Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinhBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kinh
* Bát-nhã kinh
o Bát-nhã tâm kinh
o Bát thiên tụng bát-nhã kinh
o Kim Cương kinh
o Tiểu phẩm bát-nhã kinh
o Đại phẩm bát-nhã kinh
* Đại Nhật kinh
* Pháp Hoa kinh
* Hoa Nghiêm kinh
* Lăng-nghiêm kinh
* A-di-đà kinh
* Kim quang minh kinh
* Tô tất đế yết la kinh
* Thắng Man kinh
* Thập địa kinh
* Duy-ma-cật sở thuyết kinh
* Giải thâm mật kinh
* Nhập Lăng-già kinh
* Niết bàn kinh
* Lão Tử hóa hồ kinh
* Bộ kinh & A-hàm kinh
o Trường bộ
o Trung bộ
o Tăng chi bộ
o Tiểu bộ
o Tương ưng bộ
o Từ kinh
o Bản sinh kinh
o Tứ niệm xứ kinh
o Niết bàn kinh
* Tịnh độ Tam Kinh
o Phật thuyết vô lượng thọ kinh
o Phật thuyết A Di Đà kinh
o Quán vô lượng thọ kinh
Luận
* A-tì-đạt-ma
* Bảo tính luận
* Bồ-đề đạo đăng luận
* Câu-xá luận
* Du-già sư địa luận
* Duy thức nhị thập tụng
* Đại thừa khởi tín luận
* Nhập Bồ-đề hành luận
* Nhiếp đại thừa luận
* Tập Bồ Tát học luận
* Nhiếp chân thật luận
* Tập lượng luận
* Thành duy thức luận
* Trung quán luận
* Thanh tịnh đạo luận
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âm Hán Việt: Bàn nhược ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.
Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.
Mục lục
[ẩn]
* 1 Lịch sử
* 2 Dị bản
* 3 Nội dung
o 3.1 Bản dịch Việt
+ 3.1.1 Giải nghĩa câu chú
o 3.2 Bản dịch Việt phổ thơ lục bát
o 3.3 Bản dịch Hán
+ 3.3.1 Bản phiên âm Hán-Việt
o 3.4 Bản tiếng Phạn
+ 3.4.1 Chữ Devanāgarī
+ 3.4.2 Chữ Siddhaṃ
* 4 Chú thích
* 5 Tham khảo
o 5.1 Việt ngữ
o 5.2 Anh ngữ
o 5.3 Phạn ngữ
o 5.4 Hoa ngữ
[sửa] Lịch sử
Tình trạng xuất hiện của kinh này không được các tác giả thống nhất nhau. Thời điểm ra đời của nó có thể là từ năm 100 TCN đến thế kỷ thứ 2 và một số tác giả cho rằng bài kinh này do bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) viết.
Bản kinh phổ biến nhất ở Việt Nam là bản của sư Trần Huyền Trang (Tam Tạng) sau khi thỉnh kinh về đã dịch lại vào năm 649. Trước đó đã có nhiều sư dịch từ tiếng Phạn ra Hán ngữ trong đó có Cưu Ma La Thập (402-412), Nghĩa Huyền, Pháp Nguyệt, Bát Nhã và Lợi Ngôn, Trí Tuệ Luận, Pháp Thành, và Thi Hộ.
Kinh cũng đã được sự chú giải của rất nhiều sư từ nhiều quốc gia. Riêng ở Việt Nam, người chú giải kinh này đầu tiên là thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động (tỉnh Ninh Bình) thời vua Minh Mạng.
[sửa] Dị bản
Về đại cương thì các bản văn đều khá rõ và giống nhau nhưng về chi tiết ngay các bản chữ Phạn để lại cũng có chi tiết khác nhau. Dĩ nhiên là trong các bản dịch đều có những chi tiết khác nhau nhỏ (tiếng Hán, tiếng Pháp và tiếng Việt).
Trong thập niên cuối của thế kỷ 19 thì bản kinh mới được Samuel Beal dịch ra Anh ngữ.
Edward Conze, một nhà nghiên cứu Phật học Anh (1904-1979) với nhiều công nghiên cứu đã không thể tìm thấy được bài văn nguyên thủy của kinh này, mặc dù đã có nhiều bằng chứng cho thấy có một nguyên bản ban đầu của kinh này.
Toàn bộ bộ kinh lớn Đại Bát Nhã cũng đã bị quân Hồi giáo tiêu hủy khi họ đánh chiếm Đại học Phật giáo Nalanda. (Xem thêm Lịch sử Phật giáo.)
Khi so lại bản dịch phổ biến hiện nay hầu hết dịch lại từ bản Hán ngữ của sư Trần Huyền Trang với một phiên bản khác còn lưu lại được trong Tạng ngữ thì bộ kinh này thiếu vắng phần khai kinh và phần kết luận hoan hỉ vâng làm theo của chư vị nghe giảng kinh. Trong bản dịch từ Tạng ngữ, phần này vẫn còn đầy đủ[1]
[sửa] Nội dung
[sửa] Bản dịch Việt
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Này Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Này Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
Gate gate pàragate pàrasamgate bodhi svàhà.
[sửa] Giải nghĩa câu chú
Tiếng Phạn
Chữ Devanāgarī Chữ Latin hóa Phát âm (theo IPA) Âm Hán Việt Dịch nghĩa
गते गते Gate gate [gəteː gəteː] Yết đế, yết đế Vượt qua, vượt qua
पारगते Pàragate [pɑːɾə gəteː] Ba la yết đế Vượt qua bờ bên kia
पारसंगते Pàrasaṃgate [pɑːɾəsəm gəteː] Ba la tăng yết đế Vượt qua hoàn toàn
बोधि स्वाहा Bodhi svàhà [boːdɦɪ sʋɑːhɑː] Bồ đề tát bà ha Tuệ giác Thành tựu.
Theo giảng giải của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14[2] thì mỗi chữ trong câu chú trên tương ứng với một lộ trình tu tập Bồ-tát giới từ thấp đến cao đó là:
* gate -- Lộ trình tích lũy hay tích lũy đạo
* gate -- Lộ trình chuẩn bị hay gia hành đạo
* paragate -- Lộ trình tri kiến hay kiến đạo
* parasamgate -- Lộ trình thiền định hay tu tập đạo
* bodhi -- Lộ trình vô học hay vô lậu học đạo
[sửa] Bản dịch Việt phổ thơ lục bát
Khi hành Bát Nhã Ba La
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
Thấy ra năm uẩn đều Không
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua
Nầy Xá Lợi Tử xét ra
Không là sắc đó, sắc là không đây
Sắc cùng không chẳng khác sai
Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau
Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn, một màu không không
Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng
Không không tướng ấy, đều không tướng hình
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
Vậy nên trong cái chơn không
Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
Từ không giới hạn mắt nhìn
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng
Hết vô minh, cũng vẫn không
Hết già, hết chết, cũng không có gì
Không khổ, tập, diệt, đạo kia
Trí huệ chứng đắc cũng là không không
Sở thành, sở đắc bởi không
Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng
Tâm không còn chút ngại ngăn
Nên không còn chút băn khoăn sợ gì
Đảo điên mộng tưởng xa lìa
Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ
Ba đời chư Phật sau, xưa
Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.
Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha
[sửa] Bản dịch Hán
Bản này do Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。舍利子。是諸法空相。 不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦 無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若 波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。說般若波羅蜜多咒即說咒曰 揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶
[sửa] Bản phiên âm Hán-Việt
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệc, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
[sửa] Bản tiếng Phạn
[sửa] Chữ Devanāgarī
BatNhaTamKinhTiengPhan1.gif
BatNhaTamKinhTiengPhan2.gif
BatNhaTamKinhTiengPhan3.gif
[sửa] Chữ Siddhaṃ
Heart sutra sdh.jpg
[sửa] Chú thích
1. ^ Xem bản dịch đầy đủ từ Tạng ngữ của "Tâm Kinh" bằng Anh ngữ trong cuốn "How to Practice -- The way to a Meaningful Life" GS TS Jeffrey Hopkins. Nxb Pocket Books. 2002. ISBN:0743427084. Chương 9 (Trang 159-163)
2. ^ Xem thêm các chi tiết giải thích về các giai đoạn tu tập trong câu chú này qua sách "How to Practice -- The way to a Meaningful Life" của His Holiness the Dalai Lama biên dịch và hiệu đính bởi GS.TS. Jeffrey Hopkins. Nxb Pocket Books. 2002. ISBN:0743427084. Chương 12 (trang 201 -207)