắt nhìn thử xem?
Người nông dân rách rưới nghèo nàn nhìn gươm giáo, ngựa voi, cờ xí nhấp nhô đến mãi cuối chân trời, thấy rõ là một đoàn quân đại binh chiến thắng khải hoàn đang trở về từ những biên địa xa xăm. Nhìn xong, y vẫn lặng lẽ không nói gì, khẽ ngước nhìn đức vua rồi lại nghiêng đầu hờ hững.
- Sao? Vua đắc chí hỏi – Vậy thì có phải đáng lý ra ta mới là kẻ được quyền hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng!”
Người nông dân từ từ quay lại, lắc đầu:
- Đức vua không thể là kẻ hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng!”
Vua Suvera tưởng tai mình nghe lầm, dồn dập hỏi lại:
- Sao? Ngươi nói sao? Ta không phải là kẻ chiến thắng ư?
- Vâng! Người nông dân nói chậm rãi – đức vua là kẻ chiến thắng, tuy thế, chưa phải là kẻ xứng đáng để hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng”. Chính tôi mới là kẻ xứng đáng!
- Thần thánh ôi! Có nghe gì không? Đức vua Suvera bất giác cười sặc sụa, vỗ mạnh vào bao kiếm rồi gọn gàng nhảy xuống mình ngựa, lại cất giọng ngọt ngào – Hãy nói đi, kẻ nông dân quý mến, kẻ nông dân thân ái à! Hãy giải thích cho rõ ràng. Nếu không – đôi mắt đức vua lửa, ánh kiếm nháng lên như con rắn xanh – Nếu không giải thích được, thì cái đầu của nhà ngươi sẽ lăn lóc như trái dừa khô… mà phọt máu! Như trái dừa khô mà phọt máu!
“Như trái dừa khô mà... phọt máu!” Đức vua lặp lai hai lần, rõ ràng là y thích cái câu đó lắm. Tuy thế người nông dân rách rưới nghèo nàn nhìn đức vua một cách bình thản, chứng tỏ y không sợ hãi chút nào, chứng tỏ cái đầu y không phải là trái dừa khô mà... phọt máu!
Bây giờ, người nông dân đang ngồi trên phiến đá, xem như không có ai, nói rằng:
- Kẻ thực sự dám hùng dũng hô to: Ta đã chiến thắng, thì kẻ đó không còn sợ ai, đấng quyền uy cao cả ạ! Ngài tưởng rằng với sự đe dọa của gươm đao mà làm cho tôi khiếp đảm sao? Không bao giờ! Ngay đối với Yama, với Diêm Vương, sự chết, hắn vẫn coi khinh! Vì hắn là kẻ CHIẾN THẮNG THẬT SƯ, TRỌN VẸN và VĨNH CỬU.
Thấy thần sắc trầm tĩnh của người nông dân, vua Suvera chột dạ, tay kiếm buông lơi. “Ồ, hắn có cái gì đây”. Đức vua tự nghĩ: “Hắn phải có cái gì đây chứ!”
Đức vua Suvera cố dằn sự tức giận:
- Vậy thì ngươi hãy nói tiếp mau đi.
- Ta sẽ nói – người nông dân gật đầu – nhưng đức vua cho tôi được hỏi, đức vua chiến thắng cái gì vậy?
Cố nhẫn nại, vua nói:
- Ngựa của ta không dừng vó, chiến sĩ của ta không cởi giáp, cứ thế từ Hy Mã Lạp Sơn đến những vùng đất rộng lớn mênh mông Gandhàra, Sàrnà phương nam Ma-kiệt-đà, hạ lưu sông Hằng, đến thượng lưu qua các xứ man di mọi rợ Tây và Tây Bắc Ấn Độ; ta đã làm cho mấy ngàn thành trì nên bình địa, thu phục một trăm lẻ một đức vua và mấy chục ngàn viên dũng tướng. Như vậy từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn là con dân của ta. Đấy gọi là chiến thắng, bạn thân mến, cuộc chiến thắng oai hùng, cổ kim chỉ có một ta!
Người nông dân thở dài:
- Chiến thắng trên máu và xác người, chiến thắng trên sự nhục nhã và phẩn hận của kẻ khác. Thế nhưng, tâu đức quyền uy, cái chiến thắng ấy, ngài mang theo trên người được bao lâu? Mấy trăm năm? Mấy ngàn năm?
- Đâu nhiều vậy, đức vua ngạc nhiên nói – Ít nhất là đến lúc ta còn cầm cương ngựa được!
- “Đâu nhiều vậy, đến lúc ta còn cầm cương ngựa được”. Tự miệng đức vua nói thế chứ. “Đâu nhiều vậy đến lúc ta còn cầm cương ngựa được”. Nghĩa là chiến thắng ấy có giới hạn, không trọn vẹn và không vĩnh cửu!
Đức vua chợt “à” lên một tiếng, đôi mắt lóe lên vừa ngạc nhiên vừa lạ lùng. Người nông dân lại tiếp:
- Và còn nữa, thưa đấng quyền uy! Sự hùng mạnh của đức vua sẽ không còn bao lâu nữa. Vì tự miệng đức vua đã nói ra, khi ta còn cầm cương ngựa được. Như vậy sẽ đến một lúc, điều đó sẽ xảy ra. Và đoàn quân bách chiến vô địch sẽ không phải là bách chiến vô địch mãi!
Đức vua Suvera không nói gì. Sao lạ? Đức vua tự nghĩ, hắn nói cũng có phần đúng đấy chứ, có ai là kẻ chiến thắng một trăm năm, ngàn năm? Già yếu, sự chết, ồ!
- Cha mẹ, chồng con những người đã chết, dòng họ những dân tộc chiến bại sẽ đợi đến lúc đức vua không còn cầm cương ngựa được, quân binh đức vua suy yếu, họ sẽ liên kết lại, vùng lên, một trăm lẻ một quốc độ sẽ tràn vào một lượt như cơn bão lửa. Và thưa đức vua, họ sẽ rần rộ, ào ào, như lốc cuốn tấn công vây chặt thành trì của đức vua đến nỗi môt con kiến cũng không thể thoát được. Và như vây, thưa đức vua, khi ấy đức vua có còn hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng” nữa không?
Cứ để cho đức vua thảng thốt, bàng hoàng, người nông dân đứng dậy, buông từng tiếng một:
- Chiến thắng ít chục năm ấy là chiến thắng giới hạn. Chiến thắng mà không mang theo được từ đời này qua kiếp kia, ấy là chiến thắng phù du. Chiến thắng mà có lúc sẽ chiến bại, vậy mà đức vua dám nói mình là kẻ được quyền hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng!”
Đức vua Suvera đứng bất động nhìn đăm đăm về phía sông Rohini. Lâu lắm, đức vua quay lại lắp bắp:
- Ta... ta...
Đức vua không nói được, lấy khăn lau mồ hôi, thở ra một hơi dài rồi nói:
- Thế thì ngươi mới là kẻ chiến thắng thật sự? Đời đời? Và trọn vẹn ư?
- Phải rồi. Không những chỉ có ta mà còn những bậc tối thượng hơn thế nữa. Đó là Đức Tôn Sư của ta, các vị Thánh đệ tử, các vị Sa-môn sống đời thoát tục. Chỉ có những vị ấy mới dám hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng”.
“Điều mới lạ này ta chưa hề được nghe qua. Kẻ nào vậy? Những cái gọi là Đức Tôn Sư, Thánh đệ tử và những Sa-môn, họ là những ai vậy?” Nghĩ thế, đức vua nói:
- Chưa kể đến cái gọi là Đức Tôn Sư, Thánh đệ tử vội, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi chiến thắng như thế nào? Tuần tự kể ta nghe.
Người nông dân kể:
- Một thời, với cái cuốc mẻ và hạt giống, ta trồng một thửa ruộng, lúa lên xanh, hạt chín vàng, thế nhưng ta vẫn không đủ no, áo vẫn không đủ mặc. Hôm kia, ta thấy một sa môn khất thực – với chiếc y vàng trang nghiêm, chói sáng, y đi từ nhà này sang nhà kia. Ta thấy nào bánh, cơm, thục tô, đề hồ, sữa lần lượt được người ta bỏ vào bát bằng hai tay chắp lại. Ta nhìn cái cuốc mẻ, tự nghĩ: “Hãy chiến thắng cái cuốc”. Thế là ta quẳng cái cuốc mẻ vào trong xó nhà và đi theo đoàn sa môn. Ta cũng mặc y vàng, được ăn no, nhưng ta vẫn nhớ cái cuốc mẻ. Nhớ không chịu được, ta bèn cởi y, bỏ bát, vội chạy về xó nhà lấy cái cuốc ra. Ta sung sướng cuốc đất, trỉa hạt giống. Ôi! Thế là ta đã không chiến thắng được cái cuốc mà cái cuốc lại chiến thắng ta! Lúa lại lên xanh, lúa lại chín vàng. Nhưng cơm vẫn không đủ no, áo vẫn không đủ mặc, ta không được an lạc! “Hãy chiến thắng cái cuốc! Hãy chiến thắng cái cuốc!” Lần thứ hai, ta nghĩ. Nếu ngươi không chiến thắng cái cuốc ngươi sẽ cơ hàn. Do sự cơ hàn, ngươi sẽ không an lạc. Lần này cái cuốc lại được ta quẳng sau nương rồi đi theo đoàn sa môn. Hàng ngày sau khi khất thực xong, ta ngồi thiền định, cái cuốc lại hiện ra. Ôi! Cái cuốc thân yêu. Ta nhớ cái cuốc quá, nhớ không chịu được, ta bèn bỏ y bát, chạy về nương lấy cái cuốc, ta lại sung sướng cuốc đất, trỉa hạt giống. Ôi, thế là ta bị chiến bại một lần nữa. Hai lần chiến bại phải thế không đại vương?
- Phải rồi, đức vua gật, ngươi đã không chiến thắng.
Người nông dân đi tới đi lui.
- Đức vua nói đúng xiết bao. Ta đã không chiến thắng, ta, hai lần chiến bại. Mà không những thế đâu, nó lại đánh bại ta liên tiếp, trận này qua trận khác. Lần thứ ba, ta quẳng ở xó vườn, lần thứ tư quẳng dưới ao, trong bùn, lần thứ năm ta chôn dưới cội cây. Ta liên tiếp bị đánh bại sáu lần một cách nhục nhã.
Người nông dân nói thế xong, im lặng đột ngột.
Đức vua Suvera hỏi:
- Ngươi chưa nói rõ lý do và trường hợp chiến thắng?
- Ta sẽ nói, tâu đức vua. Lần thứ bảy, ta tự nghĩ: Ta chiến bại vì ta còn thấy cái cuốc, còn tìm ra cái cuốc. Vậy thì ta làm sao cho cái cuốc mất tích. Thế rồi, sáng nay, ta đang đứng tại bờ sông Rohini, định quăng cái cuốc xuống sông. Nhưng mỗi lần định quăng, ta cứ chùn tay lại. Ta đăm đăm nhìn cái cuốc. Ta không nỡ. Hồi lâu, ta bặm môi lại, định quăng, nhưng lại thối lui. Ta thương yêu cái cuốc quá đi. Sau rốt, một ý chí bốc lên bừng bừng mãnh liệt, ta nhắm mắt lại, xoay người ba vòng, lấy hết sức mình, ta quăng cái cuốc đi. Khi mở mắt ra, ta không còn nhìn thấy cái cuốc ở phương nào nữa. Dẫu có muốn tìm thì cũng chẳng biết đâu mà tìm. Sung sướng quá, một niềm hỷ lạc dâng lên no đầy cả tâm hồn, muốn bay bổng lên cả mấy từng trời. Ta hét to như tiếng sấm nổ tận thế: “Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng.”
Đến ngang đây, người nông dân quay qua đức vua:
- Như vậy thì trường hợp này, ta có thể hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng”?
- Có thể được - đức vua gật.
Người nông dân mỉm cười:
- Chỉ ngay cái chiến thắng ấy cũng đã tối thượng mười sáu lần hơn chiến thắng của đức vua rồi. Huống hồ ta còn cái chiến thắng khác.
- Ngươi hãy nói cái chiến thắng khác đi, vì chiến thắng kia tầm thường xiết bao. “Chiến thắng cái cuốc”, ngươi nói vậy mà không hổ thẹn ư?
- Đức vua tưởng thế! Chiến thắng kia không tầm thường chút nào!
- Hãy nói ta nghe.
- Dạ vâng, ta sẽ nói. Trước khi nói ta xin được hỏi: Đức vua yêu cái gì nhất?
Đức vua Suvera ngần ngừ giây lát. Tự nghĩ, ồ, ta yêu cái gì nhất nhỉ: Hoàng hậu? Cung nga thể nữ? Châu báu trần gian? Ồ, ta có yêu, nhưng yêu ít thôi, không thể gọi là yêu nhất được. Quyền uy, phải rồi. Quyền uy...
Đức vua nói:
- Ta yêu quyền uy nhất.
Người nông dân mỉm cười:
-Đức vua thì yêu quyền uy nhất, còn ta là người nông dân, ta yêu cái cuốc nhất. Tâu đức vua, nhưng ta đã dám quẳng cái ta yêu nhất, ấy là cái cuốc; còn đức vua có dám quẳng cái đức vua yêu nhất, là cái “quyền uy”? Được chăng? Đức vua đã từng bao giờ quẳng cái quyền uy trong xó nhà? Ngoài nương? Cuối vườn? Dưới ao? Ngoài nghĩa địa? Dưới cội cây? Dưới sông? Cả thảy 7 lần như thế chưa?
Đức vua Suvera bối rối:
- Ta... ta... chưa hề nghĩ tới.
Người nông dân cười to nhưng vẫn dịu dàng:
- Vậy thì rõ ràng ở phương diện này thôi, đức vua đã thua ta rồi!
Càng lúc càng thấy nhiều điều mới lạ. Đức vua thấy thú vị trong câu chuyện với người nông dân, nên mỉm cười:
- Thôi được. Ta cho ngươi được phép hơn ta. Nhưng mà “chiến thắng cái cuốc”. Ôi sao mà nghe nó kỳ thế?
- Không kỳ đâu – người nông dân trang nghiêm – Nhờ quẳng cái “mình yêu nhất”, ta chợt bừng lên một ánh sáng. Nhờ ánh sáng này, ta thấy rõ một điều kỳ diệu…
- Ngươi cứ nói – Đức vua hối hả, tò mò – Cái gì kỳ diệu?
- Cái kỳ diệu ấy có thể chưa cần nói cho đức vua hay. Nhưng rõ ràng sau khi thấy điều kỳ diệu, không những ta hô: “Ta đã chiến thắng” mà còn hơn thế nữa, ta hô to: “Ta vĩnh viễn chiến thắng”!
Đức vua cau mày:
- Vĩnh viễn?
- Phải rồi – Người nông dân nhìn chăm vào đức vua – này tâu Đại vương! Đại vương là kẻ chiến thắng giới hạn, tạm thời, phù du, chiến thắng rồi phải bại. Còn ta là kẻ chiến thắng vô hạn, vượt không gian, vượt thời gian, vĩnh viễn chẳng bao giờ chiến bại nữa. Vậy thì đại vương còn dám hô: “Ta đã chiến thắng” trước mặt ta?
- Ta không cần biết điều ấy – Đức vua nói như gắt – Ta chỉ cần biết cái gì là vĩnh viễn, cái không còn chiến bại, cái vượt không thời gian!
- Kẻ đã chiến thắng, vĩnh viễn chiến thắng sự chết, khổ đau – là kẻ chiến thắng trọn vẹn, vượt không, thời gian, tâu đại vương!
Đức vua Suvera nín lặng. Mồ hôi toát ra, đứng bất động như trụ đá giữa trời. Lâu lắm đức vua lẩm bẩm: “Dẫu ta có chiến thắng cả ngàn quốc độ, chiến thắng quả địa cầu, chiến thắng thiên giới thì khổ đau và sự chết vẫn đánh bại ta. Thế mà người nông dân này lại đánh bại được khổ đau và sự chết!”
Đức vua thốt lên, vừa hân hoan vừa cảm phục:
- Thật là Bậc Đại Chiến Thắng!
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:44:41 GMT -5
Viên ngọc như ý
Một thời, tiền thân Phật Thích Ca làm Thiên Vương cõi Ba Mươi Ba, thường dùng thiên nhãn xem khắp mọi nơi, hễ ai hữu duyên là biến hóa hiện thân, dùng phương tiện trí để cứu độ.
Cõi Diêm Phù Đề, thành Ba-la-nại lúc bấy giờ, có một vị vua tham lam và bỏn xẻn. Tuy bạc vàng châu báu dẫy đầy cung khố mà nhà vua lúc nào cũng cảm thấy mình thiếu thốn. Quốc độ trù phú và rộng mênh mông mà luôn đưa mắt dòm ngó sang các nước lân cận. Hai muôn cung nga thể nữ phi tần mỹ miều, duyên dáng, ngày đêm túc trực hầu hạ vẫn không thỏa mãn được dục vọng vô độ của nhà vua. Sơn hào, hải vị thay đổi từng bữa, từng ngày, vẫn không đáp nổi khẩu vị của nhà vua...
Hưởng thụ thì như vậy, nhưng chưa bao giờ đức vua ban thưởng cho ai một điều gì, bố thí cho ai một đồng nào. Thật là một kẻ chỉ biết nhận về chứ không biết cho đi!
Dẫu vậy, nhưng y cũng có túc duyên, hóa độ được.
Nghĩ thế xong, đức Đế Thích với thời gian khảy móng tay đã hiện ra trước mắt đức vua trong dáng dấp một thanh niên Chiên-đà-la rách rưới bẩn thỉu.
Vua ngạc nhiên:
- Này, này, gã Chiên-đà-la kia! Đi, đi, đi ra, ta không có xu lẻ, ta không còn cả đồ ăn nguội! Quân đâu? Đuổi nó đi!
Tiếng dạ rân bốn phía
Thanh niên trầm tĩnh:
- Ta không đến để xin, ta đến để cho đức vua đấy chứ!
Nhà vua chỉ nghe được chữ “cho” mà thôi, nên không hề để ý đến cách xưng hô ngang tàng của thanh niên. Đôi mắt sáng rực, vua hối hả:
- Cho ư? Ồ, được! Cái gì ta cũng thiếu. Ngươi cho ta gì nào? Mỹ nữ chăng?
Thanh niên mỉm cười:
- Hơn thế nữa.
- Ồ, châu báu hử?
- Hơn thế nữa.
Nhà vua bèn thay đổi thái độ:
- Vậy thì quân đâu? Mời ngài ngồi, và rót cho ngài một ly nước... lạnh! Ồ, ngài cho gì nào?
Đang sốt sắng, rối tít, niềm nở, bỗng thấy bộ quần áo rách rưới của thanh niên, đức vua vô cùng thất vọng. Sự tức giận nổi lên đùng đùng làm cho đức vua đỏ mặt tía tai:
- Gã Chiên-đà-la láo xược. Người rách nát thế kia, thân tàn ma dại thế nọ, vậy mà bảo cho ta ư? Cho cái gì? – Rồi tròng mắt trợn trắng lên – Chém đầu, quân bay!
Nhà vua thở hổn hển, hai tay run run nắm chặt lại. Thanh niên bỗng cười ha hả:
- Đức vua lầm rồi!
Nhà vua vỗ mạnh lên ngai vàng, đứng bật dậy:
- Lầm, ta mà lầm ư? – Lại vỗ ngực – một đức vua tài trí, giàu sang và hùng mạnh cõi Diêm Phù Đề?
Thanh niên thần sắc vẫn tươi tỉnh, nụ cười dí dỏm vẫn nở trên môi, thò tay kéo mảnh áo rách lên:
- Thánh nhân xưa có dạy rằng: “Viên minh châu nằm trong chiếc áo rách”. Vậy thì đức vua có muốn xem chăng? Ở đây, sẽ có những tấm vàng mịn, rất mịn.
Nghe đến vàng, dẫu chưa biết thực hư, đức vua từ từ ngồi xuống, chăm bẳm nhìn không nói gì.
Một tiếng “roạt” vang lên. Một tấm lá vàng lóe lên chấp chóa. Đức vua chồm tới nom cho thật rõ, thốt lên:
- Đúng, đúng là những tấm vàng mịn, rất mịn.
Lại đưa mắt nhìn, trợn ngược, lại than:
- Ồ! Mà ta chưa bao giờ có được những tấm lá bằng vàng mịn đẹp đẽ dịu dàng đến thế!
Thanh niên từ từ tiếp:
- Chưa hết đâu. Sau những tấm lá bằng vàng mịn còn có những hạt kim cương…
- Kim cương hả? Kim cương à? Đức vua dồn dập trong hơi thở – Kim cương thật chứ?
Thanh niên gật đầu:
- Có bao giờ mà ta lại không nói thật? Đúng là ở đây có trăm ngàn hạt kim cương mà toàn thể châu Diêm Phù Đề chưa có được một.
Đức vua, quần thần vây quanh không nhắm mắt lại được nữa: những hạt kim cương cứ đổ ra từ bên sau tấm áo rách của chàng thanh niên Chiên-đà-la. Những hạt kim cương to lớn dị thường, lóng la lóng lánh muôn hồng nghìn tía nhảy múa đến loạn cả mắt.
Đức vua hối hả chồm tới:
- Còn nữa không? Đổ ra, cứ đổ ra nữa xem. Càng nhiều càng tốt. Hãy cho ta thêm nữa, càng nhiều càng… tốt…!
Đức vua quỳ xuống hả hê ôm cả đống kim cương vào lòng, reo to lên sung sướng:
- Kim cương! Kim cương vạn tuế!
Để cho đức vua chết mệt một hồi, thanh niên cất từng tiếng:
- Bên sau những hạt kim cương, ta lại còn...
Đức vua quay lại nhanh hơn cả loài sóc:
- Gì nữa? Còn gì nữa hả đại nhân? Bậc rộng lượng? Kẻ đức độ? Ôi tấm lòng ngài cao cả xiết bao? Ngài cứ ban cho ta nhiều thêm nữa, vật quý trọng chừng nào thì người cho càng quý trọng chừng đó...
Thanh niên cười thầm trong bụng, nói to:
- Ngọc tỵ thủy!
- Ồ, sung sướng quá! Thứ này có thể rẽ nước mà đi, ta chỉ mới được nghe qua trong những trang sử hoang đường. Ôi! Quý hóa đến vô cùng vô tận. Đâu ngài hãy cho kẻ hèn hạ này xem thử coi?
Một viên ngọc xanh biếc và trong suốt như mắt mèo hiện ra. Vua thò tay chộp lấy, nhảy cẫng lên:
- Ồ, mà ngài cho thiệt hử?
Thanh niên mỉm cười không nói gì. Một viên ngọc rực lửa rơi xuống, chóa lên, tưởng như bốc cháy cả cung điện.
- Cái gì thế? Vua hốt hoảng la lên, đôi mắt chằm chặp nhìn cái vật kỳ lạ.
- Đấy là ngọc tỵ hỏa, vào lửa không cháy, vật trân bảo ấy xin dâng hiến đức vua.
Thanh niên ngưng một lúc, viên ngọc khác rơi ra. Cứ thế, tỵ thổ, tỵ phong... những viên ngọc mà thế gian tưởng như huyền thoại lần lượt trình diện trước những cặp mắt thèm thuồng của mọi người.
Ngọc cứ rơi ra, đức vua cứ chộp lấy. Như ngấu nghiến. Ngộp thở. Vươn miện nghiêng lệch. Long bào xuệch xoạc. Bá quan văn võ chôn chân tại chỗ, lặng như tờ.
Thanh niên đã ngồi chễm chệ trên chiếc ghế da hổ, chân bắt chéo, cất giọng rõ ràng trầm ấm bằng tiếng nói của của chư thiên:
- Những viên ngọc kia thế gian vô giá, tuy thế, ta còn có cái trân quý hơn thế nhiều. Muôn triệu vàng bạc, kim cương, ngọc ngà; kể cả ngàn quốc độ, vương vị… đối với nó dường như cỏ rác.
Một tiếng ồ đồng loạt khởi lên. Rồi đột ngột im lặng. Hàng trăm đôi mắt đứng tròng.
Đức vua không còn tự chủ được, đã đến quỳ bên chân thanh niên tự bao giờ, ngập ngọng, lắp bắp:
- Ta... ta... Hãy... cho... ta...!
- Đây mới chính là vật mà ta định cho đức vua – thanh niên giảng giải – khi có vật này rồi thì muốn mỹ nữ, nó cho mỹ nữ, muốn châu báu nó cho châu báu, muốn quốc độ, vương vị nó cho vương vị, quốc độ... Nghĩa là muốn gì thì có nấy.
Bất giác, đức vua sụp xuống lạy thanh niên, thở không ra hơi:
- Hãy... cho... ta... Ta lạy ngài vạn lạy! Chẳng hay nó la... Nó là...
- Ngọc Như Ý.
Ba tiếng Ngọc Như Ý từ miệng thanh niên rơi xuống giữa cung khuyết như ba nhát búa của thiên lôi gõ xuống đầu mọi người làm cho xây xẩm.
Thanh niên từ từ đứng dậy bước đến long án, khoan thai lấy từ đỉnh đầu ra một viên ngọc trắng tinh tinh. Viên ngọc bắt gặp ánh sáng chợt túa ra muôn đạo hào quang, muôn vạn sắc màu lóng lánh. Như triệu triệu ngôi sao đồng ngời lên một lượt, cung điện bỗng rực rỡ như cung điện của trời Đế Thích. Đức vua và quần thần cảm nghe một sự mát mẻ kỳ lạ thấm nhuần khắp cả châu thân; nó làm cho tâm hồn cảm thấy no đầy, khinh khoái và an lạc.
Viên Ngọc Như Ý đang trước tầm mắt của đức vua. Không chờ đợi được, vua đưa tay chộp lấy.
Bỗng, đức vua “á” lên một tiếng đau đớn, nhăn mặt, thối lui. Viên ngọc vẫn còn nằm kia, sáng rực rỡ trên long án, nhưng bàn tay phải của đức vua máu chảy ròng ròng. Mọi người kinh ngạc không hiểu tại sao? Đôi mắt đức vua vẫn không rời viên ngọc, lại cố gắng bặm môi, cắn chặt răng, thò bàn tay trái ra, chộp mạnh.
Một tiếng la lên đau đớn, như tiếng la của một con thú bị tử thương, đức vua nhìn cả hai bàn tay máu tuôn từng giọt. Trên long án, viên ngọc bất khả xâm phạm vẫn cứ sáng rỡ như khiêu khích.
Thanh niên chợt ồ lên một tiếng:
- Ta quên. Ta quên nói điều quan trọng. Viên Ngọc Như Ý này vốn “kỵ tham!”. Tham lam nhiều, máu chảy nhiều. Tham lam ít máu chảy ít. Hỡi đức vua vô tham cao cả và chí thiện, viên ngọc trân quí không hai này, ta cung kính hiến dâng ngài...
Thanh niên cầm viên ngọc bước tới. Đức vua hốt hoảng thối lui, xua tay lia lịa:
- Ta... ta...
Máu từ hai bàn tay của đức vua không ngớt rỉ ra, đọng thành vũng. Thanh niên nhìn rồi khẽ à một tiếng, than dài:
- Ồ! Đáng tiếc thật là đáng tiếc! Té ra đức vua vì tham lam quá độ nên không có duyên phần làm chủ được viên ngọc vô giá này. Vậy hẳn để ta cho người khác.
Thanh niên quay lại. Bây giờ, bá quan, hoàng tử, công chúa, hoàng hậu, phi tần, cung nga... đã đứng chật cả triều phòng. Đức vua nghe thanh niên nói, sợ Ngọc Như Ý vào tay kẻ khác, hốt hoảng chạy đến, không để ý máu đã vương vãi lấm lem khắp người.
- Nó là phần của ta!
Đức vua hét ngược, sát khí đằng đằng.
Chưa thôi, vua lại còn rút dao ra, dữ tợn như loài thú điên:
- Ai bước tới, ta chặt đầu!
Nhìn cử chỉ, ngôn ngữ và thần sắc quái dị của đức vua, thanh niên chán nản và ngao ngán cho tâm địa con người; nhưng nghĩ rằng cơ hội đã đến, là thời điểm giáo hóa, bèn nói:
- Phải rồi. Là của đức vua. Ta đã hứa. Vậy xin ngài hãy nhận.
Thanh niên trao viên ngọc, đức vua định thò tay, nhưng chợt như vừa tỉnh ngộ:
- Ta... còn tham! Máu... máu sẽ còn chảy nữa...
Thanh niên trầm ngâm rồi trang nghiêm nhìn đức vua:
- Thật tình nhà vua có muốn viên Ngọc Như Ý này chăng?
Vua gật đầu lia lịa:
- Muốn! Muốn vô cùng!
- Nhưng khốn nỗi, Ngọc Như Ý lại kỵ tham, nhà vua cũng biết vậy chứ?
- Biết! Biết vô cùng!
- Vậy, muốn làm chủ Ngọc Như Ý, nắm Ngọc Như Ý mà không đổ máu, cái điều kiện là như thế nào, đức vua có rõ không?
- Rõ! Rõ vô cùng! – Đức vua trả lời như cái máy – Tham lam nhiều, máu chảy nhiều. Tham lam ít, máu chảy ít. Muốn được Ngọc Như Ý thì phải vô tham!
- Hay quá – Thanh niên cười to – Đức vua đã hiểu biết rành rẽ như vậy thì viên Ngọc Như Ý này thế gian ai giành phần được. Hỡi đức vua cao cả và chí thiện, ngài có muốn hết tham không?
Đức vua đôi mắt sáng lên:
- Muốn! Muốn vô cùng!
- Vậy thì hãy thực hành những điều ta chỉ dạy.
Đức vua hối hả trợn mắt, cầm đao đuổi tả hữu chạy ra ngoài...
Bắt đầu từ dạo ấy, người ta thấy đức vua tự nhốt mình trong cung cấm. Tất cả việc triều chính đều giao cho các quan đại thần xử lý. Cung nga, thể nữ không được bén mảng tới nơi. Rõ là đức vua đang tinh tấn thực hành những lời chỉ dạy của thanh niên để hy vọng hôm nào nắm được Ngọc Như Ý.
Đã một lần. Hai lần. Rồi hàng chục lần, thanh niên kỳ dị, bí mật kia trở lại, viên ngọc được đưa ra. Nhưng lạ lùng sao, tay đức vua vừa nắm đến là từ viên ngọc như có những chiếc gai nhô ra, đâm sâu vào tay ngài đau điếng, máu phọt ra có vòi. Dường như càng ngày cường độ gai đâm và máu chảy càng nhiều chứ không giảm bớt. Lửa tham âm ỉ thiêu đốt đêm ngày làm cho đức vua quên ăn, bỏ ngủ; hết kinh hành thì thiền định, hết thiền định thì kinh hành. Sự tinh tấn và nhẫn nại ấy thật khó có người hơn được.
Cho đến hôm kia, thanh niên đến, với Ngọc Như Ý trước mắt, nhưng nhà vua bình thản lạ lùng, nhìn thanh niên một hồi rồi dịu dàng mỉm cười:
- Đây là Ngọc Như Ý ư?
Nói xong đức vua chậm rãi cầm lấy viên ngọc bỏ lên lòng bàn tay, mân mê, ngắm ngía.
Lạ lùng chưa: viên ngọc giờ lại không có gai! Đức vua đã nắm được!
- Đế Thích Thiên Vương – Đức vua mở lời bằng thái độ hoàn toàn tự chủ – Dẫu ngài bỡn cợt ta bấy lâu nay nhưng ta cảm kích ngài lắm, vô vàn cảm kích.
Đức vua giỡn với viên ngọc trong tay, lại nói tiếp:
- Không tu trì, không hiểu được; không lên đường đâu biết lộ trình gần xa? Thật khó mà tưởng tượng được rằng, viên Ngọc Như Ý tối trân quý này, đã làm cho ta khao khát thèm muốn lại không phải là thứ thiệt! Đế Thích Thiên Chủ ơi! Nó không phải là giả nhưng kỳ lạ chưa, chắc chắn nó không phải là thứ thiệt. Thứ thiệt đó... quả là bất khả tư nghì, ta cũng có một viên, ngài có muốn xem không?
Đức vua dứt lời, thanh niên cười ha hả, hiện thành Đế Thích Thiên Vương, to lớn, oai nghiêm với rực rỡ dung sắc, biến mất giữa hư không rồi về thiên giới.
Đức vua nhìn theo, hoan hỷ mỉm cười.
Người đàn tín hộ trì tối thượng
Vào một thời quá khứ, Vebhaliṅga là một thị trấn dân cư đông đúc, giàu có và thạnh mậu. Đức Phật Ca-diếp thánh cư tại một tu viện ở đó để giáo hóa chúng Tăng. Ngài có một vị đàn tín đệ nhất là người thợ làm đồ gốm, tên là Ghaṭīkāra. Mặc dầu nhà nghèo, lại sanh thuộc hạ cấp, người thợ gốm Ghaṭīkāra rất được sự tín ái của Thế Tôn Ca-diếp, vì ông ta đã thành tựu được lòng tin bất thối đối với Phật, với Pháp, với Tăng; đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tình dục, bất bình: đắc A-na-hàm quả) và đang sống trong giới hạnh của bậc Thánh. Làm bạn với Ghaṭīkāra là thanh niên Jotipāla, thuộc giai cấp khác, không có lòng tin đối với Tam Bảo. Đã bao nhiêu lần, người thợ gốm Ghaṭīkāra khuyên bạn của mình đến yết kiến Đức Thế Tôn – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, hầu giúp bạn tiến hóa trên con đường Thánh hạnh nhưng thanh niên Jotipāla đều tìm cách từ chối. Thợ gốm Ghaṭīkāra không buồn, không nản; với lòng từ ái và nhẫn nại sâu xa vẫn quyết tâm khuyến hóa thanh niên Jotipāla cho bằng được.
Một lần nọ, sau khi hầu hạ cơm nước cho cha mẹ mù lòa xong, Ghaṭīkāra đến thăm bạn với trang phục bình dị nhưng dung sắc rạng rỡ và tiêu sái được toát ra từ một nội tâm không khi nào là không thanh tịnh lạc trú. Thấy Ghaṭīkāra đến, thanh niên Jotipāla cười cười, nói: - Này bạn! Hôm nay trời đất thật là trong sáng và mỹ diệu, thù thắng, tuyệt vời, không một mảy bụi. Hoa nở rộ, hương thơm ngát; từng con đường cũng trong sáng, mỹ diệu, không một mảy bụi. Thế Tôn Ca-diếp đang thánh ngụ trong một tu viện gần đây, không bao xa, hãy đi đến đảnh lễ Ngài, ta sẽ được phúc lạc tối thượng!
Biết bạn nói chặn trước, Ghaṭīkāra mỉm cười:
- Dòng sông mùa xuân nước cũng trong xanh, cũng mỹ diệu tuyệt vời, không một mảy bụi. Thật là thoải mái cho ta được bơi lội nơi ấy, được thở, được chà xát thân thể bằng bột tắm và đồ gãi lưng. Này bạn! Hãy cầm đồ gãi lưng và bột tắm, ta sẽ đi!
Thanh niên Ghaṭīkāra ngạc nhiên giây lát rồi gật đầu:
- Quí hóa thay, này thiện hữu! Đấy mới thật là đệ nhất tri kỷ, tối thượng tri kỷ của ta vậy.
Nói xong, với sự nhanh nhẹn của loài sóc, loài thỏ rừng, thanh niên Jotipāla lấy đồ gãi lưng và bột tắm rồi cùng đi đến sông với thanh niên Ghaṭīkāra. Người thợ gốm thầm nghĩ: Đến yết kiến Sa-môn trọc đầu ấy để làm gì? Lúc nào y cũng hỏi lại ta như vậy khi ta có lòng từ ái muốn cho y được lợi ích, tấn hóa trong giáo pháp của bậc Thánh. Người thanh niên này – người bạn thân mến của ta, thật là cứng đầu lắm. Rồi ta sẽ dùng biện pháp khác đối với y, không dừng được.”
Nghĩ vậy xong, thợ gốm Ghaṭīkāra cố dẫn thanh niên Jotipāla đi xa hơn chỗ đã định năm đòn gánh... mười đòn gánh...
Với sự khôn ngoan của vua loài chồn, thanh niên Jotipāla cười ha hả:
- Hãy dừng lại ở đây, này bạn thân, này Ghaṭīkāra quí mến! Ở đây cũng có một đoạn sông, nước cũng trong xanh, mỹ diệu, không một mảy bụi; cần gì phải đi xa như vậy, đến gần tu viện của Sa-môn trọc đầu với năm đòn gánh, với mười đòn gánh?
Không biết làm sao hơn, Ghaṭīkāra bèn dừng lại. Sau khi tắm xong, Ghaṭīkāra – người thợ gốm nắm chặt cổ tay của Jotipāla và nói:
- Này bạn! Thật là hy hữu thay khi có một bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Làm thân người đã khó, làm thân người nam khó hơn, làm thân người nam mà đầy đủ các căn lại càng khó, lại sinh nhằm thời với Đấng Pháp Vương Vô Thượng lại càng khó hơn nữa. Hãy đi! Chớ có chần chờ, chớ có trì hoãn. Hãy đến yết kiến Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật là tốt lành, là phúc lành tối thượng cho ta được đảnh lễ Ngài, yết kiến Ngài. Hãy đi! Chớ có lần lữa, chớ có cứng đầu!
Sau một hồi vùng vẫy bằng sức mạnh của mình, thanh niên Jotipāla gỡ thoát tay ra được, cười lớn:
- Thôi mà bạn, vừa rồi, đủ rồi. Đừng có nói nữa. Yết kiến bậc Sa-môn trọc đầu ấy mà làm gì? Có lợi ích gì? Có an lạc gì? Đừng có nói nữa!
Thợ gốm Ghaṭīkāra với sự cương quyết tối thượng, với sức mạnh được tập trung tối thượng; lần này chàng nắm chặt búi tóc của thanh niên Jotipāla bằng cả hai tay của mình:
- Hãy đi! Này bạn Jotipāla! Thế Tôn Ca-diếp ở tu viện gần đây, không có bao xa. Ta sẽ nắm chặt, ta sẽ lôi và kéo ngươi đến yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác. Dẫu tay ta có bị đốt bằng lửa, có bị chặt bằng dao; ngươi cũng đừng nghĩ là ta sẽ thả tay ra. Ta sẽ không bao giờ thả tay ra nếu chưa đạt được ý nguyện.
Nghe lời nói ấy, thanh niên Jotipāla chợt dựng tóc gáy, thần sắc thay đổi; rồi ý nghĩ sau đây lại khởi sanh đến y: “Thật là vi diệu thay! Thật là hy hữu thay! Thợ gốm Ghaṭīkāra tuy sanh thuộc hạ cấp lại dám nắm chặt lấy búi tóc của ta bằng hai tay? Lại hăm dọa là sẽ lôi và kéo; dẫu ta vừa mới gội đầu, dẫu ta sanh thuộc giai cấp quí trọng hơn y? Vậy thì chắc chắn việc này không phải là tầm thường! Lại nữa, y còn nói dẫu bị đốt bằng lửa, bị chặt bằng dao, y cũng không thả ra! Đến yết kiến Sa-môn trọc đầu ấy thì sẽ lợi gì cho y? Ồ! Đây rõ ràng là y có tâm từ ái đối với ta chứ không phải là không có tâm từ ái!”
Nghĩ vậy xong, thanh niên Jotipāla cất giọng dịu dàng:
- Này bạn thân! Ta đã hiểu rồi. Ta đã nghĩ rồi. Có phải đi đến chỗ ấy phải cần thiết có những cử chỉ đặc biệt như nắm chặt cổ tay? Nắm chặt lấy búi tóc bằng cả hai tay mà lôi và kéo?
- Cần thiết lắm chứ – người thợ gốm gật đầu cương quyết - thật sự là cần thiết, nếu bạn không đi! Thật là tốt lành làm sao nếu ta được yết kiến Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!
Thanh niên Jotipāla nhìn thần sắc nghiêm nghị của thợ gốm Ghaṭīkāra, nghĩ thầm: “Chưa một lần nào ta thấy y bỡn cợt với ta. Chưa một lần nào ta thấy y lẫm lẫm uy nghiêm đối với ta như thế. Dẫu ta có sức mạnh của Tượng Vương, dẫu ta có oai hùng như Sơn Lâm Vương, y vẫn lôi và kéo ta như thường, không có thối thất, không có sợ hãi.”
- Vậy thì hãy thả tay ra, này bạn yêu quí – thanh niên Jotipāla thở ra một hơi nhẹ nhàng – chúng ta sẽ đi. Chúng ta sẽ yết kiến Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
- Lành thay! Này bạn thân! Lành thay! Nhưng mà như vậy đừng nghĩ là ta đã thắng ngươi. Ta là gì mà có thể thắng ngươi được? Sự thắng là do Thế Tôn – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Sự thắng là do sức mạnh của thiện pháp!
Sau đó, thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla cùng đi đến Thế Tôn Ca-diếp. Thợ gốm Ghaṭīkāra cung kính đảnh lễ Ngài, còn thanh niên Jotipāla chỉ nói lên những lời hỏi thăm thân hữu.
Ngồi một bên, thợ gốm Ghaṭīkāra chắp tay trước ngực:
- Bạch Thế Tôn! Đây là thanh niên Jotipāla, bạn của con, bạn thân tình của con. Mong Thế Tôn thuyết pháp cho bạn con.
Rồi Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác với pháp thoại, phấn khích, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ thợ gốm Ghaṭīkāra và thanh niên Jotipāla. Cả hai đều tín thọ lời dạy ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn Ca-diếp, thân bên hữu hướng vào Ngài rồi ra về.
Như một người vừa được hóa sanh từ giáo pháp, với lạc và hỷ đầy ắp trong tâm, với tín và trí ngời sáng trong mắt – trên đường về, thanh niên Jotipāla nói với thợ gốm Ghaṭīkāra:
- Bạn hỡi! Tại sao khi nghe pháp này, một thời pháp chưa từng được nghe, một thời pháp vi diệu, thù thắng, lại có thể không xuất gia? Có thể như vậy được chăng?
Thợ gốm Ghaṭīkāra nắm chặt tay bạn:
- Jotipāla thân ái! Jotipāla thân yêu! Jotipāla kính mến! Phải lắm. Với thời pháp tối thượng hy hữu ấy, ngoại trừ những ai không có tai. Còn ngoài ra, tất phải xuất gia trong giáo pháp nầy của Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Lần thứ hai, thanh niên Jotipàla hỏi, lần thứ hai thanh niên Ghaṭīkāra trả lời. Lần thứ ba, thanh niên Jotipàla hỏi như vậy, lần thứ ba thợ gốm Ghaṭīkāra trả lời như vậy.
Thanh niên Jotipàla chợt quay lại nhanh như sự xẹt xuống của một ngôi sao, nắm chặt vào cổ tay thợ gốm Ghaṭīkāra với sức mạnh chưa từng được thấy:
- Thế tại sao bạn không xuất gia? Hay là ta phải nắm chặt cổ tay bạn, nắm chặt búi tóc bạn rồi kéo bằng sức mạnh của trăm con voi to, bằng sức mạnh của ngàn con voi to?
Thợ gốm Ghaṭīkāra chợt phì cười rồi cất giọng dịu dàng, từ ái như tiếng nói của Phạm Thiên:
- Này bạn Jotipāla kính mến! Bạn không biết tôi sao? Tôi còn có cha mẹ già mù lòa cần phải phụng dưỡng.
Thanh niên gật đầu:
- Tôi hiểu. Còn tôi? Tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”
Thế rồi, hôm sau, thanh niên Jotipāla được thợ gốm Ghaṭīkāra dẫn đến Thế Tôn Ca-diếp, xuất gia, thọ Đại giới, sống đời phạm hạnh.
Thanh niên Jotipāla xuất gia chưa được bao lâu, chừng nửa tháng, Thế Tôn Ca-diếp từ thị trấn Vephanninva du hành đến xứ Ba-la-nại, trú tại Isipatana ở vườn Nai. Vua xứ Kāsi tên là Kikī, sau khi được nghe Thế Tôn Ca-diếp đang ngụ tại vườn Nai; liền cho thắng các cỗ xe mỹ diệu, thù thắng; với nghi vệ của bậc Đại vương, ra khỏi thành Ba-la-nại để yết kiến bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Tại chỗ xe không còn đi được, vua xứ Kāsi bèn xuống đi bộ đến chỗ Thế Tôn Ca-diếp đang ngự trú.
Sau một thời pháp vi diệu, làm cho phấn khích, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ vua xứ Kāsi – Thế Tôn im lặng nhận lời mời của vua ấy vào ngày mai sẽ đến dùng cơm với đại chúng tỷ-kheo. Kikī - vua xứ Kāsi từ chỗ ngồi đứng dậy, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Đêm đã mãn, tại trú xứ của mình, vua xứ Kāsi cho bày soạn các món ăn thượng vị loại cứng mềm: Cơm thù thắng, các loại cà-ri thù thắng; các loại bánh bao, bánh hấp, bánh gói thù thắng; các món gia vị thù thắng; các thức ăn phụ tùng béo, ngọt và bùi thù thắng rồi báo thì giờ cho Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác: “Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, trai phạn đã sẵn sàng.” Rồi Thế Tôn Ca-diếp vào buổi sáng, mặc y, đắp đại y ngời sáng như sắc vàng chói của Kim mao Sư vương cầm bát đến trú xứ của vua Kāsi. Đến nơi, Ngài ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn với đại chúng tỷ-kheo. Vua Kāsi đã tự thân kính hầu, làm cho đẹp dạ chúng tỷ-kheo với Thế Tôn là vị cầm đầu bằng những món ăn thù thắng đó. Khi Thế Tôn tay vừa rời khỏi bát, vua xứ Kāsi lấy một chiếc ghế rồi ngồi xuống một bên hiệp chưởng cung kính:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con, an cư mùa mưa tại Ba-la-nại, sẽ có sự cúng dường như vậy cho chúng tỷ-kheo.
- Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi, Đại vương. Ta đã nhận lời An cư mùa mưa rồi.
Được thỉnh lần thứ hai, lần thứ ba, Thế Tôn Ca-diếp vẫn trả lời y như cũ. Vua xứ Kāsi tự tâm ưu sầu và phiền muộn với ý nghĩ: “Thế Tôn đã không nhận lời mời của ta đã làm cho ta mất an lạc. Thế Tôn không nhận lời mời của ta đã làm cho ta mất an lạc, chẳng hay, Ngài đã có người hộ trì tối thượng, một đàn tín tối thượng hơn ta? Một bậc Đại vương giàu có, uy quyền và danh tiếng lẫy lừng?”
- Bạch Thế Tôn! Có thể như thế được chăng? Trên quốc độ này, trên trần gian này, Thế Tôn và đại chúng tỷ-kheo lại có một đại thí chủ khác, với công đức hộ trì thù thắng hơn con, Kikī – vua xứ Kāsi?
- Đại vương! Đừng có ưu phiền! Đừng có thất vọng!
Với giọng buồn bã, với một hơi thở dài, vua xứ Kāsi nói:
- Làm sao mà con không ưu phiền và thất vọng cho được, bạch Thế Tôn! Khi con biết rằng Thế Tôn và đại chúng tỷ-kheo đã có người đàn tín mà kim cương và hột xoàn, ngọc ngà và vàng bạc to hơn cung khố của con - Kikī, vua nước Kāsi!
- Không phải vậy, Đại vương. Nhưng ta cũng nói là ta đã có người đàn tín hộ trì tối thượng. Đại vương! Đừng có ưu phiền! Đừng có thất vọng!
- Làm sao mà con không ưu phiền và thất vọng cho được, bạch Thế Tôn! Khi con biết chắc rằng trên trần gian này còn có kẻ ở ngoài uy quyền của con, còn có người mà danh tiếng vượt thoát ra ngoài bổn quốc? Lành thay! Thế Tôn và đại chúng tỷ-kheo đã có người đàn tín hộ trì tối thựợng!
- Không phải vậy, Đại vương! Nhưng ta cũng nói là ta đã có một đàn tín hộ trì tối thượng. Đừng có ưu phiền! Đừng có thất vọng!
Đến đây, Kikī - vua xứ Kāsi ngạc nhiên với đôi mắt mở lớn:
- Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn cho con được nghe!
- Đại vương! Ta sẽ nói.
- Lành thay, bạch Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn Ca-diếp nói như sau:
- Đại vương! Có một thị trấn tên là Vebhaliṅga, tại đấy có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra, rất nghèo, sanh thuộc giai cấp thấp kém, sống trong căn nhà cỏ với cha mẹ mù lòa...
Vua xứ Kāsi cảm thán thốt to lên:
- Thật là hy hữu thay! Thật là hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Có thể như thế được ư? Là đàn tín hộ trì tối thượng?
- Đại vương, phải rồi. Đấy là đàn tín hộ trì tối thượng của ta trong mùa mưa an cư này!
Một ý nghĩ chợt khởi lên trong tâm của nhà vua: “Có nguyên nhân thù thắng chứ không phải không có nguyên nhân thù thắng, Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác mới lặp đi lặp lại mãi như vậy.”
- Bạch Thế Tôn! Con đang kính cẩn lắng nghe với tâm định tĩnh chứ không phải không định tĩnh.
- Đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra dẫu là nghèo nàn, lại sanh thuộc hạ cấp nhưng đã qui y Phật, Pháp, Tăng, đã từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, từ bỏ những đắm say rượu men, rượu nấu... Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, một người như thế có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?
- Bạch Thế Tôn, có thể được!
- Lại nữa, này Đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra dẫu nghèo nàn, dẫu sanh thuộc hạ cấp nhưng đã thành tựu lòng tin đối với Tam Bảo, thành tựu các giới luật của bậc Thánh, không có một nghi ngờ nào đối với khổ, với khổ tập, với khổ diệt, với con đường đưa đến khổ diệt. Này Đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra ăn mỗi ngày một bữa, sống thiện hạnh, theo thiện pháp. Thợ gốm Ghaṭīkāra từ bỏ ngọc và vàng, không nhận vàng và bạc. Với trí tuệ, với lòng dục được đoạn trừ, với thánh hạnh thanh tịnh mạng, vị ấy tự nuôi sống mình bằng nghề thợ gốm. Dẫu là nghề gốm nhưng y không tự tay cuốc và đào; vị ấy lấy đất từ những bờ đê sạt lở, lấy đất từ những chỗ do chuột và cáo đào lên – để nặn lên những chén, bát, chum, vại... cùng những đồ dùng bằng đất khác. Này Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, một thiện nam cư sĩ như vậy có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có thể được.
- Lại nữa! Này Đại vương. Thợ gốm Ghaṭīkāra với những đồ gốm được nắn, nung thiện xảo, có hoa tay, tốt đẹp do mình làm ra; không đổi bằng vàng và bạc, không đổi bằng tiến giấy và tiền kẽm, không đổi bằng tiền đồng và tiền xu. Khi có người đến, vị ấy nói: “Này bà con! Này thiện hữu kính mến! Hãy lấy đi bất cứ vật gì mà mình muốn, mình thích, mình sử dụng được; rồi bỏ vào đây một ít thôi, một trong các loại: một vài nhúm hạt gạo có vỏ, một vài nhúm các hạt đậu, ít củ khoai, vài củ sắn, củ nâu, củ chuối, muối, vừng, hoặc bất cứ thứ gì ăn được mà bà con có sẵn... chớ có mua! Đừng có mua và bán!” Này Đại vương, bằng cách ấy, thợ gốm Ghaṭīkāra sinh sống không có ác mạng, phụng dưỡng cha mẹ mù lòa. Đại vương nghĩ thế nào, có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có thể được.
- Lại nữa! Này Đại vương, thợ gốm Ghaṭīkāra đã dập tắt năm hạ phần kiết sử, đã hóa sanh vào cõi của bậc Thánh, trọn đời này. Này Đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, có đáng được gọi là đàn tín hộ trì tối thượng chăng?
- Bạch Thế Tôn! Một phần năm như vậy cũng đã đáng được cung kính, lễ bái, cúng dường, cũng đã xứng đáng được gọi là người đàn tín hộ trì tối thượng.
- Này Đại vương! Một thời, ở thị trấn Vebhaliṅga, với đại y vắt vai, với bình bát cầm tay, ta đi đến căn nhà cỏ của Ghaṭīkāra rồi hỏi vọng vào: “Thợ làm gốm, người đàn tín hộ trì đi đâu?” Bạch Thế Tôn – cha mẹ mù lòa của Ghaṭīkāra trả lời – y đã đi khỏi và có dặn rằng: “Nếu Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có đến đây thì hãy lấy cháo từ nơi nồi, hãy lấy đồ ăn từ nơi chảo mà dùng.” Rồi ta, này Đại vương, sau khi lấy cháo từ nơi nồi, lấy đồ ăn từ nơi chảo; ăn xong, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Trở về, thấy trong bếp đã mất phần cháo và đồ ăn, thợ gồm Ghaṭīkāra bèn hỏi mẹ. “Này con – người mẹ trả lời – Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi lấy cháo và thức ăn ấy, ăn xong, đã đi.” Nghe vậy, thợ gồm Ghaṭīkāra thốt to lên: “Thật là hy hữu thay cho ta! Thật là lợi ích thay cho ta, khi được Thế Tôn Ca-diếp – bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đặt trọn lòng tin tưởng đến ta như vậy!” Rồi này Đại vương, thế là hỷ lạc được phát sanh suốt nửa tháng không rời khỏi trong tâm của người thợ gốm; hỷ lạc được phát sanh suốt một tuần không rời khỏi tâm của cha mẹ mù lòa...
- Thật là tối thượng hy hữu! Thật là hy hữu tối thượng!
- Lại nữa! Này Đại vương, ta trú ở Vebhaliṅga, lúc bấy giờ cốc của ta bị mưa dột, ta gọi các tỷ-kheo: “Hãy đi! Này các tỷ-kheo, hãy đến nhà thợ gốm Ghaṭīkāra xem thử có cỏ hay không?” Một hồi lâu, các tỷ-kheo trở lại đáp: “Bạch Thế Tôn, không có cỏ, nhưng có mái cỏ trên nhà của thợ gốm ấy.” “Hãy đi! Này các tỷ-kheo - ta nói - Hãy đến rút cỏ trên mái của ngôi nhà ấy rồi mang về đây lợp lại cốc cho ta.” Mẹ của thợ gốm thấy vậy, bèn hỏi: “Quí vị là ai mà tự tiện đến đây rút cỏ trên mái của ngôi nhà?” – Này đại tỷ – các tỷ-kheo đáp – ngôi nhà của Thế Tôn Ca-diếp bị mưa dột”. “Vậy thì hãy lấy đi, chư hiền giả! Vậy thì hãy lấy đi, chư hiền giả!” Mẹ của Ghaṭīkāra hối hả nói. Trở về, thấy nhà của mình trống trơn, hứng lấy bầu trời làm mái nhưng không hề có một giọt mưa, giọt nắng nào rơi vào; ngạc nhiên, Ghaṭīkāra hỏi, được cha mẹ trình bày tự sự. Cũng như lần trước, thợ gốm Ghaṭīkāra phát sanh hỷ lạc nửa tháng, cha mẹ Ghaṭīkāra phát sanh hỷ lạc một tuần. Và như vậy, này Đại vương, đó là câu chuyện về người đàn tín hộ trì tối thượng của ta – Ghaṭīkāra thợ gốm nghèo nàn, sanh thuộc hạ cấp ở thị trấn Vebhaliṅga.
Kikī - vua xứ Kāsi nghe xong, hân hoan phát sanh, hỷ lạc phát sanh, thốt lên:
- Thật là lợi ích thay! Thật là hy hữu thay! Thật là thù thắng thay câu chuyện về người đàn tín này, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đặt trọn lòng tin là phải lắm. Bạch Thế Tôn! Trăm phần, ngàn phần công đức của con, sự hộ trì của con - vua xứ Kāsi giàu sang, uy quyền và danh tiếng cũng không bằng được Ghaṭīkāra – người thợ gốm ấy.
Vua xứ Kāsi ngay ngày hôm sau, với khoảng năm trăm xe gạo có vỏ và không vỏ, thực phẩm khô và đồ ăn cho chở đến nhà của người thợ gốm Ghaṭīkāra.
- Này tôn giả, này bậc hiền trí! Hãy thọ nạp tất cả những thực phẩm này để bố thí, cúng dường hoặc làm bất cứ công việc từ thiện nào mà tôn giả nghĩ là phải lẽ. Những thực phẩm này là của đức vua Kāsi, nay là của tôn giả, mong tôn giả nhận cho!
- Nhà vua rất nhiều phận sự, rất nhiều công việc cần phải làm, thật là vừa đủ cho tôi, thật là phải lẽ cho tôi khi được nhà vua nghĩ đến như thế này.
Người thợ gốm Ghaṭīkāra hết tuổi thọ, mệnh chung, hóa sanh vào cõi trời Tịnh cư, cùng với tâm an lạc của bậc Thánh.
Thanh niên Jotipāla – bạn thâm tình của người thợ gốm là tiền thân của Đức Phật Thích-ca vậy.
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:45:48 GMT -5
Tâm lành quả tốt
Thuở xưa, đã lâu xưa quá rồi, thuở Đức Phật Ca-diếp còn tại thế, ở một thôn làng ven chân núi Tuyết có hai vợ chồng làm nghề kiếm củi độ nhật.
Họ nghèo, nghèo lắm. Tuy nghèo nhưng họ vẫn sống đời đức độ hiền lương. Hiếm nỗi, đã lớn tuổi mà không con nên hai vợ chồng thường nhìn nhau thở vắn than dài.
Hôm kia đi qua làng một đạo sĩ xin ăn. Do nhân duyên tiền kiếp xa xăm nên hai vợ chồng phát tâm để bát cúng dường.
Vị đạo sĩ sau khi nhận vật thực, nói lời chúc phúc:
- Các người hãy ghi dạ: “Tâm lành, quả tốt”. Hãy làm các việc lành. Hãy tạo các công đức.
Hai vợ chồng thành kính nói:
- Chúng tôi đã lớn tuổi mà chưa con. Xin đạo nhân ban cho lời chỉ dạy.
Vị đạo sĩ nhìn hai vợ chồng một hồi rồi ôm bát, chống gậy bước đi, nói vọng lại:
- Tâm lành, quả tốt. Hãy làm các việc lành. Hãy tạo các công đức.
Từ đó, nhớ lời dạy bảo của vị đạo sĩ, hai vợ chồng người tiều phu chí thú làm ăn và tích cực giúp đỡ mọi người. Ai bệnh hoạn họ săn sóc thuốc men. Ai lỡ đường họ cho ở trọ. Họ nhường cơm sẻ áo cho những kẻ cơ hàn. Họ đùm bọc, an ủi những người cô quả, già nua. Thấy con vật bị thương họ ân cần băng bó, vuốt ve. Họ sưởi ấm cho cả những cánh chim khi đông về giá lạnh.
Không bao lâu sau, mối thiện tâm và lòng từ ái của hai người đã lớn rộng bao trùm cả một vùng. Người và vật thảy thảy được tắm mát trong dòng suối từ vô hạn của họ. Suốt mùa xuân, mùa hạ, chim chóc các nơi tìm về đậu đầy cây, đầy nhà với những tiếng hót líu lo, ríu rít tưởng như bất tận. Các lũ nai, khỉ, vượn, thỏ, sóc... con đứng, con ngồi, con nằm, con chuyền nhau chơi trên cành reo vui thoải mái.
Chẳng có nơi nào bình yên, hạnh phúc, an lạc bằng nơi góc rừng bé nhỏ xinh xinh bên chân núi Tuyết của hai vợ chồng tiều phu nhân đức.
Năm sau, người vợ nghe tin mừng mình đã đậu thai. Người chồng hoan hỷ, sung sướng, lại tích cực thêm trong các công đức như xây cầu, đắp đường, bố thí... Trong thời gian này thì đời sống họ đã no đủ lắm rồi. Có thể họ không cần làm mà vẫn có ăn nhờ công đức trước đây họ đã ban bố cho mọi người. Biết bao là thứ ngon vật lạ mà kẻ này người kia biếu xén. Biết bao trái cây ngon ngọt bổ dưỡng mà khỉ vượn mang từ rừng sâu về. Chẳng những thế, loại thú rừng hiền lành này lại có thể đỡ đần các công việc chân tay giúp hai vợ chồng nữa.
Đến ngày mãn nhụy khai hoa, ra đời một lúc ba trẻ khôi ngô tuấn tú, giống nhau như ba giọt nước. Cả ba rỡ rỡ như châu ngọc, đẹp đẽ như thiên tử nhà trời. Hai vợ chồng làm lễ tạ ơn thần thánh. Nỗi mừng biết lấy chi cân?
Năm sau, vừa chẵn thôi nôi, vị đạo sĩ xin ăn năm xưa trở lại. Hai vợ chồng lại hớn hở để bát cúng dường, với khuôn mặt rạng rỡ, trình bày là đã thoả nguyện ước năm xưa.
Quanh nhà, trên cây cối, chim chóc thi nhau hót vang rân; nào thỏ, nào sóc đổ xô chạy lại bên đạo sĩ ve vẫy đuôi mừng rỡ. Ba con vượn lớn trân trọng bồng ba trẻ ra mắt đạo sĩ nghèo nàn.
Vị đạo sĩ gật gật đầu rồi mỉm cười nói:
- Tâm lành quả tốt, đúng vậy không sai! Tâm lành quả tốt, mình đã nhờ nương mà tất cả sinh chúng cũng được nhờ nương.
Hai vợ chồng kính cẩn cúi đầu.
Vị đạo sĩ tiếp:
- Vì nhân duyên hội ngộ năm xưa nên giờ đây bần đạo sẽ đặt tên cho ba trẻ.
Rồi ngài ngửng đầu nhìn trời:
- Bần đạo là một Sa-môn không cửa, không nhà, đang bốn phương lê gót lang thang khổ hạnh để tìm cho ra đạo lớn hầu cứu độ cho muôn loại chúng sanh đang đau khổ. Ba trẻ ra đời trong lúc này đúng là kẻ hữu duyên. Đúng là do nhân duyên sâu dày trong quá khứ. Ồ! Bần đạo thấy rõ chúng rồi. Vậy bần đạo đặt tên cho ba trẻ theo thứ tự là: Trí Lợi, Ý Lợi và Tâm Lợi.
Nói xong câu nói hàm nghĩa sâu xa, chăm chú nhìn ba trẻ một hồi rồi đạo sĩ cất chân từ giã...
Quang âm thấm thoắt, ngày tháng thoi đưa, ba trẻ giờ đã lớn.
Trí Lợi là anh, bất cứ công việc gì cũng tỏ ra thông minh, khôn ngoan, sáng suốt. Ý Lợi là em kế, là một trẻ đầy ý chí, cương nghị, dõng lực. Cùng với Trí Lợi, Ý Lợi giúp cha mẹ làm tất cả các công việc về rẫy bái, ruộng vườn. Ngoài ra, họ còn vào rừng sâu làm gỗ, tìm trầm. Đối với cả hai, chỉ có thành công, thạnh lợi chớ không có thất bại, thối giảm. Nhờ vậy, chẳng bao lâu, nhà cửa, điền trang đều được mở rộng, một đời sống hạnh phúc ấm no đã đến với gia đình.
Riêng Tâm Lợi thì hiền lành đến nhu nhược. Về “trí”, về “ý”, Tâm Lợi không bằng được hai anh nhưng về “tâm” lại tràn trề lai láng. Chàng thương người, thương vật đến quên ăn bỏ ngủ... Chỉ có thế thôi. Còn các công việc khác thì vụng về, chậm chạp. Hai vợ chồng thường ái ngại nhìn nhau thở ngắn, than dài:
- Thương người, thương vật mà đến độ như nó thì vợ chồng mình cũng không bằng được. Nhưng vụng về trong mọi công việc thế kia thì e rằng trong tương lai nó sẽ khổ thôi.
Thời gian sau, người chồng qua đời. Và cũng không lâu, đến phiên người vợ. Trước giờ lâm tử, bà kêu ba con đến mà dạy rằng:
- “Tâm lành quả tốt”. Cha mẹ chỉ nhờ học thuộc bốn chữ đó do lời dạy bảo của một vị đạo sĩ mà thành người, nhà cửa yên ấm và đồng thời sinh hạ được ba con. Mẹ vĩnh biệt các con trong lúc các con chưa nên gia thất, đó là điều hối tiếc nhỏ; nhưng các con đều đã khôn lớn, sống thuận hoà, thương yêu nhau như thế này lại là niềm vui to lớn hơn. Mẹ chẳng còn ao ước gì nữa cả. Gia sản để lại cho các con thì hãy cùng nhau gìn giữ, bảo bọc, chí thú làm ăn. Hãy bố thí, mở rộng lòng từ, thương yêu người và vật.
Câu nói cuối cùng, người mẹ thều thào:
- Hãy chiếu cố đến em!
Sau khi cha mẹ đã mồ yên mã ấm, Trí Lợi bàn với Ý Lợi rằng:
- Em ta vụng về, chậm chạp không biết làm ăn. Nếu toàn bộ gia sản này mà hai ta đồng nhượng lại thì em ta có thể sống trọn đời và làm các công đức. Hai ta đều có “trí” và có “ý” thì hãy chia tay nhau đến những phương trời xa để làm ăn. “Tâm lành quả tốt” thì lo gì chúng ta không nở mặt nở mày trong mai hậu.
Bàn thế xong, Trí Lợi và Ý Lợi mỗi người chỉ mang theo tiền lộ phí, để thư lại cho em, không từ giã, bí mật lên đường, hẹn ba năm sau sẽ trở lại quê nhà...
Trên đường lưu lạc tha phương, băng đèo lội suối, khát thì uống nước sông, đói thì ăn trái cây rừng. Hôm kia, Ý Lợi đi đến một thành phố miền biển.
Chàng luôn tâm niệm lời cha mẹ dạy:
- “Tâm lành, quả tốt. Hãy làm các việc thiện, hãy làm các công đức.”
Không biết là bao nhiêu việc lành chàng đã làm được trên đường đi. Đẩy giúp một chiếc xe bò đang ì ạch kéo dốc. Gánh một gánh củi nặng cho một cụ già. Gỡ một con thú bị thợ săn sập bẫy. Băng vết thương cho một chú nai con. Khuân đá sửa lại một đoạn đường bị nước lũ. Cho vật thực đang ăn đến một kẻ đói. Vớt một ổ kiến đang bị trôi trên khe... Ban đầu, làm những công việc này dường như là chàng noi gương cha mẹ. Sau rốt, chàng cảm thấy mình tình nguyện làm, làm một cách hoan hỷ, làm một cách tự nhiên. Quả thật chàng đã đạt đươc lạc thú khi làm các công đức.
Ngày kia, chàng đứng quan sát phu khiêng các bao hàng nặng từ thuyền to xuống. Có một cụ già đi sau cùng, dường như đôi chân đã run run dưới bao hàng quá lớn. Chàng đến vác giúp. Thấy một chị phụ nữ vóc người quá mảnh mai, chàng lại đến phụ một vai. Thế là suốt một ngày, chàng đứng đó, hết khiêng cho người này một đoạn lại khiêng giúp cho người khác một đổi. Chàng không tỏ vẻ mệt nhọc, mà khuôn mặt vốn đã đẹp như thiên thần lại càng rạng rỡ hơn lên vì hoan hỷ. Mọi người cảm kích nhìn chàng, chàng gật đầu đáp trả lại bằng một nụ cười hồn nhiên như con trẻ. Người ta bắt đầu bàn tán về anh chàng thanh niên đẹp trai kỳ dị.
Ngày hôm sau, Ý Lợi lại đến chỗ tàu cũ và tiếp nối công việc của mình. Cuối ngày, người ta vây lại, hỏi chàng từ đâu đến và đến đây có việc gì? Chàng thành thật trả lời, sau đó mỉm cười kết luận rằng:
Dầu chưa có công viêc gì để tự nuôi sống bản thân, nhưng không phải vì vậy mà không thể giúp được cái gì đó cho mọi người xung quanh. Tâm lành thì quả tốt mà. Mẹ tôi đã từng dạy như vậy.
Chuyện đến tai ông chủ, được kêu đến hỏi và chàng cũng chỉ trả lời được có bấy nhiêu với nụ cười rất dễ mến. Thế là chàng được vào làm việc với cái nhìn thiện cảm của ông chủ và của nhiều người khác. Chỉ mấy tháng sau, sự tài năng, tháo vác, lương thiện và lòng từ tâm, hỷ tâm của chàng làm cho ông chủ yêu thương lạ lùng. Chàng được làm cai coi sóc một trăm phu khiêng ở bến tàu. Thế là chàng cảm thấy trách nhiệm của mình nên đã làm việc một cách hăng say, nhiệt huyết và đầy thiện chí. Chẳng bao lâu, khắp cả bến tàu, không ai là không biết tên chàng, mang ơn chàng và thương yêu chàng. Từ giọng nói, dáng đi, cử chỉ, nụ cười của chàng dường như ban rải cho người ta niềm tin yêu và năng lượng thanh bình, an lạc. Ông chủ “ghiền”chàng. Phu khiêng “mến yêu” chàng. Trẻ em “mê” chàng. Và con gái thì “tương tư” chàng.
Năm thứ hai, ông chủ gã cho chàng một lúc hai cô tiểu thư yêu quý cùng một chiếc tàu lớn làm của hồi môn. Chàng lại đi buôn muối và trao đổi hàng hoá, vải vóc lẫn những thổ sản đó đây khắp các thành phố miền duyên hải. Người ta lại rủ chàng tìm ngọc trai và buôn bán ngọc trai. Đối với chàng, chưa bao giờ nghe đến hai chữ thất bại nên cuối năm, trong tay chàng đã có đến hàng trăm ngàn đồng tiền vàng.
Ông chủ mất, chàng được kế thừa một gia sản lớn cùng mấy chục chiếc tàu buôn. Chưa dừng lại ở đó, chàng còn tậu một trăm con lạc đà để thồ và vận chuyển hàng hoá giao thương với các nước vùng sa mạc tây bắc...
Thế là Ý Lợi đã trở thành một tay “Phú gia địch quốc” trong chưa đầy ba năm áp dụng bí quyết gia truyền: Tâm lành quả tốt – theo như lời trăn trối của mẹ.
Hôm kia, chàng bồi hồi nhớ lại lời ước hẹn cũ với anh và em, Ý Lợi chuẩn bị một cuộc trùng phùng huynh đệ suốt ba năm xa cách nhớ nhung.
“- Chẳng biết anh và em ta giờ ra sao?”
Trí Lợi lang thang vất vưởng đến một tiểu quốc. Trên đường, chàng cũng tâm tâm niệm niệm lời cha mẹ dạy. Cũng như Ý Lợi, chàng cũng đã làm vô lượng công đức trên đường đi.
Một buổi chiều, chàng lạc vào một kinh thành hoa lệ, phố phường rộn rịp, đèn treo hoa kết như sao sa. Đây một nhóm người đang sơn quét. Kia một nhóm người đang làm đường. Một nhóm khác đang chưng bày bàn trầm hương hoa bái vọng.
“- Đâu cần thì ta có, đâu khó thì ta làm.”
Nghĩ thế, chẳng biết quen hay lạ, chàng hăm hở lao vào giúp mọi người. Việc khó, chàng giúp ý kiến cho trở thành dễ. Việc nặng, chàng giúp ý kiến cho trở thành nhẹ. Chàng hăng hái bắt tay làm với sự thông minh, sáng dạ của mình.
Người ta đưa mắt ngạc nhiên nhìn chàng thanh niên đẹp trai lạ mặt. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn lan xa rồi các vị bô lão đến xin chàng ý kiến về cách thức bài trí phố phường như thế nào để đón tiếp một vị Phật.
- Một vị Phật? Chàng ngạc nhiên hỏi lại.
Một vị trưởng lão cặn kẽ giải thích:
- Phải rồi. Ngài, đầu tiên là một Sa-môn không cửa, không nhà. Sau, Ngài đã giác ngộ chân lý cao cả và huy hoàng của đời sống. Và bây giờ, Ngài đang lê gót khất sĩ khắp vạn nẻo đường để cứu độ chúng sanh.
Trong tâm Trí Lợi chợt hiện ra hình ảnh của vị Sa-môn năm xưa qua lời thuật lại của cha mẹ chàng. Đúng rồi! Chính là Ngài! Vị đạo sĩ tình nguyện sống đời bần hàn xin ăn đó đây với đại nguyên tìm cho ra phương thuốc cứu độ chúng sanh. Vậy thì phải rồi: Tâm lành quả tốt!
Nghĩ thế xong, chàng nói:
- Đối với một vị Phật, bậc Vô Thượng như vậy thì không có hình thức đón tiếp nào cho xứng đáng được cả. Mọi hình thức đều cần thiết, nhưng cái quan trọng hơn là: Tâm lành quả tốt – tâm dẫn đầu, tâm sinh ra mọi nghi lễ, hình thức. Các vị tiền bối hãy như vậy thọ trì.
Chàng chỉ nói thế, không trả lời thêm, dẫu được hỏi. Vị trưởng lão cố vấn nghi lễ và khánh tiết cũng không hiểu bèn cùng nhau cử người đại diện đi vào nội thành.
Tiểu quốc này là Đạt Xa, Quốc vương tên là Bố Đức. Dẫu là nước nhỏ nhưng thạnh mậu và phú cường do nhờ đức liêm khiết, lòng nhân hậu của đức vua cũng như bá tánh. Hôm kia, đức vua nghe tin tại Hy Mã Lạp Sơn đã xuất hiên một vị Phật, một bậc Toàn Giác, một đấng Siêu Nhân. Ngài đã lần lượt hàng phục chúng ma suốt cả mấy trăm tiểu quốc dọc theo thung lũng sông Hằng. Và, hiện giờ, Ngài và Tăng Chúng trên mười ngàn vị đang du hành qua xứ xở này. Hoan hỷ và kỉnh mộ xiết bao, đức vua cho họp triều thần lại, cử người tức tốc dùng khoái mã đến quỳ phục bên chân Đức Thế Tôn thỉnh mời Ngài và Tăng Chúng bi mẫn quang lâm hoá độ Đạt Xa.
Đức Thế Tôn im lặng nhân lời.
Công chúa nước này tên là Đoan Nghi, tán thán việc làm ấy của cha rồi xin phép được góp phần công đức. Nàng đích thân đứng ra tổ chức buổi lễ long trọng này. Tuy thế, tự trong thâm tâm không ai hiểu được cách thức nghinh tiếp một vị Phật ra sao, nên họ chỉ có việc treo đèn kết hoa, sửa sang lại đường sá cùng bày bàn trầm hương bái vọng.
Mọi việc đang diễn tiến êm thắm, ngờ đâu gặp chàng thanh niên đẹp như thiên thần từ đâu hiện ra, nói những lời hàm súc biết bao ý nghĩa?
Sau khi vị trưởng lão cố vấn nghi lễ và khánh tiết trình bày cốt cách, nghi dung, việc làm, sự thông minh lẫn lời nói của chàng thanh niên, Công chúa Đoan Nghi nghe lòng xúc động mạnh. Một niềm tin tưởng lẫn hỷ lạc đến với nàng.
Công chúa phán truyền:
- Xem chừng thanh niên kia là người hiểu đạo lý sâu xa. Hãy làm theo tất cả những gì mà y nói.
Vị trưởng lão tìm gặp Trí Lợi, nói lại lời của Công chúa rồi xin ý kiến.
Chàng hỏi:
- Thực hành tất cả những gì mà tiểu bối nói ư?
Vị trưởng lão gật đầu mạnh mẽ:
- Phải rồi! Không sai được!
Trí Lợi cất tiếng dõng dạc:
- Để đón tiếp một vị Phật, trước tiên là hãy chuẩn bị cái tâm. Cái tâm tức là cái tấm lòng. Hãy làm cho “chính cái tâm”.
Vị trưỡng lão khẽ cau mày:
- Thế nào là “chính cái tấm lòng”?
Trí Lợi nói:
- Chớ giết hại, hận thù. Không được tham lam trộm cướp, tà vạy, bất chánh... mà phải sống giữa mọi người như tình ruột thịt huynh đệ. Điểm thứ nhất đó, hãy thọ trì.
Vị trưởng lão ngẫm nghĩ một hồi:
- Xin cho nghe điều thứ hai?
Trí Lợi nói:
- Cái tấm lòng đã chính rồi thì việc lành sẽ từ cái tâm ấy mà ra. Hãy xuất một trăm ngàn đồng tiền vàng mua vải vóc lương thực chẩn bần cho những kẻ đói rách ở phương đông. Hãy xuất một trăm ngàn đồng tiền vàng mua vải vóc lương thực chẩn bần cho những kẻ đói rách ở phương tây. Cứ như thế... phương nam, phương bắc. Đây là điều thứ hai, hãy như vậy mà thọ trì.
Vị trưởng lão lại gật đầu.
Trí Lợi sang sảng tiếp:
- Còn điều thứ ba, mọi nghi lễ, hình thức thì tuỳ nghi. Có hình thức nào khả dĩ xứng đáng để cung nghinh một vị Phật được? Hơn nữa, một vị Phật, một vị Toàn Giác, một đấng Toàn Thiện chẳng bao giờ muốn chúng ta xa xỉ về của cải, mà hãy dùng của cải sao cho hợp lẽ đạo thì thôi. Hãy làm với tất cả tấm lòng. Hãy làm với tất cả tấm lòng.
Đến ngày, một vị Sa-môn dung sắc thù thắng, dáng đi trầm tĩnh uy nghi như chúa sư tử lông vàng dẫn đầu hơn mười ngàn Tăng Chúng về đến kinh đô. Đấy là Đức Thế Tôn Ca-diếp.
Tin truyền đi rất nhanh. Quốc vương, Hoàng hậu, Công chúa cùng thị nữ hơn ngàn người cả thảy đều đi chân đất từ nội thành bước ra. Các hàng bô lão, quí tộc đã túc trực sẵn, cùng tháp tùng đi cung nghinh Đức Phật và Tăng Chúng.
Trí Lợi trong lúc này đã được Quốc vương và cả triều đình sủng ái giao cho tất cả mọi công việc. Cuộc trai tăng làm phước diễn ra bảy ngày. Đức Thế Tôn Ca-diếp tỏ vẻ tán thán đức vua và triều thần đã làm đúng Chánh pháp; lại khen ngợi cuộc chẩn bần vĩ đại chưa từng có song song trong cuộc lễ. Đức Thế Tôn biết rõ mọi chuyện, Ngài cho gọi Trí Lợi đến nói rằng:
- Bánh xe Chánh pháp của Như Lai rồi sẽ có một cánh tay công đức của con.
Trí Lợi, sau đó, được Quốc vương chọn làm Phò mã. Và chàng trở thành một cận sự nam, một đại thí chủ trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Ca-diếp...
Ý Lợi trở về làm quà cho em với một trăm con lạc đà chất đầy hàng hoá. Nhưng khi đến quê hương thì nương dâu đã biến đổi; nhà cửa ruộng vườn đã qua tay người khác; khắp lối hoang lá rụng tơi bời; người em giờ đã bóng chim tăm cá, biết đâu mà tìm?
Chàng gục khóc trên lối vào nhà cũ. Khi tỉnh dậy, chàng thấp thoáng thấy một bóng vàng đứng ở trước mặt và trên trán có một bàn tay ai âm ấm dịu dàng?
Ý Lợi mê sảng nói:
- Ai đây? Em tôi đâu? Em tôi giờ ở đâu?
Bóng vàng khẽ cất giọng nhỏ nhẹ:
- Ý Lợi thân huynh! Đệ đây! Đệ chính là Tâm Lợi đây!
Câu nói kia có mãnh lực đánh thức Ý Lợi vùng đứng dậy. Chàng đã tỉnh táo hoàn toàn. Đúng là Tâm Lợi, người em út của chàng. Chàng nghẹn ngào nắm tay vị Sa-môn, không cầm được nước mắt.
Khi ấy một chiếc xe tứ mã nạm ngọc dát vàng từ hướng đông chạy đến. Trước sau những kẻ tuỳ tùng hộ vệ uy nghi nghiêm cẩn. Dân chúng lũ lượt kéo ra xem.
Trí Lợi bước xuống, tất tả chạy đến khu vườn năm xưa gọi lớn:
Ý đệ! Tâm đệ!
Cả ba gặp nhau đứng sững lại. Kẻ này nhìn người kia. Kẻ kia nhìn người nọ. Ngơ ngác. Ngỡ ngàng.
Hồi lâu, họ chợt ôm chầm lấy nhau khóc lóc, mừng rỡ.
Sau ba năm, ngày hẹn trở về, Ý Lợi đã là nhà tỷ phú, Trí Lợi đã là một kim thân phò mã. Ai cũng thành công cả. Nhưng riêng Tâm Lợi, giờ chỉ là một Sa-môn khất sĩ nghèo nàn.
Cả ba lần lượt kể chuyện mình.
Đến phiên Tâm Lợi chàng lẳng lặng không nói gì, lâu lắm mới khẽ ôn lại chuyện cũ.
Đọc được thư hai anh, Tâm Lợi khóc mùi mẫn. Khi nước mắt đã vơi, lòng chàng ngổn ngang trăm mối. Tình thương của hai anh đối với chàng thế là cùng rồi.
Trước đây ỷ lại vào cha vào mẹ, sau này ỷ lại vào hai anh, chàng chẳng làm việc gì. Chỉ có chạy nhảy vui đùa với muông cầm điểu thú. Nay bỗng dưng đã mất cha mẹ, lại mất luôn hai anh, chàng đâm ra lúng túng. Chàng đi tới đi lui nghĩ ngợi lan man.
Buổi sáng chàng cho chim ăn, cho thỏ ăn. Buổi chiều chàng thơ thẩn vườn trên lại thơ thẩn vườn dưới. Đêm nằm ngủ, Tâm Lợi bần thần lo lắng đủ mọi bề. Ôn gẫm lại lời dạy của cha mẹ, của hai anh, chàng lẩm bẩm:
“- Tâm lành quả tốt. Cha mẹ ta nhờ bốn chữ đó, hai anh ta cũng thực hành theo bốn chữ đó. Vậy thì ta cũng nương tựa nơi bốn chữ đó mà lập thân thôi.”
Sáng ngày, chàng cho treo lên trước cổng một tấm bảng đề câu:
“- Nơi đây làm tất cả các việc lành, các công đức. Ai cần gì cứ hỏi.”
Không mấy chốc, tiếng lành đồn xa, người ta lần lượt tìm đến. Đầu tiên, người ta xin một bữa cơm, một manh vải. Chàng hoan hỷ cho. Những ngày hôm sau, không những xin cơm xin vải mà người ta còn xin thêm tiền bạc. Chàng hoan hỷ cho. Cứ thế, tuỳ theo nhu cầu của mỗi người, chàng lần lượt bố thí tiền bạc, nhà cửa, điền trang...
Chẳng bao lâu, chàng hoàn toàn khánh kiệt, chỉ còn một manh áo che thân. Thế nhưng lòng hoan hỷ nơi chàng không vì vậy mà thối giảm, chàng tin tưởng mãnh liệt vào bốn chữ “Tâm lành quả tốt”.
Hôm kia, xuất hiện một vị đạo sĩ to lớn, quàng chiếc y sáng rực rỡ như vừng dương, dung sắc trang nghiêm thù thắng; vị đạo sĩ đứng tịch nhiên bất động trước cửa, bình bát trước mặt, nụ cười an nhiên trầm lặng.
- Kính bạch Ngài – Tâm Lợi bước ra cung kính chắp tay thốt. Đệ tử chẳng có gì để bố thí nữa.
Đạo sĩ khẽ nói:
- Chẳng ai là “không còn gì”. Chỉ sợ thí chủ không rộng lượng với kẻ ăn xin này thôi.
Tâm Lợi sững sốt nhìn lại mình thì chợt thấy manh vải cuối cùng; chàng sợ hãi nói:
- Quả thật đệ tử còn một manh áo đang mặc trên thân. Nhưng... như thế thì có bất kính với Ngài chăng?
Vị đạo sĩ cười:
- “Tâm lành quả tốt”. Lòng thí chủ không bất kính thì của bố thí làm sao lại bất kính được?
Câu chuyện của hai người lôi kéo một số đông đến vây kín xung quanh. Khi nghe chuyện đạo sĩ cố ý xin cả manh áo cuối cùng, họ hét lên:
- Đồ bất nhơn. Tu hành mà bất nhơn!
Người lại nói:
- Người ta chỉ còn một cái khố rách mà cũng đến xin. Đồ ác nghiệt!
Người lại than:
- Ôi chao! Vô lẽ rồi y sẽ trần truồng sao?
Người ta định đánh đuổi vị đạo sĩ.
Nhưng chuyện lạ xảy ra.
Khi Tâm Lợi thò tay định cởi áo... thì một tấm áo vàng từ đâu giữa hư không rơi xuống quàng vào người chàng. Râu tóc chàng lại tự động rơi rụng nhẵn nhụi. Tâm Lợi đã biến thành một Sa-môn khất sĩ, y bát đạo mạo trang nghiêm thoát tục.
Vị đạo sĩ tự nãy giờ vẫn an nhiên tự tại đứng bên, bây giờ chợt cao lên mười trượng. Người khẽ nắm tay Tâm Lợi rồi bay lên giữa hư không, theo đường kinh hành bằng ngọc xanh đi về phía chân trời mất hút...
Tâm Lợi vừa kể xong thì Trí Lợi chợt quì xuống, khẽ nói:
Chính Ngài đấy! Vị đạo sĩ nghèo nàn năm xưa đã tế độ cho cha mẹ ta. Ngài giờ là Đức Thế Tôn Ca-diếp.
Ý Lợi khuôn mặt chợt sáng lên một cách kỳ dị, chắp tay giữa hư không:
- “Con xin hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy!” Con xin nguyện được là một cận sự nam, sẽ bỏ cả gia tài tỷ phú này để hộ trì cho Đức Thế Tôn cùng thập phương Tăng Chúng cao cả.
Ngay khi ấy, từ bầu trời phương tây, một Sa-môn hùng vĩ như chúa sư tử lông vàng, hiện ra; tiếng nói như Phạm âm vọng lại:
- Tâm lành quả tốt! Tâm lành quả tốt! Ba đời chư Phật thành tựu đạo quả Vô Thượng, bước đầu cũng chỉ có vậy mà thôi!
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:46:25 GMT -5
Người ngu và kẻ trí
Thuở xưa, tại kinh thành của một tiểu quốc xứ Ấn Độ có một nhà triệu phú. Y không tin Trời, Thần và số mệnh. Y thường nói:
- Hễ có chí, có tài là làm nên sự nghiệp. Chẳng có số mệnh, nhân quả, thiện ác gì hết.
Nhà triệu phú có hai người con trai. Hôm kia, y cho mời một thầy Bà-la-môn lỗi lạc đến nói rằng:
- Ta không tiếc thù lao trăm vạn, miễn là con ta thành kẻ tài cao, có bản lãnh vang danh thiên hạ. Đừng dạy những cái thứ vớ vẩn là triết lý, văn chương, thánh thư.... Thầy có làm được như thế không?
Thầy Bà-la-môn gật đầu, làm giấy tờ văn bản theo như lời thỏa thuận của hai bên, có triện son của đức Vua rồi dẫn hai người con trai của nhà triệu phú lên đường...
Đúng ngày hẹn, mười năm sau họ trở lại.
Thầy Bà-la-môn nói:
- Những thanh niên quý tử con ngài giờ đã có tài cao và bản lãnh. Họ sẽ thành công ở mọi địa hạt khác nhau. Bây giờ ngài hãy cho thù lao.
Nhà triệu phú mặt mày hớn hở:
- Tốt lắm! Vậy thầy đòi bao nhiêu?
Thầy Bà-la-môn cất giọng trịnh trọng:
- Các quý tử con ngài chỉ được cái mã bên ngoài, còn căn cốt thì chậm lụt, ngu đần. Chắc chúng là cốt tinh của Thần Vịt Đực, Thần Lừa Hai Đầu hoặc Thần Bò Cái. Tôi đã gian lao vất vả mười năm ...
Nhà triệu phú tối sầm mặt, quát khẽ:
- Thôi đi. Hãy kể nhanh lên!
Thầy Bà-la-môn mỉm cười:
- Trước tiên muốn cho các quý tử theo đuổi được sở học, tôi phải hối lộ với Thần Trí Khôn, nhờ ngài giải phẫu cho cái đầu óc mít đặc đầy những kiêu căng, ngu si, thịt mỡ và vật thực. Để chi phí cho khoảng cúng tế này, tôi đã phải mất hết mười vạn đồng tiền vàng.
Nhà triệu phú giật thót mình.
Thầy Bà-la-môn đều đều tính sổ:
- Thể chất các quý tử con ngài ẻo lả mềm yếu như lau cói; lại lười biếng, nhút nhát như cốt tinh của Thần Heo, Thần Thỏ Đực. Tôi phải xõa tóc, đốt trầm, ăn chay nằm đất hai năm ròng rã để cầu khẩn Thần Sức Khỏe, Thần Ý Chí, Thần Sư Tử ba mắt uy mãnh. Khoản chi phí này vì phải hối lộ nhiều nơi, nên đã mất đi khoảng hai mươi vạn đồng tiền vàng.
Nhà triệu phú như bị kiến đốt, trán đã rươm rướm mồ hôi.
Thầy Bà-la-môn lẩm nhẩm tính một hồi nữa rồi than khẽ:
- Ôi! Hỡi Thần Nhật Nguyệt, Thần Núi Sông, Thần Ban Ngày, Thần Ban Đêm, Thần Thời Gian, Thần Đất Đai, Thần Cây Cỏ, Thần Hư Không, Thần Gió và Thần Mây! Các khoản thù lao kia tôi chưa tính đến quý ngài, nhưng vốn tính tình nhân hậu, quý ngài cũng hỷ xả cho thôi!
Lại nói:
- Thêm công lao dạy dỗ mười năm, cơm áo, vật thực, sách đèn, ... tính đổ đồng mỗi quý tử cũng mất hết mười lăm vạn, hai vị quý tử là chẵn ba mươi vạn! Như thế, cộng cả hai khoản chi phí trên nữa là đúng sáu mươi vạn đồng tiền vàng. Nhưng lạy Thần Thiện Tâm, Thần Bác Ái và Thần Hoan Hỷ có cái tai to và nụ cười đôn hậu, tôi xin hiến cúng lại gia chủ mười vạn, chỉ xin nhận năm mươi vạn đồng tiền vàng mà thôi. Ngài hãy thanh toán cho!
Thầy Bà-la-môn nói xong, lấy văn kiện có triện son của Đức Vua, nói rằng:
- Ở khoản này có ghi: “Gia chủ chẳng tiếc thù lao trăm vạn, miễn là hai con có tài cao và bản lãnh”.
Thầy Bà-la-môn xá nhà triệu phú thật sâu rồi khép nép đứng một bên rất lễ độ, trên môi thoảng nụ cười khiêm tốn.
Nhà triệu phú, trên đầu, tóc rụng đã một nửa, ông ta bóp trán suy nghĩ một hồi lâu rồi chợt cười ha hả:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Các khoản thù lao như vậy là xứng đáng. Nhưng cái tài của hai con ta thì lấy gì làm bằng? Các ngài Bà-la-môn vốn là dòng dõi học thức, đa ngôn, lớn lối ... Nhưng làm sao ta tin các ngài được?
Nhà triệu phú thấy mình thắng lý, thích chí nhìn thầy Bà-la-môn cười to lên.
Thầy Bà-la-môn cau mày tự nghĩ:
“- Ai bảo bậc minh triết có trí khôn vẹn toàn, ta bảo kẻ ấy là người ngu”.
Bèn nhường lui một bước:
- Vậy chúng tôi chờ đợi. Nếu trong vòng một năm trở lại, hai quý tử quả có tài cao riêng biệt theo như lời cam kết, tôi đến lấy tiền cũng không muộn gì.
Họ lại làm bản giao kèo lần thứ hai, có triện son của Đức Vua.
Sau đó, nhà triệu phú chu cấp tiền bạc cho hai con lên đường, tự nghĩ:
“- Nếu một năm sau, con ta chứng tỏ không có tài thì ta chẳng tốn một xu. Và quả nó có tài và bản lãnh thật sự thì trăm vạn đồng tiền vàng nào có nghĩa gì? Trích từ phần lời này ta trả cho bên kia. Thế là cả hai đàng ta đều có lợi”.
Rồi nhà triệu phú lẩm bẩm một câu triết lý:
“- Ngoài đầu óc của tên triệu phú, thế gian không có trí khôn”.
Đúng như dự đoán của thầy Bà-la-môn, một năm sau hai chàng quý tử trở về. Nhà triệu phú nhìn hai con, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược.
Đứa thứ nhất lịch kịch với chiếc nạng gỗ, áo vá trăm mảnh. Rõ là một tên ăn xin tàn tật. Đứa thứ hai da xanh như tàu lá, đôi mắt láo liêng thất thần. Rõ là một con quỷ thân tàn ma dại.
Thầy Bà-la-môn xuất hiện đòi trả tiền thù lao như lời cam kết.
Nhà triệu phú vỗ bàn, đấm ngực, bứt râu, hét:
- Ngươi không thấy sao mà dám vác mặt đến đây? Ta sẽ kiện Đức Vua cho ngươi đi ở tù.
Thầy Bà-la-môn cứng hỏi đáp:
- Hãy đi ngay! Nếu ta không lấy được năm mươi vạn đồng tiền vàng, sao thế gian gọi ta là bậc thầy lỗi lạc?
Đức Vua sau khi xem mấy bản văn, nhìn hai người thanh niên rồi quay sang nhìn thầy Bà-la-môn từ đầu cho đến chân, nghiêm giọng nói:
- Thầy hãy trả lời cho minh bạch trước công lý.
Thầy Bà-la-môn nghiêng mình tâu:
- Xin đấng Thượng hoàng anh minh! Trước bệ rồng xin cho hạ thần tự sự trình bày đầu đuôi gốc ngọn.
- Cứ nói!
- Tâu Đại Vương! Hạ thần chỉ làm theo văn bản đã cam kết giữa hai bên mà thôi. Trong bản giao kèo ấy, ghi là đào tạo cho hai cậu quý tử con ngài triệu phú đây có “tài cao và bản lãnh”, mà không xác định là tài cao và bản lãnh gì! Và hạ thần đã làm đúng như thế. Suốt cả năm qua khắp cả kinh thành, chẳng ai là không nghe danh hai kẻ tài cao vô địch ấy!
Đức vua và triều thần nghi ngờ đưa mắt nhìn nhau. Chợt một tiếng nói:
- Muôn tâu bệ hạ! Năm qua ở đất Thần châu xuất hiện hai nhân vật tài cao và bản lãnh lạ lùng. Một người có tài “chim gái”. Ít nhất là có mấy chục công nương, tiểu thư, mệnh phụ đều mê mệt vì những lời đường mật dụ dỗ ngon ngọt của y. Người ấy có ngoại hiệu mà không ai không biết là “Thần Châu Đệ Nhất Sở Khanh”. Ôi! Cái tài và cái danh đến độ như vậy là cùng rồi. Chẳng hay thầy Bà-la-môn muốn nói đến người này?
- Chính thị! Thầy Bà-la-môn gật đầu.
Tiếng kia lại đều đều tiếp:
- Bản lãnh người thứ hai dường như thâm diệu hơn. Tâu bệ hạ! Với hai bàn tay trắng đến kinh đô, y đi lượm những đồ phế thải hoặc mua với giá rẻ những vật người ta không dùng, đem về tự mình chế biến thành những vật dùng được. Đối với y, cái gì cũng có thể biến thành tiền cả. Tiền và tiền! Mới nửa năm mà gia tài của y đã có đến vài chục vạn. Nhưng y tham lam quá độ, chỉ thấy lợi, nghĩ đến lợi của mình chứ không thấy ai khác. Y có ngoại danh là “Kiến Lợi Bất Kiến Nhân”. Trong vài cuộc hùn hạp làm ăn bặm trợn, sinh tử, không kể đến tín, nghĩa, y vơ vét sạch tiền bạc của người ta rồi trở mặt, phản trắc. Do vậy, ở đất Thần Châu, khi nhắc đến “Kiến Lợi Bất Kiến Nhân” hoặc “Thần Châu Đệ Nhất Tham Tài” thì không ai khỏi lắc đầu lè lưỡi! Than ôi, cái tài và cái danh đến như thế là cùng độ rồi! Thưa thầy Bà-la-môn khả kính! Chẳng hay người ấy cũng là quý tử của nhà triệu phú cao trọng đây? Là cao đệ của ngài?
Thầy Bà-la-môn khi nghe đến hai chữ “cao đệ” chợt đỏ mặt lên nhưng cũng giật đầu.
Đức Vua đưa mắt nhìn hai người thanh niên một hồi rồi nói:
- Tên thứ nhất, đệ nhất hào hoa phong nhã, mà bây giờ như con quỷ xanh nhờn, da xanh, nanh vàng thế? Ai biết tại sao?
Giọng nói kia tiếp tục:
- Tâu bệ hạ! Nghe đâu thần thoại bên cõi Tây Man có vị thần vì yêu thương hết mình, hết xương tủy mà ra thế! Lại nữa, các đấng mày râu bị mọc sừng, phục kích đánh đập y một trận trăm chết một sống rồi quăng y vào một đống rác ở ngoại ô!
Đức Vua gật đầu:
- À, ra thế! Còn vị thứ hai này, tại sao lại trở thành tên khất cái tàn tật? Y giàu có lắm mà!
- Của thiên trả địa, tâu bệ hạ! Những kẻ bị lường gạt hùa nhau trả thù. Họ đeo mặt nạ, giả tướng cướp kéo đến phá tan gia sản của y, cướp hết ngọc ngà châu báu của y, bẻ gãy chân tay y rồi quăng y cũng cùng trên đống rác ấy! Thế rồi hai anh em y chợt tao ngộ tương phùng nơi cảnh giới dòi bọ, lằn xanh, chuột chết, ... cùng băng bó vết thương cho nhau, rồi cùng “vinh quy bái tổ” về làng!
Đứa Vua cười híp mắt rồi gục gặc nói:
- Nếu bảo tài thì cũng là đại tài! Nếu bảo danh thì cũng là trứ danh! Nhưng nếu tài danh mà không có đạo đức và lương tri hướng dẫn thì đến lúc phải thân tàn ma dại, khuynh gia bại sản, bị mọi người khinh rẻ và chuốc hiểm họa vào thân mà thôi!
Chợt Đức Vua ngẩng đầu lên:
- Này thầy Bà-la-môn! Ai cho phép thầy dạy người không theo khuôn phép của minh triết, thánh thư?
Thầy Bà-la-môn đáp rổn rảng:
- Muôn tâu! Lỗi không phải ở hạ thần! Ngài triệu phú đây vốn là kẻ ngoại đạo. Ngài ấy không tin trí khôn của thánh hiền. Ngài ấy bảo minh triết, văn chương, thánh thư là vớ vẩn. Ngài ấy chỉ tin vào đầu óc của mình thôi!
Đức Vua mặt rồng cau lại, vỗ long ngai:
- Quốc độ này không có những loại thầy như ngươi! Ta tuyên phạt ngươi “hai trăm năm” lưu đày ngoài hoang đảo vì giáo dục phi đạo đức!.
Đức Vua lại hầm hầm quay qua nhà triệu phú:
- Còn tên trọc phú xấu xa đê hèn kia! Ngươi là kẻ thua cuộc! Hãy trả cho lão Bà-la-môn năm mươi vạn đồng tiền vàng rồi xéo đi khỏi nước này cùng với tài sản của ngươi! Lập tức đi ngay! Ta không muốn nhìn mặt ngươi nữa!
Tuyên án xong, Đức Vua lẩm bẩm:
“- Kinh khiếp! Người ngu, kẻ trí, người trí, kẻ ngu!”.
Rồi tất tả lui vào hậu cung như không còn dám nhìn mặt “người ngu, kẻ trí” trên đời này nữa!
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:47:09 GMT -5
Vì động lòng trần
Xứ Ăng-ca lúc này có nạn trộm cướp nổi lên. Chúng bắt trâu, bò, heo, gà, vịt, chó, ... lên núi ăn thịt, lấy máu tế thần rồi nhảy múa ca hát xung quanh đám lửa rừng.
Hết gia súc, chúng lại cướp của, giết người, làm cho xứ Ăng-ca náo loạn cả lên. Triều đình họp lại bàn phương kế đối phó.
- Bọn chúng là nhóm cuồng tín Bái Hỏa Giáo, một loại tà đạo từ xứ Ba Tư truyền sang - một người tâu - Chúng có học chú thuật, xuất hiện như quỷ, biến đi như ma! Nhiều hiệp sĩ võ nghệ trùm đời mà chẳng làm gì chúng được!
- Không thể nhìn ra chân tướng chúng - người khác lại tâu - chúng lẫn lộn khắp nơi. Biết đâu tại nơi này cũng có thuộc hạ tay chân của chúng?
Đức Vua xứ Ăng-ca run lẩy bẩy, ngồi không yên trên ngai rồng. Quần thần lấm lét đưa mắt nhìn nhau.
- Cả bá quan đại thần như thế này mà thảy đều bất lực rồi sao? Đức Vua trấn tĩnh nói - Ai có biện pháp đối phó hữu hiệu, trẫm sẽ chia cho nửa giang san!
Chợt một đạo sĩ xuất hiện đột ngột trước cung đường, cất giọng nói như chuông ngân:
- Có! Tâu Đại Vương! Tại hồ Gay Cấn, núi Kinh Hoàng, cách quốc độ Thiết Xoa mười lăm do tuần về hướng tây, có nhà tiên tri vô danh sống ở đấy. Dùng lễ trọng hậu thỉnh ngài về là chắc chắn cứu nguy cho nạn nước.
Đạo sĩ nói xong lùi ra cửa rồi biến mất.
Đức Vua xứ Ăng-ca sau giây khắc kinh dị, bèn vui mừng cấp 500 ngựa xe chở đầy đồ lễ, 500 tùy tùng và quân hộ vệ, sai quan Thượng Thư đi suốt ngày đêm.
Đến nơi, quan Thượng Thư thấy giữa chiếc hồ trong xanh như mắt mèo, có một đạo sĩ gầy khô như que củi đang ngồi nhập định trên một lá sen! Một tiểu đồng đang nấu nước pha trà trên một lá sen khác.
Chẳng dám kinh động đạo sĩ, quan Thượng Thư lân la trình bày câu chuyện với chú tiểu đồng.
Lặng lẽ nghe xong, chú tiểu đồng tròn mắt:
- 500 xe lễ? Để làm gì? Chúng tôi có sống với những thứ đó đâu? Ngài không thấy là nhà cửa, mùng mền, chiếu gối, vật dụng của chúng tôi đều đầy đủ ở trên một lá sen hay sao? Rồi, với củ sen, nước hồ và trái cây rừng, chúng tôi đã sống một cuộc đời hoan lạc.
- Cả một nửa giang san cho sau này - quan Thượng Thư năn nỉ - thì tha hồ sống một đời nhung lụa, đế vương.
Chú tiểu đồng cười ha hả, má lúm đồng tiền:
- Thôi đi, là cái nửa giang san của ngài! Cái nửa giang san gồm người không ra người, ngợm không ra ngợm! Cái nửa giang san mà ... nào là con cò dối trá, con beo lang độc, con ong đường mật, con heo tạp ăn, con mèo chưng diện, con sếu kiêu căng ... Ôi! Đấy là một nửa giang san của ngài, quý hóa gì đâu!
Vị đạo sĩ già chợt mở mắt ra:
- Đừng con! Người ta đã có lòng thành. Thầy đã tiên tri mọi việc. Phải cứu Đức Vua nhân hậu và bá tánh hiền lương ấy. Quốc lộ xứ Ăng-ca kia sẽ được thái bình một thời gian.
Quan Thượng Thư mát lòng mát dạ, cùng đám tùy tùng quỳ xuống trên bờ hồ phục lạy đấng thần nhân.
Vị đạo sĩ khẽ nói:
- Hồn Nhiên con - tên chú tiểu đồng - lên đem con hạc núi Kinh Hoàng xuống đây. Để thầy pha trà cho!
Khi vị đạo sĩ châm trà thì chú tiểu đồng đã nhảy lên rừng, lát sau mang xuống một lồng chim được kết bằng những sợi tơ mỏng. Trong lồng có một con Hạc đã già, trần trụi lông.
Đạo sĩ nhìn Hạc nói:
- Này con, lòng con đã xúc động trần tục từ bao giờ?
Chợt nhiên, Hạc nói tiếng người:
- Xin Chân Nhân tha tội!
Nói xong Hạc cúi đầu xuống.
Đạo sĩ giọng trầm ấm, hiền hòa:
- Một ngàn năm tu hành, thế là nước chảy về sông rồi, con ơi! Con đã xổ lồng, đã xuống kinh đô giả trang làm đạo sĩ để mưu cầu công danh, có phải thế không?
Hạc cũng chỉ nói một câu:
- Xin Chân thân tha tội.
Đạo sĩ thở dài:
- Con có tội đâu, chỉ do nghiệp con còn nặng, phải năm trăm kiếp nữa con mới trở lại thân người. Thầy thương con, nhưng thầy cũng không cưỡng được các định luật. Thôi, con hãy đi đi. Con hãy về kinh đô xứ Ăng-ca mà hưởng phú quý vài mươi năm.
Hạc bước ra khỏi lồng, hóa hiện thành một vị đạo sĩ quắc thước, đầu hói, phủ phục bên chân đạo sĩ già:
- Con sẽ trở lại!
Tin một cao đệ của nhà tiên tri vô danh hồ Gay Cấn, núi Kinh Hoàng về thành đô ra tay diệt cướp rì rào như gió qua cửa tai mọi người.
Ngày hôm nay, tất thảy bọn cướp đều đã nghe tin.
Ngày hôm sau nữa, bọn cướp lục tục kéo nhau trốn lên rừng.
Triều đình cho người đi dò la khắp chốn, quả là nơi nơi dân chúng đang mở hội ăn mừng. Nhà vua chuẩn hứa chia cho đạo sĩ nửa giang san để thỏa mộng trần. Đạo sĩ cưới vợ, sinh con, sống trong tòa lâu đài chói ngời trân quý, dưới sự sủng ái của Đức Vua, lòng tri ân của bá tánh.
Vài chục năm sau, đạo sĩ chợt nhớ thầy, bèn giao công việc cho con trai, hóa thân thành hạc, vỗ cánh bay về núi Kinh Hoàng. Bọn cướp hay tin kéo nhau về kinh đô cướp phá dữ dội.
Vua triệu con trai đạo sĩ đến phán:
- Khanh hãy mau trổ tài giúp trẫm, bọn cướp lại hoành hành khắp mọi nơi.
Con trai đạo sĩ mỉm cười:
- Xin bệ hạ an tâm. Ngay ít hôm thôi, bọn cướp sẽ không còn một mống.
Quả thật không phải “hữu danh vô thực”, con ông không những giống lông, giống cánh, mà còn “hậu sinh khả úy” nữa! Con trai đạo sĩ xuống Thủy Băng mượn chiếc Cung tuyết, lên núi Hỏa Diệm mượn con Ngựa lửa, đeo vào “con mắt thứ ba”, hét lên một tiếng lao đi vùn vụt giữa không gian quốc độ, hào quang sáng chói, chỉ trong vài đêm giết hết ba vạn tên cướp và phá tan sào huyệt của Bái Hỏa Giáo.
Đức Vua vuốt râu cười đẹp dạ. Mọi người nhảy nhót vui mừng mở hội liên hoan.
Đạo sĩ trở về nghe được mọi chuyện, dẫm chân than:
- Thôi hỏng, thằng con ngu si đã gieo họa xuống rồi!
Con trai đạo sĩ bị mắng như tát nước vào mặt mà không hiểu lý do.
Đạo sĩ nói:
- Còn chúng là ta còn! Mất chúng là ta mất! Này đứa con ngu si kia! Nếu quốc độ này hết giặc cướp thì nhà vua sủng ái ta làm gì nữa?
Rồi đạo sĩ khóc nức nở:
- Tu hành ngàn năm mà chỉ hưởng được bấy nhiêu công danh phú quý! Ôi hạnh phúc đời người sao quá mỏng manh! Ôi, duyên nghiệt! Lạy Chân Nhân tiên tri cao cả!
Thời gian sau, Đức Vua xứ Ăng-ca cảm thấy không cần dùng đạo sĩ nữa vì quốc độ đã hoàn toàn an ổn thanh bình. Khi ra lệnh truất phế đạo sĩ thì đạo sĩ đã không còn ở đó nữa. Ông ta đã vặn cổ con trai quẳng ra bể đông rồi vỗ cánh bay về hồ Gay Cấn tìm thầy.
Những đạo sĩ già đã tựa như mây ngàn gió núi. Và từ đó, hạc cũng lang thang sống kiếp gió núi mây ngàn!
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:48:16 GMT -5
Người hiền trí
Trong một kiếp quá khứ, tiền thân Phật Thích Ca làm Thái tử con vua Ba-la-nại, vừa thông minh, vừa nhân hậu nên người ta kính mến gọi Ngài là Thái tử Hiền Trí.
Thái tử sinh ra, chư thiên rải hoa. Đức vua nằm mộng thấy ngai vàng bay lên giữa hư không. Sáng ngày, đức vua cho gọi bốn vị trưởng lão Bà-la-môn hỏi thăm điềm triệu.
Một vị đáp:
- Muôn tâu bệ hạ, Thái tử vốn từ cõi trời mà giáng sanh. Ngai vàng bay lên giữa hư không là cho biết sau này ngài dạy muôn dân sống theo thiên pháp.
Đức Vua đẹp dạ, giảm thuế má cho dân.
Khi Thái tử Hiền Trí vừa biết đi, biết chạy, Hoàng hậu lại cho nhà vua thêm một đứa trẻ nữa, khuôn mặt tròn, mát mẻ và hiền dịu như mặt trăng nên nhà vua đặt tên là Nguyệt Diện.
Đức vua hoan hỷ mở tiệc ăn mừng. Khắp nơi lê dân mở hội hoan ca chung vui niềm vui quốc độ.
Ba năm sau, Hoàng hậu chẳng bệnh mà qua đời. Đức Vua thương tiếc khôn nguôi, lại càng yêu hai trẻ hết mực.
Hiền Trí không vì tình thương của vua cha mà đâm ra hư hỏng, bao giờ cũng chăm chú dùi mài kinh sử, luôn chứng tỏ tư cách của bậc long tượng. Thấy Nguyệt Diện ham chơi, Hiền Trí thường gọi em đến răn dạy:
- Em tên là gì nhĩ?
- Là Mặt Trăng, thưa anh.
- Bổn phận của nó là làm công việc gì?
- Thưa, nó là chúa của ban đêm, chiếu dọi ánh sáng dịu hiền cho muôn loài, muôn vật.
- Đúng thế! Nhưng mặt trăng ấy gặp lúc bị mây che hoặc gặp mùa đông tuyết giá thì sao?
Nguyệt Diện không thông minh bằng anh nên không hiểu được ẩn ý trong câu chuyện. Thái tử Hiền Trí bèn giải thích:
- Em yêu dấu! Mẹ chúng ta mất, có lẽ chúng ta sẽ sống trong những ngày tháng đông dài lạnh lẽo. Vậy em đừng nên bỏ phí thời gian trôi qua vô ích, phải chịu khó học hành, chịu khó luyện võ, thức khuya dậy sớm để chuẩn bị hành trang cho mai sau.
Đúng như Thái tử Hiền Trí tiên đoán, mấy năm sau, nhà vua phong một thứ phi lên làm Hoàng hậu và mọi sự sủng ái đều dành hết cho bà. Kết quả cuộc tình mặn nồng lại cho Đức Vua thêm một hoàng nam, khuôn mặt sáng rỡ như mặt trời, nên nhà vua đặt tên là Nhật Diện.
Đức Vua gọi Hoàng hậu lại phán rằng:
- Này ái khánh, trẫm hài lòng vô cùng về cái “Mặt Trời” đẹp đẽ, rực rỡ của chúng ta. Vậy thì trẫm sẽ ban cho ái khanh một đặc ân, trẫm sẽ thực hiện cho ái khanh một lời yêu cầu.
Hoàng hậu tự nghĩ: “Chẳng có đặc ân nào thỏa mãn được nguyện vọng ta bằng chiếc ngai vàng cho đứa con trai yêu quý.” Nhưng bà chưa nói ra điều này vội, và đã bắt đầu đem tâm ghét bỏ hai người con lớn của Đức Vua.
Nhật Diện lớn lên, kính trọng hai anh và hiếu thảo với cha mẹ. Mặc dầu còn nhỏ tuổi nhưng trẻ đã sớm biết tình thương phân biệt của mẹ mình, lại càng nhũn nhặn yêu quý hai anh hơn.
Hiền Trí hiểu tất cả mọi chuyện, chàng thương cả hai em bằng tình thương rộng lớn của mình, cặn kẽ chỉ dạy cho hai em về nhiều môn học khác nhau, còn tận tình và tài giỏi hơn các thầy Bà-la-môn phụ đạo. Đức Vua mỉm cười sung sướng về ba vị Hoàng tử anh tuấn và tài cao.
Hôm kia, nhân tiện ghé thăm Hiền Trí, Nhật Diện vô tình khám phá trong chăn anh có con rắn nhỏ cực độc. Trẻ định tri hô lên. Hiền Trí xua tay ra dấu im lặng, tìm cách đuổi rắn đi và bảo em nên kín miệng cứ xem như không có việc gì. Sau đó, khuyên Nguyệt Diện qua ở chung để anh em sớm hôm bầu bạn: Hiền Trí muốn âm thầm bảo vệ em cho chu đáo vì sợ ác tâm của người mẹ kế.
Thấy mưu rắn độc không thành, Hoàng hậu thưa với đức vua:
- Tâu Hoàng thượng, thuở Nhật Diện vừa mới ra đời, Hoàng Thượng có hứa khả ban cho thần thiếp một đặc ân.
- Phải rồi, ái khanh cứ nói, ái khanh muốn gì nào?
Người đàn bà chớp chớp đôi mắt kiều mị cất giọng thỏ thẻ, quyến rũ như uyên ương:
- Muôn tâu, phận cát đằng hèn mọn từ lâu được núp bóng tùng quân cao cả, đội ơn mưa móc, thần thiếp thật không thiếu thứ gì. Chỉ xin Hoàng thượng phong cho Nhật Diện được làm Đông cung Thái tử.
Đức Vua bàng hoàng cả người. Vừng trán đấng cửu trùng hốt nhiên se lại. Lâu lắm, Đức Vua cất giọng ôn tồn:
- Này ái khanh, ái khanh chẳng thể có lời yêu cầu khác sao? Vật báu của thiên hạ còn chất đầy cung khố, thảng hoặc, trẫm có thể ban cho ái khanh một phần của giang sơn cho ái khanh thỏa vọng vương quyền?
Người đàn bà run rẩy, búi tóc màu ngọc tía tung rối bời, hàng lệ tươm mọng rỉ giọt, tiếng khóc rưng rức rung động cả tầng mây. Đức Vua Ba-la-nại lòng loạn lên như mớ bòng bong, bước tới bước lui tê điếng như bị cái đốt của chúa loài ong. Lại phân trần:
- Hỡi ái khanh ngàn vàng của trẫm! Ngôi chí tôn mệnh trời đã sắp đặt, trẫm đã phong cho Hiền Trí làm Thái tử từ lúc vừa mới tuổi tôi. Hiền Trí cốt tượng, dáng long, trí đức văn võ toàn tài, đúng là chân mạng của bậc thánh vương. Nó còn là con trưởng, lại chưa hề tạo ra một lỗi lầm dù nhỏ như hạt bụi, chẳng lẽ trẫm lại phế bỏ đi sao? Rồi còn Nguyệt Diện? Nó cũng tài cao, anh tuấn, nhân hậu, thập toàn, thập mỹ có thua ai ở quốc độ này? Ái khanh phải thấy rõ tình lý của vấn đề chứ? Thứ bậc đã chia phân thì dẫu trời này có sập đi nữa, trẫm cũng chẳng thể hoán cải được nào!
Hoàng hậu tức tưởi trở lại loan phòng, chất chứa nổi hờn căm và lòng tàn nhẫn của loài beo chúa.
Vùng biên thùy tây bắc quốc độ, khắp mười ba trấn, dân chúng nổi lên làm loạn. Cấp mã báo tin về triều nội nườm nượp như én lượn ngày xuân.
Kinh thành nghe tin hỗn loạn lên. Mấy ngày sau phố phường chợt lặng ngắt, đường sá thưa thớt người qua lại. Triều đình họp kín mấy tuần. Lửa sắp cháy đến kinh đô. Bá quan bó gối tìm không ra phương kế. Khí thế giặc dữ như sóng tràn, như địa lôi, như bão động. Đứng đầu cuộc nổi loạn là một lão phù thủy biết hô phong hoán vũ, chỉ huy âm binh lần lượt đánh chiếm đã hết hai phần ba vành đai quốc độ. Giặc đang như cơn lốc sắp cuộn vào trung tâm.
Quốc vương xứ Ba-la-nại không chợp mắt, mấy ngày không nuốt trôi chén cháo trân châu, trên đầu tóc đã bạc trắng tự bao giờ.
Một buổi sáng, Thái tử Hiền Trí nai nịt gọn gàng và đẹp đẽ như một viên dũng tướng nhà trời, xuất hiện giữa trăm quan:
- Muôn tâu Hoàng thượng! Đây đúng là lúc thần nhi xin đem tấm thân hèn mọn để đáp đền trọng ân sơn hà xã tắc.
Giọng nói, dáng đứng, đôi mắt sáng quắc như điện của Thái tử có sức lôi cuốn cực mạnh. Đức vua ngạc nhiên một hồi, nhưng sau đó tự nghĩ: “Con ta chưa hề nói dối, cũng chưa bao giờ làm một việc gì mà không tự lượng sức mình”, bèn thận trọng nói:
- Con nên nhớ là “Pháp bất vị thân”, một lời nói ra giữa triều đình như dao chém đá. Con hỡi! Thế giặc mạnh vô cùng. Con liệu có đương nổi với lão phù thủy ấy không?
Thái tử Hiền trí nghiêm cung đáp:
- Thần nhi xin đem hết sức mình.
Đức vua chẳng đặng đừng, từ chín bệ, thân hành trao chiếc gươm lệnh cho Thái tử, phong làm Tây chinh Đại nguyên soái, điều động ba muôn binh mã.
Nhận gươm vàng, Thái tử phủ phục tâu:
- Xin Hoàng thượng anh minh! Không điều động binh mã thì triều đình bất an, điều động binh mã thì lòng người lo sợ. Thần nhi thấy chẳng có kế sách vẹn toàn.
Như một tảng băng lạnh rơi xuống cung phòng, Đức Vua và bá quan cả kinh thất sắc, chẳng hiểu Thái tử muốn gì.
Hiền Trí chậm rãi nói:
- Mây thành, sao chổi xuất hiện là điềm triệu trong nước có loạn biến. Đấy là mệnh trời, sức người không cưỡng được. Suốt một tuần nay, thần nhi xem thiên văn thì thấy đế tinh của phụ hoàng quả có đám vân thạch từ tây bắc uy hiếp. Tuy thế, đến ngày thứ sáu, đám vân thạch kia lu mờ, rồi chìm mất dần dần. Chân tinh của phụ hoàng vẫn sáng rỡ rỡ, tối thiểu cũng còn được mười hai năm nữa.
Đức Vua thở phào nhẹ nhõm
Thái tử tiếp lời:
- Do vậy, muôn tâu, thần nhi ra đi trong bước viễn chinh, lấy đức “nhân” làm đầu, tránh nghiệp sát cho lê thứ, nên chỉ xin mang theo vài mươi tráng sĩ tùy tùng huynh đệ.
Đức Vua cau mày, thận trọng khẽ nhắc lại:
- Thế giặc quá mạnh.
Thái tử mỉm cười:
- Muôn tâu, xin phụ hoàng an tâm, thần nhi đã chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi.
Lời nói vừa dứt, hai mươi tuấn mã xuất hiện trước vương cung. Đức Vua và bá quan đồng bước ra xem. Hai mươi tráng sĩ binh giáp, khí giới sáng lòa đồng phi xuống một lượt, gươm tuốt trần, khí vũ hiên ngang, thần oai lẫm lẫm đồng nghiêng mình hô lớn:
- Thánh thượng vạn tuế!
Âm thanh rần rật bốc cao như chấn động cả chín tầng mây.
Đức Vua xứ Ba-la-nại thấy dáng dấp hai mươi tráng sĩ oai hùng quá cũng bớt lo ngại phần nào, nhưng với chừng ấy chiến sĩ thì làm sao đương nổi với giặc dữ ở biên thùy?
Thái tử Hiền Trí dường như đoán được điều ấy nên nói:
- Phụ hoàng hãy chờ nghe tin chiến thắng.
Đức Vua ân cần nắm tay Thái tử, từ giã...
Đoàn kỵ mã lao đi như gió cuốn. Một lúc, phía chân trời xa chỉ còn thấy một đám bụi mờ.
Hai mươi mốt chiến mã phi suốt ngày đêm, vượt qua năm con sông, mười hai dãy núi thì đến trấn thành gần nhất.
Thái tử đứng trên một ngọn đồi cao nhìn xuống một biên thành đang bị giặc chiếm. Nhà cửa cây cối còn nghi ngút cháy trong đám lửa tàn. Từng toán người chạy loạn bồng bế nhau về hướng đông, tiếng gào khóc kêu la vọng lại.
Thái tử chợt se mình, đau xót cho đám sinh linh vô tội. Hồi lâu, như đã quyết định, Thái tử quay qua đám tùy tùng tráng sĩ, cất giọng nghiêm hòa:
- Hỡi chư tráng sĩ huynh đệ! Thầy ta vốn là một đạo sĩ ẩn danh ở núi Nguyệt Đàn, nơi tịnh cư của những tiên ông đắc đạo. Bấy nay ta chỉ được học về thiên tháp nên chưa hề móng tâm khởi ác niệm. Hôm nay, vì sự an nguy của xã tắc, sự hạnh phúc sống còn của bá tánh, ta đành gánh chịu hậu quả mai sau để sử dụng “sát đao”!
Hai mươi tráng sĩ đồng thanh hô:
- Thái tử nhân đức vạn tuế!
Thái tử Hiền Trí lại thở dài:
- Huy động binh mã, sử dụng đao kiếm, cung thương là chuyện bất đắc dĩ. Con đường của các đấng Chuyển Luân Vương thuở trước bao giờ cũng lấy trí, đức, nhân mà cảm hóa lòng người. Này chư tráng sĩ mến yêu! Chúng ta đã cùng nhau tập tành kiếm cung võ nghệ, tất cũng có lúc hữu dụng. Dẫu là hữu dụng, nhưng anh em luôn luôn nhớ rằng, nếu có thành công, ấy cũng chỉ là phương cách hạ thừa đấy thôi! Thật là đáng hổ thẹn nếu chúng ta đắc chí về điều ấy.
Hai mươi tráng sĩ lại hô lớn:
- Chúng tôi hiểu, hoan hô Thái tử nhân đức!
Thái tử mỉm cười, lấy từ sau vai ra hai mươi mũi tên vàng, lần lượt trao cho từng người rồi nói:
- Tuyệt đối không đụng đến lê dân. Tuyệt đối không đi theo con đường cường bạo. Phải tốc chiến, tốc thắng. Hai mươi mũi tên vàng “hoàn tiễn” kia cùng bắn ra một lượt ngay trái tim của lão phù thủy. Chuyện còn lại cứ để phần ta.
Hai mươi mốt chiến mã lại tức tốc xuống đồi. Ngựa phi vun vút, dường như chỉ dính trên đầu cỏ. Đến canh hai, đoàn phi mã đã đến cổng thành. Ngựa Thái tử chợt bay về phía trước như mũi tên. Thái tử rút thanh đại đao khuya mấy đường, cánh cửa sắt dày rã ra như củi mục. Đoàn phi mã phía sau không dừng vó, bay thẳng đến một tòa lâu đài đang còn sáng ánh đèn.
Quân canh mặt thành hốt hoảng báo động. Khắp nơi nhốn nháo, hỗn loạn, hát ca, đàn sáo chợt im bặt. Một lúc chợt có đám lửa to bay lên đài cao, hiện thành hình người xõa tóc, tung một nắm cát lên trời.
Thái tử vỗ tay. Hai mươi mũi tên vàng lướt đi xé gió ghím trúng tim của lão phù thủy. Nhưng từ đó, một cánh đại bàng vỗ cánh bay mất.
Thế là lão phù thủy thoát được thân nhưng Thái tử lại thu được thành. Quân giặc cởi giáp quy hàng. Thái tử bình định lòng người và vỗ về, an ủi dân chúng.
Thế rồi, Thái tử và hai mươi tráng sĩ không nghỉ ngơi, đáp suối băng sông, lần lượt chiếm lại mười thành chỉ trong tháng thứ nhất. Lưỡi đao thiên pháp của Thái tử và hai mươi mũi tên vàng “hoàn tiễn” của tiên ông núi Nguyệt Đàn vốn là khắc tinh của yêu ma hạ giới. Lão phù thủy bó tay chạy về cứ địa cuối cùng.
Hôm kia, Thái tử chợt dừng vó ngựa vô địch, ngẩng đầu nhìn trời rồi buột miệng nói:
- Ta sắp bị lâm nạn rồi!
Khi quay lại, từ các phía chân trời, cờ xí phấp phới như sao sa.
Hai mươi tráng sĩ chết sững trên mình ngựa. Họ hoàn toàn bị vây chặt ở giữa lòng chảo. Mọi người cả kinh đưa mắt nhìn nhau.
Nhưng không, đó là mười vị quan biên trấn cảm kích Thái tử đã giải vây nạn binh đao nên họ đồng lòng triệu tập quân dân mấy vạn người đến suy tôn Thái tử lên làm Phó Vương.
Hai mươi tráng sĩ nhảy xuống ngựa, hợp cùng đoàn người tung hô:
- Đức Phó Vương vạn tuế!
Nỗi vui mừng của vạn người như một. Âm thanh vang động tưởng làm cho núi đổ, thành xiêu. Thái tử đứng cao trên một tảng đá, dõng dạc nói:
- Hỡi chư quan, binh sĩ và muôn dân! Ta rất cảm kích trước tình cảm mến mộ mà mọi người dành cho ta. Từ chối chức vụ Phó Vương là ta phụ lòng mọi người. Mà phụ lòng mọi người tức là “bất nhân” vậy.
Cả muôn người lại hô:
- Phải rồi! Đức Phó Vương vạn tuế!
Thái tử phất cánh chiến bào cho đám đông im lặng rồi cao giọng tiếp tục:
- Nhưng mà ta ra đi là theo lệnh phụ hoàng. Khi chưa được chiếu chỉ của phụ hoàng mà nhận chức thì ta sẽ thành người “bất hiếu”. Nhận thì bất hiếu, không nhận thì bất nhân, thử hỏi bây giờ ta phải xử lý sao cho ổn thỏa?
Mọi người ngơ ngác. Họ không biết làm thế nào để cho tròn đạo lý.
Thái tử mỉm cười:
- Vậy để khỏi phải bị mang tiếng bất nhân thì hãy cho ta hẹn lại một thời gian. Muốn khỏi mang tiếng làm người bất hiếu thì hãy để ta đợi lệnh của Vương phụ.
Trong lúc mọi người vỗ tay rầm rập tán thưởng lối xử trí khéo léo của Thái tử thì một trang kỵ mã phi ngựa đến. Ngựa chưa tới, mà tiếng nói đã tới:
- Hoàng thượng có chiếu chỉ! Hoàng thượng có chiếu chỉ!
Trang kỵ mã người nhuốm đầy bụi, nhảy xuống ngựa, thò tay lấy cuốn giấy ra, hét lớn:
- Quan dân biên trấn phụng chiếu mệnh!
Không ai hiểu chuyện gì nhưng cũng qùy xuống, Thái tử quỳ theo.
Trang kỵ mã hùng hồn đọc:
- “Không có lệnh của trẫm mà hoàng nam Hiền Trí tự động kéo theo hai mươi thuộc hạ đến miền Tây bắc liên lạc với giặc để mưu chuyện phản nghịch. Truyền cho quan và dân biên trấn hãy trảm đầu tên tặc tử. Ai lập được công này sẽ được thưởng một trăm ngàn đồng tiền vàng. Ai bất tuân hoặc cưỡng lệnh sẽ bị tru di chín họ. Khâm thử”.
Không ai tin ở tai mình.
Hai mươi tráng sĩ thân tín biết lời tiên tri của Thái tử đã hiệu nghiệm, khuôn mặt tái ngắt. Mọi người bàng hoàng kinh sợ. Thái tử trầm tĩnh đứng dậy, xem lại chiếu chỉ. Trang kỵ mã phụng chiếu nhà vua đứng chống nạnh quát thảo om sòm nhưng chẳng ai nhúc nhích vì cái chiếu chỉ phi lý kia. Nhưng một trăm ngàn đồng tiền vàng là số tiền quá lớn, có thể sống giàu sang nhiều đời nên cũng làm tối mắt một số người.
Lâu lắm, có một người bước ra giữa tiếng la ó, thóa mạ của đám đông. Y huơ đao.
- Hãy xem lại - tiếng một người hét to - biết đâu là chiếu giả!
Thái tử lắc đầu:
- Không phải chiếu giả đâu. Ta biết. Đúng là ngọc ấn của Phụ vương ta.
Mọi người lại im lặng, bàng hoàng.
Thái tử cất giọng ôn nhu:
- Hỡi chư quan, binh sĩ và muôn dân! Các ngươi hãy thi hành chiếu chỉ của Phụ vương ta. Đừng vì yêu mến ta mà trái phép nước. Các ngươi mà trái phép nước thì thảm họa sẽ rơi xuống đầu chín họ. Một mình ta mất đi mà đổi lại các ngươi được an lành thì thân ta cũng còn đáng giá lắm vậy.
Các quan đồng quỳ xuống:
- Không thể được, hỡi Thái tử nhân đức! Thái tử không thể chết được!
Thái tử mỉm cười trấn an:
- Sống, ta chưa nghĩ rằng vinh. Chết, ta chưa nghĩ rằng nhục. Bao giờ tấm lòng ta cũng tròn đầy vành vạnh như nhật nguyệt giữa trời cao. Các ngươi không lấy đầu ta thì làm sao tránh khỏi họa lớn vào thân?
Thái tử tháo chuỗi ngọc ra:
- Ngoài tiền thưởng hậu hỷ, ta biếu thêm xâu chuỗi ngọc vô giá này cho ai vâng lệnh chiếu chỉ.
Một người nữa bước ra, nhìn xâu chuỗi ngọc, khoa đao lên. Một hồi, y quăng đao, nức nở khóc:
- Thái tử kính mến ơi! Làm sao có thể vì đồng tiền mà xâm phạm đến ngọc thể của người!
Một kẻ nữa bước ra, nhưng rồi y cũng quăng đao:
- Thái tử nhân đức ơi! Mặt trời kia sẽ tắt mất và quả đất này sẽ tối tăm vĩnh viễn!
Thái tử lại tháo thêm chiếc vòng nữa:
- Thêm vòng kim cương vô giá cho kẻ chu toàn chiếu mệnh.
Thế là cuối cùng có tên đồ tể tự bịt hai mắt mình bằng một vuông vải đen, bước ra, đưa thanh đại đao lên...
Hoàng tử Nguyệt Diện, tức là em kế của Thái tử Hiền Trí, bốn, năm hôm sau mới nhận được tin anh đã ra đi, tức tốc vào cung rút thanh đao báu, ngựa chẳng kịp thắng yên, phi luôn ra hướng tây, nhưng cửa thành đã đóng chặt. Quan thủ thành nói:
- Lệnh của Thượng hoàng là từ giờ phút này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, xin Hoàng tử lượng thứ cho hạ quan.
Nguyệt Diện bản chất hiền lành, tuy hậm hực trong lòng nhưng không nổi nóng, phi ngựa đến gặp vua cha, quỳ xuống tâu:
- Xin Phụ vương cho phép hoàng nhi được theo anh con ra quan ải.
Đức Vua không chuẩn lời, nhưng Hoàng tử năn nỉ quá buộc phải ưng thuận.
Hoàng tử Nguyệt Diện mừng rỡ nói:
- Vậy thì Vương phụ xuống chiếu cho quan thủ thành phía tây mở cổng gấp cho hoàng nhi lên đường.
Đức Vua trợn mắt hỏi:
- Sao lại phải xuống chiếu?
Nguyệt Diện trình bày tự sự.
Vua ngạc nhiên quày quả bước vào triều nội, triệu tập các quan hỏi nguyên do. Mọi người ngơ ngác chẳng rõ nguồn cơn. Không kịp mặc long bào, Đức Vua cho đánh xe ra cửa thành tây.
Quan thủ thành sửng sốt:
- Hạ thần nào dám không tuân, khi chiếu chỉ chính là ngọc ấn của Hoàng thượng?
Hoàng tử Nguyệt Diện trực giác mách bảo, khóc òa lên:
- Thôi rồi, tâu Phụ vương! Thế chắc Hoàng hậu đánh cắp ngọc ấn, giả chiếu chỉ, thực hành thủ đoạn mờ ám với Thái tử đang ở ngoài biên trấn.
Đức Vua sực nhớ lại đôi mắt long lên căm hờn của Hoàng hậu độ nọ sau khi thất vọng trong việc xin phong Đông cung Thái tử cho Nhật Diện. Nhà vua hối hả đến hậu cung, nhưng Hoàng hậu ngọc thể bất an đang thiêm thiếp trên giường bệnh không tiện hỏi han.
Trên đường trở về triều, Đức Vua rối trí chưa biết tính sao thì thấy một chàng kỵ mã thương tích đầy người vẹt vào từ cửa thành tây - khi ấy đã mở - rồi té xuống, máu tuôn xối xả. Nhận ra kẻ tùy tùng của mình, Nguyệt Diện chạy lại. Chàng kỵ mã gượng đưa cánh tay lên chỉ về phía tây, lắp bắp, phều phào:
- Chiếu chỉ ... chiếu chỉ giả ... trảm đầu Thái tử ... đã ra đi ... mấy ngày trước ...!
Nói xong, y thở hắt ra, ngoẹo đầu tắt thở.
Thế là đã rõ mọi chuyện. Hoàng tử Nguyệt Diện hét to lên, búng người bật cao, con long câu cất tiếng hí vang, dậm chân, dựng bờm lên, thót mình lao đi loang loáng. Đức Vua xứ Ba-la-nại bần thần nhìn theo cái chấm đỏ đã khuất xa ngoài hoàng thành mà ruột đau đòi đoạn.
Mặc dầu ngựa phi như gió cuốn với sức thần mã vô địch, Nguyệt Diện vẫn thấy chậm. Chàng ôm siết đầu ngựa vỗ về:
- Này con yêu quý! Gắng lên nữa, gắng lên nữa để kịp cứu người anh kính trọng của chúng ta!
Thần câu như hiểu tiếng người, hí một tràng giữa hư không, mồ hôi máu rịn ướt chùm lông đỏ rực, bên tai Hoàng tử chỉ còn nghe gió thổi vù vù. Núi đồi, sông suối, cây cối, ... chạy giật lùi ... chạy giật lùi ...
Đói không ăn, khát không uống, sáng hôm sau thần câu đã ngốn hết quãng đường hai ngày ngựa. Hoàng tử rẽ cương theo sườn đồi dẫn đến biên thành thứ nhất thì thấy một toán quân bịt mặt hùng hổ với khí giới nhảy ra chận đường. Hoàng tử rút thanh bảo đao hét lớn:
- Ta biết chúng bây là ai rồi, bịt mặt vô ích. Mưu kế của Hoàng hậu bị lộ rồi! Hãy dạt ra, ta sẽ tha cho mạng sống.
Đây là toán quân theo mật lệnh của Hoàng hậu cốt ý ngăn trở thông tin ở chiến trường. Chính họ đã đụng độ với trang kỵ mã thân tín của Hoàng tử Nguyệt Diện khi y tình cờ khám phá ra âm mưu của Hoàng hậu. Thấy Hoàng tử, họ sợ hãi đứng im. Họ lại biết rằng, với vài chục tên lính quèn thì không thể chống nổi võ nghệ siêu phàm và thanh bảo đao vô địch của Hoàng tử.
- Hãy trốn đi - Hoàng tử thương hại nói - trở về làng mạc xa xôi mà sinh sống, sau này khi tình hình lắng dịu rồi, hãy trở lại trình diện ta, ta sẽ xóa cho cái tội này.
Cả toán quân đồng buông khí giới, phủ phục dưới chân ngựa của Hoàng tử:
- Chúng con xin tri ân Hoàng tử nhân đức.
Hoàng tử phất tay, nói lời phủ dụ, rồi ngựa lại lao đi đến chỗ biên thành. Dấu tích chiến trường còn âm ỉ trong đám tro tàn. Muôn dân bá tánh lần lượt bồng bế nhau trở về. Tin từ các ngã đường vang lên rộn rã:
- Thái tử nhân đức của chúng ta đã lấy lại trấn thành thứ ba.
- Vài hôm trước đây, lão phù thủy đã biến thành con rắn bảy đầu về trấn thủ tòa thành thứ năm rồi.
Hoàng tử cảm thấy yên trí. Người và ngựa được nghỉ ngơi, ăn uống dưỡng sức rồi tiếp tục con đường thiên lý.
Tin tức từ cực tây bay về tấp nập:
- Thái tử đã thu hồi trấn thành thứ sáu rồi!
Lòng Hoàng tử vui lên rộn rã. Ngựa lại phi, lại nghỉ ngơi, lại lên đường. Mấy hôm sau, Hoàng tử lại nghe tin:
- Dân chúng đã mở hội liên hoan ở trấn thành thứ chín rồi!
Ôi! Tin tức chiến thắng còn đi nhanh hơn thần mã. Hoàng tử vui mừng khôn xiết, nhưng chợt nhớ là vẫn chưa bắt kịp bóng người mang chiếu chỉ giả, lòng lại nôn nóng, ngựa lại bay đi.
Mấy hôm sau, đến biên thành thứ mười. Thái tử cũng vừa chiến thắng, lão phù thủy mang vết thương trí mạng hoá thành con mãng xà ba đầu, máu tuôn kéo dài mấy quả đồi tranh. Sức thần câu giờ đã lên đến độ chót, hí vang khi bay qua những chiếc cầu bị sập cheo leo trên vực thẳm.
Các ngả đường, dân chúng rầm rộ kéo đi, cờ xí tung bay như bươm bướm. Đây là toán người cuối cùng đi tấn phong Thái tử lên làm Phó Vương.
Đám đông vây quanh một thung lũng. Cả rừng người yên lặng như tờ. Chợt trước mắt chàng, một bóng kỵ mã từ ven đồi lướt nhanh xuống như dây khói. Con thần câu hiểu ý chủ, hí lên một tràng lồng lộng giữa hư không. Nó đã bỏ mặt đất và bay qua đầu rừng người cho kịp bóng kỵ mã phía trước ...
Khi gã đồ tể bịt mắt nghiến răng khua đao bổ xuống đầu Thái tử thì một con thiên mã đỏ rực như lửa tự trời cao sa xuống. Một thanh đao như làn ánh sáng bay đến xẻ gã đồ tể ra làm hai. Đà đao đi nhanh xuyên luôn bụng chàng kỵ mã mang chiếu chỉ rồi găm sâu vào thân cây. Chuôi đao rung rinh không vấy một tí máu nào.
Biến cố xảy ra quá nhanh, quá đột ngột, như giấc mộng kinh hoàng của Thần Ảo Hóa.
Con long câu rực lửa dựng bờm hí một tràng dài chiến thắng.
Hoàng tử Nguyệt Diện lao xuống, chạy đến ôm Thái tử Hiền Trí, khóc nức nở. Hồi lâu, Thái tử khẽ nói:
- Hỡi em yêu quý! Ta cùng hai mươi tráng sĩ đánh chiếm mười thành, đuổi lão phù thủy gian ác mà chẳng làm đổ một giọt máu của lê dân. Em vì thương ta mà trong một lúc giết cả hai mạng người. Việc này ta biết ăn nói làm sao đây, hỡi em!
Hoàng tử Nguyệt Diện quỳ lạy như thế sao.
Một vạn người đồng quỳ xuống xin hộ.
Thái tử khuôn mặt lạnh như tiền, đến thân cây rút đao ra, nhìn mọi người rồi nói:
- Hỡi chư quan, binh sĩ và bá tánh! Gã đồ tể vì được sự khích lệ của ta, y không phải tội chết. Người mang chiếu chỉ giả vì tuân lệnh Hoàng hậu nên cũng chưa đáng tội chết. Em ta vì tình vì nghĩa trung trinh mà cứu ta thì đâu có đáng tội chết. Do đó, bởi ta, vì ta mang nghiệp nặng nên phải lụy đến bao người.
Thái tử lại quay qua Nguyệt Diện:
- Đây là một bài học mà em nên ghi nhớ nằm lòng, tuyệt đối không được giết người. Nếu khi giết người vì lý do chính đáng thì coi như là ta đã đoạn lìa cánh tay trong cùng một thân thể vậy.
Nói xong, Thái tử huơ đao chém lìa cánh tay trái của mình. Máu tuôn có vòi! Mọi người thảy đều run sợ, khắc cốt ghi tâm bài học của người Hiền Trí.
Thái tử buộc lấy vết thương cùng ngồi chung với Nguyệt Diện nhận cuộc mừng vui chúc tụng của bao người, rồi khuyên họ trở về. Hai Thái tử cùng hai mươi tráng sĩ lại lên đường đến trấn thành thứ mười một. Lão phù thủy đã trốn khỏi nơi này nên quan trấn thành và dân chủng thỉnh mời họ vào thành nghỉ ngơi. Đêm ấy Hiền Trí dẫn Nguyệt Diện lên vọng lâu xem thiên văn.
Thái tử nói:
- Em hỡi! Lão phù thủy kia mang vết thương nặng, trọn đời này y không thể làm gì được nữa. Hãy tha cho y mạng sống, chẳng nên đuổi cùng, giết tận. Đó là đức hiếu sinh của trời đất. Còn hai thành nữa dẫu chưa phục hồi nhưng giặc cũng tự động tiêu tan. Như vậy, quốc độ sẽ thái bình, muôn dân sẽ không còn ách nạn nữa.
Vỗ vai Nguyệt Diện, Thái tử tiếp lời:
- Từ nhỏ chí lớn sống trên nhung lụa, em chưa hề gặp chuyện bất trắc, trái ngang trên cuộc đời. Dẫu em có theo ta học hỏi được ít nhiều, nhưng ít nhiều ấy có giúp em vượt qua những khó khăn và gian khổ của chặng đường trước mặt không?
Nguyệt Diện dường như hiểu một vài phần, dè dặt hỏi:
- Hoàng huynh định đi đâu?
Hiền Trí chỉ ngón tay lên trời:
- Anh đã xem khí tượng thiên văn thì có thể chúng ta sẽ trải qua mười hai năm gian truân cơ khổ. Em còn nhỏ tuổi quá, biết có đủ sức chịu đựng với nghị lực dài lâu để cùng anh ra đi sống đời nổi trôi vô định chăng?
Nguyệt Diện gật đầu mạnh mẽ:
- Có thể được. Ở bên anh, ở với anh, em có thể quẳng chiếc hoàng bào đổi manh áo vải, có thể ném đôi hài vương giả lấy đôi dép cỏ của kẻ bần dân. Như vậy thì có sá gì đói rét lầm than nếu cuộc ra đi kia là chính đáng?
Hiền Trí cười ha hả:
- Đúng vậy, em nói hay lắm! Câu hỏi xác đáng lắm! Nhưng nếu nó có lý do chính đáng thì sao?
- Anh cứ nói đi - Nguyệt Diện nghiêm trang thúc giục - Chính đáng sao được khi Vương phụ đã già và lúc trăm họ chưa được thái bình, an lạc?
Hiền Trí gật đầu:
- Phải rồi! Nhưng mẫu hậu không dung được hai ta thì làm thế nào? Còn ta, Vương phụ sẽ không giữ được lời hứa xưa mà thành ra người bất tín! Còn ta, mẫu hậu sẽ còn tìm cách giết hai ta để bà thành người thất đức, bất nhân. Cứu cái tín, cái đức, cái nhân cho hai vị, phải chăng là việc làm không đúng với đạo làm người?
Nguyệt Diện đuối lý nhưng khuôn mặt đã rạng rỡ hẳn lên. Hiền Trí tiếp:
- Hai ta cởi áo từ bỏ điện vàng chắc người đàn bà kia sẽ không còn đi sâu vào con đường tội lỗi nữa. Nhật Diện sẽ lên ngôi Thái tử và sau này trị vì thiên hạ cũng trở thành vị minh quân. Vậy chúng ta đi đi thôi! Phụ hoàng và Nhật Diện có nhớ thương hai ta thì thời gian vẫn là phương thuốc nhiệm mầu nhất, phải thế không em?
Sáng ngày, khi sao mai vừa mọc, hai chàng trai đã lên đường để lại hai bức tâm thư và hai chiếc hoàng bào cùng tất cả ngọc vàng trang sức, bảo đao quý báu trên người. Một bức thư gửi hai mươi chàng tráng sĩ đem về cho Đức Vua để nhận trọng thưởng, một bức gửi vua cha, khuyên vua cha lấy thiên pháp trị dân, vỗ an bá tánh, giảm thuế má và tha tội tù. Tuy nhiên, hai mươi chàng tráng sĩ vì tình nghĩa trọng hậu với Thái tử, trao lại tín thư, tín vật nhờ quan biên trấn cử người mang về triều, còn họ từ bỏ chức vụ, sống đời mai danh ẩn tích...
Ra đi chỉ vì một nghĩa cử cao cả, một tấm lòng cao cả, hai chàng trai không bạc tiền, không sự nghiệp, tứ cố vô thân, nhưng không vì thế mà họ cau mày. Từ chỗ cực đỉnh giàu sang, nhung lụa, bây giờ với manh áo vải, đôi dép cỏ, họ cũng sinh sống được qua ngày với niềm thanh thản ở trong lòng.
Hai anh em vốn là người học vấn uyên thâm, tự tin cao độ, nhưng khi ra đụng chạm với đời thì than ôi, vốn liếng kia không thể đổi lấy một bát cơm! Khắp nơi dường như người ta cần cái gì khác. Đâu cũng đầy dẫy lọc lừa, trí xảo, man trá, độc ác và chẳng có tình thương! Và đạo đức lương tri là một món xa xỉ phẩm mà người ta đã chẳng còn mang ra buôn bán trao đổi giữa chợ đời! Họ cần cái thiết thực hơn: cơm áo và tiền bạc. Chỉ có tiền bạc và áo cơm thôi, còn kinh thư và minh triết người ta phế thải lâu rồi. Ở trong cung vàng điện ngọc, hai chàng tưởng rằng muôn dân đang sống trong cảnh hạnh phúc, thái bình. Té ra đấy chỉ thuần là từ ngữ, chữ nghĩa ở trên lời tấu trình, ở trong các văn kiện có dấu triện son. Nó chỉ có giá trị như một lớp sắc màu tô vẽ bên ngoài cho óng chuốt, còn bên trong, chính Thần hoan hỷ và Thần tự tại cũng phải nhăn trán ưu tư!
Chỉ mới hai năm mà họ học được nhiều quá. Những hiểu biết của họ bị đảo lộn hoàn toàn. Có một số thánh thư, cổ thư của các đấng hiền triết bị thế gian chế biến thành bùa chú, ngải nghệ để thỏa mãn tham vọng trần tục. Tâm hồn hai chàng trai trẻ chợt chùn lại trước sự thật phũ phàng của đời sống.
Hôm kia, chán nản quá, họ rủ nhau đi lên một ngọn núi cao. Hiền Trí đưa tay chỉ ra bốn phương trời:
- Đấy là quê hương nhung gấm, ngà ngọc của tổ tiên, bây giờ chỉ còn sót lại mơ hồ trong trí tưởng chúng ta mà thôi. Sự thật ấy nó khác, phải không em?
Nguyệt Diện buồn bã gật đầu.
- Em hỡi! Hiền Trí tiếp lời - Ta, trước đây từ thiên pháp mà về thì bây giờ ta cũng sẽ từ thiên pháp mà đi. Vậy bắt đầu từ đây, anh muốn chúng ta sống đời đạo sĩ ẩn dật, em nghĩ sao?
Nguyệt Diện thẩn thờ nhìn ra xa xăm, không đáp vội. Cũng như anh, chàng đã thấm thía cuộc đời. Hơn hai mươi nghề chân tay mà hai người đã lăn thân vào để kiếm sống. Khó khăn gian truân vậy, nhưng đâu phải vì thế mà họ chán nản, đau lòng? Vấn đề là, họ thấy cuộc đời này chẳng còn tim óc, ở đâu cũng thấy bản năng và thân xác giành giật, cấu xé nhau! Mọi giá trị, mọi ý nghĩa thiêng liêng tôn quý trên thế gian này đã bị đánh mất thật sự rồi!
Nguyệt Diện nói to:
- Có lẽ chúng ta chỉ an lạc được khi sống đời ẩn dật mà thôi!
Hừng đông hôm sau họ xuống chợ mua ít dầu và muối để chuẩn bị cho cuộc lên non thì tình cờ gặp lại Nhật Diện trong hình dáng một gã ăn xin. Phải khó khăn lắm cả ba mới nhận ra được nhau vì họ đã không còn dấu tích vương giả nào sót lại trên người. Ôi! Sung sướng đến lịm người, mà ngỡ ngàng, tê tái cũng làm cho họ ngất đi!
Sau một hồi khóc lóc, họ tìm chỗ khuất vắng để hàn huyên. Nhật Diện kể:
- Vương phụ nhận được thư và tín vật của hai anh gửi về thì ngã bệnh. Mẫu hậu một lần nữa đánh cắp ngọc ấn, giả chiếu chỉ phong em lên ngôi Vương để bà cầm quyền nhiếp chính. Giết anh không được, sợ hậu hoạn mai sau, bà thưởng tiền cho năm trăm hiệp sĩ lên đường tìm kiếm hai anh để thủ tiêu. Em buồn quá, nghĩ cảnh máu huyết tương tàn mà đứt ruột! Chỉ tại em, cùng vì em có mặt trên đời này mà xảy ra cớ sự. Em định treo cổ chết cho xong thì may thay gặp được một trang tráng sĩ từ xa về, khẩn thiết bảo em tìm cách cứu hai anh. Em hỏi: “Ngài là ai? Người ấy đáp: “Hạ thần là một trong hai mươi tráng sĩ thuở trước cùng đi viễn chinh với Thái tử”. Em tin ngay, lại hỏi: “Làm sao ta cứu hai anh trai của ta được?” Tráng sĩ bảo: “Mười chín anh em của chúng tôi đang tìm cách cầm chân họ lại bằng kế dương đông kích tây. Họ đều là kẻ tham tiền, vậy Hoàng tử phải tung tiền bạc ra cho thật nhiều, mua chuộc họ, thay vì đi giết hai anh thì họ phải bằng mọi cách tìm ra cho được tung tích hai anh”.
Y kế ấy, họ cùng hai mươi tráng sĩ đã lần ra được các anh đi về phương này. Nóng lòng quá, em từ bỏ tất cả, lặn lội ra đi. Gần hai năm, tư trang tiền bạc tiêu pha hết sạch, đành phải làm nghề ăn xin. May thay! Lạy chư thần cao cả! Trời cao đã không phụ lòng người!
Nhật Diện kể xong, lại khóc, lại cười. Nguyệt Diện nắm chặt tay em nói:
- Ôi! Em tôi đã trải qua biết bao nhiêu là cơ cực! Mà sao em không ở lại làm vua? Em làm vua cũng đúng theo sở nguyện của hai anh mà?
Nhật Diện lắc đầu:
- Em không biết. Mà sung sướng gì cái ngôi vua ấy. Thiếu vắng hai anh, em không chịu được, phải đi tìm thôi.
Hiền Trí ân cần nói:
- Việc xảy ra như thế là dấu hiệu tốt. Cơ trời huyền nhiệm lắm, các em chưa rõ đâu. Bây giờ chúng ta nên làm đạo sĩ hết, các em có đồng ý không?
Nhật Diện bằng lòng. Thế rồi họ cùng cắt tóc, khoác áo đạo sĩ, lên đường...
Nơi này không yên tịnh, ba thanh niên đạo sĩ sống một năm thì ra đi. Nơi này không tốt về khí hậu, một năm sau, bà chàng lại ra đi nữa. Chưa đầy năm năm, họ đã đạp qua suốt mấy cánh rừng miền tây nam quốc độ. Hôm kia, tìm được một khu rừng yên tĩnh, mát mẻ, nhiều cây trái, họ định dừng chân vĩnh viễn ở đây để tu tập mà không sợ bị “loài người quấy nhiễu”.
Hiền Trí nói với hai em:
- Đây là nơi tốt nhất cho việc tịnh cư của chúng ta. Vậy hai em hãy đi tìm một ít trái cây và nước uống để chuẩn bị cho nhiều ngày tham thiền nhập định.
Nhật Diện chạy nhảy tung tăng giữa rừng hoa thơm ngào ngạt, chim hót rộn ràng làm cho tâm hồn nhẹ lâng, yên ả. Đến một hồ nước, đẹp quá, hoa súng ngũ sắc khoe nở khắp nơi, Nhật Diện lội xuống định tắm rửa và đùa chơi, nhưng liền bị một con Dạ-Xoa- nước bắt giữ và giam vào thủy cung. Nguyệt Diện vừa hái được một giỏ trái cây, qua hướng này tìm em, lội xuống hồ nước cũng bị Dạ Xoa bắt giữ luôn.
Thấy lâu quá, linh tính về chuyện chẳng lành cho hai em, Hiền Trí rút đao chặt cây cầm tay ra đi. Xuống lưng chừng núi, thấy có chòm cây cối xanh rì, hương lạ xông ngào ngạt, một hồ nước trong xanh như mắt mèo, sen súng đua nhau nở thắm, lóng lánh sương.
Thái tử tự nghĩ:
“- Cảnh đẹp này thật khác thường! Có lẽ đây là cung điện của một loài phi nhơn nào đó”.
Chẳng dám kinh động, Thái tử đứng yên quan sát một hồi, thấy một trái cây rụng mà chẳng hề có ai ở chung quanh, lại thấy thêm một dấu chân lờ mờ đi xuống hồ nước. Thái tử lại đoán chắc rằng: “Hai em ta quả bị nạn ở nơi này”.
Đúng như Thái tử nghĩ. Nguyên đây là chiếc hồ mà Tỳ-Sa-môn Thiên Vương (Vessavana) cho một quỷ nước Dạ Xoa ở với lời dặn: “Trừ những người biết về thiên pháp (Devadhamma), còn tất cả những ai xuống hồ nước này, ngươi có quyền bắt ăn thịt. Những ai không xuống nước thì ngươi không có quyền”.
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 18:51:01 GMT -5
Nguoi Hien Tri ( Tiep Theo)
Dạ Xoa thấy Thái tử cứ đứng yên trên hồ có vẻ thận trọng, bèn hiện hình thành người thợ rừng nói:
- Nầy thiện hữu! Cầm thanh đao chặt cây và đứng làm gì vậy? Hồ trong xanh mát mẻ thế kia! Hãy cùng tôi xuống uống nước, tắm và bơi lội cho thỏa thích, ăn củ sen, củ súng rồi trang điểm bằng những đóa hoa ngũ sắc không thú vị sao?
Thấy người hiện bất ngờ, Thái tử biết đây là loài phi nhân, bèn quắc mắt nói:
- Đừng nên hại nhau, xâm phạm nhau, không tốt đâu. Bạn đã làm hại hai em ta rồi có phải không?
Biết đã lộ tẩy. Dạ Xoa nói:
- Ta chưa hại đâu, mới bắt giữ thôi.
- Tại sao ngươi dám bắt người? Ngươi có quyền gì? Hãy thả hai em ta, bằng không, sẽ không toàn mạng đâu!
- Sao lại không có quyền? Dạ Xoa cứng cỏi đáp – Tỳ-Sa-môn Thiên Vương cho ta cái quyền ấy. Ai xuống hồ nước là quyền sinh sát thuộc về ta.
Nói xong, Dạ Xoa cười đắc chí. Thái tử biết Dạ Xoa nói thật nên hỏi:
- Có ai xuống nước mà thoát khỏi luật ấy không?
Dạ Xoa chỉ cây đại thù vòng ôm mấy trượng nói:
- Có một con đại bàng bay qua đây, ỉa xuống một đám phân, một cái hạt nảy mầm, mọc lên thành cây đại thụ này. Từ bấy đến nay, chẳng có ai biết về thiên pháp. Con người thời nay đã quên hẳn con đường đi về cõi trời, chúng chỉ thích học con đường đi về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà thôi!
Thái tử nghiêm giọng nói:
- Nếu ta biết rõ thiên pháp, biết rõ con đường đi về cõi trời thì sao?
Dạ Xoa nói:
- Đừng đại ngôn, ông bạn! Nếu ông bạn biết rõ thiên pháp thì ta sẽ đối xử như với một bậc Thầy Tối Thượng. Ta sẽ tắm cho nhà ngươi, cho ăn ngon, cho uống bổ, trang sức bằng vòng hoa mỹ lệ, thoa người bằng hương thơm của Cõi Trời, trải một tấm nằm bằng nệm lót chân của vua trời Đế Thích, trong một tòa lâu đài rực rỡ như chiếc kiệu của tỳ nữ Dạ Ma phu nhân!
- Vậy hãy làm như điều ngươi nói. Ta sẽ thuyết về thiên pháp, nói về con đường đến cõi trời.
Dạ Xoa y lời.
Thái tử Hiền Trí từ đài cao, sau khi thuyết giảng thiên pháp rồi, tóm tắt bằng kệ ngôn:
“Chuyên cần làm thiện hạnh
Tàm, quý đủ trong tâm
Bậc Chân Nhân an tịnh
Thiên pháp độ thế nhân”.
Nghe xong, Dạ-Xoa-Nước lấy làm hoan hỷ, kính cẩn quỳ xuống:
- Thưa bậc Hiền trí! Tôi cảm thấy tịnh tín đối với ngài. Hai đứa em của ngài tệ quá. Khi được hỏi về thiên pháp, một người nói, thiên pháp là Mặt trăng, là đức dịu hiền của Mặt Trăng! Một người thì trả lời, thiên pháp là bốn phương, trải rộng ra khắp bốn phương! Ai cũng nói quá mơ hồ, chẳng xác đáng và cụ thể như ngài đã thuyết. Như vậy, nếu tôi mà ăn thịt họ thì cũng đúng với lợi quyền mà Tỳ-Sa-môn Thiên Vương đã cho phép. Bây giờ ngài cần gì nơi tôi, cứ sai bảo!
Thái tử ân cần nói:
- Hãy cho ta xin lại hai người em.
- Ngài chỉ cứu được một. Dạ Xoa đáp.
Biết chẳng có cách gì hơn, Thái tử gật đầu:
- Thế thì trả lại cho ta đứa em út, người trẻ nhất.
Dạ Xoa chợt cười kỳ dị:
- Thưa ngài, không biết tai tôi nghe có lầm lẫn chăng! Ngài thuyết về thiên pháp rất hay, rất đúng, rất hoàn toàn. Nhưng tiếc thay, ngài không sử dụng đúng thiên pháp chút nào!
Thái tử ngạc nhiên:
- Không có chuyện đó đâu, nhưng ngươi cứ thử nói lên điều lầm lỗi của ta.
Dạ Xoa giận dữ:
- Sao ngài lại chọn người em mà bỏ người anh? Sao ngài không kính trọng tuổi lớn hơn của một người? Thiên pháp có bao giờ vì trí thiên vị mà không nhìn ra gốc ngọn? Vì tình thiên vị mà không thấy thứ tự trước sau?
Thái tử bình tĩnh kể lại câu chuyện cho Dạ Xoa nghe sự hy sinh của hai anh em cho người em cuối được lên làm vua như thế nào, rồi mỉm cười kết luận:
- Thế đó, này Dạ Xoa! Đừng vội vàng buộc tội ta quá sớm. Ta biết rõ thiên pháp và bao giờ cũng xử sự đúng thiên pháp. Ta lại còn khuyến hóa người khác sống theo thiên pháp nữa. Này nhé, chính vì người em ấy mà chúng ta sống ở rừng này. Chính vì hạnh phúc của đứa em ấy mà chúng ta cố gắng tránh chuyện nồi da xáo thịt. Bây giờ đứa em ấy lại vì chúng ta, bỏ tiền bạc ra cứu giúp chúng ta, lại còn khẳng khái phất tay từ bỏ ngai vàng sống đời ăn xin cơ khổ. Ngươi phải hiểu thêm một điều nữa rằng, thiên pháp ấy không phải chỉ cạn cợt ở nơi “lễ” mà còn ở nơi “nhân” và “nghĩa” nữa chứ!
Dạ Xoa cảm phục quá, quỳ lạy Thái tử rồi sau đó đem trả cả hai người. Thái tử cảm ơn Dạ Xoa, sau đó tìm cách khuyên lơn:
- Này bạn Dạ Xoa thân mến! Do kết quả việc ác mà bạn đã làm trong quá khứ nên nay mang thân Dạ Xoa, giết người để uống máu, ăn thịt. Do nhân ác từ kiếp này, trong tương lai, bạn phải bị nhiều quả báo đau khổ trong bốn đường dữ. Thiên pháp bạn đã hỏi ta, ta đã trả lời và bạn đã hiểu. Vậy sao bạn không mau mau cải ác tùng thiện để noi gương các bậc an tịnh Chân Nhân đã dạy bảo?
Thế là Thái tử nhiếp phục được Dạ Xoa, rồi sống ở rừng này với sự hộ trì của nó.
Một ngày kia, xem thiên văn, Thái tử biết thời hạn mười hai năm đã qua bèn kêu hai em lại nói:
- Mẫu hậu đã mệnh chung, không bao lâu Phụ vương cũng sẽ hết tuổi thọ. Vậy thì đã đến lúc hai em phải từ bỏ khu rừng để cùng nhau trở về gánh vác sơn hà xã tắc.
Cả hai Hoàng tử ngạc nhiên hỏi:
- Vậy anh yêu quý, anh không cùng về sao?
- Mấy lúc sau này, tâm ta đã quá đi sâu về thiên pháp, đã an trú vững chắc ở thiên pháp, không còn mảy may một móng khởi nào về các ước vọng trần gian kia nữa. Nói khác đi, tâm ta giờ đã tương ưng với các cảnh giới trong lành, an tịnh, không còn thích hợp với chỗ kinh thành vàng son huyên náo nữa. Hai em hãy về đi thôi, cho kịp giờ Phụ vương lâm chung. Quốc độ này không thể thiếu vắng hai em, thiếu vắng hai em thì giống như quả đất mà thiếu mặt trời, mặt trăng vậy.
Hai hoàng đệ khóc nức nở, quỳ sụp bên chân xin Thái tử cùng về.
Thái tử hết mực giãi bày:
- Không phải không nguyên nhân mà hai em có tên là Nguyệt Diện và Nhật Diện. Dường như nhân duyên sắp đặt cả rồi. Anh phải đi theo con đường của các bậc hiền trí nên có tên là Hiền Trí. Hai em là Mặt trăng, Mặt trời nên phải thay phiên nhau ngày đêm soi sáng sơn hà.
Thái tử còn nói lên ẩn nghĩa thâm sâu khác:
- Về quốc độ, Nguyệt Diện là anh nên phải làm vua, Nhật Diện là em nên làm Phó Vương. Thứ tự anh em đã phân chia như thế không thể đảo lộn được. Cũng thế, hai em nên nhớ rằng, luôn luôn cai trị muôn dân bằng tình, bằng lý. Tình trước, lý sau, nghĩa là đầy đủ con tim và khối óc, con tim đi trước, khối óc đi sau, nhu đi trước, cương theo sau. Nếu hai em làm được như thế, quốc độ này sẽ được hòa bình, an lạc trong vòng sáu mươi năm dài.
Khi tiễn hai em ra đến chân núi, thái từ còn dặn dò lần cuối:
- Hai mươi tráng sĩ theo ta đánh chiếm mười thành, dày công hãn mã, thế nhưng không chịu lãnh thưởng mà sống đời mai danh ẩn tích khi ta gặp nạn. Họ đều là người vừa có tâm, vừa có trí. Hai em nhớ mời họ về triều, cho trấn giữ các phương là hai em vững vàng như ngồi trên bàn thạch. Hãy nhớ vừa dùng “vương pháp”, vừa dùng “thiên pháp” là con đường của các vị Chuyển Luân Thánh Vương!
Hai Hoàng tử cúi đầu tuân mạng. Dạ Xoa nai nịt như vì thiên tướng hộ tống hai Hoàng tử về kinh đô Ba-la-nại sau bao năm xa cách.
Thái tử Hiền Trí leo lên đồi cao, nhìn theo hình bóng hai em nhỏ dần rồi khuất dần ở cuối chân trời xa. Chàng mỉm cười...
|
|