|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 21:48:41 GMT -5
Trăng Linh Thứu Tác giả: Diệu Trân Trich : website ChuaVN Thời Phật còn tại thế, hàng năm, các vị Tỳ-kheo đều vân tập về một địa điểm được tăng đoàn đồng thuận trong ba tháng an cư. Đây là thời gian tăng đoàn cùng nhau thúc liễm thân tâm, kiểm điểm và chia xẻ quá trình tu tập và thỉnh ý Đức Thế Tôn, xin soi sáng và chỉ dẫn những gì còn hoài nghi chưa rõ. Lần an cư thứ mười chín, tăng đoàn thỉnh Đức Thế Tôn lên núi Thứu, thuộc thành Vương Xá. Đây là một ngọn núi hùng vĩ, có hình dáng như chim Thứu nên núi mang tên là Thứu-Sơn. Chính nơi ngọn núi này, Đức Thế Tôn đã giảng Kinh Đại Thừa Bát Nhã hai mươi hai lần và những pho kinh quan trọng như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm nên núi còn mang tên là Linh Thứu. Trước lần an cư thứ mười chín, vì thấy Đức Thế Tôn rất ưa lên núi Thứu tọa thiền nên vua Tần-Bà-Xa-La đã cho xây những bậc đá từ chân lên tới đỉnh núi để sự đi lại đỡ vất vả, hiểm nguy. Cũng trên núi Thứu này, nhà vua còn cất một tĩnh thất để khi lên đó, Đức Phật có chỗ nghỉ ngơi. Quanh tĩnh thất của Đức Phật, các đại đệ tử như trưởng lão Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ananda v… v… đều tự tìm những thạch thất riêng để được gần Thế Tôn. Linh Thứu dù hùng vĩ đến đâu nhưng khi đêm xuống, chắc chỉ còn là một mầu đen, nếu đó là những đêm không trăng. Ấy thế mà lạ thay, dường như trăng chưa từng vắng mặt những khi sương núi chợt ấm áp bên những vạt ca-sa. Qua kinh điển và những truyện kể lại, chúng ta thường được dẫn dắt về hình ảnh những đêm trăng mầu nhiệm, lung linh trên ngọn núi có Bậc Giác Ngộ và tăng đoàn của Ngài đang lặng lẽ, an nhiên tọa thiền. Trăng trải ánh bạc trên những nếp y vàng, long lanh ý-từ châu ngọc, tưởng như từng hạt sương, từng ngọn gió cũng thầm lặng vui mừng nghe tiếng kinh ngân. “Trái tim ơi, Không mây, Không núi. Trăng tìm bóng tối Biết tìm nơi đâu!” (*) Ánh trăng tỏa trên Linh Thứu đã mặc nhiên ướp đẫm hương từ-bi nên trăng không còn phân biệt đâu là mây, đâu là núi. Bằng tâm từ bi, trăng không chỉ an nhiên hiển lộ, mà còn đi tìm những nơi tăm tối để tỏa sáng an lạc. Như bước chân Bậc Giác Ngộ không ngừng tìm đến nơi đau khổ, chốn vô minh để mở đường, dẫn lối giải thoát. Với tôi, ba tiếng “Trăng Linh Thứu” mang hình ảnh tuyệt vời cả về Đạo Pháp lẫn thi ca mà tôi chưa đủ sức diễn tả hết. Nhưng tôi có thể nói về Trăng Linh Thứu một cách thân thương và gần gũi hơn qua tình đạo hữu với một người bạn đặc biệt. Thưa, Trăng-Linh-Thứu cũng là tên địa chỉ điện thư của một người bạn trẻ mà thỉnh thoảng tôi liên lạc để trao đổi Phật-sự. Theo tuổi đời, anh còn trẻ lắm, đối với tôi, nên mỗi lần tình cờ gặp trong các đạo tràng khi đi nghe pháp, anh thường chắp tay chào theo cách người con Phật “Chào cô Diệu Trân” và xưng “con” với tôi, rất tự nhiên và thân ái. Anh có làn hơi thiên phú, rất truyền cảm, trầm ấm mà cũng đầy mạnh mẽ, ngọt ngào. Anh cúng dường quà tặng này tới bất cứ nơi nào mời gọi trong các lễ hội, các buổi thuyết pháp hoặc ngay cả những sinh hoạt của Gia đình Phật tử. Chính tôi cũng nhiều lần mời anh ngâm thơ, hát, những bài thiền ca, Phật ca khi tổ chức ra mắt kinh, sách, hay thơ nhạc của quý thầy. Sự liên hệ trong tình bạn đạo của chúng tôi rất thân ái như thế. Một lần, tôi nhận được một tờ tạp chí Phật Giáo Việt Nam, có bài tường thuật về Lễ Hội Quan Âm lần thứ 5 tại thành phố Houston, Texas. Tôi biết đến Lễ Hội cũng chính nhờ có số báo này. Qua bài tường thuật, Lễ Hội đã được sự chứng minh và tham gia đông đảo của hầu hết Chư Tôn Đức Tăng, Ni khắp nơi, cũng như Phật-tử xa gần khắp 5 châu về tham dự; và giây phút cực kỳ hoành tráng trong Đêm Hoa Đăng là phút ngọn lửa thiêng giữa hồ Hương Thủy được thắp bùng lên. Đó cũng là lúc giọng ca của một nam Phật tử cất lên với bài “Lửa Từ Bi”, đầy hùng lực, vang động giữa rừng người đang nhiếp tâm tự thắp ngọn lửa trong tim mình. Lần đó là giọng hát của anh bạn trẻ. Giọng hát của Phật tử Chiếu Tuệ, thuộc Đoàn Thanh Niên Sinh Viên Thích Thiên Ân. Lễ Hội Quan Âm lần thứ 5 đó, là những ngày cuối tháng ba năm 2006. Giữa tháng tư sau đó, chúng tôi tổ chức buổi “Thơ Nhạc Tuệ Sỹ” tại khuôn viên chùa Bảo Quang, Chiếu Tuệ đã đến, theo lời mời, đã ngâm những bài thơ trong thi phẩm “Giấc Mơ Trường Sơn” của thiền-sư Tuệ Sỹ, đã hát những bản nhạc trong Tuệ Ca mà nhạc sỹ Trần Quan Long đã phổ từ thơ của vị thiền-sư vóc hạc, mà tinh thần vô úy đã từng vượt không gian, thời gian qua bản án tử hình. Sau buổi trình diễn đó, tôi ít gặp Chiếu Tuệ. Gần như là không gặp cho đến cả năm sau. Tôi có chút duyên với ni-sư Như Ngọc nên thỉnh thoảng có dịp đi ngang con đường Thiên Nga (Swan) thì lại ghé vào vấn an ni-sư. Lần đó, cũng như mọi lần, sau khi thăm hỏi, thưa chuyện với ni-sư, tôi chắp tay xá, tính ra về thì từ hành lang sau chánh điện, tôi thoáng thấy bóng dáng một vị tăng đi ra. Bằng phản ứng tự nhiên, tôi cúi đầu, chắp tay. Và tôi nghe tiếng cười nhẹ của ni-sư Như Ngọc: -Diệu Trân không nhận ra vị tăng trẻ này là ai ư? Tôi chậm chạp ngẩng lên. Mắt tôi chạm vào ánh mắt thân ái, quen thuộc. Toàn thân tôi rung động. Đôi giòng lệ ứa ra, lăn trên má. Tôi nghẹn ngào. Và không biết sao lại nghẹn ngào đến thế. Bằng tất cả sự cố gắng, tôi vẫn không thể phát âm trôi chảy được hai tiếng: -Thưa … thầy … Vị tăng trẻ chắp hai tay, bình tĩnh và điềm đạm trấn an cơn xúc động của tôi bằng giọng nói đầm ấm: -Cô Diệu Trân khỏe chứ? Tôi đã lấy lại hồn, nhưng nghe giọng mình vẫn ướt sũng: -Dạ … thưa … thầy, con vẫn thường. Thưa thầy, thầy … xuất gia từ bao giờ vậy? Đứng trước người khoác áo ca-sa, tôi đã tự động xưng hô như thế. Vị tăng trẻ mỉm cười: -Gần một năm rồi, cô Diệu Trân ạ. Có lẽ là sau lần đến ngâm thơ của thầy Tuệ Sỹ đó. Lúc này thì tôi mới bật khóc thành tiếng: -Trời ơi! Thật là phước đức! Thật là phước đức quá! Con xin mừng cho thầy. Tôi mừng mà cứ khóc. Khóc vì mừng, vì đang nhìn tận mắt, hạnh phúc vô biên của người bạn cũ. Bạn tôi, Phật-tử Chiếu Tuệ nay đã là vị tăng sỹ, pháp danh Thích Tánh Tuệ. Thầy Tánh Tuệ đang tu học ở một tu viện trên núi, nay xuống phố vì chút Phật-sự và thầy ghé thăm ni-sư. Hôm đó, trên đường lái xe từ chùa A Di Đà về nhà, tôi nghe được trong không gian, bàng bạc giọng ca, giọng ngâm của Chiếu Tuệ như quyện vào chuông mõ, âm thanh của “ Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng: ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng” (+) Cuối tháng ba năm nay, 2007, tôi một mình lên đường sang Houston dự Lễ Hội Quan Âm lần thứ sáu. Cũng lạ. Năm lần tổ chức trước tôi đều không biết. Tâm thế gian thờ ơ đến thế! Lễ Hội cực kỳ hoành tráng này đã được nhiều nơi tường thuật chi tiết, tôi có nói thêm cũng chỉ là nhắc lại. Nơi đây, tôi chỉ muốn nói về giây phút ngọn lửa thiêng giữa hồ Hương Thủy bùng lên trong Đêm Hội Hoa Đăng. Chi tiết này tôi đã được đọc trong bài tường thuật về Lễ Hội năm trước, nhưng sự tưởng tượng quả là khác xa, khi thực sự thân và tâm được hiện hiện nơi đó, hít thở không khí đó, mới cảm nhận được sự mầu nhiệm bất khả tư nghì qua năng lượng kỳ diệu của Đạo Pháp. Lòng thành khẩn bao nhiêu sẽ giao cảm được bấy nhiêu. Tôi biết chắc như thế khi giọng hát của nam ca-sỹ Gia-Huy cất lên bài Lửa Từ Bi. Nước mắt tôi ràn rụa khi nhìn Gia Huy đứng trên cầu Hương Thủy, cả thân, tâm, ý gửi vào tiếng hát xưng tán ngọn lửa thiêng đã thắp sáng để sưởi ấm và xóa nhòa khổ đau. Nhìn Gia Huy mà tôi thấy Chiếu Tuệ. Nơi này, năm trước, Chiếu Tuệ đã đứng đây, trước Tôn Tượng Mẹ Hiền Quan Thế Âm, trước bao Chư Tôn Đức Tăng Ni, trước hàng ngàn Phật tử, hàng muôn tấm lòng, Chiếu Tuệ đã cất cao lời hát cúng dường Tam Bảo. Chiếu Tuệ cảm nhận được gì trong phút giây ấy mà khi trở về, ánh lửa Đêm Hoa Đăng đã soi tỏ đường đi. Bạn tôi đã tự tin, hoan hỷ, dũng mãnh xuất gia, tìm về được căn-nhà-Phật-của-chính-mình: “…Về nơi đây, con nghe lòng ấm lại Quên thời gian hiu quạnh sống bên đời Ngày xa đó, ơi một lần trót dại Buông bàn tay, lạc Mẹ giữa trùng khơi Rồi sóng gió, nhịp sống đời xô cuốn Cuốn xô con qua ghềnh thác mịt mù Bao chìm nổi khúc sông dài sinh tử Tả tơi rồi, chiếc áo thuở Chân Như Nay về đây, cùng Mẹ ngồi khâu vá Áo xưa lành, hồn cũng đặng bình yên Bụi đời có vương tháng ngày xuân, hạ Xin cành dương nước tịnh xóa ưu phiền …” (-) Thưa thầy Tánh Tuệ, Căn cơ mỗi chúng sanh, tùy duyên, nghiệp mà thấy tánh sớm, muộn, ít hay nhiều. Được dự Lễ Hội Quan Âm năm nay, con cảm nhận sâu sắc phước duyên năm trước đã đến với thầy, mạnh mẽ và mầu nhiệm nhường nào! Tất nhiên, điều người khác cảm nhận chỉ là phần nhỏ, qua cảm quan và sự kiện. Không ai có thể biết rõ hơn chính thầy về giây phút “Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn”. Cũng như nữ điêu khắc gia Mai-Chi, người tạc Đại Tôn Tượng Đức Quan Âm đã xuất gia ngay sau khi những nét chấm phá cuối cùng trên Tôn Tượng vừa hoàn tất. Chỉ riêng cô Mai-Chi hiểu rõ sức mạnh của tiếng gọi vô hình, kỳ diệu thế nào đối với cô, mới khiến cô hân hoan xuống tóc, đắp y, trở thành sư-cô Viên Thuận ngay sau lễ khánh thành Tôn Tượng Quan Âm năm 2001. Mới hay, Trăng Linh Thứu tỏa xuống bình đẳng trên mọi mặt ao hồ. Nơi nào trong, sẽ nhận ngay ánh trăng vằng vặc, nơi nào đục, tưởng là đêm tối không trăng! Nhưng trăng, ánh sáng của Đạo Pháp có bao giờ thiếu vắng, nên vầng trăng ấy vẫn không ngừng đi tìm bóng tối để soi sáng vô minh. Hạnh phúc thay, những ai đủ phước duyên chạm được làn ánh sáng nhiệm mầu của vầng Trăng Linh Thứu. (+) Kinh A Di Đà (*) Nguyên tác từ thi kệ của thiền-sư Ikkyu. (-) Thơ Chiếu Tuệ
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 21:54:41 GMT -5
Tu viện Nalanda
Tác giả: Minh Châu, Thiện Châu, Huyền Vi, Pasadika Indra phân cách Nalandà Cảnh trí xem ra thật mặt mà Chùa thấp lấp vùi trong đất đỏ Giảng đường vươn dậy giữa muôn hoa Nghìn năm lịch sử còn ghi dấu Xán lạn ngày mai đến chẳng xa Gương biếc Huyền Trang in bóng cũ, Ðậm đà vui đón khách phương xa.(T.C) Nếu Lâm-tỳ-ni là Thánh địa, bởi đức Phật giáng sanh ở đó thì Nalanda là đất thiêng đã chứng kiến sự xuất hiện của hai vị đệ tử của Ngài là Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-Kiền-Liên. Ðức Phật đã tán thán hai ngài: "Nay các Tỳ-kheo trong hàng đệ tử của Như Lai, người có đại trí tuệ là Xá-lợi-phát và người có đại thần thông là Mục-Kiền-Liên". Nếu Bồ-đề Ðạo tràng là nơi đức Phật viên thành Chánh pháp thì Nalanda là đất thiêng đã truyền chiếu ánh sáng ấy đến với vô số người, ở khắp nơi trên thế giới. Nếu Lộc Uyển là thánh địa, bởi ở đó đức Phật đã Chuyển pháp luân lần đầu tiên thì Nalanda là đất thiêng đã hoằng truyền chánh pháp, trong một thời gian dài hơn ngàn năm. Nếu Câu-Thi-Na là Thánh địa, bởi ở đó đức Phật đã nhập Niết-bàn thì Nalanda là đất thiêng đã chứng kiến sự viên tịch của Tôn giả Xá-lợi-phất. Hơn nữa, Ðức Phật chưa bao giờ trở lại nhiều lần để thăm Lâm-tỳ-ni, Bồ-đề Ðạo tràng, Lộc-uyển và Câu-thi-na, sau khi Ngài giáng sanh, đắc đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn, nhưng Ngài viếng thăm Nalanda rất nhiều lần. 1. Lịch sử Nalandà Nalanda được nói đến nhiều trong văn chương Phật giáo và văn chương Jain. Ngài Xá-lợi-phất sanh gần Nalanda. Ðức Phật cũng thường ghé thăm chỗ này khi Ngài đến thăm thành Vương-xá. Niganthanah-taputta, vị sáng lập ra đạo Jain cũng sanh gần Nalanda. Vua xứ Ma Kiệt Ðà có lập một ngự uyển không xa Nalanda mấy. Nhưng chỉ từ khi Nalanda trở thành một Ðại học viện Phật giáo, thánh địa này mới thực sự được nổi tiếng khắp thế giới, vì những vị giáo sư của Nalanda được xem là giỏi nhất xứ Ấn Ðộ. Vua A Dục là người sáng lập ra Nalanda nhưng không phải Ðại học viện Nalanda, mà chỉ là chùa Nalanda. Ở đây vua này cũng thiết lập một tịnh xá và cúng dường phẩm vật tại ngôi tháp Xá-lợi-phất. Chúng ta không thể biết rõ Ðại học viện Nalanda lập từ thời nào; có lẽ bắt đầu thế kỷ thứ nhất, trước tây lịch, vì ngài Nagarjuna (Long Thọ) sanh vào thế kỷ thứ hai, được xem là tòng học tại đó và sau trở thành Viện trưởng. Ðiểm này được ghi trong lịch sử của Taranatha. Theo thời gian, Ðại học viện Nalanda trở thành to lớn, và có lần sinh viên theo học đến số 10 ngàn người. Sinh viên đều được miễn phí, vì các phí tổn đều do các nhà vua chu cấp hoặc các đàn việt1 đài thọ. Sinh viên chỉ chuyên lo tu học. Trong những vua thuộc thời đại Gupta ủng hộ Ðại học viện, có vua Kakradutya. Theo Ngài Huyền Trang chính vua này đã dâng cúng tinh xá cho chư Tăng. Nhưng vua nối nghiệp như Buddhagupta, Tathagatagupta, Bàlàgitya, Kunnàragupta và Vajra đều theo Ngài và cúng dường rất nhiều tinh xá. Ngài Pháp Hiển đến thăm Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ năm, không nói đến Nalanda; có lẽ Nalanda chỉ nổi tiếng vào những thế kỷ sau, và khi Ngài đến viếng, chỉ là một Học viện nhỏ như các Học viện Phật giáo khác. Trái lại, khi ngài Huyền Trang đến Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ bảy, Nalanda đã thành một trung tâm học vấn. Ngài học ở đây độ 13 năm. Ngài nghiên cứu các hệ thống triết học Phật giáo dưới sự chỉ dạy của Viện trưởng Silabhadra (Giới Hiền). Vị này được xem là vị học giả Phật giáo nổi tiếng nhất ở Ấn Ðộ. Thời bấy giờ ngài Huyền Trang cũng học Hetuvidya (Nhơn minh), Sabdavidya (văn phạm), Cikitsavidya (y học), Vệ-đà của Bà-la-môn giáo. Dưới đây là đoạn văn tả Nalanda của Ngài: --"Số Tăng sĩ đông đến vài ngàn đều là những bậc tài năng xuất chúng. Những bậc này phần nhiều là những vị kỳ tài, danh tiếng vang đến cả những nước ở ngoài. Ðức hạnh của những vị này hoàn toàn thanh tịnh, không thể chê trách gì. Họ theo giới luật một cách chơn thành. Qui luật của tu viện rất nghiêm khắc và tất cả Tăng sĩ đều bắt buộc phải tuân theo. Cả nước Ấn Ðộ đều kính phục và tuân theo những lời chỉ dạy của những vị này. Cả ngày họ không có đủ thì giờ để hỏi và trả lời những câu hỏi có ý nghĩa sâu xa. Từ sáng cho đến tối, các vị này đều luôn luôn biện luận. Già và trẻ đều giúp đỡ lẫn nhau. Những ai không thể biện luận về kinh điển đều không được kính trọng và phải lẩn tránh vì xấu hổ. Những nhà học giả từ các thành thị khác, muốn mau có danh tiếng trong các cuộc biện luận đều đến Nalanda rất đông, để được giải đáp những điểm mình còn nghi ngờ, và vì vậy danh tiếng của những vị ở Nalanda được lan truyền rất rộng. Cũng vì vậy mà có nhiều người muốn có danh của Nalanda để được người ta kính trọng. Các người ở các giới khác muốn dự các cuộc biện luận phải bị người giữ cửa hỏi vài câu khúc mắc, nhiều người không trả lời được phải trở về. Phải học giỏi cả tân và cựu kinh điển mới được thâu nhận. Những sinh viên lạ mặt phải tỏ sự biệt tài của mình trong những cuộc biện luận gắt gao, và số người bị hỏng so với những vị trúng tuyển độ 7, 8 phần 10." Những bia ký cũng chứng tỏ sự vĩ đại của Nalanda và công nghiệp của các vị vua duy trì và cung cấp vật dụng phí tổn cho Ðại học đường ấy. Bia ký khắc trên lá đồng của Devapala (810 - 850) ghi rõ chỗ cả năm làng ở quận Ragjir, dùng để cung cấp các vật dụng ăn uống cho các vị Tăng sĩ, và chép các kinh điển tại Viện do vua Sumatra lập lên. Chúng ta còn thấy Nalanda cũng được những vua ngoài Ấn Ðộ ủng hộ. Trong những vị vua ủng hộ Ðại học viện Phật giáo có vua Harsha ở Kanouj về thời đại Gupta. Vua này rất sùng bái Phật giáo. Chính trong đời vua này, ngài Huyền Trang đến thăm Ấn Ðộ. Theo ngài Huyền Trang thì vua Harsha có lập một ngôi chùa bằng đồng và chuyển số thuế của một trăm làng để Ðại học viện tiêu phí, và hai trăm gia đình trong những làng ấy cúng dường các thức ăn uống như gạo, sữa và bơ. Một vị Bà-la-môn, Suvishnu đồng thời với ngài Long Thọ, có lập ít nhất là 108 ngôi tinh xá cho cả hai phái Ðại thừa và Tiểu thừa. Những giáo sư danh tiếng ở Nalandà Nalanda sản xuất một số triết gia, văn phạm gia, luận lý gia và những lãnh tụ tôn giáo. Sách vở những vị này viết đến nay vẫn còn truyền tụng. Triết học Ðại thừa được nảy nở hoàn toàn tại đây, và nhờ Nalanda mà Ðại thừa Phật giáo được truyền bá khắp nơi. Hiện tại chúng ta chỉ biết được một ít tên những vị Viện trưởng có danh tiếng, nhưng chỉ những tên ấy cũng nói lên được giá trị của Nalanda và chứng tỏ rằng Nalanda thật xứng đáng là một Ðại học viện có tiếng nhất thời ấy: -- Nagarjuna (Long Thọ), vị giải thích giáo lý Ðại thừa trước tiên và cũng là vị Viện trưởng thứ nhất; Arya Deva vị giải thích Madhyamika (Trung luận tôn), ngài Asanga (Vô Trước) về Yogacara (Quán hạnh tôn) và người em của ngài, ngài Vasubandhu (Thế Thân) lại còn danh tiếng hơn anh của mình, đều là những vị Viện trưởng kế tiếp. Rồi đến ngài Dinnaga (Trần Na), vị sáng lập Nhơn minh tôn. Vị này cũng là người Darvidjan như ngài Long Thọ. Ngài thắng một vị Bà-la-môn có danh tiếng và được tặng chức Tarkapungava. Rồi đến ngài Dharmapala. Tiếp đến là ngài Silabhadra (Giới Hiền), chính trong thời Ngài làm Viện trưởng, ngài Huyền Trang đến viếng và học tại Nalanda. Ngài Huyền Trang trong ký sự có tán thán rất nhiều đức hạnh của ngài Silabhadra, vừa là một vị đại học giả, vừa là một bậc thạc đức. Rồi đến ngài Dharmakirti, có lẽ là vị luận sư có tiếng nhất ở Ấn Ðộ, không riêng gì về kinh luận (Abhidhamma) mà gồm cả luận lý học. Ngài biện thắng ông Kumarala, một triết gia và nhà hùng biện nổi tiếng thời ấy. Rồi đến ngài Shantaraknutsa. Ngài này được mời qua Tây Tạng để dịch các kinh điển Phật giáo sang chữ Tây Tạng. Sau khi dịch xong, Ngài thệ thế tại chỗ vào năm 762 sau kỷ nguyên. Một vị nữa tên là Padmasambhava cũng qua Tây Tạng sáng lập Lạt-ma tôn, vẫn còn thịnh hành cho đến bây giờ. Khách viếng Nalandà Khách đến viếng Nalanda rất đông, nhất là người Trung Hoa. Chúng ta đã được biết ngài Pháp Hiển đến viếng vào thế kỷ thứ năm và ngài Huyền Trang và thế kỷ thứ bảy. Sau ngài Huyền Trang, có 11 người Triều Tiên và Trung Hoa tiếp tục đến thăm và học tại Nalanda trong một thời gian. Một vị nữa rất quan trọng, ngài Y-tsing (Nghĩa Tịnh) đến Nalanda năm 673 và ở tại Nalanda trong một thời gian khá lâu. Ngài tả Nalanda tỉ mỉ và đầy đủ hơn ngài Huyền Trang. Ngài nói các vị Tỳ-kheo đều sống một đời thật lý tưởng, làm mẫu mực cho toàn thể Phật tử. Những vấn đề dạy dỗ và nghiên cứu tại Nalanda không những chỉ là Phật giáo mà cả các hệ thống triết học, văn học, đạo học.... do đó học giả khắp các nước đều nô nức đến học tập và nghiên cứu. Nalandà bị phá hủy Vào khoảng thế kỷ thứ tám Nalanda bắt đầu bị điêu tàn, một phần vì tình hình chính trị trong nước thay đổi, một phần vì Ấn Ðộ giáo đã bắt đầu có những triết gia có tiếng như ngài Sankaracharya. Vị này đã viết nhiều sách Sanskrit công kích Phật giáo. Cuối cùng là giặc Hồi giáo tiến vào chiếm cứ. Giặc này không kính trọng một tôn giáo nào khác ngoài Hồi giáo. Không những đuổi hoặc giết các Tăng sĩ Phật giáo, chúng còn phá hủy các chùa, tháp, tinh xá, đập nát các tượng Phật, Bồ-tát bằng đá và thiêu đốt kinh sách nữa. Chúng tôi được nghe ít nhất là 3 ngàn vị sư bị tàn phá. Những vị sống sót trốn chạy, phần nhiều qua Tây Tạng. Vị vua Hồi giáo chiếm Ma Kiệt Ðà và phá hủy Phật giáo tên là Bahktiyar Khilji. Ngài Huyền Trang nói về Nalandà Trong tập ký sự của ngài Huyền Trang có chép: "Ði về phía Bắc độ 30 dặm, đến tu viện Nalanda. Tục truyền phía Nam của tu viện này, ở giữa rừng Am-ra, có một cái hồ nhỏ. Vị thần rắn của hồ ấy tên là Nalanda. Tu viện được lập trên hồ ấy nên đặt tên là Nalanda. Nhưng sự thật thời đức Phật, trong một tiền thân của Ngài, đã sống theo hạnh Bồ-tát và thành vua một nước lớn, lập kinh đô tại Nalanda. Vì lòng thương xót của Ngài hoan hỷ cứu độ chúng sanh thoát khỏi đau khổ, nên để kỷ niệm thành ấy Ngài được gọi là "Bố thí không dừng nghỉ" và tu viện ấy được gọi là Nalanda. Chỗ đó trước là một vườn xoài; 500 thương khách mua với giá là 10 kotis bằng tiền vàng và cúng vườn ấy lên đức Phật. Ðức Phật thuyết pháp trong ba tháng và các vị thượng khách cùng các người khác chứng quả A La Hán. Sau thời đức Phật nhập Niết-bàn chẳng bao lâu, một vị vua của xứ ấy, vua Sakraditya, kính trọng giáo lý nhất thừa, và qui ngưỡng Tam bảo, đã lựa một chỗ tốt đẹp, và lập nên một tu viện. Trong khi khởi công đào đất, vị vua này đã làm bị thương một thần rắn. Một vị tiên tri có tiếng, thuộc phái ngoại đạo Nigranthas (Ni Kiền Ðà), khi thấy sự tình có để lại lời tiên tri như sau: "Ðây là một địa thế tối thượng, nếu lập một tu viện trên chỗ này nhất định sẽ trở thành một tu viện danh tiếng: tu viện ấy sẽ làm gương mẫu khắp nơi. Trải 1.000 năm, tu viện ấy vẫn còn thịnh đạt, sinh viên tất cả các cấp bậc đều thành tài một cách dễ dàng. Nhưng nhiều vị sẽ bị đổ máu vì vết thương của vị thần rắn này". (Lời tiên tri này được sự thật chứng nhận). Con của vị vua trên, vua Buddhaguptaraja lên kế vị và tiếp tục công việc tốt đẹp của vua cha. Phía Nam của tu viện, vị vua ấy lập thêm một tu viện khác. Vua Tathagatagupta, cũng hăng hái theo công nghiệp của tổ tiên và lập thêm một tu viện nữa về phía đông. Vua Baladiya nối ngôi Hoàng đế và lập thêm một tu viện nữa về phía Ðông Bắc. Con vua này tên là Vajra lên kế vị và lòng tin Phật rất vững chắc. Vị này cũng xây thêm một tu viện nữa về phía Tây. Theo đó có một vị vua Trung Ấn Ðộ kiến thiết thêm một tu viện khác ở phía Bắc. Vị này lại cho xây một thành cao có một cửa vào bao bọc các tu viện. Các vua kế vị tiếp tục dựng tháp tạc tượng làm cho cảnh trí Ðại học viện trở thành kỳ diệu tuyệt luân. Nhà vua nói: "Tại phòng của vua lập tu viện đầu tiên, tôi sẽ tôn trí một tượng Phật và tôi sẽ cúng dường hằng ngày cho 40 vị Tăng sĩ để tỏ lòng biết ơn người sáng lập tu viện này....". 2. Các tháp Ngọn tháp số 3 là ngọn cao lớn nhất. Một tầng cấp rộng đưa lên đến tận đỉnh tháp. Tại đây có thể thấy toàn cõi Nalanda. Các tượng xung quanh tháp rất sai khác nhau, chứng tỏ được tạc hoặc khắc vào nhiều thời đại khác nhau. Trong số các tượng đá thuộc thời đại Gupta, có nhiều tượng rất đẹp. Ngọn tháp chính giữa, chung quanh có nhiều tháp nhỏ. Những tháp nhỏ này, có lẽ đựng xác trà-tỳ của những sư ở Phật học viện qua đời, không to lớn những những tháp trong các chùa Việt Nam. Trong một mái nhà phía Ðông Bắc tháp chính có tượng vị Bồ-tát Avalokitesvara (đức Quan Thế Âm) rất đẹp. Một bức tượng về phía Ðông Nam được xem là tượng của ngài Nagarjuna (Long Thọ), vị Viện trưởng đầu tiên của Ðại học đường Nalanda. Phía Bắc tháp số 3 là tháp số 12. Ðây cũng có hai lớp thuộc hai thời đại. Tháp này có điểm đặc biệt là trên đường tháp đều có những khám chờ, những trụ vuông tạc nhiều tượng rất đẹp. Nơi các khám có tượng Phật hoặc tượng Bồ-tát, nhưng chỉ một ít tượng còn lại. Về phía Bắc và phía Nam của tháp có điện thờ bằng gạch. Mỗi điện có một tượng Phật lớn, tay bắt ấn Bhumisparsa Mudra. Lại có những ngọn tháp dài 170 feet và rộng 165 feet. Tháp số 14 còn lại một chân tượng rất lớn và những mảnh nhỏ của những bức bích họa. Ðiểm đặc biệt này ít được thấy về phía Bắc Ấn Ðộ. Chắc chắn chân tượng ấy là của một tượng Phật rất lớn. Tháp số 2 không cùng một hệ thống với các ngôi tháp khác. Tháp này có 211 bức chạm trình bày như sau: hai bên cửa chính, mỗi bên có 20 bức và 3 mặt tường mỗi mặt có 57 bức. Có lẽ các bức chạm này được chạm vào thế kỷ thứ 6 hoặc thứ 7. 3. Các tinh xá Tinh xá số 1 quan trọng nhất, rất rộng và có đến 7 tầng. Cửa vào về phía thành phương Bắc. Theo tài liệu của cái bia đào được ở tại các tinh xá này, tầng thứ nhất có lẽ do vua Sumatra dựng lên, vào đời vua Devàpala, vua thứ 3 của triều đại Pala (770 - 810 T.L). Ðó là một ngôi nhà hai tầng, vì có nhiều Tăng phòng được đào lên và dưới những Tăng phòng này có những nền đá cũ bị chôn lấp. Nên phòng trên cách nền phòng dưới đến 18 feet. Có hai ngôi tượng ở hai tinh xá trên và dưới. Ðiện Phật của tinh xá dưới về phía đông. Có lẽ phải có một tượng Phật rất lớn tại chỗ ấy. Ðiểm đặc biệt của ngôi tinh xá là có bệ đá, cả hai phía ngôi điện Phật, có lẽ để các vị Giáo sư đứng diễn giảng, trong khi các học sinh ngồi trên sàn dưới sân. Có một giếng nước về phía Tây Bắc, chung quanh có những phòng nhỏ, chắc chắn là phòng của các vị học giả. Ðiểm đặc biệt là trần cửa những phòng này hình vòng cung. Trong tinh xá này người ta có đào được một tấm đá hột, tạc 8 sự tích đời sống của đức Phật. Tấm đá ấy hiện để ở Viện bảo tàng Nalanda. Tầng cấp rộng và vật dụng nêu rõ nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc lúc bấy giờ đã tiến bộ nhiều. Ngôi tinh xá gồm có, như thường lệ, một số Tăng phòng với những mái hiên rộng đưa về phía trước. Trước kia các Tăng phòng ấy dựng vòng quanh một sân vuông lớn nhưng về sau các Tăng phòng được ngăn cách bởi một bức tường lớn. Xưa kia tinh xá có hai hoặc nhiều tầng lầu như được chứng rõ nhờ một tầng cấp ở gốc Ðông Nam. Tinh xá số 4 có hai điểm đặc biệt, một là có lỗ hở trên tường, tiếp theo tầng cấp, có lẽ xưa dùng làm lỗ ánh sáng cho tam cấp. Một kiến trúc ít được thấy trong các nhà cửa lối cổ. Thứ hai, có tìm thấy một đồng tiền thuộc triều đại vua Kumaragupta (413 - 455) sau kỷ nguyên, một trong những đồng tiền xưa nhất tìm thấy tại Nalanda. Ði ngang qua tinh xá số 5, chúng ta đến tinh xá số 6. Tinh xá này có hai sân bằng gạch. Ðây cũng là nhà hai tầng vì thấy có tầng cấp. Giữa sân thượng có hai dãy lò lửa, có người cho là để nấu ăn, nhưng chắc là để nhuộm y của chư Tăng, vì tại tinh xá không được phép nấu ăn. Trong tinh xá này cũng có một cái giếng và ba bệ thờ, hai ở tầng dưới và một ở tầng trên. Phía Ðông Bắc tinh xá số 7, có khắc chạm sự tích về tiền thân đức Phật cùng nhiều tích thông thường khác. Phần nhiều các tinh xá đều có một lối kiến trúc như nhau. Tại đây ba tinh xá chồng chất lên nhau và chỗ này được đào lên một cách khiến chúng ta thấy rõ ba giai đoạn kiến thiết. Chúng ta thấy sân gạch nói riêng và Tăng phòng nói chung thuộc ba thời đại. Một sân vuông ở giữa, chung quanh là hai hay ba dãy phòng. Một mái hiên có cột bằng đá hay bằng gạch chống đỡ, chạy dài theo những buồng ở. Dãy phía tây hướng về cửa vào thường là điện Phật thờ đức Phật hay một vị Bồ tát. Thỉnh thoảng có một giếng nước trong sân, như ở tinh xá số 1. Tường đều trét thạch cao và sân lát gạch hoặc đá. Ðiều đặc biệt là tường rất dày, hơn một sãi tay vì mùa hạ ở Nalanda rất nóng. Chỉ trừ tinh xá số 1A và 1B, các tinh xá đều hướng về phía Tây, còn tượng Phật thì hướng về phía Ðông, cách ngang các tinh xá bởi những hành lang dài. 4. Chung quanh Nalandà Phạm vi của Nalanda ngày xưa không phải chỉ nằm trong khu vực hiện đang được rào dậu mà rất rộng. Ðứng trên tầng cao của ngôi tháp chính đưa mắt chung quanh, qua những cổ tháp, những hồ sen rộng, những đồi đất, chúng ta có thể ước độ phạm vi của Ðại học đường, gồm có 150 giáo sư và cả 10.000 sinh viên không kể những người giúp việc, rộng lớn đến 1.000 mẫu tây. Theo dòng thời gian, sự vật biến đổi, làm cho chúng ta khó mà biết được những gì đã có chung quanh Nalanda. Tốt hơn là hãy nương theo sự diễn tả của ngài Huyền Trang để tìm lại một vài dấu vết của thời xưa: --"Chung quanh tu viện có đến hàng trăm tháp nhỏ tôn thờ Xá lợi nhưng chỉ xin kể một vài thôi. Về phía Tây tu viện, không xa lắm có một ngôi chùa. Tại đây đức Như Lai, xưa kia đã dừng lại trong ba tháng để diễn giảng Chính pháp, độ các vị thiên thần. Về phía Nam độ 100 bước, có một ngọn tháp nhỏ. Ðây là nơi một vị Tỳ-kheo từ xa trông thấy đức Phật. Về phía Nam, có tượng đứng của đức Quán-tự-tại Bồ-tát. Có khi người ta thấy Ngài cầm bình dương chi đi đến ngôi chùa của đức Phật và rẽ về phía tay trái. Phía Nam của bức tượng ấy có một ngọn tháp tôn trí tóc và móng tay của đức Phật trong ba tháng. Những ai bị bệnh về sinh nở đến đây và đi vòng quanh tháp, phần lớn đều được lành bệnh. Phía Tây chỗ này có một ngọn tháp gần bên một hồ nước. Chính tại đây, một ngoại đạo cầm một con chim sẻ, hỏi đức Phật về vấn đề sống chết. Về phía Ðông Nam độ 50 thước, phía trong bức thành, có một cây rất kỳ lạ, độ 8, 9 feet cao, và thân cây, rẽ làm hai. Khi đức Phật còn tại thế Ngài quăng tăm xỉa răng của Ngài tại đây và tăm ấy mọc thành cây. Hiện nay ở Ấn Ðộ phần nhiều người ta vẫn còn xỉa và đánh răng bằng một loại cây tươi. Trải qua nhiều năm tháng, cây ấy không lớn lên cũng không khô chết. Gần về phía Ðông có một ngôi chùa, độ 20 feet cao. Tại chỗ này đức Như Lai đã ở trong bốn tháng, giảng giải chính pháp vi diệu. Từ đây đi về phía Bắc độ 100 bước có một ngôi chùa thờ một tượng đức Quan Thế Âm Bồ-tát. Những đệ tử chí thành, khi cúng dường lễ Phật không thấy đức Quan Thế Âm ở một chỗ nhất định. Khi thì thấy Ngài ở gần cửa, khi thấy Ngài ra trước mái hiên. Phật tử tại gia hay xuất gia khắp nơi đến rất đông để đảnh lễ và cúng dường. Phía Bắc tu viện này lại có một ngôi chùa khác, độ 300 thước cao, do Vua Baladitya dựng lên. Về sự lộng lẫy, kích thước và tượng Phật trong ấy, ngôi chùa giống như ngọn tháp dưới cây Bồ-đề. Về phía Ðông Bắc của ngôi chùa này là một ngọn tháp. Tại chỗ này đức Như Lai thời xưa, đã diễn giảng diệu pháp trong 7 ngày. Về Tây Bắc có một chỗ, bốn vị quá khứ Phật đều ngồi tại đây. Phía Nam chỗ này có một ngôi chùa bằng đồng do vua Siladatya lập nên nhưng chưa hoàn thành. Nếu làm xong thì ngôi chùa này sẽ cao đến 100 feet. Gần đó về phía Ðông độ 200 thước, ở ngoài dãy tường là một tượng Phật bằng đồng đứng thẳng do chính vua Purnavarma tạo, cao độ 80 feet; một tòa lầu sáu tầng che phủ bức tượng ấy. Phía Bắc ngôi tượng độ 2, 3 dặm có một ngôi chùa bằng gạch có một bức tượng Bồ-tát Tara. Bức tượng này rất cao và rất siêu thoát. Từ ngôi tinh xá đi về phía Nam 8, 9 dặm, chúng ta đến một làng gọi là Kulika, làng có một ngôi tháp do vua A Dục dựng lên: chính đó là chỗ đản sanh của ngài Mục Kiền Liên. Phía Ðông làng của Mục Kiền Liên độ 4, 5 dặm có một ngôi chùa là nơi vua Bimbisàra (Tần Bà Ta La) đến hội kiến với đức Phật. Phía Ðông Nam chỗ Vua Tần-bà-ta-la gặp đức Phật, cách độ 20 dặm, chúng ta đến một thành phố gọi là Kalapinaka. Trong thành phố này có một ngôi tháp kỷ niệm nơi đản sanh của ngài Xá Lợi Phất, cũng do vua A Dục dựng lên..." Hiện tại công việc đào bới tìm lại những vết tích xưa chưa được hoàn thành. Có nhiều ụ đất cao chưa đào, chắc còn nhiều di tích bị chôn lấp ở dưới những mô đất ấy. Tại những thửa ruộng xung quanh Nalanda, chúng tôi cũng nhận thấy có những lớp gạch dưới những luống cày. Có kẽ dưới những ruộng ấy là những cổ tích, vì lâu đời đất cát bồi lên lấp hẳn những tháp đền ở dưới, rồi sau dân chúng đến cày cấy, trồng trọt lên trên. 5. Viện Bảo Tàng Sau khi đi thăm Nalanda, chúng tôi đến xem Viện Bảo tàng, vì những di tích đào được ở Nalanda đều đem tàng trữ tại chỗ này. Có bốn loại được tàng trữ ở Bảo tàng viện này: các bia ký, tượng, khuôn dấu và đồ gốm. A. Bia ký - Những bia ký này rất quan trọng giúp chúng ta hiểu lịch sử của Nalanda trải qua các thời đại. Những chữ trên bia hoặc được khắc trên lá đồng, hoặc trên các tường đá, hoặc trên các tường hồ giả cẩm thạch. Như bia ký đức vua Devapala đã được nói đến trên bia ký trên đá đồng của Samudra Gupta, Devapala và Dharmapàla tìm được ở Nalanda, hiện đem về bảo tàng ở Calcutta. Có hai bia ký trên đá ở Viện Bảo tàng Nalanda, một của Yasovarmadeva, một của Vipulasrimitra. Bia ký đầu ghi những tặng phẩm của Màlàdà, con một vị Bộ trưởng của Vua Yasovarmadeva, vua xứ Kanduj vào thế kỷ thứ 8. Ngôi tháp đó do vua Bàlàditya lập. Bia ký do Vipulasrimitra làm, như dựng lên ngôi điện thờ Tàrà (Tàrà chúng tôi cho là đức Chuẩn Ðề, không hiểu có đúng không?) với những sân tiếp cận, một hồ cùng tinh xá được tả là "một kỳ quan của thế giới", lộng lẫy hơn các cung điện của Ðế thích. Cũng có nhiều bia ký ghi chép những lời Phật dạy. Có một bia ký trên một tượng Tàrà, tháp số A1-304, chép bằng tiếng Sanskrit như sau: "Om Tàre Tuttàre ture svàhà. Om Padmavati Om Turukulle svàhà. Ye dharmà hetu-prabhavà, hetum tesam Tathàgato hyavadat, Tesam ca yo nirodho, evam vàdimàha-sramanath". B. Tượng - Rất nhiều tượng Phật, tượng các vị Bồ-tát cùng các vị thiên thần khác. Vì Nalanda là trung tâm của Phật giáo Ðại thừa nên ngoài tượng Phật, còn có nhiều tượng các vị Bồ-tát nữa. Phần lớn tượng thuộc thời đại Pàla, nhưng cũng có vài tượng thuộc thời đại Gupta. Các tượng ở đây không được to lắm, nhưng điều đặc biệt là số lớn tượng làm bằng kim khí. Cũng có một vài tượng Ấn Ðộ giáo chứng tỏ Ấn Ðộ giáo đã có lần đến chiếm cứ Nalanda như đã chiếm cứ các chỗ khác. Các tượng Phật bằng đồng đen, có tượng số 1-532 rất đặc biệt đặt trên một hoa sen tròn. Các tượng Bồ-tát cũng rất đặc biệt và đẹp so sánh với các tượng ở chỗ khác. Có tượng Bồ-tát Padmapàni với cành sen cầm ở tay. Có tượng đức Avalokitesvara số 12 cầm chuỗi hột, cành hoa sen và bình dương chi. Ngồi trên một con sư tử là tượng Vajrapàni, số 9-157, không hiểu là tượng đức Ðại Thế Chí hay là ngài Phổ Hiền, thiếu tài liệu nên không thể nhận ra. Lại còn nhiều tượng khác như Manjusri (đức Văn Thù) , Jambhala(?), Tàrà (Chuẩn Ðề), Trailokyvijaya Prajnàpàramità (Bát nhã Ba-la-mật), Màrìchi Sarasvatì, Aparàjità,.... C. Khuôn dấu - Nhiều con dấu và tấm đồng được tìm thấy trong các tinh xá có những khuôn dấu có khắc tượng Phật hoặc một câu trong kinh điển; lại có những khuôn dấu của Nalanda Ðại học viện. Như khuôn dấu "Sri Nalanda Màhà Vihàrìyarya Bhikhsu Sanghasya", dịch là: "Của Giáo hội Ðại đức tại tinh xá ở Nalanda". Hàng chữ khắc này có hình Pháp luân với hai con nai hai bên. Nhiều khuôn dấu chứng tỏ một tinh xá hoặc trú xá đều có dấu riêng. Lại cũng có những khuôn dấu thuộc của Vua Narasinha Gupta và Kumà-Ragupta 2 thời Gupta, Bhàskaravarman ở Assam, Harshavaàrdhama ở Kanauj và nhiều vị vua hoặc thái tử khác. Những khuôn dấu ấy chứng tỏ các nhà vua đều đặc biệt chú trọng và ủng hộ Nalanda, Học viện có tiếng nhất ở Ấn Ðộ. D. Ðồ gốm - Những đồ gốm được tìm thấy ở Nalanda chứng tỏ trình độ văn minh của dân chúng thời ấy đã lên một mức độ khá cao.
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 21:56:23 GMT -5
LÂM TỲ NI (LUMBINI) Web ChuaVietNam TX Rời khỏi Kusinara kính mộ, chúng tôi trở lại ga Gorakhpur để đi thăm Lâm-tỳ-ni, nơi đức Từ phụ đản sanh. Từ Gorakhpur đến Nowgarh phải mất 3 tiếng đồng hồ tàu hỏa. Ðến nơi trời đã nhá nhem tối, chúng tôi phải ngủ tại ga đến sáng mới tiếp tục cuộc hành trình chiêm bái. Nowgarh là một ga nhỏ bé ở miền quê, nên cũng không ồn ào cho lắm, trừ khi có những chuyến tàu ghé qua. Khi chúng tôi đến, cảnh vật ở đây hình như đượm màu tươi thắm. Khí trời mát mẻ trong lành. Lạ thay! Ðến bất cứ Thánh địa nào, lòng chúng tôi cũng ngập tràn niềm rạo rực. Bắt đầu đi ngủ, tôi tự bảo đêm này ngủ sớm một chút để sức khoẻ cho cuộc hành trình tiếp tục vào ngày mai. Nhưng những hình ảnh Lâm-tỳ-ni, do tôi tưởng tượng, cứ liên tiếp hiện ra với muôn màu muôn sắc! Trần trục đến gần 1 giờ tôi mới thiếp ngủ, 4 giờ, thầy Thiện Châu đã thức dậy vặn đèn, kêu chúng tôi để cùng xếp hành lý. Chưa đến giờ, nhưng Thượng tọa Minh Châu đã hối chúng tôi xếp hành lý ra xe. Tất cả như muốn cho mau đến giờ để được viếng thăm và chiêm bái Phật tích quan trọng này, nơi ra đời của đức Từ phụ cao cả. Nơi ngàn năm còn ghi nhớ đối với hàng Phật tử năm châu. 7 giờ sáng, chiếc xe buýt mới khởi hành, đưa chúng tôi từ Nowgarh đến vườn Lâm-Tỳ-ni (Lumbini). Chiếc xe nhẹ nhàng băng qua những cánh đồng xanh tươi bát ngát. Dãy núi Hy-ma-lạp-sơn (Himalaya) với những chóp núi hùng vĩ trắng xóa ẩn sau những khóm mây lam biếc. Những tháp miếu cổ kính tuần tự hiện ra trước mắt chúng tôi. Chiếc xe buýt mang chúng tôi vượt khỏi ranh giới Ấn Ðộ để sang địa phận nước Népal. Quảng đường dài gần 40 cây số, nhưng chúng tôi cảm thấy gần bên cạnh. Cảnh tượng Ðản sanh như chập chờn trước mắt chúng tôi. "Còn thấy vô ưu cây bảo thọ, Nghìn năm giữ mãi vẻ nên thơ...". Những chi tiết về lịch sử Ðản sanh được ghi trong tập Nidànakathà lần lượt hiện ra trong óc chúng tôi: -- "Hơn 2.500 năm trước, tại vườn Lâm Tỳ ni này, một vị đại Giác ngộ đã ra đời. Ngài ra đời để đem lại ánh sáng tuyệt vời cho nhân thế lầm thanh đau khổ. Theo phong tục cổ truyền của Ấn Ðộ (nay một vài nơi vẫn còn, phụ nữ phải trở về quê hương cha mẹ để sanh nở đứa con đầu lòng. Hoàng hậu Màyà cũng y theo cổ lệ để làm gương cho dân gian. Một hôm hoàng hậu tâu vua Tịnh Phạn: "Tâu Hoàng thượng, gần ngày sanh nở, theo tục lệ cổ truyền, con xin phép trở về Devadaha, kinh thành của cha mẹ con...". Vua Tịnh Phạn hoan hỷ chấp nhận và truyền lịnh cho thần dân sửa sang, trang hoàng con đường từ thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu), đến kinh đô của Ajana, nơi thân phụ Hoàng hậu Màyà đang trị vì. Một chiếc kiệu được trang hoàng rất đẹp đẽ. Hoàng hậu đoan chính ngồi trên kiệu hoa. Theo hộ giá, có đến hàng trăm thị vệ và cung phi mỹ nữ. Giữa hai kinh thành của hai quốc vương, có một khu vườn thạnh mậu, có một cây Vô ưu (Asoka) đang nở nhiều cánh hoa tươi đẹp. (Tục truyền hoa naỳ mấy ngàn năm mới nở một lần. Khi hoa nở là điềm có thánh nhân xuất hiện). Dân làng địa phương gọi khu vườn này là Lumbini Nava. Lúc bấy giờ, vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, cây cối xanh tươi. Những đàn ong, những cánh bướm bay liệng chập chờn, từ đóa hoa này đến đóa hoa khác, để hút mật hoa. Chim chóc bốn phương đua nhau trỗi lên những bản nhạc du dương, êm ái, tạo thành một bức họa tuyệt vời cho cánh Lâm-tỳ-ni. Hoàng hậu xuống kiệu, từ từ bước vào khu vườn ngoạn thường cảnh sắc tươi đẹp của buổi bình minh. Một nhành cây vô ưu như rũ xuống để:"Chào đón siêu nhân ứng hiện ra...". Tay phải của Hoàng hậu với hái cánh hoa Vô ưu, ngay lúc ấy, Thái tử đản sanh. Bốn vị Thiên vương cầm những chiếc áo Kiều-thi-ca mềm trĩu, đỡ lấy Thái Tử. Sau đó 9 con rồng phun nước vào bồn vàng để tắm gội Thái tử. Bảy chiếc hoa sen liên tiếp hiện ra đỡ lấy gót chân Ngài. Nhạc ngũ âm của ai vang dậy cả mấy từng không. Hoa Mạn-đà-la không biết từ đâu tung vãi khắp vườn. Ôi! Mầu nhiệm và hoan lạc biết bao! Ðược tin mừng Thái tử đản sanh, cờ xí rợp trời, trống kèn dậy đất. Vua Tịnh Phạn đích thân đi rước Hoàng hậu và Thái tử về hoàng cung. Tất cả quần thần được hội lại để đặt tên cho Thái tử Tất-đạt-đa (Siddhartha), tên của vị Thái tử phi thường tuấn tú có ra từ đấy." Và trong tập Buddhacarita cũng có chép: "Sau khi Thái tử đản sanh, Ngài nhìn về các phương: Ðông, Tây và ngó lên, ngó xuống nhìn khắp bốn phương rồi hướng về phương Bắc đi bảy bước trên những đóa sen kỳ diệu. Mầu nhiệm thay cử chỉ siêu việt này. Ði đến bước thứ bảy, vừa nghiêm nghị, vừa oai hùng, Ngài nói: 'Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn'". Chúng tôi tiến vào khu rừng lịch sử, thắp hương đèn hành lễ, thành tâm nguyện cầu cho tất cả mọi ngưòi thường được hạnh phúc và tìm thấy ánh sáng nhiệm màu mà Thái Tử Tất đạt đa đã mang đên cho thế gian này cách đây 2.500 năm. Cùng đi với chúng tôi có năm vị Ưu-bà-di và một sinh viên Phật tử ở Miến Ðiện. Họ cũng cùng hành lễ với chúng tôi. Ngày xưa cảnh vật tươi đẹp bao nhiêu, thì ngày nay khu vườn lại tàn tạ bấy nhiêu. Mặc dù có cây cối đền tháp, nhưng cảnh trí không được huy hoàng như xưa và nhất là không tốt đẹp như các Thánh tích thuộc chính phủ Ấn mà chúng tôi đã chiêm bái. Chính phủ Népal đang cố gắng sửa sang lại Thánh tích này, nhưng có lẽ vì cách trở đường sát nên công việc chưa mấy kết quả! Chúng tôi hơi buồn cho Thánh tích tiêu sơ này, như nhờ lời dạy về lý Vô thường của đức Phật: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" làm cho chúng tôi giữ được sự an tịnh trong tâm hồn. Chúng tôi đi sâu vào khu vườn để tìm lại di tích. Lần lượt chúng tôi đến viếng những cảnh sau đây: 1. Trụ đá của vua A-Dục Vườn Lâm-tỳ-ni do ông Furere tìm thấy vào năm 1806, sau khi gặp được trụ đá của vua A-Dục tại chỗ này. Thâu thập đủ tài liệu và chứng minh chắc chắn, ông Furere đã công khai tuyên bố: "Chỗ này là vườn Lâm-tỳ-ni, nơi Ðức Phật đản sanh". Rồi được chính phủ Nepal công nhận. Từ đó về sau khu vườn này trở nền mầu nhiệm, được dân chúng Ấn Ðộ và người ngoại quốc đến chiêm bái viếng cảnh rất đông. Vua A Dục dựng trụ đá này, khi Ngài đến viếng thăm và hành lễ tại vườn Lâm-tỳ-ni. Trên trụ đá có khắc hàng chữ: "Ðây là chỗ đức Gautama Ðản sanh". Trụ đá này hiện còn tốt đẹp, tuy có một đường sứt mẻ, có thể do sét hay bị ngoại đạo tàn phá cũng nên. Trên đầu cột trụ đá không có hình gì cả. Trong ký sự cuả ngài Huyền Trang có nói: "Ðầu trụ đá có hình con ngựa rất mỹ thuật và trơn láng". Nhưng hiện nay chưa tìm được di tích hình con ngựa đặc biệt ấy. Trên thân trụ có khắc 5 hàng chữ bằng tiếng Brahmi: Devannapiyena piyadasina lajina-visativasabhisitena. Atana-agacha mahiyite. Hida Budhe-jate sakyamuniti. Silavigadabhicha kalapita silathabhe-cha usapapite. Hida Bhagavam jateti Lumbinigame ubalike kate, Athabhagiye cha. Dịch nghĩa đại khái như sau: "Vua Pryadarsin, được các vị thiên thần kính mến và ủng hộ, tự Ngài thân hành đến đảnh lễ tại chỗ này, sau khi lên ngôi được 20 năm. Chỗ này là nơi Ðức Sakya Muni đản sanh. Ngài truyền lịnh cho các quan trong triều xây một pho tượng rất lớn và đặt một trụ đá dựng tại chỗ này, để đánh dấu một chỗ đức Thế Tôn xuất thế. Từ đó về sau Vua truyền lệnh dân làng Lumbini được miễn đóng thuế nghi lễ và chi trả 1/8 lợi tức mà thôi". Cột trụ đá này chỉ rõ cho chúng ta biết chắc chắn chỗ này là nơi Ðức Từ phụ đản sanh. Trụ đá của vua A-Dục dựng lại Sarnath (Ba-la-nại) thì không ghi rõ là chỗ Phật chuyển Pháp Luân lần đầu tiên, còn lại Buddhagaya (Chỗ Phật thành Ðạo) và Kusinara (chỗ Phật nhập Niết Bàn) không có cột trụ nào hết. 2. Ðền thờ của Rummindel Về phía nam ngôi đền có một hồ nuớc gọi là hồ Puskarini, chu vi khoảng 50 thước vuông. Tục truyền rằng: "Hồ nước lịch sử này do 9 con rồng từ trên trời phun nước xuống để tắm gội Thái tử, nay còn đọng lại". Nhà cầm quyền ở đây xây thành một hồ để giữ nước và dân chúng địa phương còn tin rằng ai tắm tại hồ này thì tật bệnh được tiêu trừ, tội lỗi hết sạch. Lúc chúng tôi đến đây cũng có mấy vị Bà-la-môn đang tắm gội một cách thành kính. 3. Nền của một ngôi tịnh xá Gần con đường qua ngôi đền có trụ đá vua A Dục, chúng tôi còn thấy nền móng của một ngôi tịnh xá cũ hình chữ nhật và hình như chỉ là một văn phòng lớn. Một vài người ở đây cho chúng tôi biết tại tịnh xá này đã có nhiều vị tu đắc đạo. Và chính tại chỗ này người ta đã đào được vài pho tượng nhỏ cuả Bồ tát Quan Thế Âm, Ðại Thế Chí bằng đồng đen và một đồng tiền không được rõ ràng lắm. Tại ngôi đền có nhiều mảnh tượng gãy nát, chúng tôi xem qua không hiểu là tượng gì. Không biết có phải là tượng con ngựa trên trụ đá vua A Dục chăng? Sau khi quan sát nền của một ngôi tịnh xá, chúng tôi sợ trưa không kịp chuyến xe trở về, nên vội vàng qua viếng thăm hai ngôi tháp mới. 4. Hai ngôi tháp mới Chính phủ Nepal trong chương trình sửa lại Thánh tích này đã dựng được hai ngôi tháp hình trụ tròn, với những nguyên liệu đào bới xung quanh Lâm-tỳ-ni. Hai tháp này không có chi mỹ thuật cho lắm. Ðã 10 giờ trưa rồi, chúng tôi phải từ biệt nơi đã ghi lại dấu chân đầu tiên của vị Thái tử con vua Tịnh Phạn để tiếp tục công việc chiêm bái nhiều nơi khác. Trên con đường quanh co khúc khuỷu trở về ga, chiếc xe buýt từ từ chuyển bánh, lòng chúng tôi cảm thấy bùi ngùi và quyến luyến mãi với hình ảnh Lâm-tỳ-ni. Ngồi trên xe, tôi suy nghĩ: không có sức mạnh nào bằng sức mạnh đạo đức, không có sự vật gì cao quí bằng tình thương chơn thật. Ðã xa cách mấy nghìn năm, cuộc đời của Từ phụ tuy đã lui về dĩ vãng, chỉ còn lưu lại một đức từ bi mà không biết bao nhiêu người tôn sùng thờ kính, không biết bao nhiêu dân tộc đang hướng về đạo giải thoát cuả Ngài. Những người lập sự nghiệp trên sức mạnh, quyền lực, mánh khoé như Hitler, Napoléon, Tần Thủy Hoàng v.v... tuy danh vang một thời thật nhưng chóng phai tàn làm sao, và chỉ để lại cho hậu thế sự căm hờn tức giận. Ngày nay có ai, những người chân chánh, còn muốn nhắc đến tên tuổi hoặc lập đều để dùng bái tôn ngưỡng họ? Ðức Từ phụ đã xây dựng đạo nghiệp bằng tình thương chơn thật, bằng đạo đức cao siêu, không dùng một quyền lực áp bức, không tốn một mũi tên, một viên đạn mà đạo nghiệp của Ngài mãi mãi được mọi người noi theo. Phật tích khác, từ nơi Thế Tôn thành Ðạo, cảnh Chuyên pháp luân cho đến vườn Lâm-tỳ-ni v.v... chúng tôi đã đến tận nơi đảnh lễ, cúng dường, chiêm bái. Ðây là chỗ đức Phật ứng thân thị hiện và sanh trưởng, làm sao chúng ta lại có thể không đi? Nghĩ như vậy chúng tôi gởi hành lý tại ga, chỉ đem theo một ít đồ cần dùng. Năm giờ rưỡi sáng, chúng tôi khổ cực dùng trà thay cho buổi điểm tâm tại một quán cơm bình dân nghèo nàn, chiếc xe ngựa mà chúng tôi thuê hồi hôm đã sẵn sàng chờ đợi. Chúng tôi lên xe và ngựa bắt đầu chạy đều đều trên con đường sương lạnh. Ðúng như lời người ta cho biết, đường thật là gồ ghề nguy hiểm; nhiều đoạn chúng tôi phải xuống đi bộ vì ngồi trên xe còn khổ hơn đi bộ, dễ sợ nhất là khi qua những chiếc cầu lắc lẻo. Càng tiến về hướng núi Hy Mã, chúng tôi càng bị bao phủ bởi những sương và sương, và chỉ nhìn thấy những gì cách chúng tôi độ ba thước. Hình như màn sương muốn chận đứng sự tiến bước của chúng tôi. Tuy nhiên chiếc xe ngựa vẫn từ từ lướt tới và để lại đàng sau những khối sương dày dặc nặng nề. Phải mất hơn ba tiếng đồng hồ mới đến được Ca-tỳ-la-vệ, kinh thành lịch sử mà Phật tử năm châu hằng nhắc đến. Mặt trời lên cao. Sương mù tan biến. Những rặng cây xanh, những xóm nhà cũ kỹ lần lượt hiện ra. Chúng tôi rất hân hoan vì nhờ duyên lành đời trước nên được viếng thăm quê hương kính mến của đức Từ phụ nơi mà Phật tử Việt Nam thường hát vang: "Thành Ca-tỳ-la sống vui đời Tịnh vương, Người người vui sướng, Thích Ca Ngài vừa ra đời..." Một vị cư sĩ tiếp đón niềm nở và đưa chúng tôi vào nhà. Cả gia quyến của vị này đều đổi đãi với chúng tôi một cách nồng hậu. Sau hỏi lại mới biết đây là gia đình dòng họ Thích Ca (Sakya). Sau khi giải khát xong, mấy người con của vị này đưa chúng tôi đi viếng "Thành" cách đó độ 4 cây số. Sau này, chúng tôi xin kể lại một vài sự kiện lịch sử của đức Phật, khi Ngài ở tại thành này: "Trước khi chưa giáng sanh ở thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài còn là vị Bồ tát Hộ Minh ở trên cung trời Ðâu Suất để thuyết pháp và giáo hóa chư thiên. Khi cơ duyên đã đến. Ngài quan sát trong bốn châu thiên hạ duy có vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya là người tu nhơn tích đức lâu đời, xứng đáng làm cha mẹ Ngài, cũng như cha mẹ muôn dân. Ngài cưỡi voi trắng 6 ngà từ trên cung trời Ðâu Suất nội viện đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Lúc bấy giờ nhân ngày lễ vía các tinh tú, tại Ca-tỳ-la-vệ, từ quan chức cho đến thứ dân đều được nghỉ việc để mừng lễ. Mọi người tấp nập ăn chơi, đờn ca xướng. Bao nhiêu trò hay chuyện lạ được biểu diễn khắp nơi. Riêng Hoàng hậu Maya, sau khi dự lễ cầu nguyện trong Hoàng cung, ra ngọ môn bố thí cho người nghèo khổ. Rồi Hoàng hậu trở về cung yên giác. Ðiềm chiêm bao kỳ lạ đã đến với Hoàng hậu: Một người tướng mạo khôi ngô, cưỡi con voi trắng 6 ngà chen vào hông bên hữu của Hoàng hậu.Giật mình thức dậy, Hoàng hậu cảm thấy trong mình nhẹ nhàng, khoan khoái: "Maya mộng ứng niềm hoan lạc, Voi trắng quỳ dâng đóa bạch liên. Âm nhạc bốn phương lừng các điện. Vang lời chúc tụng hội quần tiên Giáng sinh ngày ấy không xa nữa. Là một tin vui khắp mọi miền! Chiếu rạng tưng bừng xa bóng tối. Rồi đây sẽ có đạo vàng thiêng... (N.H). Sau khi Thái tử giáng trần 7 ngày, Hoàng hậu nhờ phước báo hạ sanh ra Ðấng giác ngộ tương lai, được thăng về cung trời Ðạo Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà Mahaprajapati (Ma-ha Ba-xà-ba-đề) nuôi dưỡng. Ngày tháng trôi qua, càng ngày càng khôn lớn, Thái tử học hành kiểm ưu, tài năng xuất chúng. Nhưng Ngài nhìn thấy nhơn sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên quyết chí xuất gia tìm đạo để giải thoát cho mình và cứu độ chúng sinh. Một đêm nọ, lúc canh ba đã gần tàn, Ngài đang ngồi trầm tư mặc tưởng bỗng nghe đâu trên hư không có tiếng của chư thiên văng vẳng vọng lại: "Ngày nay tuổi đã lớn rồi Sao không nhớ lại những lời nguyện xưa Xin tu chứng đạo chơn thừa Trần gian vẫn đục say sưa làm gì? Ngài còn lần lựa thế chi, Chúng sanh ngu dại ai thì bảo ban. Mau mau mở lối Niết bàn Khêu đèn Trí tuệ vén màn vô minh". (L. S. P. T) Ngài suy nghĩ không thể dần dà được nữa mà phải xuất gia tìm chơn lý. Một đêm nọ sau khi buổi yến tiệc linh đình và mọi người yên giấc, Ngài cùng Xa Nặc cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt qua thành Ca-tỳ-la-vệ này để "Dấn thân nơi cát bụi tìm đạo thiêng". 5. Thành Ca-tỳ-la-vệ Tiến qua một cánh đồng, gồm những vườn xoài, những mương nước, chúng tôi đến nội thành Ca-tỳ-la-vệ. Hiện tại, sự tìm tòi và nghiên cứu tường tận của ông Vincent Smith và ông De Vost cho chúng ta biết rằng Ca-tỳ-la-vệ của vua Tịnh Phạn ngày xưa, hiện nay nằm tại nơi được gọi là Tilaurakota, thuộc hạt Terai và cách xa ga Shoharatgarh 20 cây số. Cả vùng thành Ca-tỳ-la-vệ này được bao bọc bởi nhà cửa thưa thớt của dân làng Taulihwa. Thành rộng lớn bao la và nằm trên bờ sông Banganga. Chúng tôi tìm thấy nhiều vết tích những bức tường của thành ấy và rất nhiều đồi đất cao, có thể là các đền đài ngày xưa. Hiện tại toàn vùng này bị cây cối bọc bao trùm. Chúng tôi chỉ thấy xa xa một khu rừng rập rạp. Ðến gần nhìn thấy rất nhiều gạch đá vụn, đây có lẽ là một khu nhà rộng lớn của thành. Thầy Thiện Châu có nhặt một viên gạch xưa đem về làm kỷ niệm. Chắc chỗ này chưa ai đào bới cả. Ngài Pháp Hiển đến chiêm bái thành Ca-tỳ-la-vệ vào năm 403 sau Tây lịch và ngài đã nhìn thấy toàn vùng này là một rừng hoang cỏ dại, dân cư thưa thớt, chỉ thấy những di tích phế tàn. Có một số tu sĩ tu khổ hạnh tại đây và độ 30 gia đình dân chúng. Ngài đến hỏi thăm các vị tu sĩ về thánh tích ngôi thành này. Các vị ấy cho biết toàn vùng này chính là thành Ca-tỳ-la-vệ thời xưa, và họ cố ở lại đây để giữ gìn Thánh tích này, nhưng không đủ phương tiện, đành chịu thua. Vào năm 636, ngài Huyền Trang cũng đến thăm viếng ngôi thành và diễn tả di tích này một cách rõ ràng. Ngài viết: "Thành Ca-tỳ-la-vệ kiến trúc theo lối cổ kính, xây dựng toàn bằng gạch đá quí, bức tường thành vẫn còn, và kiến tạo rất kiên cố. Hiện tại chỉ còn 634 phố, nhà lơ thơ, và một ít dân chúng đang sống ở đó. Chung quanh có độ 100 tịnh xá bị hư hỏng. Gần chỗ này có một ngôi tịnh xá vĩ đại, 30 tu sĩ tiểu thừa, và hai ngôi đền của Ba-la-môn giáo". Ngài Huyền Trang có nói đến trụ đá cuả Vua A Dục dựng lên cao độ 9 thước tây, trên chót trụ đá có chạm hình con sư tử rất đẹp. Về phía tây bắc của thành có hơn 100 tháp nhỏ, đánh dấu chỗ dòng họ Thích Ca bị giặc tàn sát. Theo ngài Huyền Trang cho biết thời chu vi thành Ca-tỳ-la-vệ độ chừng 400 lý hay 664 dặm Anh. Một vài di tích thành Ca-tỳ-la-vệ a. Nigaliwa: Ðộ 4 dặm cách Taulihwa có một cái hồ lớn gọi là hồ Nigali. Gần hồ có một trụ đá bị gãy đôi, phần trên dài 5 thước, bị cỏ dại phủ lấp, phần dưới còn chôn sâu vào đất, phần trên có ghi một hàng chữ Tây Tạng "OM MANI PADME HUM" (An-ma-ni-bát-ni-hồng); trên hàng chữ này có khắc hai con công, phần trụ đá dưới có khắc những hàng chữ Brahmi. Vua A Dục có đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Ngài từ vườn Lâm-tỳ-ni trở về, có viết bài kệ như sau: Devanam piyen piyadasin lajin chodasavasa (bhisi). Bùdhasa kranak manas thue dutiyan baddhihite (Bisttiva). Sabhisten chatina agach mahiyite (Sila thuhey chus). Papite... Phỏng dịch: "Hoàng đế Piyadasin vào năm thứ 14 triều đại này đã mở rộng lần thứ hai, tháp của đức Phật Kanaka và đến năm 20 triều đại Ngài đã đích thân đến đây lễ bái và cho dựng trụ đá". b. Tháp Piprahwa: Chỗ này là ngôi tháp được dựng lên trên phần Xá-Lợi của đức Phật thuộc dòng họ Sakya. Tại chỗ này, người ta có đào được một hộp bằng đá lớn trong đó có bảo vật và nhiều mảnh xương vụn hơn 1.000 hộp bằng đá rất nhiều ngọc ngà châu báu. Xá lợi này chính là xá lợi của Phật, vì có khắc nhiều hàng chữ Brahami: "Ðây là Xá-lợi của đức Gautama, do các dòng họ Sakya chôn tại chỗ này và xây dựng bửu pháp lên trên". c. Kudan: Theo một vài nhà khảo cổ trứ danh cho biết, làng Kudan cách xa Taulihwa độ hai cây số, có thể là chỗ đản sanh của đức Phật Krakuchanđa. Tại chỗ này có hai mô đất lớn bằng gạch và bằng đất; dân bản xứ gọi là Lori-KiKudan. Có thuyết cho rằng chỗ này là nơi đức Phật gặp đức vua Tịnh Phạn sau khi Ngài đắc đạo và là chỗ 500 người thuộc dòng Thích Ca quy huớng Tam bảo; cũng chính tại chỗ này đức Phật thuyết pháp nhiệm màu cho chư thiên. d. Hồ nước Kunau: Chỗ này, người ta tin là nơi Thái tử cùng các công tôn, vương tử thi bắn cung nên gọi là Saea-kup (tên bắn). Lúc vua Tịnh Phạn chọn công chúa Gia-du-đà-la cho Thái tử, vua Thiện Giác ra điều kiện rằng: "Ai muốn cưới công chúa phải thi văn và đấu võ". Thái tử Tất-đạt-đa văn võ toàn tài, tỏ ra là người xuất chúng, nên được cưới công chúa Gia-du-đà-la. e. Sagarhwa: Chỗ này theo người ta cho biết, là nơi hoàng tộc Thích Ca bị tàn sát. Ông Smith có viết rằng trong tháng giêng ông A. Fuhrer có tìm được tại chỗ này 17 ngọn tháp nhỏ rất có thể là nơi dấu hoàng tộc Thích Ca bị tàn sát. Sau khi bị quân nghịch giết hại, đức Phật có phóng quang tiếp độ các hương linh những người có thiện nghiệp trong dòng Thích Ca được sanh về cõi Thánh. f. Ðền Shiva tại Taulihwa: Ðây là một trụ đá rất nhám. Gần phía chân của trụ đá này, có hai hình dĩa tròn giống như cái mâm, ở chính giữa thì dầy, phía ngoài mỏng dần, chính giữa có một trụ đá nổi lên, phía dưới có hình tán góc. Nó tương tự như trụ đá Linga ở chùa Bà Ðen (Sài gòn). Hỏi thăm, người ở đó cho chúng tôi biết rằng: Dân bản xứ có dụng ý đào trụ đá ấy, nhưng đào mãi không được. Do đó họ tin rằng đó là thần Shiva Linga và thường đến đó hành lễ, cúng bái, cầu nguyện. g. Ngôi chùa mới lập tại Taulihwa (ngoài thành Ca-tỳ-la-vệ): muốn đền đáp công ơn muôn một cho tổ tiên, các gia đình thân tộc Thích Ca còn lại có dựng lập một ngôi chùa trong làng Taulihwa. Chúng tôi có đến viếng ngôi chùa ấy: Chùa khá đẹp có vòng thành bốn phía. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu có vị chơn tu nào đến trụ trì ở đây chắc chắn khai hóa mối đạo chỗ này một cách dễ dàng, vì ở đây sẵn có một số thân tộc Thích Ca triệt để ủng hộ. Ông tộc trưởng cho chúng tôi biết, ông sẽ cố gắng hoàn thành ngôi chùa này nội năm nay. Ðể góp chút công quả, chúng tôi cúng dường 200 đ VN cho việc kiến tạo. Chúng tôi hy vọng chốn này chóng phục hưng mối đạo, do chính người trong dòng họ Thích Ca sáng lập. Các gia đình dòng họ Thích-Ca "Bà con thế tục mỗi ngày mỗi xa, dòng họ Thích Ca càng ngày càng gần". Thật đúng với câu nói trên, gia đình ông tộc trưởng và các cô bác khác gặp chúng tôi xá chào vui vẻ và xem bộ như quen biết đã từ lâu đời. Thượng tọa Minh Châu hỏi qua lai lịch dòng họ Thích Ca, và được ông tộc trưởng cho biết hiện giờ còn độ 36 gia đình, trên 60 người thuộc họ Thích Ca nhưng phần đông ở tại Nepal, hiện ở gần thành Ca-tỳ-la-vệ chỉ còn ba gia đình. Cả ba gia đình này có biên tên họ cho chúng tôi để giữ kỷ niệm. Như do một luồng nhân điện truyền cảm, chúng tôi và những người này mến nhau kỳ lạ, sự cảm mến cuả những người cùng huyết tộc, nhất là sau khi họ biết chúng tôi cũng mang họ Sakya (Thích) như họ. Viếng thành Ca-tỳ-la-vệ về đúng 12 giờ, chúng tôi thọ trai tại nhà ông tộc trưởng. Ðây là một bữa cơm chay đạo vị mà chúng tôi được dùng tại nhà dòng họ Thích Ca. Ông bà tộc trưởng dọn một căn phòng khá rộng rãi trên lầu và chọn những vật thực quí để cúng dường chư Tăng. Trong khi thọ trai, ông tộc trưởng đích thân đứng làm thị giả. Sự cảm thông qua tình đạo làm cho bữa ngọ trai hôm nay ngon lành và ý nghĩa. Hiệp để mà ly, đến để rồi đi. Rất tiếc chúng tôi chỉ lưu lại đây có mấy tiếng đồng hồ. Thọ trai xong, chúng tôi sắp sửa từ giã ra về. Trên nét mặt của bất cứ một người nào cũng có vẻ lưu luyến, bùi ngùi. Ðể ghi lại sự gặp gỡ quí báu này, chúng tôi chụp vài chiếc ảnh kỷ niệm. Niềm lưu luyến tràn ngập trong lòng mỗi người, thật ra chúng tôi cũng chẳng muốn về chút nào, nhất là nhìn thấy các cháu trong gia đình quá trìu mến. Xe đã chạy mà quí vị ấy và các cháu còn chạy theo. Một thanh niên giáo sư thuộc dòng họ Thích Ca chạy theo, đem bút máy và sách nài nỉ trao tặng thầy Thiện Châu làm kỷ niệm. Thầy cố từ chối, mãi mà không được. "Chỉ dính líu có hai chữ Thích Ca mà khổ tâm thật!".
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 21:57:54 GMT -5
Trên con đường về ga Shorasgarh, chúng tôi bùi ngùi cho cảnh suy tàn của thành Ca-tỳ-la-vệ và lưu luyến các bà con huynh đệ trong dòng họ Thích. Nghĩ đến cuộc thịnh suy của đời và chứng kiến cảnh kẻ ở người đi, lòng chúng tôi như vương nặng một nỗi buồn man mác. "Thương hải biến vi tang điền" thật là rõ rệt. Thành Ca-tỳ-la-vệ trước đây khi vua Tịnh Phạn đang trị vì, có biết bao cung điện, lâu đài đồ sộ nguy nga, biết bao kỳ hoa dị thảo, cảnh đẹp nên thơ, biết bao xe cộ tấp nập quanh thành, biết bao phố phường nhà cửa bao bọc. Nhưng thời hưng thịnh này còn đâu! Chỉ còn ít khóm cây xơ xác, những mái tranh im lìm, dân chúng thì lưa thưa nghèo khổ. Trong khi bùi ngùi cám cảnh, tôi liền nhớ đến lời Phật dạy: "Có sanh tất có diệt, có hiệp phải có ly, thịnh suy là lẽ thường của sự vật". Sự thật là thế, mặc dù thành Ca-tỳ-la-vệ không còn như xưa, nhưng tinh thần cao quý của vị Thái Tử thành này đã lan rộng và trở nên bất diệt. Ca-tỳ-la-vệ vẫn còn mãi mãi. Xe đến lúc nửa đêm, chúng tôi phải ngủ tại ga, đợi đến sáng mới đi Xá vệ được. Câu "Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc kỳ thọ Cấp cô độc viên" mà chúng tôi thuộc lòng từ tấm bé hôm nay có ý nghĩa làm sao! Nó được lập đi lập lại nhiều lần với những cảnh sắc trang nghiêm, kỳ diệu trong trí trước khi chúng tôi thiếp ngủ. Mặc dù đi ngủ trễ, nhưng chúng tôi dậy sớm hơn thường lệ, sau một giấc ngủ lạ khoan khoái. Lúc mới tỉnh giấc, chúng tôi cứ ngỡ là mình đang ở tại Kỳ viên. Chuyến xe buýt sớm nhất đưa chúng tôi đến Xá-vệ sau gần một tiếng đồng hồ lướt qua các phố phường, làng mạc. Tất cả chúng tôi tự mang hành lý vào Ðại Các tự, ngôi chùa Trung Hoa nằm bên cạnh Kỳ viên, Ðại đức trụ trì ở đây đi vắng. Chúng tôi nhận được sự tiếp đãi nồng hậu của một vị nữ sĩ ở Calcutta lên đây để chép kinh. Món quà quí báu đầu tiên mà mỗi người chúng tôi nhận được là một quyển kinh Kim Cang do chính tay vị này viết tại nơi Phật thuyết kinh này. Chiêm bái Kỳ viên Thu dọn nơi tạm trú, tắm rửa và dùng sáng xong thì trời đã nắng. Chúng tôi muốn dành trọn một buổi cho việc đi chiêm bái Kỳ viên. Tuy chỉ ở ngoại giới của Ðại Tòng lâm, nhưng chúng tôi cũng đã hưởng được nhiều hương vị thanh tịnh giải thoát. Có thể nói rằng ngôi Ðại Giác tự này là một Tiểu Tòng lâm, được xây dựng với ý nguyện phục hưng Phật giáo tại đây của vị Ðại đức người Trung Hoa này. Cây cối xinh tươi chen chúc nhau trên mười mẫu đất bao phủ lấy ngôi chánh điện kiến trúc theo lối tổng hợp nửa Ấn nửa Hoa. Khách xá, trai đường và lầu duyệt kinh rộng rãi ngăn nắp. Cảnh sắc của toàn chùa đượm vẻ u tịch, thanh thoát làm sao. Không có gì làm cho chúng tôi sung sướng hơn là được ở vào một nơi cách xa phố phường huyên náo không có lấy một tiếng động của cơ khí sau những lúc phải chung đụng với cảnh ồn ào của ga xe hỏa, sự tranh giành ở bến xe buýt, sự hỗn loạn của xã hội loài người quên đạo đức! Khách xá của chùa hôm nay như vui hẳn lên vì được chứng kiến sự sinh hoạt ý nghĩa và nhịp nhàng của những người khách phương xa đến. Góc này Thượng tọa Minh Châu đang tiếp tục viết tập "Hsuan-tsang, the torch-bearer of the Dharma" (Huyền Trang, người làm sáng Chánh pháp). Chúng tôi đang sửa lại bản thảo đầu tiên về cuộc chiêm bái để gửi cho tạp chí Liên Hoa. Ðằng kia, thầy Pasadika xem lại lịch sử Kỳ viên để giảng giải ngay những nơi mà chúng tôi sẽ đến viếng. Cạnh đó là thầy Huyền Vi đang đánh máy tài liệu quyển "Ðường về xứ Phật". Tiếng lắc tắc của máy đánh chữ làm chúng tôi nhớ lại lời giáo sư Thạch Trung Giả, tác giả những vần thơ huyền bí nhưng đầy ý nghĩa đã nói với chúng tôi trên đồi Hải Ðức - Nha Trang: "Thầy ạ, tôi yêu thích làm sao hình ảnh một vị sư ngồi trước máy đánh chữ". Khi mới nghe, chúng tôi tưởng Giáo sư muốn phê bình sự sinh hoạt đổi mới của một số chư Tăng ngày nay. Nhưng với những lời giải thích của Giáo sư và đến nay sau khi chứng kiến đầy đủ hòa hợp giữa tĩnh và động, động trong tĩnh và tĩnh để mà động ấy, chúng tôi thấy giáo sư Thạch Trung Giả có lý. Thật vậy, không gì đẹp hơn hình ảnh một nhà tu trong cảnh thiền môn thanh tịnh đang ghi lại - bằng máy móc mà khoa học đã sáng chế nhưng loài ngưòi chưa biết dùng nó đúng mức với việc đạo đức tốt đẹp - những chơn lý hữu ích sau khi chín chắn suy tư để phổ biến cho cuộc đời hỗn loạn. Chúng tôi khởi hành cuộc chiêm bái vào 2 giờ 35 phút, lúc trời đang nắng. Ðường đi đến Kỳ viên tuy không xa nhưng cái nắng khô gắt hôm nay thúc giục khách hành hương rảo bước để được sớm đến chỗ. Kỳ viên nay là một khu rừng rộng độ 50 mẫu tây, nổi lên giữa cánh đồng lúa xanh vàng bát ngát, cách kinh thành Xá-vệ cũ độ hai cây số. Càng đến gần, chúng tôi như được cây lá tươi mát ở đây đón mời nghỉ nắng. Chúng tôi đến ngồi dưới một tàn cây, bên cạnh những khóm hoa rừng đua nở. Thỉnh thoảng hương thơm theo gió đem đến những khoái cảm nhẹ nhàng dịu ngọt. Ðàn chim trên cây tiếp tục hòa tấu bản nhạc "Ca-lăng-tần-già" mà chúng bỏ dở khi chúng tôi mới đến. Chúng tôi đang miên man với điệu nhạc, hồn thơ thanh thoát thì tiếng nói trong êm của thầy Pasadika vang lên, thầy xin thi hành bổn phận là kể lại lịch sử của Ðại Tòng lâm: "Lúc bấy giờ Thế Tôn ở tại Vương xá, ông Cấp-cô-độc (Anàthapindika), người hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khổ, một triệu phú và đã có Tôn giáo, nghe danh Ngài, từ Xá-vệ lặn lội đến xin bái yết đức Thế Tôn. Ông vào Trúc lâm đảnh lễ Phật và cúng dường chư Tăng. Ðức Thế Tôn hứa sẽ đến thăm ông tại Xá vệ. Về đến nhà, ông Cấp-Cô-độc liền tìm một nơi xứng đáng để đón rước đức Phật. Vườn ông rộng nhưng không đẹp. Trong thành chỉ có một hoa viên rộng và đẹp nhất nhưng lại là sở hữu của Thái tử Kỳ đà (Jita). Ông đánh liều đến hỏi mua. Thái tử không bán. Ông nài nỉ mãi, Thái tử cười và trả lời: -- Tôi sẽ bán nếu ông lót vàng khắp khu vườn. Ông Cấp cô độc bằng lòng mua một cách sung sướng và trở về cho người đem vàng đến lót. Còn một khoảng đất chưa được lót xong, nhưng vì cảm mến đạo tâm quí báu của ông Cấp-cô-độc nên Thái tử bảo: -- Thôi đừng lót nữa, tôi chỉ lấy một nửa số vàng và xin cúng tất cả cây cối trong vườn cho đức Phật. Tìm được nơi rồi, ông Cấp-cô-độc cho người thân tín sang Vương xá thỉnh Phật. Vài ngày sau, ông cùng gia đình và rất nhiều người tai mắt trong thành ra đón rước và thỉnh Phật về Kỳ viên. Ông dâng cúng khu vườn cho Phật và chư tăng làm nơi thường trú. Ðể kỷ niệm đạo tâm của hai đại thí chủ, đức Phật đặt tên hoa viên này là "Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên" (Jetavana Anàthapindikàràma. Sự tích này được khắc vào Bharhut trong thế kỷ thứ hai sau T.L.). Và Ðức Phật đã nói cảm tưởng của Ngài đối với Ðại Tòng lâm này: "Hoa viên này là nơi thường trú tốt nhất của Như Lai và chư Tăng. Chúng tôi được sống yên ổn nơi đây vì khí hậu không nóng quá và lạnh quá. Thú dữ không vào đây được. Muỗi mòng không có, nên sự tĩnh lặng được hoàn toàn. Hoa viên này chế ngự được mưa to gió mạnh và nắng khô. Nó gây hứng cho nguồn đạo niệm và chúng tôi có thể thiền định từ giờ này qua giờ khác một cách dễ dàng. Nó thật xứng đáng làm lễ vật cúng dường cho Giáo hội. Người cư sĩ tận tâm cúng dường chư Tăng phòng xá, y thực. Bổn phận chư Tăng phải dạy bảo cư sĩ chánh pháp và người nào thông ngộ chánh pháp sẽ được giải thoát ác đạo và chững chạc đại Niết bàn". Từ đó, đức Phật và chư Tăng thường trú tại hoa viên này. Gia đình ông Cấp-cô-độc hằng ngày hoan hỷ cúng dường tứ sự cho Giáo hội. Nhưng một hôm ý nghĩ tốt đẹp và rộng rãi sau đây đã đến với ông: "Ta sung sướng lắm vì ta đã có thiện duyên được cúng dường Phật và chư Tăng. Ta sẽ được gặt hái phước quả trong đời này và đời sau. Nhưng tại sao chỉ có một mình ta và gia đình ta được hưởng công đức ấy? Không được! Ta phải chia xẻ công đức cho kẻ khác. Ta sẽ kêu gọi đạo tâm của nhiều người, để họ cũng hướng được công đức như ta". Ông bèn vào yết kiến vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) và trình bày những điều ông nghĩ. Vốn là một vị minh quân, hơn nữa vì kiêng nể ông Cấp-cô-độc, một ân nhân đã ủng hộ nhiều cho ngân quĩ quốc gia, vua liền chấp thuận. Trong bảy ngày liên tiếp, ông đi khắp các nẻo đường bắn tin cho dân chúng biết hiện có đức Phật và chư Tăng đang ở tại Kỳ viên và kêu gọi họ đến nghe Pháp và cúng dường để góp phần công đức. Trong vô số người hưởng ứng, có hai tín nữ đáng ghi nhớ hơn hết là một cô gái nghèo nhất Xá vệ và bà Visakha (Tỳ-xá-khư) giàu không kém gì ông Cấp-cô-độc. Cô gái nghèo này vì kính mộ đức Phật mà mến trọng cử chỉ khiêm nhường chơn thành của ông Cấp cô Ðộc, đã dâng cúng chiếc áo duy nhất của mình. Sau khi biết được đạo tâm cuả cô này, ông Cấp-cô-độc cho người đem đến biếu cô rất nhiều chiếc áo đẹp khác. Nhưng qua hôm sau, cô từ trần và được sanh lên cõi trời Ðế Thích. Nhớ lại tiền kiếp, cô đã xuống nghe đức Phật thuyết pháp tại Kỳ-viên. Bà Visakha là người giàu có và đông con cháu, cũng đã trở nên một Phật tử biết hộ pháp. Một hôm sau khi đức Phật và chư Tăng thọ trai tại nhà bà, bà xin đức Phật cho phép bà được toại nguyện trong tám điều: "Trọn đời cúng dường: 1. Y trong mùa mưa (ngoài ba y) cho các thầy Tỳ-kheo. 2. Thực phẩm cho các thầy Tỳ-kheo mới đến. 3. Thực phẩm cho các thầy Tỳ-kheo đi xa. 4. Thực phẩm cho các thầy Tỳ-kheo bệnh. 5. Thực phẩm cho những người nuôi các thầy Tỳ-kheo bệnh. 6. Thuốc men cho các thầy Tỳ-kheo bệnh. 7. Cháo sữa buổi mai cho chư Tăng. 8. Y tắm cho các Tỳ-kheo ni. Ðức Phật hứa cho sau khi nghe bà giải thích đầy đủ lý do về sự cúng dường âý. Ngài dạy: "Lành thay! Lành thay! Visakha! Người đã khéo xin Như lai tám điều trên với những lý do rất xác đáng và lợi ích. Cúng dường cho những người đáng cúng dường chẳng khác nào gieo giống trên đất tốt và như vậy sẽ gặt hai được nhiều kết quả. Trái lại cúng dường những kẻ thiếu đạo đức, còn mang nặng dục vọng chẳng khác gì gieo giống trên đất xấu. Nắng dục vọng của người thọ lãnh làm khô chết giống công đức của người cúng dường". Chính đức Phât đã tán thành công đức của bà Visakha: "Người đệ tử chơn thành của Như Lai luôn luôn hoan hỉ và không chút hối tiếc trong lúc cúng dường bất cứ một phẩm vật nào. Do đó, u sầu tiêu sạch, công đức phát sanh. Ðời sống phước lạc này giúp người bước lên con đường giải thoát những sự triều phược và bất tịnh của con người. Sự hướng thiện ấy sẽ làm cho người có hạnh phúc và an lạc trong công việc từ thiện". Ngôi Tịnh xá Pùràràma ở về phía đông Kỳ viên là của bà Visakha dâng cúng. Và bà là người lãnh đạo những tín nữ ở Xá lợi." Thượng tọa Minh Châu tiếp thêm: "Chính nhờ ngoại duyên đầy đủ mà đức Phật đã thường trú tại đây gần 25 năm. Phần lớn các kinh điển quan trọng đều được đức Phật thuyết tại đây. Chính từ nơi đây, các thầy Tỳ-kheo tài đức đã đi khắp các xứ lân cận để truyền bá Chánh pháp". Cây Bồ đề: Ðến đây, sau một lúc nghỉ nắng, chúng tôi bắt đầu đi thăm từng cảnh một. Ði về phía đông, nơi chúng tôi đến đầu tiên là cây Bồ đề này chính do ông Cấp-cô-độc thỉnh một nhánh từ cây Bồ đề Phật Thành Ðạo đem về trồng tại đây. Tuy không được xanh tốt như cây Bồ đề Bồ đề Ðạo-tràng nhưng nó vẫn giữ sắc thái hùng vĩ, oai nghiêm, vượt cao lên trên những cây xung quanh nó. Mỗi khi nhìn thấy cây, lá Bồ đề là lòng chúng tôi ngập tràn niềm vui tin tưởng. Bởi nó là một vật kỷ niệm quí báu và cũng là biểu trưng cho nền đạo giác ngộ. Ánh nắng chiếu vào những lá Bồ đề xanh láng làm cho toàn cây như tỏa ra một vòng hào quang mát dịu. Chúng tôi dành thời gian rất ngắn cho những nơi ít quan trọng, có nhiều nơi chỉ lướt qua. Chùa và tịnh xá ở đây không biết bao nhiêu mà kể, tuy chỉ còn lại những nền gạch. Chúng tôi chỉ đến chiêm bái và nghiên cứu tỉ mỉ những cảnh sau đây: Chùa số 3: Chùa này là thánh tích thiêng liêng nhất ở Kỳ viên do ông Cấp-cô-độc dựng lên làm nơi thường trú cho Phật. Trước mặt chùa có hai bệ gạch xây trên con đường kinh hành cũ của đức Phật. Trên tượng của một vị Bồ Tát được tìm thấy gần chỗ này, có một bia ký thuộc thế kỷ thứ nhất sau T.L., chép rằng tượng này được dựng lên tại chỗ đức Phật đi kinh hành (Kosambakuti) bởi ông Bala trong triều đại của một vị vua Kushan, Ngài Huyền Trang có thấy tượng này. Chúng tôi đảnh lễ và tưởng niệm tại đây, trên một nền gạch đầy sỏi đá. Ðầu phơi nắng, trán chạm đất cát nhưng chúng tôi cảm thấy sung sướng và mát dịu làm sao! Vì chúng tôi quán tưởng rằng đức Phật đang an tọa chính nơi đây. Hai bàn tay và trán chúng tôi chạm đến đôi bàn chân của Ngài. Nhưng đó chỉ là một sự ước mơ. Dầu sao sự ước mơ này cũng đã cho chúng tôi một niềm an lạc. Tinh xá số 19: Tịnh xá số 19 này nằm về phía tây xây mặt về phía đông. Ðây là tịnh xá lớn nhất ở Kỳ viên, gồm có một điện Phật, một cái giếng giữa sân, 22 tịnh thất nhỏ vây xung quanh và một số trụ lớn chạy theo hành lang phía trong. Hình như tịnh xá này được xây đi dựng lại đến 3 lần trên một nền móng. Ngôi xưa nhất này chỉ còn thấy một phần tường thuộc về thế kỷ thứ sáu sau T. L., ngôi thứ hai có lẽ thuộc thế kỷ thứ 10. Trên đây người ta có tìm được một số tượng Phật trong đó có một tượng trong cử chỉ bắt ấn Bhumisparsamudra, có đức Quan Thế Âm và đức Di Lặc hầu hai bên, một bức chạm tích con vượn dâng mật cúng Phật; hai bức chạm có bia ký chép thuộc thế kỷ thứ 9, thứ 10. Ngôi tịnh xá được dựng lên cuối cùng thuộc thế kỷ 11, 12 này nền móng vẫn còn. Nền móng hình vuông, mỗi bề độ 36 thước tây, một sân không lợp ở chính giữa, xung quanh là tịnh thất của chư Tăng, có hành lang chạy dài phía trong. Phòng chính xây mặt về phía các cửa là một điện Phật nên bất cứ ai bước ra cũng đều thấy tượng Phật trước hết. Tịnh xá này có tất cả 24 phòng. Trong mỗi phòng có một giường nhỏ bằng gạch. Trong một tịnh thất ở tịnh xá này có đào lên được một tấm đồng khắc rằng Thái tử Govindachandra xứ Kanauj năm 1130 sau T.L. có để dành lợi tức của một vài chùa xung quanh thành Xá-vệ để cung cấp cho các vị Tỳ-kheo ở Kỳ viên. Nhờ tấm đồng này mà người ta biết đích xác chỗ Saheth này là Kỳ viên và chứng tỏ rằng đạo Phật ít nhất là đến thế kỷ thứ 12 vẫn còn thịnh hành ở Ấn độ. Chúng tôi nghĩ rằng lối kiến trúc tinh xá ở đây thật đúng với giới luật và thích hợp cho việc thiền quán của chư Tăng. Sự chung đụng quá nhiều giữa người và người thường gây ra những sự bất lợi cho người tu hanh về thời giờ và tâm niệm. Sự tĩnh lặng cho người tu hành đủ sáng suốt để biết rõ mình hơn và không bị lôi cuốn bởi ảnh hưởng xấu của kẻ khác. Tuy nhiên nếu sống tách rời nhau quá cũng dễ sinh ra chia rẽ, đố kỵ và nhất là không huởng được sự dắt díu và kiểm soát của thiện tri thức. Do đó, theo thiển ý của chúng tôi, mỗi người một phòng và sống gần nhau trong một tịnh xá là sự cư trú tốt nhất cuả Tăng già. Lối kiến trúc chùa chiền theo kiểu chữ Khẩu hay chữ Môn bên ta quá chú trọng đến việc thờ phượng và chỉ tiện lợi cho sự công phu bái sám tập thể. Chúng tôi chưa được thấy Tòng lâm nào có những tinh xá thuận lợi cho việc thiền quán của chư Tăng như ở đây. Sau gần hai tiếng đồng hồ chiêm bái, viếng thăm, tìm hiểu tất cả chùa chiền, tinh xá khắp nơi trong Kỳ viên, chúng tôi đến viếng một cái hồ rộng nằm giữa những vòm cây được xem là hồ tắm của chư Tăng rồi đến một cái giếng lớn và nền của một phòng tắm được xem là nơi tắm của đức Phật. Qua những cái giếng còn lại chúng ta cũng biết được số đông đảo chư Tăng trong lú Phật còn tại thế và những thế kỷ tiếp theo. Trời đã dịu nắng. Cây lá đổi màu. Chúng tôi đồng leo lên một ngọn đồi không cao lắm gần bên hồ để được nhìn thấy toàn cảnh Kỳ viên. Có lẽ vì muốn được yên tịnh để suy tư những lời Phật dạy ngay trong cảnh mà ngày xưa Ðức Phật đã thường trú nhiều năm, nên Thượng tọa Minh Châu đề nghị mỗi người nên tìm một chỗ để tĩnh tâm độ 30 phút trước khi ra về. Thầy Pasadika không để mất cơ hội thuận tiện nên xin tất cả ngồi lại trên đồi này độ 10 phút nữa để thầy kế tiếp lịch sử của Kỳ-viên. -- "Kỳ viên này, thầy Pasadika nói, như chúng ta đã thấy qua những di tích còn lại, không phải chỉ xây dựng trong thời Phật còn tại thế mà được tiếp tục xây dựng trong nhiều thế kỷ sau. Chính vua Asoka sau khi lên ngôi có đến thăm Kỳ-viên này. Ðể kỷ niệm cuộc viếng thăm, vua cho dựng hai trụ đá cao độ 22 thước ở cửa hướng đông. Một cột có Pháp luân trên đỉnh và một cột có con bò. Theo ngài Huyền Trang, vua Asoka còn cho xây gần đó một ngôi tháp thờ Xá Lợi của Phật nữa. Trong những thế kỷ đầu tiên sau T.L., dưới triều đại Kushans, Phật giáo được hưng thịnh thì ở đây chùa chiền và tinh xá được trùng tu và xây dựng thêm. Nhất thế hữu bộ (Sarvastivada, mầm mống cuả Bắc tông) cũng được thịnh hành tại chỗ này. Dưới thời đại Guptas đầu, đạo Bà-la-môn có mạnh và muốn phá hoại Phật giáo nhưng cảnh Kỳ-viên này vẫn được duy trì như trước. Ngài Pháp Hiển đến thăm Kỳ-viên vào đầu thế kỷ thứ năm được các thầy ở đây tiếp đón, và họ rất ngạc nhiên không hiểu tại sao có người ở rất xa lại đến đây được, vì từ trước họ chưa bao giờ thấy người Hán cả. Ngài Pháp Hiển cũng thấy hai trụ đá cùng một số tháp và điện dựng lên giữa hồ nước. Cây cỏ tươi tốt và hoa lá rất nhiều, ngài cũng thấy cái lầu hai tầng, chỗ đức Phật ở 25 năm, và theo Ngài, trước kia nó có đến 7 tầng, nhưng sau khi bị cháy chỉ làm lại được hai tầng. Phần lớn những di tích mà chúng ta thấy đều được xây dựng dưới thời đại Guptas. Ngài Huyền Trang đến thăm vào thời đại vua Harsha (606-647) thấy Kỳ-viên lúc ấy đã bị phế tàn, tuy các ngôi chùa và tượng Phật vẫn còn, nhưng không có một vị Tỳ-kheo nào ở tại đây cả. Sau thời gian Huyền Trang đến thăm, Phật giáo được phục hưng tại chỗ này. Vì có nhiều tượng và bia ký được tìm thấy tại chỗ như tượng Lokanàtha Trailokyavijiya, Avalokitesvara (Quán tự tại), Simhanàda, Lokésvara Jambhala (Quán tự tại), thuộc về những thời đại sau ngài Huyền Trang đến và cho đến nửa thế kỷ thứ 12, nhiều chùa và tịnh xá vẫn còn tồn tại ở đây. Ðó là nhờ sự hổ trợ của vua Gàhadavàla ở Kanauj tên là Madanapàla và Thái tử Govindachandra. Bia ký của thời đại các vị này đều được tìm thấy tại đây. Sau đó, Xá-vệ bị vua Hồi giáo đô hộ. Một vài di tích Hồi giáo vẫn còn ở Xá-vệ. Và Kỳ viên này cũng bị tàn phá và bỏ quên cho đến khi ông Cunningham tìm ra được chỗ này vào năm 1863." Thầy Pasadika chấm dứt sau hai tiếng cám ơn nhè nhẹ với vẻ mặt buồn chán. Sau đó Thượng tọa Minh Châu, Thầy Huyền Vi và Thầy Pasadika tan ra đi tìm chỗ để thiền định. Trên đồi chỉ còn một mình chúng tôi. Như thế chúng tôi khỏi cần phải đi tìm một chỗ yên tịnh nào nữa. Ngồi dựa vào một gốc cây định sau vài phút nghỉ cho khoẻ rồi tĩnh tâm thiền quán. Nhưng một nỗi buồn đến xâm chiếm tâm tư sau khi nhìn lại cảnh hoang phế trong lúc ngày sắp tàn làm cho chúng tôi không đủ sức để tập trung tư tưởng vào một mối. Tiếng gọi nhau ra về của những công nhân sửa sang cây cối đường sá ở đây vọng lại, gợi lên trong trí tôi câu hỏi: -- "Tại sao một Tòng lâm vĩ đại tồn tại suốt gần 16 thế kỷ này trở nên một nơi hoang phế và hàng ngàn chư Tăng trong các tinh xá bây giờ chẳng có bóng nào? Câu trả lời của vị giáo sư Hindi ở Nalanda có thể giải đáp đầy đủ cho mỗi thắc mắc trên được chăng? Giáo sư ấy đã nói với chúng tôi: "Suốt thế kỷ 11 và 12, giặc Hồi giáo chiếm cứ nước tôi, đập phá tất cả chùa chiền và tàn sát chư Tăng. Rồi tiếp đó là cuộc đô hộ gần 300 năm của người Anh là những nguyên nhân làm cho Phật giáo ở đây mất hình thức. Những người Ấn chúng tôi hiện nay xem đạo Phật là một chi phái của Ấn Ðộ và họ vẫn thực hành lời dạy của đức Phật, nhất là hạnh từ bi bất bạo động". Vâng, trong lịch sử Ấn Ðộ có những sự kiện ấy, song sự suy tàn của Phật giáo ở đây còn do nhiều nguyên nhân khác nữa mà sự "trả thù" của Bà-la-môn giáo là một. Chính chúng tôi đã có dịp thảo luận về nguyên nhân trên với ông Prasad, một học giả đang nghiên cứu về vấn đề "Kinh tế và tôn giáo" ở Nalanda. Ông ta đồng ý với chúng tôi: "Ðạo Phật vốn là đạo cách mạng triệt để. Giáo lý cao rộng sáng sủa của đức Phật đã làm lu mờ hệ thống triết lý của Bà-la-môn giáo, một tôn giáo đầy cả nghi lễ. Phật giáo đã cải hóa rất nhiều vị Vua và nhiều người trí thức, chính nhiều tu sĩ Bà-la-môn cũng quay về với Phật giáo. Sự việc này làm cho các vị lãnh tụ Bà-la-môn giáo căm tức và đợi dịp tốt để trả thù. Thừa dịp Phật nhập Niết Bàn, đệ tử của Ngài thiếu người tài đức và nhất là nhân lúc Phật giáo bị Hồi giáo phá hoại, họ hùa theo làm cho Phật giáo tiêu diệt". Một câu hỏi nữa được chúng tôi đặt ra: "Nói đến sự thạnh suy thì bất cứ Phật giáo nước nào cũng có lúc thạnh lúc suy. Dầu suy biến đến đâu đi nữa cũng có lúc phục hưng được; Phật giáo Trung Hoa ba lần bị tiêu diệt nhưng đến nay vẫn còn. Phật giáo Việt Nam suy biến nhiều trong thời kỳ nội loạn và Pháp thuộc nhưng không đến nỗi điêu tàn như Ấn Ðộ, nơi Phật giáo phát xuất và có nhiều chùa chiền, tịnh xá, hang động vĩ đại". Chúng tôi muốn nói đến một nguyên nhân nội tại quan trọng đã làm cho Phật giáo suy tàn một cách mau chóng và hiện nay phục hưng một cách chập chạp. Nguyên ấy là sự thiếu chư Tăng. Có lẽ sau sự giết hại chư Tăng của giặc Hồi giáo, không còn ai dám xuất gia để tu học và hướng dẫn cho tín đồ nữa; rồi tín đồ vì thiếu người hướng dẫn lần lần đã bằng lòng hoặc bị áp bức phải sống với tập quán phong tục của Bà-la-môn giáo, tôn giáo của Ấn Ðộ, tôn giáo mà hàng Tăng sĩ có thể ở chung lộn với người trong làng xóm. Cho đến ngày nay mặc dầu mặc dù Phật giáo ở Ấn được chính phủ để ý nâng đỡ và nhiều người trí thức ca ngợi, nhưng sự phục hưng cũng chỉ nằm trong sự sửa sang các thánh tích, ấn loát lại Tam tạng kinh điển, sự khuyến khích sinh viên, học giả nghiên cứu Phật giáo. Riêng hội Maha Bồ đề thành lập cũng đã lâu nhưng thành quả thâu hoạch về sự tổ chức và giác ngộ quần chúng cũng không nhiều cho lắm, tuy so với các tôn giáo khác ở đây về số tín đồ tăng thêm, thì Phật giáo đứng hàng đầu. Nguyên nhân cũng chỉ là sự thiếu bóng Tăng ni. Với dân số gần 400 triệu mà chư Tăng tài đức Ấn Ðộ không quá 115 vị, phần lớn lại ở tại Assam, một ít ở Calcuta nên chẳng thấm thía vào đâu. Chư Tăng ngoại quốc, phần lớn là Tích Lan tích cực giúp đỡ Phật giáo Ấn Ðộ, nhưng vì ngôn ngữ và tập tục bất đồng nên rất khó thu hoạch kết quả. Gần đây, hàng triệu người theo gương Bác sĩ Ambedkar qui ngưỡng Tam bảo nhưng họ phải tự nâng đỡ dắt díu nhau chứ không được sự dạy dỗ của chư Tăng. Một thanh niên Ấn Ðộ ngày nay muốn được xuất gia khó hơn một thanh niên Âu Mỹ, vì không có hoàn cảnh thuận tiện như ngày xưa - Ngay ở Nalanda không kể sinh viên thường, chư Tăng Ấn chỉ có 6 vị, còn bao nhiêu là chư Tăng ngoại quốc. Hội Maha Bồ đề đang tìm cách khuyến khích giúp đỡ thanh niên Ấn xuất gia để công việc phục hưng Phật giáo ở đây được dễ dàng và mau chóng hơn. Ðang lo buồn cho nền Phật giáo tại nơi phát sinh ra nó thì bóng khoan thai của thầy Pasadika đi kinh hành trên một nền gạch cũ làm chúng tôi nhớ rằng Phật giáo là chân lý của muôn phương muôn thuở. Trong khi ở đây không đủ điều kiện tốt đẹp để phát triển thì chân lý ấy sống vững sống mạnh khắp các nước Á Châu và đang sanh lá, đơm hoa ở Âu Mỹ. Niềm tin tưởng vào sự sáng mạnh của Phật giáo trong tương lai ngự trị trong lòng chúng tôi. Tiếp theo đó, bóng của Thượng tọa Minh Châu và Huyền Vi ở đàng xa đi lại gợi lên trong tâm trí chúng tôi bản đồ Ðại Tòng Lâm Phật giáo Việt Nam mà chúng tôi được Thượng tọa Thiện Hòa cho xem. Trước khi xuất dương, chúng tôi ước nguyện một ngày gần đây sẽ được vui sống và phục vụ trong một Tòng lâm quy cũ như Kỳ viên trong quá khứ để luôn luôn được sự an ủi, dắt díu của mình sự thiện hữu. Ðó là ý nghĩ cuối cùng trước khi chúng tôi rời khỏi ngọn đồi để cùng trở về Ðại Giác tự. Ngày đã tan nhưng trời không tối lắm vì trăng đã lên. Ðể kỷ niệm nơi chính Ðức Phật đã thuyết kinh A Di Ðà, tối hôm ấy tất cả chúng tôi và Ðại đức trụ trì ở đây cùng đi Tịnh độ. Lâu lắm rồi không tụng kinh A Di Ðà, tưởng đã quên hết, nhưng lạ thay, sau vài câu mở đầu là chúng tôi tụng lâu không cần xem kinh nữa. Hình ảnh 7 hàng lan can, bảy hàng lưới giăng, bảy hàng cây báu, hồ sen thất bảo v.v.. của cảnh Cực lạc trang nghiêm lần lượt hiện rõ lên trong trí chúng tôi. Có lẽ Ðại Tòng Lâm Kỳ viên đã giúp chúng tôi tưởng tượng cảnh Cực lạc một cách dễ dàng. Những nhạc khí ở đây tuy không được "Vi diệu" như ở nhà nhưng cũng giúp chúng tôi có một buổi tụng niệm hoàn toàn Việt Nam. Lối tụng kinh theo nghi thức các nước Phật giáo Nam Tông không phải không hay, nhưng với chúng tôi lối tụng kinh Việt Nam lai Trung Hoa, đậm đà êm ái và thiền vị làm sao! Chúng tôi không có ý phân biệt tôn giáo, và đây chỉ là vấn đề tình cảm. Có lần đạo hữu Chánh Trí nhắc lại với tôi câu nói mà đạo hữu đã nói với một người bạn Nguyên thủy: "Tôi thích tụng kinh chữ Hán và đánh chuông mõ, vì có lẽ kiếp trước tôi là người Tàu". Câu nói này cũng chính là tiếng nói của tâm linh chúng tôi trong lúc ấy. Buổi tụng kinh tuy dứt nhưng lời kinh, tiếng mõ như còn văng vẳng bên tai. Một niềm luyến nhớ quê hương qua những mái chùa cong cong ẩn dưới tàn cây cổ thụ, và những hồi chuông tiếng mõ nhịp nhàng thanh thoát vang dội sáng chiều. Dưới ánh trang vàng, trong cảnh an bình của Ðại giác tự đêm hôm ấy, chúng tôi không thể nào vào phòng tiếp tục công việc được. Tất cả chúng tôi ngồi lại dưới hiên chánh điện để bàn về chương trình ngày mai. Vừa ngồi yên thì Ðại đức trụ trì đem một quyển kinh ra và nói gì với Thượng tọa Minh Châu chúng tôi không được hiểu. Sau đó Thượng tọa Minh Châu cho biết Ðại đức trụ trì hỏi: "Phải chăng vừa rồi chúng tôi đã tụng kinh A Di Ðà?". Tôi liền hiểu ra rằng: Vì thượng tọa Minh Châu nói được tiếng Trung Hoa và khi chiều chúng tôi có hỏi mượn kinh A Di Ðà nên Ðại đức tưởng là chúng tôi sẽ tụng tiếng Trung Hoa nên đã cùng đi Tịnh độ với chúng tôi. Té ra chúng tôi xem kinh chữ Trung Hoa nhưng tụng theo lối phát âm Việt Nam! Tôi trình bày ý kiến của tôi về cách thức học chữ Hán với Thượng tọa Minh Châu và thầy Huyền Vi. Sau một hồi thảo luận, tất cả chúng tôi đều đồng ý là lối học chữ Hán của người Việt Nam nói chung, của chư Tăng ni nói riêng chỉ có lợi trong địa hạt quốc gia nhưng không lợi trong địa hạt quốc tế. Muốn thâu hoạch được công dụng rộng rãi của sự học chữ Hán, chúng ta cần sửa đổi cách dạy và học, nghĩa là học chữ Hán như học sinh ngữ Anh, Pháp v.v... Phải học cho viết được và nói được. Hiện nay Trung Hoa là một thứ tiếng được nhiều người nói và viết trên thế giới. Học theo lối Việt Nam ta xưa nay chỉ để dùng trong nước và chỉ để đọc sách. Do đó, người dạy và người học cũng thiếu hào hứng. Thượng tọa Minh Châu nhờ biết phát âm theo người Trung Hoa, nên đã có thêm một lợi khí quí báu của ngôn ngữ. Thượng tọa giao thiệp được với người Trung Hoa bằng tiếng Trung Hoa, viết sách, và giảng dạy được cho người Trung Hoa và ngoại quốc biết tiếng Trung Hoa. Sau khi bàn thêm một vài chi tiết trong chương trình giáo dục của các Phật học viện Việt Nam, chúng tôi đi ngay vào việc chính: vạch chương trình chiêm bái và công việc cho ngày mai. Ðêm về khuya. Trăng càng sáng. Tiếng hát của dân làng từ xa vọng lại gợi lên trong chúng tôi một điều ước nguyện: Cầu cho chúng sanh an lành và dân tộc Việt Nam sớm ra khỏi cơn binh lửa. "Cầu cho chúng sanh an lành Ðồng nguỵện suôt đời theo gót người xưa Và nguyện cho cuộc đời hết khổ đau".(Về dưới Phật đài)
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 21:58:52 GMT -5
Thành Xá-Vệ Sáng ra, sau khi điểm tâm xong, chúng tôi lên đường đi đến thành Xá-vệ. Thành này cách Kỳ viên độ hai cây số nay chỉ còn những lũy đất bọc chung quanh một vùng đất hoang dại rộng độ 200 mẫu tây. Trèo lên một mô đất cao có lẽ là một pháo đài cũ, chúng tôi thấy rõ sông Aciravati, con sông được nhắc đến nhiều lần trong kinh điển. Bắt nguồn từ dãy Hy-mã-lạp-sơn cao khiết, vượt qua đồi núi đồi thơ mộng và những ruộng đồng xanh tươi, sông Aciravati bọc quanh một phần nửa chu vi thành Xá-vệ. Lòng sông xanh lơ, nước sông chảy từ từ. Cái vẻ thanh lịch của nó không kém gì sông Hương chảy ngang qua cố đô Phú Xuân. Ngoài thành xa xa rải rác những xóm nhà lá. Trong thành tuyệt nhiên không còn lấy một mái ngói hay một vách tường. Theo tài liệu được ghi chép trong kinh điển thì Xá vệ là kinh đô cuả nước Kosala. Ðô thành này đông đúc và giàu có nhất đối với những nước lâng bang lúc bấy giờ. Trên vọng lâu này, chúng tôi được Thượng tọa Minh Châu kể sự bái yết của vua Ba-tư-nặc và đọc lại bài thuyết pháp của Phật thuyết cho nhà vua. Lúc bấy giờ vua Ba-tư-nặc nghe đức Phật đến và thường trú lại Kỳ viên liền cùng với đoàn tùy tùng đến bái yết Ngài. Nhà vua chấp tay và nói: "Hạnh phúc thay cho đất nước hèn mọn của con được đức Thế Tôn quan tâm và thường trú. Tai biến và hoạn nạn sẽ không có cơ hội xảy ra trong lúc Ðấng Giác Ngộ có mặt tại đây. Hôm nay con rất sung sướng được chiêm ngưỡng dung mạo của Ðấng Thế Tôn. Xin Thế Tôn rưới cho nước cam lồ và ban Chánh Pháp dịu mát. Dục lạc là những gì mau hoại diệt. Còn pháp lạc là nguồn vui vô tận. Thế nhân, dầu là vua hay bá ánh vẫn đầy dẫy những phiền muộn. Chỉ có những bậc đức hạnh mới có sự tịnh lạc". Biết được lòng dạ nhà vua trước kia nghiêng nặng về dục lạc nhưng nay biết hướng thiện, không bỏ lỡ cơ hội tốt, đức Phật dạy: "Ngay những kẻ tầm thường vẫn có những đạo niệm cao khiết khi gặp được những bậc đức hạnh, phương chi một vị Quốc vương, người có quả báo tốt đẹp, lẽ dĩ nhiên người sẽ dễ dàng trong việc hướng thiện. "Như Lai sẽ vắn tắt một vài điều Chánh pháp. Người hãy lắng nghe: "Những hành động thiện hay ác của chúng ta mãi theo chúng ta như bóng theo hình. Ðiều cần thiết mà chúng ta phải có là tình thương. Hãy xem thần dân như con ruột con mình, đừng áp bức họ, đừng tổn hại họ, trái lại hãy bảo vệ họ như gìn giữ tay chân của người. Hãy sống với Chánh Pháp và đi mãi trên con đường lành. Ðừng nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống. Hãy gần gũi và thương yêu những kẻ nghèo khổ. "Ðừng nghĩ nhiều đến địa vị quốc vương và đừng nghe những lời nịnh họt. Không có một sự an lạc nào trong sự làm khổ mình bằng cách ép xác. Nên chú tâm vào Chánh pháp và áp dụng Chánh pháp trong cuộc sống. Chúng sanh đang bị bao quanh bởi những núi thành sầu khổ và chỉ có thể giải thoát bằng cách sống thật với chân lý. Tất cả những bậc trí giả đều ghê tởm những thú vui thấp hèn của xác thịt và trọn sống cho trí tuệ. Thử hỏi: làm sao chim chóc có thể đậu được trên một cây đang bốc cháy dữ dội? Chơn lý cũng vậy, không thể tìm thấy nó trong cuộc sống đầy dục vọng. Không nhận thức được như thế, dầu được xưng tụng là Thánh nhân cũng chỉ là kẻ dốt nát. Nhận thức được như thế là người thật có trí tuệ. Hãy dành nhiều thời giờ cho việc khai sáng tâm trí. Thiếu trí tuệ, cuộc đời trở nên vô nghĩa. Tất cả giáo nghĩa của các tôn giáo phải phụng sự cho trí tuệ loài người. Nếu không chúng không có lý do để tồn tại. "Chơn lý không phải là của riêng của Tu sĩ mà là của chung của nhân loại. Không có sự phân biệt giữa nhà tu và kẻ thế trong vấn đề tìm chơn lý vì rằng có nhiều nhà tu phải sa đọa trong khi đó có những kẻ thế lại lên cao. Làn sóng tham dục là tai nạn hiểm nghèo cho tất cả: nó nhận chìm tất cả, không ai tránh khỏi. Chỉ có nương thuyền trí tuệ mới có thể vượt qua nó được. Và tôn giáo chơn chánh là tôn giáo thức tỉnh người tự cứu mình ra khỏi cạm bẫy của Ma vương. "Vì không thể trốn thoát được quả báo của hành động do chúng ta gây ra nên chúng ta gây ra nên chúng ta hãy thực hành điều thiện, hãy kiểm soát tư tưởng đừng để suy nghĩ điều ác. Vì chúng ta sẽ gặt những gì chúng ta gieo. "Có những con đường từ nơi sáng đến chỗ tối và từ chỗ tối đến nơi sáng. Cũng có những con đường đưa từ nơi mờ mờ đến nơi tối thẳm và từ chỗ sáng ít đến nơi sáng chiều. Người có trí luôn luôn mở mắt để đón nhận ánh sáng càng nhiều càng tốt. Họ luôn luôn tiến mạnh trên con đường sáng để được đến gần với chân lý. "Hãy tỏ ra cao khiết bằng cách sống với đức hạnh, và trau đổi trí huệ. Hãy nhận chân và suy tư nhiều về sự thấp kém của vật dục và sự phiền nhiễu của cuộc đời ô trược. "Hãy nâng cao trí sáng và trung kiên với lý tưởng. Ðừng xem thường những đức hạnh cần phải có của một đấng Quân vương. Hãy tìm hạnh phúc chính trong lòng người, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài và như vậy là người xây dựng uy danh một cách vững chắc". Sau khi trang tiếp những lời vàng ngọc cuả Ðức Thế Tôn, Vua Ba-Tư-nặc hứa nguyện sẽ là một đệ tử chân thành của đức Phật." Thượng tọa Minh Châu nói thêm: -- "Chính nhờ sự quy ngưỡng của Vua Ba-tư-nặc mà Chán pháp được phổ cập một cách mau chóng, khắp lãnh thổ nước Kosala lúc bấy giờ". Mặt trời lên cao. Chúng tôi phải rời vọng lâu và tiếp tục đi. Câu chuyện quy ngưỡng của Vua Ba-tư-nặc và những lời thuyết pháp hợp cơ của đức Phật làm cho chúng tôi liên tưởng đến một vài trường hợp trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và quốc gia Việt Nam. Những thời kỳ quốc gia Việt Nam được an trị và hiển hách về chiến công cũng như văn học chính là những thời kỳ Phật giáo thạnh hành. Vua chúa biết tu tâm dưỡng tánh, có lòng thương dân. Dân chúng tôn trọng đạo đức, quên tình riêng, nghĩ đến nghĩa chung. Ấy là những triều đại Ðinh, Lê, Lý, Trần. Trái lại, những lúc vua chúa hoang dâm vô độ, tham quyền cố vị và nếu có nghĩ đến đạo giáo cũng chỉ tế tự để cầu phúc cho mình; những thời thần dân ham chuộng danh lợi, hiềm khích tư thù, nếu có học đòi văn chương đạo đức cũng chỉ để mưu lợi và tiến thân, thì chính là những lúc nước nhà phải gặp nhiều tai loạn. Ấy là những triều đại Long Ðĩnh, cuối Trần, Trịnh, Nguyễn v.v... Chúng tôi nghĩ thêm: bổn phận đầu tiên của những người lãnh đạo là phải thật có đạo đức, thật tâm tìm hiểu những tôn giáo hiện hữu trong nước, khuyến khích dân chúng lựa chọn và thật sống theo những đạo giáo chơn chánh. Sự kỳ thị tôn giáo nơi những người nắm chính quyền là một nguyên nhân lớn lao của sự chia rẽ dân tộc. Chiến tranh tôn giáo hoặc nóng hoặc lạnh đều nguy hại cho đoàn kết dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trái lại, sự thật sống theo tôn giáo của dân chúng giúp cho nhà cầm quyền một nửa công việc trị an, nhất là về sự kiện tụng. Sự khác nhau về tôn giáo của dân chúng không đáng lo ngại, mà nên sợ dân chúng không sống đúng theo lời dạy của giáo chủ họ. Vì không có một vị giáo chủ chơn chánh nào lại dạy tín đồ ghét bỏ tha nhân, mưu hại, chém giết đồng bào, vong ân, phản quốc. Các Ngài đều dạy: thương yêu giúp đỡ kẻ khác, quên thù trọng nghĩa v.v... Ði đến đoạn đường hướng về phía Bắc, rẽ vào phía Ðông thì đến Pakki Kuti. Ðây là mô đất lớn và cao nhất trong thành. Theo ký sự của ngài Huyền Trang và ngài Nghĩa Tịnh thì đây là di tích của tháp kỷ niệm sự cải hóa cuả Angulimala. Sau khi quan sát toàn cảnh Pakki Kuti, tất cả chúng tôi đến nghỉ mát dưới một gốc cây. Thầy Pasadika tiếp tục thi hành bổn phận, kể lại câu chuyện cải hóa của Angulimala: --"Lúc bấy giờ ngoài thành Xá-vệ này có một tướng cướp tên Angulimala. Tướng cướp này quấy phá làng nước đã lâu và mỗi khi giết được người thì chặt lấy một ngón tay xâu thêm vào cái vòng chuỗi ngón tay đeo nơi cổ. Quân lính triều đình chịu bó tay trước sức mạnh phi thường và tài biến hiện cuả tên sát nhân này. Khi đến ở tại Kỳ-viên, nghe tin này đức Thế Tôn muốn cải hóa Angulimala. Một hôm Ngài đi tìm Angulimala. Nhiều người khuyên can không nên đi, nhưng Ngài vẫn làm công việc của Ngài. Thấy được Ngài Angulimala rượt theo với niềm vui sướng là có người chết thay cho mẹ chàng và chàng sắp hoàn thành được vòng hoa gồm một ngàn ngón tay của một ngàn người. Và như vậy chàng sẽ được điểm đạo theo lời dạy của đấng Tôn sư. Với một tốc lực rất nhanh, nhưng không tài nào chạy kịp đức Phật. Angulimala tức giận tự nhủ: "Quái gở! Ta đã từng chạy mau hơn voi, ngựa xe, nhưng tại sao hôm nay ta bất lực thế này: không đuổi theo kịp người đạo sĩ đang đi một cách khoan thai đàng kia?" Chàng đứng lại thét lớn: - "Hãy dừng lại! Người đạo sĩ kia!". Ngài dừng lại. Ðợi Angulimala đến gần, đức Phật bảo: "Này Angulimala! Ta dừng lại để cho ngươi được việc. Nhưng ngươi có nên dừng lại cái nghề giết hại độc ác của ngươi không? Nếu được, Như Lai sẽ giúp ngươi trở về con đường chơn chánh. Như Lai tin rằng thiện tâm chưa chết trong lòng ngươi. Nêu ngươi ban cho nó một cơ hội thuận tiện, nó sẽ sống lại, thay đổi đổi đời ngươi và làm cho ngươi được an vui". Angulimala cảm động và thấy mình như bị đánh ngã bởi tiếng nói từ bi, chàng tự bảo: "Cuối cùng người Ðạo sĩ này thắng phục được ta". Chàng kính cẩn bạch với Ðức Phật: - "Bạch Ngài, hôm nay, tiếng nói nhiệm màu của Ngài đã thức tỉnh con. Từ nay con xin cương quyết từ bỏ tất cả những hành động tàn bạo. Xin Ngài từ bi dắt díu con trên con đường lành". Liền khi ấy Angulimala quăng xuống hố sâu vòng ngón tay mà lâu nay chàng đã mang một cách hãnh diện, rồi hạ mình kính lạy đức Phật và xin Ngài thâu nhận làm đệ tử. Ðức Phật bảo: - Người đã muốn, hãy theo Như Lai. Từ lâu, quân lính của triều đình cũng như chính vua Ba-tư-nặc lấy làm tức giận và nhục nhã vì không trị nổi Angulimala. Vua mất mặt với thần dân và các nước láng giềng về vụ Angulimala. Một hôm Vua đến bái yết đức Phật, Ngài hỏi: - Ðại vương! Việc gì đã xảy ra? Có điều gì rắc rối với Vua Bimbisara ở Magadha với vua Licchavis nước Vesali hoặc một kẻ thù nào khác chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng có gì rắc rối với các nước ấy, duy có một điều đáng tủi hổ cho con là con đã không trị nổi Angulimala. Nó phá hại làng xóm và giết chóc dân chúng quá ghê rợn! - Này Ðại vương! Nếu nay người thấy Angulimala râu tóc cạo sạch trong bộ cà sa vàng của một tu sĩ đức hạnh thì người đối với y như thế nào? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ vái chào và mời y ngồi. Con sẽ dâng cúng các phẩm vật như con đã dâng chư Ðại Ðức ở đây. Nhưng Bạch Thế Tôn! Bóng mát đức hạnh làm sao che đến con người hung bạo ấy được? Ngay lúc ấy Ðức Phật đưa tay chỉ về phía bên phải nơi Angulimala ngồi và nói: - Này Ðại vương! Ðây là Angulimala. Vua Ba-Tư-nặc vừa ngạc nhiên vừa run sợ. Thấy vậy, đức Phật dạy: - Không có gì đáng sợ ở nơi đây cả. Ðại vương! Nhà vua lấy lại bình tĩnh đi thẳng đến nơi Angulimala đang ngồi và nói: - Có phải Ngài thật là Angulimala không? - Tâu Ðại vương, tôi chính là Angulimala. - Thân phụ và thân mẫu của Ngài thuộc dòng họ nào? - Thân phụ cuả tôi thuộc về họ Gagga, tâu Ðại vương, và thân mẫu tôi là Mantani. - Ðức hạnh thay người con của Gagga và Mantani. Tôi sẽ dâng hiến lên người tất cả những vật cần dùng. Lúc bấy giờ Ðại đức Angulimala đã xin đức Phật được ở vào một nơi thanh tịnh để tiện bề thiền quán, và chỉ mặc ba y phấn tảo (loại y dùng giẻ rách xấu nhớp lượm ở những đống rác may lại) nên Ðại đức từ chối không nhận thêm phẩm vật của nhà vua. Ðứng dậy hướng về Ðức Phât, Vua Ba-tư-nặc tán thán: "Bạch Ðức Thế Tôn! Mầu nhiệm thay! Kỳ diệu thay! Ngài là đấng đủ sức điều trị những kẻ khó điều trị, thắng phục những kẻ khó thắng phục, làm thanh tịnh những kẻ loạn động. Những kẻ mà con không chinh phục được bằng lưỡi gươm thì Ngài đã chinh phục được bằng lòng từ bi". Một ngày kia, đang đi khất thực trong thành. Ðại đức Angulimala bị dân chúng liệng đá, đánh đập đến phun cả máu đầu, bình bát bể nát, y áo tả tơi. Ðại đức đến trình diện trước đức Phật. Ngài dạy: - Angulimala! Hãy can đảm và cố gắng chịu đựng tất cả khổ nhục nhỏ để được sự an lạc lớn!. Ðại đức Angulimala hoan hỷ tiếp nhận lời dạy của đức Phật. Với một niềm an lạc phát ra từ tâm hồn giải thoát, Ðại đức nói: - Ai tỏ ra tinh tấn tại chỗ không có tinh tấn, ai lấy đức hạnh bao trùm quá khứ của mình, ai trong tuổi trẻ bám víu vào đức Phật, người ấy như mặt trăng chiếu tỏa trần gian với ánh sáng. Hãy để cho kẻ thù của ta nghe thánh giáo này, tuân theo đức tin này và đi theo những người con của trí huệ. Hãy để cho kẻ thù của ta nghe đúng lúc lời kêu gọi tình thương này, một lời kêu gọi nhu mì nhẫn nại, và hãy sống đúng theo lời kêu gọi ấy. Ta, kẻ đạo tặc được gọi là "Vòng hoa ngón tay người" sống và bị trôi lăn xuống dòng cho đến khi "Người" đưa ta đến đất liền. Là "Vòng hoa ngón tay người", ta tắm trong máu đào; nhưng nay ta đã được giải thoát!" Câu chuyện trên chính chúng tôi được nghe và kể đi kể lại nhiều lần, nhưng hôm nay nó vẫn mang đến cho chúng tôi rất nhiều thú vị. Có lẽ vì chúng tôi đang được thấy tận mắt di tích lịch sử nên ý nghĩa câu chuyện vẫn còn sống động. Theo thiển ý, đức Phật và giáo pháp của Ngai đã cải hóa được nhiều Angulimala rồi. Nhưng hiện nay còn biết bao nhiêu Angulimala đang sống tung hoành khắp nơi trên mặt đất, đang gây tang tóc cho biết bao nhiêu người lương thiện cũng vì họ chưa gặp được Chánh pháp . Nguyện cầu cho những đệ tử của đức Phật đầy đủ đạo hạnh và oai đức để mang chánh pháp của đức Phật đến với những Angulimala hiện tại đó. Chúng tôi đi viếng thêm một di tích lịch sử nữa là Kacchè Kutè. Cũng theo các nhà chiêm bái Trung Hoa, mô đất cao có hình 2 tháp tròn này là tháp cuả ông Sudatta (cũng gọi là Cấp-cô-độc), một Phật tử hộ pháp đắc lực lúc Phật còn tại thế như đã được nói ở trên. Trở về đến Ðại Giác tự, vừa đúng giờ thọ trai Ðại đức trụ trì đang ngồi chờ chúng tôi. Dùng cơm xong chúng tôi trở về khách sạn nghỉ ngơi. Chiều hôm ấy, sau những giờ làm việc riêng, tất cả chúng tôi đều trở lại thăm Kỳ viên lần chót và tĩnh tọa ở đây cho đến hoàng hôn mới ra về. Tối lại, chúng tôi tụng kinh Kim Cang. Có cả thầy Pasadika đi tụng nữa. Nhưng thầy ngồi im lặng thiền quán cho đến cùng. Sau buổi kinh, tất cả chúng tôi đều ra ngồi lại tại chỗ hôm qua để ngắm trăng và bàn bạc. Trong khi chờ Thượng tọa Minh Châu trở lại, thầy Pasadika hỏi chúng tôi vừa rồi đã tụng kinh gì. Chúng tôi trả lời là tụng kinh Kim Cang. Và luôn tiện chúng tôi đọc, dịch và giảng sơ những bài kệ mà chúng tôi nghĩ rằng có thể là đại ý của toàn bộ kinh cho Thầy nghe. "Tất cả cho các pháp hữu vi, Như chiêm bao, ảo thuật, bọt nước. Như sương mai, như điện chớp Cần phải quán tưởng như thế Nếu thấy Như Lai qua sắc tướng Nghe Như Lai qua âm thanh, Người ấy đã tu theo tà đạo, Không thể thấy được Như Lai". Thầy lấy làm hoan hỷ và nói với chúng tôi: "Hiện tại kinh điển Ðại Thừa bằng Phạn văn (Sanskrit) rất hiếm tại Ấn. Ở Nepal chỉ còn một ít nơi một vài nhà học giả uyên thâm. Gần đây các Ðại học đường Bombay, thingya, Santiniketan, Calcuta, Benarès v.v... có cho in lại một bản luận của ngài Thế Thân, Vô trước, Long Thọ v.v... nhưng chưa thấm vào đâu đối với kho tàng kinh điển chữ Phạn. Quí thầy biết được chữ Hán là có được cái chìa khóa để mở kho tàng giáo lý cao rộng của Ðại thừa. Tôi ao ước sẽ được học chữ Hán trong một ngày gần đây". Câu chuyện chúng tôi đang còn hào hứng thì Thượng tọa Minh Châu trở lại và sau đó chúng tôi bàn về công việc từ giã và hành trình ngày hôm sau. Ðại Kỳ-viên Tòng lâm ở vào một nơi xa cách phố phường nên sự giao thông có bề trở ngại. Chúng tôi phải chờ ở ngã ba gần 2 tiếng đồng hồ mới đón được xe buýt. Trong thời gian đợi xe, một đoàn con nít độ chín, mười em, tuổi xấp xỉ nhau, thấy chúng tôi là người lạ, nên bu quanh để xem. Ðọc sách mãi cũng chán, chúng tôi đứng dậy chơi với chúng. Học Hindi hơn ba tháng trời nhưng chúng tôi chỉ nói được một ít tiếng một và vài câu giản dị như Namaste (chào em), Tumkomakan kuha hê? (Nhà em ở đâu?) Tumbarakyaman hô? (Em tên gì?), Bahút accha (tốt lắm) và Dannabat (cám ơn). Thế mới biết "trị dị hành nan". Tuy chỉ dùng có mấy câu ấy, chúng tôi đã làm quen được với tất cả các đoàn. Nói rằng chơi chớ thật ra chúng tôi học với chúng. Mượn một quyển sách tập đọc, hình như của lớp tư thì phải, chúng tôi tập đọc Hindi, dưới sự hướng dẫn của chúng. Mỗi lần chúng tôi đọc sai là chúng cười ồ lên rồi sửa lại cho chúng tôi. Hết đọc, chúng tôi mượn bảng đen và xin chút phấn viết chánh tả bằng cách hỏi tên từng em một. Những lỗi chánh tả của chúng tôi được chúng sửa ngay sau khi viết. Một đôi khi chúng tôi làm bộ ngây ngô, ngớ ngẩn và như thế là tạo cho chúng một trận cười thích thú. Chúng tôi đã thực hành được một khẩu hiệu của Gia đình Phật tử: "chơi mà học". Mặt trời đã lên cao. Nắng mai. Nắng mai sưởi ấm chúng tôi. Vài người đi đường thấy đám đông xúm đến. Họ tỏ vẻ hoan hỉ và hãnh diện khi thấy chúng tôi là người ngoại quốc cố gắng học tiếng mẹ đẻ của họ. Lòng chúng tôi rộn lên một niềm vui tươi trẻ mãi để học cho bớt dốt. Lớp học ngoài trời này bổ ích cho chúng tôi rất nhiều. Vì một mình chúng tôi là học trò mà có thể đến gần 10 giáo sư, em nào cũng làm thầy chúng tôi được vì chúng đều biết đọc và viết Hindi. Câu "Học bất cứ hạ vấn" trong trường hợp này đối với chúng tôi thật là chí lý. Sang đây chúng tôi cảm thấy như nhỏ và trẻ lại. Ứ, không nhỏ sao được vì chúng tôi đang còn đi học kia mà! Một tấm quảng cáo bên đường là một bài học tập ngắn của chúng tôi. Một đám rước, những người đàn bà che mặt v.v... đều làm cho chúng tôi đặt thành những câu hỏi. Như một đứa bé nhà quê đi phố với mẹ, nhất nhất cái gì chúng tôi cũng hỏi Thượng tọa Minh Châu. Nhiều khi chúng tôi làm cho Thượng tọa bực mình vì những câu hỏi không đâu. Chúng tôi quả là đang đi học và vừa đi vừa học. Xe buýt đến. Chúng tôi từ giã Xá-vệ, kinh thành vang bóng một thời khi Vua Ba-tư-nặc trị vì và đức Thế Tôn giáo hóa ở đây. Những tiếng Namasté thân ái và những cái vẫy tay hồn nhiên của những em bé Xá-vệ làm chúng tôi càng thêm bùi ngùi lưu luyến. Ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang đều có viếng thăm thành Xá-vệ, và thành này đã mất địa vị một đô thị lớn của thời xưa. Ngài Pháp Hiển chép: "Từ đây về phía nam độ 8 do tuần, chúng tôi đến nước Kiều-tất-la (Kosala) và thành Xá vệ (Sràvasti), dân số thành này rất thưa thớt khoảng độ 200 gia đình mà thôi. Vua Ba-tư-nặc (Prasenajit) trì vị tại nước này. Sau này các tháp được dựng lên tại di tích ngôi chùa của bà Mahaprajapati (Ma-ha-Bà-xà-ba-đề), tại ngôi nhà của Trưởng giả Tu-đạt (Sudatta), tại các chỗ Ương-quật-ma (Angulimàla) thành đạo và làm lễ trà tì sau khi nhập Niết bàn. Các ngoại đạo Bà-la-môn sanh tâm tật đố muốn hủy hoại các tháp ấy, nhưng trời bỗng nổi sấm chớp ầm ầm và việc ác của chúng không thành tựu. Khoảng 1.200 bước ngoài cửa thành phía nam, về mặt phía tây con đường là một tinh xá do trưởng giả Tu-đạt dựng lên. Tinh xá này hướng về phía đông và trước hai phòng lớn của tinh xá co dựng hai cột trụ đá. Trên trụ đá, phía tả có tạc hình Pháp luân, phía hữu có tượng con trâu, nước hồ trong lặng, cây cỏ tốt tươi, các hoa trăm sắc, trông thật khả ái. Chỗ này tức là Kỳ-hoàn-tinh xá (Jetavana). Khi Ðức Phật lên cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsas) để giảng pháp cho thân mẫu trong 90 ngày. Vua Ba-tư-nặc tưởng nhớ đến Phật và bảo khắc một tượng Phật bằng gỗ ngưu đầu chiên đàn (Gosirsha). Vua đặt tượng này chỗ đức Phật thường ngồi. Khi đức Phật về lại tinh xá, tượng này từ chỗ ngồi đứng dậy và nghinh tiếp Ðức Phật. Ðức Phật nói: "Ngươi hãy lui về chỗ ngồi cũ. Sau khi Ta nhập Niết Bàn, người hãy làm kiểu mẫu cho bốn chúng theo đó mà tạo tượng". Tượng ấy nghe nói như vậy bèn về ngồi chỗ cũ. Pho tượng này là tượng Phật đầu tiên và người đời sau bắt chước kiểu mẫu này. Rồi đức Phật đến ở một tịnh xá nhỏ khác cách chỗ của tượng Phật 20 bước về phía nam. Tịnh xá Kỳ hoàn trước có đến 7 tầng. Vua quan, nhân dân các nước tranh nhau cúng dường, treo các tràng phan, bảo cái, tán hoa, thắp hương, đốt đèn suốt cả ngày đêm không bao giờ dừng nghỉ. Một hôm có con chuột tha một tim đèn đương đỏ và đốt cháy tràng phan, bảo cái, cả tòa lầu 7 tầng đều bị thiêu sạch. Vua, quan, các nước cùng nhân dân than khóc rất ảo não, sợ rằng bức tượng chiên đàn cũng bị cháy mất. Nhưng năm sáu ngày sau, khi mở cửa một tinh xá nhỏ về phía đông, thình lình họ thấy tượng Phật còn nguyên vẹn và vô cùng vui mừng, họ liền dựng lại một tinh xá 2 tầng và thỉnh tượng Phật về chỗ cũ. Khi mới đến tinh xá Kỳ-hoàn, ngài Pháp Hiển và Ðạo Chánh nghĩ đến đức Phật đã ở tại tinh xá này đến 25 năm, các ngài thương tâm hối tiếc đã phải sanh ở biên đại. Nghĩ đến các bạn đồng đi chiêm bái ở các nước, người thì trở về xứ sở, kẻ thì giữa đường mạng vong, ngày nay nhìn đến chỗ Phật vắng bóng từ nhau, tâm hồn hai nhà lữ hành không khỏi xao xuyến bi cảm! Chư Tăng ở đây ra tiếp đón ngài Pháp Hiển và Ðạo Chánh. Họ hỏi: - Các ngài từ nước nào lại? - Chúng tôi từ nước Hán đến đây, hai vị này trả lời. Họ ngạc nhiên tán thán: - Kỳ thay! Kỳ thay! Người ở nước xa đến tận đây cầu pháp. Và họ nói với nhau rằng từ trước cho đến nay, chư tăng đại đức nối tiếp tương truyền, chưa ai thấy chư Tăng người Hán đến đây cả. Bốn dặm về phía tây bắc của ngôi tịnh xá có một cánh rừng tên là "Mắt sáng trở lại". Xưa kia có 500 người mù ở gần tinh xá này, đức Phật thuyết pháp cho họ và mắt họ được sáng trở lại. Họ hoan hỉ cắm các cây gậy xuống đất và đảnh lễ đức Phật. Các cây gậy mọc rễ và lớn lên. Dân chúng kính trọng chỗ này không dám chặt các cây ấy. Nhờ vậy cây lớn thành rừng, được gọi là rừng "Mắt sáng trở lại". Sáu, bảy dặm phía đông bắc tinh xá Kỳ-hoàn là tinh xá của Tỳ-xá-khư dựng lên để cúng dường đức Phật và Chúng Tăng. Di tích hiện còn. Kỳ hoàn tinh xá đại viện có hai cửa, một cửa hướng đông, một hướng bắc. Chính tại vườn này Trưởng giả Tu Ðạt trải vàng lót đất để mua vườn. Tinh xá được dựng tại Trung tâm của vườn và đức Phật ở tại chỗ này lâu hơn tất cả chỗ khác. Các tháp với nhiều tên khác nhau được dựng tại các chỗ đức Phật thuyết pháp độ sanh, kinh hành và ngồi thuyền. Chỗ này cũng là chỗ mà nữ ngoại đạo Tôn Ðà Lợi (Sundari) bị giết để vu oan giáng họa đức Phật. Từ cửa phía đông của tinh xá Kỳ hoàn khaỏng 70 bước phía tây con đường là chỗ mà đức Phật biện luận với 96 ngoại đạo. Vua, quan, nhân dân, cư sĩ tụ họp đông đủ để dự thính. Lúc bấy giờ có một nữ ngoại đạo tên là Chiên-giá-ma-na (Chin Chimara) vì lòng tật đố độn một đống áo quần vào bụng làm như có thai vào giữa hội trường buộc tội đức Phật đã tư thông với nàng. Lúc ấy Thiên Ðế Thích (Sakra) liền hóa thành một con chuột trắng cắn đứt sợi dây khiến cho đống áo quần rơi xuống đất. Sau đó đất nứt ra và nàng Chiên-giá-ma-na rơi sống địa ngục. Cũng chính tại chỗ này Ðề Ba Ðạt Ða (Devadatta) dùng móng tay đã tẩm thuốc độc để hại đức Phật và cũng bị rơi ngay vào địa ngục. Tất cả những chỗ này đều được ngưòi đời sau ghi dấu. Tại chỗ đức Phật biện luận với ngoại đạo, một tinh xá cao khoảng 6 trượng được dựng lên. Trong tinh xá có tượng đức Phật đang ngồi. Phía đông con đường có một miếu thờ thần tên là "Anh Phủ" (bóng che) miếu này cao 6 trượng và do các ngoại đạo Bà-la-môn dựng lên trước một ngôi tịnh xá, tại chỗ biện luận. Miếu này có tên như vậy, vì khi mặt trời về phía Tây thì bóng của ngôi tinh xá Phật che cái miếu thần, nhưng khi mặt trời ở phía đông thì bóng của ngôi miếu thần ngã về phía bắc và không bao giờ che được ngôi tinh xá Phật. Các ngoại đạo thường cử người săn sóc miếu, quét dọn, tưới nước, đốt hương, thắp đèn và cúng dường; nhưng đến sáng lại thì các ngọn đèn biến mất và được tìm thấy tại ngôi tinh xá Phật. Các vị Bà-la-môn tức giận nói rằng: "Bất chính! Các Sa môn lấy đèn để cúng dường Phật, chúng ta phải đón chúng lại". Ðêm ấy họ canh gác và thấy các vị thần mà họ thờ lại lấy các cây đèn đi nhiễu tinh xá Phật ba vòng rồi đem cúng dường Ðức Phật, và thình lình biến mất. Khi ấy các vị Bà-la-môn mới nhận rằng đức Phật lớn hơn các vị thần mình thờ, bèn từ bỏ gia đình xuất gia nhập đạo. Tương truyền sự kiện ấy mới xảy ra gần đây. Chung quanh tinh xá Kỳ hoàn có đến 98 ngôi chùa ngôi nào cũng có chư Tăng túc ngụ, chỉ trừ một ngôi là không có người. Tại trung Ấn Ðộ có tất cả 96 phái ngoại đạo tự cho là biết tất cả việc hiện tại và tương lai. Mỗi phái đều có đồ chúng và theo hạnh khất thực, chỉ không dùng bình bát mà thôi. Họ cũng cầu phước, lập lại các "phước đức xá bên đường" có chỗ túc ngụ, giường ghế, ăn uống cung cấp cho các người chiêm bái, các bậc xuất gia, các khách qua lại nhưng mục đích của họ trong khi cầu phước không giống với các Phật tử. Chính tại chỗ này các đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa chỉ cúng dường ba đức Phật quá khứ mà không cúng dường đức Phật Thích Ca. Bốn dặm phía đông nam thành phố Xá-vệ là chỗ mà đức Phật đứng bên vệ đường trong khi vua Lưu Ly (Virudhaka) đem lính đi sát hại dòng họ Thích Ca, một ngọn tháp được dựng lên tại chỗ này. 50 dặm phía Tây thành phố này, các nhà chiêm bái đến một ấp gọi là Ðô Duy (Tadwa). Chính tại chỗ này, đức Phật Ca Diếp đản sanh, gặp phụ thân và nhập Niết bàn, các tháp được dựng lên tại chỗ. Một tháp lớn cũng được xây trên Xá lợi của đức Phật Ca Diếp. Ký sự của ngài Huyền Trang Từ chỗ này đi đến phía đông bắc khoảng 500 dặm đến nước Thất La Phiệt Tất Ðể (Sràvasti, xưa gọi là Xá vệ là lầm vậy). Thành chu vi hơn 6.000 dặm có trăm ngôi già-làm và hàng ngàn đồ chúng. Chúng Tăng đều học Chánh lượng bộ (Sammitiya). Khi Ðức Phật tại thế, Ba-la-tư na-thị-đa (Tầu dịch là Thắng Quân, xưa gọi là Ba-tư-nặc) là kinh đô của Vua. Trong thành còn có nền móng cũ của cung điện nhà vua. Ði về phía Ðông không bao xa có nền móng cũ của một Ðại giảng đường mà Vua Thắng Quân đã dựng lên cúng dường Ðức Phật. Có ngôi tháp dựng tại tinh xa Tỳ-kheo-ni do Di mẫu đức Phật tên là Bát-la-xà-bát-đề (Prajapat) Tàu dịch là Sanh Chủ, xưa gọi Ba-xà-ba-đề là sai vậy) dựng lên phía đông lại có ngọn tháp dựng lên tại nhà của Tất đạt đa (Sudatta, Tàu dịch là Lạc Thí, xưa gọi là Tu Ðạt tức lầm vậy). Bên ngôi nhà này có ngọn tháp lớn là chỗ mà Ương-lư-lộc-ma-ha (Angulimala, xưa dịch Ương-quật-ma-la là lầm vậy) bỏ tà theo chánh. Năm, sáu dặm phía nam thành này là ngôi rừng Thệ Ða (Jetavana, Tàu dịch là Thắng Lâm, xưa gọi là Kỳ Ðà tức lầm vậy). Ðây là ngôi vườn của Cấp-cô-độc (Anàthapindika), xưa có ngôi già-lam tại chỗ này, nay bị hủy hoại cả. Bên tay trái và bên tay phải của phía đông có dựng hai trụ đá cao hơn 70 thước, do vua Vô Ưu dựng lên. Các ngôi nhà đều hư nát, chỉ trừ một ngôi nhà gạch, trong ấy có ngôi tượng Phật bằng vàng. Khi đức Phật lên cõi trời Ðạo lợi thuyết pháp cho mẫu thân. Vua Thắng Quân (Ba Tư Nặc) khởi tâm luyến mộ. Vua Văn Xuất Ái (Udayara, tức Ưu Ðiền) bèn tạc tượng Phật trên gỗ chiên đàn và cũng tạc tượng vàng này. Sau ngôi Già lam không xa là chỗ ngoại đạo Phạm Chí giết một kẻ kỹ nữ để hủy báng Phật. Hơn 100 thước phía đông ngôi già lam là một hố sâu, chính là chỗ Ðề Bà Ðạt đa dùng thuốc độc hại Phật nên bị rơi vào địa ngục. Về phía nam lại có một hố sâu lớn khác, chính là chỗ của Tỳ-kheo Cù Già Lê (Kokalika) hủy báng Phật, thân sống rơi vào địa ngục. Hơn 800 thước về phía Nam lại có một chỗ của Bà-la-môn tên là Chiếu Giá (Chandamana), vì hủy báng Phật, thân sống rơi vào địa ngục. Ba hố này rất sâu đến nỗi không thấy đáy. Hơn 700 bước phía đông Già-lam có một tinh xá rất cao lớn. Trong tinh xá này có một tượng Phật ngồi xoay mặt về hướng Ðông. Ðây là chỗ xưa kia đức Như Lai biện luận với ngoại đạo. Một ngôi miếu thần về phía đông to lớn bằng ngôi tinh xá. Khi mặt trời di chuyển, bóng của ngôi miếu thần không che được ngôi tinh xá Phật, trái lại bóng tinh xá Phật che ngôi miếu thần. Ba bốn dặm về phía đông là một ngọn tháp. Chính là chỗ xưa kia ngài Xá Lợi Phất biện luận với ngoại đạo. Hơn 600 dặm về phía Tây bắc kinh thành là di tích của một ngôi thành cũ. Ðây là kinh thành của phụ thân đức Phật Ca Diếp. Phía Nam là chỗ đức Phật gặp phụ thân lần đầu tiên sau khi thành đạo. Phía Bắc là ngôi tháp dựng lên bức tượng toàn thân của Phật.
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 21:59:55 GMT -5
SANCHI Ðức Phật do muôn ngàn bàn tay đẹp lanh từ xưa đến nay đã tạo khắc Ngài vào đá, đồng, cẩm thạch, là biểu trưng của nền văn hóa Ấn Ðộ hay ít nhất cũng là một khía cạnh của nó. "Ðức Phật tĩnh tọa trên tòa sen bất động trước vật dục, chẳng nao núng vì bão tố thế gian. Ngài ngự vào nơi cao vời! "Tuy nhiên nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy sau sự trầm tĩnh bất động ấy có một đại nguyện từ bi kỳ diệu và mạnh mẽ hơn dục vọng và tình cảm của chúng ta rất nhiều. "Từ đôi mắt hình như nhắm lại ấy chiếu ra một luồng sáng tinh thần và một sức sống tràn ngập. Thời gian tuy lùi về quá khứ nhưng đức Phật như vẫn không xa chúng ta, lời vàng của Ngài như văng vẳng và nói với chúng ta rằng: "Ðừng chạy trốn sự tranh đấu của cuộc đời mà hãy nhìn thẳng nó với đôi mắt bình tĩnh và tìm cho được những cơ hội tốt hơn để tiến bộ..." (Trích trong diễn văn của Thủ tướng J. Nehru đọc vào dịp lễ khánh thành ngôi chùa mới tại Sanchi,1952). Từ ga Agra đến Sanchi, tàu hỏa phải chạy 10 tiếng đồng hồ. Tàu chuyển bánh lúc 10 giờ tối đến 7 giờ sáng mới đến Sanchi. Sau hai ngày viếng thăm Agra và Mathura, chúng tôi như ngộp thở vì không khí bụi bặm, cảnh vật ồn ào của thị thành. Có lẽ để bù đắp lại một phần nào và nhờ tài ngoại giao của Thượng tọa Minh Châu, vị xa trưởng dành cho chúng tôi một phòng tàu đặc biệt. Chúng tôi được nghỉ ngơi tự do và yên ổn. Tiết trời lành lạnh nên sau khi tịnh niệm xong là tất cả chúng tôi yên giấc đến 4 giờ sáng, mặc cho con tàu la hét, ngưng, chạy và lướt qua sương gió bụi mờ. Trời vừa tảng sáng, những dãy đồi xanh xanh, xa mờ ẩn hiện trong sương bạc, dần dần đi lại đến gần chúng tôi. Tàu ngừng, chúng tôi bước chân lên Thánh địa Sanchi. Chùa tháp xám nâu nổi bật lên giữa rừng xanh và màu trắng vàng của buổi sáng đẹp trời. Cảnh sắc ở đây thật là xinh đẹp, mới xem qua giống như mấy ngọn đồi ở Phật học viện Nha Trang. Bước ra khỏi ga, lòng chúng tôi vui lên như để hòa nhịp với lá cờ năm sắc phất phơ tung bay trên chùa hội quán của hội Ma-ha Bồ đề. Chúng tôi đem hành lý vào và lưu trú tại đây. Ðại đức trụ trì người Tích Lan, tiếp chúng tôi với đạo tình mật thiết. Chúng tôi dùng bữa sáng ở đây. Buổi điểm tâm này rất đặc điểm đối với chúng tôi vì dùng thức ăn Tích Lan và không có nĩa, muỗng, đũa như các nơi khác. Chúng tôi phải "ra tay" như người Tích Lan và Ấn Ðộ. Ðây là lần đầu tiên chúng tôi "ăn bốc" từ ngày sang Ấn. Nhưng có cái quí là nhà bếp soạn toàn đồ chay cho chúng tôi. Trong bữa điểm tâm, Ðại đức trụ trì cho chúng tôi biết là hội sẽ kiến tạo ở đây một ngôi chùa đủ tiện nghi để sau này chư Tăng quốc tế đến tu học hoặc nghiên cứu. Chúng tôi rất hoan hỉ và hy vọng Phật sự chóng thành tựu. Trên đường chiêm bái các nơi, chúng tôi gặp rất nhiều phái đoàn chư Tăng Tích Lan Assam cùng các Phật tử Miến Ðiện, Tích Lan, Thái Lan v.v... Họ rất sung sướng được trở về thăm Phật địa, nơi quê cha đất tổ, từ đường chung của Phật tử năm châu. Nghĩ đến chư Tăng cùng các Phật tử Việt Nam, chúng tôi hơi tủi vì rất ít Phật tử Việt Nam sang chiêm bái Phật địa, cũng như khắp các Phật tích không chỗ nào thấy có chùa Việt Nam, trong khi đó Thánh địa nào cũng có chùa của các nước Phật giáo. Do đó, Phật tử các nước đi chiêm bái rất dễ dàng, đến mỗi nơi là có chỗ lưu trú, có chư Tăng của họ ở đây hướng dẫn; hơn nữa sự xin giấy tờ và phương cách giao thông cũng không có gì khó khăn trở ngại, vì Chính phủ họ giúp đỡ cho dân chúng đi chiêm bái. Vì lẽ đó nên Phật tử các nước Miến Ðiện, Tích Lan, Miên, Lào, Nhật v.v... đối với Phật pháp họ rất thuần thành và hết lòng phụng sự. Chúng tôi hy vọng Phật giáo đồ Việt Nam rồi đây sẽ được diễm phúc như Phật giáo đồ các nước vậy. Ðúng 9 giờ chúng tôi khởi sự đi chiêm bai các chùa trên tháp núi Sanchi. Cảnh trí rất ngoạn mục. Núi đồi bao bọc chung quanh. Con đường lên chùa tháp được Chính phủ cho sửa sang rất tiện lợi, xe điện có thể lên đến đỉnh đồi. Mặc dù ở trên cao nhưng có đủ đèn nước và mọi tiện nghi. Trong khi tiến lên đại tháp, tôi có cảm nghĩ đường này sao giống như đường lên ngọn hải đăng ở Vũng Tàu, nhưng ngọn hải đăng chỉ là ngọn đèn để soi đường cho tàu bè trong đêm tối, còn đây là "Vô tận đăng" soi đường và nhắc nhở cho chúng sanh tránh xa những nơi nguy hiểm tối tăm, và tiến tới chỗ giác ngộ, giải thoát. Chúng tôi hy vọng các núi Việt Nam có được ngôi tháp vĩ đại như thế này thì quí hóa biết bao, nhất là các ngọn đồi ở Phật học viện Nha Trang mà được xây một ngôi tháp to lớn thì chắc sẽ là đệ nhị Sanchi của Phật giáo. Chúng tôi tiến đến ngôi chùa chánh vào lễ Phật và chiêm bái Xá Lợi của đức Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất. Ngôi chùa đã cao lại được dựng trên núi nên rất oai hùng đồ sộ. Sau khi lễ Phật, chiêm bái xong, chúng tôi tiến ra ngoài chụp ảnh kỷ niệm. Rồi chúng tôi bắt đầu tuần tự đi viếng các cảnh đồi tháp. Quí vị hãy cùng chúng tôi đi từng cảnh một. Nhưng chúng tôi xin nói qua về lịch sử Sanchi trước đã. Trong văn chương Phật giáo không nói Ðức Phật có đến thăm Sanchi. Nhưng nay Sanchi trở thành quan trọng. Xá lợi của ngài Xá-lợi-phất và ngài Mục-kiền-liên được tìm thấy tại đây. Vua A Dục có dựng nhiều trụ đá và đền tháp để kỷ niệm, sự kiện này đủ chứng tỏ nhà vua đặc biệt chú ý đến Sanchi, mà tên cũ là Kakanara, và trong bộ Mahavansa gọi là Chetigiri. Vua A Dục chú ý đặc biệt đến chỗ thánh tích này. Có lẽ khi còn trẻ, Ngài sống nhiều năm ở Ujjaini làm Phó vương ở Malwa. Chính trong lúc này, Ngài kết hôn với bà Devi ở Vedisa, một thị trấn cách Sanchi độ vài dặm Anh. Bà Devi này là mẹ của Mahinda, người con khôn ngoan và đạo đức của A Dục, xuất gia tu hành và được cử sang truyền giáo tại Tích Lan. Trước khi sang Tích Lan, Ngài ở tại ngôi chùa do mẹ Ngài lập. Do đó, Sanchi trở thành một Thánh tích quan trọng của Phật tử ở Mulwa, cho đến thế kỷ thứ hai mới bị hoang phế. Nhưng có lẽ vì ở trên nhiều cây cối che lấp nên không bị những người tìm vàng đến cướp phá. Do đó các đền tháp được giữ tử tế cho đến thế kỷ 18. Sau khi ông Alexander Cunningham in quyển sách "Bhilsa Tope" vào năm 1854, các nhà tìm của báu mới bắt đầu đến tìm kiếm và phá hoại. Chính Ðại uý F.C Maisey là người làm hư hại Sanchi nhiều nhất, nhưng cũng là người tìm được Xá lợi các vị truyền giáo như đã nói trên. Chỉ từ khi viện Bác cổ được lập ra, Sanchi mới khỏi bị tàn phá thêm nữa và ngày nay được viện Bác cổ chú ý đặc biệt. Khi chúng tôi đến đây đường sá đã mở mang nhiều và các chùa tháp hư hoại được sửa chữa. Sanchi đứng trên một ngọn đồi, phong cách chung quanh tuyệt đẹp và thanh tịnh. Chỗ này nổi tiếng về nghệ thuật kiến trúc cổ Ấn Ðộ. Sau đây là những cảnh hiện còn. 1. Ðại tháp có lan can, chạm trổ rất mỹ thuật Tháp này là Thánh tích đặc biệt nhất tại đây. Ở rất xa cũng thấy được vì tháp cao 16 thước tây và đường kính rộng đến 38 thươc 54. Tháp hình bán cầu, với một cửa đá có một lan can để bảo vệ chung quanh ngôi tháp. Bốn phía có bốn cửa đá chạm trổ rất mỹ thuật. Cả hai lan can trên và dưới đều bằng đá Churna trơn láng, có tháp nhì làm bằng đá tảng, cả hai lan can cùng bốn cửa đá cân đối hòa hợp nhau chứng tỏ toàn ngọn tháp chỉ do một kiến trúc sư đại tài phác họa. Người ta thường cho rằng ngôi tháp này do vua A Dục dựng lên, nhưng có lẽ vua A Dục chỉ xây một ngôi tháp bằng gạch, rồi sau này các vị vua hoặc các ngưòi nào khác xây lại bằng đá và tô lớn như hiện nay: Nếu ngôi tháp không phải do vua A Dục dựng lên, thì chắc cũng không được hoàn thành vào trong đời Ngài. Các lan can đều theo lối kiến trúc đời vua A Dục, nếu các cửa đá đã dựng lên sau thì cũng có thể tin là được bắt đầu vào đời vua A Dục. Trên một vài trụ đá lan can, có khắc tên những người hỷ cúng. Như vậy chứng tỏ lan can không phải do một Phật tử mà do nhiều Phật tử chung nhau kiến tạo. Ngôi tháp này phá hư bởi Pusyamitra, vị Thủ tướng của vua Mauryan, vị này lật đổ triều đại cũ và lập triều đại riêng của mình (184-143 trước T.L). Cửa đá bốn phía được chạm trổ rất tinh vi, các kiến trúc gần giống nhau, mỗi cửa gồm hai trụ đá lớn vuông, trên có tảng đá khắc hình thú vật. Những tảng đá này đỡ những tấm đá ngang, tất cả có ba tấm, hơi cong lên chặng giữa và những tấm đá ngang nầy nối liền hai trụ đá lại, tấm ngang trên hết có một Pháp luân ở giữa, hai hình Tam bảo hai bên và cuối cùng những tấm đá đều có khắc hình các loài vật. Những trụ đá và những tấm đá ngang ấy đều được chạm trổ rất đẹp, chạm những sự tích trong đời sống Ðức Phật, hoặc một vài chuyện tiền thân của Ngài. Cũng có nhiều hình chưa hiểu được miêu tả gì. Ðiểm đặc biệt ở đây là không khắc hình tượng đức Phật vì theo quan niệm xưa, khắc như vậy là phạm thượng. Khi nào cần chỉ khắc cây Bồ đề, hoặc dấu chân ngài, hoặc khắc bệ đá chỗ ngồi của Ngài. Cũng có một vài sự tích lịch sử được khắc như vua A Dục thăm Bồ đề Ðạo tràng, Ramagrama, tháp chôn Xá Lợi Ðức Phật. Vua A Dục sở dĩ không lấy được Xá Lợi này vì bị phái Kokiyas phản đối nên phải đến tại tháp ấy chiêm bái. Cũng có khắc hai cảnh những đại biểu của vua đến tại Kusinagara để thỉnh Xá-lợi Phật và cảnh vua Tần Bà Ta La (Bimbisara) đi từ Vương Xá thành để được gặp đức Phật. Hình thú vật: sư tử, ngựa, voi, trâu, lạc đà và các loại chim khác cùng những hình cây khác, được khắc tỉ mỉ và đẹp. Trong các bức tường khắc này có những hình dây nho; vì vậy có thuyết cho là có chịu ảnh hưởng của các nước ngoài. Thuyết này không được mọi Phật tử công nhận. Những bản khác cho chúng ta biết là trụ đá tại cửa phía tây và tấm đá ngang do ông Nagapiya, một nhà ngân hàng ở Achavada phát tâm cúng. Tại bốn cửa đi vào ngôi tháp có bốn tượng Phật tạc trên tường của bệ đá, có lẽ những tượng này được tạc thêm về sau.
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 22:00:32 GMT -5
2. Tháp tàng trữ xá lợi của Ngài Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất
Ðộ 60 thước phía đông bắc của ngôi Ðại tháp, có một ngọn tháp nhỏ hơn, nhưng được nổi tiếng vì tại chỗ đó người ta tìm được Xá lợi của hai vị Ðại đệ tử của đức Phật. Nhưng Xá lợi này được ông Alexander Cunningham và Ðại úy F.C. Meisey tìm thấy trong hai hộp đá, trên những hộp này có khắc tên hai Ngài. Hai Ngài đã thệ thế trước đức Phật, nhưng chúng ta không được biết Xá lợi được đưa về Sanchi vào lúc nào và không hiểu ngọn tháp này có phải được dựng lên trong thời đức Phật còn tại thế hay không. Ngọn tháp này được kiến trúc cùng một kiểu như Ðại tháp, chỉ khác là không có lan can ở phía dưới. Tại đây chỉ có một cửa đá thôi. Cũng có chạm nhiều sự tích về đời sống Ðức Phật nhưng không giá trị bằng hình chạm ở Ðại tháp.
3. Tháp số 2
Ngôi tháp này ở vào một nơi hơi xa các ngôi tháp trước, phải đi xuống độ 400 thước phía tây ngọn đồi mới đến. Nhờ có tam cấp nên đi xuống cũng dễ dàng. Tháp này cũng quan trọng vì chính tại chỗ này người ta đã tìm được Xá lợi của những vị Ðại đức đã đem Phật pháp truyền bá các nước xa vào đời vua A Dục. Ngọn tháp này cũng cùng một kiểu với hai ngọn tháp trước, chỉ khác là không có cửa đá. Chính ông Alexander Cunningham tìm thấy những Xá lợi này trong một căn phòng xa ngôi tháp hiện nay. Hộp đá ở ngoài bằng đá trắng, bề dài độ hai thước. Trong hộp đá này có bốn hộp đá nhỏ khác đựng các Xá-lợi của vua các vị Ðại đức bắt đầu từ vị La Hán Kasya Pagotra và vị A-la-hán Vatsi Suvijatata.
4. Tháp số 4
Phía đông bắc ngôi tháp số 3, có một ngôi tháp nhỏ hơn là tháp số 4, tháp này bị hư nát nhiều và được Viện Bác cổ sửa sang lại. Có nhiều nền của những tháp an táng các vị Tăng sĩ ở chỗ này.
5. Trụ đá vua A-Dục cùng các trụ đá khác
Không giống với các thánh tích khác, Sanchi có rất nhiều trụ đá. Hiện còn có 4 trụ đá khá quan trọng và những trụ đá nhỏ khác thuộc về thời đại Gupta. Trụ đá quan trọng nhất là trụ đá do vua A Dục dựng lên tại cửa phía nam của ngôi Ðại tháp. Nay chỉ còn thân trụ và bản đá, vì trụ đá này đã bị một người tên là Semindar phá hủy để làm một bảng ép mía. Dựng đứng lên bề cao độ 14 thước và chỉ tạc bằng một tảng đá thôi. Tảng đá và con sư tử hiện còn để trong Viện Bác cổ. Trụ đá thứ hai đáng được nói là trụ đá phía đông ngôi tháp, thuộc về thời đại Gupta, chỉ cao độ 5 thước 57 và khác với trụ đá vua A Dục vì có đến 8 cạnh. Con vật ở đầu ngọn tháp tìm không thấy. Trụ đá thứ ba, gần trụ đá trên cũng thuộc về thời đại Gupta màu xám nhạt với những bị gãy thành 4 đoạn. Trụ đá này có khắc rõ nhiều hàng chữ. Hai trụ đá ở cửa, một Mandapa tại một tinh xá và một cửa sổ của ông Rudrasinha, con của Gosura Sinhabala, vị Quản đốc cuả một ngôi chùa. Trụ đá thứ tư gần cửa phía Bắc, có lẽ là một trụ đá đuợc nói đến trong các bia khắc trên. Trụ đá này lớn hơn, nhưng hiện tại chỉ cao độ 7 thước thuộc về thời đại Gupta vì gốc cột hình vuông. Gần trụ đá này người ta có tìm được tượng Bồ tát Vajrapani, và theo ông Cunningham và Marshall thì tượng này tôn trí trên cột đá ấy. Có lẽ vì vậy nên được gọi là trụ đá Vajrapani.
6. Các ngôi chùa và tinh xá cũ
Ngôi chùa chính đối diện với cửa đá phía nam của Ðại tháp có 9 trụ đá vuông cao đến 5 thước, chứng tỏ chùa ấy rất vĩ đại, có lẽ chùa làm theo kiểu các hang đá Ajanta và Karki vì các ngọn tháp đều đồng một kiểu. Hiện nay chỉ còn nền cùng tường bốn góc cao độ 1 thước. Chắc chùa này không làm trước năm 650 sau T.L. Một bát bằng đá, vài tấm ngói được tìm thấy tại chỗ này; phía đông chùa này có một khám thờ nhỏ, giống như một ngôi đền mới ở Ba-la-nại, toàn bằng đá với mái bằng đá phẳng, có một điện Phật và một mái hiên phía trước. Mái hiên này có bốn trụ đá chạm khắc và hai trụ đá vuông chống đỡ. Một chù khác phía sau tháp số 5, có một mái bằng, gác trên những trụ đá trong chùa này có một tượng Phật an tọa trên tòa sen. Phía nam có một số chùa tháp và quan trọng nhất là tinh xá lớn. Tinh xá chỉ còn nền và chân các cột trụ. Có dấu tích các chùa đ được sửa sang lại. Những tinh xá chính có lẽ rất xưa. Tại đây có 50 trụ đá, và có đến 3 ngôi chùa. Về phía đông cũng có một ngôi chùa khá quan trọng có lẽ là ngôi chùa được dựng sau cùng ở Sanchi vào khoảng thế kỷ thứ 10 hay thứ 11 sau T. L.
7. Viện Bảo tàng
Viện bảo tàng này chứa toàn di tích của Phật giáo có rất nhiều pho tượng, khuôn dấu v.v... được tìm thấy tại đây. Chúng tôi đi xem rất tỉ mỉ.
8. Chùa Ma-ha Bồ-đề hiện nay
1. Khung cảnh ngôi chùa: Ðất chùa rộng độ hai mẫu tây. Chùa nằm gần bên nhà ga và quan lộ, nhiều hoa thơm cỏ lạ được trồng bốn phía, có hàng rào bao bọc xung quanh. Cửa ngõ vào thật giản dị nhưng không kém phần mỹ quan. Ðây là cơ sở để truyền bá Phật giáo cho dân chúng và tiếp đón Tăng lữ bốn phương. Còn ai muốn tịnh tu thì lên chùa trên đồi núi, là nơi cảnh rất yên tịnh mát mẻ. 2. Tăng xá: Hai dãy nhà dài dùng để làm phòng cho chư Tăng. Mỗi phòng rất rộng, có thể ở được bốn vị, có phòng tắm, nhà vệ sinh, sắp đặt rất trật tự ngăn nắp, khá thuận tiện cho việc học tập, nghiên cứu, sáng tác. Kiểu nhà xây toàn nắp bằng có hành lang rộng rãi đi bốn phía. 3. Chánh điện: Hội đang kiến thiết một ngôi chánh điện bằng xi măng cốt sắt. Khi chúng tôi đến thì xây đã gần xong tầng dưới, và chuẩn bị làm tầng trên. Ngôi chánh điện này rất rộng rãi và đồ sộ, phí tổn dự trù độ ba triệu bạc V.N. Chúng tôi hỏi thăm thì Ðại đức trụ trì cho biết Chính phủ địa phương cúng 400.000đ, ông Bộ Trường tài chánh cúng 200.000đ, ngoài ra, hội Ma-ha Bồ đề đài thọ tất cả. Thật là một ngôi chùa đáng kể ở vùng này. 4. Trai đường: Bên cạnh chùa là một Trai đường, có ba căn, xây cất theo lối mới. Chúng tôi thọ trai ở Trai đường này hai hôm. Một điều mà chúng tôi phải chú ý, là tại các chùa ở Ấn, Trai đường được xây riêng biệt, chớ không phải làm chung với nơi thờ cúng như bên ta. 5. Các dãy nhà chung quanh: Bốn phía có nhiều nhà dành cho khách thiện tín, các giáo viên cũng như anh em công quả lưu trú. Nhà nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Ðặc biệt là chùa thuê các thanh niên để nấu ăn và mỗi người đều có nhà ở riêng. 6. Trường học và thư viện: Hội Ma-ha Bồ-đề có mở trường học cho trẻ em trong vùng. Trường dạy đúng theo chương trình Chính phủ, ngoài ra hàng tuần có hai giờ giáo lý bằng chữ Pàli. Hội cũng sắp mở một thư viện để tiện cho các nhà trí thức và học giả nghiên cứu. Chương trình của hội thật là đại quy mô và đang được thực hiện với sự đoàn kết của hai giới xuất gia và tại gia. Ðứng trên đồi núi Sanchi nhìn xuống, cảnh trí rất ngoạn mục, nào nhà cửa, nào phố xá, dân cư, xe cộ.... lô nhô chỗ cao chỗ thấp. Xa xa núi nọ gối đầu trên núi kia, chồng chất lên nhau, tạo thành một bức họa thiên nhiên hùng vĩ. Luyến tiếc, chúng tôi lại xem ngôi Ðại tháp. Mặc dù đã trải bao thế kỷ, nhưng hình thể và đường nét vẫn không bị hư hao chút nào. Ðây là ngôi tháp lớn nhất và đẹp nhất trong các ngọn tháp mà chúng tôi đã thấy. Trời đã trưa, chúng tôi phải trở về chùa để thọ trai. Trong bữa cơm trưa hôm nay, 3 Ðại đức ở đó cùng thọ trai với chúng tôi rất vui vẻ. Ðại đức trụ trì cho chúng tôi biết, Ðại đức có sang Việt Nam một lần trong dịp cung nghinh Xá-lợi lần đầu tiên tại Sài Gòn trên đường đi hội nghị Ðông Kinh (Nhật Bổn). Ðại đức rất tán thán lòng tin tưởng nhiệt thành của Phật tử Việt Nam đối với chánh pháp trong cuộc nghinh Xá-lợi ấy. Ðại đức hy vọng có dịp nào đủ duyên sẽ qua thăm Việt Nam nhiều lần nữa. Sau khi thọ trai và chỉ tịnh, vào lúc 3 giờ chiều, chúng tôi còn trèo lên núi Sanchi một lần nữa, cùng đi có một thanh niên Tích Lan, người rất mến đạo và kính trọng chư Tăng. Bước lên tam cấp của đồi, chúng tôi gặp hai vợ chồng người Ấn chắp tay thành kính lễ bái đúng như câu: "Ðầu diện tiếp túc qui mạng lễ". Thật cảm động cho lòng tôn kính Tam Bảo của các Phật tử ấy. Sau khi lễ xong họ đứng ngay thẳng, cung kính chắp tay nhìn mãi, đến lúc chúng tôi đi mất dạng mới thôi. Chiều đến cảnh đồi tháp lại càng rực rỡ hơn. Hoa rừng thơm ngát ở hai bên vệ đường. Thầy Thiện Châu lên đốt hương, chúng tôi làm lễ bái tượng Phật và Ðại tháp một lần nữa. Sau đó chúng tôi đi viếng khắp cả, từ trong tháp đến ngoài tháp, từ trên đỉnh cao đến những phòng xá xa xôi và ẩn trong những rừng cây rậm. Các ngôi Tăng xá xưa ở chung quanh được xây cất thật là cẩn thận. Vào lúc 5 giờ, Thượng tọa Minh Châu giục chúng tôi phải trở về, để chuẩn bị hành lý. Chúng tôi, chân bước đi nhưng mặt còn ngoảnh lại. Tưởng cũng nên nhắc lại: Phong cảnh chùa tháp ở đây có tính cách thiên nhiên nhất và vĩ đại nhất trong các Phật cảnh mà chúng tôi đã trải qua trong cuộc chiêm bái này. Trên đường về, thầy Thiện Châu tỏ ý tha thiết hy vọng làm sao sau này Phật giáo Việt Nam được một thắng cảnh vĩ đại như thế này. "Ðược hay không đó là nhiệm vụ của quý thầy thanh niên", Thượng tọa Minh Châu nói. Ðúng 6 giờ tối, chúng tôi từ giã Ðại đức trụ trì và kính tặng vài chiếc ảnh chùa Việt Nam để kỷ niệm. Ðáp lại, Ðại đức trụ trì biếu chúng tôi mỗi người một bộ y. Chuyến tàu 7 giờ tối không còn chỗ. Chúng tôi đành phải trở lại chùa Ma-ha Bồ-đề. Ðây cũng là một sự hy hữu. Có lẽ ai cũng mến Sanchi nên sinh ra cảnh ngộ như thế. Chúng tôi được sống tại Sanchi một đêm nữa. Sáng ra điểm tâm xong, sắp đặt hành lý và đúng 9 giờ 30, chúng tôi ra ga. Lần này những chỗ ngồi đã được Sở Hỏa xa trung ương để dành cho chúng tôi theo sự yêu cầu của ông trưởng ga Sanchi. Họ rất tốt với chúng tôi vì chúng tôi là nhà tu và là người ngoại quốc. Chúng tôi lên tàu đi viếng Ajantà. Trên đường lòng chúng tôi mãi lưu luyến và mơ tưởng cảnh vĩ đại của Sanchi
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 22:01:13 GMT -5
ELEPHANTA VÀ KANHERI Những địa điểm chót trong chương trình chiêm bái của chúng tôi là Elephanta và Kanheri đều ở gần Bombay, một đô thị phồn thịnh nằm bên bờ Ấn Ðộ Dương. Ðô thị này được Âu hóa sớm hơn các đô thị khác ở Ấn, sạch sẽ rộng lớn, với rất nhiều xưởng kỹ nghệ ở ngoại ô. Hầu hết vật dụng hằng ngày của dân chúng Ấn Ðộ, như vải bố, thuốc men, máy móc.... đều được chế tạo tại đây. Bombay nằm trên trục giao thông từ Âu sang Á thuận lợi cả đường thủy, đường bộ và đường hàng không, cho nên nó đang đóng vai trò quan trọng về kinh tế ở Ấn Ðộ. Từ lối tổ chức đến cách kiến trúc đều phỏng theo các thành phố ở Anh quốc. Chúng tôi ở lại tại chùa Nhật Bản. Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc của đại tháp Bồ-đề ở Bồ-đề Ðạo tràng. Buổi sáng, buổi chiều tín đồ đến đánh trống pháp và tụng niệm câu "Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh". Chư Tăng thuộc phái này mỗi khi ra đường đều đánh trống nhỏ và niệm đề kinh Pháp hoa. Một điều mà chúng tôi thấy cần phải bắt chước là các vị ấy luôn luôn tâm tâm niệm niệm: "Tất cả chúng sinh đều là Phật sẽ thành". Do đó họ rất thành thật và khiêm tốn đối với mọi người. Chúng tôi có đi thăm một vài nơi quan trọng trong thành phố nhưng không tìm được một nguồn vui nào; bởi vì suốt một tháng trời chúng tôi được sống trong một thánh tích thiêng liêng thanh tịnh mát mẻ, giờ đây phải chứng kiến những cảnh tranh sống, ồn ào, nóng bức, vì thế chúng tôi cảm thấy khó chịu và muốn tìm đến những nơi thiên nhiên an tịnh. Một buổi chiều, chúng tôi đến thăm hoa viên "Nehru" cũng gọi là vườn treo, vì nó nằm trên một đỉnh đồi rộng rãi gần thành phố. Ở đây cây cỏ mát tươi, những bụi cây được cắt tỉa theo hình thú như sư tử, ngựa phi.... Hoa lá đủ loại. Có một vật kỳ lạ nhất là chiếc giày khổng lồ, trên ống giày là cái nhà nhỏ. Khách đến thăm hoa viên ai cũng chun vào và leo lên để nhìn xem cảnh vật. Chúng tôi cảm thấy nó "trần tục" làm sao ấy, nên chỉ nhìn mà không muốn đến gần, nhất là khi thấy đông đảo người ta đang chun qua gót giày. Chúng tôi liên tưởng đến "Chùa Một Cột" của đất nước, mọc từ dưới hồ sen và nở ra như một hoa sen, từ trong hoa sen ấy tỏa ra những mùi trầm hương. Ai là kiến trúc sư của ngôi chùa này? Nhất định phải là một Ðạo sĩ; người ta bảo là Vạn Hạnh Thiền sư. Ôi, ý nghĩa và thanh thoát làm sao! Sau đó, qua phía bên kia vườn trên mô đất cao, chúng tôi nhìn thấy hàng ngàn kên kên và quạ bay đi lượn lại trên một nóc đền. Thượng tọa Minh Châu cho chúng tôi biết đó là ngôi đền của tín đồ phái Parsis. Tất cả thây chết của tín đồ phái này đều đem phơi để cho kên, quạ ăn. Tín đồ Parsis xem việc làm này rất có ý nghĩa, vì họ nghĩ rằng khi thân người đã chết thì dầu có chôn cất, thiêu đốt hay để cho kên quạ ăn đều giống nhau. Hơn nữa việc làm sau lại là việc làm hữu ích: nuôi sống kên quạ bằng cái thây chết vô dụng của con người. Chúng tôi ở lại đây cho đến hoàng hôn mới ra về. Ðèn điện sáng trưng bao quanh vịnh Bombay, xe cộ tấp nập làm cho thầy Pasadika nói với chúng tôi: Thật ra Ấn Ðộ không nghèo nhưng vì dân số quá đông nên Chính phủ không thể giải quyết vấn đề xã hội một cách mau chóng được. Ðộng Elephanta Một buổi sáng khác chúng tôi đi thuyền máy đến động Elephanta. Toàn diện hải cảng Bombay hiện ra trước mắt, khi thuyền ra khơi. Ðảo Elephanta làm cho chúng tôi liên tưởng một cách linh động đến "Treasure Island" của Stevenson, với cây cối xinh tươi um tùm của miền nhiệt đới, hay Túy Vân nằm giữa phá Tam Giang. Các động Ấn Ðộ giáo được tạc một cách phức tạp vào thế kỷ thứ tám sau T.L. Cả điện thờ dựng lên để thờ thần Shiva. Ở chính giữa là những Linga khổng lồ. Về phương diện mỹ thuật, các tượng hình như có nhiều tài nghệ và linh động hơn các tượng tạc xưa nhất ở Ajantà. Trong phạm vi thế giới tư tưởng của chúng, những tư tưởng của một sức sống mãnh liệt về phiếm thần Ấn Ðộ giáo, chúng thật đã đạt được một kỹ thuật hoàn mỹ. Ðộng và rừng rậm mọc nẩy nở lên xung quanh, được dệt vào nhau thành một sự đồng nhất tượng trưng. Sự sinh nở lúc nhúc của vùng nhiệt đới được đem trồng vào trong điện thờ để thành những hình vật lúc nhúc đang nhảy múa, leo trèo, bò trườn, tàn diệt và sinh sản. Một thần Shiva Goliah đang nhảy điệu múa vũ trụ cùng vợ là Parvati (Shiva là vị thần ghê tởm, có tám tay), một điệu múa của sự phẫn nộ, tàn sát, gây một sự tương phản thi vị bên cạnh vị nữ thần sông ngòi xinh đẹp và dễ thương Yamuna và Ganga. Sóng cuồng của thân thể thấm nhuần với cảm hứng mỹ thuật và sự nhiệt tình ngây ngất tiêu biểu cho một tượng trưng khổng lồ của sự vô ý thức: sanh, trụ, diệt. Dầu không cố ý, chúng ta phải nghĩ đến Pergomon, một kỳ công tuyệt diệu của Hy Lạp ở Trung Á Tế Á, điện thờ của Zeus, sự bi kịch hiện sinh của mỹ thuật Hy Lạp, một chứng cớ về ý muốn sáng tạo của con người: các Olympians chiến đấu với Titans, hùng cường thay, sức mạnh trong tấm thân của Zeus, và nghệ thuật của ODysseus trong mũi giáo của Athena. Các vị thần Ấn Ðộ giáo chiến đấu với các Asuras, Vishnu tàn sát Vua Asura; Shiva đạp trên kẻ thù địch, Lucifer nổi loạn trong Do Thái giáo và Gia tô giáo, nhưng rồi Chúa cũng chế phục Lucifer. Một sự tổng hợp tất cả các tôn giáo. Trưa hôm ấy, chúng tôi ở lại và ăn trưa giữa rừng cây. Một con khỉ bạo dạn đến dò lòng từ bi của tất cả chúng tôi. Ðầu tiên nó dè dặt nhưng sau khi thấy chúng tôi thương nó, cho nó ăn nên nó đã đến gần và ngồi ăn với chúng tôi như một người bạn. Nhưng lạ thay mỗi lần có người khác qua là nó nhảy lên cây trốn mất. Người lạ đi, nó lại trở lại ăn với chúng tôi... Phải chăng những luồng điện từ bi đã phát ra từ tất cả chúng tôi và đã làm cho con khỉ cảm thấy an toàn khi nó đến gần? Trên đường về, lời dạy về từ bi và hình bóng con khỉ luôn luôn hiện ra trong trí chúng tôi. Chúng tôi thầm nguyện cho con khỉ ấy sau khi chết nhờ ảnh hưởng đạo đức của chư Tăng mà nó đã gặp được, đầu thai làm người, gặp lại chúng tôi và được sống an lành dưới bóng từ bi của Phật tổ. Ðộng Kanheri "Những kẽ núi chứa đựng nước trong trẻo, Một thế giới núi đá, Ðược các con khỉ mặt đen và các con hươu rụt rè lui tới, Dưới những chòm hoa sáng nở, chảy những dòng suối trắng bạc, Chính là những cao nguyên mà tôi ưa thích nhất" (Rhys David) Sáng ngày 7 tháng 11 chúng tôi đi viếng động Kanheri, cách xa Bombay 20 miles về phía Bắc giáp giới với công viên quốc gia Krishnagiri. Cả vùng bao bọc bởi nhiều núi đồi xinh đẹp, đầy rừng rậm. Từ màu xanh êm dịu, đứng sựng lên một dãy đá đen to lớn, sắp thành hình bán vòng cầu không đều đặn. Các động điện Phật rất rộng lớn, chỉ có điện được trang hoàng, như các động ở Karli. Phía cửa vào, hai tượng Phật khổng lồ đang canh giữ, đây là những tượng Phật lớn nhất tại Ấn Ðộ. Một bia ký Gupta ghi tên Buddhaghosa, phải chăng Ngài là vị chú thích Pàli trứ danh? Một phòng họp to lớn khác, hình như vừa dùng để làm phòng họp, vừa làm phòng ăn. Chúng tôi thấy nhiều bàn đá dài. Sự sắp đặt của toàn cảnh rất khéo léo. Các động tu cá nhân bao vòng tròn đồi núi theo hình bán cầu, các động chỉ một người ở leo lên như hình mô đất đắp trên đồi. Các động không được đục theo các họa đồ nhất định, nhưng tùy thuộc theo vị trí thiên nhiên của tảng đá. Tất cả các động đều có giường đục trong đá. Tại cửa động, chúng tôi ngồi trên bàn ghế đá, chính chỗ các vị Tỳ-kheo thời xưa đã ngồi nghỉ khi trời xế chiều. Chỗ nào cũng có bể nước. Trong một nhóm động, có một chỗ rất tôn nghiêm, tạc nhiều hình tượng đức Thế Tôn nắm y của Ngài với tay trái dơ lên, các nếp áo rất mỹ thuật và nhẹ nhàng nhưng không thanh nhã như các tượng chạm ở Mathura. Sự linh động của các tượng chạm có thể sánh với động Elephanta, nhưng không đi đến sự đồ sộ. Các tượng chạm ở Kanheri không sánh được với sự tuyệt luân của thời Guptas, nhưng nhờ vậy chúng nó gây nhiều cảm kích hơn chỗ nào khác, vì, chúng ta có thể tin rằng tất cả những tượng chạm này do chính tự tay các nhà tu hành tạc nên. Không phải tất cả các vị Tỳ-kheo đều là những nhà nghệ sĩ điêu luyện. Nhưng sự bền bỉ, dẻo dai, trung thành của "sự tầm thường" chính làm cho chúng ta cảm động, khâm phục. Sự tín thành nhiệt tình đối với Chánh Pháp vượt ngoài các sự đo lường, suy lý và các nhận hiểu bề ngoài. Tất cả động nối liền với nhau bằng những con đường mòn tiện lợi. Nhưng sự biệt lập cần thiết thật rất đặc biệt. Không vị tu hành nào có thể thấy, nghe hay phá rầy người bên cạnh. Ngồi yên lặng trong một hang động, lá nhĩ còn vang động với sự huyên náo điên cuồng của thị thành, nhưng rồi hơi thở dần dần trở thành nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ cửa động nhìn ra, phong cảnh lướt nhẹ từ vòm trời xanh biếc, ngang qua rừng rậm rộng lớn dưới chân trời. Ðàng xa, sóng của Ấn Ðộ Dương cuồn cuộn sủi bọt trắng xóa. Dầu cho vào mùa hè nóng bức nhất, gió biển cũng đưa vào những luồng mát mẻ tẩm vị muối. Có phải chăng đó là một trong những chỗ trú ẩn an lạc tuyệt luân mà các nhà tu hành thời xưa đã ca tụng như sau: "Ôi, (người sẽ yên cuộc sống), hoặc ở trên chỏm núi của những tảng đá hang động mà các đoàn heo rừng và hươu sống với nhau. Hoặc ở giữa lùm cây ngoài trời, Hoặc ở trong rừng sâu, được mưa mới làm tươi mát... Chính tại chỗ này, hạnh phúc đang đón chờ người, Người đã sống trong các hang động, Gió mát thổi vi vu... Ðức Bổn sư có sự trung thành và tình yêu của tôi, Và các lời đức Phật đã được thực hành xong. Tôi đã đặt xuống gánh nặng mà tôi đã mang. Nhơn tạo ra luân hồi nay không còn ở nơi tôi nữa rồi". (Theragàthà, Trưởng lão kệ). Kanheri không mỹ thuật bằng Ajantà, không vĩ đại như Bồ-đề Ðạo tràng, nhưng chúng tôi yêu thích Kanheri vì cái vẻ thiên nhiên đậm đà của nó. Có thể nói Kanheri là một bài thơ đạo tuyệt vời. Thanh tịnh làm sao những động cá nhân uốn mình dưới những tảng đá lớn ẩn sau những vòm cây xanh. Làm sao diễn tả được thi vị của những dòng suối róc rách bao quanh sườn núi mát dịu? Thỉnh thoảng gió biển tạt vào và mang theo mùi thơm dịu dàng của hoa rừng. Ý tôi muốn ở lại đây ít nhất một đêm để hưởng cái thiền vị ấy nhưng không được vì chúng tôi không dự định trước, vả lại xe ngựa chúng tôi thuê đã quá giờ. Chúng tôi ra về trong luyến tiếc. Bác sĩ Ambedkar Một ngày trước khi từ giã Bombay, Thượng tọa Minh Châu có nhận lời thỉnh cầu của một số Phật tử Ấn đến tận nhà họ để chứng minh lễ đầu năm và quy y cho một số người mới hướng về Tam bảo. Những người này nghèo khổ nhưng rất tín thành. Chúng tôi, Thầy Huyền Vi và Pasadika cùng đi theo. Ðiều làm cho chúng tôi rất ngạc nhiên là bên bàn Phật có thêm tượng của một người mặc Ấn phục đeo kính trắng. Tôi rất ái ngại trong khi hành lễ bởi lẽ một Phật tử chỉ nên lễ Phật Pháp Tăng mà không được lễ ai khác nữa. Sau buổi lễ chúng tôi hỏi Thượng tọa Minh Châu: -- Thưa thầy, Tăng đồ cũng như tín đồ ở xứ thuộc Nam tôn thường chỉ thờ một tượng đức Bổn sư thôi, tại sao ở đây họ lại thêm tượng gì lạ như thế này? Thượng tọa Minh Châu cho biết: -- Ðó là tượng của Bác sĩ Ambedkar. Vì cảm ơn sâu xa Bác sĩ, người đã đem họ về Chánh pháp, nên họ thờ cả tượng của Bác sĩ. Họ xem Bác sĩ như một vị Bồ-tát ra đời để đưa những người cùng đinh trở về với giáo pháp từ bi và bình đẳng. Họ kính ngưỡng đức Phật nhưng họ nghĩ rằng nếu không có Bác sĩ Ambedkar thì có lẽ muôn đời họ phải sống với Ấn Ðộ giáo. Những lời của Thượng tọa Minh Châu dã khơi dậy sự hiểu biết của chúng tôi về Bác sĩ Ambedkar và phong trào đông đảo những người cùng đinh Ấn quy y Phật mà chúng tôi đã được đọc qua sách báo vào khoảng 1956 khi còn ở nước nhà. Thế là trí tò mò của chúng tôi được dịp tốt để hoạt động. Tôi đã hỏi thăm Thượng toạ Minh Châu và một vài người trí thức trong số những Phật tử mới này một cách kỹ càng về đời sống tôn giáo của Bác sĩ Ambedkar và sau đây là những tài liệu mà chúng tôi đã thâu nhập được. -- "Bác sĩ Ambedkar vốn là một trong những người cùng đinh Ấn đã chịu đựng không biết bao nhiêu gian khổ do ảnh hưởng phân chia giai cấp của Ấn Ðộ giáo gây nên. Sau những giai đoạn tự cường với bản thân và tranh đấu với hoàn cảnh, Bác sĩ đã thành đạt rực rỡ trong vấn đề học vấn. Người đã đậu tất cả những chứng chỉ cao cấp sau đây: M.A. (Thạc sĩ), Ph.D. (Tiến sĩ Triết học), D.M. (Bác sĩ Y khoa), LL.D. (Tiến sĩ Luật khoa), D.Litt (Tiến sĩ Văn chương), Bác sĩ đã trở thành lãnh tụ của giai cấp cùng đinh, người thảo ra hiến pháp Ấn Ðộ và làm Tổng trưởng Bộ Tư Pháp. Người đã quy y Phật giáo không phải bởi sự cưỡng bức mà bởi lòng tự nguyện." Chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu nguyên nhân nào đã thúc đẩy Bác sĩ trở về với Phật giáo và sự quy hướng lịch sử này đã diễn tiến ra sao. Vào năm 1936, Bác sĩ Ambedkar tuyên bố từ giã Ấn Ðộ giáo, một tôn giáo đầy cả thần quyền và phân chia giai cấp. Ðồng thời Bác sĩ cũng cho biết người sẽ lựa chọn một tôn giáo mới. Tiếng nói này không phải riêng của một mình Bác sĩ mà là của hàng triệu người cùng giai cấp với Bác sĩ. Tin này được tung ra và làm cho những tôn giáo khác vui mừng và hy vọng. Bởi vì những tôn giáo ấy nghĩ rằng nếu lôi kéo được Bác sĩ Ambedkar là lôi kéo được hàng triệu người chịu sự lãnh đạo của Bác sĩ. Và như vậy, tôn giáo của họ có thêm một hậu thuẫn vĩ đại. Hồi giáo tìm đủ cách để chinh phục con người đầy uy tín này. Ðạo Sikh bắt đầu quyên góp để giúp đỡ những người cùng đinh hầu mua chuộc Bác sĩ. Sự hưởng ứng của những người theo đạo Sikh nhiệt liệt đến nỗi với số tiền thu góp, họ đã đem xây dựng được trường đại học Khalsa, sau khi biết Bác sĩ không có ý định theo đạo Sikh. Bác sĩ với sự khôn ngoan đã không vội vàng quy hướng tôn giáo nào cả. Sự quyết định theo một tôn giáo mới đến với Bác sĩ sau 20 năm đắn đo tìm hiểu và suy nghĩ. Trong thời gian ấy, Bác sĩ đã thật tâm học hỏi và khách quan so sánh tất cả tôn giáo. Tôn giáo mà Bác sĩ thích nhất, sau khi khám phá được những điều hay lẽ đẹp của nó, là Phật giáo. Bác sĩ liền tuyên bố: "Tôi sẽ là một Phật tử vì tôi tin chắc rằng Phật giáo chính là tôn giáo duy nhất sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi cũng như hàng triệu người theo tôi". Vào ngày 14 tháng 10 năm 1956 tại thành phố Nagpur, Bác sĩ chính thức ly khai Ấn Ðộ giáo và về với Phật giáo với buổi lễ Quy y dưới sự chứng minh của Ðại Lão Hòa thượng U Chandramani, người Miến Ðiện, hiện trụ trì tại Câu Thi Na. Hàng vạn người dự lễ đã thấy rõ nỗi vui mừng của Bác sĩ lộ trên gương mặt và nghe giọng nói chơn thành của Bác sĩ và vợ trong những câu Tam quy và Ngũ giới. Sau lễ Quy y, Bác sĩ đã gặp gỡ những người cùng đinh và nói cho họ biết vì sao Bác sĩ đã quy y Phật. Ðồng thời Bác sĩ cũng hỏi ý kiến họ về vấn đề tôn giáo. Hàng triệu người đã sung sướng đi theo con đường của Bác sĩ. Bấy giờ phong trào của những người cùng đinh quy y Phật nổi lên khắp nơi trên đất Ấn làm cho các tôn giáo khác bực mình. Người ta kể lại rằng trong những buổi diễn thuyết, Bác sĩ thường nói: "Tôi sanh ra từ Ấn Ðộ giáo nhưng tôi không thể chết trong Ấn Ðộ giáo". Bác sĩ đã làm cho hàng vạn người rơi lệ khi kể lại những khổ nhục mà chính bản thân của Bác sĩ đã chịu đựng như lúc học tại một trường trung học. Theo chương trình Bác sĩ đã chọn, Sanskrit là một ngôn ngữ thứ hai nhưng Bác sĩ đã bị bắt buộc học tiếng Ba Tư vì ông giáo sư Sanskrit khinh bỉ không chịu dạy chữ Sanskrit cho người "hạ tiện". Bác sĩ đã nói lên những sự chua xót do Ấn Ðộ giáo gây nên mà những người cùng đinh phải chịu. Theo lý thuyết Ấn Ðộ giáo, người cùng đinh là con vật ghê tởm nếu ai đụng đến là mất "thánh thể" và không được trở về với Brahma (Phạm Thiên), đến nỗi những người ở giai cấp trên không dám đụng đến bóng của họ. Người cùng đinh không có quyền học tập để mở trí khôn, không được bước vào nhà của những người khác giai cấp, không được phép bén mảng đến đền miếu Ấn Ðộ giáo... Cho đến nay những phong tục vô nhân đạo này vẫn còn được giữ ở các nơi xa thị trấn. Bác sĩ đã cực lực lên án chế độ giai cấp do Ấn Ðộ giáo và những vị Bà-la-môn đặt ra và kêu gọi những người cùng đinh hướng về Phật giáo. Vì rằng theo luật Manu của Ấn Ðộ giáo, xã hội loài người gồm có bốn giai cấp. Giai cấp Bà-la-môn (Giáo sĩ) sanh ra từ miệng của Phạm Thiên; giai cấp Sát-đế-lợi (vua chúa) từ vai; giai cấp Tỳ-xá (nông công) từ bụng và giai cấp Thủ Ðà La (cùng đinh) từ chân. Nhưng theo Phật giáo thì mọi người đều bình đẳng, sự cao thấp của loài người không phải do sanh ra ở giai cấp trên hay dưới mà bởi hành vi thiện ác của mọi người. Tất cả mọi người đều bình đẳng trước luật nhơn quả. Do đó, người trong giai cấp Bà-la-môn không thể là cao thượng khi người đó phạm tội lỗi như trộm cắp, tà dâm... Pháp luật cũng trừng trị họ. Trái lại những người ở giai cấp tầm thường vẫn là những người đáng kính mến nếu họ thật có tài năng và đạo đức. Chính "Nghiệp" (Karma) của con người làm cho con người cao hay thấp, đáng trọng hay đáng khinh, chứ không phải Brahma. Về phương diện tích cực, Phật giáo chủ trương tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ (Phật tánh). Chế độ giai cấp gây ra sự ghét bỏ và tranh chấp. Tinh thần bình đẳng làm cho con người biết thương yêu và kính mến lẫn nhau. Cũng trong những buổi diễn thuyết, Bác sĩ nói với những người cùng đinh rằng: Phật giáo chính là một tôn giáo có tinh thần dân chủ cao đẹp. Phật giáo thừa sức giúp cho Chánh phủ thực hiện những điều cao đẹp trong Hiến pháp và làm cho nhân dân biết sống theo và thừa hưởng tinh thần dân chủ của Hiến pháp. Bác sĩ hứa nguyện sẽ làm cho Chánh pháp sống lại một cách mau chóng trên đất đã phát sinh ra nó, để cứu độ cho những kẻ khổ đau trong giấc mộng thần quyền huyễn hoặc và chế độ giai cấp bạo tàn phi luân. Ðúng 7 tuần sau khi trở về với ánh sáng của Ðức Giác Ngộ, Bác sĩ từ trần một cách êm thắm. Nhiều sự nghi ngờ được đặt ra và người ta thầm hiểu có một điều gì bí mật trong cái chết của Bác sĩ Ambedkar. Dù sao, Bác sĩ đã thực hiện được lời hứa: "Tôi sanh từ Ấn Ðộ giáo nhưng không thể chết trong Ấn Ðộ giáo". Bác sĩ đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6 tháng 12 năm 1956, trong đêm thức khuya để viết quyển "Ðức Phật và giáo pháp của Ngài" (The Buddha and his Dharma). Hàng triệu người theo dấu chân Bác sĩ đau đớn bơ vơ, vì đã mất đi một vị lãnh tụ sáng suốt trong xã hội thiếu chân lý và tình thương! Danh từ "Phật tử mới" (Neo-Buddhist) được báo chí Ấn Ðộ dùng để gọi Bác sĩ Ambedkar và những người cùng đinh quy y Tam bảo trong thời kỳ ấy. Danh từ tuy dùng không đúng (vì những Phật tử mới này không phải quy y với đức Phật nào khác lạ mà chỉ trở về với giáo pháp của Phật tổ Thích Ca đã truyền dạy hơn 2500 năm về trước) nhưng đã ghi lại một sự kiện đẹp đẽ đã diễn ra trong lịch sử Phật giáo. Sau khi hiểu biết sơ qua một vài nếp sống tôn giáo của Bác sĩ Ambedkar và sự quy hướng lịch sử của những người nghèo khổ này, lòng tin tưởng đối với Chánh pháp của chúng tôi càng thêm đậm đà và tình thương mến những người Phật tử mới càng thêm tha thiết! Tuy ở tại Bombay không bao lâu nhưng ngày từ giã của chúng tôi đã làm lưu luyến những Phật tử mới này không ít. Họ chí thành đảnh lễ tất cả chúng tôi trước khi tất cả chúng tôi bước lên xe. Trên xe chúng tôi băn khoăn suy nghĩ: Làm sao giúp đỡ đời sống tinh thần của những người nghèo khổ vật chất này. Chánh pháp thừa sức nhưng Tăng già thì quá thiếu, hàng triệu Phật tử mà vỏn vẹn chỉ có độ 3, 4 vị Tăng già trong miền Bombay và thingya này. Chúng tôi trình bày sự băn khoăn ấy lên Thượng tọa Minh Châu. Thượng tọa cho biết Ðại đức Sangharaknutsa người Anh-Cát-Lợi hiện ở Kalimpong và một vài vị trong giáo đoàn của Ðại đức hàng năm có xuống đây giảng diễn. Những lớp học Phật pháp cũng được tổ chức thường xuyên và họ có những tổ chức nho nhỏ như khuôn hội bên ta để dắt dìu nhau trên đường tu học. Tôi thầm ước nguyện ngày mai đủ tài đủ đức và nếu được quý Thượng tọa ở nước nhà cho phép, chúng tôi sẽ xin sung vào giáo đoàn của Ðại đức Sangharaknutsa để góp tay vào công việc phục hưng mạnh mẽ Chánh pháp trên đất Phật và giúp đỡ những người đã theo tiếng gọi của Bác sĩ Ambedkar.
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 22:02:44 GMT -5
NALANDÀ MỚI (MAHAVIHARA)
Với núi dài, đồng rộng, hố sâu thẳm, Người giữ gìn tăng trưởng Bồ-đề tám. Chân thành ta cảm ơn người. Và mong được sống bên người muôn năm. (T.C.)Mục đích thành lập Nalanda mới là Viện nghiên cứu Pàli và Phật học, không chỉ cho Ấn Ðộ mà cho cả nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước ở Ðông Nam Á. Người đề xướng và theo dõi công việc thành lập là Ðại đức Kassapa. Cố Tổng thống Dr. Rajendra Prasad làm lễ đặt đá cho khu nhà đầu tiên vào ngày 19 tháng 11 năm 1951. Phó tổng thống Dr. S. Radhak-Rishnam, Thủ tướng Nehru cũng đến thăm Nalanda. Trong buổi lễ đặt đá, cố Tổng thống R. Prasad có nói: "Muốn làm sống lại cái quá khứ sáng chói của Nalanda, một trung tâm học vấn của thế giới, Chánh phủ Bihar xây dựng Nalanda mới để giúp các học giả đi sâu vào ngôn ngữ Pàli và Sanskrit, văn chương và triết học Phật giáo. Chúng tôi hết sức tán thành sáng kiến cao đẹp ấy. Tên Nalanda đã ghi những dòng chữ vàng trong quyển lịch sử của đất nước chúng ta; không những nó đã làm nẩy nở rất nhiều bông hoa tư tưởng ở tại quốc nội, mà đã là trung tâm từ đó nền giáo dục tốt đẹp đã truyền rộng ra các nước trên thế giới". Qua những lời của cố Tổng thống R. Prasad, chúng ta thấy người Ấn Ðộ rất hãnh diện về Nalanda trong quá khứ. Do đó họ cố gắng thành lập Nalanda mới. Trong quyển giới thiệu Nalanda mới có ghi: 1. Thiết lập tại Nalanda một Ðại học viện theo lối Vihàra (trong đó người dạy và người học sống chung với nhau, kính mến lẫn nhau, để theo dõi công việc nghiên cứu cao đẳng) cho sự thăng tiến công việc nghiên cứu ngôn ngữ Pàli, văn chương và Phật học qua chữ Phạn, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bổn và các ngôn ngữ khác ở Á châu. 2. Tổ chức một thư viện tân thời đầy đủ kinh sách Phật giáo bằng chữ Pali, Sanskrit và các ngôn ngữ khác, bằng những bản in hoặc bằng bối diệp, gồm những tác phẩm mới xuất bản và tác phẩm nghiên cứu bằng Pali và Phật học cũng như các học thuyết mới, để giúp cho sự so sánh và nghiên cứu được dễ dàng. 3. Thiết lập nơi an trú cho sinh viên tu sĩ và học giả cư sĩ thông bác nền cựu học và giúp họ quen thuộc với lối học ngày nay, lối học nghiên cứu và so sánh. Thâu nhận sinh viên tốt nghiệp ở các Ðại học được thừa nhận và huấn luyện họ theo chương trình cao đẳng và hướng dẫn họ nghiên cứu Phật học được ghi chép bằng Pali, Sanskrit và ngôn ngữ khác, làm cho họ quen thuộc với sự sâu sắc của nền cổ học. Với mục đích hay đẹp ấy, Nalanda mới đã tiếp nhận rất nhiều sự tán thành và ủng hộ của nhiều nước Phật giáo. Chính phủ Tây Tạng đã sai một Ðại sứ từ Lhasa mang về tặng đầy đủ Tam tạng kinh điển bằng chữ Tây Tạng và rất nhiều tượng Phật. Chính phủ Thái Lan và Hội Phật giáo Nhật Bản gửi tặng rất nhiều kinh sách có giá trị. Chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ trên 10.000 Dollars để trang bị thư viện, hội Phật giáo Trung Hoa tặng Tam tạng kinh điển bằng chữ Hán. Chính phủ Trung Hoa và trung ương Ấn Ðộ giúp tiền xây dựng một thư viện và những phòng nghiên cứu rất qui mô. Vị trí Nalanda mới Nalanda mới tọa lạc trên vùng đất rộng rãi, cách Nalanda cũ bởi hồ Indra đầy sen về mùa hè, nước xanh về mùa thu. Bối cảnh của nó là núi Vương Xá bao quanh. Nalanda nằm giữa đường Patna - Bồ-đề Ðạo-tràng và cách Vương Xá độ 10 cây số. Chương trình kiến thiết hiện đang được tiếp tục. Hiện nay không kể khu cư xá của Viện trưởng. Giáo sư và sinh viên trường. Nalanda mới hiện có hai khu nhà rất rộng lớn: một gồm nhà ở, nơi ăn, phòng họp chung cho các Tăng và học giả ngoại quốc, một thư viện, thính đường gồm văn phòng và các phòng nghiên cứu. Tuy xa phố phường (cách Patna, thủ đô của tiểu bang Bihar gồm 40 triệu dân số, độ 80 cây số), Nalanda vẫn có đủ tiện nghi như: điện nước, xe hỏa, xe bus, xe taxi... không khí ở đây trong sạch an lành, cảnh trí thanh tịnh trang nghiêm, thi vị, rất thích hợp cho sự tu học nghiên cứu và đời sống giải thoát, xung quanh còn có một tàng cổ viện, chứa nhiều di tích Phật giáo và chùa kỷ niệm ngài Huyền Trang. Nội dung - Thư viện: Nói đến một Viện Nghiên cứu, người ta nghĩ ngay đến thư viện. Tuy mới thành lập trong khoảng 12 năm, thư viện Nalanda đã thâu góp được một số sách có giá trị gần 40.000 tập đủ các bộ môn văn chương và triết học bằng nhiều thứ chữ: Pali, Sanskrit, Hindi, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ðức, Thái Lan, Miến Ðiện, Cam Bốt.... có thể nói đây là một thư viện về cổ ngữ và Phật học lớn nhất ở Ấn Ðộ. - Ban giáo sư: Vị Viện trưởng hiện tại của Nalanda là Tiến sĩ Mookejree, một học giả hữu danh về Sanskrit và luận lý học. Ban giáo sư gồm có nhiều vị Tiến sĩ (Ph.D) và thạc sĩ (M.A) người Ấn Ðộ, Tích Lan, Nhật Bản, Tây Tạng. Năm nay, Chính phủ thể theo lời của ngài Viện trưởng mời Thượng tọa Minh Châu dạy về Pali và đạo Phật. Nhiều vị giáo sư khác sẽ được mời thêm trong niên khóa mới. - Học giả và sinh viên: Ngoài một số đông học giả và sinh viên người Ấn, Nalanda còn có học giả và sinh viên của nhiều nước đang theo học như: Ðức, Nhật Bản, Việt Nam, Hồi Quốc, Thái Lan, Miến Ðiện, Cam Bốt, Lào, Tây Tạng.... Nalanda có tính cách một học viện hơn là một tu viện. Tuy thế, đời sống sinh viên ở đây khác hẳn các nơi khác. Phần lớn, học giả và sinh viên ngoại quốc ở đây là tu sĩ nên cuộc sống rất giản dị và thanh tịnh. Hội Phật giáo Nalanda mà Thượng tọa Minh Châu là Chủ tịch giúp đỡ một phần lớn cho đời sống tinh thần của sinh viên. Theo thiển ý, ngoài Nalanda có lẽ khó mà tìm được một nơi nào khá thuận tiện cho sự tu học của sinh viên, tu sĩ. Hơn nữa Nalanda là trường của Chính phủ chứ không phải thuộc một môn phái nào nên đời sống tu hành, tư tưởng của sinh viên, tu sĩ không bị xáo trộn. - Chương trình giáo dục: Chương trình giáo dục Nalanda chỉ dành riêng cho sinh viên cao đẳng và học giả nghiên cứu. Pa là môn học chính cho những lớp cao đẳng, gồm có bốn ban: 1. Ban A: Văn chương. 2. Ban B: Luận học (Abhidhamma) 3. Ban C: Lịch sử và Bia ký. 4. Ban D: Ðại thừa Phật giáo, gồm có luận lý học, nhận thức học và siêu hình học. Vì có nhiều sinh viên ngoại quốc cho nên Anh ngữ được dùng để giảng giải, trong tất cả các lớp, trừ kỳ thi Acariya Pali (Master of Pali), phải viết hoàn toàn bằng Pali, còn kỳ thi M.A có thể viết bằng Pali, Hindi, hay Anh ngữ. Ngoài ra viện còn mở những lớp dạy Hindi, Sanskrit, Anh ngữ, Tây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản. Với sinh viên ngoại quốc, Hindi là sinh ngữ bắt buộc. Về học giả nghiên cứu thì có những Giáo sư chuyên môn hướng dẫn. Luận án Tiến sĩ phải được viết với những luận đề có tương quan với Phật học bằng một trong những thứ chữ Anh, Hindi và Pali. Phải nói thêm rằng Nalanda là nơi khai triển giáo hệ Ðại thừa, nên Phật giáo Ðại thừa ở Tây Tạng, Népal, Trung Hoa, Việt Nam, Cao ly, Nhật Bản, Cam Bốt, Thái Lan, Lào.... trong thời kì Phật giáo mới truyền vào cũng đều chịu ảnh hưởng của các giáo hệ được khai triển tại Nalanda. Các vị tổ sư như ngài Long Thọ, Ðề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Hộ Pháp, Giới Hiền... của các giáo hệ Ðại thừa như Không tôn, Trung luận tôn, Duy thức tôn,.. là Viện trưởng hay Giáo sư của Nalanda cũ. Những vị có công trong việc dịch thuật và khai triển Ðại thừa ở Trung Hoa như ngài Cưu Ma La Thập, Chơn Ðế, Huyền Trang... đều thụ giáo ở Nalanda cũ. Nhưng ngày nay thì cơ duyên thay đổi. Chư Tăng các xứ Nam Tông đông hơn Bắc Tông và các giáo sư cũng rành Phật giáo Nam Tông hơn. Do đó, giáo hệ Ðại thừa chưa được giảng dạy tích cực ở đây. Chỉ có Thượng tọa Minh Châu, một giáo sư và một học giả Nhật, nghiên cứu Ðại thừa mà thôi, các vị Lạt-ma Tây Tạng cũng đang học Sanskrit thuộc Ðại thừa giáo. Thầy Thiện Châu và thầy Huyền Vi là số ít nên phải theo số đông và hai thầy cũng muốn học Pali và tìm hiểu giáo hệ Nam tông. Theo Thượng tọa Minh Châu thì nếu hiểu rõ giáo hệ Nam tông, chúng ta mới có thể thông suốt được những giáo lý cao rộng của Ðại thừa. Một vài thành quả Tuy Nalanda mới được xây dựng sau khi Ấn Ðộ thâu hồi độc lập, trong thời gian không bao lâu, nhưng nhờ danh thơm của Nalanda cũ, nên hầu hết các học giả trên thế giới đều biết và khi có dịp đến thăm Ấn Ðộ là họ đến thăm Nalanda mới. Do đó, sinh viên Nalanda cũng tiếp nhận được nhiều luồng tư tưởng mới lạ. Hơn nữa, Tam Tạng kinh điển gồm 42 bộ và những tập nghiên cứu có giá trị của toàn thể giáo sư, học giả Nalanda được Chính phủ ấn hành dưới sự quản đốc của Ấn loát vụ Nalanda và có gửi tặng các thư viện lớn trên thế giới. Nhờ vậy Nalanda được nhiều người biết đến và được xem như là trung tâm nghiên cứu Phật giáo duy nhất ở Ấn Ðộ, sau gần 10 thế kỷ Phật giáo im hơi, bặt tiếng ở tịnh xá này. Ðiều quan trọng hơn nữa là 142 vị M.A và 4 vị Tiến sĩ (năm nay có 26 vị thi M.A và 8 vị trình luận án Tiến sĩ) do Nalanda đào tạo hiện rải rác khắp mọi nơi, trên đất Ấn cũng như các nước ngoài là những bằng chứng đầy đủ để nói lên sự trưởng thành của Nalanda mới. Phật tử Việt Nam chúng ta còn được thêm một điều vui mừng nữa là Thượng tọa Minh Châu là người Việt Nam đã đỗ đầu một kỳ thi M.A, một mối vinh dự mà từ trước đến nay chỉ để dành cho người Ấn Ðộ. Thượng tọa cũng là người đầu tiên đỗ bằng Tiến sĩ của Nalanda mới. Phần nhiều sinh viên ngoại quốc chỉ học tới M.A, rồi chuyển sang ngành khác hoặc về nước vì ngành cổ ngữ Pali và triết học này tương đối khó, không những cho người ngoại quốc mà ngay cả người Ấn Ðộ nữa. Bản luận án và những tập nghiên cứu của Thượng tọa được các vị học giả hữu danh tán thưởng. Tóm lại, Nalanda mới tuy mới mà cũ, vì trước nó đã có Nalanda cũ rực rỡ một thời. Chúng tôi ước mong chính phủ Ấn Ðộ trong chương trình khôi phục và phát triển nền văn hóa cao đẹp luôn luôn lưu tâm và tiếp tục mở rộng Nalanda mới. Cuộc chiêm bái của chúng tôi chấm dứt với Tân Phật học viện Nalanda, đúng một tháng trời thăm viếng 12 Thánh tích quan trọng bậc nhất và một số đô thị khá lớn tại Ấn Ðộ. Chúng tôi không bao giờ quên hai mục tiêu chính của cuộc hành hương này, và đi đến đâu chúng tôi cũng thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam đảnh lễ cúng dường các Phật tích quan trọng, cầu nguyện quốc thái dân an, giới thiệu Phật giáo Việt Nam và ghi chép tỷ mỷ những di tích đã được thăm. Và cũng nhờ đạo niệm thuần nhất của bốn chúng tôi, và nhờ tấm lòng tuy xa nước nhưng không bao giờ quên nòi của chúng tôi, cuộc chiêm bái được kết thúc trong thành công, vui vẻ và quyền "Ðường về xứ Phật" này được ra đời để đưa các Phật tử và những người bạn của Phật tử Việt Nam cùng với chúng tôi theo gương Ngài Huyền Trang, người Trung Hoa và ngài Ðại Thặng Ðăng, người Việt Nam, đi chiêm bái các Thánh tích Ấn Ðộ.
|
|
|
Post by TCTV on Nov 3, 2010 22:03:31 GMT -5
Phụ đínhVesàli (Tỳ-sa-li) Vesàli cách Nalanda độ 200 cây số nhưng vì đường sá cách trở nên mãi đến năm nay cũng vào dịp lễ Puja chúng tôi mới đi được. Phải về Patna ở lại một đêm để sáng hôm sau đi tàu thủy sớm. Bài học "sớm 3 giờ hơn trễ một phút" chúng tôi học mãi mà chưa thuộc. Chỉ chậm có 3 phút thôi mà chúng tôi bị trễ một chuyến tàu và còn xảy ra nhiều chuyện lôi thôi. Vì ra đi trong lúc trời còn tối cộng thêm sự hấp tấp vội vàng của chúng tôi, nên cảnh sát, công an để ý theo dõi. Trước kia dưới mắt của phần đông người Ấn, chúng tôi là người Miến Ðiện hay Tây Tạng. Nhưng trong những ngày chiến sự Trung Ấn xảy ra tại biên giới, chúng tôi bỗng nhiên trở thành người Tàu. Vì chúng tôi có bộ mặt "giống Tàu" và màu da vàng vàng. Chúng tôi biết có sự theo dõi và dòm ngó nhưng không muốn đính chánh. Nhớ lại lời Phật dạy về sự tai hại của thành kiến, trong lúc ấy thật là đúng lúc. Ðức Phật dạy: "Kiến chấp - Thành kiến sai lầm - làm cho người ta không thể thấy được sự thật". Tuy bị xét hỏi giấy tờ, nhưng chúng tôi vẫn vui vẻ và nghĩ rằng: "Vì bổn phận đối với đất nước trong lúc loạn, người ta có quyền xét hỏi, mình là người ngay thật thì không có gì đáng sợ". Sau khi biết chúng tôi là người Nalanda, họ xin lỗi và cám ơn chúng tôi. Chúng tôi rời khỏi Patna vào chuyến tàu 8 giờ sáng. Có ra xa mới thấy được địa thế vững vàng rộng rãi của Patna, xưa gọi là Pataliputra, một đô thị quan trọng và xưa trong những đô thị xưa nhất trên thế giới. Patna là kinh đô của tiểu bang Bihar gồm 47 triệu dân. Bihar có nghĩa là chùa tháp vì ngày xưa xứ này có rất nhiều chùa tháp của Phật giáo, Ấn giáo. Kinh thành nằm bên bờ sông Hằng rất thuận tiện cho việc giao thông và canh nông. Vua Asoka đã đóng đô ở đây. Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ ba cũng được Vua Asoka giúp đỡ tổ chức tại đây. Ðến Ấn Ðộ mà không thăm Patna thì chưa thấy hết Ấn Ðộ. Vì rằng các thành phố lớn như Delhi, Bombay, Calcutta, Madras là những thành phố bị Âu hóa rất nhiều. Duy Patna còn giữ lại rất nhiều dấu vết và phong tục của Ấn Ðộ "huyền bí" ngày xưa. Bihar tuy nghèo về vật chất nhưng giàu về tinh thần và đạo đức. Các vị Giáo chủ của các tôn giáo lớn ở Ấn như đức Phật, Giáo chủ Mahavira, Jain (Thắng Luận sư)... đều đã thành đạo và truyền đạo tại xứ này trong nhiều năm. Các nguồn triết học lớn như Không tôn, Duy thức tôn, Trung luận tôn... cũng đều phát xuất và thịnh hành ở đây. Rajgir (Vương Xá), Vesàli (Tỳ Xa Li), Nalanda, Buddhagaya (Bồ-đề Ðạo-tràng) là những vùng có rất nhiều núi non, hang động chùa đền, nơi tu hành và truyền bá đạo đức ngày xưa. Chính cố Tổng thống R. Prasad, vị Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa Ấn Ðộ cũng là người Bihar. Trong khoảng từ thế kỷ thứ 4 cho đến thế kỷ thứ 12 đã có những trường Ðại học tuy là của Phật giáo nhưng đầy đủ các môn như triết lý, luân lý, văn phạm, ngôn ngữ. Ðại học Nalanda với 10.000 sinh viên lúc ngài Huyền Trang sang học; Ðại học Vikramasila ở Bhagalpur, mà danh sách giáo sư qua nhiều thế hệ đã lên đến 10.000; đại học Odantapuri ở Biharsharip cũng to nhưng không bằng Nalanda; Mithila một Ðại học khác của Ấn Ðộ giáo hình thức vĩ đại và đồng thời với Nalanda. Sông Hằng thật là rộng, rộng gấp 3 khoảng rộng của khúc sông Ðồng Nai ở Biên Hòa. Mùa nắng thì bãi cát ở sông lại rộng thêm ra. Ngày xưa đức Phật đã dùng số lượng cát của sông Hằng để ví dụ cho số nhiều không thể đếm được, như "Hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số thế giới"... Tàu đi dọc dòng sông một đoạn xa rồi vượt qua bờ bên kia. Ði thêm xe lửa từ bến tàu và độ 12g30 thì chúng tôi đến Mazaffarpur. Cơm nước xong, nghỉ ngơi độ nửa giờ, chúng tôi thuê xe đi Vaisali. Gặp được bác tài xế vui vẻ và thành thạo nên chúng tôi khỏi phải kiếm người hướng dẫn. Vesàli cách Muzaffarpur độ 30 cây số. Vesàli xưa là thủ đô của nước Cộng hoà Licchavi của giống người Vajji. Nước này do Visala, con của Vua Ikshvaku lập thành. Những nguyên tắc sinh hoạt theo tinh thần dân chủ của nước này được đức Phật đề cập và tán thán. "Này Ananda, người có nghe rằng những người Vajji thường hội họp với số lượng đông đảo không?" "Bạch Thế Tôn! Con có nghe!" ngài Ananda đáp. "Tốt, Ananda, chừng nào người Vajjian thường hội họp với số lượng đông đảo, lúc ấy sự thịnh vượng của họ tăng thêm mà không suy giảm". "Này Ananda, chừng nào người Vajji hội họp với nhau trong sự hòa hợp, chừng nào họ quyết định và làm việc với nhau trong sự hòa hợp, chừng nào họ giữ trọn luật lệ mà không có sự xáo trộn trật tự, chừng nào họ kính trọng và lễ bái những bậc trưởng thượng và vâng lời những bậc ấy; chừng nào phụ nữ và thiếu nữ của họ đi ra ngoài mà không bị sự hiếp bức, chừng nào họ tôn kính và lễ bái đền chùa của họ, chừng nào họ còn gìn giữ mà không khinh bỏ phong tục, chừng nào họ còn bảo vệ tôn kính và ủng hộ các bậc tu hành đạo đức, thì lúc ấy sự thịnh vượng của người Vajji tăng thêm mà không suy giảm". Chính những lời dạy này đã làm cho vua Ajatasatru bỏ ý định chinh phục nước này vì sợ không thể thắng được một nước mà toàn dân sống tự do, đoàn kết dưới chế độ dân chủ. Chúng tôi nghĩ rằng dân tộc Việt Nam chúng ta nếu muốn thịnh vượng cũng không thể làm gì khác hơn là áp dụng những nguyên tắc dân chủ trên. Vesàli bây giờ chỉ là một quận nhỏ thuộc Bihar. Cây cối vườn ruộng ở đây rất phì nhiêu. Chung quanh có rất nhiều hồ nước rộng xanh. Dân chúng lịch sự và biết trọng khách. Chúng tôi dừng xe lại trong một khu thành cũ. Thượng tọa Minh Châu chỉ cho chúng tôi biết, ở đây người ta đang đào bới để khảo cổ. Ðức Phật đến Vesali lần thứ nhất Theo Mahavatsu, lúc bấy giờ dân chúng Vesàli bị nạn dịch hạch, người chết rất nhiều. Tất cả danh y đều bó tay. Cuối cùng họ nghĩ đến đức Phật. Tổng thống Tomara mang lời thỉnh cầu của toàn dân sang Magadha cầu Phật. Ðức Phật nhận lời nhưng Vua Bimbisàra bắt buộc dân chúng Vesàli phải ra tận biên giới để thỉnh Phật. Lễ đưa Phật sang Vesàli rất trọng thể. Vua Bimbisàra tiễn đưa Phật đến tận sông Hằng. Dân chúng Vesàli với nghi lễ trang nghiêm rực rỡ quá sức tưởng tượng của Vua Bimbisàra, đến biên giới thỉnh Phật. Ðức Phật qua sông Hằng và lên bờ sang nội địa của Vesàli. Ngài đi qua nơi nào thì ở đó sấm sét nổi lên và mưa tuôn xuống, tật bệnh tiêu trừ, người người lành mạnh. Khi về đến thành, đức Phật thuyết kinh Ratana, Tam bảo. Và bảo ngài Ananda truyền lại cho người tụng đọc. Chính đức Phật cũng đọc kinh này trong Pháp hội và sau đó hằng vạn dân chúng xin Quy y. Dân chúng và Chính phủ hợp lực xây tinh xá trong rừng Mahavana để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại. Sau 7 ngày đức Phật trở về lại Magadha, lễ tiễn đưa long trọng xấp mấy lần lễ đón rước. Ðức Phật sau đó còn đến Vesàli nhiều lần nữa. Chính những năm gần nhập Niết-bàn, Ngài ở lại Vesàli. Nhiều bộ kinh như Mahali, Mahasìhanadas, Cula Saccaka Mahasaccaka... được Phật thuyết tại Vesàli, trong đó Ngài có diễn tả những điều lý thú trong khi Ngài ở tại Vesàli. Và trong các kinh điển khác, chúng ta cũng thấy có nhiều sự việc xảy ra tại đây có liên hệ tới giáo pháp: - Thành lập Ni bộ: Ðã ba lần, bà Mahaprajapati xin Phật xuất gia nhưng Ngài đều từ chối, lý do vì phụ nữ khó mà lìa bỏ gia đình sống đời sống khất sĩ khổ hạnh được. Nhưng bà vẫn không thối chí. Trong khi đức Phật ở tại Vesàli, bà Mahaprajatati đến xin gặp Ngài với bộ áo nâu sòng, đầu không tóc, chân cẳng đầy bụi, sưng phồng, vì bà đi bộ từ Kapilavastu đến Vesàli. Theo sau bà có rất nhiều phụ nữ dòng Sakya cũng muốn xuất gia. Bà sợ không dám vào và đứng ngoài cửa ngõ. Hình ảnh tín thành của bà Mahaprajapati và đoàn phụ nữ dòng Sakya làm cho Ananda xúc động, nên Ngài bèn thay mặt bà vào xin đức Phật. Ngài nhấn mạnh: "Như đức Thế Tôn dạy phụ nữ nếu tu hành tinh tấn cũng có thể chứng quả A-la-hán thì tại sao họ không được nhận vào Giáo hội như nam giới, nhất là bà Mahaprajapati là người đã thay thế Hoàng hậu Maya nuôi dưỡng săn sóc đức Thế Tôn khi còn nhỏ". Nhờ sự thỉnh cầu tha thiết của ngài Ananda, đức Phật nhận lời cho bà Mahaprajapati và đoàn phụ nữ Sakya xuất gia với điều kiện là phải giữ đúng 8 điều cung kính. Ðây là những điều đáng chú ý trong 8 điều trên: 1. Tỳ-kheo-ni phải kính trọng Tỳ-kheo dầu là đối với thầy Tỳ-kheo chỉ mới có một tuổi Ðạo (hạ). 2. Tỳ-kheo-ni phải học đạo lý nơi Tỳ-kheo. 3. Tỳ-kheo-ni phải học đạo lý nơi Tỳ-kheo. 4. Hằng nửa tháng Tỳ-kheo-ni phải kính lễ đại chúng Tỳ-kheo. 5. Một Tỳ-kheo-ni không có quyền phê bình và chê bai một Tỳ-kheo. Trái lại, một Tỳ-kheo thì có quyền ấy đối với một Tỳ-kheo-ni. Bà Mahaprajapati hết sức sung sướng chấp nhận những điều kiện trên và thành lập Ni bộ. Từ đó về sau tất cả phụ nữ xuất gia đều do bà hướng dẫn và dạy dỗ. Những nhà sử học cho rằng sự cho phép thành lập Ni bộ của đức Phật quả là một việc hết sức cách mạng. Không kể ngày xưa mà ngày nay, trừ những đô thị lớn, người phụ nữ Ấn Ðộ vẫn còn chịu số phận hẩm hiu. Sự phiền phức lớn nhất của kẻ làm cha mẹ là sinh con gái. Họ phải lo cưới chồng cho con gái và tốn số tiền hồi môn cho nhà con trai. Người phụ nữ phần nhiều phải sống kín trong phòng khuê, một số theo Hồi giáo khi ra đường phải lúp mặt lại. Những công việc nhỏ như bán trầu thuốc, buôn rau cải cũng do đàn ông đảm đương. Vấn đề giáo dục cho nữ giới còn thiếu sót rất nhiều. Theo người Ấn, đó là chân lý của họ. Nhưng chúng ta thấy có một cái gì thiếu bình đẳng giữa nam và nữ. Nhất là các tôn giáo ở đây, trừ Phật giáo, không hề có nữ tu sĩ. Ðức Phật ra đời cách đây hơn 2500 năm nhưng Ngài đã nâng cao giá trị phụ nữ. Trong kinh đức Phật dùng danh từ Màtugàma (những bà mẹ) để chỉ cho những phụ nữ lớn tuổi và Paramàsakhà (những người bạn tốt của chồng họ) để chỉ cho những phụ nữ có gia đình. Ðức Phật xác định phụ nữ có thể chứng quả A-la-hán. Họ được gọi là Ưu-bà-di ngang hàng với Ưu-bà-tắc (nam nữ Phật tử tại gia). Tỳ-kheo-ni ngang hàng với Tỳ-kheo, sau khi thọ Cụ túc giới. Có nhiều người căn cứ vào "tám điều cung kính" và sự nhiều hơn về giới luật của Tỳ-kheo-ni đối với giới luật Tỳ-kheo rồi bảo không có sự bình đẳng giữa nam và nữ trong Phật giáo. Ðiều này không đúng. Vì duyệt kỹ lại nguyên tắc bình đẳng và tinh thần giới luật của tôn giáo thì chúng ta thấy đức Phật quả là một nhà cách mạng sáng suốt. Phật giáo chủ trương bình đẳng giữa nam và nữ. Nhưng sự bình đẳng này phải được xây dựng trên hai phương diện tài và đức, nghĩa là có đồng đẳng về phương diện khả năng và đức hạnh thì sự bình đẳng mới có ý nghĩa và không sinh ra sự lộn xộn, thiếu trật tự. Những điều cung kính được đặt ra vì đức Phật muốn giữ gìn hòa khí giữa Tăng ni và nhất là bắt buộc Tăng bộ có bổn phận dìu dắt và ủng hộ Ni bộ. Còn giới luật nhiều hơn Tỳ-kheo là vì ai cũng thừa nhận phụ nữ là phái yếu, yếu cả thể xác lẫn tinh thần, đau nhiều thì phải uống thuốc nhiều. Nếu uống nhiều thuốc thì bệnh mau lành. Như thế đức Phật đã nâng cao giá trị của phụ nữ một cách hợp lý vậy. - Phật độ cho nàng Ambapali: Ambapali là một kỹ nữ kiều diễm và có tiếng ăn chơi nhất của kinh thành Vesàli. Sắc đẹp của nàng đã làm mê hồn không những các công tử ở Vesàli mà cả các nước lân cận. Vua Bimbisàra ở Magadha suýt bị mất tánh mạng cũng vì say mê sắc đẹp của nàng. Một ngày kia đức Phật ghé nghỉ tại vườn xoài của nàng ở ngoài thành. Ðược tin vui này, nàng cho đánh chiếc xe lộng lẫy đến ngay chỗ Phật nghỉ. Dung mạo và đức hạnh trang nghiêm của Phật cảm hóa nàng kỹ nữ này. Nàng thỉnh cầu đức Phật và chư Tăng ngày mai đến thọ trai nhà nàng. Ðức Phật nhận lời. Trên đường trở về nàng gặp một đoàn xe của những người Licchavis sang trọng cũng đi bái yết đức Phật. Họ dừng xe nàng và hỏi nàng đi đâu về. Nàng cho biết: Ðức Phật và chư Tăng ngày mai sẽ thọ trai nhà nàng. Những người Licchavis này tức giận và hỏi nhau: "Tại sao đức Phật lại nhận lời thọ trai ở nhà của một kỹ nữ?" Rồi để cản ngăn không cho nàng Ambapali cúng dường Phật, họ bèn bảo với nàng, nếu nhường cho họ được cúng dường đức Phật trong ngày mai thì họ sẽ đưa cho nàng 10.000 đồng tiền vàng. Nàng trả lời: "Cả tài sản của Vesàli, tôi cũng không chịu". Sau lễ cúng dường nàng đã dâng lên đức Phật vườn xoài rộng tốt để là nơi thường trú cho Phật và chư Tăng. Vườn xoài của nàng Ambapali là một lễ vật vĩ đại của cá nhân cúng Phật lúc bấy giờ. Không ai ngờ nàng kỹ nữ đã hồi tâm hướng Phật xuất gia tu hành và trở nên một người thanh tịnh trang nghiêm. Chính chúng tôi cũng suy nghĩ về câu chuyện này và nhận rõ thêm lòng từ bi, đức bình đẳng của đức Phật. Ðức Phật thương tất cả chúng sanh và cứu độ bất cứ ai có thể cứu độ. Ðệ tử của Ngài không những chỉ có những bậc vua chúa như Vua Bimbisara, Basenadi mà có cả những người cùng đinh như Upali, Cunda, không những chỉ có những người đức hạnh như công chúa Yasodhara mà có cả những nàng kỹ nữ như Ambapali. Theo Phật giáo, trong những người xấu ác nhất cũng vẫn có thiện tâm. Nếu họ biết hướng thiện và gặp được đạo lành, thầy hay, bạn tốt thì vẫn được đắc đạo. Nơi kết tập kinh điển lần thứ 2 Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại Vesàli vào khoảng 377 năm trước T.L, gồm có 700 Tỳ-kheo tham dự. Thật ra đây chỉ là Hội nghị duyệt lại giới luật. Nguyên nhân là một số Tỳ-kheo ở Vesàli hành động sai giới luật như: - Giữ muối để thêm vào những món ăn lạt. - Ăn hơi quá giờ ngọ. - Nhận hai bữa ăn trong một buổi mai. - Nhận tiền bạc.... Kết quả cuộc Hội nghị là phái Thượng tọa thắng. Và từ đó Giáo hội chia ra thành hai bộ phái. Phái Tỳ-kheo không đúng theo giới luật được gọi là phái tiến bộ (Maha-Sanghika). Phái này đông hơn và cũng đã tổ chức một Hội nghị kết tập kinh điển khác. Người ta cho rằng mầm mống của sự chia thành Nam tông và Bắc tông có ra từ đây, và do đó, người ta có thành kiến là Bắc tông không xem trọng giới luật như Nam tông, và có nhiều người đi xa hơn nghĩ rằng Nam tông là chánh truyền. Thành kiến này đã gây ra sự chia rẽ giữa khối Phật tử đông đảo không ít. Gần đây nhờ sự gần gũi trao đổi, thành kiến trên lần lần giảm đi, nhất là ở Nam Việt đang được xóa bỏ. Thành thật mà nói thì những hành động sái giới luật những điều nhẹ, có cả ở hai tông Nam tông và Bắc tông. Có điều, dù sao Nam tông vẫn còn giữ được nhiều phong tục nguyên thủy hơn như quấn y vàng, đi khất thực.... trong khi đó Bắc tông cũng vì phong tục địa phương đã bỏ đi nhiều phong tục nguyên thủy. Nhưng có điều sai lầm lớn của số đông là căn cứ vào bên ngoài để đánh giá bên trong. Ví dụ trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi - đại diện cho Bắc tông - với chư Tăng Nam tông đã không tránh khỏi sự lạ lùng và tìm hiểu của quí vị Nam tông. Sau những buổi chuyện trò và chung đụng, chúng tôi ở chung với ba thầy Nam tông 3 nước Miến, Thái, Cam Bốt, quí vị ấy đã thấy nơi chúng tôi không phải là "Bắc tông" như quí vị ấy cũng biết qua sự tuyên truyền thiếu thiện chí. Vì chúng tôi cũng sống đời sống Phạm hạnh, cũng giữ giới Tỳ-kheo. Chúng tôi có giới thể Bồ-tát nhưng chúng tôi xem đó là mật nguyện mật hạnh riêng của chúng tôi. Do đó, quí vị ở nhà không lấy làm lạ rằng chúng tôi, những chư Tăng Việt Nam thuộc "Bắc tông" sống hòa hợp vui vẻ với phần đông chư tăng Nam tông. Bằng chứng cụ thể là Thượng tọa Minh Châu là giảng sư của Viện mà cũng là Hội trưởng Hội Phật giáo Nalanda. Ðại đức Thiện Châu là Tổng thư ký, và giúp việc cho văn phòng có hai vị: một thuộc về Nam Tông Ấn Ðộ, một thuộc về Bắc tông Tây Tạng. Chúng tôi rất đồng ý với Ðại đức Sangharaknutsa, người Anh, về sự thoát ngoài những cố chấp tông phái. Ðại đức nói: "Tông phái nếu cần có là để phụng sự Chánh pháp". Và theo Ðại đức, một Tăng già gương mẫu là một Tăng-già có nếp sống đạo đức "nguyên thủy" và tâm đạo Bồ-tát. Chúng tôi mong mỏi Phật giáo Việt Nam sẽ là một nền Phật giáo tổng hợp, trong đó chư Tăng và Thiện tín cố gắng hòa hợp những "tiểu dị" để đi đến chỗ đại đồng. Chúng tôi xem xét và chuyện trò ở đây hồi lâu rồi sang thăm Tàng cổ viện. Tàng cổ viện ở đây không lớn lắm, song có rất nhiều bảo vật lịch sử. Nhìn qua các đồ gốm, đồ trang sức của phụ nữ như chuỗi hột xoàn, ngọc thạch và nhiều tượng Phật đẹp, chúng tôi đoán biết dân chúng Vesàli và các tiểu bang thuộc Vesàli đã có một nền văn minh khá cao vào thời kỳ xa xưa. Ông Giám đốc đón tiếp chúng tôi niềm nở và kính trọng như các Sadhu (tu sĩ Ấn giáo). Ông đưa chúng tôi sang thăm khách xá và mời chúng tôi ở lại. Khách xá nằm bên một hồ nước xanh mát thanh tịnh. Tiếc rằng vì hoàn cảnh chiến sự nên chúng tôi đã không dự định ở lại nên đã thuê xe đi và về. Chúng tôi cũng được ông đưa sang thăm một khu đất đang được đào bới. Theo các nhà khảo cổ thì đây là một bảo tháp tôn thờ Xá-lợi của Phật mà dân chúng Vesàli được chia một phần trong tám phần tại Kusinara sau khi Phật nhập Niết-bàn. Sau lễ hỏa táng thi hài của đức Phật, dân chúng Malla thu nhặt được Xá-lợi rất nhiều. Họ định không chia cho ai và giữ lại tất cả để tôn thờ. Nhưng sứ giả của vua Ajatasatru ở Magadha, của Vesàli, của dòng họ Sakya ở Kapilabastu, vua nước Koliya ở Ramagrama, nước Buliya của Alkappa, những vị Bà-la-môn ở Vedhadwipa ... đến xin chia Xá-lợi. Ðầu tiên, dân chúng Malla từ chối. Nhưng các sứ giả hăm dọa và nhờ lời khuyên bảo của vài vị Bà-la-môn lớn tuổi nên họ chịu chia Xá-lợi ra làm tám phần và trao cho các sứ giả các nước đem về dựng tháp thờ. Sứ giả nước Pippalivana đến chậm nên chỉ lãnh được phần tro còn lại. Dân chúng Vesàli tôn thờ Xá-lợi Phật trong bảo tháp này. Ngài Huyền Trang có được thấy tháp này vào thế kỷ thứ bảy còn nguyên vẹn. Rời khỏi nơi đây, chúng tôi đến viếng trụ đá Asoka. Trụ tròn cao độ 10 thước, trơn láng, trên đầu có hình một con sư tử, không đẹp bằng con sư tử ba đầu ở Sarnath. Nhờ những trụ đá Asoka này mà người ta tìm ra những nơi Phật tích một cách dễ dàng. Bên cạnh có một ngôi chùa đã bị đổ nát, một ngôi tượng Phật bằng đá còn lại. Diện tượng rất nghiêm từ song khác hẳn với tượng ở các nơi khác vì đầu đội mão tương tự như mão Tì lư. Sự kiện này nó cho ta biết tượng và chùa được xây vào thời kỳ "Bắc tông" thạnh hành nơi đây. Cảnh chiều về ở đây thật là đậm đà, êm ái. Cuộc sống của dân quê ở Ấn Ðộ chẳng khác gì Việt Nam mấy. Ðàn trâu chậm rãi về chuồng, theo sau vài chú mục đồng với những ống tiêu trên tay. Từng cụm đôi ba mái nhà tranh nằm giữa nương khoai, ruộng lúa. Nhưng chúng tôi cảm thấy thiếu thốn một cái gì; ấy là hồi chuông thu không... Ðang lặng nhìn những chiếc lá Bồ-đề xanh sáng nhịp nhàng rung chuyển theo gió chiều thì có tiếng của thầy Huyền Vi gọi về, chúng tôi thong thả rời khỏi phiến đá bên cạnh gốc cây, rồi lên xe trở về Muzaffarpur. Trong xe, trên đường về, cảnh tượng và lời dạy của đức Phật lúc Ngài từ giã Vesàli lần lượt hiện ra qua trí nhớ của chúng tôi: Trong những năm gần nhập Niết-bàn, đức Phật thường trú tại Vesàli. Từ chùa Capala, đức Phật đi đến Kutagarasala với ngài Ananda. Ðến nơi đức Phật bảo ngài Ananda họp tất cả các thầy Tỳ-kheo ở Vesàli lại. Trước Ðại hội đức Phật dạy: "Này các Tỳ-kheo! Các ngươi hãy tinh tấn thực hành những lời Như Lai dạy bảo bấy lâu nay. Hãy suy tư chín chắ những chơn lý mà các ngươi đã nghe được từ Như Lai rồi truyền rộng những chơn lý ấy ra để đem lại sự an vui hạnh phúc cho mọi người và trời. Hãy diệt trừ sự mê lầm và tu tập theo chánh đạo. Ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn". Ðức Phật còn dặn thêm. "Hãy tích cực làm việc, thận trọng và tao nhã - Cứu lấy tâm linh của các người bằng cách làm tròn bổn phận trong cuộc sống hướng thượng. Người nào tinh tấn trong Giáo pháp của Như Lai sẽ được ra khỏi mê lầm, phiền não và giải thoát sanh tử luân hồi" (Mahaparinibbana). Sau buổi họp, đức Phật cùng với ngài Ananda lặng lẽ từ giã Vesàli đi về phía Kusinara. Ðược tin đức Phật sắp nhập Niết-bàn và từ giã Vesàli, dân chúng chạy theo càng lúc càng đông. Họ khóc lóc van xin đức Phật ở lại. Nhiều lần Phật bảo họ lui về, nhưng không ai vâng chịu. Cuối cùng Ngài phải dừng lại khuyên lơn và trao tặng chiếc bình bát của Ngài thường dùng để thọ trai. Theo ngài Pháp Hiển, người Trung Hoa chiêm bái Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ 5, thì sau nhiều lần khuyên bảo dân chúng Vesàli lui về nhưng vô hiệu, đức Phật bèn vận dụng thần thông biến ra con sông nước chảy mạnh ngăn cách giữa Ngài và đoàn người theo Ngài. Dòng sông ly biệt này bắt buộc họ trở lại Vesàli và đức Phật từ từ đi qua Kusinara để xả bỏ xác thân vô thường, đi vào cảnh giới tịch diệt, an lạc. Sau đó dân chúng Vesàli đã xây dựng một bảo tháp chính nơi thầy trò ly biệt để muôn đời ghi nhớ. Ngài Pháp Hiển có thấy bảo tháp này.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 1, 2011 17:55:57 GMT -5
Dẫn vào thế giới Văn học Phật giáo Thích Tuệ Sỹ .Trong tư tưởng Đại thừa, có hai quan niệm đặc trưng về duyên khởi. Quan niệm thứ nhất, y theo duyên khởi để đạt đến Pháp Không, thể hiện khả năng siêu việt hữu vô đối đãi, như đã thấy. Quan niệm khác, y trên pháp duyên khởi để chứng nhập thế giới tương giao trong trùng trùng vô tận, tức là Pháp giới duyên khởi.I. GIỚI HẠN CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO Ý nghĩ đầu tiên của một người vừa bước đến văn học Phật giáo, tất nhiên sẽ coi đây chỉ là một nền văn học tôn giáo không hơn không kém, trong tính cách "văn dĩ tải đạo" của nó. Đối với ý nghĩ bàng quan này, một nền văn học như vậy chỉ có nội dung là đủ, còn hình thức diễn đạt chỉ là vấn đề phụ thuộc…; rượu ngon không hệ trọng ở bình chứa. Sự kết cấu của văn học không hệ trọng bằng chân lý tôn giáo đã có sẵn: chân lý thành kiến. Bởi vì chỉ có nội dung, hình thức không cần thiết lắm, do đó, chân lý của tôn giáo sẽ tùy nghi được phô diễn bằng cách vay mượn bất cứ thể tài văn học nào đã được thông dụng. Người ta sẽ không đòi hỏi tác giả phải có một phong cách độc đáo trong đường lối phô diễn; y khỏi phải nỗ lực vận dụng mọi khả năng sáng tạo đến mức tuyệt động, vốn là giá trị đặc sắc của một tác giả văn học - thuần túy. Như vậy, một khi nội dung của kinh nghiệm tôn giáo càng được nới rộng, thể tài văn học càng bị thu hẹp lại. Cho đến một lúc nào đó, lúc mà kinh nghiệm tôn giáo được mở rộng đến vô hạn và tận cùng trong tuyệt đối bất khả tri, người ta bị bắt buộc phải khước từ mọi phương tiện diễn đạt qua các thể tài văn học. Đây là một song quan luận của phương tiện (văn học) và cứu cánh (tôn giáo). Khai triển phương tiện đến tận cùng thì cứu cánh sẽ vắng bặt. Ngược lại, nếu tiến đến chỗ tuyệt đối cứu cánh, phương tiện sẽ hết còn là phương tiện. Nói cách khác, hình như cứu cánh tôn giáo, với những chân lý thành kiến của nó, lúc nào cũng sẵn sàng phản bội mọi tính cách sáng tạo của văn học. Văn học không phải là phương tiện của bất cứ một chân lý cứu cánh nào, thành kiến hay không thành kiến, dù là chân lý về sự sống và cuộc đời; vấn đề sẽ mở sang một chiều hướng khác: đâu là phương tiện, và đâu là cứu cánh của văn học? Ở đây, chúng ta có hai lãnh vực mà sự diễn đạt của văn học có thể vươn tới. Trước hết, là hai trích dẫn điển hình, thường được nhắc nhở rất nhiều: Thứ nhất, kinh Tương ưng bộ (Samyutta – Nikàya): "Thánh nhân không tranh luận với thế gian. Những gì kẻ trí trong thế gian nói là không, ngài cũng nói là không. Những gì kẻ trí trong thế gian nói là có, ngài cũng nói là có". Trong trích dẫn này, mọi diễn tả của ngôn ngữ không được phép vượt qua giới hạn của tri thức thường nghiệm. Chân lý chỉ tuyệt đối ở tự thân của nó, nhưng là tương đối ở lãnh vực diễn đạt của ngôn ngữ. Vì vậy, các tác giả của Phật học có thói quen mở đầu tác phẩm của mình bằng một thái độ khiêm tốn: những gì họ sẽ trình bày không liên hệ đến tự thân của chân lý mà họ muốn hướng đến. người ta không thể nhầm lẫn giữa ngón tay và mặt trăng. Dĩ nhiên, ngôn ngữ ở đây tác động trong những tâm trí bình thường. Hậu quả của nó sẽ là khuôn mẫu để phân tích và phân loại các sự thực của kinh nghiệm. Tức là ngôn ngữ của triết lý. Thứ hai, kinh Bát nhã (Prajnàpàmità-sùtra): "Bất hoại giả danh nhi thuyết thật nghĩa". Giả danh, tức biểu tượng và danh ngôn trong tính cách ước lệ của chúng. Những thứ này không liên hệ đến chân lý tuyệt đối, tức thật nghĩa. Do đó, muốn đạt đến chân lý tuyệt đối này, phải vượt qua mọi khả năng của ngôn ngữ và biểu tượng, như người ta cần lìa bỏ tầm mắt khỏi ngón tay để nhìn thẳng vào mặt trăng. Tuy nhiên, trích dẫn của chúng ta nói: ngay nơi biểu tượng và ngôn ngữ mà thể nhận chính bản thân của sự thật. Và đây chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Bởi vì, theo lý tưởng này, vắn tắt, không phải do người nói đã nói ra như vậy, rồi người nghe theo đó mà nghe như vậy và sự thực được phô diễn như vậy nên có ý nghĩa như vậy; nhưng, chính sự thật là như vậy. Những vị đã từng làm quen với văn học Bát nhã sẽ không lấy làm thắc mắc quá đáng về lề lối diễn tả như vậy. Theo tinh thần này mà nói, cái cảm hứng đưa đến sự thành hình của một tác phẩm, bất kể dưới cách thức phô diễn nào, phải là một cảm hứng toàn diện, trong đó không có giới hạn phân biệt giữa một nhãn quan - một ý tưởng - cần được phô diễn và hình thức phô diễn. Tất cả, từ tác giả cho đến độc giả, phải được đặt trong mối tương quan vô phân biệt, như sự phản chiếu giữa các mặt kính đối diện nhau, phản chiếu trong một thế giới trùng trùng vô tận. Vì vậy, kinh điển Bát nhã thường chọn những vị chưa chứng ngộ chân lý về tánh Không mà lại có tư cách giảng thuyết về tánh Không. Tất nhiên, trong trường hợp này người ta phải hiểu rằng tánh Không tự phô diễn lấy chính nó, mà người giảng thuyết, sự thực được giảng thuyết, cho đến người nghe, tất cả chỉ như là ráng nắng, mộng ảo, huyễn hóa… Từ đây gợi lên cho chúng ta ý tưởng rằng, một tác phẩm, dù là luận thuật tư tưởng hay văn học thuần túy, không thể nào vượt qua khỏi giới hạn của ngôn ngữ. Nhưng, chính cái cảm hứng bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm mới tạo cho nó một kích thước rộng rãi, một sức hàm chứa vô biên. Lẽ cố nhiên, cảm hứng thì không thể bị điều động bởi bất cứ ý tưởng nào, mà bộc phát với một thế giới kỳ diệu đột nhiên xuất hiện. Một cách khác, chúng ta nói rằng, tất cả các tác phẩm của văn học Phật giáo đều cố gắng cắm sâu gốc rễ vào tánh Không. Rồi sau đó, vươn mình khỏi lòng đất với tàn lá sầm uất của một thế giới trong trùng trùng vô tận. Trong ý nghĩa vừa nói, một tác phẩm xứng đáng với một kích thước rộng lớn, nó phải khởi lên từ cảm hứng của thực tại; vì rằng, ngay qua đó, người ta sẽ thấy một cách như thực đâu là tiếng nói của thực tại và đâu là tiếng nói của lòng người: thực tại tức là lòng người. Và cũng từ đó, người ta sẽ tìm thấy đâu là khát vọng sâu xa đang ẩn kín trong lòng người. Một tác phẩm mà không đủ sức chấn động lòng người để mở ra một thế giới như vậy không thể xứng danh là một tác phẩm văn học. Bởi vì, một tác phẩm tường thuật, về triết lý v.v…, chỉ cần ý tưởng, cần nội dung súc tích là đủ; những gì đáng nói đã được nói hết. Hình thức phô diễn chỉ là phương tiện tùy cơ duyên mà thôi. Nhưng một tác phẩm văn học phải đặt hết tâm tình và cảm xúc ngay ở hình thức phô diễn; và đây không phải là tâm tình và xúc cảm được khơi dậy bởi một chân lý thành kiến nào đó. Như vậy ngay nơi tác phẩm văn học, không phân biệt giữa nội dung và hình thức, mà ngay nơi tính cách phô diễn đương trường của nó, là cả một thế giới sống thực triền miên. Y như Phật quả Viên Ngộ Thiền sư (Bích nham lục); "Ẩn mật toàn chân, đương đầu thủ chứng". Đấy chính là khởi điểm và cũng chính là đích điểm của văn học Đại thừa Phật giáo. Quan điểm của chúng ta sẽ được tóm tắt như sau: 1. Sơ khởi văn học Phật giáo không từ chối vai trò "truyền đạo" của nó. Tức là, chân lý của tôn giáo này, tùy trường hợp, được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ như một phương tiện, thứ yếu, không quan trọng cho bằng nội dung. 2. Nhưng, chân lý ở đây mang tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học, nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bột phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh. 3. Trên khía cạnh tôn giáo, chân lý được chứng ngộ là phản ảnh của một thế giới sống động. Trên phương diện diễn đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thề giới toàn diện của văn học Phật giáo. Như vậy, chúng ta có thể nhớ lại phát ngôn của Tăng Triệu (Tựa kinh Duy ma cật) Thánh trí vô tri nhi vạn phẩm cu chiếu Pháp thân vô tượng nhi thù hình tịnh ứng Chi vận vô ngôn nhi huyền tịch di bố Minh quyền vô mưu nhi động dữ sự hội Hoặc giả, của Ngạn Hòa Thích Huệ Địa: (Văn tâm điêu long). Tịch nhiên ngưng lụ, tứ tiếp thiên tải Tiểu yên động dung, thị thông vạn lý Vân… vân…
|
|
|
Post by tk on Aug 20, 2011 14:40:53 GMT -5
Rằm Tháng 7 Và Tội Ác Chim Phóng Sinh Suu Tam
Người ta còn cho thuốc vào để chim yếu, chỉ bay được một ít trong khuôn viên chùa, và 5 phút nữa thôi, sẽ lại bị bắt về, để bán cho một người khác... Tôi không phải là người mộ đạo, tôi chỉ sống theo đạo tâm và hướng thiện. Nhưng mỗi năm, tết và rằm tháng 7 tôi đều đi chùa, và mỗi năm, tôi đều đứng trước những lồng chim và cầu nguyện và cảm nhận nỗi đau... nỗi đau của chim sa lưới, chim trong lồng.
Không biết có phải kiếp trước tôi là chim, hay vì tôi quá mẫn cảm mà tôi luôn có thể cảm nhận và nghe nỗi đau của từng con chim trong lồng ấy.
Hôm nay cũng thế, tôi lại đứng trước lũ chim, chúng khóc, chúng van xin tôi, đừng thả chúng ra. Chúng đau, chúng đè lên nhau, đứa gãy cánh, đứa què giò, có một con ứa nước mắt, nói với tôi rằng: "Xin bạn đừng nhìn tôi, xin bạn đừng mua tôi, đừng thả tôi, cứ để tôi chết trong lồng này, hôm nay tôi đã được thả ra và bắt vào 4 lần rồi, tôi đau, mệt, tôi không thể bay, xin đừng cho tôi hy vọng".
Một con chim khác lại nói: "Nếu không ai mua, họ sẽ không làm vậy, họ đã cho chúng tôi uống nước thuốc, chúng tôi không thể bay xa, cho dù bạn thả ra, chúng tôi cũng sẽ bị bắt về và lại bán, và lại bị bắt. Nếu bạn không mua, họ sẽ chẳng bao giờ cần bắt chúng tôi, sẽ không bao giờ cần cho tôi uống thứ nước thuốc khủng khiếp đó, làm ơn, làm ơn để chúng tôi hy sinh và những con chim khác sẽ không bao giờ chịu chung số phận. Làm ơn!"...
Rồi một người phụ nữ đến mua, người đàn bà bán chim nhẫn tâm quơ tay vào cái lồng đặc nghẹt, hốt từng nắm, lũ chim bị bóp chặt, mỏ con này chọc vào mắt con kia, trong cơn quơ quào móng con này cấu vào đầu con kia, chúng la hét, giẫy dụa, rỉ máu, chúng đau đớn, chúng la “Đừng đừng … hãy để chúng tôi yên, hãy để chúng tôi yên”.
Tôi đứng im, bất lực, tôi là kẻ hèn nhát, tôi khinh khi bản thân mình, tôi đã không dám đứng ra ngăn cản người phụ nữ đó, như ngăn cản số người còn lại trên cái thế giới này xin đừng thả chim phóng sinh.
Ngày xưa, đức Tam Tạng thấy bọn trẻ câu cá đã mua cá và thả cá về sông để làm phúc. Người ta bẫy chim để ăn vì mưu cầu cuộc sống, rồi người làm phúc vô tình nhìn thấy đã mua chim ấy để thả. Đó gọi là làm phúc.
Ngày nay, những người bẫy chim không còn phải để ăn mà để bạn mua và thả. Vậy khi bạn mua có nghĩa là bạn tạo ra cầu thì sẽ có cung, do đó, việc bạn đang làm là ác, vì bạn đang xúi giục họ bắt, hành hạ những con chim ấy và bạn sẽ cho họ tiền, vậy việc làm đó có thiện, có phúc hay không?
Có thể bạn nói rằng, ngày nay họ cũng vì kế sinh nhai nên làm vậy, cũng đâu khác gì ngày xưa. Thật ra nó khác, rất khác, vì ngày xưa những con chim bị bắt để ăn sẽ to khỏe và mập mạp, và khi bạn thả, là nó sẽ được tung cánh bay xa, được về với gia đình của nó. Còn ngày nay, nếu bạn để ý kỹ, những con chim phóng sinh là những con se sẻ nhỏ, hoặc loài chim én, hoặc chim yến, những con chim bé nhỏ, vô tội chỉ bị bắt vì một lý do duy nhất, bắt để bán cho những người phóng sinh.
Người ta còn cho thuốc vào để chim yếu, chỉ bay được một ít trong khuôn viên chùa, và 5 phút nữa thôi, sẽ lại bị bắt về, để bán cho một người khác.
Tôi đứng đó, ứa nước mắt, và tự sỉ vả mình hèn hạ vì đã không dám lên tiếng. Lũ chim được người đàn bà giơ cao đưa ra trước đức phật, cầu nguyện và mở nắp, lũ chim đứng yên, không hề muốn bay ra. Người đàn bà phóng sinh thò bàn tay mập mạp, bắt từng con thả ra, chúng bay uể oải và đậu trên một nhánh cây gần đó.
Tôi biết lũ chim kia quá bé để ăn thịt, thật sự nếu không ai mua, thì vài ngày sau họ cũng sẽ phải thả nó về trời, đằng này, cứ hết người này, đến người khác tới mua, nên họ cứ bắt đi bắt lại, hành hạ chúng đến khi chúng mệt lử và chết, thì khi đó họ sẽ mua vài con thế vào. Một lồng chim trăm con có thể bán đi bán lại hàng chục lần.
Truyền thống chim phóng sinh giờ đây là một việc làm độc ác cần xóa bỏ. Nếu những người kia cần tiền, họ có thể bán nhang, bán vé số, có thể bán kinh, bán hoa. Xin đừng hành hạ những sinh vật bé nhỏ và vô tội. Những người phóng sinh xin đừng đưa tiền, đừng tiếp tay cho hành động độc ác nọ, xin thương lấy lũ chim, đó cũng là một sinh mạng.
Làm ơn, xin đừng phóng sinh!
|
|
|
Post by tk on Jun 7, 2013 19:02:27 GMT -5
Đề Bà Đạt Đa – Đỗ Hồng Ngọc “Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nghe kinh Diệu pháp Liên Hoa phẩm Đề Bà Đạt Đa, sanh lòng trong sạch kính tín chẳng nghi lầm, thời chẳng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được sanh ở trước các đức Phật trong mười phương… từ hoa sen hóa sanh”… Đề Bà Đạt Đa là em chú bác của Phật, cũng tu hành đâu đó đàng hoàng, chỉ có cái lòng tham quá lớn, nhiều lần muốn giết Phật, muốn thay Phật lãnh đạo tăng đoàn, tìm cách gây “mất đoàn kết nội bộ”, ném đá giết Phật, xúi voi giày Phật, xúi giục con vua giết vua, chiếm ngôi v.v… Tóm lại, đó là một con người “cùng hung cực ác”, xứng đáng cho vào chín tầng địa ngục dài lâu… Vậy mà ở thời Pháp hoa, Đề Bà Đạt Đa được Phật ca ngợi hết lời, còn thọ ký cho sẽ thành Phật Thiên Vương Như Lai… không thua kém bất cứ một Đại Bồ-tát nào! Tin nổi không? Tin một kẻ xấu ác như Đề Bà Đạt Đa, một “kẻ thù” không đội trời chung của Tăng đoàn mà cũng trở thành Bồ-tát, thành Phật? Tin quá đi chứ! Có gì mà không tin! Trước hết, Pháp hoa đã khẳng định ai cũng sẽ là Phật, ai cũng sẵn có tri kiến Phật, sẵn có Phật tánh cả, như viên ngọc trong chéo áo, chẳng qua vì không biết để nhận ra. Đề Bà Đạt Đa cũng là… người – dù là người ác – nên đương nhiên có viên ngọc quý đó trong chéo áo. Đề Bà Đạt Đa cũng có Phật tánh của mình chứ! Phật tánh đó cũng “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…” chứ, một lúc nào đó nó cũng sẽ hiện ra chứ, cho nên Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật như mọi người mới hợp lý! Huống chi Đề Bà Đạt Đa lại là người có công rất lớn… đối với Phật. Đề Bà Đạt Đa đã giúp cho Cồ Đàm thành… Phật! Giả sử không có người ném đá làm chảy máu chân thì có khi Phật quên mình có… chân, quên mình có máu đỏ bởi mãi lo “chánh niệm” tận đâu đâu mà không thấy thân mình là quý, chỉ thấy thân bất tịnh, thọ thị khổ… mà quên thân là tháp báu, quên phải quay về nương tựa chính mình! Không có Đề Bà Đạt Đa gây chia rẽ, thì Phật sẽ không lo xây dựng Tăng đoàn, “củng cố nội bộ”, đào tạo lực lượng kế thừa, đề ra những giáo quy phù hợp tình thế… Cho nên “phản diện”, “đối lập” quả là cần thiết, người phản diện đối lập đáng là một… Đại Bồ-tát! Chướng tai gai mắt đó mà cần biết chừng nào, qúy biết chừng nào. Không có cái đối kháng đó, ta dễ trở thành một thứ “tăng thương mạn”! Ngay trong cơ thể ta, đã có hệ giao cảm ắt phải có hệ đối giao cảm để mà điều chỉnh. Hãy nghe Phật kể “công đức” của Đề Bà Đạt Đa : “Do nhờ ông Thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỷ xả, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng… và nhờ đó mà thần thông đạo lực, thành bực đẳng Chánh giác rộng độ chúng sanh. Đó là chưa kể có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía…”. Thấy chưa! Tất cả đều là nhờ công đức của Đề Bà Đạt Đa đó. “Tất cả công đức đó đều là nhơn thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa cả!”. Hóa ra Đề Bà Đạt Đa là một… thiện tri thức, một người tạo ra “nhơn” để từ đó mà có “quả” của Phật! Thử tưởng tượng không có Đề Bà Đạt Đa, Phật còn lâu mới có được nhẫn nhục, tinh tấn… còn lâu mới có lục độ vạn hạnh, còn lâu mới có được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía…! Cho nên học Phật, trong đời cũng rất nên có những Bồ tát “thuận” và những Bồ tát “nghịch”, những Đề Bà Đạt Đa của riêng mình. Hãy tưởng tượng Đề Bà Đạt Đa là một người… nịnh Phật, suốt ngày khen Phật có những tướng tốt, các món đẹp gì gì đó thì Phật còn lâu mới thành… Phật được! Cho nên thực tế trong đời sống, kẻ “đối lập” ta chính là người ơn của ta. Sau này ta thấy Bồ-tát Thường Bất Khinh – thực chất là một “hạnh” của Phật- đã xử sự ra sao trước mọi người bất kể người đó là ai. Dù bị chửi bới mắng nhiếc xua đuổi, Thường Bất Khinh luôn chắp tay xá xá : “Xin chào ngài. Ngài là vị Phật tương lai…”. Mới nghe tưởng chế giễu, nhạo báng mình nhưng nghe đi nghe lại thì giật mình à há, mình cũng có “hạt giống” Phật trong người đó chứ, nếu chịu khó tưới bón, hôm nào cũng dám mọc ra một cây bồ-đề lắm chứ! Đề Bà Đạt Đa nhìn bằng con mắt “bất nhị” là một vị Phật đứng bên cạnh Phật Thích Ca. Một nhân vật phản diện cần thiết! Cái ác mà không “cực ác” thì cái thiện cũng khó mà “cực thiện”! Ở các cửa chùa xưa nay luôn có ông Thiện và ông Ác! Ông Thiện cũng dễ thương mà ông Ác cũng dễ thương! Quán Tự Tại Bồ-tát thì thảnh thơi hơn, lúc Thiện lúc Ác, tùy cơ ứng biến mà cứu độ chúng sanh, với lòng đại từ đại bi của Ngài thì khi cần thiện hóa thiện, khi cần ác hóa ác. Cho nên đọc Đề Bà Đạt Đa thấy sảng khoái! Sao lại không “kính tín chẳng nghi lầm” nhỉ? Giả sử xưa Pháp hoa không có phẩm này, sau mới có bậc “cao nhân” đưa thêm vào thì phải cúi đầu mà “tán thán” chứ! Đỗ Hồng Ngọc
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 16:11:15 GMT -5
Thanh Gươm Ba-La-MậtTác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh Con ngỗng trời vàng Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng. Đây là ngôi làng, là cố hương, là tổ ấm cho muôn chim đủ loại, đủ sắc màu làm nơi tụ hội, hát ca, reo vui, hoặc ái ân tình tự... Chủ nhân của cây đại thọ là vị thần có râu trắng, hỷ xả, nhiều từ tâm. Ngài đón nhận muôn chim như cháu ngoại, như con cưng hoặc như bằng hữu. Lâu lâu, vị Thọ Thần lại xuất hiện, như tiên ông trong truyện cổ tích, cầm chiếc gậy mây và nở nụ cười, nói chuyện vui với chúng hoặc vài lời dạy bảo khôn ngoan của bậc già cả. Lâu lâu, vị Thọ Thần râu trắng lại rướm nước mắt vì bùi ngùi thương tiếc: con chim hoàng oanh kia bị sa lưới mất rồi, con sáo sậu nọ bị lú bùa mê nên chúng bắt. Chứng kiến sự chết chóc do tai nạn, do bị ăn thịt, do bị nhốt trong chốn ngục tù vàng son thường đau xót hơn là chết do bệnh tật hay già yếu. Sau mỗi lần như thế, vị Thọ Thần lại khuyên muôn chim nên sống đời yểm ly đô thị, làng mạc, nơi có loài người. Ôi! Cái loài người kia tâm địa thật khó lường! Sự độc ác, gian xảo và quỷ quyệt của chúng còn ngàn lần ghê gớm hơn cọp beo hay chồn cáo. Tuy thế, chỉ chừng mực nào thôi. Đã nhiều lần, vị Thọ Thần đành phải xuôi tay bất lực, trơ mắt nhìn định luật nhân quả nghiệp báo lạnh lùng! Đã ngàn năm rồi, vị Thọ Thần cùng cây đại thọ chứng kiến sự thịnh suy, còn mất, thời gian, sự tàn lụi, tử vong, đến rồi đi, đi rồi đến... Cảm thán, vị Thọ Thần bước lên đầu cây, thốt lên một bài ca chưa từng được nghe: “Ôi! Vĩ đại thay là sự vô thường của ngươi! Ôi! Kinh khiếp thay là sự rỗng không của ngươi! Ôi! Khó kham nhẫn thay là trò ảo hóa, ma mị, lá vàng, lá xanh cùng tử vong bên trong mầm sự sống! Ta đưa cao ngọn cờ munja! Ta sẽ chiến thắng ngươi với trò chơi yểm ly trần thế. Đời sống của ta: không thỏa hiệp Vinh quang của ta: trăng gió giữa bầu khuya! Niềm vui của ta là sự tĩnh an, ngơi nghỉ của linh hồn! Niềm yêu thương của ta là sự sống đang trôi chảy đến muôn cùng! Ta không biết nhận về, chỉ biết cho đi! Thịnh suy, còn mất ta chưa hề sợ hãi! Chỉ xót xa sinh chúng nhỏ nhoi này! Chỉ xót xa mật ngọt thấm đầy môi!” Hôm kia, vào mùa xuân, một con Ngỗng Trời Vàng xuất hiện. Chưa bao giờ vị Thọ Thần thấy được một con chim đẹp như thế! Những chiếc lông vàng óng ả như được dát bằng một loại vàng ròng tinh chất, lại lóng lánh phản chiếu những giọt sương mai, túa ra những tia tía hồng rực rỡ. Vị Thọ Thần chiêm ngưỡng một hồi rồi bước ra với chiếc gậy mây, nụ cười hỷ xả làm rung rinh hàm râu tuyết bạch: - Chào bạn Ngỗng Trời Vàng thân mến! Ta là Thọ Thần tại vương quốc này. Bạn xuất hiện như phép lạ. Chiếc y vàng nơi thân bạn thật là rực rỡ và tuyệt diệu xiết bao! Chẳng hay bạn từ quê hương nào mà đến đây? Con Ngỗng Trời Vàng vươn cao chiếc cổ tua vàng vương giả, thò cái mỏ dát son lấm tấm những hạt ngọc nâu tươi, cất giọng như pha lê reo giữa trời mưa: - Kính chào vị tiên ông Thọ Thần khả kính! Tôi từ dãy Tuyết Sơn hùng vĩ giáng lâm, sau ngôi rừng của những ẩn giả bện tóc hiền thiện. Chẳng hay ngài có điều gì cần dạy bảo chăng? - Không dám! Ta chỉ hiếu kỳ, ngạc nhiên và thích thú thôi. Thấy được bộ lông vàng óng trên thân bạn, ta hoan hỷ vô cùng. Bộ lông vàng óng hy hữu kia, không phải không có nhân duyên, chắc hẳn nó phải được sinh ra từ lòng phước báu nào trong quá khứ? Bạn có nhớ là do nhân gì, duyên gì mà bạn được hưởng phước tướng mỹ miều, sang cả như vậy không? Ngỗng Trời Vàng hốt nhiên như trầm tư, như nhập định, như cúi nhìn vào vùng mịt mù, dày sâu của ký ức tiền kiếp: - Thưa ngài, thưa tiên sinh! Ngỗng Trời Vàng mở choáng mắt ra - May mắn làm sao là tôi còn nhớ, còn biết! Ngỗng Trời Vàng sửa sang lại dáng đứng để bắt đầu cuộc nói chuyện lâu - Trước đây, một kiếp tức thì thôi, như mới ngày hôm qua, như vừa một cái chớp mắt, tôi sinh ra trong một gia đình tiện dân nghèo khổ. Đến tuổi trưởng thành, tôi lấy vợ rồi sinh được ba con. Chúng đều là gái. Khi có vợ, có con, tôi tần tảo làm ăn, mong cho chúng có được manh áo lành, bữa cơm no bụng. Nhưng mà khổ thay! Suốt đời chúng tôi cứ mãi ăn gạo có trấu, ăn tấm có mùi chua. Và áo quần thì vá đùm, vá chụp, chẳng có cái nào lành lặn. Vì sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống nên đôi khi tôi phải bán rẻ một chút linh hồn. Tôi sinh ra nhỏ mọn, giật giành. Bị chi phối bởi sân nhuế và xan tham, tôi đã làm một vài việc bất thiện. Tuy vậy, tự sâu xa tâm hồn, tôi vẫn là con người hiền lương, vô hại. Cái đó lên án tôi, và bắt tôi quay về với lẽ phải, với đạo đức chung chung giữa người đời với nhau... Ngỗng Trời Vàng ngước nhìn vị Thọ Thần với tia mắt như thoáng có bóng tối: - Thưa Ngài, đời tôi như vậy đó, chẳng có công đức nào, chẳng có phước sự gì. Tâm trí ù lì, đần độn mãi bởi cái ăn, cái mặc, ít khi mà cõi lòng được nhẹ nhàng, khoảng khoát như mây trắng, như không rộng trời cao! Tâm trí tôi cho đến lúc lâm chung là cái trì trệ, nặng nề, tối đen, hôn ám... Ngỗng Trời Vàng lại lắc đầu - có sáng sủa nào đâu, có an lạc nào đâu? Thế là si mê kéo tôi đi, sinh ra cái thân súc vật chẳng tốt đẹp gì! Ngỗng Trời Vàng nói xong, thở ra, đôi mắt lờ mờ như sương ướt. Vị Thọ Thần thông cảm hoàn cảnh của Ngỗng Trời Vàng, yên lặng, một lát sau mới gật đầu: - Nhân quả là vậy, bạn ạ! Ta không thể trách ai được. Phải thấy rõ nhân quả để sống được an lạc, hạnh phúc hơn. Nhân quả là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa cho đời mình. Nhưng trong cái nghiệp chung vẫn có cái nghiệp riêng. Cũng là thân chim, nhưng thân chim như bạn cũng thảnh thơi và an lạc như kiếp Thọ Thần, như tôi, chẳng khác mấy. Cái quả ấy là do nhờ bạn đã chu toàn nghĩa vụ gia đình, lo cho vợ, cho con, hy sinh bản thân mình vì ấm no của kẻ khác. Bạn có thấy cái riêng đó không? Ngoài ra, bạn lại có cái riêng khác nữa, cái riêng trỗi vượt. Cái riêng này chắc hẳn phải do một việc làm hy hữu, một công đức hy hữu tạo thành. Chiếc y vàng vương giả, diễm lệ nơi thân bạn không phải là không có nhân duyên vậy. Ngỗng Trời Vàng sực nhớ lại: - Cái đó thì có, tôi nhớ rồi. Ngày kia, tôi lên rừng kiếm củi độ nhật. Trên đường về, qua suối, tôi gặp một người. Ôi, sao trên đời lại có kẻ khổ sở đến thế? Tôi đã khổ, đã ốm o gầy mòn, da trơ xương mà kẻ kia còn khổ hơn! Tôi còn được chiếc áo rách, vị kia lại mặc bằng lá, bằng vỏ cây. Tôi bèn dừng lại và hỏi: “Này người ơi! Sao người khổ đến thế? Đừng nói đến cơm trấu và tấm chua, ngay đến nước vo gạo để uống cầm hơi, có lẽ người cũng chẳng có? Đừng nói đến chuyện áo rách, áo lành, cái lá cây, vỏ cây kia cũng đã tơi tả! Người chẳng có họ hàng, bà con quyến thuộc gì cả hay sao?” Khi nghe tôi nói thế, vị kia ngước lên nhìn tôi với đôi mắt hiền từ và đầy thương hại. Vị ấy nói: “Này người tiều phu tốt bụng! Nghèo đói cơ hàn là bạn của bậc ẩn sĩ. Chiếc áo vỏ cây là áo giáp thiện hạnh ngăn che sự xâm phạm độc hại của ác uế ngũ trần. Bà con quyến thuộc của ta là vô tham, vô sân, tàm, quý và từ bi hỷ xả. Như vậy, đời sống của ta đã quá đủ đầy, đã quá an lạc. Sao ngươi với gánh củi trên vai, với gánh vợ con trên lưng, lại thương xót ta là người đã buông hết mọi gánh nặng, là người đang sống đời hạnh phúc của các bậc đại tiên? Ngỗng Trời Vàng nghĩ lấy hơi rồi tiếp: - Lời nói của vị kia chắc hẳn là hay lắm, nhưng tôi không hiểu hết ý nghĩa. Trên đường về nhà, nghe có gió lạnh, biết rằng mùa đông đã đến, nếu không có tấm vải nào, vị kia làm sao chống nổi với rét buốt giữa rừng già? Nghĩ vậy, động mối từ tâm, dấu vợ, dấu con, tôi mở rương lấy một tấm vải vàng. Đây là tấm vải bó tử thi mà tôi lượm được nơi nghĩa địa, đã giặt giũ sạch sẽ. Tấm vải không quý với ai, nhưng quý với tôi. Thế là tôi chạy lên rừng, tìm kiếm người đói rách, thân tặng tấm vải đến con người đó với tất cả tấm lòng thương xót của mình. Sau này, nghe người ta nói, vị ấy là một nhà tu khổ hạnh, một Sa-môn hay một vị Độc Giác Phật gì đó! Vị Thọ Thần gật đầu: - Đúng vậy, chính đó là nhân, là duyên cho bộ lông hoàng kim nơi thân bạn. Cái quả trổ sanh của nó còn vạn lần vi diệu hơn nữa kia. Rồi bạn sẽ được nương tựa dài lâu. Ta thành thật chúc mừng cho bạn vậy. Vị Thọ Thần chợt nhìn Ngỗng Trời Vàng rồi với giọng thiết tha: - Như là bổn phận của một lão niên, như là kinh nghiệm của người đã sống quá nhiều, quá lâu, đã chứng kiến không biết cơ man nào là chuyện trong đời sống bất trắc và bấp bênh này, ta có một vài lời khuyên, hỡi bạn Ngỗng Trời Vàng thân mến! - Ngài cứ nói - Ngỗng Trời Vàng cúi đầu tỏ vẻ trân trọng, tín nhận - chắc hẳn đấy là những lời dạy bảo đầy khôn ngoan và sáng suốt. - Không dám đâu! Ta chỉ muốn nói lên sự thực thôi. Là bộ lông hoàng kim của bạn, nó đẹp quá, nó quý quá nên dễ đưa đến tai họa. Vậy thì bắt đầu từ ngày hôm nay, bạn chớ có khinh suất mà đi đến đô thị, làng mạc, ruộng đồng, nghĩa là nơi có loài người. Thấy được bộ lông hoàng kim của bạn, họ sẽ phát tâm tham muốn. Họ sẽ bắt, sẽ bắn, sẽ đặt bẫy. Dẫu bạn có biết trước, có khôn ngoan cách mấy cũng không qua được sự ma mảnh, quỷ quyệt của loài người. Và như thế, tính mạng của bạn sẽ bị đe dọa thường xuyên, nguy cơ bị rình rập ở mọi nơi, mọi chỗ. Bạn hãy suy nghiệm kỹ về điều đó. Ngỗng Trời Vàng thở dài. - Chí lý và chân tình thay là những lời khuyên tốt. Nhưng biết làm thế nào bây giờ? Ở chốn loài người, tôi còn vợ và ba con. Có tôi, chúng sẽ đỡ khổ một phần. Không có tôi, từ lâu chắc chúng phải đi ở thuê, ở mướn, làm việc cực nhọc với nước mắt và đòn vọt. Biết là hiểm họa sẽ đến, nhưng tôi không thể từ bỏ ý định về thăm chúng được. Vị Thọ Thần thương hại nói: - Thương vợ, thương con là những tình cảm tốt đẹp. Nhưng ái niệm thái quá lại sinh thêm phiền não, đau khổ cho mình. Bạn đã trút bỏ hết bổn phận nơi cõi người cùng với thân xác và hơi thở của bạn rồi. Bây giờ là nghiệp khác, đời sống khác, bổn phận khác. Hãy nghe lời khuyên của ta mà ở đây hoặc trở lại rừng sâu, nơi chỗ của những ẩn sĩ bện tóc hiền thiện tại Tuyết Sơn. Như thế, bạn sẽ được an lành như trong ngôi nhà của mẹ. Ngỗng Trời Vàng vẫn lắc đầu: - Biết là lời khuyên chí tình, chí thiết nhưng tôi vẫn không thể nghe theo. Tôi an tâm mà sống đời ẩn sĩ sao được, khi vợ con tôi đang nai lưng làm trâu ngựa cho người, sống đời tối tăm, cơ cực. Tôi phải về làng để tìm cách giúp đỡ họ thôi. Vị Thọ Thần với tâm của mình biết tâm của chúng sanh, biết nghiệp sẽ đến như thế nào cho con Ngỗng Trời Vàng này. Nhưng mọi lời khuyên đã như sương trượt đầu lông. Ngài chợt đứng cao mười tầm thốt nốt giữa hư không, cất lời ca hòa lẫn với mây ngàn cùng với gió núi: “- Hỡi đàn chim bay về phương nam! Ngươi đã biết phương kia trời nắng ấm! Hỡi đàn chim bay về phương bắc! Ngươi biết rằng nơi ấy tuyết lạnh đã tan đi! Thế nhưng vẫn có kẻ ra đi trong tăm tối, chẳng biết hướng đến là đâu, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra! Trái chín phải đợi tiết, hoa nở phải đợi thời. Vậy này bạn vàng yêu quý! Hãy thôi đi sự cứu độ vô vọng! Cát bụi quá nhiều làm sao thấy được tấm lòng tốt đẹp của nhau? Đêm đen quá sâu, làm sao chỉ lối dò đường bằng ngọn đèn quá mọn? Đôi tay của chút ít phước báu chẳng thể ngăn nổi dòng sông nghiệp lực? Cõi loài người gian ác và phản trắc kia sẽ vặt trụi lông cánh của bạn mất thôi!” Ngỗng Trời Vàng cúi đầu lắng tai nghe với nước mắt, nhưng tâm ái luyến vợ con quá nặng, đành phải lắc đầu từ chối. Vị Thọ Thần bùi ngùi nói lời cuối cùng: - Nơi khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng yên tĩnh, nơi vương quốc hòa bình này, có ta, luôn mong ngóng sự trở về của bạn. Không những bạn trở về với lông cánh trần trụi, cho chí nhưng vết thương đau cả thể xác lẫn tâm hồn, gốc đại thọ bồ-đề này muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta. Ngỗng Trời Vàng cúi đầu như tri ân vị Thọ Thần rồi từ giã. Vị Thọ Thần nhìn theo bóng chim mất hút cuối phương trời xa, nhòa lệ ... Ngỗng Trời Vàng sau khi chia tay với vị Thọ Thần, đêm đi, ngày nghỉ. Với đôi cánh vàng rực rỡ lướt qua hư không, sợ sự dòm ngó của loài người, nên chim bay rất chậm vào ban đêm, ngày thì ẩn trong những lùm cây rậm rạp. Lâu ngày chầy tháng cũng về đến ngoại ô thành Ba-la-nại. Đúng như dự đoán của Ngỗng Trời Vàng, sau khi nó mất, vợ và ba con phải đi ở thuê cho một hào phú cay nghiệt, ăn cơm với gạo tấm chua, mặc áo quần thô ráp như da vỏ cây; lại còn phải chịu sự chửi mắng, đánh đập thường xuyên nữa. Dẫu có thương vợ, thương con cũng chỉ còn biết sa nước mắt. Chim ẩn mình kín đáo trong lùm cây đại thọ đầu làng, tìm cơ hội để giúp đỡ họ. Trong sương mờ đầu xuân, trên quan lộ, dưới tầm mắt của chim chợt xuất hiện những chiếc xe ngựa sang trọng. Con trai, con gái trang sức những chiếc lông trên áo, trên mũ, điểm xuyết là những đóa hoa thắm tươi. Ngỗng Trời Vàng nghĩ thầm: “- Ôi! Những vật trang sức xấu xí kia thì có gì đáng để hãnh diện? Nếu như chúng mà có được những chiếc lông hoàng kim của ta thì chúng sẽ còn đẹp hơn, trẻ trung hơn, sang trọng hơn. Sao ta không giúp vợ con ta mỗi ngày một chiếc lông để chúng bán cho người ta làm vật trang sức tối thượng?”. Trời cũng dễ chìu lòng người, chỉ lát sau là vợ và con nó xuất hiện với cày, với cuốc trên vai. Đợi họ đến gần, Ngỗng Trời Vàng bèn nói vào tai họ bằng âm thanh của vị thần khuất mặt: - Hỡi những kẻ cùng khổ đáng thương! Ta không nỡ thấy các ngươi sống đời nô lệ bần hàn. Vậy mỗi buổi sáng, hãy đến đây, đứng xa dưới cội cây, ta sẽ ban cho các ngươi bổng lộc của cõi trời. Người nữ tiện dân già cùng ba con nghe tiếng chứ không thấy người, bỏ cuốc, bỏ cày, chấp tay hướng đến gốc cây vái lia lịa: - Vị Thọ Thần, ngài ở đâu? Đây là lời hứa chắc thật cho những kẻ tội nghiệp chúng con? Không có ai đáp lại. Bỗng, một vật vàng sáng vọt ra từ lùm cây, rơi xuống trước mặt họ. Cả bốn người đồng sửng sốt. Đấy là một chiếc lông to bằng vàng mười láng mịn đang lóng lánh dưới mặt trời. Chẳng phải là giấc mơ, chẳng phải mắt họ quáng mờ, sự thực đang nằm ở tầm tay họ đây! Các cô con gái đồng xôn xao: - Không biết nặng bao nhiêu ma-sa-ka? - Có lẽ hơn trăm ma-sa-ka? Người nữ tiện dân già nói với ba con rằng: - Nếu bán làm vật trang sức cho hạng dân dã thì nó chỉ là chiếc lông đẹp, không hơn không kém. Nếu bán tại tiệm kim hoàn thì giá trị chỉ đo đếm bằng phân, bằng lạng. Muốn được giá cao nhất, hãy bán cho các vị tiểu thư, các bà công nương, mệnh phụ. Khi mà chiếc lông vàng đã tôn sắc đẹp của họ lên, và chắc hẳn như vậy, họ sẽ quẳng cho ta cả nắm vàng không thương tiếc. Tiền bạc đối với kẻ giàu sang, quý phái, ăn không ở rỗi ấy thì có nghĩa lý gì! Thế là bỏ cày, bỏ cuốc, với chiếc lông vàng, họ đi vào thành phố, quay lưng với Thọ Thần không một lời cảm ơn. Ngỗng Trời Vàng hân hoan nhìn theo họ, nghĩ tốt rằng: “Vì vui mừng quá, khi đi, họ quên chào, cũng là sự thường!”. Ngày hôm sau, tiếng con Ngỗng Trời Vàng lại vẳng đến tai họ: - Các ngươi đã khôn ngoan nên bán được giá mà không bị các ông chủ tiệm vàng lường gạt, không bị bọn trọc phú dè bỉu, ỉ ôi! Bây giờ hãy nhận thêm một chiếc lông nữa, bán cho bà công chúa giàu sang với chiếc xe bốn ngựa lộng lẫy sắp đi qua đây. Cộng với số tiền hôm qua, các ngươi hãy mua cho mình những bộ quần áo lành lặn, và ăn những bữa cơm trắng có thịt, có rau. Thế rồi, một chiếc lông vàng chóe nữa vọt ra. Chốc sau, quả nhiên có chiếc xe bốn ngựa với bà công chúa sang trọng đi qua. Sau khi ngắm kỹ chiếc lông vàng trân quý, bà công chúa sai thị nữ quẳng cho họ một nắm tiền vàng, lại còn ân cần dặn rằng: - Đây là vật trang sức chỉ để dành riêng cho người hoàng gia, chính bọn giai cấp quý tộc cũng không xứng đáng dùng. Hỡi bọn tiện dân nghèo khổ kia! Ta là công chúa con vua nước Ma-kiệt-đà, ta không tiếc tiền đâu. Có bao nhiêu chiếc lông vàng như thế này, hãy mang đến cung điện bán hết cho ta! Cả gia đình, vợ và con Ngỗng Trời Vàng thế là thoát kiếp bần cùng, cơ cực. Từ ăn no, mặc ấm, họ đã ăn ngon, mặc đẹp. Từ màn trời chiếu đất, họ đã có một ngôi nhà, một mảnh vườn. Tuy thế, người nữ tiện dân già vẫn chưa bằng lòng. Bà ước mơ một đời sống sang trọng hơn, quý phái hơn, với tôi trai, tớ gái, với thóc đụn đầy kho, với lên xe xuống ngựa, với lầu vàng cửa bạc... Người nữ tiện dân già đã mấy lần theo dõi, để ý, hôm kia phát hiện là chẳng có vị Thọ Thần nào cả, đấy chỉ là một con Ngỗng Trời Vàng đã tự ý nhổ từng chiếc lông của mình mà cho họ. Bà tự nghĩ: “Giá mà có được cả bộ lông vàng ấy nhỉ?” Sau khi cho chiếc lông thứ mười tám, Ngỗng Trời Vàng xuất hiện, nói chuyện với bốn người: - Này vợ, này con! Ta là chồng và cha của các người đây. Vì kiếp vừa rồi ta sống đần độn, tối tăm, không tạo được chút công đức gì nên phải trả quả mang thân súc vật. May nhờ ta có tặng một tấm vải vàng đến vị ẩn sĩ thanh tịnh, ta mới có được bộ lông hoàng kim quý giá, đẹp đẽ hôm nay. Nhân quả thật rành rành. Vì tình thương vợ, thương con nên ta phải trở lại chốn loài người để tìm cách giúp đỡ các người. Nay các người đã no ấm, đã có đủ vốn liếng để tự mưu sinh, ta từ giã các người, về rừng là đúng thời và phải lẽ. Vậy hãy sống đời hiền lành, làm các công đức hầu được hạnh phúc trong mai hậu. Người nữ tiện dân đã sớm bàn với các con rằng: “Phàm sống ở đời là phải ơn đền oán trả. Ân nhân của ta đã giúp chúng ta thoát kiếp tôi đòi, nô lệ; đã cho ta những tấm lụa Kāsi mịn màng, tươi đẹp; đã cho ta những bữa cơm ngon với thịt và cá. Vậy chúng ta phải tìm cách mời thỉnh ân nhân về nhà để cung phụng, hầu hạ như đối với một vị Phạm thiên”. Nay nghe Ngỗng Trời Vàng tiết lộ nó là chồng, là cha của họ, một phần vì xúc động, một phần vì sợ Ngỗng Trời Vàng bỏ đi, người nữ tiện dân già khóc lóc nức nở mà rằng: - Này ông ơi! Thế ra là tình xưa nghĩa cũ. Ông đã có tâm nghĩ đến vợ con như thế thì trời đất này cũng có lẽ thủy chung. Cái lòng của tôi đối với ông, há lại không được như mảnh trăng tròn vành vạnh hay sao? Rồi bà chỉ ba con mà kể lể: - Nay chúng đã nở da nở thịt, lại được phấn son trang điểm, trắng da, dài tóc, nhàn hạ, thảnh thơi. Thấy chúng được như vậy chắc ông cũng hởi lòng, hởi dạ. Cõi người, cõi chim dẫu hai ngả, nhưng tấm lòng nào dễ rẽ phân? Vậy sao ông không trở lại với gia đình, đoàn viên sum họp, cùng chung ấm lạnh ngọt bùi cho bõ tháng ngày xa cách vì sinh ly, tử biệt? Ngỗng Trời Vàng nhìn vợ, nhìn con, tâm tình xúc động. Đã bao tháng, bao ngày xa cõi người, Ngỗng cũng thấy nhớ nhung ngôi nhà và bếp lửa. - Cha ơi cha! Cha nỡ nào lìa bỏ chúng con? Ba cô con gái đồng khóc lâm ly bi thiết - Khi cha còn sống, chúng con còn thơ dại. Bây giờ dẫu đã thác rồi, thân chim vàng ấy lại chính là thân cha. Sao cha không cho chúng con được đáp trả một phần nào chữ hiếu? Chúng con nào đã có tội tình gì? Không cầm lòng được nữa, Ngỗng Trời Vàng bay theo họ về nhà. Người nữ tiện dân già dọn một chỗ cao ráo, trang trọng nhất ở tầng thượng, có nhiều cửa sổ, có thảm nhung cho Ngỗng ở; và hàng ngày lo cái ăn, cái uống thật tươm tất, chu đáo. Ba cô con gái lúc này có tiền, có bạc nên xênh xang xe ngựa, điểm trang diêm dúa; rong chơi thị tứ, đô phường; hội hè, đình đám nên vắng nhà luôn. Dẫu thế, họ chưa đến nỗi quên bẵng người cha tội nghiệp. Ngỗng Trời Vàng cứ theo lệ thường, mỗi buổi sáng, khi mặt trời lên, niệm Ba-la-mật với tâm bố thí, bắn ra một chiếc lông vàng. Nhìn vợ, nhìn con có được cuộc sống sung sướng, Ngỗng thấy lòng được an ủi rất nhiều. Tuy thế, đây không phải là nơi ăn đời, ở kiếp. Ngỗng còn có đồng loại và bằng hữu ở rừng sâu, nên trước sau gì cũng phải từ giã. Nhưng người nữ tiện dân già đã có manh tâm. Chẳng nghĩ đến ân nhân, chẳng nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ bởi lòng tham đã làm cho bà quáng mắt, tối ám lương tri. Hôm nọ, vào lúc bất ngờ nhất, bà rình chụp Ngỗng bằng cả hai tay ham hố của mình, rồi vặt trụi cả bộ lông vàng óng ả! Khi Ngỗng biết ra thì đã muộn mất rồi. Từng chiếc lông bị bứt lìa khỏi thân là những cơn đau xe trời hòa lẫn với máu và nước mắt. Ngỗng không còn đủ sức để rên la nữa, mà chỉ cảm nghe như bị tước, bị xé ra từng mảnh, rồi ngất lịm đi. Ngỗng chỉ còn trần trụi cái thân đỏ hỏn, máu đọng thành vũng. Ngỗng tỉnh lại trong thùng rác tối đen và hôi hám. Nó thử xòe đôi cánh máu ra, nhưng chỉ còn sự run rẩy lẫn với cơn đau ngất trời. Nó lại gục xuống trong đống máu bầy nhầy, tanh tưởi. Kiến bắt đầu tìm tới, bò lên những vết thương lở loét mà cắn, mà rứt không thương tiếc. Ruồi nhặng nghe mùi, bám đầy như đám đỗ đen. Ngỗng đau đớn và khó chịu thái quá, nhưng ngàn lần đau đớn hơn là vết thương ở bên trong tâm hồn. Vết thương nơi thân, dầu kinh khiếp, nhưng thời gian sẽ hàn gắn lại, còn vết thương tinh thần thì không bao giờ lành được. Vĩnh viễn, vĩnh viễn vết thương lòng này sẽ mưng độc và lở loét suốt cả cuộc đời còn lại. “- Ôi vợ, ôi con, ôi nhân tình thế thái!” Ngỗng rên than âm thầm, nức nở nhưng ai nào có nghe cho! Về phần người nữ tiện dân già, sau khi vặt trụi lông Ngỗng, chuyện gì xảy ra? Người đàn bà độc ác, tham lam và phản trắc ấy ngạc nhiên quá! Ôi! Còn đâu là những chiếc lông hoàng kim óng ả bằng bằng vàng ròng tinh chất túa ra ánh sáng? Chúng đã nhạt màu và hiện nguyên hình là những chiếc lông Ngỗng tầm thường. Người đàn bà ngu si đâu biết rằng, những chiếc lông sở dĩ biến thành vàng mười láng mịn là nhờ vào phước báu riêng, vào nguyện lực và sự tự nguyện “cho đi” của Ngỗng Trời Vàng. Nếu dùng sức mạnh ngoài ý muốn của Ngỗng thì phép lạ kia sẽ không bao giờ xảy ra. Than ôi! Ai có thể hiểu được tham sân chính là lửa; độc ác, phản trắc chính là lửa. Chúng sẽ thiêu rụi, đốt cháy tức khắc những đóa hoa diễm lệ, thanh tân vốn được sanh ra từ lòng phước báu, từ khí hậu mát mẻ, thanh lương của tình thương và niềm hoan hỷ. Người nữ tiện dân già với tất cả tâm sân hận và bực bội, quẳng Ngỗng Trời Vàng vào một thùng rác rồi bỏ đi. Bà vô cùng sầu muộn và tiếc rẻ. Những người con gái đi chơi trở về, thấy cha chúng như vậy, không nỡ bỏ phế. Họ bồng Ngỗng ra, phủi kiến ruồi, săn sóc, băng bó vết thương rồi đóng một cái cũi riêng cho Ngỗng ở, cho ăn uống tử tế. Chúng biết nguyên nhân tại sao, nhưng không hỏi, không nói gì cả, cũng không rơi một giọt nước mắt. Chút tình nghĩa cuối cùng này, nếu có, than ôi! cũng đã hóa đá mất rồi! Ngỗng Trời Vàng nằm yên lặng, chấp nhận hoàn cảnh bi đát, nước mắt rỉ máu. Cho đến lúc này, Ngỗng mới thấy thấm thía lời khuyên bảo khôn ngoan của vị Thọ Thần nơi khu rừng Daliko. “- Này bạn vàng yêu quý! Hãy thôi đi sự cứu độ vô vọng! Cát bụi quá nhiều làm sao thấy được tấm lòng tốt đẹp của nhau? Đêm đen quá sâu, làm sao chỉ lối dò đường bằng ngọn đèn quá mọn? Đôi tay của chút ít phước báu làm sao ngăn nổi dòng sông nghiệp lực? Cõi loài người gian ác và phản trắc kia sẽ vặt trụi lông cánh của bạn mất thôi!”. Và đây chính là nguồn an ủi của Ngỗng Trời Vàng: “- Không những bạn trở về với lông cánh trần trụi, cho chí những vết thương đau cả thể xác lẫn tâm hồn; gốc đại thọ bồ-đề này muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta”. Thời gian sau, nhờ tâm xả, các vết thương của Ngỗng đều lành. Rồi lú nhú những lông khác bắt đầu mọc ra. Người nữ tiện dân già lòng mừng khấp khởi, sai người đóng một cái thùng khác đẹp hơn, rộng rãi, thoáng mát hơn để cho Ngỗng có chỗ ở sạch sẽ, thoải mái. Bà tính thầm: “- Lần này ta không dại gì ham hố nữa. Mỗi ngày mỗi chiếc lông, tích thiểu thành đa, nước rơi lâu ngày cũng thành hồ, thành sông. Vả, các bậc khôn ngoan từ ngàn xưa cũng đã từng dạy rằng: ăn ít dễ tiêu, ăn nhiều tức bụng. Cái lý nó vậy mà sao ta không hiểu kìa?”. Thế là người nữ tiện dân già dành nhiều thì giờ cho việc chăm sóc, tẩm bổ Ngỗng. Bà không tiếc tiền mua những thức ngon vật lạ, với hy vọng Ngỗng nở da, nở thịt thì lông cũng sẽ mau dài. Và quả đúng như thế thực, những chiếc lông dài rất nhanh. Bà đếm tới đếm lui và theo dõi hằng ngày. Nhưng than ôi! Hy vọng quá nhiều thành ra thất vọng quá lớn! Lông của Ngỗng không còn là màu hoàng kim nữa, mà là màu trắng bạc: màu trắng bạc như vôi! Cái lông mà cũng muốn chế giễu nhân tình thế thái đó chăng? Khi lông cánh đã đủ đầy, nghĩ rằng mình đã đủ sức bay đi, Ngỗng bắt đầu tìm cách thoát thân. Lợi dụng lúc mọi người vắng nhà, Ngỗng sổ lồng, nhắm hướng Hy Mã Lạp Sơn trực chỉ. Bây giờ thì Ngỗng không còn sợ hiểm họa bởi bộ lông hoàng kim nữa nên nó tung cánh suốt ngày đêm. Không bao lâu, rừng cũ hiện ra, lòng Ngỗng bồi hồi, mừng mừng, tủi tủi. Đến gốc bồ-đề đại thọ, Ngỗng bay quanh ba vòng, nhớ lại câu nói hôm xưa của vị Thọ Thần: “Nơi đây, muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta”. Ngỗng rơi nước mắt. Nó đã trở về Cố Quận!
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 16:12:19 GMT -5
Chàng sa-môn họa sĩ
Thuở Đức Phật Ca Diếp còn tại thế, có hai huynh đệ đồng tu. Anh là bậc trưởng lão thanh tịnh, đắc ngũ thông. Em là một nhà hội họa, tâm hướng như gió núi mây ngàn, suốt đời không an trụ.
Hôm kia, bậc trưởng lão gọi em đến dạy rằng:
- Ta suốt ba mươi năm cần cù khổ hạnh, nghiêm cẩn và chí thú với đạo Trí tuệ, vậy mà chưa thấy được pháp giải thoát. Còn em, suốt ngày say mê đuổi bắt những ảo ảnh vô thường. Sáng rong chơi ở bể đông để ngắm mặt trời mọc, chiều leo lên núi tây để xem mặt trời lặn. Bút lông thú thay cho trượng bố ma. Túi vải màu thay cho bình bát xin ăn. Sự thoáng hiện và biến đổi sắc màu của trời mây, non nước là trò chơi kiều diễm nhưng ma mị của thần huyễn hóa. Vui gì, đẹp gì mà mải mê cho uổng kiếp phù sinh?
Người em cúi đầu lắp bắp:
- Dạ phải, dạ phải!
Bậc trưởng lão thương hại nhìn em:
- Hãy tu thôi chứ em? Hãy quẳng bỏ túi màu và bút lông thú. Hãy ngồi dựng đứng như gốc cây, ăn vừa đủ, ngủ vừa đủ. Tuyệt đối chăm chú vào đề mục thiền định. Đêm ba canh, ngày bốn khắc, hãy chăm giữ cái tâm như chăm giữ một con ngựa hoang, như chăm giữ một con khỉ núi. Nếu không được thế thì cởi y, bỏ bát mà về đi thôi!
Người em cúi mặt thẹn thùng:
- Dạ phải, dạ phải!
Từ hôm được lời giáo huấn chí tình, chí lý và nghiêm khắc của anh, người Sa-môn họa sĩ lưng dựa vào gốc cây, tinh tấn thiền định.
Tháng thứ nhất qua đi, người em tới trình pháp:
- Thưa anh, tâm em đã an trú. Con ngựa hoang kia không còn bứt dây, phá xiềng để bay chạy đồi cao hay lũng thấp nữa! Con khỉ núi nọ không còn nhảy nhót, leo chuyền suốt đời phóng dật nữa. Chúng ở im. Tuy thế, những ảo ảnh như khói, như sương lại hiện đến lôi cuốn như ma mị. Trong vài giây khắc, em chụp túi màu và bút lông thú, nhưng vội tỉnh ngộ ngay. Nguy hiểm, thậm nguy hiểm!
Bậc trưởng lão mỉm cười rộng lượng:
- Gắng lên, gắng lên nữa!
Tháng thứ hai, chàng Sa-môn họa sĩ lại tới trình pháp:
- Thưa anh, tâm em hoàn toàn đã an trú thanh tịnh rồi. Vậy thưa huynh trưởng khả kính, đâu là con đường phải đi nữa? Đâu là pháp giải thoát cần phải hướng tâm?
Chăm chú nhìn em giây lâu, ở đấy, khí an tĩnh và trầm ổn tỏa ra từ khuôn mặt trẻ trung mang nét đẹp phiêu bồng của đám bạch vân ngự yên trên đầu núi; bậc trưởng lão đứng dậy:
- Em lãng du rong chơi cũng đã nhiều, có thấy nơi nào có chiếc hồ xinh đẹp, hoa súng nhiều màu tươi thắm, thơm ngát? Và dưới hồ trong xanh như mắt pha lê, có đàn cá đỏ vàng bơi lội nhởn nhơ trên những viên cuộn trắng tinh?
Người em ngạc nhiên:
- Có chứ! Ở phía tây Hy Mã, trong thung lũng của dãy Huyền Sơn, em đã thấy một chiếc hồ cực kỳ mỹ lệ như thế. Nếu là đêm thanh trong, có trăng ... thì ôi! Là cả một bức tranh trăng nước, sơn thủy hữu tình! Giả dụ có túi màu và bút lông thú ...
Chàng Sa-môn họa sĩ biết mình lỡ lời nên nín lặng. Bậc trưởng lão khoát tay mỉm cười:
- Không sao, bây giờ em hãy cùng ta đi đến đó.
- A, chẳng hay ...?
- Không, ta không ngoạn cảnh đâu! Cảnh trên trần gian này đều là cảnh biến ảo, vô thường, có gì chắc thật đâu mà ngoạn!
- Thế thì chúng ta đến đó làm gì?
- Rồi em sẽ biết.
- Nhưng xa lắm.
Bậc trưởng lão cất giọng xa xôi:
- Ta ba mươi năm cần cù khổ hạnh, trì chí kiên gan theo lời dạy của Đức Thế Tôn. Tuy thế, vì căn cơ chậm lụt, “lõi cây” dẫu chưa tìm được, ta cũng vớ được cái “vỏ ngoài”. Em yên trí, với cái “vỏ ngoài” đó, từ đây mà đến dãy Huyền Sơn xa tít tắp kia, chỉ cần thời gian một cái nhấc tay!
Nói xong, bậc trưởng lão bảo em nhắm mắt lại. Lạ lùng thay, khi mở mắt ra, họ đã đứng cạnh chiếc hồ xinh xắn, mỹ lệ.
Bậc trưởng lão ân cần nắm tay em đi dạo một hồi. Lát sau, họ cùng ngồi trên tảng đá, nhìn đàn cá vàng đỏ tung tăng bơi lội dưới hồ.
- Hãy nhìn xuống đáy hồ kia! Bậc trưởng lão nói.
- Dạ! Người em đáp.
- Em thấy gì trong đó?
Người em chăm chú quan sát rồi nói:
- Sóng lặng, nước trong nên không những em trông thấy cá bơi lội, từng viên sỏi nhỏ, mà còn trông thấy cả những cọng rong rêu bé li li như sợi tơ trời đan kết lại.
- Đúng thế, nhưng anh đố em, tại sao có lúc ta có thể nhìn thông suốt đáy hồ, mà tại sao có lúc ta không nhìn thấy gì hết?
Vốn thông minh sẵn, người em mỉm cười:
- Cảm ơn anh đã tận tình và khổ công chỉ dạy rõ ràng, cụ thể. Em đã biết rõ con đường để đi. “Giới năng sinh định, định năng sinh tuệ”. Có phải anh muốn khai mở cho em thấy rằng, tâm ta mà yên lặng và trong suốt như hồ kia thì ta có thể thấy được vi tế phiền não. Định là ở đó, mà Tuệ giải thoát cũng từ đó mà phát sanh?
Bậc trưởng lão nhũn nhặn, khiêm tốn:
- Đấy là giáo giới của bậc Đại Tôn Sư!
Thế rồi, tháng thứ ba, người em đi sâu vào thiền định và an trú kiên cố nơi trạng thái vắng lặng an lạc của nhị thiền, nhưng Tuệ không thấy phát sinh.
Tháng thứ tư, người em lại càng đi sâu thêm nữa. Thân giờ như cây khô, tâm giờ như tro nguội, thất tình lục dục đã chìm mất xa xôi như ở một kiếp nào. Chàng đã lần lượt bước vào tam thiền và tứ thiền, tìm được trạng thái hoàn toàn buông xả, trong lặng, nhưng Tuệ cũng không thấy phát sinh.
Sau bốn ngày nhập định, người em xả thiền đi đến bậc trưởng lão để trình pháp:
- Không còn thấy tăm bóng ngựa hoang và khỉ núi nào nữa cả. Chiếc hồ kia lặng yên và trong suốt lắm rồi, những sắc màu long lanh của vảy cá, những cọng rong li ti đều trông thấy rất rõ ràng. Nhưng Tuệ giải thoát là ở đâu? Tuệ thấy rõ Niết bàn ở chỗ nào?
Bậc trưởng lão trầm ngâm:
- Ta chỉ biết có thế thôi, không hơn em mà cũng không thua em - trên phương diện thiền định. Tuy thế, không phát sanh được Tuệ giác thì ta hướng tâm đến các khả năng thần thông phép lạ. Phần thưởng này cũng lạc thú vô cùng, không uổng cái kiếp phù sinh chứ em?
Người Sa-môn họa sĩ bây giờ lại cất lên tiếng rống của con mãnh sư:
- Thôi đi, ngài đại trưởng lão thanh tịnh! Cái mà Ngài gọi là lạc thú kia, chắc gì đã lạc thú bằng chàng họa sĩ với túi màu và bút lông thú của y? Thần thông và phép lạ của ngài chắc gì hơn được sự biến đổi sắc màu của trời mây, non nước? Thần như cây khô, tâm như tro nguội thì quý báu gì cho lắm mà toan đánh đổi lấy kiếp phù sinh?
Thôi, em xin trân trọng trả lại “chiếc hồ xanh trong suốt như pha lê” cho anh; trả lại “sự thanh tịnh bất động ngàn đời của định núi đá hoang vu” cho anh. Trả hết! Em đi thôi! Em trở về với biển cả sinh động ngàn đời của em! Em trở về với kiếp phiêu bồng mây ngàn và gió núi của em!
Chàng Sa-môn họa sĩ vừa quay lưng định bỏ đi thì sừng sững trước mặt, một vị Đại Sa-môn to lớn, uy nghi, đầu trần, chân đất, chiếc y vàng rực cả một khoảnh trời. Y sửng sốt, há miệng ra, quỳ xuống! Suốt đời, chàng Sa-môn họa sĩ chưa bao giờ gặp được một con người toát ra những uy lực nhiếp phục người khác đến như vậy.
“-Này tỷ-kheo! Đức Thế Tôn Ca Diếp cất tiếng thanh tao, trầm bổng như tiếng chim Ca-lăng-tần-già trên đỉnh Tuyết sơn - Tâm không loạn, ấy là định. Pháp không lầm lẫn, thấy rõ như thực, ấy là tuệ. Tâm không dính mắc dù pháp thô hay tế, bên trong hay bên ngoài, ấy là Tuệ giải thoát. Này tỷ-kheo, pháp của Như Lai không từng thêm, không từng bớt. Pháp ấy cụ thể, hiện tiền, vượt không gian, thời gian... Pháp ấy không phải là để chứng đạt, nắm bắt mà chỉ để dành cho kẻ có trí tự mình liễu tri, giác hiểu...”.
Ý nghĩa lời pháp như ánh mặt trời vàng chói lọi xuyên thủng qua hàng triệu đêm trường tăm tối, đốt cháy hư vô và hốt nhiên bừng nở trong tâm chàng họa sĩ Sa-môn một đóa kỳ hoa. Bờ kia hiển hiện ngay chính bờ này, chẳng đến, chẳng đi, dung thông tự tại.
Bậc trưởng lão được khai thông tuệ nhãn, rút sâu vào rừng để viên mãn công hạnh, sau này, làm nơi y chỉ cho tứ chúng.
Còn chàng Sa-môn họa sĩ thì tùy duyên hóa độ từ xứ này sang phương khác; thỉnh thoảng chàng lại hành trang lên đường với túi màu và bút lông thú ... Sáng rong chơi ở biển đông để xem mặt trời mọc ... Chiều leo lên núi tây để ngắm mặt trời lặn ...!
|
|