|
Post by tk on Dec 1, 2011 21:07:41 GMT -5
Ý nghĩa của nghi lễ Tắm PhậtHoàng Thanh/Viễn Đông Gia đình tôi theo đạo Phật. Từ nhỏ, tôi đã thường được Mẹ dẫn đi chùa, nhất là vào dịp cuối tuần. Tôi thích lắm, lúc đó tôi nào có biết Đạo là gì, chỉ biết tới chùa là đựơc tung tăng chạy chơi với các bạn cùng tuổi, rồi đựơc ăn cơm chay, ngon ơi là ngon, mà ăn bao nhiêu chén cũng đựơc, các sư cô cũng không bao giờ la đâu. Mẹ tôi hay dắt mấy chị em tôi vào chánh điện, bảo chúng tôi quỳ xuống lạy Phật, thật nghiêm trang, cung kính, thì “Phật sẽ che chở cho các con”. Rồi Mẹ tôi đưa cho mỗi đứa mấy đồng bạc cắc, kêu tụi tôi từng đứa một đến bỏ vào thùng Tam bảo. Tôi hỏi Mẹ, “Tại sao phải làm vậy hở Mẹ?”, thì Mẹ tôi nói, “tuy là tiền Mẹ đưa cho con, nhưng chính tay con bỏ vào thùng, miệng con niệm danh hiệu Đức Phật, đó là cái duyên con gieo với Ngài, thì mai này khi lớn lên, Chư Phật sẽ gia hộ cho con có được sự hạnh phúc bình an…”. Lúc đó còn nhỏ lắm, nên tôi cũng không hiểu hết những lời Mẹ nói, nhưng vì tò mò nên mấy chị em chúng tôi cứ đứng xếp hàng một, rồi lần lượt bỏ tiền vào thùng như lời Mẹ dặn. Nhưng có lẽ tôi thích nhất là ngày Phật Đản, mà hồi đó tụi nhóc chúng tôi cứ gọi là “Ngày sinh nhật Phật”. Tại sao ư? Vì năm nào vào ngày đó, Mẹ cho chúng tôi mặc đồ đẹp, đến chùa thật sớm, chạy nhảy chơi xung quanh chùa, trong khi Mẹ và các cô chú vào trong chánh điện niệm Phật, xong lễ thì đựơc ăn bữa tiệc chay thiệt ngon. Nhưng điều đặc biệt mà đám nhỏ tụi tôi luôn luôn háo hức chờ đợi vào ngày này, đó là “Lễ Tắm Phật”. Đám nhóc chúng tôi chen lấn nhau mà xếp hàng, đứa nào cũng muốn mình là người đầu tiên đựơc xối gáo nước lên mình tượng Đức Phật nhỏ xíu thiệt là dễ thương. Tôi vẫn còn nhớ mãi có một năm, tôi và nhỏ bạn dành nhau khi đứng xếp hàng, nên la ó um sùm, và cuối cùng thì hai đứa “oảnh tù tì” xem ai được tắm Phật trước. Tôi “tù xầm” thắng, nên khoái chí và hí hửng lắm. Khi tới lượt tôi, sư cô múc đưa tôi một gáo nước nhỏ xíu từ một thùng nước, kêu tôi xối bên vai phải của tượng Phật, tôi làm theo, mà lòng sướng rơn. Xong rồi, khi tôi hớn hở dợm bước đi, thì sư cô gọi lại và đưa tôi một gáo nhỏ nữa, bảo tôi xối bên vai kia của Phật. Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng cũng làm, mà vừa làm tôi vừa để ý, thì thấy rằng gáo nước này sư cô múc từ một thùng nước khác. Tôi lấy làm lạ, nên khi về nhà tôi hỏi mẹ. Mẹ tôi bảo, “Mẹ cũng không rõ nữa, nhưng sư cô bảo sao con cứ làm vậy đi, đừng thắc mắc…”. Tôi chưa chịu, hỏi lại, “Người ta xếp hàng đông quá Mẹ, thế tại sao mỗi người lại phải xối 2 lần, 2 gáo nước, bên vai phải rồi vai trái nữa, vậy có phải là mất thêm thời gian không?”. Mẹ tôi không nói gì, thì bà chị tôi xen vô, “Có gì đâu mà thắc mắc, mình phải tắm Phật cho đều hai bên chứ, nếu chỉ xối nước một bên thì bên kia còn dơ thì sao?”. Tôi cười to. “À há, đúng rồi, mình tắm là phải tắm cả hai bên thân thể, mới sạch đều hai bên chứ...”. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, cái câu hỏi con nít ngày nào dường như tôi đã quên bẵng đi. Tình cờ mới đây, trong một dịp đi chùa, tôi có dịp trò chuyện với một vị Thầy. Nhân mùa Phật Đản, khi Thầy giảng cho mọi người nghe về Lễ Tắm Phật, bỗng dưng điều thắc mắc mấy chục năm trước lại hiện về. Tôi đem câu hỏi ngày xưa ra hỏi Thầy, thì Thầy hỏi lại tôi, “Thế khi con xối hai gáo nước, con có chạm tay vào nước, để biết là nước nóng hay lạnh không?”. Thật tình là lúc đó, tôi không hề biết nước lạnh, ấm ra sao cả. Thế là Thầy giải thích cho tôi nghe, về ý nghĩa của nghi lễ Tắm Phật như sau ... Theo truyền thuyết, ngay khi Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh, có hai vị Long vương đến phun hai dòng nước tắm cho Thái tử. Một vị phun dòng nước lạnh và một vị phun dòng nước nóng. Hai dòng nước lạnh và nóng tượng trưng cho hai cảnh giới thuận và nghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui buồn và sướng khổ của cuộc sống hằng ngày, mà tất cả mọi người sanh ra trên thế gian này phải chịu đựng. Thái tử Tất Đạt Đa đã chịu đựng được hai dòng nước lạnh và nóng đó, sau này trở thành Đức Phật Thích Ca. Trong kinh sách, Đức Phật dạy rằng: người nào chịu đựng được những cảnh thuận nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó là một vị Phật trong tương lai. Đây là ý nghĩa hết sức thâm trầm vi diệu của Đạo Phật. Trong kinh sách, những cảnh thuận nghịch của cuộc đời được gọi là: bát phong. Bát là tám, phong là ngọn gió. Bát phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh giới thuận nghịch, đó là: lợi lộc và suy sụp, hủy báng và danh dự, xưng tán và chỉ trích, khốn khổ và lạc thú. Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều: Sanh, Lão, Bệnh, Tử là khổ, cầu mong không được, thương yêu phải chịu chia lìa, thù ghét gặp nhau, thân thể ốm đau, tâm loạn động bất an cũng đều khổ. Còn hưởng thụ các lạc thú trên đời, cũng không ít việc đưa đến phiền não, khổ đau sau đó. Trong Phật giáo, thường có nhiều hình thức nghi lễ, nhằm mục đích truyền bá giáo lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện tại được an lạc và hạnh phúc hơn. Nghi lễ tắm Phật dựa vào truyền thuyết hai vị Long vương phun hai dòng nước, một dòng nước lạnh và một dòng nước nóng, tắm cho Thái tử Tất Đạt Đa trong ngày đản sanh nói trên. Khi múc gáo nước đầu tiên, tắm bên vai phải của tôn tượng Đức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp việc phải, vừa ý, gọi là thuận cảnh, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Khi múc gáo nước thứ hai, tắm bên vai trái của tôn tượng xinh xắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp việc trái ý, gọi là nghịch cảnh, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Đây chính là ý nghĩa sâu xa của nghi lễ tắm Phật và việc tu tập theo đạo Phật vậy... Nhân ngày Lễ Phật đản, mong rằng mỗi người chúng ta luôn luôn có được cái Tâm bình tĩnh thản nhiên, để đương đầu với mọi thuận cảnh cũng như mọi nghịch duyên của cuộc đời... Chúc mọi người đều có một cuộc sống an lạc, để khi mãn trần duyên, có thể ra đi một cách bình an... Kỷ niệm Ngày Phật Đản.
|
|
|
Post by tk on Dec 1, 2011 21:10:08 GMT -5
Tu là gì?Ce Hằng Trường LTS: Dưới đây là bài ghi lại buổi hội thoại chủ đề “Tu là gì?” của chương trình TV Khai Tâm trên đài SBTN, do Đại Đức Hằng Trường và các thành viên của Hội Từ Bi Phụng Sự CompaSS phụ trách. Đại Đức Hằng Trường trả lời những câu hỏi về chủ đề “Tu là gì?” do các thảo luận viên đưa ra. Hỏi: Tu là gì? Tại sao chúng ta phải tu. Nghe tới chữ tu là chúng ta đã sợ rồi, tu thì khó lắm. Có lẽ không ai có đủ tư cách để trả lời câu hỏi tu là gì cho chúng ta hơn là thầy. Thưa thầy tu là gì, tại sao người ta sợ tu nhưng lại nói “tu là cõi phúc tình là dây oan”? Đáp: Câu hỏi này rất hay nhưng cũng thiệt khó. Chữ tu, nghe nói tới thì lập tức mình liên tưởng tới nhà chùa, xuất gia, một nhóm người mặc áo vàng, cạo đầu, sống khắc khổ. Nên nói đến chữ tu thì mình liên tưởng tới chuyện xuất thế, đi ra ngoài cõi đời. Thường thường, mình hiểu lầm rằng tu là xuất gia, là xuất thế, yếm thế. Vậy mình cần định nghĩa lại chữ tu. Tu như đức Phật nói, là một sự thay đổi đến độ làm cho mình biến đổi từ một người phàm phu mà ra một vị Phật. Sự biến đổi từng bước để trở thành vị Phật đó, gọi là tu. Thầy muốn thêm vào: sự biến đổi phải như thế nào? Cứ nghĩ coi: trong đời mình cứ muốn ở nguyên một trạng thái hay muốn biến đổi? Hỏi: Nếu cứ ở một trạng thái hoài thì chắc đời sống mình không biết có ý nghĩa gì không. Xin thầy cho biết làm sao để biến đổi đời sống mình đến một trạng thái tốt đẹp hơn. Đáp: Sự thay đổi trạng thái đó mình gọi là tu. Nếu mình là một con người giận dữ thì mình bớt giận đi. Sự bớt giận đó chính là thay đổi, đưa mình tới chỗ tốt hơn, nên gọi là tu. Thành ra tu là thay đổi, sửa đổi, sửa lỗi lầm. Nhưng nếu chỉ nói thay đổi từ giận ra bớt giận thì sự thay đổi đó chỉ là chiều ngang, thay đổi tính tình chút xíu như vậy, không nói được sự thay đổi chiều dọc, tức là mình thay đổi để tới chỗ nào? Nếu thay đổi mà làm cho cuộc đời của mình hoàn toàn được cải thiện, con người mình hoàn toàn đổi mới cũng như là ở một địa vị thấp ra một địa vị cao hơn, thấy chân trời mới hơn, cái đó gọi là tiến hóa. Cho nên cái định nghĩa đầu tiên: tu là sửa đổi, thay đổi nhưng từ từ mình tới một định nghĩa mới, tu là một sự tiến hóa. Sự tiến hóa đó đưa mình tới một cái nhìn mới, tâm mình càng ngày càng mở rộng ra và mình thấy được con đường, thấy cuộc sống mình nó nối liền với nhau bởi những sự thay đổi để mình tiến lên. Nên bởi vậy nói tu có nghĩa là xuất gia thì quá nhỏ hẹp. Mình nên định nghĩa tu là tiến hóa. Mà định nghĩa này gần như quan trọng nhất trong đại thừa Phật giáo. Hỏi: Những gì con nghe trước đây: tu là để được cái này cái kia, rồi cầu an, cầu siêu, cầu phước cầu tài. Những tư tưởng đó là sai lầm hết sao thầy? Đáp: Có lẽ chúng không sai lầm nhưng thiếu sót thôi. Tôn giáo có nhiều tác dụng. Có tác dụng làm cho mình được an lạc, có tác dụng tạm thời làm mình mất đi những sợ hãi. Nhưng tác dụng quan trọng nhất, cốt tủy của tôn giáo là làm sao cho con người mình được giải thoát ra khỏi những đau khổ, sự giải thoát đó gọi là tiến hóa. Cho nên trong con đường tu có nhiều người không thể cảm nhận được tu là tiến hóa, họ cần giải quyết những vấn đề ngay trước mắt, ngay lập tức. Tôi đang sợ, mẹ tôi vừa mới mất, tôi đang buồn đây, làm sao cho hết buồn? Bởi vậy mình có lễ cầu siêu để làm cho người ta tâm được an ổn. Tác dụng tôn giáo đó là tác dụng thứ yếu, tác dụng chính phải là làm cho con người tiến hóa. Không nên nhấn mạnh vào tác dụng thứ yếu. Lý do tôn giáo bị người ta hiểu lầm là một thứ ma túy, thuốc phiện là vì người lãnh đạo những trường phái hay chiều hướng tôn giáo thay vì chú trọng vào sự tiến hóa thì lại chú trọng vào chuyện làm sao giải quyết những vấn đề cấp thời. Trong thời đại bây giờ, với tri thức, sự hiểu biết, cách suy nghĩ hiện đại, có lẽ mình nên thay đổi lại, nên hiểu tu có nghĩa là tiến hóa. Do đó, không phải chỉ có người Phật giáo mới tu mà tất cả ai có sự sửa đổi để tiến hóa thì đều gọi là tu cả. Hỏi: Thầy vừa nói tới vấn đề là người nào cũng cần phải tu nhưng có nhiều người nói là tôi ăn hiền ở lành, sống một cuộc đời hạnh phúc, tôi thành công trong xã hội, thì cần gì tôi phải tu. Đáp: Quan điểm đó rất là đúng. Bởi vì con người có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có một cái ưu tiên. Giai đoạn đầu tiên là mình phải làm sao sinh tồn. Khi mình cần phải sinh tồn thì mình sẽ không nghĩ gì đến chuyện tu hành, tiến hóa gì cả. Mình thấy rất nhiều người nghèo khổ, không có miếng ăn, không có gạo, có muối, không có nước nữa thì mình không cách chi biểu người ta tu được cả. Sinh tồn là chuyện quan trọng lúc đó, phải giải quyết chuyện sinh tồn chứ không phải chuyện tiến hóa. Nhưng khi sinh tồn giải quyết rồi thì mình muốn làm sao cho cái nhà đẹp chút xíu, có cái xe hơi chạy cho tốt, tức là không những sinh tồn mà được sung sướng chút xíu. Nên mỗi tầng lớp đều có một ưu tiên. Có rất nhiều người tới chùa không phải để tiến hóa nhưng nhu cầu của họ là cần làm sao giải quyết cái niềm sợ hãi, không an toàn. Họ cảm thấy cần được an toàn. Họ muốn giải quyết vấn đề tâm lý. Thành ra đầu tiên là sinh tồn thân thể, đến vấn đề sinh tồn của tâm lý, tức sự an toàn xong rồi, họ mới tới chỗ cho có tên tuổi, muốn người ta biết tới mình, muốn định vị trí của mình trong xã hội. Tới đây là mình thấy đã có một sự tiến hóa rồi. Như mình thấy khi mình mới đẻ ra, làm sao mình nghĩ mình sẽ xuất gia thành Phật? Nhưng bắt đầu lớn chút xíu rồi mình sẽ nghĩ khác. Quan điểm của mình sẽ thay đổi theo thời gian, theo vị trí sống của mình. Tất cả những thay đổi đó thường theo 1 chiều tiến hóa: thể xác trước, tới tâm lý, rồi tới tâm linh. Cho nên khi nói chuyện tu hành, nhất là trong thời đại bây giờ, khi đa số chúng ta ở Bắc Mỹ, Canada, Âu châu... đều có sự sinh sống, chức vị ổn định trong xã hội rồi thì thường mình sẽ nghĩ đến chuyện tâm linh. Mình muốn ngồi thiền, được an lạc. Hiện tượng đặc biệt nữa là mình muốn làm việc thiện, việc xã hội, cứu đời. Tất cả những cái đó là biểu tượng của việc mình đang tu, mà tu tiến hóa đó. Chuyện đó thường không xẩy ra ở những nơi như Phi châu chẳng hạn, nơi người ta đang cần sinh tồn... Hỏi: Thưa thầy, thầy có nói tu hành là tùy theo các giai đoạn trong cuộc đời. Nhưng có những ngươi đi tu rất sớm, thí dụ như thầy. Vậy những người khoảng 40, 50, nếu họ tu thì có được không, có dễ không? Đáp: Thầy xuất gia năm 19 tuổi rưỡi. Có những người đi tu còn trẻ hơn, ngày xưa thầy có một chú đệ tử 6 tuổi đã biết muốn đi tu rồi. Có nhiều người trẻ lắm đã có căn cơ. Nhưng người lớn tuổi thì quan điểm và kinh nghiệm sống của họ chững chạc, đứng đắn hơn vì vậy sự tu hành của họ đúng hơn. Nếu không dùng chữ tu, thì mình nói cái nhận thức về mình cao hơn, vững vàng hơn. Những người đó thực sự dễ dàng tiến hóa hơn. Lúc mới bắt đầu xuất gia, thầy không nghĩ rằng tu là tiến hóa mà nghĩ tu là mình sẽ đạt được một cảnh giới gì hay đạt tới thần thông, muốn giác ngộ. Mình không nghĩ rằng tu là tiến hóa. Nhưng có cái hay vô cùng là thì ra chuyện tiến hóa nó lạ lắm. Càng tiến hóa bao nhiêu thì mình lại càng xả thân mình cho người khác, tức là khi tu, không những mức độ tiến hóa càng lúc càng cao mà tâm mình càng lúc càng khai mở ra. Càng lên cao thì tâm mình càng mở ra. Phật thì mở ra đến tâm vô lượng vô biên. Sự khai mở đó đi đôi với sự tu hành cảnh giới cao. Thí dụ như khi mới tu, nếu mình giận 1 người nào thì người đó có đến xin lỗi mình, mình cũng không thèm tha thứ cho họ. Nhưng nếu mình tu, sửa đổi tánh tình của mình, mình không cần đi sửa đổi người ta, mình lo sửa tánh tình của mình tới một mức độ nào đó thì mình tha thứ cho người ta dễ lắm, mình nhìn người đó mà không còn sự giận dữ, ghét người đó nữa. Việc đó chứng tỏ tâm mình đủ rộng để chứa người đó trong lòng. Nếu 10 năm sau mà mình vẫn không chứa được người đó, mình không tha thứ được thì tâm mình vẫn nhỏ như thường. Càng tu, tâm mình càng rộng mà càng rộng tức càng tha thứ. Đó là điều lạ thứ nhất, đặc điểm thứ nhất: càng tu tâm càng mở rộng. Cái đặc điểm thứ hai là càng tu thì càng vì người khác. Càng vì mình bao nhiêu thì cảnh giới của mình càng lúc càng nhỏ hẹp lại. Thành ra cái sửa đổi và tiến hóa là sự bố thí, cái lòng khai mở, cởi mở. Đặc tính đó là lý do mình gọi chương trình của mình là Khai Tâm vì mình thấy được rằng con đường tu hành là con đường tiến hóa mà con đường tiến hóa là con đường lúc nào cũng khai mở cả. Hỏi: Thưa thầy, có người tu sớm, tu muộn. Như vậy, cái sự thành tựu như thế nào? Người xuất gia sớm thành tựu hơn người tại gia? Đáp: Thường thường mình hiểu như vậy. Thời xưa trong văn hóa Đông phương, người ta nghĩ rằng con nít không ô nhiễm và dễ dàng thành tựu. Người ta nghĩ như vậy, “đồng chân nhập đạo”, dễ thành tựu cao hơn. Đó là quan điểm văn hóa quan trọng trong xã hội người Tàu. Cho nên nếu các bác qua bên Tây Tạng sẽ thấy con nít mấy tuổi đã cho xuất gia rồi. Có những người tái sanh mới 6, 7 tuổi đã đảnh lễ. Quan điểm quan trọng nhất mình nhận ra là sự thành tựu không phải do tu sớm tu trễ mà là sự nhận thức làm sao để mình khai mở. Vì nếu mình tu lâu lắm nhưng mình không khai mở thì không được. Có chuyện nói trong thiền môn như vầy: Hai người học trò tới tu với một ông thầy. Ông sư phụ hỏi: Con vì sao muốn xuất gia? Người thứ nhất nói: Con nghe danh sư phụ nổi tiếng là người giác ngộ, có đến 8000 đồ đệ, có tới 300 ngôi chùa. Nên con muốn tu hành để trở nên một người như sư phụ để sau này có thể hoằng dương Phật pháp, hóa độ chúng sanh, tăng số chùa, tăng số đệ tử làm cho pháp của sư phụ mãi mãi bất diệt. Người ngồi nghe phục lắm, nghĩ người đệ tử này thiệt là một người có tâm đạo, theo hoằng dương nối nghiệp sư phụ. Người đệ tử thứ hai thì không nghĩ tới nhiều thêm chùa chiền, thêm đệ tử vì mục đích người tu là làm sao cho tâm khai mở, làm sao bố thí ra chứ không phải là được có thêm nhiều. Càng có thêm nhiều thì càng không được. Người thứ hai nói: Con không nghĩ mục đích của con khi con tu là thêm chùa, thêm đệ tử. Con sợ sư phụ thất vọng là con không làm được chuyện đó. Mục đích của con là tu để làm sao con có thể đem sinh mạng con cống hiến cho chúng sanh, chứ con không có tư tưởng nào nghĩ về con nữa. Không có giờ phút nào con phải lo nghĩ về con, con muốn làm sao con nhỏ hơn hạt bụi nữa, làm sao con không có một mảy may nào là vì con cả. Sư phụ cười không nói gì, hỏi tất cả những người ngồi đó: Như vây các con nghĩ thế nào về hai người đệ tử này của ta? Còn các anh chị thì nghĩ sao? Hỏi: Người thứ hai là người có tư tưởng đúng đắn nhất về vấn đề tu. Đáp: Đúng. Anh chàng này muốn tiến hóa khai mở. Người kia thì muốn bên ngoài. Người thứ hai có mức độ hiểu được chính mình rõ ràng hơn. Đó gọi là mức độ tiến hóa. Ông Socrates nói: Mình hiểu chính mình, đó là con đường tâm linh. Cho nên con đường khai mở, con đường quan trọng nhất, là mình phải hiểu chính mình và mình phải mất đi chính mình. Tu có nghĩa là càng tu thì càng mất đi chính mình, không phải thêm vào. Tu là bố thí, là cởi mở. Làm cho mình không còn gì cả thì gọi là tu. Ông Lão Tử nói: Nếu vì cái đạo thì hằng ngày mình càng nên giảm bớt những cái mình có và giảm bớt mãi tới cái chỗ vô vi, không còn gì nữa. Nhưng cái học thì ngày càng tăng, tri thức tăng. Do đó khi bắt đầu tu hành, mình nên bắt đầu nghĩ tới chuyện làm sao mình tiến hóa, làm sao mở rộng ra, mất mình đi, chứ không thêm vào. Hỏi: Tại sao hai người đều xuất gia mà nghĩ khác nhau? Vì người có căn tu, người không? Tại sao sự nhận thức khác biệt như vậy? Đáp: Nói về chuyện căn tu, chắc có lẽ nói cho rõ ràng hơn thì là kinh nghiệm sống. Người thứ hai có lẽ có kinh nghiệm sống thực tiễn trong xã hội. Người đó có vẻ đã đụng chạm nhiều và thấy sự thất bại là mẹ của thành công, rằng sự nhục nhã không khác gì sự quang vinh cả. Do đó anh được tiến hóa. Người thứ nhất có lẽ là người chưa trưởng thành nhiều và có nhiều lý tưởng quá nên thường thường tự biến cái lý tưởng đó thành bản ngã. Có rất nhiều người mình thấy sống trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn khi mình chưa thành công trên đời, mình nghĩ công việc, tiền bạc là quan trọng nhất. Khi có tiền bạc vững vàng rồi, mình mới bắt đầu nghĩ rằng tiền bạc, công việc chưa phải là quan trọng mà phải có sự hy sinh, buông xả chính mình để giúp cho người khác vui vẻ. Mình thấy niềm vui của người khác cũng quan trọng tương đương như việc của chính mình. Do đó mình thấy ra cuộc đời mỗi người có một giai đoạn. Do đó người sau không phải là hay hay dở hơn người trước. Anh chàng sau có sự trưởng thành nhiều hơn người trước. Hỏi: Con thấy có những lý do khác nhau làm người ta đi tu. Thầy có thể phân loại những lý do mà người ta đi tu? Đáp: Lý do dễ dàng có lẽ là sinh tồn. Vừa rồi thầy đi Trung Hoa về và biết rằng người xuất gia cũng được trả tiền lương hằng tháng, do đó là vấn đề sinh tồn, đi tu được trả tiền thì tội gì mình không đi tu? Chuyện thứ hai nhiều khi là áp lực của gia đình khiến cho mình phải đi tu chứ không phải tự nguyện. Thứ ba nữa là do truyền thống. Hỏi: Hay là vì họ thất bại trong đời sống nên họ muốn đi tu? Thất bại về tình cảm, công việc. Nếu đi tu vì những động lực như vậy thì có thành công được không thưa thầy? Đáp: Câu hỏi rất hay. Nếu mình nghiên cứu thì sẽ thấy mỗi động cơ đều đưa tới một kết quả khác. Không một động cơ nào không có kết quả. Do đó, khi nói tới chuyện tu hành thì phải nghĩ tới cái động cơ. Hồi nãy mình nói lý do này nọ nhưng thật ra còn phải nhìn vào con đường đi từ động cơ cho tới kết quả. Thường thường, cái động cơ thì Phật giáo gọi là cái nhân, nhân nào thì quả đó. Nên người thất tình đi tu thì thường thường họ không nghĩ tới chuyện thành Phật hay tiến hóa mà chỉ nghĩ tới làm sao cho bớt cái niềm đau khổ. Vì cái động cơ là hết đau khổ nên tìm được an lạc trong chuyện tu hành, do đó sự phát triển bình thường là người đó sẽ hết sức nhẹ nhàng, hằng ngày tụng kinh để được an ủi. Do đó cái nhân quả rất quan trọng, mỗi người mình trồng một cái nhân, không ai giống ai cả. Nhiều khi trong chuyện tu hành, có rất nhiều cái nhân hội tụ lại, cho nên cái quả cũng rất là phức tạp, mình không thấy được liền. Cho nên khi nói chuyện tu hành nhân quả mình phải nhìn cái động cơ đầu tiên cả. Hỏi: Người bình thường với đời sống bận rộn thì có cách nào hữu hiệu để tu không? Đáp: Có! Có cách dễ dàng. Nếu mình nghĩ tu hành là một sự tiến hóa, khai mở thì tu dễ dàng thôi. Thường thường, mình nghĩ tu là phải mặc áo tràng, lên chùa... nên thấy khó. Nếu mình nghĩ tu có nghĩ a là thành Phật thì tu trở nên càng khó hơn. Nhưng nếu nghĩ rằng tu là một sự cởi mở, là một sự thay đổi con người mình thì tự nhiên nó dễ. Có những cái rất quan trọng. Nhưng cái mình nên thay đổi đầu tiên là cái nhìn. Do đó, cách hữu hiệu nhất cho người tại gia, người xuất gia hay bất kỳ người nào là thay đổi cái nhìn. Thay đổi cái nhìn là chuyện đầu tiên đức Phật dạy. Trong bát chánh đạo tức 8 con đường chính, thì con đường đầu tiên để tu là làm sao có chánh kiến tức thay đổi cái nhìn, nhìn làm sao mà khiến mình có thể vượt được ra ngoài cái sự đau khổ chướng ngại. Thường thường mình nhìn một cái tai nạn, chướng ngại nào đó là cái khổ cho mình. Nhưng nếu mình nhìn đó là một cơ hội để tiến hóa, thay đổi thì tức nhiên nó khác. Do đó gần như là phương tiện đầu tiên dễ dàng hữu hiệu nhất là khi mỗi chuyện tới, mình đổi cái nhìn khác. Thầy cho thí dụ: Cô này đã có chồng và 2 đứa con. Cô muốn đi tu nhưng không biết làm sao. Hôm đó ông chồng đi chơi với cô, thấy một người đàn bà đẹp, ông khen. Bà vợ hỏi: Nếu anh thấy người đẹp anh khen như vậy, anh có bao giờ nghĩ rằng anh muốn sống với một người đẹp hơn em không? Ông chồng nói: Đương nhiên! Đàn ông nào không muốn sống với người đẹp. Sau đó, bà này tìm một người đàn bà mới giới thiệu cho chồng cưới bà đó rồi bà đi tu. Người ta hỏi tại sao bà có thể làm chuyện đó được? Vì tình vợ chồng gắn bó, tình yêu là muốn chiếm hữu. Bà nói: Sở dĩ tôi làm được như vậy là vì tôi thay đổi quan điểm. Hồi xưa tôi nghĩ vợ chồng là gắn bó lắm, là 1 chứ không là 2. Nhưng khi tôi học Phật pháp, tôi thấy thì ra trước sau gì mình cũng phải tự lo cho mình, trước sau gì mình cũng phải ở riêng mới tu được. Chính vì đó mà tôi thay đổi quan niệm. Nếu tôi muốn chồng tôi tốt thì tôi phải cho ông sung sướng. Ông muốn người khác nhưng ông chưa nói thì tôi cúng dường. Mình không nói rằng tất cả những người đàn bà nên làm như vậy, ở đây mình chỉ nói đến cái sự thay đổi cái nhìn của bà này. Hỏi: Người ta thường nói câu: Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Như vậy có phải dễ nhất là tu ở chùa không. Theo con thấy là tu chùa khó lắm, đâu phải ai cũng đi tu được. Đáp: Tu chợ thì khó, tu nhà thì càng khó hơn vì người nào cũng biết mình cả, mình không trốn được. Ở chùa mình làm gì không ai biết nên thực sự tu ở chùa dễ hơn ở nhà. Ông Lão tử nói rằng muốn tu chân thật thì phải tu cái thân của mình. Tu chùa khó ở chỗ phải ép mình vào khuôn khổ, thí dụ dậy sớm, sáng 4 giờ dậy, tối 12 giờ tụng kinh..., ăn ít, không có tiền bạc, đi ngược lại dục vọng. Những cái khó là cái khuôn khổ của chùa nhưng tu ở nhà khó là vì mình phải chân thật với chính mình, phải đối diện với chính mình, phải làm sao cho người ta vui vẻ, hai cái khó khác nhau. Tu nhà tu chợ tu chùa mình không thể so sánh, mỗi nơi có một khó khăn khác nhau. Tu là mức độ đổi cái nhìn, mức độ tâm cởi mở. Nếu các anh chị muốn nhớ được ý nghĩa của tu hành thì có 3 chuyện: 1 là tu làm sao càng ngày càng cởi mở, 2 là tu thì làm sao thay đổi cái nhìn cho rộng ra, 3 là tu phải có một sự tiến hóa, thí dụ 5 năm sau nhìn lại thấy xưa mình ấu trĩ quá, con nít quá. Nghĩ được như vậy thì gọi là tu. Ba điểm đó gần như là yếu tố chính để mình biết là mình có tu hành hay không. Hỏi: Như vậy có cách gì thiết thực để thực hiện những chuyện đó? Đáp: Chuyện đầu tiên là sửa đổi cái nhìn. Muốn sửa đổi cái nhìn thì mình phải đi học. Phật giáo nói là mình phải gần người thiện tri thức, người hiểu biết nhiều. Thiện là điều tốt, điều hay, tri là biết, thức là người có kiến thức. Người có kiến thức, hiểu biết hay thì mình nên gần. Mình muốn tới gần người có tánh tốt để mình học, đó là cách để mình thay đổi cái nhìn. Đối với người tu tại gia thì mình cần có người mình gọi là người hiền, mình chưa cần tới ông thánh, mình cần tới người hiền, có tâm đạo cởi mở để mình học, bắt chước. Thường thường khi tu mình bắt chước nhiều hơn là học chữ nghĩa. Nhiều khi mình nghĩ tu là đọc sách nhưng thực sự là bắt chước nhiều hơn là đọc sách. Nhưng đọc sách cũng là quan trọng vì đọc sách mở mang những ý tưởng, tâm trí để mình biết con đường đạo mà đi theo. Nếu nói đúng thì tu tại gia là đổi cái nhìn, lúc nào cũng cởi mở, cởi mở ra cả. Đối với người tại gia, mình cần chú ý tới mấy chuyện sau: 1 là tu cái bụng tức tu làm sao để lương tâm đứng đắn, 2 là tu cái ngực, tức là con tim, làm sao cho con tim của mình cảm nhận được sự lành. Cái bụng thì cảm nhận sự đứng đắn, là lương tâm cảm nhận sự thiện, nhưng cái tâm thì cảm nhận sự lành. Tức là đối với cái bụng thì mình tu làm sao để việc gì trái với lương tâm thì mình không làm. Tu tâm thì khai mở. Việc gì làm mình cảm thấy thoải mái, việc thiện, lành thì mình phải làm. Ba là tu cái óc, tức là con đường thánh hiền, triết lý làm cho mình có thể sáng tạo hơn, mở rộng hơn. Nói một cách tổng quát thì đường tu là như vậy Hỏi: Cách tu có khác nhau tùy theo lứa tuổi? Đáp: Đúng, mỗi lứa tuổi có một lối tu khác nhau, nếu nói sâu sắc hơn nữa thì không phải là vì tuổi. Lớp tuổi khác nhau là vì thân thể. Người già không thể ngồi thiền lâu được. Nói về các lớp tuổi là nói về sức khỏe của thân thể nhưng nói về phương pháp tu khác nhau như thế nào là nói về mức độ trưởng thành của tâm linh, tâm lý và nhận thức, 3 cái. Nếu một người tâm lý không trưởng thành thì chỉ tu cho an toàn thôi, mình chỉ nói: bác ngồi đó niệm Phật thì Phật sẽ độ cho bác. Người tâm lý trưởng thành thì mình nói bây giờ bác đi làm việc thiện giúp người khác đi. Nếu nhận thức trưởng thành thì mình nói đây là con đường đạo, bây giờ bác nên làm chuyện này: tới chùa, hội đoàn này, cộng đồng kia... làm những chuyện này để mở tâm ra, khai tâm người ta. Cuối cùng, tâm linh người ta đã chín mùi thì mình nói khác. Nếu tâm linh người ta chưa khai mở, không thấy chuyện tu hành quan trọng thì có cách tu khác, nhiều khi chỉ là tu làm sao cho thân thể khỏe mạnh. Nhiều người nghĩ tu làm sao cho thân thể khỏe mạnh thì chỉ là “thể dục” mà người ta không biết té ra thân thể khỏe mạnh là một phần của tu hành bởi vì tu thì phải đều hết, toàn diện chứ không thể nghĩ tu là chỉ có chuyện tâm linh mà thôi. Hỏi: Chuyện gần người thiện tri thức rất là quan trọng, thưa thầy. Đáp: Tức là chọn bạn lành, hiểu biết, giúp mình tu. Kinh Hoa Nghiêm nói gần như 7, 8 chục phần trăm là mình phải nhờ người bạn lành chỉ dạy hướng dẫn. Cái đó cũng nói lên một quan điểm của tôn giáo là thường thường đặt nặng vấn đề giáo dục, đi học, bắt chước theo, được dạy... Mà điều đó đưa tới một điều khác nữa trong quan điểm tu hành là mình phải muốn tu mới được, nhiều khi người ta muốn dạy mà mình không muốn tu thì cũng khó. Nhiều khi mình đi theo thầy tu nhưng không tu theo thầy, phiền lắm... Mình phải mở cái tâm ra để chịu tu. Hỏi: Tu toàn diện là gì, thưa thầy? Đáp: Tu toàn diện bắt đầu bằng tu thân. Thường Phật giáo nghĩ tu thân tức là tu về đạo đức thôi, đừng ăn trộm, ăn cắp, đừng tà dâm... Nhưng không ngờ tu thân còn là tu cái thân thể của mình. Thể dục và đức dục là 2 môn khác nhau. Thể dục là giáo dục cái thân thể, làm sao cho thân thể khỏe mạnh, tráng kiện. Như hồi xưa ở Thiếu Lâm Tự, tất cả các ông tăng và những người tới chùa, người nào cũng phải có sức khỏe để làm sao có thể tu lâu dài và càng tu càng tiến hóa. Do đó, quan niệm tu toàn diện là quan niệm tu cái thân và tu mặt tâm lý tức làm sao cái tâm đại bi, cái tình thương mình được mở ra, làm sao có thái độ lúc nào cũng cởi mở cả. Mình phải tu cái mức độ trí óc. Mình có trí óc và có con tim. Tu trí óc là làm sao mình phải sáng tạo, hằng ngày vận dụng trí óc chuyên chú vào chuyện đang làm và có thể phát triển được tới mức cái nhìn, vũ trụ quan rộng mở. Tu cái thân, tu tâm lý, tu trí năng, cuối cùng là tu tâm linh tức tu cái mức độ nhận thức về bản ngã, về cõi tâm linh, cõi im lặng. Do đó, con người mình phức tạp, không phải chỉ có chuyện tu ngồi 1 chỗ hay quan niệm tu là lên chùa gõ mõ tụng kinh, hay tới chỗ bây giờ mình gọi đời mạt pháp, người ta nghĩ rằng tu là làm sao có áo tràng cho tốt cho đẹp, lên chùa cúng dường và ngồi đó để tụng niệm mà thôi, không thấy rằng chuyện bên ngoài đó không dính dáng gì tới chuyện tiến hóa của tâm linh, sự khai mở của cõi lòng và sự không ngừng thay đổi quan điểm, thay đổi cái tầm nhìn cả. Chuyện hiểu lầm lớn làm cho mình không tu toàn diện được là nghĩ rằng tu là gắn liền với chùa, gắn liền với cái động tác gõ mõ tụng kinh, đưa đám, treo tràng chuỗi..., bị dính vào lễ nghi mà không nghĩ được rộng hơn rằng tu là một sự biến đổi của thân thể và tâm linh. Lời cuối: Con đường tu là con đường rất tự nhiên bởi vì nó là con đường thay đổi cái nhìn của mình, con đường làm cho mình cởi mở, tâm mình càng ngày càng rộng lớn hơn, con đường làm sao cho mình càng ngày càng tiến hóa, trở nên tốt hơn, đẹp hơn. Do đó con đường tu không phải là con đường dính liền với sự xuất gia hay tại gia mà là con đường khai mở. Chữ khai mở sẽ gắn liền vào chữ tu.
|
|
|
Post by tk on Apr 14, 2012 11:34:17 GMT -5
Hỏi & đáp: Khất thực của nhà Phật?Hỏi: Xin vui lòng giảng giải cho tôi biết về pháp khất thực của nhà Phật như thế nào? Đáp: Thưa quý thính giả, Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm. Từ ban đầu, họ không phải là những nhà tu khổ hạnh tự hành xác để sám hối và không xem lối sống đơn giản tự nó là cứu cánh mà chỉ là phương tiện để giải thoát những phiền toái hàng ngày hầu có thể tập trung toàn lực vào công việc quan trọng duy nhất là đạt giác ngộ cho mình và giúp ích cho người. Khất thực có nghĩa là xin ăn. Cách nuôi thân một cách chân chính do Phật dạy cho những đệ tử xuất gia. Đó là thực hành chính mạng thanh tịnh. Tưởng cũng nên nói thêm ở đây là tu sĩ của một số tôn giáo khác ở xã hội Ấn Ðộ thời đức Phật còn tại thế, thường dùng những phương tiện không chính đáng để mưu sinh, bởi lẽ những công việc ấy nhẹ nhàng, dễ làm, không khó nhọc như các nghề coi bói toán, xem tinh tú, bùa chú, xem ngày xấu, giờ tốt, xem phong thổ, địa lý, xây nhà, đào ao, v…v… Ðức Phật nhận thấy đây là điều không thể chấp nhận và không phải là việc làm của người tu sĩ Phật giáo, không phải là hành chánh mệnh thanh tịnh. Đi khất thực còn gọi là đi bình bát hay trì bát. Chữ Bát có nghĩa là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người. Bình bát là loại bình được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rỉ nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý, … Nếu dùng bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của người xuất gia. Các vị đã phát tâm xuất gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh pháp, nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Ở các nước theo Nam Tông Phật giáo, chư Tăng đi khất thực nên thường dùng bình bát. Các nước theo Bắc Tông Phật giáo thì không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba tháng kiết đông nữa; đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường trai tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai. Chuyến đi khất thực bao giờ cũng diễn ra vào buổi sáng và chấm dứt trước giờ ngọ tức trước lúc mặt trời đứng bóng. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Các thí chủ chỉ cúng dường những thức ăn đã được nấu sẵn, không cúng dường các vật liệu chưa làm thành món ăn, như cúng cơm chứ không cúng gạo, cúng món rau xào chứ không cúng bó rau chưa nấu chín. Nếu chưa đủ dùng, chư vị tiếp tục đi theo hàng dọc đến nhà bên cạnh nhưng không được quá bảy nhà. Chư vị không được phép bỏ sót nhà nào, hoặc dành ưu tiên cho phố xá ở các thị trấn phồn thịnh, các gia chủ giàu hay nghèo đều phải được tạo cơ hội đồng đều để gieo trồng phước duyên, cũng không muốn gây cảm tưởng là chư vị ham thích những khu phố giàu có vì thức ăn ngon hơn. Khất thực xong, các vị trở về tịnh xá để ăn trước khi mặt trời đứng bóng. Đây là bữa ăn duy nhất trong ngày. Thông thường thức ăn được phân ra làm bốn phần: một phần nhường lại cho các bạn đồng tu nếu thấy họ không có hay có ít, một phần san sẻ cho người nghèo, một phần dành cho loại chúng sinh không phải là người nhưng sống chung với người và cuối cùng còn lại là phần mình dùng. Khi thọ dụng thức ăn các vị Tỷ kheo xem như là việc uống thuốc để duy trì sự sống mà tu hành, ngon không ham, dở không bỏ. Thọ dụng cúng phẩm của người đời vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Sau bữa ăn, các vị rửa bát, xếp gọn các y, ngơi nghỉ trong chốc lát, liền lại đến một gốc cây hay căn nhà trống, hay tịnh thất ngồi thiền định như hành Tứ niệm xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra. Hằng năm, chư Tăng ni an cư vào ba tháng mùa mưa. Tất cả trở về sống chung trong các tịnh xá lớn. Trong thời gian này, chư Tăng không đi khất thực, đã có thiện nam, tín nữ, đến tịnh xá “để bát” và lo tứ sự cúng dường. Cứ đến ngày lễ Bố-tát vào ngày trăng tròn và ngày đầu trăng, chúng Tỳ kheo cùng sống trong một vùng phải tập họp lại một chỗ gọi là giới trường để tụng đọc Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa. Chư Ni thì có đại diện đến xin lãnh giới ở chư Tăng và trở về tịnh xá riêng của Ni để tụng đọc Giới bổn Ni. Ngoài ba tháng an cư, chư Tăng được tung ra khắp các phương hướng, đi đến các trú xứ khác nhau, trong các quốc độ, vừa khất thực để độ nhật, vừa thuyết pháp độ sinh, và vừa nỗ lực tinh cần tiếp tục hành Thiền để đoạn trừ tham sân si. Thưa quý thính giả, Pháp Khất thực do Phật truyền cho các đệ tử xuất gia phù hợp với nguyên lý Trung đạo, tức là tránh xa hai cực đoan: Thứ nhất là tránh xa sự sung sướng thái quá qua việc ăn thực phẩm do người đời cúng dường để vào trong bình bát mà không dùng đũa ngọc, chén ngà, bàn cao, ghế đẹp với thức ăn mỹ vị, và thứ hai là tránh xa sự khổ hạnh thái quá qua chiếc bát đựng đồ ăn vừa đủ dùng, không giống như phái tu khổ hạnh lượm trái cây, lượm đồ ăn dư thừa mà ăn. Theo Kinh Phật, sự xin ăn của tu sĩ đem lại lợi ích cho mình và cho chúng sinh: Đối với vị Tỳ kheo khất thực thì có năm điều lợi ích: (1) tâm trí được rảnh rang, ít phiền não, (2) không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh nhai, (3) đoạn trừ tâm kiêu căng ngã mạn, (4) đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn ngon và ăn nhiều vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa, thức ăn chỉ đầy bát chớ không nhiều hơn nữa, tránh khỏi sự thâu trữ vật thực tiền của và (5) có nhiều thì giờ tu hành. Ngoài lợi ích cho riêng mình, vị Tỳ kheo khất thực còn mang lại ba điều lợi ích cho chúng sinh như: (1) tạo cơ duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho họ, (2) tạo cơ duyên giáo hoá chúng sinh, và (3) Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải. Theo Kinh Phật, trước khi lên đường khất thực vị khất sĩ nguyện rằng: “Nguyện cho các vị Khất gỉa thảy đều được no đủ và nguyện cho các thí chủ thảy đều được phước báu vô lượng. Như nay tôi được món ăn là dùng để điều trị cái thân độc hại này, để tu tập thiện pháp, lợi ích cho thí chủ.” Trong khi đi khất thực, vị khất sĩ giữ tâm bình đẳng: theo thứ tự nhà của dân chúng mà xin ăn, không chỉ đến xin nơi nhà giầu, cũng không chỉ xin nơi nhà nghèo. Có lần đức Phật quở Tôn gỉa Ca Diếp bỏ nhà giầu mà xin nhà nghèo, quở Tôn gỉa Tu Bồ Đề bỏ nhà nghèo mà xin nhà giầu. Vì trước đó Tôn Giả Ca Diếp nghĩ rằng “người nghèo thật đáng thương, ít phước, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, nên đến đó xin để nhờ đó họ bố thí cúng dường mà được phước về sau”. Trái lại, Tôn giả Tu-Bồ-đề lại cho rằng: “Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau lại nghèo khổ.” Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật mới quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt, không bình đẳng. Khi đi vị Khất sĩ không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, đi hết bảy nhà nếu không ai cúng dường cũng phải trở về với bát không và không ăn ngày hôm đó. Khi đi khất thực, vị khất sĩ cũng không được để ý xem mình được cái gì, và cũng không được thỏa mãn cũng như bất mãn. Nếu một người đàn bà cúng dường đồ ăn, vị Khất sĩ không được nói, nhìn hay quan sát người ấy đẹp hay xấu. Đồ ăn cúng dường cho Khất sĩ không phải luôn luôn nhiều hay ngon lành, hay tinh khiết. Các chuyến đi khất thực đôi lúc cũng có thể gây nên những xáo trộn tình cảm cho các Tỳ-kheo trẻ vì đa số thí chủ là đàn bà con gái. Do đó, việc tự điều phục thân tâm phải được tăng cường là điều rất cần thiết trong lúc khất thực, như đức Phật đã nhấn mạnh: “chỉ khi nào thân tâm được điều phục, thực hành chánh niệm và phòng hộ các căn thì mới đi vào làng khất thực”. Thưa quý thính giả, Ngày nay, tại một số quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam Tông như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào và một phần của miền Nam Việt Nam chư Tăng vẫn tiếp tục theo truyền thống khất thực này. Ở Trung Hoa, Triều Tiên và Tây Tạng truyền thống khất thực dường như đã hoàn toàn biến mất. Dưới Triều nhà Đường ở Trung Hoa, một tông phái đặc biệt, Luật Tông, được thành lập với mục đích làm sống lại truyền thống khất thực xưa, và đem ra thực hành những giới luật nghiêm ngặt của Luật Tạng. Dưới triều đại nhà Tống, các Thiền Sư thực hành khất thực và sự thực hành này còn tồn tại nơi những Thiền Sư Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản, khất thực không phải là nguồn sinh sống chính mà chỉ là một sự tập luyện kỷ luật cho những vị sơ tu hay là một cách lạc quyên vào những dịp đặc biệt và cho những mục đích từ thiện. Đối với Phật giáo phương Tây, vì hoàn cảnh xã hội không giống như hoàn cảnh các quốc gia phương Đông, nên pháp Khất thực khó thực hiện. Đa số các Tăng ni không đi khất thực nên các nhu cầu ăn uống đều do các Phật tử tại gia cúng dường. Riêng tại Việt Nam hình ảnh các vị tăng áo vàng đi khất thực không còn nhiều nữa bởi nhiều lý do không hay cho lắm, trong đó có những vị Sư giả đi khất thực! Thật là buồn khi chính Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải ra thông tư giới hạn nghiêm ngặt việc khất thực để bảo vệ danh dự của tăng đoàn nhất là tăng đoàn của hệ phái Khất sĩ và Phật giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam. Ðối với hệ phái Khất sĩ và Nam tông, sau ngày 1.5.2001, nếu vị nào vẫn muốn giữ hạnh khất thực thì phải xin phép với giáo hội và sẽ được giáo hội cấp gấy chứng nhận cùng với phù hiệu đàng hoàng. Các vị này phải hành trì đúng chánh pháp, đúng luật qui định của giới khất sĩ, tức là chỉ đi khất thực từ 8 giờ đến 10 giờ sáng. Sau 10 giờ sáng là phải trở về trú xứ. Chỉ được thọ nhận vật thực, không được nhận tiền bạc. Về hành trang chỉ gồm có một chiếc bình bát duy nhất, không được mang theo túi hay đãy. Ðối với Ni giới, khi đi khất thực, phải đi từ hai vị trở lên, không được đi một mình riêng lẻ. Nói tóm lại, vì nhu cầu tu học, nên vấn đề ăn uống cần phải được giản dị, thực phẩm phải được xem như là dược thực, vì thế Tăng đoàn thời Đức Phật phải đi khất thực. Khất thực là chính sách thực hành giáo pháp, là truyền thống của chư Phật. Các thầy Tỳ kheo phải giữ tâm bình đẳng mà đi khất thực từng nhà, không phân biệt giầu nghèo sang hèn để tạo cho đủ mọi tầng lớp dân chúng đều có cơ duyên thực hành hạnh bố thí cầu phước, nhân dịp đó quý thầy nói pháp khuyên dạy mọi người tu hành. Khi đi không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, luôn điều phục thân tâm trong chánh niệm, đi theo thứ lớp: Nếu hàng Phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thí chủ thỉnh mình. Còn khất thực phải theo thứ lớp. Ai cho gì ăn nấy, không được phân biệt thức ăn tốt xấu, ngon dở, chay mặn, không được qui định người thí chủ phải cúng dường như thế nào, mà là tùy điều kiện khả năng và phát tâm của thí chủ. Đó mới gọi là trí không phân biệt. Cũng vậy khi ăn thì phải trộn các món ăn với nhau để không còn phân biệt món này với món khác, món ngon món dở và không phân biệt mùi vị. Mục đích để không còn luyến ái mùi vị thơm ngon, mà chỉ cần ăn để nuôi sống xác thân mà tu hành giải thoát. ************************************************** 400 nhà sư khất thực trên đại lộ Bolsa,California mừng Phật Ðản Thursday, April 12, 2012 Đỗ Dzũng/Người Việt WESTMINSTER (NV) - Khoảng 400 nhà sư sẽ đi bộ khất thực trên lề đường đại lộ Bolsa, Westminster, đoạn từ đường Magnolia tới đường Bushard, vào ngày Chủ Nhật, 6 Tháng Năm, để kính mừng Phật Ðản ngay trung tâm Little Saigon. Các nhà sư thuộc hệ thống chùa Tầm Nguyên trong một lần khất thực. (Hình: Dũng&Loan) Ðề nghị này được Hội Ðồng Thành Phố chấp thuận với số phiếu 3-1 trong phiên họp thường kỳ tối Thứ Tư. Người bỏ phiếu chống duy nhất là Thị Trưởng Margie Rice. Trả lời phỏng vấn nhật báo Người Việt, Thượng Tọa Thích Thông Lai nói: “Lý do chúng tôi khất thực là muốn làm sống lại tinh thần Ðức Phật. Ngày xưa, Ðức Phật không ở trong chùa, mà đi khất thực sống qua ngày. Chúng tôi tổ chức khất thực bao gồm nhiều người tu hành là trí thức, trong ngày đó, họ lột quần áo đời thường, mặc vào chiếc áo cà sa. Họ bình đẳng với tất cả mọi người, giống như đi chung với hành khất, để thương họ nhiều hơn, theo lời Ðức Phật dạy.” Thượng Tọa Thích Thông Lai hiện là viện chủ hệ thống ba chùa Tầm Nguyên I, II và III, ở Seatle (Washington), Conroe (Texas) và Indio (California). Ngày hôm đó, xe bus sẽ chở những nhà sư thuộc ba chùa này đến nhật báo Người Việt cuối đường Moran. Từ đây, họ sẽ đi bộ ra đại lộ Bolsa, rồi đi trên lề đường xuống Magnolia, băng qua đại lộ Bolsa, rồi tiếp tục đi bộ trên lề đường dọc theo đại lộ này hướng về Bushard, băng qua đại lộ Bolsa, đi đến đường Moran, rồi quẹo vào nơi xuất phát. Từ đây, họ sẽ đi xe bus ra Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt-Mỹ để thắp nén hương cho những người đã hy sinh. “Ðạo nhà Phật có tứ ân: Tổ quốc, thí chủ, thầy tổ và cha mẹ,” Thượng Tọa Thích Thông Lai giải thích. “Ðạo Phật còn là do sự tự do ở miền Nam Việt Nam và sự hy sinh của các binh sĩ VNCH trước đây. Chúng tôi muốn đến tượng đài để đốt một nén nhang tạ ơn các chiến sĩ. Ðó là thực hiện ân tổ quốc.” Tại buổi họp Hội Ðồng Thành Phố, Bác Sĩ Gia Lê, đại diện ban tổ chức, nói: “Cuộc khất thực là một sự kiện mang tính tôn giáo theo tinh thần Phật Giáo, nhân dịp Ðại Lễ Phật Ðản.” Tuy nhiên, Thị Trưởng Magie Rice không đồng ý vì bà cho rằng đi bộ với số lượng người như vậy là nguy hiểm. “Ðây là điều rất nguy hiểm mà quý vị yêu cầu,” bà Rice nói. “Có những chuyện trước đây chúng ta làm được, nhưng bây giờ thì không. Ðại lộ Bolsa có quá nhiều xe rồi và không an toàn. Tôi không đồng ý.” Bà Rice cũng lo rằng số nhà sư đi bộ có thể nhiều hơn, có thể lên tới cả ngàn, nhưng Hội Ðồng Thành Phố chỉ cho phép 400 người. Ban tổ chức đồng ý mua bảo hiểm và trả chi phí cho 5 cảnh sát viên lo vấn đề an ninh. “Chúng tôi sẽ tuân thủ theo luật thành phố và cố gắng không để xảy ra bất cứ gì đáng tiếc. Chúng tôi có thể bảo đảm với quý vị,” Bác Sĩ Gia nói. “Chúng tôi không nghĩ có tới 1,000 nhà sư. Con số 400 là tối đa, là số chúng tôi dự trù, nhưng có thể thực tế ít hơn.” Ban tổ chức cũng cho Hội Ðồng Thành Phố biết cuộc khất thực kéo dài khoảng từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ. Nghị Viên Frank Fry nói: “Tôi biết nó sẽ gây ra nhiều vấn đề ở đó (đại lộ Bolsa), nhưng đây là điều làm cho khu vực này có thêm màu sắc. Ngay cả cuộc đi bộ làm gián đoạn một số chuyện, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên đồng ý. Tôi hoàn toàn ủng hộ.” Ba người bỏ phiếu ủng hộ là Phó Thị Trưởng Trí Tạ, Nghị Viên Tyler Diệp và Nghị Viên Frank Fry.
|
|
|
Post by tk on May 26, 2012 18:02:06 GMT -5
Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp - Đầu Đà Đệ Nhất
Hòa Thượng Tuyên Hóa
(Trích từ Kinh Pháp Hoa Lược Giảng) “Ma Ha Ca Diếp”: Ma Ha, nghĩa là “đại” (lớn); Ma Ha Ca Diếp chính là “Đại Ca Diếp”. Ca Diếp dịch là “ẩm quang”, còn gọi là “quang ba” ; lại còn một tên gọi nữa là “Đại Quy Thị”. Đại Quy Thị là họ của Tôn giả, vì tổ tiên của Tôn giả khi tu đạo, có một con rùa (quy) lớn ngậm một bức họa đến cho tổ tiên của Tôn giả xem, cho nên tổ tiên của Tôn giả mới lấy “Đại Quy Thị” làm họ cho giòng tộc. Nhưng theo người Trung Hoa mà nói thì “quy” luôn là chữ dùng để mắng người; ví như người Trung Hoa nói: “Mày là đồ con rùa”. Đây là câu mắng người. Họ của Tôn giả Đại Ca Diếp là “Đại Quy”, tên là “Tí Đa La”. Tí Đa La là tên của một loại cây, vì cha mẹ Tôn giả khấn cầu dưới cây này mà sinh ra Tôn giả, cho nên lấy tên cây làm tên cho Tôn giả. Tại sao gọi là “ẩm quang”? Vì trên thân Tôn giả Ca Diếp có ánh sáng có thể che mờ tất cả các ánh sáng khác, giống như uống lấy tất cả các ánh sáng vậy. Tại sao trên thân Tôn giả phát ra ánh sáng? Bàn đến vấn đề này, lại có một công án. Vợ trước đây của Tôn giả chính là Tỳ kheo ni Tử Kim Quang. Vào thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, sau khi Đức Phật này diệt độ, có người vì Phật lập tháp, xây chùa, tạo tượng thờ phụng. Nhưng trải qua một thời gian lâu sau, chùa bị hư hoại, tháp cũng đổ nát, không biết ai đó đã đội lên cho tượng Phật một chiếc nón lá để che mưa. Vì sao gọi là “chiếc nón lá”? Vì chiếc nón này dùng lá kết lại mà thành, đội lên đầu có thể che mưa. Vào mùa xuân ở phương Bắc của tôi, những người con gái trong gia đình đều dùng cây cao lương (một loại cây nếp dùng để cất rượu) kết nên loại nón như thế rồi đem ra thành phố bán; đội chiếc nón đó lên giống như che dù vậy, sẽ không còn sợ mưa. Nhìn tượng Phật được đội lên một chiếc nón như vậy, có một cô gái thấy liền phát khởi tâm từ bi nghĩ rằng: “Mình nhất định phải xây một ngôi chùa cho Phật, Phật ở đây sẽ bị nắng táp mưa sa, tình trạng như vầy làm sao có thể được chứ? Mình nhất định sẽ thếp vàng cho tượng Phật!” Thế là cô gái đi khắp nơi hóa duyên. Cô gái là một người rất nghèo khổ, tiền xin được mỗi ngày, cô đều đem đi mua vàng, trải qua thời gian khoãng mười mấy năm, vàng cô tích lũy được rất nhiều; cô để dành được rất nhiều vàng, lần này có thể đủ để xây chùa và cũng đủ để thếp áo vàng cho Phật. Cô liền mời một người thợ kim hoàn, nấu vàng chảy ra, rồi thếp lên tượng Phật. người thợ kim hoàn nhìn thấy cô có nhiều vàng như thế, liền hỏi: “Làm sao cô có được nhiều vàng như vậy?” Cô gái trả lời: “Lúc trước, nhìn thấy áo vàng trên thân của tượng Phật này bị tróc ra hết, tôi liền phát tâm đi hóa duyên, trải qua hơn mười mấy năm mới để dành được nhiều vàng như vậy.” Cô vừa nói như thế, người thợ kim hoàn liền phát tâm nói rằng: “Công đức này không chỉ một mình cô làm, tôi cũng có một phần trong đó. Nó là của chung hai người chúng ta!” Kỳ thật người thợ kim hoàn này khi nhìn thấy cô gái phát tâm xây chùa, thếp áo vàng cho tượng Phật, có một tâm hạnh rất tốt, cho nên khởi tâm yêu mến cô gái. Đã sanh tâm yêu mến thì nhất định trước tiên phải lấy lòng cô gái, cho nên anh chàng mới nói công đức này là của hai người làm, chứ không phải chỉ một mình cô gái làm. Tổ sư Ca Diếp chắc chắn là có ý nghĩ như thế! Thế là tượng Phật đã thếp xong, chùa cũng đã xây dựng hoàn tất, người thợ kim hoàn liền ngỏ lời cầu hôn với cô gái: “Tâm địa của cô thật tốt! Cả đời này tôi chưa từng gặp ai tốt hơn cô! Tôi vốn định sống độc thân suốt đời, hôm nay mới gặp được một người bạn tri âm, tri kỷ như cô, cô có bằng lòng kết hôn với tôi không?” Cô gái nghe xong liền nghĩ: “Ồ! Tâm địa của anh chàng cũng không tệ, mình mời anh ta đến thếp áo vàng cho tượng Phật, anh ta chỉ lấy một nửa tiền công. Tấm lòng của người con trai này thật tốt!” Nghĩ vậy, cô liền bằng lòng, hai người kết hôn với nhau. Kết hôn rồi vẫn không muốn rời, hai người liền phát nguyện đời đời kiếp kiếp đều muốn làm vợ chồng với nhau. Qúy vị thấy không! Loại mãnh lực ái tình này thật là ghê gớm! Hai người kiếp nào sanh ra cũng đều phải làm vợ chồng! Do nhân duyên thếp áo vàng cho tượng Phật, nên trên thân hai người luôn phát ra ánh sáng màu vàng kim và cũng do vậy mà tên của tôn giả được gọi là “ẩm quang”, nghĩa là có khả năng nuốt hết tất cả các ánh sáng khác. Trong kiếp hiện tại, khi Tôn giả Ca Diếp vừa chào đời, trên thân đã có ánh sáng màu vàng; sau khi lớn lên, cha mẹ của Tôn giả muốn tìm một cô gái tốt cưới cho con trai mình, Tôn giả bảo: “Không thể được! Trên thân con có ánh sáng màu vàng, con nhất định phải tìm một cô gái cũng có ánh sáng màu vàng mới được; nếu không, con thà theo chủ nghĩa độc thân!” Sau đó, quả nhiên tìm thấy được môt cô gái trên thân cũng có ánh sáng màu vàng giống như Tôn giả tại một đất nước khác, hai người liền kết hôn với nhau. Lời ước nguyện quả thật không sai, khi hai người chứng được đạo quả A la hán liền thấy biết được đã từ nhiều kiếp hai người luôn làm vợ chồng của nhau. Nhưng thấy người ta làm vợ chồng với nhau, quý vị không nên hiểu lầm mà nghĩ rằng: “Sau này gặp được một người con trai, mình cũng sẽ cùng với anh ta phát nguyện như thế, là đời đời kiếp kiếp đều làm vợ chồng!” Người ta phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng là vì vấn đề tu đạo; đời đời kiếp kiếp đều phải tu đạo, đều phải quy y Tam bảo và xuất gia. Qúy vị không nên phát nguyện đời đời kiếp kiếp cùng làm vợ chồng, vì càng làm càng xa đạo, đến một lúc nào đó sẽ rơi vào địa ngục! nhất định là phải có tu đạo mới được! Do vậy mà Tôn giả Ca Diếp và vợ đều cùng quy y Phật, đều chứng được Thánh quả, Tôn giả làm vị Tổ sư đầu tiên; vị Tổ đầu tiên chính là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Qúy vị có muốn nhìn thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp không? Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hiện giờ vẫn còn ở trên thế gian, trong núi Kê Túc thuộc tỉnh Vân Nam Trung Hoa, Tôn giả vẫn đang tĩnh tọa, nhập định tại đó, đợi đến sau này khi Phật Di Lặc ra đời thành Phật, Tôn giả sẽ đem y bát của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giao lại cho Phật Di Lặc. Hiện tại Tôn giả vẫn chưa nhập niết bàn, vẫn chưa viên tịch, Tôn giả vẫn còn ở trên thế gian này. Qúy vị khi đến núi Kê Túc lễ bái tôn giả Ma Ha Ca Diếp, nếu ai có tâm thành thì sẽ được diện kiến Tôn giả. Từ “ẩm quang” này, không phải nói là uống ánh sáng vào bụng, không hề có ý nghĩa này; mà là nói ánh sáng trên thân của Tôn giả có thể nuốt hết tất cả các ánh sáng khác. Ánh sáng này trên thân Tôn giả siêu vượt tất cả các ánh sáng; giống như ánh sáng của ngọn đèn điện 500W, khi tôn giả Ca Diếp đến chỗ này thì ánh sáng 500W kia sẽ không còn sáng nữa, ánh sáng trên thân của Tôn giả mạnh hơn 500W, có thể là 1000W, 2000W, thì sẽ uống được ánh sáng 500W này—không phải là dùng miệng uống, mà là ánh sáng trên thân Tôn giả phát ra vượt trội hơn bất kỳ ánh sáng nào, che mờ tất cả các ánh sáng khác, giống như nuốt các ánh sáng khác vậy. Mỗi người chúng ta đều phải hiểu rõ điểm này, không nên cho rằng tôn giả Ca Diếp không uống nước mà là uống ánh sáng, đây là cái hiểu lệch lạc. Vị Tôn giả Ca Diếp này có tuổi đời lớn nhất trong số các đệ tử của Phật; tuy lớn như thế, nhưng tuổi càng cao Tôn giả càng minh mẫn, càng mạnh khỏe, làm bất cứ việc gì đều không từ nan. Tôn giả vốn sinh trưởng tại nước Ma Kiệt Đề (Đà), cha mẹ đều là người rất có tiền, sự giàu sang có thể sánh ngang hàng với vua chúa, vua nước Ma Kiệt Đề lại muốn bái Tôn giả làm thầy; nhưng sau khi xuất gia tu đạo theo Phật, Tôn giả nghĩ: Người tu đạo phải “an bần lạc đạo, an bần lạc đạo”, không thể ham tiền, cho nên Tôn giả đem hết tài sản của mình ra bố thí, một thân tu đạo, chuyên tâm thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh. Thế nào gọi là “hạnh đầu đà khổ hạnh”? Tức là ăn cũng không ăn ngon, mặc cũng không mặc đẹp, ở cũng không ở chỗ tốt, tự mình phải kham khổ, nhẫn chịu lao nhọc, không được sợ khó. “Khổ hạnh” có nghĩa là càng khổ càng phải nhẫn thọ, phải kham chịu lao khổ. Tất cả những hưởng thụ của đời người đều không ngoài 3 thứ: y, thực, trụ. “Y” chính là y phục để mặc; “thực” chính là thức ăn để ăn; “trụ” chính là nơi để ở. Tôn giả đối với ba việc này luôn thích kham khổ. Tuổi của Tôn giả tuy lớn như thế, nhưng vẫn thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh. Có một hôm, Đức Phật đang thuyết pháp, Tôn giả đi đến, Phật liền nhường nửa tòa ngồi cho Tôn giả. Tòa ngồi rất lớn, Phật liền chia nửa tòa bảo Tôn giả rằng: ‘Ca Diếp, hãy đến ngồi bên cạnh Như Lai!” Tôn giả cùng ngồi với Phật. Vì sao Phật lại chia nửa tòa ngồi cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp? Vì lúc này tuổi của Tôn giả đã rất lớn, khoãng 140 tuổi. Phật khuyên Tôn giả: “Tuổi của ông đã quá lớn, tinh thần cũng sẽ không được sung mãn lắm; ông nên ăn thêm chút vật ngon, mặc thêm ít đồ tốt, ở phòng tiện nghi hơn một chút, không nên hành hạnh đầu đà nữa! Như vậy thật là vất vả! Tuổi ông đã quá lớn, sợ không kham nổi!” Tuy Phật đã khuyên như thế, Tôn giả cũng không nghe theo, vẫn thực hành theo hạnh đầu đà. Do vẫn thấy Tôn giả hành theo hạnh đầu đà, vẫn sống khổ hạnh, kham chịu nhọc nhằn như thế, nên Phật đã tán thán Tôn giả một cách sâu sắc rằng: “Pháp của Như Lai trụ lâu ở đời, phần lớn có liên quan đến sự thực hành hạnh đầu đà của Tôn giả Ca Diếp. Tôn giả Ca Diếp có thể thực hành hạnh đầu đà như thế, pháp của Như Lai chắc chắn có thể trụ lâu dài trên thế gian!” Cho nên ở trong số đệ tử của Phật, Tổ sư Ca Diếp là “Đầu đà đệ nhất”, đứng đầu về thực hành hạnh đầu đà. Có một lần, lúc Đức Phật đang thuyết pháp, có một vị Phạm Thiên đem hoa Kim Ba La đến cúng Phật; vị Phạm Thiên này nằm dài trên đất, dùng thân làm tòa ngồi, thỉnh Đức Phật ngồi lên thân mình, thuyết pháp cho chúng sanh nghe. Phật liền ngồi lên mình Phạm Thiên, tay cầm đóa hoa đối trước trăm vạn chúng trời người mỉm miệng cười. Phật vừa mỉm cười, Trưởng lão Ca Diếp cũng mỉm cười theo, cho nên sự kiện này được gọi là “niêm hoa vi tiếu truyền” (truyền pháp bằng cách giơ đóa hoa lên mỉm cười); truyền cái gì? Truyền pháp môn tâm ấn của Phật. Phật bảo: “Như Lai có kho tàng con mắt chánh pháp, diệu tâm niết bàn, vô tướng thực tướng, truyền ngoài ngôn giáo, lấy tâm ấn tâm (chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm ấn tâm) nay đem giao phó lại cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp.” Như Lai đã truyền pháp cho Ma Ha Ca Diếp, cho nên Tôn giả là Tổ sư đầu tiên tại Ấn Độ. Thế nào gọi là “Tổ”? Phật đem tất cả phật pháp truyền lại cho đệ tử; người đệ tử được truyền pháp này gọi là Tổ Sư. Chế độ “Tổ” tại Ấn Độ là một đời chỉ truyền cho một người, gọi là truyền đơn, cho nên Phật chỉ truyền cho Ca Diếp, Tổ Ca Diếp lại chỉ truyền cho A Nan làm nhị tổ, nhị tổ A Nan lại truyền cho Thương Na Hòa Tu làm tam tổ, tam tổ Thương Na Hòa Tu lại truyền cho Ưu Ba Cúc Đa làm tứ tổ…; mỗi đời mỗi đời truyền xuống đều là pháp môn tâm ấn tâm này. Từ Tổ đầu tiên truyền đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma thứ 28; Tổ Bồ Đề Đạt Ma lại mang toàn bộ pháp môn tâm ấn của kho tàng con mắt chánh pháp, diệu tâm niết bàn, vô tướng thực tướng, truyền ngoài ngôn giáo đến Trung Hoa truyền cho Thần Quang làm nhị tổ; Nhị tổ Thần Quang lại truyền cho Tam Tổ, cứ thế truyền đến Tứ Tổ, Ngũ Tổ, cho đến Lục Tổ; về sau “hoa khai ngũ diệp” (một hoa nở ra năm cánh—chỉ cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma là người Ấn Độ và năm vị Tổ kế là người Trung Hoa) mới chia ra thành năm tông phái lớn là “tông Lâm Tế, tông Tào Động, tông Quy Ngưỡng, tông Vân Môn và tông Pháp Nhãn” và cho đến hôm nay thì Phật pháp đã truyền đến phương Tây. Đây là ý nghĩa tổng quát của “sự truyền thừa giáo pháp từ Đức Phật đến chư Tổ”. Vừa rồi giảng đến chữ “đầu đà”, thường người ở Trung Hoa gọi đầu đà là “đầu đà tăng”; vậy thì chữ “đầu đà tăng” phải giải thích như thế nào? Không chỉ nói người bình thường, mà một số người có học vấn, nhưng chưa nghiên cứu qua Phật học cũng đều không hiểu được ý nghĩa này, chỉ biết gọi là “đầu đà tăng”. Đầu đà là tiếng Phạn, dịch là “đẩu tẩu” (làm cho phấn chấn); “đẩu tẩu tinh thần” chính là một ngày bảy thời tĩnh tọa của chúng ta, chính là điều tôi thường nói “làm cho tinh thần phấn chấn lên”. Câu “làm cho tinh thần phấn chấn lên” là muốn quý vị không sợ khổ, sợ khó, càng khổ càng tiến tới, càng khổ càng phải làm, giống như Tổ sư Ca Diếp vậy. Qúy vị xem, Tổ sư Ca Diếp đã lớn tuổi như thế mà vẫn thực hành hạnh đầu đà, làm cho tinh thần phấn chấn lên. Ở đây chia hạnh đầu đà ra làm 12 loại: Thứ nhất, Trước bá nạp y, chính là nói y phục dùng để mặc. Mặc y phục gì? Mặc “nạp y” (y phục vá); trên y phục, trái vá một miếng, phải vá một miếng, vá víu không biết bao nhiêu mà kể, y phục như vậy gọi là “y bá nạp” hay “y phấn tảo”. Tại sao gọi là “y phấn tảo”? Loại y phục này được tạo thành như thế nào? Đây là y phục mà người bình thường không chịu mặc, vứt nó vào bãi rác; thế là người xuất gia liền đến bãi rác, nhặt lấy những tấm vải rách bị quẳng vào đây, giặt sạch chúng, rồi nối lại với nhau làm thành y phục để mặc, đây gọi là “y phấn tảo”. Mặc loại y phục này có lợi ích gì? Nếu nói về mặt lợi tích cực thì có rất nhiều; nếu nói về mặt lợi tiêu cực cũng không ít. Tại sao nói có rất nhiều mặt lợi tích cực? Qúy vị mặc vào y phục này, bản thân đã không không khởi tâm tham, lại còn diệt trừ được tâm tham của chính mình và cũng sẽ không nói: “Qúy vị xem, tôi mặc bộ y phục này đẹp quá! Đáng giá nhất đây!” không khởi lên tâm kiêu ngạo, chế ngự được tâm tham của mình. Người xung quanh vừa nhìn thấy quý vị: “Ô! Vị tu hành này, mặc y phục rách rưới như thế, không mặc y phục đẹp! đây mới thật sự là người tu đạo, chúng ta nên học theo vị ấy!” Vậy là trừ diệt được tâm tham cho người; vì sức ảnh hưởng này của quý vị cũng sẽ khiến cho các Tỳ kheo khác đều phát khởi tâm đạo. Cho nên đã dừng được tâm tham của mình, lại còn dứt được tâm tham cho người, đây há chẳng phải là lợi ích sao? Quý vị nói xem lợi ích này có hạn lượng không? Cho nên nói lợi ích này rất lớn! Lại nói đến mặt lợi tiêu cực cũng không ít, mặc lợi tiêu cực đó là gì? Quý vị mặc y phục rách này, bọn thổ phỉ cướp bóc chắc chắn sẽ không cướp đồ của quý vị. Như năm 1948, khi tôi còn ở tại chùa Nam Hoa thì có cướp đến cướp chùa, bọn chúng phá toang cửa tiến vào, bảo tôi đưa chi phiếu ra. Tôi bảo bọn chúng: “Các vị xem tôi mặc đồ như thế này có giống người có tiền không?” Bọn họ nhìn lại y phục tôi mặc—y phục tôi mặc lúc đó không lành lặn giống như y phục tôi mặc bây giờ. Y phục lúc đó chính là bộ đồ tôi mặc khi còn đang thủ hiếu bên cạnh mộ mẹ; sau khi thủ hiếu xong, tôi mặc mãi bộ đồ ấy để kỷ niệm mẹ tôi. Vì bộ đồ đó rách tả tơi, cho nên khi tôi còn ở Đông Bắc, những người đệ tử quy y với tôi đều muốn lắp thêm vào cho tôi một miếng vá vuông lớn; ai quy y với tôi cũng sẽ vá cho tôi một miếng, cho nên bộ đồ vá víu chằng chịt. Ở chùa Nam Hoa, bọn cướp nhìn thấy tôi mặc chính là bộ đồ vá đó, tôi bảo họ vào phòng: “Trong phòng tôi có bảo vật, các vị hãy vào đó mà lấy!” Nhưng bọn họ lại không vào. Lúc đó, trong phòng tôi quả thật có 2 “bảo vật”—bảo vật sống đấy! Đó là 2 chú Sa di, lúc ấy hãy còn nhỏ. Do mặc đồ như vậy, cho nên bọ cướp sẽ không lấy đồ của quý vị. Lại còn, những người có tiền sẽ tránh quý vị rất xa; lại còn một điểm rất quan trọng là những cô gái cũng sẽ tránh quý vị rất xa. Quý vị tu đạo, luôn mặc bộ đồ như thế, sẽ có một mùi hương “rất thơm”; nhưng “mùi thơm” đó sẽ làm cho những cô gái bình thường cho là mùi thối, cho nên không thể không tránh xa quý vị một chút. Cho nên mặc y phấn tảo có rất nhiều lợi ích như vậy, ở đây tôi chỉ đơn cử một số như thế. Thứ hai, đản tam y. Đản chính là “chỉ có”; chỉ có ba y, không có những vật khác. Nên nói “bên mình không có những vật làm chướng ngại, thì bản thân không sanh khởi phiền não”; Tỳ kheo thực hành hạnh đầu đà, chỉ được phép có ba y. Ba y là: (1) Tổ y: là y lớn nhất trong ba y, còn gọi là “Đại y”. tiếng Phạn là “Tăng già lê”, dịch là “y 25 điều” (nhị thập ngũ điều y). 25 điều này, mỗi một điều có 4 ô dài một ô ngắn, tính chung có tất cả là 125 ô, đây là biểu hiện cho hình dáng của những thửa ruộng, cho nên còn gọi là “Phước điền y” (y ruộng phước). Khi đi vào cung vua, hoặc thăng tòa thuyết pháp hay ôm bát đi khất thực đều có thể đắp y Tổ này. (2) Thất y: Y 7 điều, trong mỗi một điều có 2 ô dài một ô ngắn, tổng cộng có 21 ô. Tiếng Phạn là “Uất đa la tăng”, dịch là “Nhập chúng y” (y vào trong chúng). Tại sao gọi là Y vào trong chúng? Tỳ kheo khi lễ bái, tụng kinh, dự trai đàn, nghe thuyết giảng kinh pháp đều phải đắp y này. (3) Ngũ y: Y năm điều, trong mỗi một điều có một ô dài một ô ngắn, tổng cộng có 10 ô. Tiếng Phạn là “An đà hội”, dịch là “Tác vụ y” (Y làm việc). Tác vụ chính là làm việc, chấp lao phục dịch; ở mọi lúc, mọi nơi đều có thể đắp y Ngũ này. Tỳ kheo muốn thực hành hạnh đầu đà chỉ nên có ba y này. Cái gọi là “Tam y bát cụ” (ba y, bình bát, tọa cụ), tấm vải dùng trãi lễ bái trên điện Phật gọi là “cụ”; chén Tỳ kheo dùng ăn cơm gọi là “bát”. Đây là 2 hạnh có liên quan đến vấn đề mặc y phục trong 12 hạnh đầu đà. Ngoài mặc y phục ra, cái quan trọng hơn, không gì quan trọng bằng ăn cơm—cái con người ta xem trọng nhất là mặc đồ và ăn cơm, ăn cơm lại quan trọng hơn mặc đồ. Cho nên có đến 5 loại hạnh đầu đà có liên quan đến vấn đề ăn uống. Thứ ba, Khất thực: chính là ôm bát đi xin cơm, còn gọi là “Thường khất thực”. Là mỗi ngày đến giờ thọ trai, bèn đi xin cơm, chứ không tự mình nấu, nên ăn những thức ăn có sẵn—người ta làm xong, quý vị đến đó để xin. Ở các nước Xiêm La (Thái Lan), Miến Điện, Tích Lan, gia chủ làm cơm xong đều chuẩn bị riêng một bát đặt ở bên cạnh; vị tu sĩ nào đến trước thì sẽ khất thực ở đây, gia chủ quỳ trên đất, đội bát cơm chay lên đầu, sau đó trút vào trong bát của vị tu sĩ, tiếp theo khấu đầu 3 cái, biểu hiện cúng dường Tam bảo. Mỗi một gia đình ở các nước Xiêm La, Miến Điện, Tích Lan đều làm như thế để cúng dường Tam bảo. Thứ tư, Thứ tự khất: là khất thực không được chọn lựa. Giống như trong kinh Lăng Nghiêm nói “ Tức thời Anan, chấp trì ứng khí, ư sở du thành, thứ đệ tuần khất. Tâm trung sơ cầu, tối hậu đàn việt, dĩ vi trai chủ, bất vấn tịnh uế, sát lợi tôn tánh, cập chiên đà la, phương hành đẳng từ, bất trạch vi tiện, phát ý viên thành, nhất thiết chúng sanh, vô lượng công đức.” Anan cầm lấy bình bát, trong lòng nghĩ rằng, ai cúng dường thức ăn cho ta, đó chính là trai chủ tối hậu của ta. Không quan tâm là sạch hay dơ, cũng không để ý là dòng dõi Sát đế lợi nhiều tiền hay giai cấp Chiên đà la nghèo hèn nhất; không hỏi giàu nghèo, không hỏi thí chủ là người có tiền hay không có tiền, cứ như thế khất thực, ban cho tất cả chúng sanh vô lượng công đức. Theo thứ lớp khất thực, tức là không có tâm phân biệt, thực hành bình đẳng, làm cho tất cả chúng sanh đều có cơ hội gieo trồng công đức, không có tâm lựa chọn, đây chính là chí công vô tư vậy. Thứ năm, nhật trung nhất thực. Tức là buổi sáng không ăn, buổi tối cũng không ăn, chỉ ăn một lần vào buổi trưa. Ngày ăn một bữa là rất tốt, đáng tiếc là không dễ thực hiện. vì sao vậy? Người ta lấy ăn làm gốc, tất cả mọi người đều muốn ăn thức ăn, đều có ham muốn được ăn thức ăn, đói một chút liền nghĩ đến ăn. Sáng sớm dậy cũng đói, buổi tối cũng đói; cho nên tốt thì rất tốt (所以好是最好), nhưng không dễ gì làm được. Tốt cái gì? Giảm bớt được rất nhiều phiền toái; quý vị bớt ăn hai buổi sẽ giảm bớt được đại tiện, tiểu tiện vài lần. Công đức của “Ngày ăn một bữa” không thể nào kể hết. Tóm lại, quý vị ăn ít một chút sẽ ít phiền toái một chút; ăn quá nhiều, phiền toái sẽ càng nhiều. Đặc biệt là lúc Tỳ kheo dùng cơm phải có 3 loại niệm và 5 loại quán tưởng. 3 loại niệm này là gì? (1) Nguyện đoạn nhất thiết ác: nguyện đoạn tận tất cả ác. (2) Nguyện tu nhất thiết thiện: nguyện làm tất cả điều lành. (3) Nguyện độ nhất thiết chúng sanh: Nguyện độ tất cả chúng sanh đều được lìa khổ được vui. Năm loại quán tưởng là gì? (1) Kế công đa thiểu lượng bỉ lai xứ. Đầu tiên, phải tính xem thức ăn mình sắp ăn cần phải có bao nhiêu người làm mới có thể làm thành? Giống như hạt gạo này, đem gieo xuống đất, lại phải vun bón, tưới tẩm, sau đó gặt về xay—bây giờ dùng máy, còn trước kia phải dùng cối xay để mài—tuốt vỏ nó ra, rồi nấu thành cơm mới có thể ăn. Quý vị tính thử xem phải trải qua bao nhiêu công đoạn mới có thể trở thành hạt gạo như vầy? Cho nên phải nghĩ đến người làm ra nó. Người Trung Hoa thời xưa có những câu nói như vầy: Cày ruộng giữa ban trưa, đẫm mồ hôi gieo hạt; Ai hay cơm trong bát, hạt hạt thấm gian lao. (Sừ hòa nhật đương ngọ, hãn thích hòa hạ thổ; Thùy tri bàn trung san, lạp lạp giai tân khổ.) Ở Trung Hoa xưa kia đều làm ruộng theo cách đó, dùng bừa cuốc đất; ngay lúc khí trời đang nóng bức, mặt trời đứng bóng. Đẫm mồ hôi gieo hạt, mồ hôi của người làm ruộng này nhỏ xuống đất ruộng giống như nước nhỏ giọt tí tách tí tách. Ai hay cơm trong bát, hạt hạt thấm gian lao, mỗi một hạt cơm đều được làm ra từ trong khổ nhọc. Cho nên chúng ta ở bất kỳ đất nước nào, thuộc bất kỳ dân tộc nào, đối với vật chất được làm ra đều nên tiết kiệm, đều nên quý tiếc, không được tuỳ tiện đạp bỏ những đồ vật còn xài được! nên nghĩ đến nó được tạo ra không phải dễ. Vì sao có những quốc gia trên thế giới hiện nay không có cơm ăn? Vì đồ vật bị lãng phí quá nhiều cho nên không có cơm ăn. Chúng ta là những người tin Phật, đặc biệt phải hết sức cẩn thận, chú ý đối với vấn đề nhân quả, không nên lãng phí bất kỳ vật gì. Những thức ăn thức uống, tiền tài vật chất quý vị có thể dùng được thì dùng, không thể dùng thì cho người khác dùng, không được tùy tiện đạp bỏ. Có câu nói “trong bếp cơm dư thừa, trên đường có người đói”, trong nhà của chúng ta có cơm thừa, trái lại bên ngoài có người bị đói; nên đem cơm thừa cho người không có cơm ăn, không được vứt bỏ. Do vậy khi ăn thức ăn, phải nghĩ đến nó được làm ra không phải dễ. (2) Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Thổn là suy xét, xét nghĩ; xét nghĩ mình có đức hạnh gì mà có thể nhận đồ cúng dường của thí chủ các nơi mang đến? Toàn khuyết là đức hạnh của mình đủ hay không, là toàn hay là khuyết? Nếu như đức hạnh không đủ thì phải nhanh chóng dụng tâm tu đạo. (3) Phòng tâm ly quá tham đẳng vi tông. Phòng tâm là phải phòng bị tâm này của mình; ly quá là phải xa rời những lỗi lầm. Xa rời những lỗi lầm nào? Xa rời 3 loại lỗi lầm “tham, sân, si”. Khi ăn thức ăn không được tham, không được nói thức ăn này ngon, tôi phải ăn nhiều một chút; thức ăn kia dở, tôi không ăn, trong ăn uống phải bình đẳng, không nên phân biệt mùi vị ngon hay dở. (4) Chính sự lương dược vi liệu hình khô. Tỳ kheo khi đang dùng cơm thì phải quán tưởng thế nào? Phải nghĩ thức ăn là vị thuốc: vì sao mình phải ăn thức ăn này? Đây chính là phương thuốc thật sự! Nếu mình không dùng phương thuốc này thì thân thể này của mình sẽ khô héo, sẽ không thể tồn tại được. (5) Vị thành đạo nghiệp, ứng thọ thử thực. Vì sao tôi nên ăn cơm này? Ồ! Vì tôi nghĩ phải dụng công tu đạo, nếu tôi không ăn cơm thì đứng cũng không đứng nổi, ngồi cũng không ngồi vững—có thể ngủ, nhưng đó không phải là cách thức tu đạo; do vì tôi muốn tu đạo cho nên không thể không ăn cơm này. Tỳ kheo khi dùng cơm đều nên có 3 niệm, 5 quán này. Đây là hạnh “ngày ăn một bữa”, cách này có lợi ích vô cùng! Thứ sáu, Tiết lượng thực. Tiết là “có tiết chế”; lượng là “có số lượng”. Ăn thức ăn không nên nói thức ăn này ngon, dùng xong lại muốn dùng nữa, đó là không có tiết độ. Bất luận là món ăn ngon như thế nào, nếu như mỗi ngày tôi ăn 2 chén cơm thì tôi sẽ nhất định ăn 2 chén; không thể nói thức ăn này không ngon nên chỉ ăn 1 chén, còn thức ăn ngon thì ăn 3 chén, như thế bản thân sẽ không có sự tiết độ. Mỗi một người xuất gia hành hạnh đầu đà, vốn ăn 2 chén có thể no, nhưng bây giờ tôi chỉ ăn 1,5 chén, ăn ít một chút, đây gọi là “ăn uống có tiết độ”. Thứ bảy, Qúa ngọ bất ẩm tương. Qua sau giờ ngọ không uống nước cơm—ngay cả sữa bò, nước trái cây cũng đều không uống. Nhưng điều này quá khó! Việc làm này là không phải dễ, trà cũng được tính là một loại thức uống (tương), nên ngay cả trà cũng không thể uống. Đây là năm loại hạnh đầu đà có liên quan đến vấn đề ăn uống. Khi Phật còn tại thế, Tôn giả Ca Diếp là “Đầu đà đệ nhất”; đầu đà có 12 loại, chúng ta đã giảng xong 7 loại. Còn lại 5 loại thuộc về vấn đề ở. Thứ tám, Trụ a lan nhã. A lan nhã là tiếng Phạn, dịch là “tịch tĩnh xứ” (nơi vắng lặng ); tịch tĩnh chính là nơi không có sự ồn ào, không có bất kỳ âm thanh nào. Nơi này là ở trong rừng núi, cách thành thị rất xa; gọi đây là “A lan nhã”, còn gọi là “A luyện nhã”, chính là một nơi tu đạo tốt nhất cho hành giả. Ở nơi tịch tĩnh này phải có một địa điểm nhất định. Thứ chín, Thọ hạ túc. Vì sao lại phải ở dưới gốc cây? Vì người tu đạo lấy trời đất làm lều, lấy bốn biển làm nhà, đi đến đâu cũng đều có thể ở. Ở bên dưới cây như vậy, đã có thể tránh mưa, lại còn rất mát, cho nên có thể ở dưới gốc cây. Nhưng dưới mỗi gốc cây không thể ở quá 3 ngày, chỉ có thể ở 2 đêm. Vì sao không thể vượt quá 3 ngày? Vì những Tỳ kheo thật sự tu đạo, phẩm hạnh thanh cao sẽ tránh những nơi nào có duyên, tránh để người nhận ra và đến cúng dường mình, cho nên tại mỗi một nơi chỉ ở 2 đêm rồi đi. Nếu như có người nhận ra, muốn đến cúng dường thì vị ấy đã đi rồi. Đây là vì không cầu bất kỳ sự cúng dường hậu hĩ của người nào, cho nên ở dưới gốc cây. Thứ mười, Lộ địa túc. Ở dưới gốc cây, vẫn có lá cây che chắn gió mưa; còn ở ngoài đồng trống, lúc này thật sự là lấy trời đất làm căn phòng lớn cho mình, cuộc sống như thế vô cùng tự tại. Ngủ ngoài đồng trống, vừa có trăng sáng, vừa có sao soi; cho nên nói: “Lúc trăng treo giữa trời, gió lùa qua mặt nước; một làn hương thanh lạ, cảm nhận được mấy ai.” Khi vầng trăng tỏ rạng giữa trời không, cũng là lúc có một làn gió lướt qua mặt nước, cuộc sống của thiên nhiên như vậy, nhưng rất ít ai có thể lãnh hội được điều mầu nhiệm này. Thứ mười một, Trủng gian trụ. Trủng chính là “phần mộ” (mồ mả), nghĩa là cùng ngủ chung với người chết. Ngồi trong nghĩa trang làm bạn với những ma quỷ. Tại sao như vậy? Vì ngồi bên cạnh mộ rất thích hợp cho việc “quán vô thường”—biết đời người là vô thường, bất luận sớm tối mau chậm đều sẽ chết; sau khi chết sẽ trở thành một cái gò mả, thân thể bên trong biến thành một đống xương trắng. Ngồi bên cạnh mộ tu đạo có thể giác ngộ được tất cả đều là vô thường, sẽ không phát khởi vô số tâm tham, vô số tâm sân, vô số tâm si và sẽ không bị dính mắc vào bất kỳ vật gì. Thứ mười hai, Hiếp bất trước tịch. Hiếp là “xương sườn”. Hiếp bất trước tịch (lưng không dính chiếu) chính là “thường ngồi không nằm”, tức nói vị ấy luôn luôn ngồi. Ở Ấn Độ có một vị tên Hiếp Tôn Giả, suốt đời vị ấy không bao giờ nằm mà chỉ ngồi. thường ngồi không nằm cũng là một trong những hạnh đầu đà. Vì người ta nằm sẽ dễ ngủ, mà đã ngủ thì lại càng muốn ngủ, không chịu dậy dụng công tu hành. Thường ngồi không nằm, vị ấy ngồi ngủ một giấc thì tỉnh lại, sẽ rất dễ dụng công tu hành, tham thiền tĩnh tọa. Cho nên cách thức “thường ngồi không nằm” này rất có lợi cho người tu hành. Đối với 12 hạnh đầu đà, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đều có thể hành trì. Có người thực hành hạnh đầu đà, chỉ hành một hạnh; hoặc là chỉ mặc “y phấn tảo”, hoặc là “chỉ có 3 y”, hoặc chỉ thực hành “thường đi khất thực”, hoặc “khất thực theo thứ lớp”, hay chỉ tu “ngày ăn một bữa”, hoặc chỉ tu “tiết độ trong ăn uống”, hoặc “ở tại gò mả”, hoặc “thường ngồi không nằm”. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp tuy tuổi đã rất lớn, nhưng đều có thể hành trì như pháp 12 hạnh đầu đà, cho nên Tôn giả mới được tôn xưng là “Đầu đà đệ nhất”.
|
|
|
Post by tk on Aug 21, 2012 18:04:19 GMT -5
Kinh Phân biệt cúng dường (KINH SỐ 142 Dakkhinavibhangasuttam - Discourse On The Analysis Of Offerings) I .Giải thích từ ngữ :(Các từ ngữ quen thuộc) II. Nội dung kinh Phân biệt cúng dường 1. Lúc Thế Tôn đang trú ở Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), giữa dòng họ Sakka, bà Mahàpajapati Gotamì, Ni trưởng của Giáo hội Ni, có lẽ bấy giờ bà đã đắc Thánh quả Dự lưu nhưng chưa xuất gia vì bà còn có máy dệt và dệt y dâng Thế Tôn (vốn trong Ni chúng không làm công việc này), đến yết kiến Thế Tôn và dâng cúng đôi y vàng vốn tự tay dệt và cắt may. Thế Tôn dạy bà nên cúng dường Tăng chúng. Bà Gotamì ba lần thỉnh cầu, Thế Tôn ba lần dạy nên cúng dường Tăng chúng thì Thế Tôn sẽ được cung kính và cả Tăng chúng cũng vậy. Thấy thế, Tôn giả Ànanda bạch trình Thế Tôn về công ơn dưỡng dục Thế Tôn của bà và cầu xin Thế Tôn hoan hỷ nạp thọ. Nhân đây, Thế Tôn (yên lặng từ chối) mới giảng bài kinh Phân Biệt Cúng Dường. 2. Có mười bốn loại cúng dường phân biệt theo hạng người nhận : 1) Như Lai; 2) Bích Chi Phật; 3) A la hán quả; 4) A la hán đạo; 5) A na hàm quả; 6) A na hàm đạo; 7) Tư đà hàm quả; 8) Tư đà hàm đạo; 9) Tu đà hoàn quả; 10) Tu đà hoàn đạo; 11) Các vị đã ly tham các dục. (Sơ định —> Tứ định); 12) Các vị trì giới, trì luật; 13) Các phàm phu theo ác giới; 14) Các loài bàng sanh. Công đức bố thí cho hàng thứ 14 nếu được trăm phần thì bố thí cúng dường hàng 13 được 1.000 phần, hàng 12 được 100.000 phần,...; cúng dường hàng thứ 10 đã có công đức vô lượng, huống nữa... 3. Thế Tôn dạy tiếp: “cúng dường cá nhân, phước đức không bằng cúng dường tập thể”. Có bảy loại cúng dường Tăng chúng (phước đức nhiều kể từ hạng 1 đến hạng thứ 7): 1) Tăng chúng và Ni chúng (đủ mặt) dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn. 2) Tăng chúng và Ni chúng sau khi Thế Tôn nhập diệt. 3) Cúng dường chúng Tỷ kheo. 4) Cúng dường chúng Tỷ kheo ni. 5) Cúng dường một nhóm Tăng (chọn lựa) và Ni (chọn lựa). 6) Cúng dường chỉ một nhóm Tăng (chọn lựa). 7) Cúng dường chỉ một nhóm Ni (chọn lựa). Tại đây, Thế Tôn đã dự đoán trong tương lai sẽ có các tu sĩ ác giới, những người chỉ có “cà sa và đầu tròn”... III. BÀN THÊM 1. Về sự kiện Thế Tôn khuyên bà Gotamì nên khởi tâm cúng dường Tăng chúng, bấy giờ Ni chúng chưa được thành lập, để được phước báo nhiều hơn. Đây là điểm vừa đúng pháp cúng dường, vừa rất tế nhị: - Bà Gotamì là mẹ, nếu chỉ nghĩ đến một mình Thế Tôn thì các Tỷ kheo trẻ và ngoại đạo sẽ khởi tưởng không tốt. - Nếu nhận sự cúng dường ấy, bà Gotamì sẽ mất dịp cúng dường Tăng chúng để được phước báo lớn hơn, ý nghĩa hơn và kết duyên lành để về sau có thể cầu xin xuất gia. - Thế Tôn làm gương để các Tăng trẻ khác khỏi bị ràng buộc tình cảm gia đình về sau (“Cát ái từ sở thân”). - Nhân dịp bà Gotamì cúng dường, Thế Tôn từ chối để dạy pháp cúng dường hướng về tập thể Tăng già sẽ đem lại nhiều lợi ích, nhiều cơ hội cho chúng Tăng và cơ hội để phát huy Tăng già, phát huy Chánh pháp. 2. Theo thứ tự phước báo cúng dường, ta có thể tóm tắt trong mấy điểm chính: - Ai nghĩ và phục vụ đạo pháp (Tăng già hay Tăng và Ni bộ) thì phước báo lớn nhất. - Cúng dường Thế Tôn, Đấng Toàn giác là có phước báo lớn nhất: ở đây đề cao mục tiêu giải thoát tối hậu. - Cúng dường các Thánh Vô học và Hữu học là có phước đức bất khả tư nghì: ở đây gián tiếp tán thán Tuệ uẩn là công đức vô lượng (như về sau các kinh Đại thừa ca ngợi bố thí pháp (Tuệ) là tối thượng). - Cúng dường các vị ly dục là tán thán Định uẩn. - Cúng dường các vị trì giới là tán thán, đề cao giá trị của Giới uẩn. - Sau đó mới đến công đức cúng dường, bố thí những người phàm phu. Sau hết là các hữu tình nặng nghiệp khác. 3. Cúng dường thanh tịnh: - Thanh tịnh của người cho. - Thanh tịnh của người nhận. - Không thanh tịnh cả người cho và nhận (cả hai đều ác giới). - Thanh tịnh cả hai (tịnh giới). Về các chi tiết về phước báo cúng dường, nên xem các câu chuyện chư Thiên (Vimànavatthu), Tiểu Bộ kinh... HT.Thích Chơn Thiện
|
|
|
Post by tk on Aug 21, 2012 18:05:44 GMT -5
Phân biệt về nghiệp A. Kinh PHÂN BIỆT NHỎ VỀ NGHIỆP
(Kinh số 135 - Cùlakammavibhangasuttam -Discourse On The Lesser Analysis Of Deeds) I . GIẢI THÍCH CÁC TỪ NGỮ (Các từ ngữ quen thuộc) II. NỘI DUNG KINH 135 1. Lúc Thế Tôn trú ở tịnh xá Cấp Cô Độc, Thắng Lâm, thành Xá Vệ (Sàvatthì) có một thanh niên tên là Sabha Todeyyaputta đến hầu Đức Thế Tôn và bạch hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, duyên gì giữa loài người, cùng là con người lại có người liệt, người ưu?". Thế Tôn dạy: "Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu". 2. Thế Tôn đã cắt nghĩa rộng rãi bằng cách nói lên một số nghiệp phổ biến đưa đến các sai khác giữa loài người như sau: 2.1. Người thường sát sinh, tay đẫm máu, chuyên tâm sát hại, đả thương... các loài hữu tình chúng sinh, sau khi chết sẽ sinh về đọa xứ, bàng sinh, địa ngục; nếu người đó được sinh làm người sẽ là người yểu mệnh. Ngược lại, người từ bỏ sát sinh... thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh và loài hữu tình, thì sau khi chết sẽ thác sinh về thiện thú, thiên giới ở đời. Nếu sinh lại làm người..., người ấy sẽ được trường thọ. 2.2. Với người có tính nao hại..., sau khi chết sẽ thác sinh về ác thú, đọa xứ, địa ngục...; nếu sinh lại làm người thì sẽ là người nhiều bệnh hoạn. Ngược lại, người sống không gây não hại..., sau khi chết sẽ thác sinh về thiện thú, thiên giới; nếu sinh lại làm người thì sẽ ít bệnh hoạn. 2.3. Nếu là người nhiều phẫn nộ, phật ý... thì sau khi chết sẽ thác vào... cõi dữ; nếu sinh lại làm người thì sẽ xấu sắc (xấu tướng). Ngược lại, người không phẫn nộ... thì sau khi chết sẽ thác sinh vào thiện thú; nếu sinh lại làm người, sẽ là người có sắc đẹp. 2.4. Nếu người tật đố, thì sau khi chết sẽ thác sinh vào cõi dữ; nếu sinh lại làm người sẽ là người có quyền thế nhỏ. Ngược lại, người không có tính tật đố, sau khi chết sẽ thác sinh vào cõi thiện thú; nếu sinh lại làm người, sẽ là người có quyền thế lớn. 2.5. Nếu là người ngạo nghễ, kiêu mạn..., sau khi chết sẽ thác sinh vào cõi dữ; nếu sinh lại làm người sẽ là người thuộc gia đình hạ liệt. Ngược lại, nếu người không kiêu căng ngã mạn, sau khi chết sẽ thác sinh vào thiện thú; nếu sinh lại làm người sẽ thuộc gia đình cao quý. 2.6. Nếu là người không bố thí, cúng dường Sa môn, sau khi chết sẽ sinh vào cõi dữ; nếu sinh lại làm người sẽ có tài sản nhỏ. Ngược lại, người chuyên bố thí cúng dường Sa môn thì sau khi chết sẽ sinh vào thiện thú; nếu sinh lại làm người sẽ có nhiều tài sản. 2.7. Nếu là người không biết đến các tu sĩ để học hỏi Phật pháp, học hỏi các điều thiện, phân biệt các điều ác..., thì sau khi chết sẽ thác sinh vào cõi dữ; nếu sinh lại làm người thì sẽ là người trí tuệ yếu kém. Ngược lại, người biết tìm đến các tu sĩ để học hỏi Phật pháp, sau khi chết sẽ thác sinh vào thiện thú...; nếu sinh lại làm người, sẽ là người có đầy đủ trí tuệ. Thế Tôn chỉ nêu lên một số trường hợp điển hình, nên kinh này được gọi la Phân Biệt Nhỏ Về Nghiệp. III. BÀN THÊM 1. Theo giáo lý Phật giáo, sự thật mà Thế Tôn đã chứng ngộ dưới cội bồ đề, đắc Túc mệnh minh, Thiên nhãn minh, và Lậu tận minh, là Ngài đã thấy rõ nghiệp nhân và nghiệp quả của vô lượng kiếp của tự nghiệp, và thấy rõ chúng sinh làm những nghiệp gì sẽ thọ báo như thế nào. Do chứng nghiệm sự thật đó, Thế Tôn dạy kinh Phân Biệt Nhỏ về nghiệp nêu trên. 2. Sự phân biệt về nghiệp được giới thiệu trên chỉ là nét khái quát, đại cương. Trên thực tế, mỗi người tạo nên nhiều nghiệp ác, nhiều nghiệp thiện, hoặc nhiều nghiệp thiện, ác xen kẽ và người tạo nghiệp lại có cấp độ chánh kiến, tà kiến khác nhau, cận tử nghiệp khác nhau nữa, nên sự phân biệt chi li về nghiệp của các chúng sinh trở nên tinh tế và phức tạp hơn nhiều. Điều này sẽ được đề cập tiếp ở kinh số 136. B. Kinh PHÂN BIỆT LỚN VỀ NGHIỆP (Kinh số 136 - Mahà Kamma-vibhangasuttam - Discoure On The Greater Analysis Of Deeds) I. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ - Các từ ngữ quen thuộc. - Có một đoạn cuối kinh, người đọc cần nghiên cứu kỹ: uNguyên bản Pàli: "Iti kho, Ànanda, atthi kammam abhabbam abhabba-bhàsam; atthi kammam abhabbam bhabbà-bhàsam; atthi kammam bhabbaĩ c’eva bhabbàbhàsanca; atthi kammam bhabbam abhabbà-bhàsan ti". uAnh ngữ: "So, Ànanda, there is the deed that is inoperative, apparently inoperative; there is the deed that is inoperative, apparently operative; there is the deed that is both operative and apparently operative; there is the deed that is operative, apparently inoperative". uViệt dịch, Đại tạng kinh VN, Trung Bộ III, 1992, tr.498: "Như vậy, này Ànanda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu; có nghiệp vô hữu tợ hữu; có nghiệp hữu tợ hữu; có nghiệp hữu tợ vô hữu". uĐể dễ nhận ý nghĩa, người biên soạn dịch là: "Như vậy, này A Nan, có nghiệp không có tác dụng biểu hiện không có tác dụng; có nghiệp không có tác dụng biểu hiện có tác dụng; có nghiệp có tác dụng (hiệu quả) biểu hiện có tác dụng; có nghiệp có tác dụng biểu hiện không có tác dụng". II. NỘI DUNG KINH PHÂN BIỆT LỚN VỀ NGHIỆP 1. Lúc Thế Tôn đang trú ở tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana), thành Vương Xá (Ràjagaha), du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi Tỷ kheo Samiddhi, mới xuất gia ba năm, rằng: "Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm giác gì ?". Tỷ kheo Samiddhi đã lúng túng trả lời không đúng Chánh pháp. Tôn giả Ànanda đã dẫn Tỷ kheo Samiddhi đi yết kiến Thế Tôn để được chỉ dạy. 2. Thế Tôn quở Samiddhi là nói lời tà kiến, Ngài dạy về sự phân biệt lớn vê nghiệp như sau: 2.1. "Nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đi đến lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác lạc thọ; nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ; nếu một ai dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất khổ bất lạc". 2.2. Thế Tôn thuyết về sự phân biêt lớn về nghiệp: - Có người cần mẫn tu tập được thiên nhãn thanh tịnh, thấy một số người hành mười ác nghiệp bị sinh vào ác thú, cõi dữ, đọa xứ, địa ngục và tuyên bố: “Chắc chắn mọi người hành mười ác nghiệp, sau khi chết đều bị đọa vào ác thú, khổ xứ, địa ngục... ; chỉ như vậy là đúng, khác như vậy là tà kiến. Ị Thế Tôn không chấp nhận cái thấy một chiều này. - Có người cần mẫn tu tập được thiên nhãn thanh tịnh, thấy có một số người hành mười ác nghiệp, sau khi chết lại được sinh vào thiện thú, thiện giới..., nên chủ trương: "Thực sự không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh, và cho rằng tất cả những người làm mười ác hạnh, sau khi chết đều sinh về thiện thú, thiên giới... Chỉ như vậy là đúng, ngoài ra là hư vọng". Ị Thế Tôn không chấp nhận quan điểm một chiều này. 3. Phân biệt lớn về nghiệp: 3.1. Có một số người cần mẫn tu tập được thiên nhãn thanh tịnh, thấy một số người hành mười thiện nghiệp, sau khi chết được sinh về thiện thú, thiên giới.. ., nên chủ trương: "Chắc chắn tất cả mọi người hành mười thiện nghiệp, sau khi chết đều sinh về thiện thú, thiên giới... chỉ như vậy là đúng, ngoài ra là hư vọng". Ị Thế Tôn không chấp nhận quan điểm một chiều này. 3.2. Có một số người cần mẫn tu tập được thiên nhãn thanh tịnh thấy có một số người hành mười thiện nghiệp, sau khi chết bị sinh vào khổ xứ, ác thú, địa ngục... mà chủ trương rằng: “Thực sự không có những thiện nghiệp, không có quả báo của các thiện hạnh. Chỉ như vậy là đúng, ngoài ra là hư vọng”. Ị Thế Tôn không chấp nhận quan điểm một chiều này. 4. Nếu nhờ thiên nhãn thanh tịnh thấy các sự thật về Nghiệp rõ hơn và đúng pháp, lần lượt tuyên bố rằng: 4.1, "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo của ác nghiệp”. Ị Thế Tôn chấp nhận lời tuyên bố này. 4.2. “Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo của thiện nghiệp”. Ị Thế Tôn chấp nhận lời tuyên bố này. Thế Tôn dạy tiếp các trường hợp như thực dưới đây: Có người sinh thời hành mười ác nghiệp, nhưng nhờ có thiện nghiệp làm từ đời trước khiến khởi lên lạc thọ vào cuối đời (về sau), hay trong lúc mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt; sau khi chết người ấy được sinh về thiện thú, thiên giới... 4.3. Có người sinh thời làm mười thiện nghiệp, nhưng do vì có ác nghiệp làm từ đời trước khiến khởi lên cảm khổ thọ vào cuối đời (về sau), hay trong lúc mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt; sau khi chết người ấy bị sinh về khổ xứ, đọa xứ, địa ngục... 5. Thế Tôn kết luận: "Như vậy, này A Nan, có nghiệp không có tác dụng biểu hiện không có tác dụng; có nghiệp không có tác dụng biểu hiện có tác dụng; có nghiệp có tác dụng biểu hiện có tác dụng; có nghiệp có tác dụng biểu hiện không có tác dụng". III. BÀN THÊM 1. Về nghiệp, chỉ có những vị chứng đắc Tam minh mới thấy rõ các ngõ ngách vận hành của nó. Tư duy “logic” dựa vào kinh nghiệm thường nghiệm không thể đặt chân vào thực tại của nghiệp. Thế Tôn đã dạy có bốn đối tượng mà tư duy trở nên bất lực trong nỗ lực tìm hiểu; nếu cứ cố tìm hiểu thì có thể bị vỡ tim, hay xuất huyết não; chỉ có Phật trí, Phật nhãn mới thấy đựơc, đó là: - Tâm chư Phật. - Tâm của pháp giới. - Cảnh giới định của các thiền giả. - Và quả dị thục của nghiệp. 2. Do vậy, chỉ có Thế Tôn mới dạy kinh “Phân Biệt Lớn Về Nghiệp” như bản kinh 136 trình bày. Tại đây, có một số ác nghiệp, thiện nghiệp được làm từ kiếp trước, hay từ nhiều kiếp trước hiện hành rất muộn trong đời này: là ác nghiệp thì khiến tâm hiện tại khởi lên cảm thọ khổ; là thiện nghiệp thì khiến tâm hiện tại khởi lên cảm thọ lạc. Do cảm thọ khổ, lạc đột khởi này trái với loại nghiệp mà người thọ cảm đang tạo tác trong hiện tại khiến người đời nghi ngờ về sự thật nhân quả, nghiệp báo, khởi lên tà kiến. Đặc biệt là cảm thọ khổ, lạc khởi trước lúc lâm chung, hay môt tà kiến, chánh kiến khởi lên trước lúc lâm chung tạo nên một “cận tử nghiệp” quyết định cảnh giới đầu thai (thác sinh). “Cận tử nghiệp” trong lý thuyết vế nghiệp giữ vai trò quyết định cảnh giới thác sinh cho kiếp sống tiêp nối. 3. Với lý thuyết về nghiệp của Phật giáo, bất cứ một hành động nào của thân, khẩu, ý được tạo thành nghiệp (kamma) (nghiệp nhân) là do tác ý (manàsikara), do tư tâm sở (cetanà) tạo tác; nếu tác ý dục lạc, sân hận, tàn hại, si mê thì hình thành nghiệp nhân ác; nếu tác ý vô dục, vô sân, vô hại thì hình thành nghiệp nhân thiện. (Ghi chú: đối với các hành động của thân, khẩu mà không có tác ý, thì chỉ gọi là hành động suông (hay actions) mà không gọi là nghiệp (kamma = volitional actions)). 4. Như kinh số 135, Phân Biệt Nhỏ Về Nghiệp, ghi: “Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp la điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu”. Với người đã thấy rõ “Ngũ thủ uẩn” là vô ngã, “ không phải là ta, là của ta, là tự ngã của ta”, đã đoạn tận chấp thủ, đoạn tận tham ái, thì nghiêp không được thành lập với người ấy: với người ấy, nghiệp đã được đoạn tận: người ấy đã tự giải thoát khỏi sự ràng buộc của nghiệp. Nói tóm, nghiệp chỉ đề cập đến các hữu lậu tâm, chỉ vận hành trong thế giới hữu vi, hữu tác. 5. Với những ai có trí tuệ lớn thì có thể cắt đứt tức thì dòng nghiệp: đối với những người này, có người trừ hết luôn dư báo, có người còn nhận chịu dư báo (nhân quả ngoại giới hay khách quan). Điều này xảy ra hệt như con chim trên đường bay bị trúng tên, rơi ngay xuống đất, và chấm dứt đường bay. HT Thích Chơn Thiện
|
|
|
Post by tk on Aug 21, 2012 18:07:44 GMT -5
Liên hệ quá nhiều với cư sĩ
Một thời, Tôn giả Ananda trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda sống quá bận rộn bởi nhiều liên hệ với cư sĩ. Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy thương xót Tôn giả Ananda, muốn hạnh, muốn cảnh giác, liền đi đến Tôn giả Ananda. Sau khi đi đến, vị ấy nói lên bài kệ với Tôn giả Ananda: Ông đã quyết lựa chọn/Đời sống dưới gốc cây/Tâm ông quyết nhập một/Với mục đích Niết bàn/Cù-đàm, hãy thiền tư/ Và sống chớ phóng dật/Đối với ông, ích gì/Tạp thoại vô vị ấy. Tôn giả Ananda được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động. (ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 9, phần Ananda, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.438)
LỜI BÀN: Đành rằng mối liên hệ giữa bốn chúng đệ tử Phật vốn hòa hợp như nước với sữa, luôn khắng khít và không thể tách rời. Thế nhưng, quá bận rộn bởi các liên hệ với cư sĩ chưa phải là điều hay đối với người xuất gia, vì duyên trần sẽ quấy đảo an tịnh nội tâm, làm chướng ngại thiền định. Như Tôn giả Ananda, thị giả của Thế Tôn, bẩm tính thông minh, có trí nhớ phi thường lại rất dễ thương và hòa ái nên được hàng cư sĩ đặc biệt mến mộ. Và do đặc điểm của công việc thị giả cho Đức Phật nên phải xử lý vô số công việc đồng thời phải tiếp xúc, gặp gỡ rất nhiều hạng người. Từ đó, Tôn giả Ananda còn rất ít thời gian cho thiền định nhằm thanh lọc và thăng hoa tâm.
Vì thế, một vị Trời ở trong trụ xứ của Tôn giả Ananda đã trợ duyên, cảnh tỉnh với Tôn giả rằng sự bận rộn ấy tuy là Phật sự (có phước báo) nhưng đối với mục tiêu giải thoát Niết bàn thì chỉ là “phóng dật, tạp thoại vô vị”. Đây cũng là một bài học cho chúng ta suy gẫm, nhằm tránh bỏ gốc để chạy theo ngọn, nhận ra những việc cốt tủy mà hàng xuất gia cần phải làm. Đồng thời, điều này giải thích lý do tại sao mỗi năm, vào mùa kiết hạ chư Tăng phải tạm gác tất cả Phật sự để nhập chúng thực hiện phận sự an cư.
Đối với người xuất gia, hai mục tiêu tự lợi và lợi tha cần phải thực hiện song hành. Tuy vậy, khi nội tâm chưa thực sự vững chãi trước những thách thức và cám dỗ của ngoại cảnh thì tự lợi, tức sự tu học cá nhân cần được ưu tiên hơn. Khi nội tâm chưa thực sự an tịnh và vững vàng mà chuyên lo lợi tha và quên mất phần tự lợi thì có khi mất cả chì lẫn chài. Tôn giả Ananda thông tuệ đến thế mà đến khi Thế Tôn nhập Niết bàn vẫn chưa chứng đắc Thánh quả A la hán là điều đáng suy ngẫm cho tất cả chúng ta.
QUẢNG TÁNH
Trí tuệ là tối thượng
Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Kosala, tại ngôi làng tên Sàlà. Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, ví như trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thu được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ.
Và thế nào là các pháp thuộc phần giác ngộ? Này các Tỷ kheo, đó là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn là pháp thuộc phần giác ngộ, vì đưa đến giác ngộ.
Ví như, này các Tỷ kheo, trong loài bàng sanh, sư tử, vua các loài thú được xem là tôi thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bô V, chương 4, phẩm 6, phần Sàlà, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.354)
LỜI BÀN: Giáo lý ngũ căn (tín, tấn, niệm, định và tuệ căn) là nền tảng, căn bản, nguồn gốc cho mọi thiện pháp phát sinh. Nói cách khác, ngũ căn là các pháp thuộc phần giác ngộ, vì đưa đến giác ngộ.
Giác ngộ là mục tiêu của tu tập ngũ căn và toàn bộ giáo lý Phật Đà. Trong nội dung tu tập ngũ căn: Thiết lập niềm tin sâu sắc vào Tam bảo (tín), tinh cần thực hiện và thành tựu tất cả các điều lành trong cuộc sống (tấn), thực tập chánh niệm, đặc biệt là Tứ niệm xứ (niệm), chứng đắc và an trú Tứ thiền (định), đầy đủ trí tuệ về sự sanh diệt của các pháp, rõ biết như thật về Tứ Thánh đế (tuệ), tất cả không ngoài mục đích hướng đến giác ngộ.
Theo Thế Tôn, trong các pháp thuộc phần giác ngộ ấy, tuệ căn là tối thượng. Cũng như trong Bát Thánh đạo, chánh kiến dẫn đầu. Đành rằng, các pháp khác có tác dụng hỗ trợ rất tích cực cho tuệ giác phát khơi nhưng chỉ có tuệ giác mới giải quyết trọn vẹn vấn đề phiền não, sanh tử. Vì lẽ ấy, phương châm tu học của người con Phật luôn là "duy tuệ thị nghiệp”.
Do vậy, Thiền quán, cơ sở của tuệ giác, là nội dung thực tập cần yếu nhất, không thể thiếu trong nội dung tu tập của người con Phật. Thiền quán, thực chất là sự tu tập tuệ căn (ngũ căn), chánh kiến (Bát Thánh đạo), tuệ (Tam vô lậu học). Tuệ giác của Thiền quán (phát triển trên nền thiền chỉ-định) sẽ quét sạch mọi tham ái, chấp thủ và vô minh. Thấy biết đúng như thật về bản chất của các pháp là duyên sanh, vô thường, khổ, không, vô ngã chính là tuệ giác. Ngay đây, sự thật về thân, tâm và thế giới hiển bày va hành giả vượt thoát mọi trói buộc của tham sân si, thành tựu giải thoát, giác ngộ.
QUẢNG TÁNH
|
|
|
Post by tk on Aug 21, 2012 18:08:39 GMT -5
Tài sản của người tuSuu TamMột thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, gọi các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, có bảy tài sản này, thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai, gọi là tín tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, trộm cắp… say sưa, gọi là giới tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử có xấu hổ đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là tàm tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử có sợ hãi đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là quý tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu chánh kiến, gọi là văn tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả bỏ, san sẻ vật bố thí, gọi là thí tài. Ở đây, vị Thánh đệ tử có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau, gọi là tuệ tài. Này các Tỷ kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này, được gọi là không nghèo khổ. (ĐTKVN, Tăng Chi Bô III, chương 7, phẩm Tài sản, phần Các tài sản rộng thuyết, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr 280) LỜI BÀN: Nói đến tài sản người ta thường nghĩ đến sự sở hữu nhiều thứ như tiền bạc, nhà cửa, đất đai… Càng có nhiều tài sản thì càng được tiếng giàu có và nhất là cảm giác ổn định, bền vững trong cuộc sống được gia cố vững chắc thêm. Vì thế, làm giàu đúng đắn, lương thiện là tiêu chí chung cho toàn thể nhân loại phấn đấu, hướng đến xây dựng một đời sống hoàn thiện, sung mãn. Tuy vậy, xây dựng tài sản vật chất chỉ là một phần của cuộc sống. Sẽ là một sai sót lớn cho cá nhân và cả xã hội nếu chỉ chú trọng tạo dựng tài sản vật chất mà xem nhẹ hoặc quên mất việc làm giàu, phát triển tài sản tinh thần. Sự mất quân bình trong quá trình phát triển vật chất và tinh thần sẽ tạo ra những khủng hoảng xã hội, nhất là các vấn đề như băng hoại đạo đức, suy đồi nhân cách, những quan niệm sống lệch lạc thiên về hưởng thụ, vong thân vong bản… Đối với người tu thì “xả phú cầu bần” là một trong những điều kiện cần để góp phần tích lũy, thăng hoa gia sản tinh thần. Tài sản tinh thần tuy vô hình nhưng rất đồ sộ và không khó để tạo dựng. Chẳng cần phải cạnh tranh khốc liệt kiểu “thương trường là chiến trường” vẫn kiến tạo được tài sản tinh thần tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ. Tài sản tinh thần là tặng phẩm của tạo hóa vốn dĩ hào phóng ban tặng đầy đủ cho mỗi người. Tìm lại những gì thánh thiện uyên nguyên đã lãng quên và đánh mất là cách làm giàu của người tu. Tài sản này một khi đã tích lũy được sẽ làm cho những ai sở hữu nó thật sự giàu có, hạnh phúc và bền vững trước mọi biến động của thời cuộc. QUẢNG TÁNH *********** Vô minh là cấu uế lớn nhấtMột thời Thế Tôn ở Vesàli, tại Mahavàna, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, có tám cấu uế này. Thế nào là tám? Này các Tỷ kheo, không đọc tụng là cấu uế của Thánh điển; không thức dậy là cấu uế của nhà; biếng nhác là cấu uế của dung sắc; phóng dật là cấu uế của phòng hộ; ác hạnh là cấu uế của đàn bà; xan tham là cấu uế của bố thí; các ác pháp là cấu uế của đời này và đời sau. Nhưng này các Tỷ kheo, còn có cấu uế lớn hơn các cấu uế, vô minh là cấu uế lớn nhất. (ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, chương 8, phẩm Lớn, phần Các cấu uế [lược trích], VNCPHVN ấn hành, 1996, tr 553) LỜI BÀN: Cấu uế tức các phiền não nói chung, là nhân tố chính làm trở ngại sự thăng hoa tâm trong lộ trình tu tập. Tâm của chúng ta có vô vàn cấu uế, mỗi loại có một ảnh hưởng đến một khía cạnh khác nhau trong đời sống, nhất là quá trình thanh lọc tâm. Chung quy cấu uế là dơ bẩn, làm trở ngại, chướng ngại thanh tịnh cần phải chuyển hóa, loại trừ. Không tìm hiểu, nghiên tầm để nhận thức đúng đắn về giáo pháp là một chướng ngại. Giáo pháp giải thoát của Thế Tôn thật quý giá nhưng sự kính pháp phải được thể hiện nơi học tập, tìm ra con đường và thân chứng. Vì thế, Thánh điển sẽ không phát huy tác dụng, thậm chí bị mai một dần nếu chúng ta thỉnh về chỉ để… thờ. Các phương diện khác của đời sống cũng vậy, từ nhà cửa cho đến thân thể sẽ bị biếng nhác, giải đãi làm cho cấu uế. Sự buông thả, phóng túng sẽ trở ngại việc phòng hộ, giữ gìn, nhất là giữ gìn sáu căn không loạn động khi tiếp xúc với trần cảnh. Tâm ích kỷ, ganh tỵ cùng với những hành động xấu ác sẽ làm hoen ố nhân cách con người. Sự xan tham sẽ làm chùn tâm bố thí, những ý niệm tốt đẹp về san sẻ dễ dàng bị lòng tham che lấp, ngăn ngại. Và những điều xấu ác đang xảy ra trong hiện tại chắc chắn sẽ làm cấu bẩn sự tốt đẹp, tươi sáng ở tương lai. Tuy nhiên, cấu uế lớn nhất và chi phối mạnh mẽ nhất đối với mọi lãnh vực hoạt động của con người đó là vô minh. Chính sự si ám, không sáng suốt, thiếu tuệ giác là cội nguồn của tham ái, chấp thủ và cấu uế. Mọi khổ đau của chúng sanh đều bắt nguồn từ vô minh. Vì thế, đoạn trừ vô minh để khai mở tuệ giác là trọng tâm của tu tập. Do vậy, chúng ta không lạ khi phương châm tu học của hàng Phật tử luôn là “Duy tuệ thị nghiệp”. Quảng Tánh
|
|
|
Post by tk on Nov 3, 2012 19:14:52 GMT -5
MỘT SỐ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO THERAVADA S.B. Silanandabhivamsa Nghiệp Đức dịch
Phật giáo không có một số nghi lễ như những tôn giáo khác. Nghi lễ, với việc thực hiện phức tạp và rườm rà, không có vị trí trong Phật giáo. Chúng ta không tìm thấy bất cứ trường hợp nào ở trong kinh điển Pāli, ở đó Đức Phật đặt ra những luật lệ và phương cách thực hiện các nghi lễ dành cho người tại gia. Cá nhân mỗi người thực hiện hay không thực hiện các nghi lễ là tùy ý. Có một điều duy nhất mà mỗi người cần phải cân nhắc, đó là việc thực hành nghi lễ của mình không được trái ngược với giáo pháp của Đức Phật.
Do vậy, ở nơi sự thiếu vắng những luật lệ dành cho việc thực hiện những nghi lễ trong Phật giáo, cá nhân mỗi người không thể không theo những phong tục địa phương nơi người ấy sống, với điều kiện những phong tục đó không xung khắc với những giáo thuyết của Phật giáo.
Nếu những phong tục hay việc thực hiện các nghi lễ không phù hợp với Phật giáo, thì phương cách thực hiện, thay vì chính nghi lễ, nên được điều chỉnh để thích ứng với giáo pháp, hoặc là nên tìm kiếm một cách thức thực hiện nghi lễ khác.
Người ta mong muốn thực hiện một nghi lễ gì đó khi một đứa trẻ chào đời, hay vào dịp người ta làm đám cưới cho con cái, hay lúc có người thân qua đời. Dưới đây là những cách thức thực hành các nghi lễ trong việc nối kết với những trường hợp được đề cập ở trên, và chúng được cải biên để tất cả những Phật tử có thể chấp nhận.
Lễ đặt tên
Một vài ngày sau khi một đứa trẻ chào đời, việc tiếp theo là phải đặt cho đứa trẻ một cái tên, một cái tên dễ nghe và có triển vọng. Để thực hiện điều này, người gia chủ mời một vài vị Tỳ-kheo cùng những người khác đến nhà mình, rồi cúng dường thực phẩm và những vật dụng cần thiết khác cho các Tỳ-kheo. Khi cúng dường thực phẩm xong, vị gia chủ nên đặt đứa trẻ trước các Tỳ-kheo, nhận Năm giới (Panca Sila) từ họ và thỉnh cầu họ tụng một vài bản kinh để hộ trì (paritta) và sau đó đặt tên cho đứa trẻ. Theo đó, các Tỳ-kheo sẽ tụng một vài bài kinh, chẳng hạn như kinh Mangala, kinh Ratana, kinh Metta, mà tất cả những bản kinh này được tìm thấy trong Tiểu tụng (Khuddhaka pātha) thuộc Tiểu bộ, và một vài bản kinh khác mà họ nghĩ là phù hợp để tụng đọc vào dịp đó.
Người đừng đầu nhóm Tỳ-kheo sẽ đặt cho đứa trẻ một cái tên. Trong trường hợp người cha muốn người nào đó khác đặt tên cho đứa trẻ, ông có thể yêu cầu một người mà ông muốn, đặt tên. Ông ta tự do chọn người đặt tên, hoặc nếu ông muốn, chính ông có thể chọn một cái tên cho đứa trẻ. Sau khi tụng đọc một vài bài kinh và việc cúng dường hoàn tất, các Tỳ-kheo sẽ rời nhà vị gia chủ. Sau đó vị gia chủ có thể đãi tiệc cho những người mà ông đã mời đến tham gia vào buổi lễ này.
Ý nghĩa của nghi lễ này là để giúp đứa trẻ lớn lên có một sức khỏe tốt, có một đời sống thịnh đạt và thọ mạng lâu dài. Theo một câu chuyện mang màu sắc huyền thoại, sự ảnh hưởng của việc tụng kinh là để xua đuổi những quỷ thần có thể làm hại hay thậm chí giết hại đứa trẻ. Đã có trường hợp, vào thời Đức Phật, có đứa trẻ nọ được tiên đoán sẽ chết sau bảy ngày khi một ác quỷ được thủ lĩnh của y cho phép ăn thịt đứa trẻ. Cha mẹ đứa trẻ biết được điều này do một vị ẩn sĩ thân quen với gia đình báo cho biết và vị ẩn sĩ khuyên họ nên tìm đến Đức Phật để thỉnh cầu Ngài cứu lấy đứa trẻ. Thế rồi Đức Phật bảo họ dựng một cái rạp trước nhà và mời tám hoặc mười sáu vị Tỳ-kheo đến tụng kinh liên tiếp trong bảy ngày. Họ đã làm đúng theo những gì Đức Phật khuyên dạy để cứu lấy đứa trẻ. Vào ngày thứ bảy, chính Đức Phật đã đến cái rạp đó, và cũng có một hội chúng lớn chư thiên đầy uy lực có mặt ở đó. Ác quỷ không có cơ hội bắt lấy đứa trẻ vì y không dám đến gần hội chúng chư thiên. Nhờ đó đứa trẻ được cứu mạng và đã sống thọ đến 120 tuổi.
Kết hôn
Đối với các Phật tử, kết hôn hoàn toàn là chuyện trần tục, và tôn giáo không có điều gì để làm. Không có Tỳ-kheo nào ở những nước theo Phật giáo Theravāda thực hiện những nghi lễ kết hôn cho Phật tử tại gia. Cũng không có những lễ cưới nào được tổ chức tại chùa chiền hay tịnh xá. Chúng được thực hiện tại nơi nào đó tiện lợi hơn là những nơi vừa nói.
Những nghi lễ dành cho kết hôn có thể khác nhau tùy vào địa phương mà người ta sống. Vì kết hôn là chuyện trần tục ngay ở nơi bản chất của nó, người ta tự do làm theo phong tục địa phương hay đất nước mà ở chừng mực nào đó những giáo thuyết của Đức Phật không bị tổn hại. Do đó, lễ cưới không được phép tổ chức trong nhà thờ Thiên Chúa giáo, hay là do một tín đồ Thiên Chúa giáo đứng ra thực hiện. Nơi chốn tốt nhất để thực hiện một lễ cưới là ngay tại nhà của người đó; còn nếu nhà không đủ lớn cho đám cưới thì nên chọn một hội trường hay một nơi nào thích hợp. Đám cưới có thể được cha mẹ của hai bên chỉ đạo, hay do một người lớn tuổi được hai họ kính trọng, hay người nào mà cả hai họ chọn, đứng ra chủ đạo. Hẳn nhiên, sẽ có liên hoan hay tiệc tùng được tự do tổ chức.
Nhưng nếu người ta muốn có hương vị tôn giáo trong kết hôn, không gì tốt hơn là mời một vài vị Tỳ-kheo, một hoặc hai ngày sau lễ cưới, đến nhà và cúng dường thực phẩm cùng những vật dụng thiết yếu cho họ và thỉnh cầu họ khuyên nhủ cho đôi vợ chồng mới cưới. Các Tỳ-kheo sẽ tụng đọc kinh kệ để hộ trì, và một người trong họ sẽ có lời khuyên nhủ đôi vợ chồng này. Chính Đức Phật cũng đã từng khuyên dạy những cô gái sắp kết hôn.
Một lần, Đức Phật được mời đến nhà một vị tín chủ có tên là Uggaha để thọ thực. Khi Đức Phật thọ thực xong, Uggaha thỉnh cầu Ngài thuyết một bài pháp để khuyên nhủ họ. Thế rồi Đức Phật đã giảng dạy cho họ những hành xử đối với chồng của họ.
Trong bài kinh Singala nổi tiếng thuộc Trường bộ, Đức Phật đã đặt ra những bổn phận cho người chồng và người vợ đối với nhau. Những bổn phận này nên được nói cho những người vừa mới kết hôn để họ có thể sống một đời sống gia đình hạnh phúc.
Bổn phận của một người vợ là:
1. Làm tốt công việc gia đình (hoặc bảo người khác làm) không chậm trễ.
2. Vui vẻ với bà con họ hàng hai bên bằng việc cư xử hòa nhã và bằng việc gửi quà và lời thăm hỏi, v.v... đến họ.
3. Tránh làm và thậm chí tránh những suy nghĩ tà hạnh về người đàn ông khác.
4. Khéo giữ gìn những gì mà chồng đã dành dụm được.
5. Có sự khéo léo và sốt sắng đối với những gì mà cô phải làm.
Bổn phận của một người chồng là:
1. Đối xử với vợ bằng tất cả lòng thương yêu.
2. Tránh thái độ gia trưởng.
3. Tránh làm việc tà hạnh với người nữ khác.
4. Cho phép vợ làm những gì mà cô thấy thích (những công việc gia đình khác nhau).
5. Sắm cho vợ y phục và đồ trang sức tùy theo vị trí của mình ở trong đời sống.
Những bổn phận này được đặt ra hơn 2.500 năm trước, tuy nhiên chúng vẫn thích hợp với thời hiện đại. Đây là những bổn phận mà nếu thực hiện một cách đúng đắn, sẽ giúp cho đôi vợ chồng hạnh phúc và thịnh vượng. Có những lời khuyên khác mà người cha của Visakha đã dành cho cô, trước khi gả cô về nhà chồng. Visakha về sau trở thành người nữ đệ tử tại gia nổi tiếng nhất của Đức Phật.
Tang lễ
Để hiểu ý nghĩa tang lễ do các Phật tử thực hiện, trước hết cần phải hiểu triết học làm nền tảng cho vấn đề này. Thực hiện tang lễ mà không có sự hiểu biết về triết học này sẽ không đem lại lợi ích cho cả người chết lẫn người thực hiện nó. Triết học cực kỳ cốt tủy đối với nghi lễ này là như sau:
Theo Phật giáo, một người sau khi chết, thông thường có thể tái sanh vào một trong 6 cảnh giới. Sự tái sanh của người này phụ thuộc vào những hành vì tốt hay xấu mà vị này thực hiện trong đời hiện tại, hay trong một số trường hợp bởi những hành vi được thực hiện trong những đời sống quá khứ. Nếu vị này là một người đức hạnh, hay nếu đã làm những việc thiện trong suốt cuộc đời của mình, vị này có thể sanh về thế giới chư thiên, nơi vị này sẽ hưởng được những phúc lạc cõi trời. Còn nếu vị này xấu xa trong kiếp sống này, sẽ sanh vào một trong bốn cảnh giới ác (ác thú) mà theo tiếng Pāli là Apaya, bao gồm Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ (Peta) và A-tu-la (Asura). Vị này sẽ chịu những khổ đau, hình phạt và đói khát… khác nhau ở trong những cảnh giới đó.
Lại nữa, theo luật Nghiệp báo của Phật giáo, cho dù một người đã thực hiện những việc làm tốt, cũng không thể xác quyết một cách chắc chắn nơi người này sẽ tái sanh, là ở trong những cảnh giới cao hay ở trong những cảnh giới khổ đau. Thông qua nghiệp đã tạo tác trong những đời quá khứ và những nghiệp ấy đến thời trổ quả, người ta có thể sanh vào một cảnh giới khổ đau. Do đó, chúng ta không thể biết chắc chắn là một người sẽ tái sanh về đâu sau khi mệnh chung.
Nếu một người tái sanh vào Thiên giới (Deva), chúng ta không thể giúp gì cho người này ở nơi cảnh giới mới. Chúng ta cũng không thể làm được gì trong trường hợp vị này bị đọa vào Địa ngục, cõi Súc sanh hay cõi A-tu-la. Nhưng nếu vị này tái sanh vào thế giới Ngạ quỷ, chúng ta có thể giúp được. Làm một ngạ quỷ thì không có đủ thức ăn để ăn, không đủ nước để uống và đủ áo quần để che thân. Nó luôn luôn đói khát và luôn thiếu thốn tất cả những thứ cần thiết của cuộc sống. Để giúp những chúng sanh như vậy mà chúng ta thực hiện những nghi lễ vào lúc hoặc sau tang ma. Nhưng do vì chúng ta có thể không bao giờ biết nơi một người chết sẽ tái sanh, chúng ta thực hiện những lễ nghi tang ma bất cứ khi nào cái chết xảy ra, để trong trường hợp người chết sinh vào cõi Ngạ quỷ, thì ở đó người chết có thể có được lợi ích từ nghi lễ mà chúng ta thực hiện; và thậm chí nếu người ấy tái sanh vào cảnh giới nào đó khác, chúng ta vẫn có thể tạo được phước đức cho chính mình.
Nghi lễ nên được thực hiện theo cách này:
Nên thỉnh mời các Tỳ-kheo đến nhà có người qua đời, hay mời đến nghĩa địa. Xác người qua đời nên được đặt trước các Tỳ-kheo. Thân nhân sau đó nên vân tập lại và thọ nhận Ngũ giới từ chư Tỳ-kheo. Sau đó họ nên trao cho các Tỳ-kheo một thứ gì đó từ người qua đời, thường là một mảnh vải, và sau đó họ nên mời người đã qua đời đến nhận phần phước đức từ việc làm phước bằng cách hoan hỷ với việc làm phước đó. Nếu người chết (hương linh) đến được và hoan hỷ với việc làm phước đó, sẽ thốt lên lành thay, lành thay! Và ngay lúc đó, vị này sẽ thoát khỏi cảnh giới khổ đau đã bị đọa vào và sẽ hưởng được y phục, đồ trang sức, nơi ở, v.v.. thuộc cõi trời, và vị này sẽ biết ơn những người thân của mình.
Bảy ngày sau khi chết, cũng nên cúng dường thực phẩm cho các Tỳ-kheo. Những thủ tục tương tự cũng nên được lặp lại ở đây, và nên mời người quá vãng đến để nhận phước đức thông qua việc hoan hỷ với việc làm phước.
Kết qua của việc cúng dường thực phẩm này là người chết có thể hưởng được thực phẩm thuộc cõi trời. Như vậy, nói tóm lại, nghi lễ liên quan đến cái chết của một người nên được thực hiện hai lần: lần thứ nhất tại lúc an táng hay hỏa thiêu, và lần thứ hai là bảy ngày sau cái chết. Cả hai lần nên được thực hiện với mục đích giúp người quá vãng, nếu vì một vài nghiệp xấu mà người này sanh vào thế giới Ngạ quỷ.
Pattidana và Pattanumodana
Mời người khác đến nhận phần phước đức thông qua việc hoan hỷ với những việc làm phước thì việc làm đó được gọi là Pattidana (hồi hướng phước đức có được); còn hoan hỷ với việc làm phước do người khác thực hiện cũng là một việc làm phước và được gọi là Pattanumodana (hoan hỷ với phước đức có được nhờ người khác).
Bên cạnh, phước đức của bản thân chúng ta không giảm đi mặc dù nó được chia sẻ với người khác, như ánh sáng của một ngọn nến không giảm đi cho dù có những ngọn nến khác được châm từ nó. Đó là tại sao tất cả Phật tử khi làm những việc phước thiện, họ mời tất cả những chúng sanh khác chia sẻ phần phước đức thông qua việc hoan hỷ với việc làm phước đó.
Sự khác nhau giữa việc cúng dường thông thường và cúng dường được thực hiện vì lợi ích của người quá vãng
Nếu việc cúng dường thông thường được thực hiện chính yếu vì lợi ích của chính người bố thí, thì lợi ích của người khác, người hoan hỷ với việc cúng dường và nhờ đó nhận được phước đức, chỉ là một quan tâm thứ yếu; trong khi việc cúng dường được thực hiện tại hay ở nơi sự nối kết với tang ma thì chính yếu vì lợi ích của người đã quá vãng, và lợi ích của người bố thí chỉ là một vấn đề thứ yếu.
Bên cạnh, trong trường hợp cúng dường thông thường, không nhất thiết rằng người bố thí và người nhận phước nhận lấy lợi ích trực tiếp; trong khi trong trường hợp cúng dường được thực hiện vì người chết, điều tuyệt đối cần thiết là họ nên hoan hỷ với việc cúng dường để có lợi ích trực tiếp, tức là có được y phục, đồ trang sức, nơi ở, v.v… thuộc cõi trời.
Ba điều kiện cốt tủy của việc cúng dường được thực hiện vì lợi ích của người quá vãng
Ba điều kiện này là:
1. Người bố thí phải thực hiện việc cúng dường cốt vì lợi ích của người đã chết, và cần nói “xin hồi hướng phước báo cúng dường này đến với người thân của tôi”.
2. Người nhận cúng dường phải là một người giới đức.
3. Chính người chết phải hoan hỷ và thể hiện sự cảm kích với việc cúng dường.
Điều kiện đầu tiên không ngăn cản người bố thí mời những thân quyến đã quá vãng khác và tất cả những chúng sanh khác hoan hỷ với việc cúng dường (tức là ngoài việc hồi hướng cho người quá vãng mà mình thực hiện việc cúng dường chính vì người ấy, cũng có thể hồi hướng phước cho những người thân quá vãng khác), để nhờ đó họ có thể nhận phần phước đức.
Liên quan đến điều kiện thứ hai, có trường hợp một ngạ quỷ, không nhận được lợi ích qua ba sự cúng dường được thực hiện liên tiếp cho mình nên kêu lên “con người xấu ác này đã ăn cắp của tôi!” (Tức là, nếu đồ dâng cúng được dâng cho một người đức hạnh, ngạ quỷ này sẽ trực tiếp nhận được những lợi ích. Nhưng do vì thân nhân dâng cúng cho người thiếu đức hạnh, nên người chết không nhận được phước, bởi người thiếu đức hạnh đã “ăn cắp” hết).
Tuy nhiên, điều kiện thứ hai cốt yếu vì mục đích đặc biệt là làm cho người chết được lợi ích trực tiếp qua việc hoan hỷ với việc cúng dường. Sự bố thí không cần có đối tượng đặc biệt có thể được thực hiện đối với bất cứ chúng sanh nào, dù là tốt hay xấu. Ngay cả việc cho một con chó chút ít thức ăn cũng là một việc làm phước; người bố thí theo đó sẽ nhận được lợi ích; và người chia phần sẽ được lợi ích vì sự hoan hỷ, mặc dầu lợi ích ở trong trường hợp này có thể không trực tiếp, và số lượng phước đức của việc cúng dường gia tăng với đức hạnh không chỉ của người nhận mà cũng của người bố thí.
Việc thực hiện lễ tang này, hay nói cách khác, việc bố thí và hồi hướng phước đức cho người đã khuất là bổn phận của mỗi người thân. Dù là gần hay xa, khi người ta qua đời và tái sanh vào trong thế giới Ngạ quỷ, họ luôn hy vọng cơ hội để thốt lên từ “lành thay!” (sadhu), tức là hoan hỷ với việc bố thí được người thân thực hiện vì lợi ích của người chết này.
Đối với con cái, bắt buộc họ phải thực hiện tang lễ vào lúc cha mẹ họ qua đời. Ước muốn con cái sẽ thực hiện nghi lễ như vậy là một trong các lý do khiến các bậc cha mẹ muốn có con cái. Đức Phật nói trong kinh Tăng chi: “Đây là năm điều, này các Tỳ-kheo, các bậc cha mẹ mong một người con trai sinh vào trong gia đình. Những gì là năm? Nó sẽ hỗ trợ và chăm sóc chúng ta khi chúng ta về già, và lo hậu sự cho chúng ta; nó sẽ làm cho chúng ta những gì phải được làm; truyền thống của chúng ta sẽ được kéo dài (nhờ vào nó); nó sẽ thừa hưởng tài sản thừa kế; và nó sẽ dâng cúng cho chúng ta và sẽ hồi hướng phước đức cho chúng ta khi chúng ta qua đời.” Làm việc phước và hồi hướng phước đức cho cha mẹ đã quá vãng cũng là một trong năm bổn phận của người con trai hay con gái đối với cha mẹ của mình.
Kết luận, nên lưu ý rằng, chỉ những nghi lễ nào phù hợp với Phật giáo mới được phép. Điều quan trọng đối với một Phật tử là rằng, khi thực hiện các nghi lễ, cẩn trọng không đi đến nương nhờ vào các tôn giáo hay những vị thần thánh khác, khiến rời xa Tam bảo Phật - Pháp - Tăng. Nếu việc quy y vào Tam bảo bị đánh mất, vị này không còn là một Phật tử.
S.B. Silanandabhivamsa - Nghiệp Đức dịch (Nguyệt San Giác Ngộ)
|
|
|
Post by tk on Dec 25, 2013 15:33:03 GMT -5
Nghi thức Lễ Dâng Y Ka-thi-naTheo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, sau ba tháng hạ (từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9, âm lịch) là có tổ chức lễ dâng y Ka-thi-na. Lễ nầy được tổ chức trong vòng một tháng sau ngày mãn hạ. Dưới đây là nghi thức tụng đọc để dâng y Ka-thi-na và các vật dụng đến chư Tăng, bằng 3 ngôn ngữ Pali, Việt và Anh, đã được thực hiện tại tu viện Bodhinyana, huyện Serpentine, tiểu bang Tây Úc, ngày 26 tháng 10, 1997 vừa qua. 1. Pali Nammo tassa bhagavato ... arahato ... Sammã ... sambuddhassa (x3) Imam bhante ... saparivãram ... kathina cĩvara dussam ... sanghassa ... onojayama Sãdhu no bhante ... sangho ... imam ... saparivãram ... kathina dussam ... patigganhãtu Patiggahetvãca ... iminã dussena ... kathinam ... attharatu Amhãkam ... dĩgharattam ... hitãya ... sukhãya Phiên âm: Nạm-mô tát-sa bá-ga-vá-tô ... a-ra-hát-tô ... sảm-ma ... sảm-bút-tha-sa (x3) Í-măng ban-tê ... sạ-pa-rí-va-răng ... ka-thi-ná chi-va-rá đụt-săng ... săng-kha-sạ ... ô-nô-chay-da-má Sa-thu-nô ban-tê ... sẳng-khô ... i-măng ... sạ-pa-rí-va-răng ... ka-thi-ná đụt-săng ... pa-tị-ganh-hả-tụ Pạ-tị-gá-hệt-tạ-va-chạ ... i-mi-na đụt-sê-ná ... ka-thi-năng ... át-ta-rá-tụ Ăm-hả-khăng ... đì-ga-rát-tăng ... hí-thay-dá ... sụ-khà-dá 2. Tiếng Việt: Con đem hết lòng thành kính ... làm lễ Đức thế Tôn ... Ngài là bậc A-la-hán cao thượng ... đã chứng quả Chánh Biến Tri ... do Ngài tự ngộ ... không thầy chỉ dạy (x3) Bạch Đại Đức ... tất cả chúng con ... xin thành kính dâng đến chư Tăng ... y Ka-thi-na nầy ... cùng với các vật dụng khác Kính xin chư Tăng ... hoan hỷ thọ nhận ... y Ka-thi-na nầy ... cùng với các vật dụng Sau khi thọ nhận ... dùng Ka-thi-na ... với tấm y nầy Để cho tất cả chúng con ... được sự lợi ích ... và an vui lâu dài 3. Tiếng Anh: OFFERING OF THE KATHINA CLOTH Venerable Sirs ... all of us here together ... ask to respectfully offer to the Sangha ... cloth for the Kathina robe ... together with all these other requisites May the Sangha ... be pleased to receive ... this Kathina robe ... together with the requisites And having received it ... spread the Kathina ... with this same cloth For the long-lasting benefit ... and happiness ... of us all Bình Anson ********************** Tìm Hiểu Ý Nghĩa Lễ Dâng Y KathinaĐĐ. TS. Giác Hạnh nói về ý nghĩa Lễ Dâng Y Kathina.Trich tu Website SU GIAC CHANH Dẫn nhập: Trong cuộc đời này không có chuyện gì xảy ra mà không có nguyên nhân. Thế gian thường có câu ngạn ngữ ở cửa miệng: “Không có lửa làm sao có khói”. Trong Phật giáo lại càng chú tâm về vấn đề này hơn, có nghĩa là luôn quan tâm về nhân quả của một vấn đề, có quả trong hiện tại đương nhiên là đã có nhân trong quá khứ. Trong ý nghĩa ấy, hôm nay chư Phật tử của chúng ta tại Việt Nam nói riêng và Phật tử trên khắp thế giới nói chung đang tưng bừng hân hoan tổ chức ngày đại lễ dâng y Kathina và chắc chắn rằng sự kiện tuyệt vời này đã có nguyên nhân từ ngàn xưa để lại, tạm thời chúng ta có thể kể từ khi đức Thế Tôn còn tại thế cho đến hôm nay và mãi mãi về sau cho đến khi nào mà Giáo pháp (Buddha Sāsana) của đức Từ Phụ Thích Ca vẫn còn thịnh hành trên thế gian này. Và cũng chính vì nguyên nhân đó có rất nhiều ngôi chùa theo truyền thống Nguyên Thủy trên khắp năm châu đang tưng bừng hoan hỷ cử hành đại lễ dâng y Kathina trong giờ phút thiêng liêng này. Với ý nghĩa cao thượng và tuyệt vời của đại lễ dâng y Kathina tôi xin mạo muội mời quý độc giả cùng tôi nhẹ bước lướt vào phần kế tiếp dưới đây để tìm hiểu nguyên nhân, ý nghĩa và lợi ích về đại lễ dâng y Kathina rất trang trọng và linh thiêng trong truyền thống Nguyên Thủy đã được Như Lai chỉ dạy và cho phép cử hành trên hai mươi lăm thế kỷ qua. Nguyên nhân nào khiến cho đại lễ dâng y Kathina này được tổ chức hằng năm? Vào thời đức Thế Tôn còn tại thế, có ba mươi chàng hoàng tử sống tại xứ Pàveyyaka, người mà đã trở thành những vị tu sĩ sau khi gặp và lắng nghe Giáo pháp của Như Lai. Tương truyền rằng, sau khi trở thành bậc giác ngộ khoảng tầm một năm, đức Thế Tôn đã đi đến khu rừng Ưu-lâu-tầng-loa (Uruvela), và trong khi nghỉ chân dưới một gốc cây cổ thụ trong rừng ấy, có ba mươi chàng hoàng tử cùng đi với những người vợ của họ vào rừng để hưởng lạc của tuổi thanh xuân đầy nhựa sống và hiếu kỳ. Trong khi họ đang hội hè, vui chơi đình đám, thì có một người vợ mà họ thuê đi chơi trong chuyến du ngoạn này chứ không phải người vợ chính thức cưới hỏi như hai mươi chín người vợ kia đã có chủ tâm và ăn cắp toàn bộ trang sức, châu báu của họ và đã trốn mất về xứ nào không một ai hay biết. Thế rồi, ba mươi chàng hoàng tử này sau khi phát giác ra thì liền đi tìm cô ấy, trên đường đi họ được gặp đức Thế Tôn, Ngài hỏi họ các con đi đâu mà vội vàn vậy? Họ trả lời với Ngài rằng: “Thưa Ngài chúng con đang đi tìm người đàn bà, người mà đã cướp đi tất cả những đồ trang sức và y phục của chúng con.” Nhân đây, đức Thế Tôn hỏi họ: “Này các hoàng tử, các con đi tìm người đàn bà kia lợi ích hơn hay là đi tìm chính các con thì lợi ích hơn?” Tuyệt thay, những chàng hoàng tử này Ba-la-mật (pàramì) đã chín muồi, cho nên họ trả lời với đức Thế Tôn rằng: “Tìm chính chúng con là lợi ích hơn, thưa Ngài.” Nhân cơ hội vàng son ấy, đức Thế Tôn nói: “Nếu tìm chính các con là lợi ích hơn thì Như Lai sẽ thuyết cho các con một bài pháp.” Sau khi bài pháp của Ngài được chấm dứt, ba mươi chàng hoàng tử này đều chứng đắc Tu-đà-hoàn (sotapanna). Đức Thế Tôn gọi Ehibhikkhu (thiện lai tỳ khưu), này hỡi các con, các con sẽ trở thành những vị tỳ kheo y như nguyện ước. Sau khi Ngài vừa dứt lời tất cả ba mươi chàng hoàng tử này đã trở thành ba mươi vị tỳ khưu với y phục, bình bát và những dụng cụ thường dùng của một vị tu sĩ tự nhiên sẵn sàng đầy đủ cho ba mươi vị tỳ kheo này. Thế rồi, ba mươi vị tỳ kheo này từ giả đức Thế Tôn và bắt đầu thực hành những hạnh tu đầu đà: như sống trong rừng sâu; đi khất thực thường ngày; mặc y phấn tảo; chỉ mặc tam y v.v… Họ sống trong rừng sâu suốt thời gian khoảng mười ba năm trường. Trong cuối năm ấy, khoảng trước mùa hạ thứ mười bốn một vài tháng, họ mong muốn đi đến thăm, đảnh lễ đức Thế Tôn và nhập hạ tại Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetavana), trú xứ mà đức Thế Tôn đang sống. Sau khi quyết định, họ bắt đầu khởi hành từ chỗ họ trú ngụ đến thành phố Sāvatthi, nơi mà đức Thế Tôn đang sinh sống. Với một quãng đường quá dài, khoảng bảy mươi hai dặm (six yojanas) kể từ chỗ họ trú ngụ đến kinh thành Xá-vệ. Cho nên họ không đến kịp trước mùa mưa (mùa an cư), vì vậy họ phải vào mùa an cư hay nhập hạ tại một ngôi làng Sàketa. Ngay sau khi mùa an cư chấm dứt, họ tiếp tục chuyến đi của mình đến Thành phố Xá-vệ nơi mà đức Thế Tôn đang sống. Bởi vì trời mưa quá lớn, cộng thêm bùn lầy trên đường cho nên y phục của những vị tỳ khưu này đã đẫm ước và dính bùn rất là bất tiện khi đến nơi Ngài đang sống. Đến đây, đức Thế Tôn hỏi ba mươi vị tỳ khưu này rằng: “Này chư đệ tử của ta, các con có khoẻ mạnh và hạnh phúc an lành không?” Bạch đức Thế Tôn, sức khoẻ của chúng con rất khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp, và bạch Ngài, chúng con đã sống qua mùa (an cư) mưa có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực, sống trong tinh thần lục hoà (thân hoà đồng trú, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân, giới hòa đồng tu và kiến hòa đồng giải). Nhưng chúng con bị đẫm ước y phục và có phần bị mệt mỏi bởi vì đi đường quá xa. Thực ra, Ngài hỏi vậy thôi, nhưng Ngài cũng đã biết qua thiên nhãn của Ngài và thấy trực tiếp qua hình ảnh của chư tỳ khưu đã đến từ một quãng đường rất xa, mệt lữ, bất tiện với y phục đẫm ước. Vì lý do này, đức Thế Tôn cho phép tổ chức lễ dâng y Kathina. Sự cho phép này kể từ đó cho đến ngày hôm nay lễ dâng y Kathina được tiếp tục tổ chức hằng năm. Đây là lý do của sự xuất hiện lễ dâng y Kathina.Và người thí chủ dâng y Kathina đầu tiên đến chư Tăng là cô Visakhā. Danh từ Kathina có nghĩa như thế nào? Kathina là một danh từ trong ngôn ngữ Pàli hay là Phạn ngữ có rất nhiều nghĩa và rất khó để cắt nghĩa cho chính xác. Nghĩa của nó được cắt tùy theo mỗi tác giả, dịch giả hay là pháp sư khác nhau tùy theo bối cảnh. Như ngài Dhammarakkhita (Hộ Pháp) cắt nghĩa trong cuốn Lễ Dâng Y Kathina là “bền vững”, nhưng ngài Mahasi Sayadaw và ngài Kundalabhivaṁsa Sayadaw, hai vị thiền sư nỗi tiếng ở xứ Miến Điện cắt nghĩa trong cuốn Dhamma Padetha là “thường hằng”. Cho dù những ngài trưởng lão cắt nghĩa khác nhau, nhưng nghĩa nào nó cũng chứa tải một nội dung rất là chính xác. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, tác giả xin chọn cái nghĩa “thường hằng”. Có nghĩa là thường hằng về mặc đó là thời gian và lợi ích. Như thế nào gọi là thường hằng về thời gian? Bởi vì lễ dâng y Kathina chỉ được tổ chức trong vòng một tháng (từ 16/09 AL – 15/10 AL) hằng năm. Không thể chuyển đến tháng sau của năm đó. Cho nên gọi là thường hằng trong ý nghĩa dâng y Kathina thuộc về thời gian. Như thế nào gọi là thường hằng về mặt lợi ích? Bởi vì có năm điều lợi ích cho những vị tăng mà ở tại trú xứ được tổ chức lễ dâng y Kathina, và năm điều lợi ích này được kéo dài đến năm tháng kể từ ngày 16/09 AL cho đến rằm tháng 2 AL. Và những điều lợi ích này không thể nào chuyển đến thời gian khác. Cho nên gọi là thường hằng thuộc về sự lợi ích. Còn những vị tăng ở nơi tu viện nào mà không có tổ chức lễ dâng y Kathina thì sự ích lợi của họ chỉ được kéo dài một tháng mà thôi. Năm Sự lợi ích trong lễ dâng y Kathina của vị tỳ kheo và năm sự lợi ích của thí chủ dâng cúng y Kathina: Vị tăng được thí chủ dâng y Kathina dưới sự chỉ định của chư tăng sẽ được năm điều lợi ích như sau: a) Anàmantacàra: đi vào xóm chưa cáo từ vị sư bạn không phạm tội; b) Asamàdànacàra: việc ra đi không mang đủ ba y không phạm tội; c) Ganabhojana: rủ nhau thành nhóm thọ thực biết trước các món ăn không phạm tội; d) Yàvadattacìvara: cất giữ y dư quá mười ngày không phạm tội; và e) Yocatatthacivaruppàda: được hưởng bất cứ lợi lộc nào phát sinh tại trú xứ ấy. Đó là năm điều lợi ích được hưởng cho cả vị thọ nhận y Kathina và những vị tùy hỷ y Kathina. Thí chủ dâng y Kathina cũng được năm điều lợi ích sau đây: a) Thí chủ cúng dường y Kathina có thể đi bất cứ nơi đâu như ý mình đã ước muốn trong mỗi một kiếp không gặp điều chướng ngại gì; b) Thí chủ cúng dường y Kathina có thể đi đến bất cứ nơi đâu để thực hiện nhiệm vụ của mình một cách dễ dàng; c) Thí chủ cúng dường y Kathina trong mỗi một kiếp sống có thể ăn bất cứ thức ăn nào sẽ tiêu hóa thức ăn dễ dàng; d) Thí chủ cúng dường y Kathina trong mỗi một kiếp sống có thể giữ nhiều đồ trang sức khác mà không sợ kẻ cướp cướp lấy; và e) Thí chủ cúng dường y Kathina không thể bị ai lấy tài sản của mình đi bằng quyền lực. Trừ trường hợp họ muốn biếu tặng. Nói tóm lại một vị thí chủ phát tâm dâng y Kathina thì sẽ có những phước báu rất là lớn lao. Tuy nhiên, cho dù phước báu phong phú và dồi dào đến đâu cũng vẫn còn nằm trong Tam giới mà mỗi khi còn nằm trong Tam giới thì vẫn còn sinh tử luân hồi vô tận. Cho nên vẫn còn khổ đau do định luật vô thường, khổ đau và vô ngã chi phối. Chính vì thế đức Thế Tôn đã dạy cho chúng ta hai câu Pháp cú vô cùng tuyệt vời: “Thân này đẹp tựa bức tranh, Thế nhưng chứa chất một vành khổ đau Quán tưởng thấy nhiều khổ sầu Không phần ổn định có đâu vĩnh hằng.” Pc.147 “Thân này già yếu mỗi giây Mông mênh sóng nước bệnh dày thân tâm Khối bất tịnh đổ vỡ dần Chấm dứt hơi thở chết thần mang đi.” Pc. 148 Qua hai câu Pháp cú tuyệt tác ở trên chúng ta có thể thấu hiểu lời dạy vô cùng thâm thúy và tràn đầy tấm lòng từ bi của đức Thế Tôn đối với tất cả chúng sinh trong Tam giới này. Điều ước mong duy nhất của Ngài là làm sao để cho chúng ta thoát khỏi tấm thân tứ đại. Chính vì thế Ngài khuyên dạy chư Phật tử nên tạo phước thiện càng nhiều càng tốt đặc biệt là phước thiện dâng y Kathina với lời nguyện chân thật là kiếp sau trở thành một vị tỳ kheo tu hành tinh tấn để sớm đọan tận những phiền não ngủ ngầmvà chấm dứt con đường khổ đau sinh tử luân hồi. “Ca sa oai đức chi bằng Sắc vàng thanh bạch của hàng Sa Môn Noi gương từ phụ Thế Tôn Hoằng khai Giáo pháp tám muôn bốn ngàn Ngày nay thiện tín các hang Ca sa đại lễ nghiêm trang cử hành Dâng y với tấm lòng thành Ba vòng nhiễu Phật đồng thanh nguyện cầu Chư Tăng hoan hỷ lãnh thâu Căn lành gieo giống để hầu mai sau Nguyện mau thoát khỏi trần lao Tu hành tinh tấn tiêu dao đạo mầu Chúc cho Phật pháp bền lâu Thấm nhuần trăm họ năm châu thạnh hành Chúc cho cả thảy chúng sanh Hồi đầu hướng thiện tâm thành quy y Noi theo gương đấng Từ bi Xuất gia hành đạo mang y ngồi kề Tu tâm dưỡng tánh mọi bề Tham sân đoạn tuyệt bồ đề đến nơi.” KNT Tại sao cúng dường y Kathina là cao thượng? Điều này cũng rất dễ hiểu, thông thường vị tu sĩ mỗi khi cần y phục có thể hỏi xin cha mẹ và thân quyến, hoặc cũng có thể hỏi những vị thí chủ mà đã cho phép mình hỏi trước đây nếu như vị ấy mỗi khi cần y phục. Nhưng điều đặc biệt ở đây, y Kathina không thể xin được cho dù đó là cha mẹ, thân quyến hay là những người thiện nam tín nữ mà đã cho phép hỏi trước đây. Đây là lý do tại sao cúng dường y Kathina là cúng dường cao thượng. Mặc khác vị tăng nhận được y Kathina sẽ được năm điều lợi ích như đã đề cập ở trên, và năm điều lợi ích ấy được kéo dài từ một tháng đến năm tháng. Đây là một trong những lý do khiến cúng dường y Kathina là cúng dường cao thượng.Xa hơn nữa, dâng y Kathina chỉ được xảy ra một lần trong năm, trong năm chỉ có một tháng, và trong tháng đó chỉ có một ngày. Và đây cũng là một trong những lý do đặc biệt khiến đức Thế Tôn dạy cúng dường y Kathina là cúng dường rất cao thượng và thanh tịnh.Qua những lời dạy ở trên chúng ta nhận ra rằng cho dù có tiền tỷ mình cũng không mua được cái lễ dâng y Kathina này. Chúng ta không thể nào tổ chức đại lễ dâng y Kathina này vào một tháng khác. Cho nên mới gọi cúng dường y Kathina là cúng dường cao thượng. Làm sao để đạt được phước báu một cách trọn vẹn trong lễ dâng y Kathina này? - Hoan hỷ trong ba thời: Muốn đạt được phước báu trọn vẹn trong đại lễ dâng y Kathina này, thí chủ dân y Kathina phải phát tâm trong sạch hoan hỷ trong ba thời (tư tiền, tư trung và tư hậu) hay nói cách khác hoan hỷ trước lúc cúng dường, trong lúc cúng dường và sau khi cúng dường. Nếu thí chủ dâng y Kathina có được trạng thái tâm tư như vậy thì phước báu sẽ rất phong phú, dồi dào và vẹn toàn. Không những dâng y Kathina mà ngay cả cúng dường những tấm choàng bình thường cũng phước báu vô lượng vô biên. Nhân đây, xin chia sẻ đến quý độc giả một câu chuyện cúng dường tấm choàng đến đức Thế Tôn để quý vị được tận tường hơn. Chuyện tương truyền rằng, cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, lúc đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, Ngài thuyết giảng đề cập đến ông Bàlamôn tên Cūḷekasāṭaka vô cùng nghèo khó ở xứ Ấn Độ được tóm lượt như sau: Trong kinh thành Sāvatthi, có ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka, ông Bàlamôn này chỉ có một tấm choàng. Tấm choàng ấy là tài sản chung của hai vợ chồng ông Bàlamôn. Mỗi khi ông hoặc bà đi ra khỏi nhà, thì mới mặc tấm choàng ấy. Một hôm, nghe những người thân quyến báo tin rằng đức Phật sẽ thuyết pháp tại ngôi chùa Kỳ Viên (Jetavana), ông Bàlamôn nói với bà Bàlamôn rằng: Này bà, hôm nay đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, vợ chồng chúng ta chỉ có một tấm choàng, cho nên, chúng ta không thể cùng nhau đi chung được. Vậy bà đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm? Bà Bàlamôn thưa với chồng rằng: Này ông, tôi sẽ đi nghe pháp ban ngày, còn ông nên đi ban đêm. Đêm hôm ấy, ông Bàlamôn đi đến ngôi chùa Jetavana, ngồi phía trước đức Phật. Khi nghe đức Phật thuyết pháp, ông liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi đức Thế Tôn, ông muốn cúng dường đến đức Thế Tôn tấm choàng mà ông đang mặc trên mình. Thế nhưng trong khi ấy, do tâm keo kiệt bủn xỉn gấp ngàn lần phát sinh, nên ông ta nghĩ lại rằng: “Nếu ta cúng dường tấm choàng này đến đức Thế Tôn, thì không chỉ có ta mà còn vợ của ta cũng sẽ không còn tấm nào để mặc nữa”. Tuy nhiên một lần nữa, đức tin trong sạch nơi đức Thế Tôn lại phát sinh, tiếp theo tâm bủn xỉn keo kiệt ngàn lần lại phát sinh, đè bẹp đức tin ấy. Ông Bàlamôn suy đi xét lại rằng: “Ta có nên cúng dường hay không nên cúng dường tấm choàng này đến đức Thế Tôn?”. Suốt canh đầu đêm đã trôi qua, hễ đức tin phát sinh càng mạnh, thì tâm keo kiệt bủn xỉn cũng phát sinh không thua không kém, tự đấu tranh giằng co giữa đức tin với tâm keo kiệt bủn xỉn; bước sang canh giữa đêm vẫn chưa phân thắng bại. Đến canh chót, ông Bàlamôn suy xét kỹ càng và phân tích rõ ràng rằng: “Đức tin của ta với tâm keo kiệt bủn xỉn tranh đấu giằng co suốt 2 canh rồi, nếu để tâm keo kiệt bủn xỉn tăng trưởng thì nó chỉ dẫn dắt ta sa đọa trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, và súc sinh mà thôi”. Suy xét và phân tích rõ ràng như vậy, đức tin trong sạch nơi đức Thế Tôn lại phát sinh mạnh hơn nhiều, lấn lướt được tâm keo kiệt bủn xỉn; ông Bàlamôn liền đưa hai tay cởi tấm choàng đặt dưới bàn chân của đức Thế Tôn, cung kính cúng dường đến Ngài. Ông Bàlamôn vô cùng hoan hỷ sung sướng lên tiếng 3 lần: “Jitaṃ me! Jitaṃ me! Jitaṃ me!” “Ta thắng được rồi! Ta thắng được rồi! Ta thắng được rồi!” Trong khi ấy đức vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) thuộc nước Kiều-tát-la (Kosala) đang ngồi nghe đức Phật thuyết pháp, đức vua truyền gọi vị quan cận thần đến hỏi ông Bàlamôn kia: “Ông thắng ai?”. Vị quan đến hỏi ông Bàlamôn và biết rõ sự việc, đến tâu lên đức vua. Đức vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, ta nên ban thưởng cho y”. Đức vua truyền lệnh mang 2 tấm choàng đến để ban thưởng cho ông Bàlamôn. Ông Bàlamôn lại cung kính cúng dường 2 tấm choàng ấy đến đức Thế Tôn. Thấy vậy, đức vua ban cho ông 4 tấm choàng, ông cũng cung kính cúng dường đến đức Thế Tôn. Cứ như vậy, đức vua ban cho ông 8 tấm choàng, 16 tấm choàng, 32 tấm choàng, 64 tấm choàng. Ông Bàlamôn nghĩ rằng: “Mỗi lần ta cung kính cúng dường hết các tấm choàng đến đức Thế Tôn, đức vua lại ban thưởng cho ta gấp đôi. Vậy lần này ta chỉ cung kính cúng dường đến đức Thế Tôn 60 tấm choàng, còn lại 4 tấm choàng, phần của ta 2 tấm choàng và vợ của ta 2 tấm choàng”. Đức vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, trong cung điện của ta có 2 tấm gấm quý giá, 100 ngàn đồng kapàpana, ta sẽ ban thưởng đến vị Bàlamôn này”. Ông Bàlamôn nhận 2 tấm gấm quý giá mà đức vua ban cho ông, ông nghĩ rằng: “Hai tấm gấm quý giá này ta không nên sử dụng, ta chỉ nên cúng dường đến đức Phật cùng chư Đại đức Tăng mà thôi. Vậy, một tấm gấm làm tấm trải chỗ nằm của đức Phật trong cốc Gadhakuṭi, và một tấm gấm còn lại làm tấm trải chỗ ngồi của chư Đại đức Tăng thọ thực trong nhà của ta”. Ông Bàlamôn thực hiện theo ý nghĩ của ông. Vào một buổi chiều nọ, đức vua Pasenadi Kosala đến hầu đảnh lễ đức Thế Tôn tại cốc Gadhakuṭi trong ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy tấm gấm quý giá trải trên chỗ nằm của đức Phật, đức vua bèn bạch hỏi đức Thế Tôn rằng: - Kính bạch đức Thế Tôn, thí chủ nào cúng dường tấm gấm quý giá ấy? Bạch Ngài. Đức Thế Tôn truyền dạy rằng: - Này Đại vương, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka cúng dường Như Lai tấm gấm quý giá ấy. Đức vua Pasenadi Kosala nói rằng: - Vị Bàlamôn của ta thật đáng mến! Đức vua ban cho ông Bàlamôn 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahàpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thâu thuế. Đức vua đã ban cho ông Bàlamôn gồm có 7 thứ, mà mỗi thứ có 4. Tại giảng đường, chư Tỳ khưu tụ hội bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka rằng: “Thật lạ thường, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước cúng dường một tấm choàng đến đức Thế Tôn, chỉ trong chốc lát sau, đức vua ban cho ông mỗi lần gấp đôi (2, 4, 8, 16, 32, 64 = 126 tấm choàng). Đức vua còn ban cho ông 7 thứ, mà mỗi thứ có 4. nghiệp thiện mà ông đã làm trong hiện tại này, nghiệp thiện ấy đã cho quả báu ngay hiện tại hôm nay”. Chư Tỳ khưu đang bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka; khi ấy, đức Thế Tôn ngự lên chỗ cao quý đã trải sẳn, đức Thế Tôn bèn hỏi rằng: - Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì? Chư Tỳ khưu bạch với đức Thế Tôn biết rõ câu chuyện như vậy, đức Thế Tôn truyền dạy rằng: - Này chư Tỳ khưu, nếu ông Ekasāṭaka làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16. Nếu làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh giữa đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 8. Hai canh (canh đầu và canh giữa đêm), ông chưa có thể dâng được, đến canh chót đêm, ông mới làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai, cho nên ông được quả báu 7 thứ mà mỗi thứ có 4. Thực ra, người tạo nghiệp thiện, khi tâm thiện đầu tiên phát sinh không để cho chậm trễ, mà nên tạo nghiệp thiện ấy, ngay lúc đó. Người tạo nghiệp thiện chậm trễ, thì quả của nghiệp thiện ấy cũng bị chậm trễ. Vì vậy, nên tạo nghiệp thiện liền sau khi thiện tâm phát sinh. Đức Thế Tôn thuyết dạy câu kệ rằng: “Abhittharetha kalyāṇe, pāpacittaṃ nivāraye. Dandhaṃ hi karato puññaṃ, pāpasmiṃ raṃatī mano” (Nhanh tay làm các điều lành Cản ngăn ác pháp lộng hành trong tâm Những ai thiện hạnh trì tầm Như thế ác sự trong tâm thích hoài”.) Pc. 116 Thực sự, Tâm của hạng phàm nhân thường thích thú say mê trong những điều tội lỗi, tội ác; đó là tâm bất thiện, tâm ác trong đó có nghiệp ác mà nghiệp ác thì cho quả khổ trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp (kiếp sau) và những kiếp vị lai. Bởi vậy cho nên, mỗi khi có tâm thiện phát sinh muốn làm phước thiện, tạo nghiệp thiện thì nên nhanh chóng thực hiện ngay ý định ấy. Nếu chậm trễ thì tâm sẽ dễ dàng thay đổi ý định ấy. Cho nên, trong mọi phước thiện, mỗi người trong chúng ta nên tự mình động viên, khuyến khích mình rằng: “Ahaṃ pure! Ahaṃ pure! ...” “Ta là người trước tiên! Ta là người trước tiên!...” Nghiệp thiện ấy chắc chắn có năng lực rất mạnh, thì quả báu của nghiệp thiện ấy chắc chắn rất đầy đủ và rất phong phú. Nếu như ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka dâng cúng dường tấm choàng đến đức Phật vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16. Nhưng canh đầu và canh giữa đêm, đức tin của ông chưa có đủ sức mạnh thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, cho đến canh chót đêm; ông nhờ có một nhận thức đúng đắn, tạo nên đức tin mạnh mẽ, có năng lực thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, ông liền làm phước thiện kính dâng tấm choàng đến đức Phật, do chậm trễ cho nên quả báu của nghiệp thiện bố thí ấy mỗi thứ chỉ có 4 mà thôi. Ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước thiện bố thí cúng dường 1 tấm choàng đến Đức Phật, ngay sau đó, quả báu của nghiệp thiện bố thí là được Đức vua ban thưởng không những có được 164 tấm choàng, 2 tấm gấm quý giá, mà còn có 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahàpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thu thuế; gồm có 7 thứ mà mỗi thứ có 4. LDYK - Đừng để tâm ngã mạng sinh khởi: Đừng để trạng thái tâm ngã mạn sinh khởi trong khi làm thí chủ Đại lễ dâng y Kathina. Lắm lúc bởi do thất niệm sinh khởi cộng thêm vô minh ngủ ngầm chi phối khiến mình tự cao tự đại trong công việc thiện sự của chính mình, và chính vì tâm cao ngạo này đã làm tổn hại đến phước đức của mình đã tạo. Điều hay nhứt như đức Thế tôn khuyên chư Phật tử nên giữ tâm bình thản trong lúc làm những thiện sự cho dù nhỏ hay lớn, luôn luôn khiêm tốn trong những công việc ấy. Có như vậy, phước đức mình tạo đó đã phong phú lại càng xum suê hơn. Vậy, là Phật tử chúng ta phải khôn ngoan, khéo léo, thành thực, nhã nhặn và nhẹ nhàng trong mọi Phật sự với mục đích để gặt hái những phước đức mỹ mãn cho hiện kiếp và hậu đời. Kết luận: Qua phần trình bày ở trên, tôi tin chắc rằng quý bạn đọc dễ dàng thâm hiểu những gì mà tôi đã mang hết khả năng và tâm huyết của mình để chia sẻ cùng quý bạn một trong những ý nghĩa của Đại lễ dâng y Kathina. Hy vọng rằng mỗi một chúng ta lấy đó làm tư lương cho lộ trình tiến thân trên con đường tâm linh. Đặc biệt, luôn chiến thắng được chính mình trong mọi thiện sự như đức Thế Tôn hằng dạy trong kinh Pháp cú sau đây: “Dẫu cho chiến thắng ngàn quân, Tại bãi chiến trận mỗi lần chiến tranh. Thế nhưng chẳng chút hùng anh, Thắng mình hiện tại thanh danh rạng ngời.” KNQC. 103 “Tự thắng lấy mình tuyệt thay, Chinh phục kẻ khác chẳng hay chút nào. Ai người điều phục cơ cao, Hằng sống tự chế nhiệm mầu vĩ nhân.” KNQC. 104 Đây là món quà mà tôi đã làm được trong mùa Đại lễ dâng y Kathina với trí tuệ thiển cận của mình. Xin chia phần phước báu này đến cho tất cả chúng sanh trong Tam giới với mục đích nguyện cầu cho người còn được an vui, kẻ mất sớm siêu sinh về nơi nhàn cảnh. Tài liệu tham khảo: - Dhamma Padethe, Volume (1). Tác giả: HT. TS. Kuṇḍalābhivaṁsa. Translated by Daw Khin Hla Hla, Myanmar - Lễ Dâng Y Kathina. Soạn giả: Ngài Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) - Kinh Pháp Cú. Tác giả: HT. TS. Thích Minh Châu - Kinh Ngọc Quý. Tác giả: ĐĐ. TS. Giác Hạnh - Suối Nguồn - Kinh Nhật Tụng Của Cư Sĩ. Phật Giáo Nguyên Thủy - Theravāda
|
|
|
Post by tk on Feb 8, 2014 19:50:24 GMT -5
Truyền Thống Khất ThựcKhất thực có nghĩa là xin ăn. Cách nuôi thân một cách chân chính do Phật dạy cho những đệ tử xuất gia. Đó là thực hành chính mạng thanh tịnh. Đi khất thực còn gọi là đi bình bát hay trì bát. Chữ Bát có nghĩa là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người. Bình bát là loại bình được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rỉ nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý,... Nếu dùng bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của người xuất gia. Các vị đã phát tâm xuất gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh pháp, nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Chuyến đi khất thực bao giờ cũng diễn ra vào buổi sáng và chấm dứt trước giờ ngọ tức trước lúc mặt trời đứng bóng. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Các thí chủ chỉ cúng dường những thức ăn đã được nấu sẵn, không cúng dường các vật liệu chưa làm thành món ăn, như cúng cơm chứ không cúng gạo, cúng món rau xào chứ không cúng bó rau chưa nấu chín. Nếu chưa đủ dùng, chư vị tiếp tục đi theo hàng dọc đến nhà bên cạnh nhưng không được quá bảy nhà. Chư vị không được phép bỏ sót nhà nào, hoặc dành ưu tiên cho phố xá ở các thị trấn phồn thịnh, các gia chủ giàu hay nghèo đều phải được tạo cơ hội đồng đều để gieo trồng phước duyên, cũng không muốn gây cảm tưởng là chư vị ham thích những khu phố giàu có vì thức ăn ngon hơn. Khất thực xong, các vị trở về tịnh xá để ăn trước khi mặt trời đứng bóng. Đây là bữa ăn duy nhất trong ngày. Thông thường thức ăn được phân ra làm bốn phần: một phần nhường lại cho các bạn đồng tu nếu thấy họ không có hay có ít, một phần san sẻ cho người nghèo, một phần dành cho loại chúng sinh không phải là người nhưng sống chung với người và cuối cùng còn lại là phần mình dùng. Khi thọ dụng thức ăn các vị Tỷ kheo xem như là việc uống thuốc để duy trì sự sống mà tu hành, ngon không ham, dở không bỏ. Thọ dụng cúng phẩm của người đời vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Sau bữa ăn, các vị rửa bát, xếp gọn các y, ngơi nghỉ trong chốc lát, liền lại đến một gốc cây hay căn nhà trống, hay tịnh thất ngồi thiền định như hành Tứ niệm xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra. ************************************************* Nếu ai đã một lần đến các nước theo truyền thống Phật giáo nam truyền, hẳn sẽ nhìn thấy hình ảnh các vị sư với chiếc y màu vàng đang đi khất thực vào buổi sáng sớm. Sẽ có bạn tự hỏi (nhất là những bạn không hiểu về Phật giáo nam truyền) tại sao họ lại đi khất thực và khất thực là gì mà ở xứ mình hiếm thấy? khatthuc Phải chăng đó là hình thức ‘xin ăn’ như những ‘cái bang’ đang tích cực thi hành khắp nơi ở Việt nam? Nếu để ý kỹ hơn, có thể bạn sẽ nói rằng dường như có cái gì đó khác hơn vì những vị sư nhận phẩm vật trong sự tôn kính của người cúng dường. Nó hoàn toàn khác với hình ảnh tranh đua của những ‘cái bang’ khi được tài vật. Thế thì, điều gì làm nên sự khác biệt ấy và ý nghĩa của khất thực là gì? Khất thực là một thuật ngữ Phật học mà nếu ta dịch nghĩa sẽ dễ bị hiểu lầm như là ‘xin ăn’ bình thường. Khất thực là một sinh hoạt thường nhật của tăng đoàn thời đức Phật. Đó là một cách hành trì, một hạnh nguyện của các vị xuất gia theo Phật giáo nam truyền (nguyên thủy). Khất thực là phương cách có thể đem lại nhiều lợi lạc thiết thực cho vị khất sĩ cũng như Phật tử cúng dường; là cách truyền bá và duy trì Phật pháp hiệu quả thông qua hình ảnh tăng đoàn hành khất. Tuy nhiên, những giá trị lợi lạc ấy chỉ có thể đạt được khi pháp này được hành trì đúng mục đích. Quay về quá khứ cách nay hơn 25 thế kỷ, nơi xứ Ấn độ linh thiêng và đầy màu sắc tôn giáo, người ta nhận thấy có một tăng đoàn hành khất đo đức Phật Thích Ca Mâu Ni lãnh đạo. Hình ảnh đoàn hành khất thật trang nghiêm và thanh tịnh đã gây xúc động không biết bao nhiêu con tim và tạo nên tình cảm kính quý vô vàn trong lòng xã hội từ vua chúa cho đến thứ dân. Hình ảnh ấy biểu trưng cho sự giải thoát của những bậc đã giải thoát mà đức Phật là vị khai sáng. Họ đã giải thoát khỏi sự ràng buộc bởi vật chất và tình cảm thế gian và sống một đời sống tâm linh thanh thoát ngay trong cuộc đời lắm sự trói buộc này. Có lẽ, không ai nghĩ rằng đức Phật khất thực vì cái ăn bởi vì ai cũng biết rằng Ngài xuất thân từ địa vị thái tử của một nước giàu có. Vậy thì, mục đích thực hành hạnh nguyện này, theo lời Phật đáp lại yêu cầu của vua cha, là theo truyền thống của chư Phật. Là vị Phật, Ngài cũng phải kế thừa truyền thống ấy và cũng để làm tấm gương mô phạm hướng dẫn tăng đoàn đệ tử cũng như giáo hóa chúng sanh. Thoạt nhìn qua hình ảnh tăng đoàn khất thực, nhiều người cho rằng đây là hành động tiêu cực vì chỉ đi nhận phẩm vật của người khác như cách nhìn của người phương Tây. Tuy nhiên, khi phân tích sâu vào bản chất của pháp hành trì thì chúng ta sẽ thấy được những giá trị rất có ý nghĩa của nó. Sẽ không phải là hành trì hạnh khất thực nếu như vị hành khất chỉ đi để nhận phẩm vật với tâm mong muốn mà không vì mục đích tu tập. Chỉ đi để mong nhận phẩm vật thì ý nghĩa của nó không khác mấy so với việc làm của những ‘cái bang’. Với tâm mong cầu thì chắc chắn vị ấy có tâm thích và không thích, những mầm móng của tâm tham và sân. Cho nên, đó không phải là pháp hành trì của vị khất sĩ. Ngược lại, vị khất sĩ đầu ‘đội trời’ chân ‘đạp đất’ là biểu trưng cho sự thực hành hạnh xả bỏ bản ngã và thể hiện tấm lòng từ bi hướng đến với mọi người. Không phân biệt sang hèn, phẩm vật ngon dỡ, nhiều ít thì làm gì có tâm tham và sân khởi lên khi nhận phẩm vật. Sự thanh tịnh của tâm sẽ chế tác nên năng lượng công đức và phước báo để có thể nuôi lớn tâm vị hành khất và mặt khác hồi hướng cho các Phật tử cúng dường. Có thể nói đây là một nghệ thuật sống, một phương pháp thực tập mà đức Phật đã thực hành khi còn tại thế, và giờ đây truyền thống ấy vẫn còn giữ ở một số nơi. Hình ảnh những vị khất sĩ bước đi những bước khoan thai, thảnh thơi trong chánh niệm, bước đi theo thứ tự từng nhà một mà không phân biệt giàu nghèo là biểu trưng của lòng bình đẳng và sự an lạc. Ở Việt nam, hình ảnh chư tăng khất thực cũng rất phổ biến trong cộng đồng người theo Phật giáo nam truyền ở các tỉnh tây nam bộ, Sài Gòn và một số tỉnh khác. Tuy nhiên, do có hiện tượng thật giả lẫn lộn nên Giáo hội đã có biện pháp tạm ngưng sinh hoạt khất thực ở Sài Gòn và một số tỉnh khác. Việc tạm ngưng là để tìm ra giải pháp và quy định cụ thể cho việc hành trì hạnh nguyện thiêng liêng này nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy sự phục hoạt trở lại. Đã có nhiều vị giảng sư Phật giáo có uy tín, vì nhìn thấy được giá trị lợi lạc của hạnh khất thực, thấy được giá trị thiết thực của nhiệm vụ hoằng pháp qua hình ảnh tăng đoàn khất thực, đã mạnh dạn đề nghị Giáo hội nên cho phép chư tăng khất thực với những quy định cụ thể. Những vị ấy đã gợi ý là nên cấp thẻ cho những vị phát nguyện hành trì hạnh khất thực và quy định thời gian nhất định, cũng như là phải khất thực thành từng đoàn. Như thế, những vị sư giả sẽ dễ bị phát hiện và việc khất thực không làm ảnh hưởng xấu đến Phật giáo. Thiết nghĩ, những đề xuất trên có tính khả thi và mong rằng Giáo hội sẽ sớm ban hành hướng dẫn cụ thể cho những hành giả tu tập theo truyền thống này. Có lẽ, đây cũng là mong mỏi chung của những người con Phật mong muốn nhìn thấy hình ảnh truyền thống có ý nghĩa của Phật giáo được duy trì. Trong khi chờ đợi, thiết nghĩ, những vị sư bên tăng đoàn nam truyền và những vị phát nguyện hành trì hạnh nguyện này nên có những đề xuất và có chương trình cụ thể để trình Giáo hội xin phép được tiếp tục hành trì. Như vậy, việc phục hoạt sẽ sớm trở thành hiện thực hơn là chúng ta cứ trông chờ từ Giáo hội trong khi Giáo hội có rất nhiều việc phải giải quyết. Điều đó cũng thể hiện ý chí của những hành giả Phật giáo không khuất phục trước những khó khăn để vượt qua những thách thức mà Phật giáo đối mặt cũng như góp phần phổ biến Phật giáo trong nhân gian. Đó là cách hành xử tích cực hơn nhiều so với sự thất thủ, lùi bước an toàn mỗi khi có những khó khăn hay thử thách xảy đến. Trên tinh thần hoằng pháp về văn hóa tâm linh, hình ảnh tăng đoàn khất thực hôm nay sẽ tạo nên bức tranh sinh động về một hình ảnh tăng đoàn thời đức Phật, tạo nên một nét văn hóa Phật giáo truyền thống. Song song với các hình thức tổ chức lễ hội Phật giáo, nên chăng chúng ta cũng tổ chức ít nhất mỗi năm 2 lần khất thực tập thể như tăng đoàn thời đức Phật vào tuần lễ Phật đản và mùa Vu lan. Sẽ thật có ý nghĩa về giá trị văn hóa nếu Phật giáo Việt nam thực hiện được điều này trong thời gian sắp tới. Theo daophatngaynay
|
|