|
Post by tk on Jun 5, 2012 20:51:11 GMT -5
Tiến trình nhận thức Ý môn (Ý môn lộ trình tâm) có thể khởi lên với một trong năm tiến trình ngũ môn đi trước; chúng cũng có thể khởi lên với tiến trình ý môn đi trước. Các thành phần và trình tự của tiến trình nhận thức là như nhau cho tất cả (lộ ý): theo quy luật tự nhiên của tâm (citta niyama) - Ngũ môn lộ trình của nhãn môn (nhĩ, tỷ, thiệt và thân môn) có cùng cấu trúc, với đối tượng tương ứng của chúng. Các thành phần và trình tự của tiến trình nhận thức ngũ môn (ngũ môn lộ trình) là như nhau đối với tất cả và hợp theo qui luật tự nhiên của tâm (Citta-niyama) - Thời gian (tồn tại) của một tâm gọi là sát na tâm (citta kkhaṇa). Tuổi thọ của sắc bằng mười bảy sát na tâm. - Mỗi tâm (citta) có một giai đoạn sanh (uppda) [↓], một giai đoạn trú (ṭhiti) [| ], và một giai đoạn diệt (bhaṅga) [↑] - Đối tượng của tâm hữu phần y hệt như nhau suốt kiếp sống. Nó chính là đối tượng của tốc hành tâm cuối cùng thuộc kiếp trước. - Giữa mỗi tiến trình tâm thường có một số bất định các tâm hử phần khởi lên, tùy theo người. Đức Phật có rất ít tâm hử phần giữa mỗi tiến trình tâm. Tiến trình nhận thức Ý môn (Ý môn lộ trình tâm) có thể khởi lên với một trong năm tiến trình ngũ môn đi trước; chúng cũng có thể khởi lên với tiến trình ý môn đi trước. Các thành phần và trình tự của tiến trình nhận thức là như nhau cho tất cả (lộ ý): theo quy luật tự nhiên của tâm (citta niyama) Mỗi tâm có 3 giai đoạn sanh [↓], trú [|], và diệt [↑] Đối tượng của hữu phần hoàn toàn giống nhau trong suốt kiếp sống. Đó là đối tượng của tốc hành tâm cuối cùng thuộc kiếp trước. Giữa mỗi tiến trình nhận thức có một số tâm hữu phần bất định khởi lên, tùy người. Một vị Phật có rất ít tâm hữu phần giữa mỗi lộ tâm. Cái “Biết” của mỗi tiến trình nhận thức được thực hiện bởi bảy tốc hành tâm. Sau tiến trình nhận thức đầu tiên (tiến trình nhận thức ngũ môn), thì một chuỗi tiến trình Ý môn sẽ theo sau. Toàn bộ phương thức diễn tiến như sau: 1. Tiến trình nhận thức ngũ môn ‘đón lấy’ đối tượng; trong trường hợp con mắt và cảnh sắc, nó chỉ nhận ra rằng có sắc vậy thôi. 2. Tiến trình Ý môn nhận thức màu sắc ấy, so sánh màu sắc hiện tại với một màu nào đó ở quá khứ; biết được màu sắc quá khứ. 3. Tiến trình Ý môn biết được màu đó là gì rồi; biết tên của màu ấy. 4. Tiến trình Ý môn biết ‘ý nghĩa’ của đối tượng; thấy toàn bộ hình ảnh, khái niệm, được quyết định bởi kinh nghiệm quá khứ (do ‘tưởng’-saññā) 5. Tiến trình Ý môn đánh giá và cảm nhận. Đây mới là sự mở đầu của nhận thức thực thụ, khi vọng tưởng (papañca) xảy ra thì nghiệp (kamma) được thực hiện, như chúng ta tưởng tri đối tượng là thường, lạc, ngã v.v... (Tiến trình nhận thức Ý môn thuộc Minh Sát (Vipassana) thấy các đối tượng là vô thường, khổ, vô ngã... 6. Với cùng đối tượng này, sẽ khởi lên vô số tiến trình tâm (hành - saṅkhara) để tăng cường nhận thức. Chính từ tiến trình nhận thức thứ năm trở đi mới có cái biết về sự thực chế định (khái niệm): ‘đàn ông’, ‘đàn bà’, ‘bình’, ‘chậu’, ‘vàng’, ‘bạc’ v.v... Và cũng từ tiến trình đó trở đi các trạng thái tâm thiện khởi lên từ như lý tác ý, với lòng kính trọng bậc thầy của mình, ảnh tượng Phật hay vị Tỳ khưu chẳng hạn; hoặc các trạng thái tâm bất thiện khởi lên từ phi lý tác ý, với sự luyến ái chồng, vợ, con cái, tài sản... chẳng hạn. Tiến trình sẽ tiếp tục cho đến khi tâm hướng đến một đối tượng mới
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 20:53:19 GMT -5
Biết và Thấy - Làm thế nào để thấy những mắc xích của Duyên Khởi
- Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Trong bài giảng vừa rồi, chúng ta đã bàn về cách phân biệt danh (nāma) và trong bài trước, chúng ta cũng đã bàn về cách phân biệt sắc (rūpa). Nếu hành giả có thể phân biệt được danh và sắc theo cách đã mô tả, hành giả cũng sẽ phân biệt được các nhân của chúng. Điều này có nghĩa là phân biệt được duyên khởi của các pháp (paticcasammuppāda). Duyên khởi ở đây muốn nói về cách các nhân và quả đã hoạt động như thế nào qua ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Bài liên quan: 0. Biết và Thấy - Khởi đầu con đường của Thánh nhân - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 1. Biết và Thấy - Làm thế nào để tu tập niệm hơi thở đạt đến An chỉ định - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 2. Biết và Thấy - Tu tập An chỉ định trên các đề mục Thiền như thế nào - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 3. Biết và Thấy - Tu tập Bốn Phạm Trú và Bốn Thiền Bảo Hộ - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 4. Biết và Thấy - Làm thế nào để phân biệt Sắc - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 5. Biết và Thấy - Phân biệt Danh - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 6. Biết và Thấy - Làm thế nào để thấy những mắc xích của Duyên Khởi - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 7. Biết và Thấy - Tu tập các Tuệ Minh Sát như thế nào để thấy Niết-bàn - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 8. Biết và Thấy -Những ước nguyện của Đức Phật và giáo pháp của Ngài - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 9. Biết và Thấy - Loại cúng dường cao thượng nhất - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Đức Phật dạy bốn cách để phân biệt duyên khởi tùy theo căn tánh của người nghe, và còn có một pháp thứ năm nữa do Tôn giả Xá Lợi Phất giảng được ghi lại trong Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidāmagga)[1]. Muốn giải thích những phương pháp này một cách chi tiết sẽ phải mất một khoảng thời gian, vì thế chúng ta sẽ chỉ tập trung vào hai phương pháp mà tại thiền viện Pa-Auk tôi thường dạy cho hầu hết các thiền sinh. Đó là pháp môn thứ năm của Tôn giả Xá Lợi Phất và pháp môn thứ nhất do đức Phật dạy trong "Kinh Đại Duyên" thuộc Trường Bộ và "Phẩm Nhân Duyên" trong Tương Ưng Bộ.[2] Cả hai phương pháp đều liên quan đến việc phân biệt năm uẩn hiện tại, quá khứ và vị lai[3]. Phân biệt uẩn nào trong đó là nhân và uẩn nào là quả. Khi hành giả có thể làm được điều này rồi, hành giả cũng có thể học để biết cách phân biệt duyên khởi theo những phương pháp khác mà kinh và chú giải dạy. Phương pháp thứ năm Tam Luân Trong Duyên Khởi Duyên khởi hay Thập Nhị Nhân Duyên (paticcasammuppāda) gồm mười hai chi phần.[4] Mười hai chi phần này có thể nói là gồm ba luân (vòng) - hai vòng thuộc về nhân (năm nhân) và một vòng thuộc quả (năm quả).[5] 1. Phiền não luân (Kilesavaṭṭa) - Vô minh (avijjā) - Ái (taṇhā) - Thủ (upādāna) 2. Nghiệp luân (Kammavaṭṭa) - Hành (saṅkhāra) - Nghiệp hữu (kammabhava) 3. Quả luân (Vipākavaṭta) - Thức (viññāṇa) - Danh Sắc (nāma rūpa) - Lục nhập (salāyatana) - Xúc (phassa) - Thọ (vedanā) Phiền não luân là nhân cho nghiệp luân, mà nghiệp luân này là nhân cho quả luân, nói cách khác, đó là sanh, già, chết (các chi phần thứ 11 và 12). Việc phân biệt duyên khởi đòi hỏi phải thấy được trình tự xoay của ba luân (vòng) này, và khởi đầu với sự phân biệt quá khứ. Hành Giả Phân Biệt Quá Khứ Của Mình Như Thế Nào? Để phân biệt quá khứ, hành giả bắt đầu bằng việc cúng dường hương hoa hoặc đèn nến tại một ngôi tháp (thờ Xá lợi), hoặc ảnh tượng đức Phật. Hành giả nên nguyện được tái sanh theo ý muốn, như nguyện trở thành một tỳ khưu, một tu nữ, một người nam, một người nữ hay chư thiên chẳng hạn. Sau đó, hành giả sẽ đi ngồi thiền, phát triển định và lần lượt phân biệt danh-sắc bên trong cũng như bên ngoài. Đây là điều cần thiết bởi vì nếu hành giả không thể phân biệt được danh-sắc bên ngoài thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phân biệt danh-sắc quá khứ. Lý do là vì phân biệt danh-sắc quá khứ cũng tương tự như phân biệt danh-sắc bên ngoài vậy. Kế tiếp, hành giả phải phân biệt danh-sắc xuất hiện khi đang thực hiện việc cúng dường tại tháp thờ Xá lợi hay hình tượng Phật, như thể đó là các đối tượng bên ngoài. Khi làm điều này, hình ảnh của hành giả lúc đang cúng dường sẽ xuất hiện, hành giả phải phân biệt tứ đại trong hình ảnh đó. Khi hình ảnh này phân tán ra thành những tổng hợp sắc (rūpa kalāpa), hành giả phải phân biệt tất cả sắc pháp thuộc sáu môn, đặc biệt là 54 sắc trong tâm - căn.[6] Lúc ấy, hành giả có thể sẽ phân biệt được tâm hữu phần và nhiều tiến trình ý môn khởi lên ở giữa. Hành giả nên nhìn vào các tiến trình ý môn ấy, quán sát cho đến khi thấy ra tiến trình ý môn thuộc phiền não luân với hai mươi tâm hành trong mỗi sát-na tâm tốc hành và tiến trình ý môn thuộc nghiệp luân với ba mươi bốn tâm hành trong mỗi sát-na tâm tốc hành. Ở đây, chúng ta có thể minh họa với một ví dụ thực tiễn, trường hợp đang cúng dường hương, hoa, đèn, nến trước một tượng Phật và phát nguyện được tái sanh thành một vị tỳ khưu. Trong trường hợp này: - Vô minh là ảo tưởng cho rằng "một vị tỳ khưu" thực sự hiện hữu. - Tham ái là lòng ao ước và mong mỏi đời sống của một vị tỳ khưu. - Thủ là sự chấp trước vào đời sống đó. Ba chi phần vô minh, ái, thủ này được tìm thấy trong các tâm tạo thành vòng phiền não (kilesavaṭṭa). Nếu hành giả nguyện được sanh làm người nữ: - Vô minh là ảo tưởng cho rằng "người nữ" thực sự hiện hữu. - Ái là lòng mong ước và khát khao cuộc sống làm người nữ. - Thủ là sự chấp trước vào đời sống người nữ ấy. Trong các ví dụ trên, hành (saṅkhāra) là tư thiện[7] (kusalacetanā) về sự cúng dường, và nghiệp (kamma) là nghiệp lực của chúng. Cả hai được tìm thấy trong các tâm tạo nên vòng nghiệp luân (kammavaṭṭa) của duyên khởi. Như vậy, khi hành giả có thể phân biệt được danh-sắc của nghiệp luân và phiền não luân thuộc quá khứ gần rồi, hành giả nên đi ngược trở về quá khứ xa hơn, tức là về một điểm thời gian nào đó trước lúc cúng dường và phân biệt danh-sắc giống như trên đã làm. Tiếp tục đi ngược xa thêm chút nữa và lập lại tiến trình. Theo cách như vậy, hành giả phân biệt danh-sắc của một ngày trước, một tuần trước, một tháng trước, một năm trước, hai năm trước, ba năm trước, v.v... Cuối cùng, có thể hành giả sẽ phân biệt ngay trở lại thời điểm của kiết sanh thức (paṭisandhi citta) phát sanh vào lúc thụ thai trong kiếp hiện tại của hành giả.[8] Khi đi tìm các nhân của sự thụ thai, hành giả phải đi ngược xa hơn nữa để thấy, hoặc là danh-sắc thuộc thời cận tử trong kiếp trước của hành giả, hoặc đối tượng của tốc hành tâm cận tử (maraṇā sanna javana citta). Có ba đối tượng khả dĩ cho tốc hành tâm cận tử là: 1. Nghiệp (kamma). Có những ý nghĩ tạo ra một hành động thiện hoặc ác đặc biệt trong quá khứ, như bố thí hoặc sát sanh chẳng hạn. 2. Nghiệp tướng (kammanimitta). Ở đây có thể là một ngôi tháp, một vị tỳ khưu, hương hoa hoặc một đối tượng cúng dường. 3. Thú tướng (gatinimitta). Nơi hành giả phải thọ sanh. Đối với trường hợp sanh lại làm người thì đó là bào thai của người mẹ tương lai và thường có màu giống như một tấm thảm đỏ. Đối tượng xuất hiện do nghiệp lực tạo ra kiết sanh thức (paṭisandhicitta)[9]. Khi hành giả phân biệt điều này, có thể hành giả cũng sẽ phân biệt được các hành và nghiệp vốn tạo ra các uẩn thuộc về quả (vipāka) của kiếp này và vô minh, ái, thủ kiếp trước[10]. Sau đó, hành giả nên phân biệt các tâm hành (danh pháp) khác của vòng nghiệp luân và phiền não luân. Những Ví Dụ Một Nữ Hành Giả Phân Biệt Điều Gì? Để làm cho vấn đề sáng tỏ hơn, chúng tôi đưa ra ví dụ về những gì một nữ hành giả có thể phân biệt. Khi nữ hành giả này phân biệt danh-sắc vào lúc cận tử, cô ta thấy được nghiệp của một nữ nhân đang cúng dường trái cây đến một vị tỳ khưu. Bắt đầu với tứ đại, cô xem xét thêm nữa danh-sắc của nữ nhân đó. Cô thấy rằng nữ nhân ấy là một thôn nữ rất nghèo và thất học. Người này đã suy nghĩ về sự đau khổ của mình và thực hiện việc cúng dường đến một vị tỳ khưu với ước nguyện được tái sanh làm một người nữ có học trong một thành phố lớn. Trong trường hợp này: - Vô minh (avijjā) là ảo tưởng cho rằng một nữ nhân có học thức ở thành phố lớn thực sự hiện hữu. - Mong ước khát khao kiếp sống làm người nữ học thức là ái (taṇhā). - Sự chấp trước vào kiếp sống làm người nữ học thức là thủ (upādāna). - Tư thiện (kusalacetanā) cúng dường trái cây đến một vị tỳ khưu là hành (saṅkhāra). - Nghiệp (kamma) là nghiệp lực của chúng. Trong kiếp này hành giả là một người nữ có học thức sống trong một thành phố lớn ở Myanmar (Miến Điện). Cô có thể (với chánh kiến) trực tiếp phân biệt được bằng cách nào nghiệp lực cúng dường trái cây trong kiếp trước của cô đã cho ngũ uẩn dị thục trong kiếp này. Khả năng phân biệt các nhân và quả theo cách này được gọi là Tuệ Phân Biệt Nhân Duyên (paccaya pariggaha ñāṇa). Một Hành Giả Nam Phân Biệt Những Gì? Đây là một ví dụ hơi khác một chút. Một nam nhân phân biệt thấy rằng quanh thời cận tử tốc hành tâm (maraṇā sanna javana citta) có bốn nghiệp tranh nhau. Đó là nghiệp dạy kinh, nghiệp thuyết pháp, nghiệp hành thiền và cuối cùng là nghiệp dạy thiền. Khi vị này thẩm sát xem nghiệp nào trong bốn nghiệp này đã tạo ra năm uẩn dị thục của kiếp này thì thấy rằng đó là nghiệp hành thiền. Khi thẩm sát thêm (để phân biệt đề mục thiền nào mình đã hành), vị ấy thấy đó là thiền minh sát (vipassanā) thấy vô thường, khổ và vô ngã trong danh-sắc. Thẩm sát thêm nữa, vị ấy thấy rằng, trước và sau mỗi thời tọa thiền, vị ấy đã nguyện được tái sanh lại làm người nam, được xuất gia làm tỳ khưu và là một tỳ khưu làm công việc hoằng pháp. Trong trường hợp này: - Vô minh là ảo tưởng cho rằng một nam nhân, một vị sư, hoặc một vị sư làm công việc hoằng pháp là thực tại cùng tột (chân đế). - Ái là ao ước khát khao để được như vậy. - Thủ là chấp trước vào đó. - Hành là những hành động thuộc tu tập minh sát. - Nghiệp là nghiệp lực của chúng (những hành động ấy). Hành Giả Phân Biệt Các Kiếp Của Quá Khứ Thêm Nữa Như Thế Nào? Khi hành giả đã có thể phân biệt được kiếp quá khứ gần nhất của mình theo cách này, đồng thời có thể thấy năm nhân tiền kiếp là vô minh, ái, thủ, hành, nghiệp và năm quả của chúng trong kiếp hiện tại là kiết sanh thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ rồi, hành giả cần phải phân biệt lui dần trở lại kiếp thứ hai, thứ ba, thứ tư và có thể lui lại càng nhiều (kiếp quá khứ) bao nhiêu càng tốt theo cùng cách thức như trên. Nếu hành giả phân biệt một kiếp quá khứ hoặc tương lai trong cõi Phạm Thiên (Brahma), hành giả sẽ chỉ thấy ba căn - nhãn, nhĩ và ý - trái với sáu căn mà bình thường vẫn thấy ở các cõi chư thiên và nhân loại. Làm Thế Nào Để Phân Biệt Tương Lai? Một khi năng lực minh sát trí này đã được phát triển (nhờ phân biệt các nhân và quả qua các kiếp quá khứ ấy), hành giả có thể phân biệt các nhân và quả trong các kiếp tương lai theo cùng cách thức như thế. Tương lai mà hành giả sẽ thấy, tất nhiên vẫn có thể thay đổi, là kết quả của cả các nhân quá khứ lẫn hiện tại mà một trong số đó là "thiền" hành giả đang hành[11]. Để phân biệt tương lai, hành giả bắt đầu bằng cách phân biệt danh-sắc hiện tại rồi nhìn vào tương lai cho đến thời điểm chết trong kiếp này. Lúc đó, một nghiệp, hoặc nghiệp tướng hay thú tướng sẽ xuất hiện do sức mạnh của một nghiệp đặc biệt nào đó hành giả đã thực hiện trong kiếp này. Có thể lúc ấy hành giả sẽ phân biệt được danh-sắc kiết sanh (paṭisandhi nāma rūpa) vốn sẽ được tạo ra trong kiếp tương lai[12]. Hành giả phải cố gắng phân biệt được thật nhiều kiếp sống trong tương lai sao cho đến kiếp vô minh diệt không còn dư tàn. Điều này xảy ra cùng với sự chứng đắc A-la-hán Thánh đạo (Arahattamagga) của hành giả. Như vậy, hành giả cứ tiếp tục phân biệt vào trong tương lai cho đến khi thấy được rằng năm uẩn, danh-sắc diệt không còn dư tàn, nghĩa là, vào cuối của kiếp đắc A-la-hán, lúc Bát Niết-bàn hay nhập Vô Dư Niết-bàn của hành giả. Lúc đó hành giả sẽ thấy rằng với sự diệt của vô minh, danh-sắc cũng diệt, đồng thời hành giả cũng thấy ra sự diệt hoàn toàn của các pháp (dhamma), đó là không còn tái sanh nữa. Theo cách này hành giả phân biệt năm uẩn thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai, và cũng phân biệt luôn tương quan nhân quả của chúng. Đây là những gì chúng ta gọi là phương pháp thứ năm, do Tôn giả Xá Lợi Phất dạy. Sau khi hoàn tất việc phân biệt, lúc này hành giả có thể học cách chúng ta gọi là phương pháp thứ nhất, một trong bốn phương pháp do đức Phật dạy. Phương Pháp Thứ Nhất Phương pháp thứ nhất[13] của phân biệt duyên khởi hay thập nhị nhân duyên (paticcasamuppāda) qua ba kiếp sống và theo chiều thuận. Phương pháp này bắt đầu với các nhân trong kiếp quá khứ, đó là vô minh và hành. Hai nhân tạo ra quả trong kiếp hiện tại: dị thục thức (bắt đầu với kiết sanh thức), danh sắc, lục nhập, xúc và thọ. Rồi, có các nhân trong kiếp này: ái, thủ, và hữu, tạo quả sanh, già, chết và mọi hình thức khác của khổ trong kiếp tương lai. Hành giả phải tìm ra vô minh, ái và thủ trong vòng phiền não (luân), thấy ra nó tác động đến vòng nghiệp luân như thế nào, và rồi nghiệp lực của nghiệp luân này đến lượt nó tạo ra năm uẩn lúc thụ thai, và trong suốt kiếp sống ra sao. Điều đó đã kết luận cho lời giải thích tóm lược của tôi về cách làm thế nào để phân biệt duyên khởi theo các phương pháp thứ nhất và thứ năm. Dĩ nhiên có rất nhiều chi tiết nữa mà hành giả có thể học ra qua việc thực hành với một bậc thầy thích hợp. Khi đã phân biệt đầy đủ các nhân của danh-sắc trong quá khứ, hiện tại và vị lai rồi, hành giả kể như đã hoàn tất tuệ minh sát thứ ha, Tuệ Phân Biệt Nhân Duyên (paccaya pariggaha ñāṇa). * HỎI ĐÁP 6 Hỏi 6.1: Nếu một hành giả hành pháp niệm hơi thở (ānāpānasati) nhưng không thể thấy "tướng" (nimitta), họ cần phải kiểm tra lại thân và tâm như thế nào để có thể trở nên tốt hơn và nhập vào thiền (jhāna) được? Nói cách khác, thế nào là những điều kiện cần thiết để có một "nimitta"? Đáp 6.1: Thực hành thường xuyên là điều cần thiết đối với mọi loại thiền. Trong niệm hơi thở, hành giả phải có chánh niệm về hơi thở trong mọi oai nghi, và nhất là phải làm điều ấy với lòng tôn kính. Khi đi, đứng hoặc ngồi, không niệm đối tượng nào khác ngoài hơi thở, tức là hành giả chỉ nên theo dõi hơi thở mà thôi. Cố gắng ngừng suy nghĩ, ngừng nói chuyện. Nếu hành giả cứ cố gắng liên tục theo cách này, sức tập trung của hành giả sẽ dần dần tốt hơn. Chỉ có định sâu và mạnh mẽ mới có thể tạo ra "tướng" (nimitta). Không có nimitta, đặc biệt là paṭibhāganimittta (tợ tướng), hành giả không thể đắc thiền (jhāna), vì đối tượng của thiền hơi thở (ānāpāna jhāna's object) là tợ tướng hơi thở. H 6.2: Oai nghi ngồi có ảnh hưởng gì đến khả năng tập trung và nhập thiền đối với người mới hành thiền không? Có nhiều hành giả ngồi thiền trên một cái ghế nhỏ, họ có thể nhập thiền được không? Đáp 6.2: Oai nghi ngồi rất tốt đối với những người mới hành thiền. Nhưng với những ai đã có đủ ba-la-mật (pāramī) trong niệm hơi thở rồi thì có thể nhập thiền ở bất kỳ oai nghi nào. Một vị hành giả thiện xảo (khéo léo) cũng có thể nhập thiền ở bất cứ oai nghi nào. Vì thế, họ có thể nhập thiền được khi đang ngồi trên ghế. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) và Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhūti) là những điển hình cho việc này. Chúng ta biết, Tôn giả Xá Lợi Phất rất thành thạo trong việc nhập diệt tận định. Khi đi bát trong làng, Ngài luôn nhập thiền diệt tại mỗi nhà trước khi nhận phần cúng dường của họ. Ngài chỉ nhận của cúng dường sau khi đã xuất khỏi diệt tận định. Đó là hạnh nguyện của Ngài. Tôn giả Tu Bồ Đề lại rất thành thạo trong thiền tâm từ. Ngài cũng nhập thiền tâm từ ở mỗi nhà trước khi nhận của cúng dường. Nghĩa là chỉ sau khi xuất khỏi thiền tâm từ, Ngài mới nhận phần cúng dường của thí chủ. Tại sao các Ngài làm vậy? Vì muốn cho thí chủ có được lợi ích cao nhất. Các Ngài biết rằng, nếu các Ngài làm thế thì thiện nghiệp vô lượng và thù thắng sẽ khởi lên trong tiến trình tâm của các vị thí chủ. Các Ngài có lòng từ mẫn như vậy đối với những thí chủ cần phải được thế. Như vậy, họ có thể nhập thiền trong khi đang ở oai nghi đứng. Từ những ví dụ này hành giả có thể suy nghiệm về thiền hơi thở cũng theo cách tương tự. Hỏi 6.3: Đối tượng của tứ thiền hơi thở là gì? Nếu ở tứ thiền không còn hơi thở, làm thế nào có thể có một nimitta được? Đáp 6.3: Mặc dù không có hơi thở vô và hơi thở ra, nhưng ở tứ thiền hơi thở vẫn có tợ tướng (paṭibhāganimitta). Tợ tướng hơi thở ấy xuất phát từ hơi thở bình thường, tự nhiên. Đây là lý do vì sao đối tượng (của tứ thiền) vẫn là hơi thở vô - ra (assāsa - passāsa). Điều này đã được giải thích trong Phụ chú giải của Thanh Tịnh Đạo (Visudhimagga Sub-commentary)[14]. Hỏi 6.4: Người hành thiền có thể nhập vào một thiền chứng vô sắc (arūpajhāna samāpatti), hoặc hành thiền tâm từ trực tiếp từ niệm hơi thở được không? Đáp 6.4: Hành giả không thể nhập vào một thiền chứng vô sắc trực tiếp từ tứ thiền hơi thở được. Vì sao? Các thiền vô sắc, đặc biệt là Không vô biên xứ thiền (ākāsānañcāyatana jhāna), được đạt đến bằng cách loại bỏ một đối tượng kasiṇa nào đó. Sau khi loại bỏ đối tượng kasiṇa và tập trung vào khoảng không (ākāsa) còn lại thì đối tượng của Không vô biên xứ thiền sẽ xuất hiện. Khi hành giả thấy hư không, hành giả phải mở rộng nó ra dần dần. Và khi nó đã được mở rộng theo mọi hướng, đối tượng kasiṇa sẽ biến mất. Hành giả phải mở rông khoảng không ấy cho đến vũ trụ vô biên. Đó là đối tượng của Không vô biên xứ thiền. Thiền này đến lượt nó lại trở thành đối tượng của Thức vô biên xứ thiền (viññānañcāyatana jhāna). Sự phi hữu hay vắng mặt của Không vô biên xứ thiền là đối tượng của Vô sở hữu xứ thiền (ākiñcaññāyatana jhāna). Thiền này cuối cùng là đối tượng của Phi tưởng - phi phi tưởng xứ thiền (neva saññā nā saññāyatana jhāna). Như vậy, bốn thiền vô sắc đều dựa trên tứ thiền kasiṇa và đối tượng của nó. Không loại bỏ kasiṇa hành giả không thể đi vào các thiền vô sắc được. Do đó, nếu một hành giả hành niệm hơi thở đến tứ thiền rồi, muốn đi vào các thiền vô sắc, trước tiên vị ấy phải hành mười kasiṇa cho đến tứ thiền đã. Chỉ khi ấy hành giả mới có thể tiếp tục đi vào thiền vô sắc được[15]. Trường hợp hành giả muốn hành thiền tâm từ (mettā bhāvanā) từ tứ thiền hơi thở, hành giả có thể làm được không có vấn đề gì. Hành giả phải thấy được "người" là đối tượng của thiền tâm từ với ánh sáng của tứ thiền hơi thở. Nếu ánh sáng của hành giả không đủ mạnh, có lẽ cũng có một chút vấn đề. Tuy nhiên điều đó rất hiếm. Nếu sau khi đã đắc tứ thiền kasiṇa trắng, hành giả hành thiền tâm từ có thể sẽ nhanh chóng thành công. Đó là lý do vì sao ở đây chúng tôi dạy thiền kasiṇa trắng trước thiền tâm từ[16]. Hỏi 6.5: Làm thế nào một người có thể quyết định được khi nào thì chết, đó là, chọn ngày giờ chết cho mình? Đáp 6.5: Nếu hành giả đã hành niệm hơi thở đến A-la-hán Thánh đạo, hành giả có thể biết chính xác ngày giờ nhập Niết-bàn của mình. Thanh Tịnh Đạo có đề cập trường hợp một vị Trưởng lão nhập Vô Dư Niết-bàn (parinibbāna) lúc đang đi kinh hành. Đầu tiên, vị ấy vạch một đường trên con đường kinh hành của mình rồi nói với các tỳ khưu bạn rằng mình sẽ nhập Niết-bàn khi đi đến vạch này. Điều đó đã xảy ra một cách chính xác như Ngài đã nói. Những vị không phải A-la-hán cũng có thể biết được thọ mạng của họ nếu đã hành pháp duyên khởi (paticcasamuppāda), tương quan giữa các nhân và quả của quá khứ, hiện tại và vị lai, nhưng không tuyệt đối chính xác như vị Trưỡng lão vừa đề cập. Tức là họ không biết chính xác thời gian, chỉ có thể biết trong giai đoạn nào thì họ sẽ chết vậy thôi. Nhưng những người này không phải chết hoặc nhập Vô Dư Niết-bàn theo ý muốn của họ mà là hợp theo quy luật của nghiệp. Có một bài kệ do Tôn giả Xá Lợi Phất bày tỏ có thể cho chúng ta hiểu được điều này. "Nābhinandāmi jīvitaṃ, nābhinandāmi maraṇaṃ, kālañca patikankhāmi, nibbisaṃ bhatako yathā." (Ta không vui thích sống, cũng không vui thích chết. Ta chờ thời Niết-bàn, như người làm chờ lương.) Khi một người mong mỏi được chết như vậy thì cái chết đó gọi là "chết do quyết định" (adhimuttimaraṇa). Cái chết này thường chỉ có các vị Bồ tát đã hoàn thiện mới có thể thực hiện. Tại sao các ngài làm vậy? Khi các ngài tái sanh thiên giới, nơi đây không có cơ hội để tu tập các ba-la-mật. Các ngài không muốn phí thời gian, vì thế mà có lúc các ngài quyết định chết (trước thời hạn) mong được tái sanh vào cõi nhân loại ngõ hầu tu tập các ba-la-mật. Hỏi 6.6: Nếu một ngày nào đó chúng ta bị chết trong một tai nạn, chẳng hạn như rớt máy bay, liệu lúc đó tâm chúng ta có thể "rời khỏi thân" để chúng ta không có sự đau đớn nào về thể xác không? Làm thế nào? Do năng lực hành thiền liệu người ta có thể không cảm thấy sợ hãi vào lúc đó và được giải thoát không? Mức độ định nào được đòi hỏi phải có? Đáp 6.6: Mức độ định cần phải có là định thuộc Biến Hóa Thần Thông (iddhividha abhiññā). Với năng lực ấy, hành giả có thể thoát khỏi hiểm nguy. Nhưng nếu hành giả có một bất thiện nghiệp đã chín mùi để sẵn sàng cho quả rồi thì không được. Hãy nhớ đến trường hợp của Tôn giả Mục Kiền Liên. Ngài rất thành thạo trong việc sử dụng thần thông. Thế nhưng, đúng cái ngày mà bất thiện nghiệp của Ngài đã chín mùi thì Ngài không thể nhập thiền được nữa. Đây không phải do phiền não hay triền cái ngăn ngại mà chỉ là do nghiệp bất thiện của Ngài đến lúc cho quả. Đó là lý do vì sao mà bọn thảo khấu có thể nghiền nát xương Ngài. Nghĩ rằng Ngài đã chết, bọn cướp bỏ đi. Và chỉ lúc đó, Ngài mới có thể nhập thiền trở lại, đồng thời phục hồi các thần thông của mình. Ngài quyết định (adhiṭṭhāna) rằng, thân này hãy nguyên vẹn trở lại, rồi đến thỉnh cầu đức Phật cho phép Ngài được nhập Niết-bàn. Sau đó, Ngài trở về ngôi chùa Kalasīla của Ngài và nhập Niết-bàn ở đó. Chúng ta thấy, trước tiên, nghiệp bất thiện của Ngài cho quả, rồi nó hết hiệu lực. Chỉ khi đó Ngài mới có thể phục hồi các thần thông của mình. Như vậy, nếu hành giả không có nghiệp bất thiện sắp chín mùi, đồng thời có các năng lực thần thông thì có thể thoát khỏi tai nạn xảy ra. Tuy nhiên, với định lực của thiền bình thường và thiền minh sát không đủ để cứu hành giả khỏi sự hiểm nguy như vậy. Thực sự chúng ta có thể nói rằng, vì sao người này lại gặp tai nạn này chắc chắn phải do nghiệp bất thiện của họ đến lúc cho quả vậy thôi. Tâm không thể "rời khỏi" thân vì tâm sanh nương vào một trong sáu căn. Sáu căn này là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn. Những căn này nằm trong thân chúng ta. Một tâm không thể khởi lên trong cõi nhân loại này mà không có căn. Đó là lý do vì sao nói tâm không thể rời khỏi thân[17]. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi có thể đưa ra giả thiết là nếu hành giả có thiền thì vào lúc tai nạn xảy ra, hành giả cần phải nhanh chóng nhập thiền. Điều đó có nghĩa hành giả cần phải hoàn thiện khả năng làm chủ việc nhập thiền của mình. Nếu ngay lúc nguy hiểm hành giả nhập thiền được thì nghiệp thiện đó có thể cứu hành giả, tuy nhiên chúng ta không thể nói chắc. Còn nếu hành giả đang ở trong thiền vào lúc sát-na tử (xảy ra), hành giả có thể tái sanh vào một trong những cõi Phạm thiên. Trường hợp hành giả thiện xảo trong minh sát (vipassanā), hành giả phải đang thực hành lúc xảy ra nguy hiểm, tức là phải quán tính chất vô thường, khổ và vô ngã của pháp hành (saṅkhāra dhamma). Nếu hành giả có thể thực hành minh sát một cách triệt để trước khi cái chết xảy ra, hành giả có thể đắc một trong các đạo quả và đạt đến cảnh giới vui sau khi chết. Còn nếu đắc A-la-hán Thánh quả, hành giả sẽ nhập Vô Dư Niết-bàn (parinibbāna). Tuy nhiên, nếu hành giả không có thần thông, chẳng có thiền, cũng không thể hành minh sát, hành giả vẫn có thể thoát nạn nhờ vào thiện nghiệp nâng đỡ. Tức là nếu hành giả có đủ thiện nghiệp bảo đảm thọ mạng lâu dài thì đó cũng có thể là một cơ hội để thoát khỏi hiểm nguy, giống như đức Bồ tát Mahàjanaka vậy. Ngài là người duy nhất sống sót trong một vụ đắm tàu. Sau khi bơi trong biển cả bảy ngày, bảy đêm, Ngài đã được một vị chư thiên cứu sống. Hỏi 6.7: Sau khi đắc đạo - quả, một vị Thánh (ariya) không thối chuyển thành phàm nhân (puthujjhana), đây là một quy luật tự nhiên (sammatta niyāma). Tương tự, người đã nhận được lời thọ ký thì không thể từ bỏ hạnh nguyện Bồ tát của mình. Đây cũng là một quy luật tự nhiên. Nhưng đức Phật lại tuyên bố rằng, các pháp là vô thường. Như vậy, những quy luật cố định này có hợp với quy luật vô thường không? Đáp 6.7: Ở đây, quý vị nên hiểu thế nào là cố định và thế nào là vô thường. Quy luật của nghiệp (kamma) công bố bất thiện nghiệp (akusalakamma) cho quả xấu và thiện nghiệp (kusalakamma) cho quả tốt. Đây là quy luật tự nhiên của nghiệp (kammaniyāma). Liệu điều đó có nghĩa rằng các thiện và bất thiện nghiệp là thường (nicca) không? Cứ thử suy nghĩ về điều đó xem! Nếu các thiện nghiệp là thường thì hãy suy xét điều này, hiện tại quý vị đang nghe pháp (dhamma) liên quan đến Thắng pháp (Abhidhamma) của đức Phật. Đây là thiện nghiệp thuộc về nghe pháp (dhammasā vena kusala kamma). Nó có thường không? Thử nghĩ về điều đó xem! Nếu điều đó là thường thì trong suốt cuộc đời, quý vị sẽ chỉ có nghiệp này mà không có các nghiệp khác. Quý vị có hiểu không? Thiện nghiệp cho quả tốt, bất thiện nghiệp cho quả xấu. Đây là quy luật tự nhiên, nhưng nó không có nghĩa rằng nghiệp là thường. Tư thiện (kusalacetanā)[18] và tư bất thiện (akusalacetanā) là nghiệp. Ngay vừa sanh lên, chúng sẽ diệt - tức vô thường. Đó là tính chất tự nhiên của chúng. Song nghiệp lực, khả năng tạo ra nghiệp quả, vẫn tồn tại trong tiến trình danh-sắc. Giả sử có một cây xoài. Hiện nay không có quả nào trên cây. Nhưng chắc chắn rằng một ngày kia, nếu đủ duyên, nó sẽ cho quả. Đây là quy luật tự nhiên. Quý vị có thể nói khả năng sanh quả đã hiện hữu trong cây. Khả năng đó là gì? Nếu chúng ta nghiên cứu lá, cành, vỏ và cuống của nó, chúng ta không thể thấy điều đó. Nhưng như thế không có nghĩa là nó không tồn tại, bởi vì một ngày kia cây xoài sẽ cho quả, nếu không có môt điều kiện bất thường nào cản trở. Cũng thế, chúng ta không nói thiện nghiệp và bất thiện nghiệp là thường. Chúng ta chỉ nói nghiệp lực tồn tại trong tiến trình danh-sắc như một khả năng, và rằng, một ngày nào đó, khi lực ấy chín mùi, nó sẽ cho quả của nó.
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 20:54:24 GMT -5
Bây giờ, chúng ta bàn đến quy luật cố định, quy luật tự nhiên (sammatta niyāma)[19]. Chúng ta nói các pháp thuộc đạo và quả là các pháp thuộc quy luật tự nhiên, nhưng chúng ta không bảo rằng chúng là thường (nicca). Các pháp ấy cũng vô thường (anicca), song sức mạnh của đạo tuệ vẫn tồn tại trong tiến trình danh-sắc của những vị đã đạt đến một đạo, quả và Niết-bàn. Sức mạnh hay năng lực ấy tồn tại theo quy luật tự nhiên, cố định và có một hệ quả tự nhiên. Chẳng hạn, năng lực của Nhập Lưu Thánh đạo (Sotāpattimagga) dẫn đến Nhập Lưu Thánh quả (Sotāpattiphala), và là một nhân hỗ trợ cho các quả chứng cao hơn. Nhưng nó không thể đưa đến những quả thấp hơn. Đây cũng là một quy luật tự nhiên. Ở đây, quý vị nên suy xét đến điều này: để đắc A-la-hán Thánh quả không phải là dễ. Quý vị phải thực hành với nỗ lực lớn, yếu tố kiên trì mãnh liệt là cần thiết. Chẳng hạn, trong kiếp chót của đức Bồ tát Sakyamuni (Thích Ca Mu Ni), Ngài đã thực hành rất gian khổ (hơn sáu năm trường) để đắc A-la-hán Thánh quả kết hợp với Toàn Giác Trí (Sabbaññuta Ñāṇa, còn gọi là Nhất Thiết Trí). Quý vị có thể tưởng tượng là nó gian nan biết chừng nào! Vì thế, nếu sau khi đắc A-la-hán Thánh quả với muôn vàn khó khăn như thế, Ngài lại trở thành phàm nhân (puthujjhana) thì quả của việc thực hành này sẽ là gì? Quý vị nên suy nghĩ thận trọng về điều này. Liên quan đến sự kiện vừa nêu, chúng ta hãy nhìn xem khi nào thì một vị Bồ tát có thể nhận được một lời thọ ký xác định. "Manussattaṃ lingasampatti, hetu satthāradassanaṃ; Pabbājjā guṇasampatti, adhikāro ca chandatā; Aṭṭhadhammasamodhāna abhinīhāro samijhati." Một vị Bồ tát có thể được thọ ký xác định khi tám điều kiện sau đây được hoàn tất: 1. Manussattaṃ: phải là người. 2. Liṅgasampatti: phải là nam nhân. 3. Hetu: nhân. Có các ba-la-mật đủ để đạt đến Thánh quả A-la-hán trong khi nghe một vị Phật thuyết một câu kệ ngắn liên hệ đến Tứ Thánh Đế. Điều này có nghĩa, vị ấy trước đó đã phải thực hành minh sát một cách triệt để cho đến "Hành Xả Tuệ". 4. Satthāradassanaṃ: tương kiến bậc Đạo sư, nghĩa là phải gặp một vị Phật. 5. Pabbājja: xuất gia. Phải là người xuất gia, có thể là đạo sĩ hoặc tỳ khưu và có đức tin vững chắc đối với quy luật nghiệp báo. 6. Guṇasampatti: phải có tám thiền chứng và ngũ thông. 7. Adhikāro: phải có ba-la-mật đủ để tiếp nhận một lời thọ ký xác định nơi một vị Phật. Nghĩa là trong các kiếp trước, vị ấy đã phải hành các ba-la-mật cần thiết để đạt đến Toàn Giác Trí (Sabbaññuta Ñāṇa). Nói cách khác, vị ấy đã phải gieo những hạt giống trí tuệ (vijjā) và đức hạnh (carana) để có được Toàn Giác Trí trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật quá khứ. Theo "Yasodharā Apadāna" thì thái tử Sĩ-đạt-ta tương lai đã phát nguyện đắc Toàn Giác Trí trước mặt hàng tỷ vị Phật (công chúa Da-du-đà-la tương lai cũng đã nguyện cho Ngài đạt được như vậy) và đã tu tập các ba-la-mật dưới sự hướng dẫn của các vị Phật này. Chẳng hạn, trên con đường tu tập các ba-la-mật, Ngài đã lấy thân mình làm cầu cho đức Phật Dīpankāra (Nhiên Đăng) và một trăm ngàn vị tỳ khưu băng qua, vẫn biết rằng hành động này phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. 8. Chandata: hoài bão mãnh liệt. Phải có hoài bão mãnh liệt muốn đắc Toàn Giác Trí. Hoài bão như thế nào là mãnh liệt? Giả sử toàn thế gian này là hầm than đang cháy. Có người bảo rằng, "ngươi sẽ đắc Toàn Giác Trí nhờ băng qua hầm than đang cháy", vị ấy sẽ băng qua không chút do dự. Ở đây, xin hỏi quý vị, quý vị có dám băng qua hầm than đang cháy đó không? Đừng nói đến toàn thế gian, nếu chỉ từ Taiwan (Đài Loan) đến Pa-Auk (Miến Điện) là hầm than đang cháy, liệu quý vị có dám đi qua không? Nếu biết chắc rằng có thể đắc Toàn Giác Trí theo cách đó, đức Bồ tát sẽ băng qua hầm than đang cháy ấy liền. Đó là sức mãnh liệt của hoài bão muốn đắc Toàn Giác Trí của Ngài. Nếu tám yếu tố này có mặt trong một vị Bồ tát, chắc chắn vị ấy sẽ nhận được lời thọ ký xác định từ một vị Phật. Những yếu tố này đã hiện hữu trong đức Bồ tát Sakyamuni của chúng ta khi Ngài còn là đạo sĩ Sumedha và thời đức Phật Nhiên Đăng. Đó là lý do tại sao Ngài được đức Phật Nhiên đăng thọ ký: "Ông sẽ đắc Toàn Giác trí sau bốn a-tăng-kỳ (asankheyya) và một trăm ngàn đại kiếp (kappa) với tên Gotama (Cồ Đàm)." Ở đây, lời thọ ký ấy là "xác định" với nghĩa như thế nào? Được gọi là xác định bởi nó không thể bị thay đổi. Điều đó không có nghĩa nó là thường. Danh-sắc của đức Phật Nhiên Đăng là vô thường. Danh-sắc của đạo Sumedha là vô thường. Đây là một sự thực, nhưng nghiệp lực, đặc biệt là nghiệp lực các ba-la-mật của họ không thể tiêu hoại khi vị ấy chưa đắc Toàn Giác Trí. Những lời nói của đức Phật Nhiên Đăng, được xem là lời thọ ký xác định, cũng không thể bị thay đổi và bị xem là hư ngụy được. Nếu những lời ấy bị thay đổi, do đó việc thọ ký xác định không phải là chân thật thì sẽ phát sinh ra vấn đề, một vị Phật đã nói lời hư vọng. Điều đó là không thể. Đức Phật chỉ đưa ra lời thọ ký khi Ngài thấy rằng tám điều kiện trên đã được hoàn thành. Chẳng hạn, nếu một người rất thành thạo trong nghề trồng trọt, đã trồng một cây chuối dưới những điều kiện thích hợp nhất, chắc chắn ông ta có thể nói cho quý vị biết cây chuối ấy sẽ ra quả trong bao lâu. Tại sao? Vì ông ta rất rành về trồng trọt, hơn nữa, ông còn thấy những bông hoa và lá nhỏ đang nhú ra từ cây. Cũng vậy, khi một người đã hoàn tất tám điều kiện, đức Phật có thể thấy được người ấy sẽ đắc quả Toàn Giác, đây là lý do Ngài đưa ra lời thọ ký xác định. Vào thời đức Phật Nhiên Đăng, Bồ tát Sakyamuni của chúng ta là đạo sĩ Sumedha, một phàm nhân. Kiếp cuối cùng, khi Bồ tát Sĩ-đạt-ta chưa giác ngộ cũng vẫn là phàm nhân. Chỉ sau khi giác ngộ, Ngài mới trở thành đức Phật Sakyamuni. Sau khi đắc A-la-hán Thánh đạo kết hợp với Toàn Giác Trí, Ngài không thể thay đổi A-la-hán đạo của mình được, đây là một quy luật cố định tự nhiên (Sammatta niyāma). Quy luật cố định ở đây là A-la-hán đạo không thể thay đổi. Như vậy, không có nghĩa A-la-hán đạo là thường, mà phải hiểu rằng kết quả của nó có mặt do một nghiệp lực không thể thay đổi được mà thôi. Điều này chính xác nghĩa là gì? Nó có nghĩa chắc chắn rằng A-la-hán Thánh đạo sẽ tạo ra A-la-hán Thánh quả, và chắc chắn rằng nó sẽ hủy diệt mọi phiền não, cả những bất thiện nghiệp lẫn thiện nghiệp, vì nếu không chúng sẽ cho quả sau khi nhập Vô Dư Niết-bàn. Quyluật của nghiệp này được gọi là quy luật cố định tự nhiên (quy luật cố nhiên) và không thể thay đổi được. Như vậy, quy luật cố định tự nhiên và một lời thọ ký xác định không mâu thuẫn với quy luật vô thường. Lại nữa, cũng cần giải thích thêm là, phát nguyện hay ước nguyện thôi thì không đủ để đắc Toàn Giác Trí. Khi các vị Bồ tát được thọ ký xác định thì tám điều kiện kể trên đã phải được hoàn thành. Hơn nữa một lời thọ ký xác định thôi vẫn không đủ để đưa đến Phật quả. Ngay cả sau khi thọ ký, các vị Bồ tát vẫn phải tiếp tục tu tập mười pháp ba-la-mật trên ba cấp độ:
1. Mười ba-la-mật căn bản (pāramī): từ bỏ vợ con và các tài sản bên ngoài. 2. Mười ba-la-mật bậc trung (upapāramī): từ bỏ tứ chi và các cơ quan (trong thân thể) như mắt, tay, v.v... 3. Mười ba-la-mật bậc thượng (paramattha pāramī): từ bỏ mạng sống. Hết thảy có ba mươi pháp ba-la-mật. Nhưng nếu tổng kết lại chúng ta chỉ có bố thí (dāna), giữ giới (sīla), tu tâm (bhāvanā), tức hành Thiền An chỉ và Minh sát. Ba-la-mật là những thiện nghiệp cao thượng. Các vị Bồ tát phải hoàn thiện các pháp ấy bằng cách từ bỏ (xả ly) tài sản hữu tình cũng như vô tình, chân tay và mạng sống của họ. Nếu hành giả tin mình là một vị Bồ tát, hành giả có thể và có muốn hoàn thiện các pháp ba-la-mật này không? Nếu có thể và nếu như hành giả cũng đã được một vị Phật thọ ký rồi thì một ngày nào đó hành giả sẽ đắc Toàn Giác Trí. Nhưng theo truyền thống Phật giáo Theravāda, chỉ một vị Phật duy nhất có thể xuất hiện ở một thời gian nhất định nào đó mà thôi. Còn họ phải hoàn thiện ba-la-mật của mình trong bao lâu? Sau khi đã được thọ ký, đức Bồ tát Sakyamuni của chúng ta đã tu tập các pháp ba-la-mật trong bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Đây là thơì gian ngắn nhất. Tuy nhiên chúng ta không thể nói đích xác là phải mất một thời gian bao lâu trước khi được thọ ký. Vì vậy, phát nguyện hay ước muốn thôi sẽ không đủ để trở thành một vị Phật. Hỏi 6.8: Khi một vị Thanh Văn bậc thường (pakatisāvaka) đã hành Chỉ-Quán lên đến Tuệ Phân Biệt Nhân Duyên, hoặc Sanh Diệt Tuệ, hoặc Hành Xả Tuệ, vị ấy sẽ không còn phải tái sanh vào bốn ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và Atula). Cho dù vị ấy có mất Chỉ-Quán do dễ duôi thì thiện nghiệp của việc hành Chỉ-Quán cũng vẫn tồn tại. Trong kinh "Sotānugata" cũng nói rằng vị ấy sẽ đạt đến Niết-bàn nhanh chóng[20]. Như vậy, tại sao trong phần Hỏi và Đáp ngày hai tháng sáu vừa rồi, Sayadaw có nói rằng một vị Bồ tát được một đức Phật thọ ký rồi, dù vị ấy đã hành thiền Chỉ-Quán cho đến Hành Xả Trí, vị ấy vẫn có thể bị tái sanh vào khổ cảnh[21]? Điều này được đề cập trong Kinh nào? Xin Sayadaw cho biết. Đáp 6.8: Sở dĩ có điều này là vì con đường thực hành của Bồ tát và con đường thực hành của vị Thanh văn thường không giống nhau. Quý vị có thể xác chứng điều này trong các bản Kinh Pāḷi - Buddhavamsa (Phật Sử) và Cariyapitaka (Hạnh Tạng). Hai con đường này khác nhau như thế nào? Mặc dù một vị Bồ tát đã được đức Phật thọ ký, vào lúc ấy, các ba-la-mật của họ vẫn chưa thành thục để đạt đến Toàn Giác Trí. Vị ấy còn phải tu tập các ba-la-mật thêm nữa. Chẳng hạn, sau khi được đức Phật Nhiên Đăng thọ ký, đức Bồ tát Sakyamuni còn phải tiếp tục trau dồi các ba-la-mật trong bốn a - tăng - kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Giữa kiếp được thọ ký và kiếp áp chót, một vị Bồ tát có lúc phải tái sanh trong loài súc sanh vì một nghiệp bất thiện trước đó. Lúc đó, Ngài vẫn chưa thể hủy diệt hoàn toàn nghiệp lực bất thiện. Vì vậy, khi các nghiệp bất thiện chín mùi, Ngài không thể thoát khỏi quả báo của chúng. Đây là một quy luật tự nhiên. Nhưng một vị Thanh văn bậc thường đã đắc Tuệ Phân Biệt Nhân Duyên, hoặc Sanh Diệt Tuệ, hoặc Xả Hành Tuệ, có các ba-la-mật đủ để đắc đạo - quả tuệ. Vì lý do này, họ đắc đạo - quả, tức là thấy Niết-bàn ngay trong kiếp này hoặc trong kiếp tương lai nào đó của họ. Đây cũng là một quy luật tự nhiên. Hỏi 6.9: Một vị A-la-hán cũng có thể đưa ra lời thọ ký xác định. Nên định nghĩa như thế nào về lời thọ ký xác định ở trường hợp này? Trong Kinh nào, hoặc trong nguồn tham khảo nào chúng ta có thể tìm thấy thông tin này? Đáp 6.9: Về các nguồn tham khảo, vui lòng xem trong bộ Phật Sử (Buddhavamsa) và Apadāna trong văn hệ Pāḷi. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng, chỉ các vị A-la-hán đặc biệt có Vị Lai Phần Trí (Anāgatamsa ñāṇa), một trí phụ tùy của Thiên Nhãn Thông (dibbacakkhu) mới có thể đưa ra lời thọ ký xác định. Hơn nữa, họ chỉ có thể thấy một số kiếp giới hạn trong tương lai chứ không phải nhiều a-tăng-kỳ hay đại kiếp như một vị Phật được. Hỏi 6.10: Có thể hành Vipassanā khi đang ở trong thiền chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ được không? Có thể tìm câu trả lời trong Kinh nào hay nguồn tham khảo nào? Đáp 6.10: Hành giả không thể hành Vipassanā khi đang trong bất kỳ thiền chứng nào - Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng là một thiền chứng (jhāna). Vì sao? Bởi vì trong việc tu tập minh sát, chúng ta thường không dùng những đối tượng giống nhau như thường dùng để tu tập thiền định được[22]. Hơn nữa, Jhāna (bậc thiền) chúng ta tu tập bằng cách tập trung vào một đối tượng duy nhất (tướng hơi thở - ānāpānanimitta, hoặc kasiṇa nimitta). Trong khi đó, chúng ta tu tập vipassanā bằng cách quán các đối tượng khác nhau. Chẳng hạn, đối tượng của các bậc thiền hơi thở là tợ tướng hơi thở - đây là một khái niệm chứ không phải là một sự thực tuyệt đối. Nhưng đối tượng của vipassanà không phải là một khái niệm mà là danh-sắc chân đế và các nhân của chúng kể cả các pháp thiền - jhāna dhamma (đó là 34 tâm hành thuộc sơ thiền, 32 tâm hành thuộc nhị thiền, 31 tâm hành thuộc tam thiền, tứ thiền và các thiền vô sắc)[23]. Chỉ sau khi đã xuất khỏi thiền người ta mới có thể hành minh sát - trên tâm và các tâm sở của bậc thiền ấy chẳng hạn. Điều này đã được đề cập trong kinh "Anupada" - Bất Đoạn. Đức Phật đã mô tả chi tiết cách thiền của Ngài Xá Lợi Phất trong mười lăm ngày sau khi đã đắc Nhập Lưu Thánh đạo [24]. Tôn giả Xá Lợi Phất nhập vào sơ thiền. Xuất khỏi sơ thiền, Ngài phân biệt từng tâm hành trong 34 tâm hành của thiền ấy, các trạng thái vô thường, khổ, vô ngã do thấy các giai đoạn sanh - trú - diệt của chúng. Theo cách này, Ngài lần lượt phân biệt cho đến Vô sở hữu xứ thiền. Đây gọi là minh sát các pháp riêng biệt (anupadadhamma vipassanā - cá biệt pháp quán), trong đó các tâm hành được phân biệt theo tuần tự từng pháp một. Nhưng khi đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài chỉ có thể phân biệt các tâm hành như một nhóm. Đây gọi là minh sát do thẩm sát theo nhóm (kalāpa sammasana vipassanā). Chỉ có đức Phật mới có thể phân biệt các tâm hành của Phi tưởng phi phi tưởng xứ theo tuần tự từng pháp một bởi vì chúng cực kỳ vi tế, ngay cả một bậc Thượng thủ Thanh văn như Tôn giả Xá Lợi Phất cũng không thể làm được. Hỏi 6.11: Một người kém trí nhớ, mắc bệnh hư giác, rối loạn thần kinh, đột quỵ hay rối loạn chức năng của não bộ và thần kinh có thể hành loại thiền này được không? Nếu được, người ấy cần phải thận trọng những gì? Đáp 6.11: Người như vậy vẫn có thể hành loại thiền này được, nhưng thường không thành công vì họ không thể tập trung đủ lâu. Nói "đủ lâu" ở đây có nghĩa rằng khi sự tập trung của một người mạnh mẽ và vững chắc, nó phải được duy trì trong nhiều giờ và trong nhiều thời tọa thiền mới được. Thường thì sự tập trung của những người mắc bệnh như vậy không kiên trì. Đây là vấn đề. Nếu họ có thể duy trì sự tập trung qua nhiều thời tọa thiền liên tục cũng như qua nhiều ngày và nhiều tháng thì họ có thể thành công. Có một điển hình nổi bật là trường hợp của Panṭācārā. Người chồng, hai đứa con, cha mẹ và anh em của bà đều chết cùng một ngày. Quá đau khổ, bà phát điên và bỏ đi lang thang không áo quần che thân. Một hôm, bà đến chùa Jetavana (Kỳ Viên ở Sāvatthi) gặp lúc đức Phật đang giảng pháp. Do công hạnh các ba-la-mật trong kiếp trước, cộng với lòng từ bi của đức Phật, bà đã lắng nghe pháp với lòng tôn kính. Lần hồi, tâm bà yên tịnh và hiểu được ý nghĩa của pháp. Chẳng bao lâu bà trở thành một vị Nhập Lưu (Sotāpanna). Bà xin phép xuất gia tỳ khưu ni và tiếp tục hành thiền. Nhờ có thể duy trì định tâm và phát triển minh sát trí mà một ngày kia, tâm thiền của bà chín mùi. Bà trở thành một bậc A-la-hán với Tứ Tuệ Phân Tích và các năng lực thần thông. Đức Phật xác nhận bà là người tinh thông giới luật đệ nhất trong số các tỳ khưu ni. Các ba-la-mật của bà đã được tu tập từ thời giáo pháp của đức Phật Padumuttara (Thượng Liên Hoa) cho đến thời kỳ giáo pháp của đức Phật Kassapa (Ca Diếp). Hồi đó, bà là công chúa con của vua Kikì. Bà đã hành phạm hạnh Komāri trong suốt hai mươi ngàn năm. "Komāri brahmaccariya" là giữ ngũ giới, nhưng thay vì giới không tà dâm, là phải giữ sự trong trắng hoàn toàn, Bà đã trau dồi Tam học giới, định, tuệ khi còn là người tại gia trong suốt hai mươi ngàn năm như vậy. Các ba-la-mật của bà đã chín mùi trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật Thích Ca. Bởi thế, dù điên loạn, bà vẫn có thể phục hồi tâm trí, hành theo Tam học và trở thành một vị A-la-hán. Khi hành thiền, người như vậy cần phải có bậc thiện tri thức (kalyānamimitta) giúp đỡ. Bậc thiện trí ở đây có thể là những vị thầy có phẩm chất đạo đức hay bạn đồng phạm hạnh tốt. Thuốc men và thực phẩm thích hợp cũng là những trợ giúp cần thiết. Từ kinh nghiệm riêng của mình, tôi thấy hầu hết những người như họ khó có thể duy trì sự tập trung, nên thường họ không thành công. Hỏi 6.12: Trường hợp một người không có những quan hệ tình cảm tốt đẹp của con người, nếu thành công trong việc đắc thiền thì có cải thiện được sự khéo léo của họ trong giao tiếp với mọi người không? Liệu việc đắc thiền có thể sửa được những vấn đề như vậy không? Đáp 6.12: Những vấn đề này thường phát sinh do tâm sân (dosa). Đó là một trong những triền cái (chướng ngại cho thiền). Bao lâu một người không thể thay đổi được thái độ này, họ không thể đắc thiền cũng như các đạo - quả. Một thí dụ rõ ràng cho điều này là trường hợp của Tôn giả Xa-nặc (Channa Thera). Ông sinh cùng ngày với đức Bồ tát của chúng ta, trong hoàng cung của vua Tịnh Phạn ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ). Là con của một nữ tỳ, ông trở thành một trong những người bạn thời thơ ấu của thái tử Sĩ-đạt-đa. Điều này sau đó khiến ông phát sanh tâm ngã mạn đối với mọi người. Ông nghĩ rằng: "Người này là vua của ta; đức Phật là bạn ta; Pháp (dhamma) là pháp của chúng ta. Khi Ngài rời bỏ hoàng gia, chính ta đã theo Ngài đến bờ sông Anoma chứ nào phải ai khác. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên v.v... cũng chỉ là những đóa hoa nở muộn mà thôi!" Vì nghĩ như vậy nên ông luôn luôn dùng những ngôn ngữ thô tháo, không có lòng tôn kính đối với các bậc trưỡng lão như Tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên và các vị khác. Vì thế, chẳng một ai có quan hệ thân thiện với ông. Khi đức Phật còn tại thế, ông không hề đắc thiền hay một đạo-quả nào vì không thể loại bỏ được tâm ngã mạn và sân hận của mình. Vào đêm nhập Vô Dư Niết-bàn, đức Phật dạy Tôn giả Ānanda nên thi hành hình phạt Phạm-đàn (Brahmadanda) đối với Tôn giả Channa. Phạm-đàn nghĩa là không người nào nói chuyện với Tôn giả Channa nữa dù ông ấy có muốn nói. Khi thấy không ai nói chuyện với mình thì lòng ngã mạn và sân hận của Tôn giả cũng mất. Tăng sự (Sanghakamma) này diễn ra trong ngôi chùa Ghositārāma ở Kosambī, năm tháng sau ngày Niết-bàn của đức Phật. Tôn giả Channa sau Tăng sự ấy bèn rời Ghositārāma, đi đến chùa Isipatana nơi vườn Lộc giả gần Benares. Ngài tinh tấn hành thiền nhưng không có kết quả. Vì thế, một hôm, Ngài đi đến Tôn giả Ānanda để thỉnh cầu giúp đỡ. Vì sao Ngài không thành công? Ngài cũng phân biệt tính chất vô thường, khổ và vô ngã của năm uẩn, nhưng lại không phân biệt duyên khởi (paṭticcasamuppāda). Tôn giả Ānanda đã dạy cho Ngài cách phân biệt duyên khởi, đồng thời còn dạy bài Kinh "Kaccānagotta" [25] cho Ngài. Sau khi nghe xong bài pháp, Tôn giả đắc Nhập Lưu. Ngài tiếp tục thực hành và chẳng bao lâu trở thành một vị A-la-hán. Vì thế nếu một người có thể thay đổi được cá tánh xấu của mình và hành Chỉ-Quán đúng cách, họ có thể đắc thiền cũng như đạo-quả.
-ooOoo-
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Ps. I.1.4. Dhammaṭṭhitiñānṇa Niddeso (Mô tả về Pháp Trú Tri - Standing on Phenomena Knowledge Description). Hoặc xem trong Vs.XVII "Paññā Bhūmi Niddesa" B653 ("Mô tả về Đất cho Tuệ sanh" N284 [2] Mahānidāna Sutta (Kinh Đại Duyên, D.11.2); Nidāna Vagga (Phẩm Nhân Duyên) S.11) [3] Ở đây, thiền sư Pa-Auk đang nói về năng lực thiền minh sát, vốn cho hành giả khả năng thấy chỉ năm thủ uẩn (S.A.III.I.VIII.7), chứ không phải nói về thần thông. Chúng ta biết Túc Mạng Thông (Pubbenivāsānussati abhiññā) có khả năng thấy: 1 - Các uẩn kết hợp với pháp siêu thế (lokuttara dhamma), đó là các uẩn (bốn/ năm trong Phạm Thiên giới; năm trong nhân/ thiên giới) của những người đã đắc một trong bốn Thánh đạo tâm và Thánh quả tâm; 2 - Các thủ uẩn (upādānakkhandha); 3 - Dòng tộc, tướng mạo, thức ăn, lạc và khổ, v.v... 4 - Các khái niệm như tên và chủng tộc v.v... [4] Xem lại Mahānidāna Sutta (Đại Duyên Kinh) D.11. hoặc AIII.II.11.I [5] Xem lại ghi chú cuối trang ở trên. [6] Cách phân biệt xem lại Bài IV "Làm Thế Nào Để Phân Biệt Sắc". [7] Tư (cetanā) là một tâm sở thuộc hành uẩn được đức Phật xác nhân là yếu tố quyết định tính chất đạo đức của nghiệp. [8] Trong cõi ngũ uẩn, danh-sắc phát sinh do duyên thức và ngược lại. Xem trên. [9] Xem lại câu trả lời 3.12. [10] Cũng có cái gọi là Phi quả thục uẩn (avipāka), có nghĩa các uẩn này là quả (phala) của một nhân (hetu). Chẳng hạn như trong sắc do tâm sanh, vốn không phải do nghiệp sanh. [11] Vấn đề tương lai sẽ thay đổi như thế nào, xem thêm trên. [12] Sanh (jāti) là sự thể hiện của các uẩn, các uẩn này cũng là danh-sắc. Xem thêm chi tiết ở Vs. XVIII. "Paññā Bhūmi Niddesa" (Mô tả Đất cho Tuệ sanh - Description of the Soil in which Understanding Grows.) [13] Xem "Mahānidāna sutta" (Kinh Đại Duyên D11.2); "Nidāna Vagga" S.11 [14] Trong trường hợp này, tướng hơi thở (ānāpānanimitta) vốn khởi lên nương theo hơi thở bình thường, tự nhiên cũng được gọi là hơi thở vô - ra (Assāsa - passāsa nissāya uppannanimitta patha assāsa - passāsa sāmaññameva vuttaṃ). Vs.T1.VIII. "Anāpānassati Kathā B215". [15] Chi tiết liên quan đến việc tu tập các thiền vô sắc [16] Xem câu trả lời 2.2 ở trên. [17] Về vấn đề thân - tâm hay danh-sắc phụ thuộc lẫn nhua, xem lại trên. [18] Tư (cetanā), một tâm sở trong nhóm hành, là sự cố ý, quyết tâm, chủ ý làm. Đức Phật bảo "tư là nghiệp". [19] Sammatta niyāma: chánh tánh quyết định. [20] A.IV.IV.V.I "Sotānugata sutta" [21] Xem lại câu trả lời 4.3. [22] Ngoài trừ các thiền chứng vô sắc thứ hai và thứ tư, khi hành giả tập trung vào tâm thuộc thiền vô sắc đi trước (không phải là một khái niệm). Xem lại phần "Bốn thiền vô sắc" ở trên. [23] Xem lại để biết cách phân biệt các tiến trình tâm. [24] M.III "Anupada sutta" - Bất Đoạn Kinh. [25] S.II "Kaccānagotta Sutta" và S.III "Channa Sutta".
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 20:56:51 GMT -5
Biết và Thấy - Tu tập các Tuệ Minh Sát như thế nào để thấy Niết-bàn
- Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Trong bài giảng vừa rồi, chúng ta đã bàn luận một cách tóm tắt làm thế nào để phân biệt duyên khởi theo phương pháp thứ nhất và thứ năm. Hôm nay, chúng ta sẽ bàn đến cách làm thế nào tu tập các minh sát tuệ để thấy Niết-bàn. Có mười sáu tuệ minh sát (Vipassanā ñāṇa) cần phải được tu tập theo tuần tự để thấy Niết-bàn. Bài liên quan: 0. Biết và Thấy - Khởi đầu con đường của Thánh nhân - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 1. Biết và Thấy - Làm thế nào để tu tập niệm hơi thở đạt đến An chỉ định - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 2. Biết và Thấy - Tu tập An chỉ định trên các đề mục Thiền như thế nào - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 3. Biết và Thấy - Tu tập Bốn Phạm Trú và Bốn Thiền Bảo Hộ - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 4. Biết và Thấy - Làm thế nào để phân biệt Sắc - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 5. Biết và Thấy - Phân biệt Danh - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 6. Biết và Thấy - Làm thế nào để thấy những mắc xích của Duyên Khởi - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 7. Biết và Thấy - Tu tập các Tuệ Minh Sát như thế nào để thấy Niết-bàn - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 8. Biết và Thấy -Những ước nguyện của Đức Phật và giáo pháp của Ngài - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 9. Biết và Thấy - Loại cúng dường cao thượng nhất - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Tuệ minh sát thứ nhất là Tuệ Phân Tích Danh Sắc (Nāmarūpapariccheda ñāṇa). Tuệ này đã được giải thích ở phần phân biệt danh-sắc rồi. Tuệ minh sát thứ hai là Tuệ Phân Biệt Nhân Duyên (Paccayapariggaha ñāṇa). Tuệ này cũng đã được giải thích trong bài giảng vừa rồi khi chúng ta nói về cách phân biệt các nhân của danh-sắc trong quá khứ, hiện tại và vị lai, đây cũng là cách phân biệt duyên khởi. Sau khi tu tập xong hai tuệ ấy, hành giả cần phải hoàn thiện chúng bằng cách phân biệt nhiều lần tất cả danh, tất cả sắc và tất cả các chi phần của duyên khởi theo đặc tính, nhiệm vụ, sự thể hiện và nhân gần của chúng. Thực sự, khó có thể giải thích điều này theo lối tóm tắt, tốt hơn là hành giả phải học thêm chi tiết vào lúc hành thực thụ. Bây giờ chúng ta sẽ đi vào các tuệ còn lại một cách tóm tắt. Làm Thế Nào Để Tu Tập Tuệ Thẩm Sát (Tam Tướng) Tuệ minh sát thứ ba là Tuệ Thẩm Sát (Sammasanañāṇa). Đó là thẩm sát các hành theo những phạm trù. Để tu tập tuệ này, hành giả chia các hành thành những phạm trù [1]. - Hai phạm trù là danh và sắc. - Năm phạm trù là năm uẩn [2]. - Mười hai phạm trù là mười hai xứ [3]. - Mười hai phạm trù là mười hai chi phần của duyên khởi [4]. - Mười tám phạm trù là mười tám giới [5]. Sau đó, hành giả quán ba đặc tánh (tam tướng) vô thường, khổ và vô ngã trong mỗi phạm trù. Chẳng hạn, đối với trường hợp của năm phạm trù, đức Phật trong "Kinh Vô Ngã Tướng" (Anattalakkhana Sutta) [6] đã dạy phân biệt năm uẩn (tất cả sắc, thọ, tưởng, hành và thức) với chánh trí tuệ theo ba cách: 1. "Cái này không phải của tôi" (netaṃ mama) 2. "Cái này không phải là tôi" (nesohamasmi) 3. "Cái này không phải tự ngã của tôi" (nameso attā) [7]. Và trong "Khandha Sutta" (Kinh Uẩn), Tương Ưng Bộ III, đức Phật giải thích "tất cả" là: Quá khứ, hiện tại và vị lai; bên trong và bên ngoài; thô và tế; hạ liệt và cao thượng; xa và gần. Để tu tập tuệ này, trước tiên hành giả phải thiết lập lại tứ thiền. Nếu hành giả thuộc hạng thuần quán đã tu tập thiền tứ đại thì lập lại định cho đến khi ánh sáng chói bừng và mạnh mẽ. Trong cả hai trường hợp, hành giả lấy "sắc" kể như phạm trù thứ nhất. Đó là hành giả phân biệt sắc thực của mỗi môn trong sáu căn môn, thấy ra sự sanh diệt của nó và biết đó là vô thường (anicca). Hành giả cần phải làm điều này ở bên trong và bên ngoài rồi dần dần mở rộng tầm tưởng của mình từ gần đến xa cho tới vũ trụ vô biên. Theo cùng cách thức như trên, hành giả thấy ra cái khổ mà người ta phải thường xuyên cảm nhận do sự sanh và diệt của sắc ấy và biết đó là khổ (dukkha). Cuối cùng thấy sắc là rỗng không, không có một tự ngã thường hằng nào cả và biết đó kể như vô ngã (anatta). Phạm trù kế tiếp, hành giả cần phải thấy được vô thường, khổ và vô ngã ở trong đó là danh. Trước tiên, phân biệt tất cả danh ở sáu môn, đó là thấy tâm và các tâm sở trong mỗi sát-na tâm của từng tiến trình thuộc sáu căn môn và bhāvaṅga (hữu phần) - tâm khởi lên giữa hai tiến trình nhận thức. Hành giả cũng theo đúng thể thức đã làm với sắc vậy. Sau khi đã thấy hai phạm trù này (tức thấy danh và sắc thuộc sáu môn ở hiện tại), hành giả bây giờ cần phải thấy vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc trong suốt kiếp này, từ thức tái sanh (kiết sanh thức) cho tới tử tâm. Ở đây cũng vậy, hành giả thấy ba đặc tánh, mỗi lần một và làm đi làm lại, lúc bên trong và lúc bên ngoài. Tiếp theo, hành giả cần thấy được vô thường, khổ và vô ngã của các kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai mà hành giả đã phân biệt khi phân biệt duyên khởi. Ở đây cũng vậy, hành giả thấy ba đặc tánh, mỗi lần một (đặc tánh), bên trong và bên ngoài luân phiên nhau trong tất cả danh và sắc thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai. Sau đó, hành giả cũng cần phải thấy vô thường, khổ và vô ngã của mỗi trong mười hai chi phần thuộc duyên khởi trong ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai theo phương pháp thứ nhất, mỗi lần một chi phần, lặp đi lặp lại, lúc bên trong, lúc bên ngoài như trước. Ở giai đoạn này, hành giả có thể thấy rằng việc tu tập các tuệ minh sát cao hơn của mình được nhanh chóng hơn, đi hết giai đoạn này đến giai đoạn khác cho tới khi chứng đắc A-la-hán Thánh quả. Nếu không, có một vài cách luyện tập để tăng cường tuệ giác của hành giả. Cách Tăng Cường Tuệ Minh Sát. Bốn Mươi Cách Tưởng. Bài tập đầu tiên là thấy vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc, bên trong và bên ngoài, ở quá khứ, hiện tại và tương lai theo bốn mươi cách tưởng khác nhau (cattārīsākāra anupassanā). Trong ngôn ngữ Pāḷi, 40 cách tưởng này đều tận cùng với tiếp vĩ ngữ "to", vì thế chúng ta gọi nôm na là 40 "to". Có mười cách tưởng khác nhau về vô thường: 1. Aniccato: vô thường 2. Palokato: phân tán 3. Calato: hay thay đổi 4. Pabbanguto: dễ hư hoại 5. Addhuvato: không bền 6. Vipariṇāmadhammato: phải chịu biến hoại 7. Asā rako: không có cốt lõi 8. Vibhavato: phải chịu diệt vong 9. Maraṇadhammato: phải chịu chết 10. Sankhatato: hữu vi. Có hai mươi lăm cách tưởng về khổ. 1. Dukkhato: khổ 2. Rogato: bệnh hoạn 3. Aghato: tai họa 4. Gaṇḍato: ung nhọt 5. Sallato: mũi tên 6. Ābādhato: đau đớn 7. Upaddavato: bất hạnh 8. Bhatato: sợ hãi 9. Ītito: bệnh dịch 10. Upassagato: mối đe dọa 11. Atānato: không có sự bảo vệ 12. Aleṇato: không có nơi che chở 13. Asaraṇato: không có nơi nương tựa 14. Vadhakato: sát nhân 15. Aghamūlato: cội nguồn của tai ương 16. Ādīnavato: nguy hiểm 17. Sāsavato: phải chịu (ảnh hưởng) của lậu hoặc 18. Mārāmasato: miếng mồi của Ma vương 19. Jātidhammato: phải chịu sanh 20. Jarādhammato: phải chịu già 21. Byādhidhammato: phải chịu bệnh 22. Sokadhammato: khiến cho sầu khổ 23. Paridevadhammo: khiến cho bi ai 24. Upasāsadhammo: khiến cho tuyệt vọng 25. Samkilesadhammo: phải chịu phiền não. Có năm cách tưởng về vô ngã: 1. Anattato: vô ngã 2. Suññato: không 3. Parato: biệt lập 4. Rittato: trống rỗng 5. Tucchato: vô dụng. Trong khi thấy bốn mươi "to" này trong danh-sắc, bên trong và bên ngoài, quá khứ, hiện tại và vị lai như vậy, tuệ giác của một số hành giả sẽ tiến triển đưa đến sự chứng đắc A-la-hán Thánh quả. Ngoài ra, còn có cách luyện tập khác gọi là bảy cách quán sắc (rūpasattaka) và bảy các quán danh (nāmasattaka). Bảy Cách Quán Sắc. Sắc mà hành giả phân biệt trong bảy cách này là sắc thuộc bốn loại theo nguồn gốc (sắc do nghiệp sanh, do thời tiết sanh, do tâm sanh và do vật thực sanh). (1) Cách thứ nhất: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc trong toàn bộ kiếp sống này từ lúc tái sanh cho đến lúc chết, cả ở bên trong lẫn bên ngoài. (2) Cách thứ hai: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc ở những giai đoạn khác nhau trong kiếp này cả bên trong lẫn bên ngoài. Hành giả xem quãng đời này là một trăm năm và chia nó thành ba giai đoạn ba mươi ba năm. Rồi thấy rằng danh và sắc trong mỗi giai đoạn sanh và diệt ở đó, chứ không đi qua giai đoạn kế tiếp, điều đó có nghĩa chúng là vô thường, khổ và vô ngã vậy. Kế đó chia quãng đời này thành những giai đoạn càng lúc càng nhỏ hơn và cũng thấy theo cách như vậy. Ở đây, hành giả lần lượt chia một trăm năm của cuộc đời này thành: mười giai đoạn 10 năm, hai mươi giai đoạn 5 năm, hai mươi lăm giai đoạn 4 năm, ba mươi ba giai đoạn 3 năm, năm mươi giai đoạn 2 năm, một trăm giai đoạn 1 năm, ba trăm giai đoạn 4 tháng, sáu trăm giai đoạn 2 tháng và hai ngàn bốn trăm giai đoạn nửa tháng, và cuối cùng chia mỗi ngày thành hai giai đoạn, rồi sáu giai đoạn. Ở mỗi trường hợp như vậy hành giả thấy ra rằng sắc trong một giai đoạn sanh lên và diệt ở đó chứ không chuyển qua giai đoạn kế tiếp, điều đó có nghĩa rằng nó là vô thường, khổ và vô ngã vậy. Rồi giảm các giai đoạn xuống còn khoảng thời gian của mỗi chuyển động thân như bước tới, bước lui, nhìn trước, nhìn hai bên, co duỗi chân tay v.v... Sau đó hành giả chia mỗi bước chân thành sáu giai đoạn: nhấc, dở, bước tới, hạ, đặt và nhấn. Cũng thấy vô thường, khổ và vô ngã trong sắc của mỗi giai đoạn hàng ngày trong quãng đời một trăm năm này. (3) Cách thứ ba: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc do vật thực sanh [8]. Đó là, hành giả thấy chúng trong sắc của các giai đoạn lúc đói và lúc đã thỏa mãn, và thấy rằng nó không di chuyển từ giai đoạn đói sang giai đoạn đã thỏa mãn (và ngược lại), mỗi ngày trong quãng đời một trăm năm này. (4) Cách thứ tư: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc do thời tiết sanh. Đó là thấy chúng trong sắc của những giai đoạn lúc nóng, lúc lạnh và thấy rằng nó không chuyển từ giai đoạn của cảm giác nóng sang giai đoạn của cảm giác lạnh (và ngược lại), mỗi ngày trong quãng đời một trăm năm này. (5) Cách thứ năm: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc do nghiệp sanh. Đó là, thấy rằng sắc của mỗi trong sáu căn môn sanh và diệt ở đó chứ không chuyển sang môn khác, mỗi ngày trong quãng đời một trăm năm này. (6) Cách thứ sáu: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc do tâm sanh. Đó là thấy chúng trong sắc của các giai đoạn khi vui và hài lòng, khi không vui và buồn rầu, mỗi ngày trong quãng đời một trăm năm này. (7) Cách thứ bảy: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc không linh hoạt trong hiện tại, tức là sắc không có sáu nội xứ, chẳng hạn như sắt, thép, đồng, chì, vàng, bạc, nhựa, ngọc trai, đá quý, đồi mồi, cẩm thạch, san hô, đất, đá, bê tông, cây cối... Các loại sắc đó chỉ tìm thấy ở bên ngoài. Trên đây là bảy cách quán sắc. Bảy Cách Quán Danh. Trong bảy cách quán danh, hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của các tâm - minh sát (danh) vốn thấy ba đặc tánh đó trong bảy cách quán sắc. Điều này có nghĩa rằng, đối tượng của hành giả, trong mỗi trường hợp, là một tâm minh sát, tâm này sẽ được hành giả thấy với một tâm minh sát theo sau [9]. (1) Cách thứ nhất: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của sắc thuộc bảy cách quán sắc, nhưng thấy sắc chỉ như một nhóm. Kế đó, hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của danh đã thấy sắc này. Nghĩa là, hành giả thấy sắc uẩn là vô thường và rồi thấy sự vô thường, khổ và vô ngã của chính tâm minh sát ấy trong mỗi trường hợp, với một tâm minh sát theo sau. Đối với sắc uẩn (sắc thấy theo nhóm) được thấy như khổ và vô ngã hành giả cũng làm theo cách thức như vậy. (2) Cách thứ hai: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của danh quán mỗi trong bảy cách quán sắc. Nghĩa là, hành giả thấy sắc ở mỗi trong bảy cách quán sắc là vô thường, rồi thấy sự vô thường, khổ và vô ngã của chính tâm minh sát đó trong mỗi trường hợp với một tâm minh sát theo sau. Đối với sắc được thấy như khổ và vô ngã hành giả cũng làm theo cách thức như vậy, và cũng làm vậy đối với mỗi trong các tâm minh sát trong những giai đoạn nhất định ở mỗi ngày của quãng đời một trăm năm này. (3) Cách thứ ba: Hành giả lại thấy vô thường, khổ và vô ngã của danh quán mỗi trong bảy cách quán sắc, nhưng làm như thế bốn lần liên tiếp. Nghĩa là, hành giả lại thấy ở mỗi trong bảy cách quán sắc như vô thường và rồi thấy sự vô thường, khổ và vô ngã của tâm minh sát đầu tiên đó với một tâm thứ hai, và tâm minh sát thứ hai với một tâm thứ ba v.v... cho đến khi với tâm minh sát thứ năm hành giả thấy ra vô thường, khổ và vô ngã của tâm minh sát thứ tư. (4) Cách thứ tư: Hành giả cũng làm như trước, nhưng tiếp tục cho đến với tâm minh sát thứ mười một, hành giả thấy ra vô thường, khổ và vô ngã của tâm minh sát thứ mười. (5) Cách thứ năm: Hành giả thấy vô thường, khổ và vô ngã của danh để loại trừ các tà kiến. Ở đây, một lần nữa, hành giả thấy các tâm minh sát của bảy cách quán sắc, nhưng tăng cường tưởng vô ngã để vượt qua các tà kiến, đặc biệt là ngã kiến. (6) Cách thứ sáu: Hành giả thấy ra vô thường, khổ và vô ngã của danh để loại trừ mạn. Một lần nữa, hành giả thấy các tâm minh sát của bảy cách quán sắc, nhưng tăng cường tưởng vô thường để vượt qua mạn. (7) Cách thứ bảy: Hành giả thấy ra vô thường, khổ và vô ngã của danh để chấm dứt tham ái. Một lần nữa hành giả thấy các tâm minh sát của bảy cách quán sắc, nhưng tăng cường tưởng khổ để vượt qua tham ái. Trên đây là bảy cách quán danh. Mặc dù không tuyệt đối cần thiết, song nếu thực hiện những bài tập này đối với danh và sắc thuộc hiện tại, quá khứ và vị lai, bên trong và bên ngoài sẽ rất lợi ích. Cùng với việc hoàn tất những bài tập này, danh và sắc chắc chắn sẽ trở nên rõ ràng đối với hành giả. Đến đây, phần giải thích về cách làm thế nào để tu tập tuệ thẩm sát các hành trong các phạm trù đã hoàn tất, như vậy chúng ta sẽ bàn đến cách tu tập tuệ về sự sanh diệt của các hành. Hành Giả Tu Tập Sanh Diệt Như Thế Nào. Tuệ Sanh Diệt (Udayabbaya Ñāṇa) là tuệ tri sự sanh và diệt của các hành: danh-sắc, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, Tứ Thánh Đế và duyên khởi (hay mười hai nhân duyên), bên trong và bên ngoài, ở hiện tại, quá khứ và vị lai [10]. Thực sự tuệ hay trí này gồm hai: 1. Tuệ về nhân duyên (paccayato) - nhân duyên sanh và diệt của các hành. 2. Tuệ về sát-na (khaṇato) - sát-na sanh và diệt của các hành. Để thấy được nhân duyên sanh và diệt của các hành, hành giả phải thấy nó theo phương pháp thứ năm trong hai phương pháp phân biệt duyên khởi như đã mô tả trong bài giảng trước. Để thấy được sát-na sanh và diệt của các hành, hành giả phải thấy năm uẩn sanh và diệt như thế nào trong mỗi sát-na tâm, từ tái sanh cho đến chết của mỗi kiếp hành giả phân biệt. Có hai phương pháp để tu tập Tuệ Sanh Diệt. Phương pháp tóm tắt (chỉ thấy tính chất nhất thời của các hành) và phương pháp chi tiết (thấy cả hai - nhân duyên và tính chất nhất thời của các hành). Ở đây, tôi chỉ giải thích phương pháp chi tiết mà thôi. Phương pháp chi tiết được tu tập trong ba giai đoạn. Đó là, hành giả thấy: 1. Chỉ sự sanh (udaya) - nhân duyên và sát-na sanh của các hành. 2. Chỉ sự diệt (vaya) - nhân duyên và sát-na diệt của các hành. 3. Cả sanh lẫn diệt (udayabbaya) - nhân duyên và sát-na sanh - diệt của các hành. Tu tập Tuệ Sanh Diệt theo phương pháp thứ năm của duyên khởi như thế nào? - Quán tánh sanh. Để khởi sự cho việc tu tập Tuệ Sanh - Diệt theo phương pháp chi tiết, hành giả phải thấy đi thấy lại nhiều lần nhân duyên sanh của các hành và sát-na sanh của chúng. Đây gọi là quán tính chất sanh (samudayadhammānupassi). Chẳng hạn, hành giả thấy nhân duyên sanh của sắc theo phương pháp thứ năm của duyên khởi như đã vừa đề cập. Điều này có nghĩa là hành giả nhìn trở lại cho tới những sát-na cận tử của kiếp trước để thấy năm nhân quá khứ đưa đến sự khởi sanh (udaya) của sắc do nghiệp sanh trong kiếp này. Tuần tự từng pháp một, hành giả thấy sự sanh khởi của vô minh, ái, thủ, hành và nghiệp. Mỗi pháp tạo ra sự sanh khởi của sắc do nghiệp sanh trong kiếp này như thế nào. Sau đó, hành giả thấy sự sanh của sắc do nghiệp sanh trong mỗi sát-na tâm, từ tái sanh cho đến chết. Điều này có nghĩa là hành giả thấy năm uẩn vào lúc sanh (udaya) của những tâm ngoài tiến trình (vīhimuttacitta), đó là tâm tục sinh (paṭisandhicitta - kiết sanh thức), tâm hữu phần (bhavaṅga) và tâm tử (cuticitta). Hành giả cũng thấy sự sanh của năm uẩn thuộc mỗi sát-na tâm trong bất kỳ tiến trình tâm (vīthi) ngang qua sáu môn nào xen vào giữa (những tâm ngoài tiến trình ấy). Hành giả thấy điều này trong mỗi kiếp quá khứ mà hành giả đã phân biệt và trong tất cả các kiếp vị lai cho đến tận thời điểm Bát Niết-bàn của hành giả [11]. Sau đó, hành giả cũng cần phải thấy sự sanh theo nhân duyên của sắc tuần tự do thời tiết sanh, do tâm sanh và do vật thực sanh. Hành giả thấy vì sao: - Tâm khiến cho sắc khởi lên: sắc do tâm sanh. - Thời tiết khiến cho sắc khởi lên: sắc do thời tiết sanh. - Vật thực khiến cho sắc khởi lên: sắc do vật thực sanh. Trong mỗi trường hợp như vậy, hành giả cũng thấy sự khởi sanh trong sát-na của loại sắc đặc biệt. Sau khi làm xong điều này, hành giả còn phải thấy sự sanh theo nhân duyên và theo sát-na của danh; thấy sự sanh của danh-sắc theo cùng cách thức như vậy trong kiếp kế. Tuy nhiên, để liệt kê đầy đủ chi tiết ở đây sẽ phải mất một thời gian nên chúng ta sẽ thông qua và trong mỗi trường hợp chỉ giải thích chi tiết về sắc mà thôi. - Quán tánh diệt. Sau khi đã thấy sự sanh (udaya) theo nhân duyên và theo sát-na của danh và sắc, giờ hành giả sẽ thấy đi thấy lại nhiều lần chỉ sự diệt (vaya) của danh và sắc ấy. Đây gọi là quán tánh diệt (vayadhammānupassi). Sự diệt của vô minh, ái, thủ, các hành và nghiệp lực[12] xảy ra khi hành giả đắc A-la-hán, và sự diệt của ngũ uẩn xảy ra vào lúc Bát Niết-bàn của hành giả. Trong khi sự sanh theo nhân duyên là loại vô minh, ái, thủ, hành và nghiệp lực riêng biệt mà hành giả phân biệt ở mỗi kiếp nơi nó xảy ra thì sự diệt lại luôn luôn xảy ra ở cùng một kiếp - tức khi năm uẩn không còn sanh nữa sau Bát Niết-bàn (Parinibbāna). Mặc dù vậy, Niết-bàn và A-la-hán Thánh đạo thực sự vẫn không hiển lộ vì chúng ta vẫn chưa chứng đắc Bốn Thánh Đạo Tuệ (maggañāṇa) và Bốn Thánh Quả Tuệ (phalañāṇa). Sở dĩ chúng ta hiểu được rằng Parinibbàna (sự diệt độ) của chúng ta đã xảy ra vì không còn sự sanh của năm uẩn mà thôi. Chẳng hạn hành giả thấy sự diệt theo nhân duyên (nirodha) của sắc theo phương pháp thứ năm của duyên khởi. Đó là khi hành giả mong đợi thời điểm hành giả trở thành một vị A-la-hán và thấy rằng khi đắc A-la-hán Thánh đạo, A-la-hán Thánh quả thì tất cả mọi phiền não đều diệt và vào cuối kiếp sống ấy các hành diệt tận - đó là cái thấy trực tiếp sự kiện Bát Niết-bàn của hành giả. Sau sự kiện ấy, danh-sắc mới không còn sanh hay diệt nữa. Nếu hành giả đắc A-la-hán trong kiếp này, sự kiện đó sẽ là ở tương lai. Nếu hành giả đắc A-la-hán ở trong một kiếp tương lai nào đó của mình thì sự kiện đó cũng ở tương lai. Lần lượt hành giả thấy rằng sự diệt (nirodha) của vô minh, ái, thủ, các hành và nghiệp theo tuần tự (mỗi chi phần diệt) khiến cho sắc do nghiệp sanh diệt. Sau khi đã thấy được sự diệt theo nhân duyên của sắc do nghiệp sanh, bây giờ hành giả chỉ thấy sự diệt theo sát-na của sắc ấy. Sau đó, hành giả thấy sự diệt theo sát-na của sắc nghiệp trong mỗi sát-na tâm, từ sanh cho đến chết, trong mỗi kiếp quá khứ và tương lai mà hành giả đã phân biệt[13]. Điều này có nghĩa là hành giả thấy năm uẩn vào lúc sanh của các tâm ngoài tiến trình như kiết sanh thức, các tâm hữu phần và tâm tử. Hành giả cũng thấy sự sanh của năm uẩn ở mỗi sát-na tâm trong bất kỳ tiến trình tâm ngang qua sáu môn nào xen vào giữa (các tâm ngoài tiến trình ấy). Sau đó, hành giả cần phải thấy sự diệt theo nhân duyên của sắc do tâm sanh, do thời tiết sanh và do vật thực sanh, lần lượt từng sắc một. Tức là hành giả thấy vì sao: - Sự diệt của tâm lại khiến cho có sự diệt của sắc do tâm sanh. - Sự diệt của thời tiết khiến cho có sự diệt của sắc do thời tiết sanh. - Sự diệt của vật thực khiến cho có sự diệt của sắc do vật thực sanh. Trong mỗi trường hợp, hành giả cũng thấy sự diệt theo sát-na của loại sắc đặc biệt ấy. Sau việc này, hành giả phải thấy sự diệt theo nhân duyên và theo sát-na của sắc nữa. - Quán tánh sanh và diệt Một khi hành giả đã thấy được sự diệt của danh-sắc theo nhân duyên và theo sát-na rồi, lúc này hành giả sẽ thấy đi thấy lại nhiều lần cả sự sanh lẫn sự diệt của danh-sắc ấy. Đây gọi là quán tánh sanh diệt (samudayavayadhammānupassi). Nó đòi hỏi phải thấy, trước tiên sự sanh và diệt theo nhân duyên của chúng, sau đó đến sự sanh và diệt theo sát-na của chúng. Hành giả thấy (mỗi danh-sắc) theo ba cách liên tiếp: 1. Sự sanh của nhân và quả của nó. 2. Sự diệt của nhân và quả của nó. 3. Tính vô thường của nhân và quả của nó. Chẳng hạn hành giả thấy theo tuần tự vì sao: - Sự sanh của mỗi nhân: vô minh, ái, thủ, các hành và nghiệp khiến cho có sự sanh của sắc do nghiệp sanh. - Sự diệt của mỗi nhân ấy khiến cho có sự diệt của sắc do nghiệp sanh. - Mỗi nhân và sắc nó sanh ra đó đều là vô thường. Cũng vậy, hành giả thấy theo tuần tự vì sao: - Tâm lại khiến cho có sự sanh khởi của sắc do tâm sanh. - Sự diệt của tâm khiến cho có sự diệt của sắc do tâm sanh. - Tâm là vô thường và sắc do tâm sanh ấy cũng vô thường. Đối với sắc do thời tiết sanh, sắc do vật thực sanh, hành giả cũng thấy theo cách như vậy. Đây là cách hành giả thấy sự sanh và diệt của sắc vừa theo nhân duyên lẫn theo sát-na. Sau đó hành giả phải thấy sự sanh và diệt của danh theo nhân duyên và theo sát-na. Như vậy, theo cách vừa phác họa, hành giả thấy sự sanh và diệt theo sát-na và theo nhân duyên cũng của năm uẩn, đồng thời thấy tam tướng vô thường, khổ và vô ngã trong năm uẩn ấy. Hành giả phải làm công việc này đối với năm uẩn bên trong, năm uẩn bên ngoài và năm uẩn thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai. Cách Tu Tập Tuệ Sanh Diệt Theo Phương Pháp Thứ Nhất Của Duyên Khởi. Kế tiếp hành giả cũng cần phải tu tập tuệ này với phương pháp thứ nhất của duyên khởi. Trong trường hợp này, để thấy sự sanh theo nhân duyên của các hành, hành giả thấy các pháp duyên sanh theo chiều thuận tuần tự từng pháp một và thấy ra rằng[14]: - Vô minh (1) duyên hành (2) - Hành duyên thức (3) - Thức duyên danh-sắc (4) - Danh-sắc duyên lục nhập (5) - Lục nhập duyên xúc (6) - Xúc duyên thọ (7) - Thọ duyên ái (8) - Ái duyên thủ (9) - Thủ duyên hữu (10) - Hữu duyên sanh (11) - Sanh duyên lão, tử , sầu, bi, khổ thân, khổ tâm và tuyệt vọng (12). Để thấy sự diệt của các hành theo nhân duyên ở A-la-hán Thánh quả và lúc nhập Vô Dư Niết-bàn, hành giả thấy các pháp duyên diệt theo chiều thuận tuần tự từng pháp một và nhận ra rằng[15]: - Cùng với sự diệt không còn dư tàn của vô minh, các hành cũng diệt. - Với sự diệt của các hành, thức diệt. - Với sự diệt của thức, danh-sắc diệt. - Với sự diệt của danh-sắc, lục nhập diệt. - Với sự diệt của lục nhập, xúc diệt. - Với sự diệt của xúc, thọ diệt. - Với sự diệt của thọ, ái diệt. - Với sự diệt của của ái, thủ diệt. - Với sự diệt của thủ, hữu diệt. - Với sự diệt của hữu, sanh diệt. - Với sự diệt của sanh, già, chết, sầu, bi, khổ thân, khổ tâm và tuyệt vọng diệt. Chính theo cách này mà mọi hình thức của khổ diệt. Như trước, hành giả thấy cả sự sanh theo nhân duyên và theo sát-na lẫn sự diệt theo nhân duyên và theo sát-na của các hành. Hành giả thấy các pháp duyên sanh và duyên diệt theo chiều thuận tuần tự từng pháp một, đó là: 1. Vô minh duyên cho các hành. 2. Với sự diệt không còn dư tàn của vô minh, các hành cũng diệt. 3. Vô minh là vô thường, các hành cũng vô thường. Hành giả thấy các pháp duyên khởi theo cùng cách ấy, ở bên trong và bên ngoài, ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là sự giải thích hết sức tóm tắt về cách làm thế nào để tu tập Tuệ Sanh và Diệt của các hành
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 20:58:42 GMT -5
Làm Thế Nào Để Vượt Qua Mười Tùy Phiền Não Của Minh Sát Khi hành giả áp dụng các phương pháp này và tuệ giác của hành giả càng lúc càng trở nên mạnh hơn, chính ở giai đoạn này, mười tùy phiền não của minh sát (dasa upakkilesa) có thể phát sinh. Đó là[16]:
1. Ánh sáng (obhāsa) 2. Tuệ (ñāṇa) 3. Hỷ (pīti) 4. Khinh an (passaddhi) 5. Lạc (sukha) 6. Quyết định (adhimokkha) 7. Tinh tấn (paggaha) 8. Niệm (upaṭṭthāna) 9. Xả (upekkha) 10. Tham chấp (nikanti) Ngoại trừ ánh sáng (hào quang) và tham chấp ra, các tùy phiền não còn lại là những pháp thiện, và do vậy không phải là những phiền não. Tuy nhiên chúng có thể trở thành những đối tượng cho bất thiện pháp (tức là hành giả có thể chấp trước vào chúng), đó là lý do vì sao chúng được gọi là những tùy phiền não. Nếu hành giả kinh nghiệm một trong những tùy phiền não của minh sát này, hành giả cần phải vượt qua sự tham chấp và mong mỏi rất có thể sẽ khởi sanh nhờ thấy nó là vô thường, khổ và vô ngã. Theo cách đó, hành giả mới có thể tiếp tục phát triển tiến bộ của mình được. Hành Giả Tu Tập Tuệ Quán Sự Tan Rã Như Thế Nào Sau khi đã tu tập xong tuệ quán sự sanh diệt, tuệ giác của hành giả về các hành được bền vững và thanh tịnh hơn. Lúc này hành giả phải tu tập tuệ quán sự tan rã (bhanga ñāṇa). Để làm được điều này, hành giả chỉ tập trung vào sát-na diệt (vaya) và tan hoại (bhanga) của các hành. Hành giả không thấy sự sanh của các hành, không thấy sự trú (ṭhiti) của các hành, không thấy các tướng (nimitta) của các hành riêng biệt, không thấy sự khởi chuyển của quá trình tạo ra các hành. Sử dụng năng lực minh sát trí của mình, hành giả chỉ thấy sự tan hoại của các hành và tưởng tri chúng là vô thường, khổ và vô ngã. 1. Hành giả thấy sự hoại diệt, sự sụp đổ và tan hoại của các hành, tức thấy được tính chất vô thường của chúng. 2. Hành giả thấy sự tan rã liên tục của các hành là đáng sợ, tức thấy được tính chất khổ của chúng. 3. Hành giả thấy sự không tồn tại của bất kỳ một cốt lõi thường hằng nào trong các hành, tức thấy được tính chất vô ngã. Hành giả phải thấy vô thường, khổ và vô ngã không chỉ ở sự tan hoại của danh-sắc mà còn trong sự tan hoại của các tâm minh sát đã thấy được điều này nữa. Tức là, hành giả phải thấy sự hoại diệt của sắc và biết nó là vô thường. Đó là tâm minh sát thứ nhất của hành giả. Rồi, với một tâm minh sát thứ hai, hành giả thấy sự tan hoại của tâm minh sát thứ nhất, và như vậy, biết nó là vô thường nữa. Hành giả cũng làm thế với danh, rồi lại làm như vậy đối với danh và sắc để tuệ tri chúng là khổ và vô ngã. Hành giả cứ lập đi lập lại những bài tập này nhiều lần, luân phiên giữa bên trong và bên ngoài, giữa danh và sắc, các hành (thuộc) nhân và các hành (thuộc) quả ở quá khứ, hiện tại và vị lai[17]. Tuệ Tri Mười Một Tuệ Minh Sát Đầu Tiên Khi hành giả tiếp tục phân biệt sự trôi qua và diệt của các hành theo cách này, tuệ giác vững mạnh của hành giả sẽ tiến triển qua sáu minh sát tuệ kế tiếp. Đến giai đoạn này, hành giả đã tu tập được mười một tuệ đầu trong số mười sáu tuệ minh sát. Năm tuệ đầu mà hành giả đã tu tập trước đó là:
1. Tuệ Phân Tích Danh Sắc (Nāma-rūpa pariccheda ñāṇa) 2. Tuệ Phân Biệt Nhân Duyên (Paccaya - pariggaha ñāṇa) 3. Tuệ Thẩm Sát (Sammasana ñāṇa) 4. Tuệ (quán) Sự Sanh Diệt (Udayabba ñāṇa) 5. Tuệ (quán) Sự Tan Hoại (Bhanga ñāṇa) Và sáu tuệ kế tiếp mà hành giả sẽ đi qua là:
6. Tuệ (quán) Sự Kinh Úy (Bhaya ñāṇa) 7. Tuệ (quán) Sự Nguy Hiểm (dīnava ñāṇa) 8. Tuệ Yểm Ly (Nibbidā ñāṇa) 9. Tuệ Dục Thoát (Muñcitukamyatā ñāṇa) 10. Tuệ Giản Trạch (Paṭisankhā ñāṇa) 11. Tuệ Xả Hành (Sankhārupekkhā ñāṇa) Bởi lẽ hành giả đã tu tập năm tuệ minh sát đầu một cách thấu đáo nên sáu tuệ kế tiếp cũng sẽ nhanh chóng phát triển. Có một vài hướng dẫn thêm cho các tuệ này, song chúng tôi không có đủ thời gian để giải thích ở đây. Biết và Thấy Niết-bàn Sau khi chứng đắc các tuệ này, hành giả vẫn tiếp tục công việc thấy sự trôi qua và diệt mất của mỗi hành khi chúng khởi lên, với ước muốn thoát khỏi chúng, hành giả sẽ thấy ra rằng cuối cùng tất cả các hành đều diệt. Tâm hành giả trực tiếp biết và thấy Niết-bàn - đó là ý thức trọn vẹn về (vô vi) Niết-bàn kể như đối tượng. Khi tâm thấy Niết-bàn, hành giả kinh qua năm tuệ còn lại cùng với sự khởi lên của tiến trình tâm đạo (maggavīthi). Năm tuệ đó là:
12. Tuệ Thuận Thứ (Anulama ñāṇa) 13. Tuệ Chuyển Tộc (Gotrabhù ñāṇa) 14. Tuệ Đạo (Magga ñāṇa) 15. Tuệ Quả (Phala ñāṇa) 16. Tuệ Phản Khán (Paccavekkhana ñāṇa) Tiến trình tâm đạo qua đó năm tuệ cuối cùng này sanh lên có bảy giai đoạn: 1. Một ý môn hướng tâm khởi lên thấy các hành kể như vô thường, khổ hoặc vô ngã tùy theo cách Tuệ Xả Hành khởi như thế nào. 2. Một tốc hành tâm (javana) đầu tiên khởi lên (làm "công việc chuẩn bị" - Parikamma), thấy các hành theo cùng cách ấy. Nó duy trì tính tương tục của tâm[18]. 3. Một tốc hành tâm thứ hai khởi lên ("cận hành" - upacāra), cũng thấy các hành theo cùng cách ấy. 4. Một tốc hành tâm thứ ba khởi lên ("thuận thứ"" - anuloma), cũng thấy các hành theo cùng cách ấy. Thực ra, ba tốc hành tâm (chuẩn bị, cận hành và thuận thứ) này là thành phần của tuệ thứ mười hai - Tuệ Thuận Thứ (anuloma ñāṇa). Thuận (thứ) theo cái gì? Theo những gì đã đến trước và theo những gì sẽ đến sau. Tuệ này thuận theo những phận sự thấy sự thực trong tám tuệ minh sát đã đến trước (từ Tuệ Quán Sự Sanh Diệt đến Tuệ Xả Hành), và nó cũng thuận theo ba mươi bảy pháp thuộc tâm đạo[19] dự phần vào sự giác ngộ sẽ đến sau. Tuệ Thuận Thứ là tuệ cuối cùng có các hành kể như đối tượng của nó. 5. Một tốc hành tâm thứ tư khởi lên có Niết-bàn làm đối tượng. Đây là tuệ thứ mười ba là Tuệ Chuyển Tộc (Gotrabhū ñāṇa). Mặc dù tâm này biết (vô vi) Niết-bàn, nó vẫn không hủy diệt các phiền não, nhiệm vụ của nó là chuyển tâm từ phàm tộc sang thánh tộc mà thôi. 6. Một tốc hành tâm thứ năm khởi lên, có Niết-bàn làm đối tượng. Đây là tuệ thứ mười bốn, vốn tiêu diệt các phiền não thích đáng - Tuệ Đạo (Magga ñāṇa). 7. Tốc hành tâm thứ sáu và thứ bảy khởi lên với Niết-bàn làm đối tượng. Chúng là tuệ thứ mười lăm - Tuệ Quả (Phala ñāṇa). Phản Khán Tuệ (Paccavekkhana ñāṇa) Tuệ thứ mười sáu và cũng là tuệ cuối cùng là Tuệ Phản Khán. Tuệ này làm nhiệm vụ xét lại năm pháp:
1. Xét lại Đạo Tuệ 2. Xét lại Quả Tuệ 3. Xét lại Niết-bàn 4. Xét lại những phiền não đã bị tiêu diệt 5. Xét lại những phiền não chưa bị tiêu diệt[20]. Như vậy hành giả đã đạt đến chánh trí về Tứ Thánh Đế và đã tự mình chứng ngộ Niết-bàn. Với sự chứng ngộ này, tâm hành giả đã được tịnh hóa và thoát khỏi mọi tà kiến. Nếu hành giả cứ tiếp tục theo cách này, có thể hành giả sẽ đạt đến A-la-hán Thánh quả và nhập Vô Dư Niết-bàn. Dĩ nhiên còn có nhiều chi tiết về việc tu tập tuệ này nhưng chúng tôi phải bỏ qua để bài giải thích này được tóm gọn như có thể. Cách tốt nhất để học về pháp hành này là tham dự một khóa thiền với một vị thiền sư có đủ khả năng vì lúc ấy hành giả có thể học một cách hệ thống hơn theo tuần tự từng bước một.
* HỎI ĐÁP 7 Hỏi 7.1: Sự khác nhau giữa tưởng (saññā) và tưởng uẩn (saññākkhandha); giữa thọ (vedāna) và thọ uẩn (vedānakkhandha) là gì? Đáp 7.1: Mười một loại tưởng hợp lại với nhau thì gọi là tưởng uẩn. Mười một loại thọ hợp lại với nhau thì gọi là thọ uẩn. Thế nào là mười một? Quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô, tế, hạ liệt, cao thượng, gần và xa. Cả năm uẩn cần được hiểu theo cách như vậy. Có thể xem lại Kinh Uẩn (Khandha Sutta) trong Tương Ưng Bộ Kinh để có thêm lời giải thích. Hỏi 7.2: Ký ức, sự suy đoán và sáng tạo thuộc về tâm sở nào? Chúng là một phần của năm uẩn, nhưng tại sao chúng lại trở thành khổ (dukkha)? Đáp 7.2: Thế nào là ký ức? Nếu quý vị nhớ đến các đối tượng thiền chỉ, như tướng kasiṇa hoặc tướng hơi thở thì đó là chánh niệm (sammā sati). Nếu quý vị có thể thấy danh-sắc chân đế (paramattha nāma-rūpa) ở quá khứ, hiện tại và vị lai cùng với các nhân của chúng và thấy chúng là vô thường, khổ và vô ngã, đây cũng là chánh niệm. Niệm kết hợp với minh sát trí. Niệm này có ba mươi ba tâm hành phối hợp, tất cả hợp chung lại gọi là bốn danh uẩn (nāmakkhandha). Nhớ đến Đức Phật, Giáo Pháp và Chư Tăng (Buddha, Dhamma, Sangha), và những dịp cúng dường đã làm trong quá khứ cũng là chánh niệm. Khi nhớ đến các hành động tạo ra thiện pháp thì đó cũng là chánh niệm, nhưng sẽ không phải là chánh niệm khi nó tạo ra các bất thiện pháp. Đây là những tưởng bất thiện, tức là những tưởng kết hợp với các pháp bất thiện; chúng cũng là bốn danh uẩn. Các danh uẩn dù thiện hay bất thiện cũng đều vô thường. Ngay khi sanh lên, chúng liền diệt. Chúng phải chịu sanh diệt liên tục như vậy nên gọi chúng là khổ. Hỏi 7.3: Tâm sở nào làm việc "bắt lấy đối tượng" liên hệ? Đáp 7.3: Tất cả tâm (citta) và các các tâm sở phối hợp (cetasika) cùng bắt một đối tượng. Không có đối tượng, chúng (tâm, tâm sở) không thể khởi lên. Tâm và các tâm sở phối hợp là chủ thể (nhận thức). Chủ thể - ārammaṇika dhamma - không thể khởi lên mà không có đối tượng (àrammana). Arammaṇika là pháp (dhamma) bắt lấy đối tượng. Nói cách khác, chủ thể là pháp biết một đối tượng. Nếu không có đối tượng cần được biết thì sẽ không có pháp làm việc biết. Các nhóm tâm và tâm sở khác nhau bắt lấy những đối tượng khác nhau. Có tám mươi chín loại tâm và năm mươi hai loại tâm sở, tất cả bắt lấy đối tượng tương ứng của chúng. Chẳng hạn, các tâm đạo và tâm quả cùng với các tâm sở (maggacitta - cetasika và phalacitta - cetasika) chỉ bắt một đối tượng duy nhất là Niết-bàn. Một tâm thiền hơi thở và các tâm sở của nó chỉ bắt một đối tượng duy nhất là tợ tướng hơi thở (ānāpānā patibhāga nimitta). Tâm và tâm sở thiền kasiṇa đất chỉ bắt tợ tướng kasiṇa đất là đối tượng. Tất cả những tâm ấy là những tâm siêu thế và sắc giới. Riêng tâm dục giới (kāmāvacaracitta) bắt lấy những đối tượng tốt xấu khác nhau. Nếu muốn biết rõ hơn về vấn đề này, quý vị nên nghiên cứu Vi Diệu Pháp, chính xác hơn nên xem phần Ārammaṇa (đối tượng) của bộ Vi Diệu Pháp Yếu Nghĩa (Abhidhammattha Sangaha). Hỏi 7.4: Làm việc phục vụ cho tăng chúng (Sangha) có ảnh hưởng gì đến thiền của mình không? Điều đó tùy thuộc vào các nhân, hay chúng ta có thể thành tựu một mức độ định nào đó rồi sau hãy làm việc thì không có ảnh hưởng gì? Đáp 7.4: Trong nhiều bài kinh đức Phật thường quở trách các vị tỳ khưu làm những việc sau:
- Ưa thích làm việc (kammārāmatā) - Ưa thích nói chuyện (bhassārāmatā) - Ưa thích ngủ nghỉ (niddārāmatā) - Ưa thích hội chúng (sanghaṇikārāmatā) - Không phòng hộ các căn (indriyesu agutta dvāratā) - Không tiết độ trong ăn uống (bhojāne amattaññutā) - Không cố gắng thực hành Chỉ-Quán với sự tiết chế ngủ nghỉ (jāgariye ananuyuttā) - Lười biếng không thực hành Chỉ-Quán (kusita, kosajja) Vì thế, nếu có công việc gì (hành giả) cần phải làm cho Tăng chúng hay cho chính bản thân mình thì hãy cố gắng hoàn tất nhanh chóng càng sớm càng tốt để trở lại với việc hành thiền của mình với tâm an tịnh. Nếu hành giả thích làm việc nhiều quá thì đó là một chướng ngại cho thiền vì niệm vững chắc và mạnh mẽ trên đối tượng thiền lúc ấy khó có thể đạt được. Nói chung, thích làm việc sẽ không tạo ra định tâm tốt được. Hỏi 7.5: Liệu một người tu tập thiền với ý xấu có thể được lợi gì từ việc đắc thiền không? Và còn về một người xài tiền của Tăng[21] cho mục đích cá nhân của họ và không nghĩ việc làm đó là sai lầm. Khi họ đắc tứ thiền, tâm của họ hoặc quan kiến của họ có thay đổi không? Đáp 7.5: Trong trường hợp này quý vị nên phân biệt một người tại gia và một vị tỳ khưu. Nếu một vị tỳ khưu đã phạm một tội (āpatti) thì đó làm một chướng ngại cho việc đắc thiền. Chẳng hạn, nếu họ chiếm hữu vật dụng (tứ vật dụng) hợp pháp của Tăng để xài riêng cho mình thì điều đó sẽ trở ngại cho việc đắc thiền, trừ khi họ sửa sai tội đó (āpatti). Có nghĩa là vị ấy phải trả lại những vật dụng có giá trị tương đương với những vật dụng hợp pháp (của Tăng) mà vị ấy đã dùng. Rồi vị ấy phải thú tội trước Tăng hoặc một vị tỳ khưu khác. Sau khi sám hối tội lỗi, nếu vị ấy hành Chỉ-Quán, vị ấy có thể đắc thiền hoặc đạo - quả. Còn nếu không sửa lỗi mà vị ấy thực sự đắc thiền thì có thể vị ấy không phải là một vị tỳ khưu thực thụ và do đó, tội ấy cũng không phải là một tội. Đối với người tại gia, thanh tịnh giới hạnh cũng cần thiết. Và nếu họ làm cho trong sạch giới hạnh của mình trước khi hành thiền là điều rất tốt, tức là, nếu họ thọ trì ngũ giới hoặc bát giới. Nhờ thọ trì giới luật, trong lúc hành thiền, giới hạnh của họ trong sạch, họ có thể đắc thiền, mặc dù trước khi thiền họ là người xấu. Ví dụ, trong Chú Giải Pháp Cú (Dhammapada) có ghi lại câu chuyện về nữ tỳ Khujjuttarā. Cô là tỳ nữ của Sāmāvatī - Hoàng hậu của vua Udena. Hàng ngày vua Udena đưa cho cô tám đồng tiền vàng để mua hoa cho hoàng hậu, nhưng cô chỉ mua bốn đồng, còn lấy bốn đồng cho mình. Ngày nọ, đức Phật cùng tăng chúng đến dự trai tăng tại nhà người bán hoa. Khujjuttarā phụ người bán hoa dâng vật thực cho chư tăng. Sau bữa ăn, đức Phật thuyết pháp. Trong suốt thời pháp ấy, Khujjuttarā khởi tâm hổ thẹn vì đã ăn cắp tiền và quyết định từ nay về sau không hành động như thế nữa. Quyết định của cô là một thí dụ về giới đã được thanh tịnh trong khi lắng nghe pháp. Sau khi nghe hết thời pháp với tâm thiền, Khujjuttarā trở thành một vị Nhập Lưu. Từ đó, cô đã mua hoa với tất cả số tiền vua đưa. Khi đưa hoa cho hoàng hậu Sàmàvatì, hoàng hậu rất ngạc nhiên vì thấy hoa nhiều hơn thường lệ. Khujjuttarā liền kể lại tất cả[22]. Cũng nên xét đến trường hợp của Tôn giả Angulimāla. Trước khi trở thành một tỳ khưu, Ngài là một sát nhân khét tiếng. Nhưng khi đã là một tỳ khưu, Ngài đã thanh tịnh giới hành của mình và tinh tấn hành thiền. Vì thế Ngài đã đắc A-la-hán Thánh quả. Cần lưu ý ở đây là trong vòng luân hồi, mọi người ai cũng đã từng tạo những thiện nghiệp và ác nghiệp. Không người nào tránh khỏi những ác nghiệp cả. Nhưng nếu họ thanh tịnh giới hạnh của mình trong lúc hành thiền thì những ác nghiệp trước không thể ngăn cản việc chứng thiền của họ[23]. Tuy nhiên, đó chỉ là khi nào những ác nghiệp trước đó không thuộc về một trong năm nghiệp vô gián (anantariya kamma)[24]. Năm vô gián nghiệp là: giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, với ác ý làm cho một vị Phật chảy máu, gây chia rẽ trong Tăng chúng. Nếu đã phạm vào một trong những ác nghiệp này thì không thể đắc thiền hay đạo và quả được, như trường hợp vua Ajātasattu (A-xà-thế). Vua Ajātasattu có đủ ba-la-mật để trở thành một vị Nhập Lưu sau khi nghe xong Kinh Sa Môn Quả (Sāmaññaphala Sutta). Nhưng vì ngài đã giết cha của mình là vua Bimbisàra nên điều đó đã không xảy ra. Quý vị hỏi, vậy thì sau khi đắc thiền, tâm của những người như vậy hoặc quan kiến của họ có thay đổi không. Chúng ta biết thiền có thể loại trừ các triền cái trong một thời gian dài, có nghĩa là, nếu họ nhập thiền trong một giờ thì trong thời gian đó các triền cái sẽ không khởi lên. Khi họ xuất thiền, các triền cái có thể trở lại do phi lý tác ý. Vì thế chúng ta không thể nói chắc được là tâm của một người như vậy sẽ chuyển đổi hay không với việc chứng thiền. Chúng ta chỉ có thể nói rằng bao lâu họ còn trong bậc thiền thì chừng đó các triền cái không khởi lên, vậy thôi[25]. Cũng có những ngoại lệ, như trường hợp của Trưởng lão Mahānāga [26]. Mặc dù ngài đã hành thiền Chỉ-Quán trong hơn sáu mươi năm song vẫn còn là phàm phu (puthujjana). Tuy nhiên, do việc thực hành Chỉ-Quán vững chắc của ngài, không có phiền não nào xuất hiện trong suốt sáu mươi năm ấy. Chính vì điều này, ngài nghĩ mình đã là một vị A-la-hán. Nhưng một trong những đệ tử của ngài là vị A-la-hán Dhammadinna đã biết rõ và gián tiếp giúp ngài nhận ra điều đó. Khi Trưởng lão Mahānāga nhận ra rằng mình còn là phàm nhân, ngài tiến hành Vipassanā và chỉ ít phút sau ngài đã đắc quả A-la-hán. Nhưng đây là trường hợp rất hiếm. Một điểm khác quý vị cũng cần phải nhớ, ngài là một bậc lão thông pháp học (pariyatti) cũng như pháp hành (paṭipatti). Ngoài ra ngài còn là một vị thiền sư (kammaṭṭhānācariya), có rất nhiều vị A-la-hán, như Dhammadinna, là đệ tử của ngài. Mặc dù ngài thông thạo trong Chỉ-Quán, song có những hiểu lầm vẫn khởi lên trong tâm do một sự tương tự nào đó trong các kinh nghiệm. Vì thế, nếu quý vị nghĩ về bản thân mình rằng "ta đã đạt đến sơ thiền" v.v..., quý vị nên xem xét lại kinh nghiệm của mình một cách toàn diện qua nhiều ngày, thậm chí nhiều tháng. Tại sao? Nếu đó là jhāna hoặc vipassanā thực thụ thì chúng có lợi cho hành giả, vì thiền hoặc minh sát ấy có thể giúp quý vị đạt đến "Niết-bàn" thực sự, đây là "Tịnh Độ"[27] của truyền thống Phật giáo Theravāda. Nhưng "thiền giả tạo" và "minh sát giả tạo" không thể làm phát sanh những lợi ích này. Vì thế chúng tôi muốn đề nghị là quý vị không nên nói với những người khác "tôi đã đắc sơ thiền", v.v... quá sớm, vì có thể có người nào đó sẽ không tin quý vị. Cũng có thể kinh nghiệm của quý vị là thực, nhưng cũng có thể là chưa phải, như Trưởng lão Mahānāga. Quý vị nên ý thức về vấn đề này. Hỏi 7.6: Thế nào là sự khác nhau giữa tổng hợp sắc (rūpakalāpa) và sắc chân đế (paramattharūpa)? Đáp 7.6: Rūpakalāpa là những phần tử nhỏ. Khi hành giả phân tích những phần tử nhỏ ấy họ thấy sắc chân đế (paramattharūpa). Trong một tổng hợp sắc có ít nhất tám loại sắc là: đất, nước, gió, lửa, màu, mùi, vị và dưỡng chất. Tám loại sắc này là sắc chân đế. Trong một số các tổng hợp sắc có thêm sắc thứ chín nữa là sắc mạng căn (jīvita rūpa) và ở một số khác còn có thêm sắc thứ mười là sắc tánh (bhāva rūpa) hoặc sắc tịnh sắc (pasādarūpa). Tám, chín hay mười loại sắc này đều là sắc chân đế. Hỏi 7.7: Khi một hành giả có thể thấy các tổng hợp sắc hay sắc chân đế rồi, liệu tâm (citta) và kiến (diṭṭhi) của họ có thay đổi không? Đáp 7.7: Khi một hành giả với minh sát trí thấy được sắc chân đế trong mỗi tổng hợp sắc rồi thì tâm và kiến của họ sẽ thay đổi nhưng chỉ tạm thời vì minh sát trí (tuệ) loại trừ tà kiến và các phiền não khác chỉ trong nhất thời thôi. Chính Thánh đạo (ariyamagga) theo từng giai đoạn mới hủy diệt hoàn toàn các tà kiến và những phiền não khác. Hỏi 7.8: Định tịnh hóa tâm (cittavisuddhi) như thế nào? Các loại phiền não (kilesa) nào được loại trừ bằng định? Đáp 7.8: Thực hành định là trực tiếp đối đầu với năm triền cái. Cận định và định của sơ thiền loại trừ năm triền cái trong một thời gian dài. Định của nhị thiền loại trừ tầm (vitakka) và tứ (vicāra). Định của tam thiền loại trừ hỷ (pīti). Định tứ thiền loại trừ lạc (sukha). Theo cách này, tâm được thanh tịnh nhờ định và vì thế cũng gọi là thanh tịnh tâm. Hỏi 7.9: Vipassanā (minh sát) tịnh hóa kiến (diṭṭhi visuddhi) như thế nào? Các loại phiền não nào được loại trừ bằng (tuệ) minh sát? Đáp 7.9: Trước khi thấy sắc chân đế cũng như các nhân và tính chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng, một hành giả có thể có những tà kiến hay tà tưởng như "đây là đàn ông, đàn bà, mẹ, cha, tự ngã v.v..." Nhưng khi vị ấy thấy rõ thì tà kiến này được loại trừ tạm thời. Vì sao nó được loại trừ? Vì vị ấy thấy rằng chỉ có danh-sắc chân đế và các nhân của chúng. Vị ấy cũng thấy rằng ngay khi chúng khởi lên, chúng liền diệt, đó là tính chất vô thường của chúng. Chúng luôn luôn phải chịu sanh diệt như vậy nên bản chất của chúng là khổ. Không có một tự ngã nào trong danh-sắc và các nhân của chúng nên bản chất của chúng là vô ngã. Đây là minh sát trí (vipassanā ñāṇa). Chính chánh kiến (sammā diṭṭhi) này loại trừ các tà kiến (micchā diṭṭhi). Minh sát trí cũng còn loại trừ các phiền não như tham và mạn vốn là những kẻ "đồng lõa" với tà kiến. Vì thế, trong lúc một hành giả hành vipassanà thì chánh kiến có mặt nhưng chỉ tạm thời, bởi vì khi vị ấy ngưng thiền, tà kiến sẽ xuất hiện lại do phi như lý tác ý (ayonisomanasikāra). Lúc đó vị ấy lại tưởng "đây là đàn ông, đàn bà, mẹ, cha, tự ngã, v.v..." và những phiền não kết hợp như tham, sân, mạn cũng sẽ khởi sanh. Khi vị ấy trở lại với thiền minh sát, tà kiến này lại biến mất. Vì thế, minh sát trí chỉ tạm thời loại trừ các tà kiến và phiền não mà thôi. Tuy nhiên, khi hành giả đạt đến đạo và quả thì Đạo Tuệ (magga ñāṇa) sẽ hủy diệt các tà kiến ấy và những phiền não khác một cách hoàn toàn, từng giai đoạn một. Hỏi 7.10: Thế nào là sự khác nhau giữa tâm và kiến? Đáp 7.10: Tâm là citta, nhưng trong cittavisuddhi (thanh tịnh tâm), nó lại đặc biệt đề cập đến một tâm, như cận định tâm (upacāra samādhi citta) hoặc an chỉ - thiền tâm (appanā jhāna citta). Diṭṭhi có nghĩa là tà kiến và là một tâm sở (cetasika). Tâm sở này khởi sanh cùng với bốn tâm căn tham. Một tâm căn tham (lobhamūlacitta) hoặc phối hợp với tà kiến, hoặc phối hợp với ngã mạn. Tà kiến ở đây là ngã tưởng (attasaññā). Có hai loại ngã tưởng: 1. Ngã tưởng phổ thông của thế gian (loka sañsaññā attavāda). Đây là một loại tà kiến có mặt như hệ quả của tập quán, tưởng cho rằng có đàn ông, đàn bà, cha, mẹ, v.v... 2. Ngã kiến (atta diṭṭhi). Đây là một loại tà kiến có mặt như hệ quả của tham ái (taṇhā), tưởng cho rằng có một tự ngã bất khả hoại (atta), và cho rằng tự ngã bất khả hoại ấy do một sáng tạo chủ (paramatta) tạo ra. Thực sự không có một tự ngã nào trong ba mươi mốt cõi mà chỉ có danh-sắc và các nhân của chúng. Danh-sắc ấy cũng luôn luôn vô thường, khổ và vô ngã. Ngoài ba mươi mốt cõi này cũng không có tự ngã. Minh sát trí này gọi là chánh kiến minh sát (vipassanā sammā diṭṭhi). Nó thủ tiêu tà kiến một cách tạm thời, gồm luôn cả tà kiến về tự ngã. Nhưng chỉ có đạo trí (magga ñāṇa), tức chánh kiến thuộc Thánh đạo (magga samāa diṭṭhi) mới hủy diệt hoàn toàn tà kiến. Như vậy, thực sự chúng ta có ba loại kiến: tà kiến (micchā diṭṭhi); chánh kiến minh sát (vipassanā sammā diṭṭthi), còn gọi là chánh kiến hiệp thế (lokiya sammā dṭṭhi); chánh kiến Thánh đạo (magga sammā diṭṭhi), còn gọi là chánh kiến siêu thế (lokuttara sammā diṭṭhi). Kinh Brahmajāla Sutta (Kinh Phạm Võng. D1) luận bàn đến cả thảy sáu mươi hai tà kiến hiện hành. Tất cả tà kiến ấy đều được sắp dưới danh mục tà kiến về tự ngã, còn được gọi là "thân kiến" (sakkāya diṭṭhi). Tự thân (sakkāya) là năm uẩn nên thân kiến tức là xem năm uẩn như là tự ngã. Cũng có nhiều loại chánh kiến, những loại kiến chân chánh như vậy được gọi là chánh kiến về Tứ Thánh Đế (catusacca sammā diṭṭthi):
- Chánh kiến thiền (jhāna sammā diṭṭhi): thiền trí kết hợp với các thiền chi. - Chánh kiến phân biệt danh-sắc (nāma-rūpa pariggha sammā diṭṭhi): trí (quán) danh-sắc chân đế. - Chánh kiến về nghiệp và nghiệp quả (kammassakatā sammā diṭṭhi): trí thuộc về sự phân biệt nhân duyên. - Chánh kiến minh sát (vipassanā sammā diṭṭhi): minh sát trí (quán) tính chất vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc và các nhân của chúng. - Chánh kiến Thánh đạo (magga sammā diṭṭhi): trí về Niết-bàn. - Chánh kiến Thánh quả (phala sammā diṭṭhi): trí về Niết-bàn. Hỏi 7.11: Người hành thiền nên hành như lý tác ý (yoniso manasikāra) như thế nào trong đời sống hàng ngày và trong lúc hành Chỉ-Quán (samatha vipassanā) của họ? Đáp 7.11: Như lý tác ý hiệu quả nhất là minh sát. Nếu quý vị hành đến mức minh sát (vipassanā) rồi, quý vị sẽ có như lý tác ý hiệu quả nhất. Như vậy, nếu quý vị hành minh sát trong đời sống hàng ngày, minh sát ấy sẽ tạo ra những kết quả tốt, như đạo và quả thấy Niết-bàn. Còn nếu quý vị không thể hành đến mức minh sát được, quý vị nên suy xét đến sự kiện rằng, các pháp hữu vi là vô thường (sabbe saṅkhāra anicca). Đây cũng là tác ý như lý nhưng rất yếu và chỉ có tính cách gián tiếp thôi. Quý vị cũng có thể thực hành bốn phạm trú (brahmavihāra), đặc biệt là xả phạm trú (upekkhābrahmavihāra). Đó là loại tác ý như lý cao cấp nhất, bởi vì thực hành xả phạm trú là để thấy quy luật của nghiệp đúng theo tinh thần "sabbe sattā kammassakā" (tất cả chúng sinh đều là chủ nhân ông của nghiệp họ làm). Đôi khi quý vị cũng có thể phản tỉnh đến những hậu quả của phi lý tác ý. Phi lý tác ý khiến cho nhiều bất thiện nghiệp tuần tự xảy đến. Những bất thiện nghiệp này sẽ tạo ra muôn vàn khổ đau trong bốn ác đạo (apāya). Hiểu được điều này là như lý tác ý. Quý vị nên thực hành như vậy thường xuyên trong đời sống hàng ngày của mình. Hỏi 7.12: Thế nào là sự khác nhau giữa tác ý (manasikāra) và thực hành Thất Giác Chi (bojjhanga)? Đáp 7.12: Khi quý vị hành Thất Giác Chi, tác ý thường đứng đầu ba mươi bốn tâm hành. Có khi ba mươi bốn tâm hành còn được gọi là minh sát trí, vì trong ba mươi bốn tâm hành ấy, tuệ (paññā) là yếu tố chính vậy. Ở đây, quý vị nên biết đến ba loại tác ý liên quan đến nội dung này.
1. Tác ý kể như nhân căn bản cho đối tượng (ārammaṇa paṭipādaka manasikāra) 2. Tác ý kể như nhân căn bản cho tiến trình tâm (vīthi paṭipādaka manasikāra) 3. Tác ý kể như nhân căn bản cho tốc hành tâm (javana paṭipādaka manasikāra). Tác ý kể như nhân căn bản cho đối tượng tức là tâm sở tác ý. Nhiệm vụ của nó là làm cho đối tượng rõ ràng đến tâm của hành giả. Tác ý kể như nhân căn bản cho tiến trình tâm là ngũ môn hướng tâm (pañcadvārāvajjana) trong tiến trình tâm ngũ môn (pañcadvāravīthi). Nhiệm vụ của nó là cho tất cả các tiến trình ngũ môn khả năng bắt lấy đối tượng tương ứng của nó. Tác ý kể như nhân căn bản cho tốc hành tâm là ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana) trong tiến trình tâm ý môn (manodvārāvīthi) và quyết định tâm (voṭṭhapana) trong tiến trình tâm ngũ môn. Trong trường hợp này tác ý, hoặc là như lý, hoặc là phi như lý. Nhiệm vụ của nó là làm cho tốc hành (javana) khởi lên. Nếu đó là như lý tác ý thì tốc hành sẽ là thiện đối với phàm nhân (puthujjana) và các bậc hữu học (sekkha). Còn đối với các bậc A-la-hán thì nó chỉ là duy tác (kiriya). Khi tác ý phi như lý thì tốc hành tâm luôn luôn là bất thiện, một điều không thể xảy ra trong các vị A-la-hán. Hỏi 7.13: Xin thiền sư hoan hỷ giải thích bằng sơ đồ được không? Trong hệ thống thiền này, có cần thiết phải thực hành hơn ba mươi loại đề mục thiền (kammaṭṭhāna) không? Làm như vậy được lợi ích gì? Đáp 7.13: Chúng tôi không quan tâm đến các sơ đồ. Nó được dựa trên loại sơ đồ mà một ông thầy giáo, loại người rất quan tâm đến các sơ đồ, vẽ. Ở trung tâm thiền Pa-Auk, chúng tôi dạy nhiều loại thiền chỉ (samatha) cho những ai muốn hành chúng. Nếu họ không muốn hành hết những đề mục ấy mà chỉ muốn một đề mục duy nhất, như niệm hơi thở chẳng hạn, thì chúng tôi chỉ dạy họ thiền đó. Khi họ đã có thiền, chúng tôi đưa họ thẳng vào minh sát theo tuần tự một cách hệ thống. Trong khi hành Chỉ-Quán, đôi khi có thể có những triền cái như tham (rāga), sân (dosa) và tư duy lan man (vitakka - tầm) xen vào khuấy dộng thiền định và minh sát của quý vị. Các đề tài thiền sau đây được xem là những vũ khí hữu hiệu nhất để loại trừ các triền cái đó. Trong Kinh Meghiya, đức Phật khuyên: Asubhā bhāvetabbā rāgassa pahānāya (Hành giả nên hành thiền (quán) bất tịnh để loại trừ dục tham). Mettā bhāvetabbā byāpādassa pahānāya (Hành giả nên hành thiền tâm từ để loại trừ sân). Ānāpānassati bhavetabbā vitakkupacchedāya. (Hành giả nên hành niệm hơi thở để loại trừ tư duy lan man). Hơn nữa, một tâm có định có thể thấy các pháp chân đế (paramattha dhamma) như chúng thực sự là. Trong các pháp hành định, tám thiền chứng (samāpatti) được xem là rất cao và vững mạnh, vì thế, những ai muốn hành tám thiền chứng một cách triệt để, chúng tôi cũng sẽ dạy thiền kasiṇa. Nếu quý vị muốn hiểu sơ đồ một cách trọn vẹn, quý vị cần phải hành Chỉ-Quán cho đến các Đạo - Quả Tuệ. Chỉ lúc ấy quý vị mới hiểu đầy đủ sơ đồ. Vì sao chúng tôi không quan tâm đến các sơ đồ? Bởi vì, thực ra nó không đủ để trình bày toàn bộ hệ thống trên một trang giấy. Chúng tôi đã giải thích toàn bộ hệ thống này trên hơn ba ngàn sáu trăm trang giấy ở Miến Điện rồi. Một trang giấy không cách gì đủ được.
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 20:59:30 GMT -5
Hỏi 7.14: Một tâm sân có thể tạo ra nhiều thế hệ tổng hợp sắc do thời tiết sanh (utuja ajaṭṭhamaka kalāpa) và làm cho mắt lóe sáng lên được không? Đáp 7.14: Khi nói "một tâm tạo ra ánh sáng" là chỉ nói theo phép ẩn dụ thôi, bởi vì thực sự, ngoài tâm kiết sanh (paṭisandhi citta) ra, tất cả các tâm sanh lên nương vào ý căn (sắc trái tim - hadayavatthu) đều tạo ra các tổng hợp sắc do tâm sanh (cittajakalāpa). Trong số các tổng hợp sắc này luôn luôn có màu (vaṇṇa). Màu này sẽ sáng hơn nếu tâm đó là một tâm thiền chỉ hay tâm thiền minh sát. Điều này đã được các bản kinh Pāli, các bản Chú Giải và Phụ Chú Giải đề cập đến. Tuy nhiên, những nguồn ấy không hề nói rằng sắc do tâm sanh được tạo ra bởi một tâm sân cũng phát ra ánh sáng. Hỏi 7.15: Tâm thấy có thấy danh-sắc của chính nó bao gồm trong danh-sắc không? Nó có được kể trong tuệ không? Đáp 7.15: Có, tâm ấy thấy được[28]. Quý vị có thể thấy điều này ở mọi giai đoạn minh sát, đặc biệt ở giai đoạn Tuệ (quán) Sự Tan Hoại (bhanga ñāṇa). Trong Thanh Tịnh Đạo có nói: "Ñātañca ñāṇañca vipassati" (Chúng ta phải hành minh sát trên cả "cái sở tri" - ñāta, lẫn trí (năng tri) - ñāṇa) [29] "Cái sở tri" ở đây là năm uẩn và các nhân của chúng, vốn phải được biết với minh sát trí. "Trí" (năng tri) có nghĩa là minh sát trí biết tính chất vô thường, khổ và vô ngã của năm uẩn và các nhân của chúng, tức là các pháp hành (saṅkhāra dhamma). Minh sát trí là tuệ, là chánh kiến minh sát. Thường thường chánh kiến minh sát khởi lên cùng với ba mươi ba hoặc ba mươi hai tâm hành, như vậy thành ra ba mươi bốn hoặc ba mươi ba tâm hành. Chúng được gọi là minh sát trí và cũng là các danh pháp bởi vì chúng có khuynh hướng nghiêng về đối tượng ở đây là tính chất vô thường, khổ và vô ngã của các hành. Tại sao quý vị cần phải thấy tự thân minh sát trí cũng là vô thường, khổ và vô ngã? Bởi vì một số hành giả có thể hỏi hoặc nghĩ, không biết minh sát trí này là thường hay vô thường, lạc hay khổ, có ngã hay vô ngã. Để trả lời cho câu hỏi này, quý vị cần phải thấy tiến trình tâm minh sát tự thân nó là vô thường, khổ và vô ngã, đặc biệt ba mươi bốn tâm hành trong mỗi sát-na tâm tốc hành, dẫn đầu bởi minh sát trí. Hơn nữa, một số hành giả có thể trở nên hãnh diện vì họ có thể hành minh sát giỏi và thành công. Chính vì để loại trừ và ngăn ngừa những phiền não này mà quý vị cần phải thấy được minh sát trí hoặc tiến trình tâm minh sát tự thân nó cũng là vô thường, khổ và vô ngã. Hỏi 7.16: Làm cách nào để vượt qua trạng thái tâm không thích và chán ngán trong suốt những giai đoạn hành thiền lâu dài hoặc ở một mình trong rừng vắng? Loại tâm này có phải là một pháp bất thiện không? Đáp 7.16: Trạng thái tâm này gọi là giãi đãi (kosajja) và thường được xem là một pháp bất thiện kết hợp với tham hoặc sân v.v... Trạng thái tâm này sanh khởi là vì phi lý tác ý. Nếu tác ý phi như lý của một người được chuyển đổi và thay thế bằng như lý tác ý, người ấy có thể thành công trong thiền. Để vượt qua trạng thái tâm này hành giả phải thỉnh thoảng nhớ lại rằng, thành công của đức Bồ tát Sakyamuni của chúng ta là do sự kiên trì của Ngài. Hành giả cũng nên nhớ lại những câu chuyện về các vị A-la-hán đã phấn đấu với muôn ngàn khó khăn như thế nào để thành công trong thiền pháp của họ, cuối cùng mới đắc quả vị A-la-hán. Chẳng một ai không nỗ lực lại có thể có được thành công. Đặc biệt trong thiền sự kiên trì là rất cần thiết. Như lý tác ý cũng rất quan trọng. Hành giả phải cố gắng tác ý đến tính chất vô thường, khổ và vô ngã trong các pháp hữu vi. Nếu được như thế, một ngày nào đó hành giả sẽ thành công. Hỏi 7.17: Xin thiền sư hoan hỷ cho một ví dụ về một nguyện ước mà không đi cùng với vô minh, ái và thủ được không? Đáp 7.17: Nếu quý vị hành minh sát khi đang thực hiện những thiện nghiệp và thấy được tính chất vô thường, khổ và vô ngã của các thiện nghiệp ấy thì vô minh, ái và thủ không khởi sanh. Còn nếu quý vị không thể hành minh sát (trong lúc làm thiện nghiệp) thì hãy phát nguyện như sau: "Idaṃ me puññāṃ Nībbānassa paccayo hotu." (Cầu mong phước báu này hãy là một trợ duyên cho sự chứng đắc Niết-bàn) Hỏi 7.18: Nếu năm uẩn là vô ngã vậy thì bạch Ngài, ai là người đang thuyết pháp? Nói khác hơn, nếu năm uẩn là vô ngã, không có Sayadaw (chỉ thiền sư Pa-Auk) là người đang thuyết pháp. Như vậy, có một tương quan như thế nào giữa năm uẩn và tự ngã? Đáp 7.18: Có hai loại sự thực: sự thực theo chế định (sammuti sacca) và sự thực theo chân đế (paramattha sacca). Quý vị nên phân biệt rõ ràng giữa hai loại sự thực này. theo sự thực chế định thì có đức Phật, có Sayadaw, có cha, có mẹ, v.v... Nhưng theo sự thực chân đế hay sự thực cùng tột thì không có đức Phật, không có Sayadaw, không có cha, không có mẹ, v.v... Điều này quý có thể thấy được nếu có minh sát trí đủ mạnh. Nếu quý vị nhìn vào đức Phật với minh sát trí, quý vị chỉ nhìn thấy danh-sắc chân đế, đó là ngũ uẩn. Ngũ uẩn hay danh-sắc này là vô thường, khổ và vô ngã. Không có một tự ngã nào cả. Cũng vậy, nếu quý vị nhìn vào tôi hay vào một người nào đó với minh sát trí, quý vị chỉ thấy danh-sắc chân đế, năm uẩn, mà những pháp này đều là vô thường, khổ và vô ngã. Nói cách khác, không có đức Phật, không có Sayadaw, không có cha, mẹ v.v... Chỉ có năm uẩn và các nhân của chúng, gọi chung là các hành. Như vậy, các hành này đang nói về các hành khác, có khi về Niết-bàn. Hoàn toàn không có ngã. Đã vậy, chúng ta nói về mối tương quan như thế nào đây? Chẳng hạn, nếu có ai đó hỏi quý vị "sừng thỏ dài hay ngắn", quý vị sẽ trả lời thế nào? Hoặc nếu họ hỏi "lông rùa đen hay trắng", quý vị trả lời ra sao? Nếu cái ngã đã không có thực, chúng ta không thể nói về sự tương quan giữa nó và năm uẩn được. Ngay cả đức Phật cũng không trả lời loại câu hỏi này. Vì sao? Giả sử quý vị nói "sừng thỏ dài", điều đó có nghĩa rằng quý vị chấp nhận thỏ có sừng. Và nếu quý vị nói "sừng thỏ ngắn", thì cũng có nghĩa tương tự. Hoặc nếu quý vị nói "rùa có lông đen" hay "trắng" thì chẳng khác nào quý vị chấp chận rùa có lông! Cũng vậy, nếu đức Phật nói năm uẩn và tự ngã có liên quan, hay không có liên quan, có nghĩa Ngài đã chấp nhận có môt tự ngã. Đó là lý do vì sao đức Phật không trả lời loại câu hỏi này. Vì thế, chúng tôi muốn đề nghị quý vị cố gắng hành thiền cho đến mức vipassanà. Chỉ khi ấy quý vị mới có thể loại trừ tà kiến về tự ngã này được. Hỏi 7.19: Đức Phật dạy cho các vị tỳ khưu "Thần Chú Rắn" (Mantra). Đọc Thần Chú ấy có giống như thiền tâm từ không? Có phải niệm chú là một truyền thống của Bà-la-môn du nhập vào đạo Phật không? Đáp 7.19: Thần chú là gì? Thế nào là "Thần Chú Rắn"? Chúng tôi không biết các thần chú có phải được truyền vào từ Ấn Giáo hay không. Nhưng trong Kinh điển Thượng Tọa Bộ (Theravāda) có một bài Kinh Bảo Hộ (Paritta Sutta) gọi là Khandha Paritta [30]. Đức Phật dạy Kinh Bảo Hộ này để các vị tỳ khưu đọc tụng hàng ngày. Có một điều luật (vinaya) quy định rằng nếu một vị Tỳ khưu hay Tỳ khưu Ni trú ở rừng nào mà quên không đọc Kinh Bảo Hộ này ít nhất mỗi ngày một lần, vị ấy xem như đã phạm một tội. Có một lần, vào thời đức Phật, một vị tỳ khưu nọ đang trú trong rừng thì bị một con rắn độc cắn chết. Do sự kiện này mà đức Phật dạy bài Kinh Khandha Paritta. Mục đích của Kinh Bảo Hộ này cũng giống như thiền tâm từ vậy. Trong Kinh đưa ra những cách khác nhau để mở rộng lòng từ đến các loại rắn và rồng khác nhau. Ngoài ra cũng có một lời xác nhận về sự thực liên quan đến Tam Bảo và những ân đức của Phật cũng như các vị A-la-hán. Chúng tôi sẽ tụng bài Kinh Bảo Hộ này tối hôm nay. Nó rất có oai lực. Quý vị có thể gọi đó là "Thần Chú Rắn" cũng được. Cái tên không quan trọng lắm. Quý vị có thể gọi nó bằng bất cứ tên gì mình thích. Có một số vị sư ở Miến Điện dùng Kinh Bảo Hộ này để tụng cho những người bị rắn độc cắn rất có hiệu quả. Khi họ tụng Kinh Bảo Hộ này nhiều lần và khi nạn nhân uống nước có tụng bài Kinh ấy, nọc độc dần dần tan biến. Thường thường thì họ khỏi, nhưng không phải trường hợp nào cũng được như vậy. Đức Phật dạy Kinh Bảo Hộ này để các vị tỳ khưu ngăn ngừa các loại rắn độc. Nếu các vị tụng Kinh với lòng kính tin và mở rộng lòng từ đến tất cả chúng sinh, kể cả các loài rắn, thì sẽ không gặp hiểm nguy. Nếu các vị còn giữ giới nghiêm túc nữa, thì không có sự tai hại nào có thể xảy đến với họ được.
-ooOoo-
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Vs. T1. XIV "Paññā Kathā" (Giải thích về Tuệ) và Vs. XX "Maggāmagga Ñāṇadassana Visuddhi Niddesa" B694 (Mô tả về Đạo Phi Đạo Tri Kiến Thanh Tịnh). N9. [2] Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) xem lại ở trên [3] Mười hai xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp (6 nội xứ và 6 ngoại xứ). [4] Vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, già - chết - sầu - bi - khổ - ưu não. [5] Mười hai xứ và sáu loại thức tương ứng của chúng: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. [6] S.III "Anattalakkhana Sutta" [7] Chú giải "Kinh Giáo Giới Xa-nặc" (Channavāda Sutta) giải thích rằng "Cái này không phải của tôi" là quán vô thường; "Cái này không phải là tôi" là quán khổ; "Cái này không phải tự ngã của tôi" là quán vô ngã. [8] Điều này có nghĩa rằng hành giả phân biệt cả bốn loại sắc đã sanh khởi do sự hỗ trợ của sắc do vật thực. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho sự phân biệt sắc do nghiệp, do tâm và do thời tiết sanh. [9] Tâm minh sát minh sát (quán) tiến trình ý môn: một ý môn hướng tâm và bảy tốc hành, đôi khi có hai tâm thập di theo sau nữa. Trong ý môn hướng tâm có mười hai tâm hành, và trong mỗi tốc hành tâm có ba mươi bốn, ba mươi ba hoặc ba mươi hai tâm hành. (Xem lại bảng 6) [10] Vs.XX "Maggāmagga Ñāṇadassana visuddhi Niddesa B.723 (Mô tả về Đạo Phi Đạo Tri Kiến Thanh Tịnh) N93. [11] Trong một vài trường hợp, hành giả bắt đầu chỉ với một kiếp hiện tại này thôi, kế đó mới nhìn vào các kiếp quá khứ và tương lai. [12] Mặc dù vẫn có nghiệp lực nằm dưới năm uẩn hiện tại, nghĩa là bậc A-la-hán vẫn cảm thọ lạc, khổ do nghiệp quá khứ. Song sẽ không có nghiệp lực trong các hành hiện tại để tạo ra nghiệp mới. [13] Có lúc Thiền sư Pa-Auk Sayadaw hướng dẫn thiền sinh khởi sự bằng cách nhìn vào kiếp này, sau đó nhìn vào các kiếp quá khứ và tương lai. [14] MI.IV.8 "Mahātanhāsankhata Sutta" (Đại Kinh Ái Đoạn Tận) [15] Ibid. [16] Xem thêm trong Vs. XX (B.634 - N107) [17] Các hành thuộc nhân là các pháp hay chi phần của duyên khởi: vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu. Các hành thuộc quả là sắc do nghiệp sanh, do tâm sanh, do thời tiết sanh và do vật thực sanh và các tâm hành thuộc quả. [18] Trong một số trường hợp, nếu tuệ của hành giả cực mạnh, tâm này sẽ không khởi lên và như vậy tốc hành tâm đầu tiên là "cận hành" (upacārā). [19] Đây là ba mươi bảy pháp trợ bồ đề (Bodhipakkhiyadhamma): Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Y Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo. [20] Các pháp 1,2,4 và 5 hành giả cần phải chủ động làm và đòi hỏi phải biết cách làm (công việc phản khán ấy). [21] Đức Phật xem đó là một trọng tội nếu vị tỳ khưu nào thọ nhận, sở hữu hoặc sử dụng tiền. Điều cấm này đã được thiền sư Pa-Auk Sayadaw tuân thủ. [22] Dh. AI. II.I "Sāmāvatī vatthu". [23] Nói cách khác, nếu những ác nghiệp quá khứ làm cho không thể đắc thiền thì sẽ không có ai có thể đắc thiền hết! [24] Xem A.V.ix.3 "Parikuppa Sutta". Năm nghiệp này được gọi là "vô gián" vì chắc chắn chúng sẽ chín mùi trong kiếp hiện tại và cho quả tái sanh trong đại địa ngục Avici (A-tỳ) như trường hợp của đức vua Ajātasattu. [25] Xem câu trả lời 7.7 và 7.9 để biết rõ hơn. [26] Vs.xx. "Vipassanupakkilesa Kathā" B.733. [27] Tịnh Độ được gọi là Tây Phương, Cực Lạc Quốc trong truyền thống Mahāyāna (Đại Thừa), nơi đây có đức Phật gọi là Phật A-Di-Đà đang chờ đợi những ai được tái sanh về đó nhờ niệm danh hiệu của ngài. Nói chung, mục đích của truyền thống Đại Thừa là vãng sanh Tịnh Độ vì ai đi đến đó đều sẽ thành Phật và họ sẽ đi cứu độ tất cả chúng sanh ở khắp Ta-bà thế giới! Còn Tịnh Độ mà thiền sư Pa-Auk nói ở đây (truyền thống Phật giáo Theravāda) chỉ như một biểu trưng cho Niết-bàn để phù hợp với thính chúng theo Đại Thừa, chứ Ngài không nói rằng Niết-bàn là một nơi, hay không muốn dùng bất kỳ một cách nào để so sánh với Tây Phương Tịnh Độ v.v... Xem lại phần nói về cảnh giới siêu thế (lokuttarabhūmi) ở câu trả lời 3.12. [28] Chi tiết liên quan đến điều này xem "Bảy cách quán danh" và "Làm thế nào để tu tập Tuệ (quán) Sự Hoại Diệt". [29] Vs.XXI "Bhangānupassanāñāṇa Kathā" B742. [30] A.IV.11.ii.7. "Ahirāja Sutta" (Kinh Chúa Các Loài Rắn). Sở dĩ gọi Khandha (nhóm, uẩn), Paritta (Bảo Hộ) bởi vì tâm từ (metta) ở đây được mở rông đến tất cả chúng sinh theo các nhóm: bốn loại rắn, các chúng sinh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân.
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 21:01:37 GMT -5
Biết và Thấy -Những ước nguyện của Đức Phật và giáo pháp của Ngài -
Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Những ước nguyện của Đức Phật cho các hàng đệ tử và giáo pháp của Ngài (Bài giảng nhân ngày lễ Vesākha) Đức Phật Từ Bỏ Thọ Hành [1] Mùa hạ (Vassa) cuối cùng, đức Phật trải qua trong ngôi làng Veḷuna. Thời gian ấy, một cơn đau kịch liệt khởi lên nơi Ngài. Vào ngày trăng tròn tháng Asāḷha (tháng 6), một cơn đau lưng buốt nhức cực độ bất ngờ tấn công Ngài, do nghiệp đời trước. Bài liên quan: 0. Biết và Thấy - Khởi đầu con đường của Thánh nhân - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 1. Biết và Thấy - Làm thế nào để tu tập niệm hơi thở đạt đến An chỉ định - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 2. Biết và Thấy - Tu tập An chỉ định trên các đề mục Thiền như thế nào - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 3. Biết và Thấy - Tu tập Bốn Phạm Trú và Bốn Thiền Bảo Hộ - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 4. Biết và Thấy - Làm thế nào để phân biệt Sắc - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 5. Biết và Thấy - Phân biệt Danh - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 6. Biết và Thấy - Làm thế nào để thấy những mắc xích của Duyên Khởi - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 7. Biết và Thấy - Tu tập các Tuệ Minh Sát như thế nào để thấy Niết-bàn - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 8. Biết và Thấy -Những ước nguyện của Đức Phật và giáo pháp của Ngài - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 9. Biết và Thấy - Loại cúng dường cao thượng nhất - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Một trong những tiến kiếp của Ngài, đức Phật đã từng là võ sĩ. Có lần Ngài đã đánh ngã một đối thủ và làm gãy lưng người này. Bất thiện nghiệp ấy khi chín muồi đã cho quả của nó, đó là mười tháng trước ngày nhập Vô Dư Niết-bàn của Ngài. Nghiệp quả ấy mạnh đến độ kéo dài cho đến lúc chết. Một thọ khổ như vậy được gọi là "thọ (khổ) chấm dứt vào lúc chết" (maranatikavedanā), tức là nó chỉ dừng lại khi cái chết xảy ra[2]. Đức Phật đã ngăn không cho thọ khổ đó khởi lên nhờ nhập A-la-hán Thánh quả định (Arahattaphala samāpatti) và thực hiện một quyết định (adhiṭṭhāna). Trước tiên, đức Phật nhập A-la-hán Thánh quả định dựa trên bảy cách quán sắc (rūpa sattaka vipassanā). Sau khi hành những pháp quán ấy xong và ngay trước khi nhập vào A-la-hán Thánh quả định, đức Phật quyết định: "Kể từ hôm nay cho đến ngày Niết-bàn, mong cho những thọ khổ này không khởi lên", sau đó Ngài mới nhập Thánh quả định. A-la-hán Thánh quả định là tâm quả A-la-hán với Niết-bàn làm đối tượng, khởi lên liên tục trong một thời gian dài. Do việc hành vipassanā trước đó kiên trì và mãnh liệt mà A-la-hán Thánh quả định cũng mãnh liệt và kiên trì như vậy. Chính nhờ nỗ lực của minh sát và định lực của Thánh quả mà thọ khổ đã không khởi lên trong mười tháng còn lại cho đến ngày Đại Niết-bàn của đức Phật. Nhưng trong thời gian đó, mỗi ngày đức Phật đều phải nhập Thánh quả đều đặn. Sau mùa an cư (Vassa), đức Phật vân du từ nơi này đến nơi khác, và cuối cùng đến tại Tỳ - xá - ly (Vesālī). Ba tháng trước ngày trăng tròn tháng Vesāka (rằm tháng Tư), tức là vào ngày rằm tháng Giêng tại ngôi tháp Cāpāla (Cāpāla cetiya), đức Phật quyết định xả bỏ thọ hành (āyusankhāra ossajana), nghĩa là, vào ngày đó Ngài quyết định: "Temāsamattameva pana samāpattiṃ samāpajjitvā tato paraṃ na samāpajjissāmīti cittaṃ samāpajjitva cittaṃ uppādasi" (Từ hôm nay cho đến trăng tròn tháng Vesākha ta sẽ thực hành Thánh quả định này. Rồi sau đó ta sẽ không hành pháp ấy nữa.) Đức Phật tuyên bố những ước nguyện của Ngài Vào ngày đó, trước chúng Tăng tỳ khưu tại đại giảng đường của chùa mahàvana, đức Phật thông báo Ngài xả bỏ thọ hành. Ngài nói với chúng tỳ khưu: "Tasmātiha bhikkhave ye te mayā dhammā abhiññā desitā, te vo sādhukaṃ uggahetva āsevitabbā bhāvetabbā bahulīkātabbā. (Này chư tỳ khưu, ta đã giải thích rõ những Chân lý (dhamma) mà ta đã tự mình thắng tri cho các người. Các người cần phải khéo học tập, trau dồi, tu tập và thực hành thường xuyên những pháp ấy). Như vậy, đức Phật chỉ dạy pháp mà Ngài đã tự chứng. Ở đây đức Phật tuyên bố những ước nguyện của Ngài cho Giáo Pháp và chỉ dạy Tăng chúng: 1. Tăng chúng cần phải nắm vững những lời dạy của Ngài, nhưng nắm vững thôi thì chưa đủ. Đây là ước nguyện thứ nhất của đức Phật. 2. Ngài chỉ dạy Tăng chúng nên trau dồi pháp. Trong Pāḷi thường gọi là sevitabbā, có nghĩa rằng chúng ta phải cố gắng hiểu pháp này bằng sự thực hành thường xuyên, nên chúng tôi dịch là trau dồi. Đây là ước nguyện thứ hai của đức Phật. 3. Cuối cùng Ngài chỉ dạy Tăng chúng phải tu tập (bhāvetabbā) các pháp. Khi chúng ta trau dồi, nhất thiết phải có sự tăng trưởng và tiến bộ. Điều đó có nghĩa là gì? Khi chúng ta hành pháp, chỉ có những thiện pháp (kusala dhamma) khởi lên trong tiến trình tâm của chúng ta. Các thiện pháp đó là, giới thiện pháp (sīla kusaladhamma), định thiện pháp (samādhi kusaladhamma) và tuệ thiện pháp (paññā kusaladhamma). Những thiện pháp này phải khởi lên không gián đoạn cho đến quả vị A-la-hán. Nếu một vị Thanh Văn đệ tử (Sāvaka) của đức Phật đắc A-la-hán Thánh quả thì việc thực hành (bhāvanā) của họ kể như hoàn tất. Vì thế, một đệ tử của đức Phật phải thực hành những lời dạy của đức Phật cho đến khi đạt đến cứu cánh, tức là sự trau dồi phải được phát triển cho đến Thánh quả A-la-hán. Để đạt đến A-la-hán Thánh quả chúng ta phải thực hành thường xuyên. Vì lý do đó, đức Phật đã đưa ra lời chỉ dẫn "bahulīkātabba", có nghĩa là chúng ta phải thực hành một cách thường xuyên. Đây là ước nguyện thứ ba của đức Phật. Những ước nguyện này vì sao lại khởi lên trong tiến trình tâm của đức Phật?[3] "Yathayidaṃ brahmacariyaṃ addhaniyaṃ assa ciraṭṭhikikaṃ." (Để cho lời dạy thuần tịnh này có thể được an lập và bền lâu). Đó là, duy trì lời dạy thuần tịnh này sao cho nó có thể bền vững trong một thời gian lâu dài. Phận Sự Của Chúng Ta Với Tư Cách Là Những Phật Tử. Duy trì lời dạy này không để cho thất tán là bổn phận hết sức quan trọng của mỗi người Phật tử. Do đó, chúng ta phải cố gắng: - Nắm vững (hiểu rõ) tất cả những lời dạy của đức Phật. - Thực hành những lời dạy của đức Phật như thế nào để hiểu được pháp ấy qua kinh nghiệm tự thân. - Thực hành những lời dạy đó cho đến quả vị A-la-hán. Đây là những bổn phận của mọi Phật tử. Là một Phât tử, chúng ta phải theo những chỉ dẫn này. Nếu không theo những điều này, chúng ta chỉ là Phật tử trên danh nghĩa chứ không phải người Phật tử chân chánh. Tóm lại, người nào hành theo ba phận sự này một cách triệt để, người ấy là một Phật tử chân chánh. Vì thế, hôm nay quý vị có thể quyết định: - Ta sẽ cố gắng nắm vững tất cả những lời dạy của đức Phật. - Ta sẽ cố gắng thực hành những lời dạy ấy để hiểu được chúng qua kinh nghiệm tự thân. - Ta sẽ thực hành những lời dạy của đức Phật cho đến quả vị A-la-hán. Chúng Ta Có Thể Làm Lợi Ích Cho Đời Như Thế Nào Nếu chúng ta thực hiện được ba bổn phận đó thì có thể nói rằng chúng ta đang thở theo những chỉ dẫn của đức Phật. Vì sao? "Tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ" (Vì an lạc và lợi ích cho số đông, Xuất phát từ lòng bi mẫn cho đời, Vì sự an lạc và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại.) Có thực hành theo những chỉ dẫn của đức Phật, chúng ta mới có thể truyền trao Giáo Pháp đến các thế hệ tương lai như một di sản, mới có thể dạy cho các hàng chư Thiên và loài người: - Hãy cố gắng nắm vững tất cả những lời dạy của đức Phật. - Hãy thực hành những lời dạy của đức Phật để hiểu được chúng qua kinh nghiệm tự thân. - Hãy thực hành những lời dạy của đức Phật cho đến quả vị A-la-hán. Chúng Ta Có Thể Chứng Tỏ Đức Tin Của Mình Như Thế Nào? Quý vị có đủ niềm tin vững chắc nơi những lời dạy của đức Phật không? Trong Chú giải Kinh Ghaṭīkāra [4] có nói: "Pasanno ca pasannākāraṃ kātuṃ sakkhissati." (Những người có niềm tin chân chánh đối với Tam Bảo có thể biểu lộ lòng kính tín của họ qua việc thực hành.) Nếu một người nam hay nữ nào không biểu lộ được lòng tịnh tín của họ (theo cách đó) thì chúng ta không thể nói rằng người ấy có một đức tin trong sạch thật sự. Nếu quý vị có đức tin chân chánh nơi những lời dạy của đức Phật, quý vị phải khéo học những lời dạy ấy, thực hành những lời dạy ấy không ngừng nghỉ khi chưa đắc A-la-hán Thánh quả. Đây là những di huấn quan trọng của đức Phật trước lúc nhập diệt. Nếu chúng ta có niềm tin nơi đức Phật, chúng ta phải tuân theo những di huấn này. Khi chúng ta có niềm tin nơi cha mẹ của mình, chúng ta phải vâng theo những chỉ dẫn của họ. Cũng vậy, "Cha" chúng ta ở đây chính là đức Phật, chúng ta phải vâng theo những di huấn của "Cha" mình giống như vậy. Chúng Ta Phải Học Và Hành Những Gì? Những lời dạy đó là gì? Đó là[5]: - Tứ Niệm Xứ (Cattaro Satipaṭṭhānā) - Tứ Chánh Cần (Cattaro Sammappadhānā) - Tứ Thần Túc (Cattaro Iddhipādā) - Ngũ Căn (Pañcindriyāni) - Ngũ Lực (Pañca Bala) - Thất Giác Chi (Satta Bojjhanga) - Bát Thánh Đạo (Ariya Atthangiko Maggo) Tất cả có Ba Mươi Bảy Pháp thiết yếu cho Sự Giác Ngộ (Bodhipakkhiyadhamma). Chúng ta sẽ luận bàn một cách tóm tắt những pháp này ở đây. Trong Kinh điển Pāḷi, đức Phật dạy Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Giác Ngộ theo nhiều cách khác nhau tùy theo khuynh hướng của người nghe. Những lời dạy của đức Phật trong Kinh điển Pāḷi có thể rút gọn chỉ còn Ba Mươi Bảy pháp này. Nếu cô đọng lại thì chỉ có Bát Chánh Đạo. Và nếu được cô đọng thêm nữa thì chỉ có Tam học: Giới, Định, Tuệ. Căn Bản Cho Việc Thực Hành Trước tiên chúng ta phải học "giới học" để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao? Vì thế, để thanh tịnh giới hạnh, để kiểm soát tâm và tu tập tuệ của mình, trước hết chúng ta phải thấu rõ Pháp (dhamma). Thứ đến, chúng ta phải trau dồi và tu tập pháp ấy cho đến A-la-hán Thánh quả. Trong Kinh Đại Niết-bàn, đức Phật đã khích lệ hàng đệ tử của Ngài nhiều lần: "Iti silaṃ, iti samādhi, iti paññā Sīlaparibhāvito samādhi mahapphalo hoti mahānisaṃso, Samādhiparibhāvitā paññā mahapphalā hoti mahānisaṃsā, Paññāparibhāvitaṃ cittam sammadeva āsavehi vimuccati, Seyyathidaṃ kāmāsavā bhavāsavā diṭṭhāsavā avijjāsavā." (Đây là giới, đây là định, đây là tuệ. Định khi được tu tập viên mãn dựa trên giới sẽ đem lại quả lớn, lợi ích lớn. Tuệ khi được tu tập viên mãn dựa trên định sẽ đem lại quả lớn, lợi ích lớn. Tâm khi được tu tập viên mãn với trí tuệ sẽ hoàn toàn giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu.) Tất cả chúng ta ai cũng có tâm. Nếu chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình, dựa trên giới, thì sức mạnh của tâm có định ấy sẽ vô cùng kỳ diệu. Tâm có thể thâm nhập vào sắc chân đế. Sắc phát sinh dưới dạng các tổng hợp sắc (rūpa kalāpa). Những tổng hợp này nhỏ hơn các nguyên tử (atoms). Thân chúng ta do những rūpa kalāpa này làm thành và tâm có định có thể phân tích được các tổng hợp sắc đó. Tâm định còn có thể thâm nhập vào thực tại cùng tột của danh (danh chân đế), vào các nhân của chúng và vào tính chất sanh diệt của danh-sắc cũng như các nhân ấy. Minh sát trí thâm nhập vào các hiện tượng này gọi là trí tuệ. Tuệ ấy tiến triển nhờ định dựa trên giới. Tâm định và trí tuệ tạo thành năng lực. Năng lực này có thể dẫn đến sự chứng đắc Niết-bàn, diệt tận mọi tham đắm, phiền não và khổ đau. Mọi người đều có tâm. Khi tâm được tu tập sung mãn nhờ định thì minh sát trí (tuệ) có thể giải phóng con người ra khỏi các cấu uế của dục tham và vòng luân hồi một cách hoàn toàn. Song định đó phải dựa trên giới. Đối với hàng tại gia thì ngũ giới là cần thiết. Đó là: - Không sát sanh - Không trộm cắp - Không tà dâm - Không nói dối - Không uống rượu và các chất say Năm giới này đối với những Phật tử tại gia là cần thiết. Nếu người nào phạm vào một trong năm điều này, tự nhiên họ không còn là một Phật tử chân chánh nữa. Pháp quy Tam bảo của người ấy cũng không còn giá trị. Ngoài ra, người Phật tử còn phải tránh những cách sinh nhai không chân chánh (tà mạng), tức là không sử dụng những tài sản có được do sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đâm thọc, nói lời thô ác hoặc nói chuyện vô ích. Người Phật tử cũng không can dự vào năm loại nghề bất chánh là mua bán vũ khí, người, súc vật để mổ thịt, các chất say và các chất độc. Như vậy, đối với người Phật tử, giới rất quan trọng. Ngoài sự hỗ trợ cho việc chứng đắc Niết-bàn, giới giúp người Phật tử có được trạng thái an vui lúc cận tử - nhân tố cần thiết cho cảnh giới tái sanh. Nếu hành nghiệp của một người không trong sạch thì không dễ gì có được một thú tướng tốt đẹp, bởi vì vào lúc lâm chung, những bất thiện nghiệp ấy thường bám vào tâm họ, xuất hiện trong tâm họ. Và do bắt lấy một trong những bất thiện nghiệp đó làm đối tượng của tâm, họ thường đi đến những khổ cảnh sau khi chết. Giới cũng quan trọng không kém trong việc mưu tìm hạnh phúc và an lạc trong kiếp hiện tại. Không trong sạch giới hạnh, con người không thể tìm thấy hạnh phúc và an lạc. Thông thường, một người có nhiều ác nghiệp, tự nhiên sẽ ít có thiện hữu. Mà người ít có bạn tốt thì khó có được an vui hạnh phúc trong cuộc đời. Thiền Chỉ Và Thiền Quán Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật dạy: "Yo ca vassasataṃ jīve, dussilo asamāhito, Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo, sīlavantassa jhāyino." (Dầu sống cả trăm năm Không giới, không thiền định, Cuộc đời người như vậy Không có gì đáng khen. Tốt hơn sống chỉ một ngày Mà biết hành giới, tu thiền định tâm.) Vì sao? Vì tâm khi được tu tập sung mãn qua thiền định có thể phát sinh trí tuệ thâm sâu, tức có thể thấy Niết-bàn, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi, hủy diệt mọi phiền não và khổ đau. Vì thế chúng ta phải hành thiền chỉ và thiền quán dựa trên giới. Khi chúng ta hành Chỉ-Quán, chúng ta phải hành Tứ Niệm Xứ (Cattaro satipaṭṭhāna): - Niệm thân (Kāyānupassanā satipaṭṭhāna) - Niệm thọ (Vedanānupassanā satipaṭṭhāna) - Niệm tâm (Cittānupassanā satipaṭṭhāna) - Niệm pháp (Dhammānupassanā satipaṭṭhāna) Cái gì là "thân" (kāya)? Trong thiền minh sát có hai loại thân: sắc thân (rūpakāya) và danh thân (nāmakāya). Sắc thân là một tổng hợp hai mươi tám loại sắc. Danh thân là một nhóm các tâm và tâm sở của chúng. Nói cách khác, hai thân ở đây là năm uẩn (khandha) - sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nhưng những đối tượng của thiền chỉ (samatha) như là hơi thỏ, ba mươi hai thể trược (asubha) và tứ đại cũng được gọi là thân. Vì sao? Chúng cũng là nguyên khối sắc. Chẳng hạn, hơi thở là một nhóm các tổng hợp sắc do tâm tạo. Nếu chúng ta phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta sẽ thấy có chín loại sắc trong mỗi tổng hợp: đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất và (âm) thanh (sắc cảnh thinh). Bộ xương cũng là nguyên khối của các tổng hợp sắc. Nếu là một cơ thể sống thì có tổng cộng năm loại tổng hợp sắc. Nếu phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta thấy có bốn mươi bốn loại sắc. Trong phần niệm thân, đức Phật dạy hai loại thiền: chỉ và quán. Trong mục quán thân, Ngài gồm luôn niệm hơi thở (ānāpānasati) và ba mươi hai thể trược v.v... Vì thế, nếu hành giả đang hành niệm hơi thở, hành giả cũng đang hành quán thân. Tất cả những pháp thiền chỉ ấy đều đi vào phần quán thân. Sau khi hành giả đã thành công trong việc hành thiền chỉ, hành giả chuyển sang thiền minh sát và thấy hai mươi tám loại sắc. Như thế cũng là đang hành quán thân. Vào lúc hành phân biệt danh (nāmakammaṭṭhāna), khi hành giả phân biệt các cảm thọ, thì đó là quán thọ; khi phân biệt tâm, là quán tâm; khi phân biệt xúc, là quán pháp. Nhưng chỉ phân biệt thọ, tâm và xúc thôi thì chưa đủ để đắc các tuệ minh sát. Vì thế, chúng ta phải phân biệt các tâm sở còn lại. Sau khi đã phân biệt xong danh và sắc, chúng ta còn phải phân biệt các nhân của chúng trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là tuệ phân biệt Nhân Duyên (paccaya pariggaha ñāṇa). Sau tuệ phân biệt Nhân Duyên, tức là khi hành giả đã đạt đến giai đoạn minh sát (vipassanā), hành giả có thể nhấn mạnh vào sắc, hoặc thọ, tâm hay xúc. "Nhấn mạnh" ở đây không có nghĩa là hành giả chỉ phân biệt duy nhất một trạng thái. Hành giả có thể nhấn mạnh sắc nhưng cũng không bỏ quên danh. Tức là, hành giả cũng phải phân biệt thọ, tâm và pháp nữa[6]. Hành giả có thể nhấn mạnh các cảm thọ. Nhưng các cảm thọ thôi chưa đủ. Hành giả còn phải phân biệt các tâm hành đồng sanh với chúng, các căn của chúng và các đối tượng của chúng. Năm căn và các đối tượng của chúng là sắc. Đối với các tâm và pháp cũng như vậy[7]. Vì thế ở đây, vipassanā là quán tính vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc và các nhân của chúng. Các pháp ấy diệt ngay khi chúng vừa sanh lên, đó là vô thường. Chúng bị đàn áp với bởi sự sanh diệt liên tục, đó là khổ. Trong các pháp ấy không có tự ngã, không có gì bền vững, thường hằng và bất tử, đó là vô ngã. Sự phân biệt tính vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc và các nhân, các quả của chúng được gọi là thiền minh sát. Khi một hành giả hành thiền chỉ và quán, có thể nói là hành giả ấy đang hành Tứ Niệm Xứ. Khi hành giả hành Tứ Niệm Xứ, hành giả phải đề khởi đủ Tứ Chánh Cần. Đó là: - Tinh tấn ngăn không cho những bất thiện pháp khởi sanh - Tinh tấn trừ diệt các bất thiện pháp đã sanh - Tinh tấn phát khởi những thiện pháp chưa sanh (định thiện pháp, minh sát thiện pháp, Thánh đạo thiện pháp v.v...) - Tinh tấn tu tập các thiện pháp cho đến A-la-hán Thánh quả. Hành giả phải hành như thế nào? Hành giả phải hành theo Tứ Niệm Xứ . Khi hành cần phải đề khởi đủ bốn loại tinh tấn vừa đề cập, "dù cho thịt và máu ta có khô cạn chỉ còn lại xương và gân, ta cũng không từ bỏ thiền này." Khi hành, hành giả phải có Tứ Thần Túc: - Dục (chanda): lòng mong mỏi kiên trì và mãnh liệt muốn đạt đến Niết-bàn. - Cần (vīriya): tinh tấn kiên trì và mãnh liệt để đạt đến Niết-bàn. - Tâm (citta): tâm kiên trì và mãnh liệt để đạt đến Niết-bàn. - Thẩm (vimaṃsa): minh sát tuệ kiên trì và mãnh liệt để đạt đến Niết-bàn. Nếu có lòng mong mỏi mạnh mẽ như vậy, chúng ta sẽ đạt đến mục đích. Không có điều gì không thể thành tựu nếu có đủ hoài bão. Với tinh tấn, tâm và thẩm, không có gì không thể thành tựu. Khi hành chỉ và quán dựa trên giới, chúng ta cũng phải có ngũ căn. Đó là: - Tín (saddha): niềm tin kiên cố nơi đức Phật và những lời dạy của Ngài. - Tấn (vīriya): vận dụng tinh tấn đủ mạnh. - Niệm (sati): phải có niệm đủ mạnh trên đối tượng thiền. Nếu là thiền chỉ, nó phải là một đối tượng như tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) hoặc tướng kasiṇa (kasiṇa nimitta). Nếu là minh sát (quán), nó phải là danh, sắc và các nhân của chúng. - Định (samādhi): phải có định đủ mạnh trên các đối tượng chỉ và minh sát. - Tuệ (paññāṇa): phải có sự hiểu biết đầy đủ về các đối tượng thiền chỉ và thiền minh sát. Năm căn tinh thần này sẽ kiểm soát tâm của hành giả, nhờ vậy nó không đi chệch ra khỏi con đường Bát Chánh, đưa đến Niết-bàn. Nếu hành giả không có một trong những căn này, hành giả không thể đạt đến mục tiêu của mình được. Hành giả không thể kiểm soát được tâm của mình. Năm căn này có sức mạnh kiểm soát được tâm hành giả, nhờ vậy nó không rời khỏi đối tượng thiền của hành giả. Sức mạnh này cũng được gọi là ý lực (bala). Trên ý nghĩa của ý lực, năm căn tinh thần được gọi là ngũ lực (pañcabalāni). Ngoài Tứ Niệm Xứ ra, Thất Giác Chi (satta bojjhaga) cũng rất quan trọng. Đó là: - Niệm (sati) - Trạch pháp (dhammavicaya). Đây là minh sát tuệ. - Tinh tấn (vīriya) - Hỷ (pīti) - An tịnh (passadhi) - Định (samādhi) - Xả (upekkhā) Cuối cùng, có Bát Chánh Đạo (Ariyo aṭṭhangiko maggo): - Chánh Kiến (sammā diṭṭhi) - Chánh Tư Duy (sammā sankappa) - Chánh Ngữ (sammā vācā) - Chánh Nghiệp (sammā kammanta) - Chánh Mạng (sammā ājīva) - Chánh Tinh Tấn (sammā vāyāma) - Chánh Niệm (sammā sati) - Chánh Định (sammā samādhi). Nói cách khác, đó là Giới, Định và Tuệ - Tam Học. Chúng ta phải hành Tam Học này một cách hệ thống. Tất cả có 37 Pháp Trợ Giác Ngộ. Ước nguyện của đức Phật là các đệ tử của Ngài phải nắm vững 37 Pháp này và thực hành các pháp ấy cho đến quả vị A-la-hán. Nếu làm được điều đó, chúng ta có thể truyền trao cho các thế hệ tương lai di sản này. Như vậy, chúng ta và các thế hệ tương lai sẽ nhận được những lợi ích trong đời này cho đến khi chứng đắc Niết-bàn. Những Lời Khuyên Của Đức Phật Cho Tăng Chúng. Trong Kinh Đại Niết-bàn, đức Phật nói thêm: "Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, vayadhammā sankhārā appamādena sampādetha." (Này các tỳ khưu, tất cả hành (pháp hữu vi) phải chịu sự tan hoại, Do đó hãy phấn đấu chớ nên dễ duôi.) Tất cả danh-sắc và các nhân của chúng được gọi chung là các hành (sankhāra) vì chúng được tạo ra bởi các nhân tương ứng của chúng. Các hành luôn luôn vô thường. Hành giả không nên quên về tính vô thường này. Chính do quên tính vô thường (của các pháp) mà quý vị khao khát cho bản thân mình, cho con cái, cho gia đình, v.v... Nếu biết được mọi vật đều mang tính vô thường thì trong suốt cuộc đời, chúng ta sẽ cố gắng thoát khỏi nó. Vì thế, quý vị không nên quên lời khích lệ của đức Phật: "Tất cả các hành phải tan hoại, do đó, hãy phấn đấu chớ nên dễ duôi!" Đức Phật dạy tiếp: "Na ciraṃ Tathāgatassa Parinibbānaṃ bhavissati. Ito tinnaṃ māsānaṃ accayena Tathāgato parinibbāyissati". (Giờ diệt độ của Như Lai sắp đến, Ba tháng nữa, kể từ hôm nay, Như Lai sẽ nhập Đại Niết-bàn.) Điều đó có nghĩa là Ngài sẽ diệt độ hoàn toàn. Quả thực là đau buồn khi nghe những lời đó. Đức Phật cũng nói: "Paripakko vayo mayhaṃ, parittaṃ mama jīvitaṃ." (Tuổi ta giờ đã quá già, thọ mạng chỉ còn ngắn ngủi.) Rồi Ngài đã mô tả tuổi già của Ngài cho Tôn giả Ānanda: "Này Ānanda, Ta nay đã già yếu, đã vượt qua năm tháng, Năm nay ta đã tám mươi, đã trải qua cuộc đời. Như một chiếc xe cũ kỹ, này Ānanda, được ràng giữ lại với nhau với nhiều khó khăn, thân của Như Lai cũng vậy, chỉ khi được hỗ trợ mới tiếp tục tồn tại. Đó là, này Ānanda, chỉ khi Như Lai không tác ý đến các đối tượng bên ngoài, với sự diệt trừ một cảm thọ, chứng và trú Vô Tướng Tâm Định, [8] thân ta mới được thoải mái." "Pahāya vo gamissāmi, kataṃ me saraṇamattano." (Từ biệt các người ta ra đi, chỉ nương tựa vào chính mình mà thôi.) Điều đó có nghĩa Ngài sẽ nhập Đại Niết-bàn và rời bỏ tất cả. Ngài đã tạo dựng nơi nương tựa cho chính Ngài bằng quả vị A-la-hán. "Do vậy, này Ānanda, hãy là hòn đảo cho chính mình, hãy nương tựa vào chính mình, đừng tìm sự nương tựa ở bên ngoài; hãy lấy Pháp làm hòn đảo, lấy Pháp làm nơi nương tựa, chớ tìm sự nương tựa nào khác. Và này Ānanda, một vị tỳ khưu là hòn đảo cho chính mình, là nơi nương tựa cho chính mình, không tìm nơi nương tựa bên ngoài, lấy Pháp làm hòn đảo, lấy Pháp làm nơi nương tựa, không tìm sự nương tựa nào khác, là thế nào?" Câu trả lời của đức Phật như sau: "Appamattā satimanto susīlā hotha bhikkhavo Susamāhitasankappā sacittamanurakkhatha." (Như vậy, này chư tỳ khưu, hãy chuyên cần chánh niệm và giới hạnh trong sạch. Với quyết tâm vững chắc, canh giữ tâm của các người.) "Susīlā hotha bhikkhavo", có nghĩa, "Này các tỳ khưu, các người phải cố gắng thanh tịnh giới hạnh của mình. Các người phải cố gắng là những vị tỳ khưu có giới hạnh hoàn toàn trong sạch." Điều này muốn nói chúng ta phải trau dồi giới học, đó là, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. "Susamāhita" nghĩa là, chúng ta phải thực hành định học, tức chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. "Sankappā", nghĩa là tuệ học, tức chánh kiến và chánh tư duy. "Appamattā" nghĩa là để thấy, với minh sát trí, tính vô thường, khổ và vô ngã trong các hành. "Satimato" có nghĩa khi chúng ta thực hành Tam Học - Giới, Định, Tuệ - chúng ta phải có đủ chánh niệm. Vì thế chúng ta cần phải chánh niệm và chuyên cần. Chánh niệm về những gì? Chánh niệm về Tứ Niệm Xứ, danh và sắc, hay nói khác hơn, chúng ta phải chánh niệm trên các hành. Cuối cùng, đức Phật nói: "Yo masmiṃ dhamma vinaye appamatto vihessati pahāya jātasamsāraṃ dukkhassantaṃ karissati." (Bất cứ người nào nhiệt tâm theo đuổi Pháp và Luật (dhamma - vinaya) này sẽ vượt qua vòng tử sanh luân hồi, đoạn tận mọi khổ đau.) Như vậy, nếu muốn chấm dứt tử sanh luân hồi, chúng ta phải theo những lời dạy của đức Phật, tức là Bát Thánh Đạo. Chúng ta hãy phấn đấu nỗ lực trước khi cái chết xảy ra. Cầu mong tất cả chúng sinh được an vui hạnh phúc. Ghi chú: Đức Phật Gotama có ba loại Thánh quả định: 1. A-la-hán Thánh Quả Định sau Đạo (maggānantra phala samāpatti)[9]. Đây là A-la-hán Thánh Quả Định đến liền sau thiện nghiệp A-la-hán Thánh đạo (Noble Arahant-Path wholesome kamma). Nó có đặc tính của vô gián quả và được đề cập đến như sát-na quả định (khaṇika phala samāpatti). Ba sát-na tâm quả sanh liền sau A-la-hán Thánh đạo tâm của đức Phật thuộc về loại này. 2. A-la-hán Thánh Quả Định vãng lai (valañjana phala samāpatti). Đây là A-la-hán Thánh Quả Định kéo dài mà một vị A-la-hán có thể nhập vào lúc nào cũng được. Thiền quả này được xem là sự thọ hưởng an lạc tịch tịnh của Niết-bàn và cũng đề cập đến như một loại sát-na quả định. Đức Phật thường xuyên nhập vào định chứng này, ngay cả trong lúc Ngài đang thuyết pháp, khi mà thính chúng đang hoan hỷ nói lên lời "sādhu, sādhu" (lành thay, lành thay). Ở đây phải hiểu là, chỉ cần một thời khắc ngắn ngủi giữa thời pháp, lúc mọi người đang hoan hỷ nói lời "sādhu", đức Phật đã nhập vào định chứng này, rồi xuất liền để tiếp tục thuyết pháp. 3. A-la-hán Thánh Quả Định duy trì thọ mạng (āyusankhāra phala samāpatti)[10]. Thánh quả này luôn luôn theo sau vipassanā (minh sát) với bảy cách quán sắc và bảy cách quán danh. Các pháp này được đức Bồ tát thực hành ở ngưỡng Giác Ngộ dưới cội bồ đề và hàng ngày từ khi chứng đau lưng của Ngài xuất hiện ở ngôi làng Veluna cho đến ngày Bát Niết-bàn của Ngài. Lúc sắp hoàn tất công việc minh sát và nhập A-la-hán Thánh Quả Định, đức Phật quyết định: "Kể từ hôm nay cho đến ngày Bát Niết-bàn, thọ khổ này sẽ không khởi lên". Rồi Ngài tiếp tục hành vipassanā trở lại để sau đó nhập A-la-hán Thánh Quả Định. Cái khác giữa sát-na Thánh quả định và Thánh quả định duy trì thọ mạng là ở chỗ minh sát đi trước. Sát-na A-la-hán Thánh Quả Định chỉ là sự thọ hưởng an lạc tịch tịnh của Niết-bàn được đi trước bởi một phương thức nhập vào minh sát bình thường. Trong khi đó A-la-hán Thánh Quả Định duy trì thọ mạng lại được đi trước bởi một phương thức hành minh sát cao hơn đòi hỏi phải có nỗ lực lớn, đó là thực hành theo bảy cách quán sắc (rūpusattaka) và bảy cách quán danh (arūpusattaka). Cái khác trên phương diện kết quả là sát-na A-la-hán Thánh Quả Định chỉ đè nén được một thọ khổ trong thời gian nhập định chứng ấy, như một viên đá rơi vào nước chỉ xuyên qua nước bao lâu còn tác động của nó, sau đó đám bèo lại phủ lại. Còn A-la-hán Thánh Quả Định duy trì thọ mạng có thể đè nén cơn đau trong một thời hạn đã định (như ở đây đức Phật quyết định 10 tháng), tựa như một người khỏe mạnh lao vào hồ nước và vẹt sạch đám bèo ấy, nhờ vậy đám bèo sẽ không phủ lại trong một thời gian đáng kể. -ooOoo- -------------------------------------------------------------------------------- [1] Thọ hành (āusankhārā) theo Chú Giải biểu thị cho chính tuổi thọ (āyu), một từ được xác nhận là đồng nghĩa với mạng căn (jīvitindriya), có chức năng duy trì sự sống. Xem N.444/MN [2] DA.II.3 "Mahāparinibbāna Sutta" (Đại Niết-bàn Kinh). [3] D.II.3 "Đại Bát Niết-bàn Kinh". [4] MA. II. iv.i (Ghaṭīkāra Sutta) [5] D.II.3 (Mahā parinibbāna Sutta - Đại Niết-bàn Kinh) [6] Có bốn niệm xứ là thân, thọ, tâm, pháp. Pháp là những thành phần còn lại của danh thân. Đức Phật giải thích Pháp cũng như năm uẩn, mười hai xứ, năm triền cái, thất giác chi và Tứ Thánh Đế. Thực ra khó có thể tách các phương diện của pháp này ra được, vì mỗi pháp bao gồm các pháp khác. Chẳng hạn, tuệ tri Tứ Thánh Đế là để tuệ tri Bát Chánh Đạo. Tuệ tri Bát Chánh Đạo cũng là tuệ tri Thất Giác Chi. Và đó cũng là để tuệ tri danh-sắc, năm uẩn và mười hai xứ v.v... Vì vậy, tất cả Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Giác Ngộ cần phải được tuệ tri để sự giác ngộ xảy ra. [7] Thiền sư Pa-Auk đã bàn về minh sát qua việc chỉ phân biệt các cảm thọ trong câu trả lời 4.6 ở trên. [8] Đây là A-la-hán Thánh quả định với Vô Tướng Giới có Niết-bàn làm đối tượng. [9] Đây là A-la-hán Thánh quả định với Vô Tướng Giới có Niết-bàn làm đối tượng. [10] Còn gọi là A-la-hán Thánh Quả Định bảo hộ thọ mạng (āyupālaka phala samāpatti) hoặc A-la-hán Thánh Quả Định duy trì mạng căn (jivītasankhāra phala samāpatti).
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 21:03:51 GMT -5
Biết và Thấy - Loại cúng dường cao thượng nhất
- Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw (Tùy hỷ pháp đến các Thí Chủ, Ban Tổ Chức và những Người Trợ Giúp) [1] Có hai loại cúng dường: - Cúng dường cho quả sung mãn - Cúng dường không cho quả. Quý vị thích loại cúng dường nào? Xin vui lòng trả lời câu hỏi này của chúng tôi. Chúng ta hãy nhìn lại những ước nguyện của đức Phật dành cho hàng đệ tử (sāvaka) của Ngài vì nó liên quan dến sự cúng dường trong giáo pháp này. Ứớc nguyện của quý vị và ước nguyện của đức Phật giống nhau hay khác - điều này chúng ta sẽ tìm hiểu trong Kinh Phân Biệt Cúng Dường (Dakkhināvibhanga Sutta)[2]. Bài liên quan: 0. Biết và Thấy - Khởi đầu con đường của Thánh nhân - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 1. Biết và Thấy - Làm thế nào để tu tập niệm hơi thở đạt đến An chỉ định - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 2. Biết và Thấy - Tu tập An chỉ định trên các đề mục Thiền như thế nào - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 3. Biết và Thấy - Tu tập Bốn Phạm Trú và Bốn Thiền Bảo Hộ - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 4. Biết và Thấy - Làm thế nào để phân biệt Sắc - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 5. Biết và Thấy - Phân biệt Danh - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 6. Biết và Thấy - Làm thế nào để thấy những mắc xích của Duyên Khởi - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 7. Biết và Thấy - Tu tập các Tuệ Minh Sát như thế nào để thấy Niết-bàn - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 8. Biết và Thấy -Những ước nguyện của Đức Phật và giáo pháp của Ngài - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw 9. Biết và Thấy - Loại cúng dường cao thượng nhất - Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw Một thời đức Phật đang trú ngụ trong vương quốc của dòng tộc Thích Ca (Sakyan) nơi khu vườn Nigrodha tại Ca-tỳ-la-vệ. Lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpatigotamī đi đến đức Phật mang theo một cặp y mới mà bà đã nhờ những người thợ dệt khéo léo nhất làm nên. Sau khi đảnh lễ đức Phật, bà ngồi xuống một bên và nói với đức Phật: - Bạch Ngài (Bhante), cặp y mới này do tay tôi quay tơ, nhờ người dệt để dành riêng cho đức Phật, xin đức Phật vì lòng bi mẫn mà nhận nó. Đức Phật nói: - Này Gotamī, hãy cúng dường đến Tăng chúng (Sangha). Khi bà cúng dường y này đến Tăng chúng thì sự cúng dường ấy sẽ giống như vừa làm đến ta, vừa làm đến Tăng chúng vậy. Bà thỉnh cầu đức Phật đến ba lần và đức Phật cũng trả lời như vậy đến ba lần. Lúc ấy, Tôn giả Ānanda bèn thưa với đức Phật: "Bạch Ngài, xin Ngài hãy hoan hỷ nhận lãnh cặp y mới này cho bà Mahāpajāpatigotamī. Bà đã từng giúp đỡ Ngài rất nhiều. Bà là di mẫu, là vú nuôi của Ngài, là người đã cho Ngài sữa. Bà đã cho Ngài bú mớm khi Mẫu hậu qua đời. Đức Phật cũng đã đem lại cho bà rất nhiều lợi ích. Chính nhờ đức Phật mà bà đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Chính nhờ đức Phật mà bà đã giữ giới không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh trong các dục, không nói dối, không uống rượu và các chất say - là nhân sanh dễ duôi. Chính nhờ đức Phật mà bà có niềm tin tuyệt đối nơi Tam bảo và có giới hạnh mà các bậc thánh (ariya) yêu mến. Chính nhờ đức Phật mà bà dứt khỏi hoài nghi về Khổ Thánh Đế (dukkhasacca), về Tập Thánh Đế (samudayasacca), về Diệt Thánh Đế (nodrodhasacca) và về Đạo Thánh Đế (maggasacca). Như vậy đức Phật đã giúp ích cho bà Mahāpajāpatigotamī rất nhiều." Đức Phật trả lời như sau: "Thực sự là vậy, này Ānanda, thực sự là vậy! Khi một người đệ tử, nhờ bậc đạo sư, mà biết quy y Tam Bảo, ta nói rằng không dễ gì cho người đệ tử ấy đền đáp bậc đạo sư bằng cách tỏ lòng cung kính, đứng dậy tiếp nước, phục vụ và dâng cúng những nhu cầu cần thiết đâu. Khi một người đệ tử, nhờ bậc đạo sư, biết giữ giới không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh trong các dục, không nói dối, không uống rượu và các chất say, là nhân sanh dễ duôi. Ta nói rằng không dễ gì cho người đệ tử ấy đền đáp bậc đạo sư bằng cách tỏ lòng cung kính, đứng dậy tiếp nước, phục vụ và dâng cúng những nhu cầu cần thiết đâu. Khi một người đệ tử, nhờ bậc đạo sư mà có niềm tin tuyệt đối nơi đức Phật, Giáo pháp, chư Tăng và có giới được các bậc Thánh yêu mến. Ta nói rằng không dễ gì cho người đệ tử ấy đền đáp bậc đạo sư bằng cách tỏ lòng cung kính, đứng dậy tiếp nước, phục vụ và dâng cúng những nhu cầu cần thiết đâu. Khi một người đệ tử, nhờ bậc đạo sư mà dứt hoài nghi về Khổ Thánh Đế, về Tập Thánh Đế, về Diệt Thánh Đế, về Đạo Thánh Đế. Ta nói rằng không dễ gì cho người đệ tử ấy đền đáp bậc đạo sư bằng cách tỏ lòng cung kính, đứng dậy tiếp nước, phục vụ và dâng cúng những nhu cầu cần thiết đâu." Ngang đây, chúng ta thử bàn luận ý nghĩa đức Phật muốn nói. Nếu một người đệ tử tuệ tri Tứ Thánh Đế qua sự hướng dẫn của một bậc đạo sư thì minh sát trí về Tứ Thánh Đế của vị ấy có lợi nhiều hơn so với những hành động tôn kính, cúng dường tứ vật dụng đến bậc đạo sư. Nếu người ấy tuệ tri Tứ Thánh Đế qua Nhập Lưu Thánh đạo tuệ và Nhập Lưu Thánh quả tuệ (Sotāpatti magga phalañāṇa) thì minh sát trí này sẽ giúp họ thoát khỏi bốn ác đạo (apāya: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la). Kết quả này thực là kỳ diệu. Những người dễ duôi trong việc thực hiện những thiện nghiệp thường phải lang thang trong bốn cõi ác. Bốn đọa xứ ấy giống như căn nhà của họ (pamattassa ca nāma cattāro apāyā sakagehasadisā)[3]. Chỉ thỉnh thoảng họ mới viếng thăm các cõi lành. Như vậy, thoát khỏi bốn đọa xứ quả thực là cơ hội quý giá, không thể nào đem so sánh với những việc tôn kính, cúng dường tứ vật dụng cho bậc đạo sư của người đệ tử. Lại nữa, nếu một người đệ tử tuệ tri Tứ Thánh Đế qua Nhất Lai Thánh đạo tuệ và Nhất Lai Thánh quả tuệ (Sakadāgāmi magga phalañāṇa), người ấy sẽ trở lại cõi người này chỉ một lần nữa. Còn nếu vị ấy tuệ tri Tứ Thánh Đế qua Bất Lai Thánh đạo tuệ và Bất Lai Thánh quả tuệ (Anāgāmi magga phalañāṇa), minh sát trí này sẽ giúp vị ấy thoát khỏi mười một cõi dục. Vị ấy nhất định sẽ tái sanh vào một Phạm Thiên giới nào đó và không bao giờ trở lại cõi dục này. Lạc của Phạm Thiên giới thù thắng hơn dục lạc rất nhiều. Trong cõi Phạm Thiên không có đàn ông, không có đàn bà, không có gia đình, v.v... Ở đó không có đánh nhau, cãi nhau, chẳng cần phải ăn uống. Thọ mạng của họ rất dài. Không ai có thể phá hoại hạnh phúc của họ. Họ thoát khỏi mọi hiểm nguy, nhưng vẫn phải chịu tiêu hoại, phải chịu tái sanh trở lại, nếu họ không đắc A-la-hán. Hơn nữa, nếu một người đệ tử tuệ tri Tứ Thánh Đế qua A-la-hán Thánh đạo và A-la-hán Thánh quả (Arahatta magga-phalañāṇa), minh sát trí này sẽ dẫn đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi của vị ấy. Sau khi Bát Niết-bàn nhất định vị ấy sẽ không còn khổ, không còn sinh, hoại, bệnh, tử, v.v... nữa. Vì thế, những lợi ích này có giá trị hơn những hành động cung kính và dâng cúng tứ vật dụng đến bậc đạo sư của người đệ tử. Dù cho họ có cúng dường tứ vật dụng cao như núi Tu Di, sự cúng dường ấy cũng không đủ để trả món nợ của họ, bởi vì thoát khỏi luân hồi, hay thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử giá trị hơn rất nhiều. Thế nào là Tứ Thánh Đế mà người đệ tử đã tuệ tri? 1. Khổ Thánh Đế (dukkhasacca) ở đây là năm uẩn. Nếu một người đệ tử nương vào vị đạo sư tuệ tri Khổ Thánh Đế, minh sát trí này có giá trị hơn hành động tôn kính, cúng dường tứ vật dụng đến bậc đạo sư. 2. Tập Thánh Đế (samudayasacca) ở đây là duyên khởi. Nếu một người đệ tử nương vào vị đạo sư tuệ tri Tập Thánh Đế hay duyên khởi, minh sát trí này có giá trị hơn những hành động tôn trọng, cúng dường tứ vật dụng đến bậc đạo sư. 3. Diệt Thánh Đế (nidrodha sacca) ở đây là Niết-bàn. Nếu một đệ tử nương vào bậc đạo sư tuệ tri Niết-bàn, minh sát trí này giá trị hơn những hành động tôn trọng, cúng dường tứ vật dụng đến bậc đạo sư. 4. Đạo Thánh Đế (magga sacca) ở đây là Bát Thánh Đạo. Nói cách khác, đây là minh sát trí (vipassanā ñāṇa) và đạo trí (magga ñāṇa). Nếu một người đệ tử có minh sát trí và đạo trí do nương một vị đạo sư, những minh sát trí này có giá trị hơn những hành động tôn trọng, cúng dường tứ vật dụng đến bậc đạo sư vì những minh sát trí này đưa đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, trong khi những hành động tôn trọng và cúng dường tứ sự không thể là nhân trực tiếp đưa đến sự giải thoát khỏi luân hồi. Tuy nhiên cúng dường tứ sự có thể là một nhân gián tiếp hỗ trợ cho người đang hành Chỉ-Quán đạt đến Niết-bàn được. Những Cơ Hội Không Nên Bỏ Lỡ Ở đây, một lần nữa chúng tôi muốn giải thích thêm năm uẩn là Thánh Đế thứ nhất, tức Khổ Thánh Đế. Trong năm uẩn có sắc uẩn và sắc này sanh khởi như những tổng hợp sắc hay những phần tử rất nhỏ. Khi phân tích, hành giả thường thấy rằng chúng có hai mươi tám loại sắc. Ngoài Giáo pháp của đức Phật, không có bậc đạo sư nào có thể nói về những loại sắc này và làm thế nào để phân loại chúng. Chỉ có đức Phật và các vị đệ tử của Ngài mới có thể làm được điều đó. Hơn nữa, trong năm uẩn còn có bốn danh uẩn. Ngoài kiết sanh thức (tâm tục sinh), tâm hữu phần và tâm tử ra, các hành thuộc về danh hay tâm hành này khởi lên đều phải theo tiến trình tâm. Đức Phật dạy đích xác có bao nhiêu tâm sở phối hợp với một tâm trong một sát-na tâm và Ngài còn dạy cách làm thế nào để phân biệt và phân loại chúng nữa. Không có một bậc đạo sư nào ngoài đức Phật có thể chỉ rõ những tâm hành này được bởi vì các ngoại đạo sư ấy không thực sự liễu tri. Song nếu một người đệ tử của đức Phật thực hành chuyên cần và có hệ thống theo những chỉ dẫn của đức Phật, họ có thể phân biệt được các tâm hành ấy một cách rõ ràng. Đây là một cơ hội không gì sánh được cho hàng đệ tử. Quý vị không nên để lỡ cơ hội này. Thêm nữa, duyên khởi là Thánh Đế thứ hai hay Tập Thánh Đế - Thánh Đế về nguồn gốc của khổ. Đức Phật cũng dạy cho hàng đệ tử của Ngài biết cách làm thế nào để phân biệt duyên khởi. Khi một người đệ tử của đức Phật phân biệt được duyên khởi đúng theo những chỉ dẫn của Ngài, họ sẽ tuệ tri mối tương quan giữa nhân và quả. Họ sẽ có được minh sát trí biết rõ rằng nhân quá khứ tạo ra quả hiện tại và nhân hiện tại tạo ra quả vị lai. Vị ấy tuệ tri được rằng trong ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và vị lai, hoàn toàn không có một sáng tạo chủ nào tạo ra quả và cũng không có gì khởi lên mà không có nhân. Trí này cũng chỉ có được trong Giáo pháp của đức Phật. Vì thế quý vị không nên bỏ lỡ cơ hội này. Vả lại, khi một người đệ tử phân biệt duyên khởi, vị ấy thấy được các kiếp quá khứ và các kiếp vị lai. Nếu phân biệt vào nhiều kiếp quá khứ, hành giả có được minh sát trí biết rõ loại bất thiện nghiệp nào dẫn đến tái sanh trong các khổ cảnh và loại thiện nghiệp nào dẫn đến tái sanh trong các cõi lành. Trí hiểu biết về ba mươi mốt cõi và quy luật của nghiệp chỉ có thể tìm thấy trong Giáo pháp của đức Phật. Ngoài Giáo pháp của một vị Phật, không ai có thể biết được ba mươi mốt cõi và quy luật nghiệp báo vốn tạo ra tái sanh trong mỗi cõi ấy. Như vậy quý vị cũng không nên bỏ lỡ cơ hội này. Còn nữa, nếu một người đệ tử phân biệt nhân quả trong các kiếp vị lai, vị ấy cũng thấy được sự diệt của danh-sắc. Vị ấy tuệ tri khi nào thì danh-sắc của mình sẽ diệt. Đây là Thánh Đế thứ ba - Diệt Thánh Đế. Trí này chỉ có thể có được trong Giáo pháp của đức Phật. Vì thế hành giả không nên bỏ lỡ cơ hội này. Đức Phật cũng dạy con đường đi đến trạng thái diệt đó, tức Thánh Đế thứ tư hay Chỉ-Quán (samatha-vipassanā). Chỉ-Quán có nghĩa là Bát Thánh Đạo. Trí Phân Tích Danh-sắc và Trí Phân Biệt Nhân Duyên là chánh kiến. Trí (biết) về sự diệt của danh-sắc cũng là chánh kiến. Sự chú tâm vào Tứ Thánh Đế là chánh tư duy. Chánh kiến và chánh tư duy ở đây là minh sát (vipassanā). Muốn hành minh sát chúng ta phải có định của thiền chỉ (samatha), tức là chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Khi chúng ta trau dồi chỉ quán, chúng ta phải có thanh tịnh giới - chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Trau dồi chỉ quán dựa trên giới, tức là trau dồi Bát Chánh Đạo và Bát Chánh Đạo này chỉ có thể tìm thấy trong Giáo pháp của một vị Phật. Do đó, quý vị cũng không nên bỏ lỡ cơ hội này. Vì sao? Minh sát trí về Tứ Thánh Đế đưa đến sự giải thoát khỏi vòng tử sanh luân hồi của người đệ tử vậy. Mười bốn loại cúng dường theo cá nhân Như đã đề cập, sự giải thoát này vẫn có thể được hỗ trợ bởi những hành động bố thí hay cúng dường của người đệ tử. Trong Kinh Phân Biệt Cúng Dường mà ở đầu bài giảng này có đề cập đến, đức Phật giải thích 14 loại cúng dường theo cá nhân hay đối nhân thí (pātipuggalikadakkhiṇa) như sau: "Này Ānanda, có 14 loại đối nhân thí: - Cúng dường đến một vị Phật. Đây là đối nhân thí thứ nhất. - Cúng dường đến một vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha). Đây là đối nhân thí thứ hai. - Cúng dường đến một vị A-la-hán. Đây là đối nhân thí thứ ba. - Cúng dường đến một vị đã nhập vào đạo lộ dưa đến sự chứng đắc A-la-hán Thánh quả. Đây là đối nhân thí thứ tư. - Cúng dường đến một vị Bất Lai. Đây là đối nhân thí thứ năm. - Cúng dường đến một vị đã nhập vào đạo lộ đưa đến sự chứng đắc Bất Lai Thánh quả. Đây là đối nhân thí thứ sáu. - Cúng dường đến một vị Nhất Lai. Đây là đối nhân thí thứ bảy. - Cúng dường đến một vị đã nhập vào đạo lộ đưa đến sự chứng đắc Nhất Lai Thánh quả. Đây là đối nhân thí thứ tám. - Cúng dường đến một vị Nhập Lưu. Đây là đối nhân thí thứ chín. - Cúng dường đến một vị đã nhập vào đạo lộ đưa đến sự chứng đắc Nhập Lưu Thánh quả. Đây là đối nhân thí thứ mười. - Cúng dường đến một vị ngoài giáo pháp (đức Phật) đã ly tham đối với các dục do chứng thiền. Đây là đối nhân thí thứ mười một. - Cúng dường đến một phàm nhân có giới đức. Đây là đối nhân thí thứ mười hai. - Cúng dường đến một phàm nhân không giới đức. Đây là đối nhân thí thứ mười ba. - Bố thí đến một con vật. Đây là đối nhân thí thứ mười bốn." Sau đó, đức Phật giải thích những lợi ích của mười bốn loại cúng dường này. Do bố thí đến một con vật, với tâm trong sạch, sự bố thí này có thể được đáp trả lại gấp một trăm lần. Điều đó có nghĩa là việc làm ấy có thể tạo ra kết quả trong một trăm kiếp. Ở đây, "tâm trong sạch" tức là bố thí không mong đợi đáp trả như mong sự giúp đỡ từ người thọ nhận chẳng hạn. Người làm phước chỉ để tích tạo thiện nghiệp, với đức tin đủ mạnh nơi quy luật của nghiệp. Giả sử một người cho chó ăn với ý nghĩ: "vì đây là con chó của ta" - đó không phải là một trạng thái tâm trong sạch. Nhưng nếu một người bố thí thức ăn cho chim chóc thì sự bố thí ấy là trong sạch vì họ không mong đợi điều gì nơi những con chim đó cả.điều này cũng áp dụng cho những trường hợp khác đã đề cập. Chẳng hạn, nếu một người cúng dường tứ vật dụng tới vị tỳ khưu với ý nghĩ rằng sự cúng dường này sẽ đem lại may mắn trong công việc làm ăn của mình thì đó không phải là cúng dường với tâm trong sạch. Loại cúng dường như vậy không tạo ra những lợi ích thù thắng. Rồi đức Phật giải thích thêm: Do bố thí với tâm trong sạch đến một phàm nhân không giới đức, sự bố thí này có thể được đáp trả lại gấp một ngàn lần. Do cúng dường với tâm trong sạch đến môt phàm nhân giới đức, sự cúng dường ấy có thể được đáp trả lại một trăm ngàn lần. Do cúng dường đến một người ngoài giáo pháp đã ly tham đối với các dục nhờ chứng thiền, sự cúng dường ấy có thể được đáp trả một ngàn vạn lần. Do cúng dường đến một vị đã nhập vào đạo lộ dẫn đến sự chứng đắc Nhập Lưu Thánh quả, kết quả của sự cúng dường ấy không thể tính kể, không thể đo lường được. Như vậy, còn nói gì đến việc cúng dường đến một vị Nhập Lưu; hoặc đến một vị đã nhập vào đạo lộ dẫn đến sự chứng đắc Nhất Lai Thánh quả, hay đến một vị Nhất Lai; hoặc đến một vị đã nhập vào đạo lộ dẫn đến Bất Lai Thánh quả, hay đến một vị Bất Lai; hoặc đến một vị đã nhập vào đạo lộ dẫn đến A-la-hán Thánh quả, hay một vị A-la-hán; hoặc đến một vị Độc Giác Phật; hoặc đến một vị Toàn Giác Phật? Ở đây, một sự cúng dường nghĩa là người ấy cúng dường, ví dụ thức ăn, chỉ đủ cho một bữa. Nếu người ấy cúng dường nhiều lần, như làm trong nhiều ngày, hoặc nhiều tháng thì không có ngôn từ nào có thể diễn tả hết lợi ích của sự cúng dường đó. Bảy Loại Cúng Dường Đến Tăng Chúng Sau đó đức Phật giải thích cho tôn giả Ānanda về các loại cúng dường khác. Có bảy loại cúng dường đến Tăng chúng (Sangha dāna). - Cúng dường đến cả hai chúng tỳ khưu Tăng và tỳ khưu Ni có đức Phật là tọa chủ. Đây là loại cúng dường thứ nhất đến Tăng chúng. - Cúng dường đến cả hai chúng tỳ khưu Tăng và tỳ khưu Ni sau khi đức Phật đã Bát Niết-bàn. Đây là loại cúng dường thứ hai đến Tăng chúng. - Cúng dường đến Tăng chúng tỳ khưu. Đây là loại cúng dường thứ ba đến Tăng chúng. - Cúng dường đến chúng tỳ khưu Ni. Đây là loại cúng dường thứ tư đến Tăng chúng. - Cúng dường bằng cách nói: "Xin tăng chúng hãy chỉ định chừng này vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đến con." Đây là loại cúng dường thứ năm đến Tăng chúng. - Cúng dường bằng cách nói: "Xin Tăng chúng hãy chỉ định chừng này vị tỳ khưu đến con". Đây là loại cúng dường thứ sáu đến Tăng chúng. - Cúng dường bằng cách nói: "Xin Tăng chúng hãy chỉ định chừng này vị tỳ khưu Ni đến con". Đây là loại cúng dường thứ bảy đến Tăng chúng. Trên đây là bảy loại cúng dường đến Tăng chúng. Đức Phật sau đó đã so sánh những sự cúng dường đến cá nhân (đối nhân thí) với sự cúng dường đến Tăng chúng. Trong thời vị lai sẽ có những người chỉ là tỳ khưu trên danh nghĩa, chỉ còn "mảnh vải vàng quanh cổ", ác tánh, không đạo đức. Người ta sẽ cúng dường đến những người không đạo đức thay mặt cho Tăng chúng ấy. Ngay cả như vậy, một sự cúng dường đến Tăng chúng cũng đem lại phước báu không thể tính kể, không thể đo lường được. Điều này có nghĩa, sự cúng dường đến Tăng chúng (Sangha dāna) lợi ích hơn rất nhiều so với sự cúng dường đến cá nhân (pāṭipuggalika dakkhina). Nếu bà Mahāpajāpatigotamī cúng dường cặp y ấy đến Tăng chúng có đức Phật tọa chủ thì lợi ích sẽ thù thắng hơn, kết quả không thể tính kể và không thể đo lường được. Vì thế mà đức Phật khuyên bà nên cúng dường đến Tăng chúng. Trong bài Kinh, đức Phật cũng giải thích bốn loại thanh tịnh cúng dường
|
|
|
Post by tk on Jun 5, 2012 21:05:04 GMT -5
Bốn Loại Thanh Tịnh Cúng Dường Đó là:
- Cúng dường được thanh tịnh bởi thí chủ chứ không bởi người thọ nhận. Ở đây, thí chủ là người giới đức, thiện tánh và người thọ nhận là người không đạo đức, ác tánh. Như vậy, sự cúng dường ấy được thanh tịnh bởi thí chủ chứ không bởi người thọ nhận. - Cúng dường được thanh tịnh bởi người thọ nhận chứ không do thí chủ. Ở đây, thí chủ là người không đạo đức, ác tánh và người thọ nhận là người giới đức, thiện tánh. Như vậy, sự cúng dường ấy được thanh tịnh bởi người thọ nhận chứ không bởi thí chủ. - Cúng dường không được thanh tịnh bởi cả thí chủ lẫn người thọ nhận. Ở đây, thí chủ và người thọ nhận đều là người không giới đức, ác tánh. Như vậy, sự cúng dường ấy không được thanh tịnh bởi cả thí chủ lẫn người thọ nhận. - Cúng dường được thanh tịnh bởi cả thí chủ lẫn người thọ nhận. Ở đây, thí chủ và người thọ nhận đều là người giới đức, thiện tánh. Như vậy, sự cúng dường ấy được thanh tịnh bởi cả thí chủ lẫn người thọ nhận. Đức Phật giải thích thêm:
"Khi một người giới đức bố thí đến một người không đạo đức, Với tâm trong sạch không cấu nhiễm[4], Vật thí có được một cách chân chánh, Đặt niềm tin lớn vào quả của nghiệp, Giới đức người bố thí đã làm thanh tịnh cúng dường." Để có được những lợi ích cao thượng, người bố thí phải hoàn tất bốn điều kiện kể trên, vì lúc ấy, mặc dù người thọ nhận là một người không đạo đức, việc cúng dường vẫn được thanh tịnh bởi thí chủ. Chú giải có đề cập đến trường hợp của Vessantara[5]. Đức Bồ tát của chúng ta trong một kiếp quá khứ có tên là Vessantara đã bố thí người con trai và con gái của mình (sau này là Rahula và Uppalavaṇṇa) cho Bà-la-môn Jūjaka, một người ác tánh và vô đạo đức. Cuộc bố thí ấy là cuộc bố thí cuối cùng vì các ba-la-mật về bố thí của Bồ tát Vessantara đã được đầy đủ. Sau khi hoàn tất ba-la-mật cuối cùng này, Ngài đã sẵn sàng để đạt đến sự giác ngộ, một sự kiện mà Ngài chỉ chờ thời gian để chín mùi mà thôi. Nhờ ba-la-mật bố thí này và các ba-la-mật khác trước đó, giờ đây Ngài chắc chắn sẽ đắc Nhất Thiết Trí (Sabbaññutā ñāṇa). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng bố thí là một trợ duyên cho sự chứng ngộ của Ngài. Nó đã được thanh tịnh bởi Bồ tát Vessantara. Vào lúc đó, Vessantara là một người giới đức, thiện tánh. Sự bố thí của Ngài có được một cách chân chánh. Tâm Ngài trong sạch và không cấu nhiễm vì Ngài chỉ có một ước nguyện là đạt đến giác ngộ. Ngài có đức tin đủ mạnh nơi Quy luật nghiệp báo. Vì thế, sự cúng dường ấy được thanh tịnh bởi người cho hay thí chủ. Loại cúng dường được thanh tịnh bởi người thọ nhận là khi một người không đạo đức, tâm không trong sạch, đầy những tham đắm và sân hận v.v..., không có đức tin nơi Quy luật nghiệp báo, cúng dường vật có được một cách bất chánh cho một người giới đức. Chú giải đề cập đến một người đánh cá. Người đánh cá này sống gần cửa sông Kalyani ở Sri Lanka (Tích Lan) đã ba lần cúng dường thức ăn đến một vị Trưởng lão là bậc A-la-hán. Vào lúc sắp chết, người đánh cá ấy nhớ tới những lần cúng dường của mình đến vị Trưởng lão. Do vậy, những tướng tốt về một Thiên giới đã xuất hiện trong tâm ông. Vì thế, trước khi chết ông nói với thân quyến của mình "Trưởng lão ấy đã cứu tôi". Sau đó, ông được tái sanh vào cõi chư Thiên. Trong trường hợp này, người đánh cá là người không đạo đức và ác tánh, nhưng người thọ nhận là một bậc giới đức. Vì thế, sự cúng dường này được gọi là thanh tịnh nhờ người thọ nhận. Loại cúng dường không được thanh tịnh bởi cả thí chủ lẫn người thọ nhận là khi một người không đạo đức, tâm không trong sạch, đầy những tham đắm và sân hận, không có đức tin nơi Quy luật nghiệp báo, cúng dường vật có được một cách bất chính cho một người không đạo đức. Chú giải đề cập đến trường hợp một người thợ săn. Khi ông ta chết, ông sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Lúc vợ ông cúng dường vật thực cho một vị tỳ khưu không giới đức để hồi hướng phước cho ông, ngạ quỷ này không thể nói lên lời "Sādhu" (lành thay - tỏ ý hoan hỷ) được. Tại sao? Thí chủ là một người không đạo đức, không có giới. Vì là vợ của một người thợ săn, bà ta thường phụ với chồng khi ông giết thú. Hơn nữa, vật cúng dường của bà lại có được một cách bất chánh do giết thú mà ra. Tâm bà không trong sạch vì nếu trong sạch và có hiểu biết hẳn bà đã không đi săn cùng với chồng. Bà không có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, vì nếu có bà đã không làm việc sát sanh. Trong khi đó người thọ nhận cũng là người không đạo đức, ác tánh nên sự cúng dường ấy không được thanh tịnh bởi cả thí chủ lẫn người thọ nhận. Bà ta cúng dường vật thực như vậy ba lần và cả ba lần đều không có kết quả. Vì thế mà ngạ quỷ (chồng bà) la lên: "Một kẻ vô đạo đức đã ba lần ăn cắp tài sản của tôi". Sau đó, bà cúng dường vật thực đến một vị tỳ khưu giới đức, vị này đã làm cho sự cúng dường được thanh tịnh. Ngay lúc ấy, ngạ quỷ thốt lên lời "Sādhu" và thoát khỏi cảnh khổ. (Ở đây, chúng tôi xin nhắc lại, nếu quý vị muốn có được những kết quả tốt đẹp từ việc cúng dường thì nên hoàn tất bốn điều kiện sau:
- Là người có giới đức. - Vật cúng dường có được một cách chân chánh. - Tâm trong sạch, không cấu nhiễm. - Có đức tin đủ mạnh nơi nghiệp và quả của nghiệp. Thêm nữa, nếu là người thọ nhận, tâm từ bi của quý vị đối với thí chủ phải đủ mạnh. Ngoài ra, quý vị còn phải là người có giới đức. Nếu giới của quý vị được kèm theo bởi thiền và các tuệ minh sát thì điều đó càng tốt hơn nữa. Vì sao? Loại cúng dường này có thể cho thí chủ những kết quả to lớn hơn.) Bây giờ chúng ta sẽ xét đến loại cúng dường kế tiếp, loại cúng dường được thanh tịnh bởi thí chủ lẫn người thọ nhận. Khi thí chủ hoàn tất bốn điều kiện kể trên và người thọ nhận cũng phải là người giới đức thì theo lời đức Phật: "Này Ānanda, ta nói loại cúng dường này sẽ đưa đến quả sung mãn." Có nghĩa là, cúng dường này có thể tạo ra những kết quả không thể tính lường được. Nếu giới của người thọ nhận được kèm theo bởi thiền hoặc minh sát trí, hoặc các Đạo - Quả trí thì hiệu lực của sự cúng dường ấy còn thù thắng nhiều hơn nữa. Sáu Pháp Của Một Sự Cúng Dường Bất Khả Tính Lường Ở đây, chúng ta sẽ đọc một bài Kinh khác - Chalangadāna Sutta - trong Tăng Chi bộ Kinh. Một lần, đức Phật ngụ tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) trong khu vườn của ông Cấp Cô Độc gần thành Xá-vệ. Lúc ấy mẹ của Nanda, một đệ tử tại gia của đức Phật sống ở Velukandaka, đã cúng dường thức ăn đến Tăng chúng. Buổi cúng dường của bà có đầy đủ sáu pháp và người thọ nhận là chư tỳ khưu Tăng do Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đứng đầu. Đức Phật với thiên nhãn thấy được sự cúng dường này bèn nói với chư Tăng: "Này chư tỳ khưu, nữ cư sĩ ở Velukandara đã sửa soạn một lễ cúng dường có đầy đủ sáu pháp đến chư Tăng do Xá Lợi Phất và Mục Kiền liên đứng đầu. Thế nào là sự cúng dường có đầy đủ sáu pháp? Này chư tỳ khưu, thí chủ phải có đầy đủ ba pháp và người thọ nhận cũng phải có đầy đủ ba pháp. Thế nào là ba pháp của thí chủ?
- Trước khi cúng dường thí chủ có tâm hoan hỷ. - Trong khi cúng dường tâm của thí chủ thỏa mãn. - Sau khi cúng dường thí chủ cũng hoan hỷ. Đây là ba pháp của thí chủ. Này chư tỳ khưu, thế nào là ba pháp của người thọ nhận?
- Người thọ nhận đã diệt tham hay đang cố gắng diệt tham. - Người thọ nhận đã diệt sân hay đang cố gắng diệt sân. - Người thọ nhận đã diệt si hay đang cố gắng diệt si. Đây là ba pháp của người thọ nhận. Tất cả có sáu pháp. Nếu sự cúng dường có đầy đủ sáu pháp này thì sẽ tạo ra những kết quả cao quý và bất khả tính lường". Sau đó đức Phật giải thích thêm: "Này các tỳ khưu, thật không dễ gì hiểu thấu được hạn lượng công đức của một sự bố thí như thế này bằng cách nói: "sẽ đem lại nhiều chừng này công đức, chừng này là sự tốt đẹp, đã tích tạo nhiều thiện nghiệp cho đời sau, sẽ cho quả báo lạc dẫn đến cõi trời, dẫn đến hạnh phúc, được yêu mến." Quả thực khối công đức lớn này, thiện nghiệp lớn này chỉ được liệt vào bất khả tính kể, bất khả tính lường. Này chư tỳ khưu, ví như không dễ gì hiểu thấu được hạn lượng của nước trong đại dương để nói: "Có nhiều chừng này xô nước, nhiều trăm xô nước, nhiều ngàn xô nước", vì khối nước lớn ấy được liệt vào bất khả tính kể, bất khả tính lường. Cũng vậy, này chư tỳ khưu, thật không dễ gì hiểu thấu được hạn lượng công đức của sự cúng dường có đầy đủ sáu pháp này. Quả thực vậy, khối công đức này được liệt vào bất khả tính kể, bất khả tính lường." Tại sao? Vì thí chủ này có đầy đủ bốn pháp mà trong Kinh Phân Biệt Cúng Dường đã đề cập:
- Là người có giới. - Vật cúng dường có được một cách chân chánh. - Tâm trong sạch, không cấu nhiễm. - Có đức tin đủ mạnh nơi nghiệp và quả của nghiệp. Và ba pháp của thí chủ, trong Kinh Sáu Pháp Cúng Dường đề cập cũng đã đầy đủ:
- Trước khi bố thí có tâm hoan hỷ. - Trong khi bố thí tâm thỏa mãn. - Sau khi bố thí tâm cũng hoan hỷ. Dù nam hay nữ, những điều kiện này có mặt trong người cúng dường (thí chủ) là điều rất quan trọng. Nếu người nam hay nữ nào mong đợi những thiện quả không thể tính, không thể lường này, họ phải cố gắng hoàn thiện những điều kiện ấy. Dĩ nhiên, theo Kinh Phân Biệt Cúng Dường thì đó phải là một vị tỳ khưu hay tỳ khưu ni đã hành Chỉ-Quán đến A-la-hán Thánh quả, hoặc là người đang trau dồi Chỉ-Quán để tiêu diệt tham (lobha), sân (dosa) và si (moha). Cúng Dường Trong Tháng Tịnh Cư Hiện nay, trong ngôi chùa Yi - tung[6] này có nhiều vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đang hành thiền chỉ và thiền quán để đoạn diệt tham, sân, si. Họ cũng là những người có giới đức. Vì thế, chúng ta có thể nói:
- Có những người thọ nhận xứng đáng ở đây. - Thí chủ cũng là những người có giới đức. - Tâm của họ có thể trong sạch, không cấu nhiễm. - Những gì họ cúng dường có được một cách chân chánh. - Họ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nghiệp và quả của nghiệp. Và:
- Họ đã hoan hỷ trước khi cúng dường. - Thỏa mãn trong khi cúng dường. - Hoan hỷ sau khi cúng dường. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng sự cúng dường trong hai tháng này là hợp theo những ước nguyện của đức Phật. Đó là sự cúng dường cao quý. Những Ước Nguyện Của Thí Chủ Nếu những thí chủ mong đợi quả báo tốt lành trong ngày vị lai, chắc chắn thiện nghiệp này sẽ đáp ứng lòng mong muốn của họ. Vì sao? Trong Kinh Dānūpapatti, đức Phật có nói: "Ijjhati bhikkhave sīlavato cetopaṇidhi visuddhattā" (Này chư tỳ khưu, ước nguyện của một người có giới chắc chắn sẽ được thành tựu nhờ giới hạnh trong sạch.) Như vậy, thiện nghiệp của một người có giới đức có thể làm cho ước nguyện của người ấy trở thành hiện thực.
- Nếu muốn trở thành một vị Phật, người ấy có thể trở thành một vị Phật. - Nếu muốn trở thành một vị Độc Giác Phật, người có thể trở thành một vị Độc Giác Phật. - Nếu muốn trở thành một vị Thượng Thủ Thanh Văn (Aggasāvaka), người ấy có thể trở thành một vị Thượng Thủ Thanh Văn. - Nếu muốn trở thành một vị Đại Thanh Văn (Mahāsāvaka), người ấy có thể trở thành vị Đại Thanh Văn. - Nếu muốn trở thành một vị Thanh Văn thường (Pakatisāvaka), người ấy có thể trở thành một vị Thanh Văn thường. Nhưng điều này chỉ xảy ra khi các ba-la-mật của người ấy đã chín mùi. Ước nguyện thôi thì chưa đủ để đạt đến những loại giác ngộ ấy được. Lại nữa:
- Nếu muốn hạnh phúc nhân loại trong kiếp sau, người ấy có thể đạt được hạnh phúc ấy trong cõi người. - Nếu muốn đi đến cõi chư Thiên, người ấy có thể đi đến cõi chư Thiên. - Nếu muốn đi đến cõi Phạm Thiên sau khi chết, thiện nghiệp này có thể là một trợ duyên cho người ấy đi đến cõi chư Thiên. Bằng cách nào? Nếu sự cúng dường của người ấy hội đủ những điều kiện đã đề cập ở trước, nghĩa là, trước, trong và sau khi cúng dường, tâm vị ấy tràn đầy hoan hỷ, trong sạch, không cấu nhiễm, đồng thời xem vật cúng dường và người thọ nhận như những đối tượng. Ở đây, người thọ nhận trở thành đối tượng để hành thiền tâm từ. Tâm từ của người ấy đối với người thọ nhận rất mạnh. Nếu vào lúc đó vị ấy hành thiền tâm từ (mettā bhāvanā) thì thiền đó sẽ đưa vị ấy đến cõi Phạm Thiên sau khi chết. Như vậy, sự cúng dường này là một trợ duyên cho vị ấy đi đến cõi Phạm Thiên. Do đó, nếu người thí chủ muốn đi đến Phạm Thiên giới sau khi chết, họ phải hành thiền tâm từ cho đến khi đắc thiền (jhāna). Còn nếu họ đã hành và đắc thiền tâm từ, lại hoan hỷ cúng dường vật thực thì thiện nghiệp ấy sẽ là một trợ duyên thù thắng và mạnh mẽ cho họ đi đến cõi Phạm Thiên. Cho nên, muốn có được những thiện quả trong tương lai, quý vị nên hành thiền tâm từ. Trong số ba loại lạc: nhân lạc, Thiên lạc và Phạm Thiên lạc thì Phạm Thiên lạc là tối thượng. Không có lạc nào trong tam giới cao thượng hơn lạc của cõi Phạm Thiên. Đó là lạc thù thắng nhất trong 31 cõi. Thù Thắng Nhất Trong Các Cúng Dường Thế Gian Đó là loại cúng dường thứ hai đã được đề cập ở đầu bài giảng này - loại cúng dường không cho quả. Quý vị có thích loại cúng dường này không? Nếu thích, xin quý vị hãy lắng nghe bài kệ sau đây trong Kinh Phân Biệt Cúng Dường (Dakkhināvibhanga Sutta). "Yo vītarāgo vītarāgasu dadāti dānaṃ Dhammena laddhaṃ supasannacitto Abhisaddahaṃ kammaphalaṃ uḷhāraṃ Taṃ ve dānaṃ āmasadānānamagganti." (Này chư tỳ khưu, ta nói rằng, một vị A-la-hán với tâm trong sạch, không cấu nhiễm, tin vào quả của nghiệp, cúng dường đến một vị A-la-hán vật (mà họ) có được một cách chân chánh thì sự cúng dường ấy thực sự là tối thắng nhất trong các loại cúng dường thế gian.) Trong trường hợp này, chúng ta thấy có bốn pháp hiện diện nơi người thí chủ:
- Thí chủ là bậc A-la-hán. - Vật cúng dường có được một cách chân chánh. - Tâm thí chủ trong sạch, không cấu nhiễm. - Có đức tin đầy đủ nơi nghiệp và quả của nghiệp. Nhưng ở đây, pháp thứ năm cần thiết đó là:
- Người thọ nhận cũng là một bậc A-la-hán. Đức Phật dạy loại cúng dường này, tức một vị A-la-hán cúng dường đến môt vị A-la-hán, là loại cúng dường thế gian cao thượng nhất. Vì sao? Vì sự cúng dường này không có quả. Nghĩa là sao? Thí chủ là người đã đoạn tận si mê và mọi tham ái đối với cuộc sống. Vô minh (avijjā) và tham ái (taṇhā) là những nhân chính tạo nghiệp (kamma), tức các hành (saṅkhāra). Trong trường hợp này, các hành nghĩa là những hành động thiện như làm phước cúng dường. Tuy nhiên, nghiệp này không cho quả vì không có những nhân hỗ trợ, tức là không có vô minh và tham ái. Chúng ta biết, nếu rễ của một cái cây bị cắt đứt hoàn toàn thì cây ấy không thể trổ quả được nữa. Cũng vậy, sự cúng dường của một vị A-la-hán không thể tạo quả vì các nhân vô minh và tham ái đã bị diệt hoàn toàn. Vị ấy không mong chờ một kiếp sống tương lai. Trong Kinh Châu Báu (Ratana Sutta), đức Phật dạy:
Khīnaṃ purānaṃ nava natthi sambhavaṃ Virattacittā"yatike bhavasmiṃ Te khīṇabījā avirūlhichandā Nibbanti dhīrā yathāyaṃ padīpo Idampi sanghe ratanaṃ panītaṃ Etena saccena suvatthi hotu. (Nghiệp cũ đã tiêu mòn Nghiệp mới không sanh khởi Nhàm chán kiếp lai sinh Chủng tử dục đoạn tận.[7] Bậc trí chứng Niết-bàn Ví như ngọn đèn tắt. Như vậy chính Tăng Bảo Là châu báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc. ( -- Tỳ khưu Viên Minh dịch) Nghĩa là các bậc A-la-hán đã cạn hết mọi thiện nghiệp và bất thiện nghiệp cũ. Các thiện nghiệp và bất thiện mới cũng không khởi lên nơi họ. Các Ngài đã đoạn diệt hết những hạt giống tái sanh, không mong chờ một kiếp sống tương lai. Danh-sắc của các Ngài sẽ chấm dứt, tựa như ngọn đèn khi dầu cạn và tim lụn vậy. Do lời chân thật này, cầu mong tất cả chúng sinh được an vui và thoát khỏi mọi hiểm nguy. Đây là một lời xác nhận sự thật. Do lời xác nhận sự thật này mà tất cả người dân ở Vesāli (Tỳ-xá-ly) được thoát khỏi mọi hiểm nguy[8]. Cúng dường của một vị A-la-hán là cúng dường cao thượng nhất vì nó không có kết quả trong tương lai. Nếu không có đời sống tương lai, sẽ không còn sanh, lão, bệnh và tử. Đây là loại cúng dường cao thượng nhất - cúng dường không cho quả hay không có kết quả. Trong trường hợp của loại cúng dường thứ nhất - cúng dường có kết quả, như hạnh phúc trong nhân giới, trong Thiên giới hoặc trong Phạm Thiên giới, vẫn còn khổ. Ít nhất thì người bố thí vẫn phải chịu sự chi phối của sanh, già, bệnh, chết. Nếu thí chủ vẫn còn tham đắm các dục trần, dù hữu tình hay vô tình thì khi các đối tượng ấy hoại diệt hay mất đi, vị ấy cũng còn cảm giác sầu, bi, khổ, ưu và não như thường. Quý vị thử suy xét về vấn đề này xem, chúng ta có thể nói rằng, một sự cúng dường là cao thượng khi nó tạo ra sanh, lão, bệnh, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não hay không? Và cũng suy xét thêm, chúng ta có thể nói rằng, một sự cúng dường là cao thượng khi nó không cho quả - không còn sanh, lão, bệnh, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não không? Đây là lý do vì sao đức Phật tán dương loại cúng dường thứ hai là cao thượng nhất. Đến đây chắc quý vị đã hiểu ý nghĩa của bài Pháp này. Lúc bắt đầu bài Pháp, chúng ta đã đề cập có hai loại cúng dường. Đó là, cúng dường cho quả sung mãn và cúng dường không cho quả. Quý vị thích loại cúng dường nào? Bây giờ chắc quý vị đã có được câu trả lời. Quý Vị Thực Hiện Việc Cúng Dường Cao Thượng Nhất Như Thế Nào? Nếu thí chủ không phải là bậc A-la-hán, làm sao có thể thực hiện được loại cúng dường thứ hai? Trong Kinh Sáu Pháp Cúng Dường (Chaḷangadāna sutta) đã nói ở trước, đức Phật dạy rằng có hai cách người ấy có thể làm, đó là, khi người thọ nhận hoặc đã đoạn trừ tham, sân, si; hoặc đang cố gắng đoạn trừ tham, sân, si. Chúng ta có thể nói rằng cúng dường ấy là cao thượng nhất, nếu thí chủ cũng là người đang cố gắng đoạn trừ tham, sân, si, tức là vào lúc cúng dường, vị ấy thực hành Vipassanā.[9]
- Phân biệt danh-sắc của chính mình và tính chất vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc ấy. - Phân biệt tính chất vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc bên ngoài, đặc biệt danh-sắc của người thọ nhận. - Phân biệt tính chất vô thường, khổ và vô ngã của sắc chân đế trong các vật cúng dường. - Phân biệt tính chất vô thường, khổ và vô ngã của danh pháp thiện khởi lên nơi tự thân trong lúc cúng dường. Khi hành giả nhìn vào tứ đại trong những vật cúng dường, hành giả rất dễ thấy các tổng hợp sắc. Khi phân tích các tổng hợp sắc, hành giả phân biệt được tám sắc chất: đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị và dưỡng chất. Các tổng hợp sắc là những thế hệ sắc do thời tiết sanh (utujarūpa), được tạo ra bởi hỏa đại trong mỗi tổng hợp sắc. Kế tiếp, hành giả phân biệt tính chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Nếu có thể thực hiện được loại minh sát này trong lúc cúng dường thì tham, sân, si của thí chủ bị đè nén ngay lúc đó và sự cúng dường ấy cũng thường không cho quả. Theo cách đó, chúng ta cũng có thể nói rằng loại cúng dường này là cao thượng nhất. Thí chủ có thể thực hiện loại minh sát này trước, sau hoặc trong lúc đang cúng dường. Nhưng minh sát của họ phải thật kiên trì và mạnh mẽ. Ít nhất, họ cũng phải hành (minh sát) cho đến giai đoạn Tuệ (quán) Sự Hoại Diệt (Bhanga ñāṇa). Chỉ khi ấy hành giả mới có thể hành loại minh sát đó. Như vậy, chúng ta cũng không nên bỏ lỡ cơ hội này. Cơ hội này chỉ có trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật. Ở đây, quý vị có thể hỏi, làm thế nào chúng tôi có thể thực hiện loại cúng dường này nếu chúng tôi không có minh sát trí? Trong trường hợp như vậy, tôi đề nghị quý vị nên thực hiện việc cúng dường của mình với ý nghĩ: "Cầu mong cúng dường này sẽ là một trợ duyên đạt đến Niết-bàn". Bởi vì đức Phật đã nhiều lần dạy là nên thực hiện việc cúng dường với ước mong chứng đắc Niết-bàn như vậy. Để kết thúc bài Pháp, chúng tôi xin nhắc lại bài kệ từ Kinh Châu Báu (Ratana Sutta).
"Khīnaṃ purānaṃ nava natthi sambhavaṃ Virattacittā"yatike bhavasmiṃ Te khīṇabījā avirūlhichandā Nibbanti dhīrā yathāyaṃ padīpo Idampi sanghe ratanaṃ panītaṃ Etena saccena suvatthi hotu." (Nghiệp cũ đã tiêu mòn Nghiệp mới không sanh khởi Nhàm chán kiếp lai sinh Chủng tử dục đoạn tận.[10] Bậc trí chứng Niết-bàn Ví như ngọn đèn tắt. Như vậy chính Tăng Bảo Là châu báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.) ( -- Tỳ khưu Viên Minh dịch) Cầu mong tất cả chúng sinh được an vui và hạnh phúc.
-ooOoo-
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Một bài pháp được thuyết sau khi thí chủ cúng dường, như trong trường hợp này, gọi theo Pāḷi là Anumodana pháp. "Anu" có nghĩa nhắc đi nhắc lại nhiều lần, "modana" nghĩa là hoan hỷ. Như vậy một bài giảng Anumodana là một Tùy Hỷ Pháp nhằm nâng cao tâm của những thí chủ, làm tăng thêm thiện nghiệp và phước báu cho việc làm của họ và khắc ghi điều đó trong tâm trí họ. [2] MIII.iv.12 [3] Dh.A.I.i.I "Cakkhupalatthera" (Câu chuyện Trưởng lão Cakkhupala). [4] Với tâm không mong đợi, tham đắm, sân hận,... [5] MA.III.iv.12 "Dakkhiṇāvibhanga Sutta". [6] Yi-tung là ngôi chùa ở Đài Loan, nơi thiền sư Pa-Auk Sadadaw được mời đến dạy thiền cho Tăng ni và Phật tử ở đây. [7] Hạt giống tái sanh (chủng tử) ở đây là vô minh, tham ái và nghiệp lực. [8] Vesāli là một thành phố lúc này đang bị nạn đói, hạn hán, dạ xoa ác và những bệnh dịch nguy hiểm. Người dân ở đây đã thỉnh cầu đức Phật giúp họ và Ngài đã dạy cho họ bài Kinh Ratana này. [9] Paṭṭhāna (Duyên Hệ) - Bộ thứ năm của Tạng Diệu Pháp, phần Kusalattika (các nhóm Ba Thiện Pháp). [10] Hạt giống tái sanh (chủng tử) ở đây là vô minh, tham ái và nghiệp lực
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2020 16:06:24 GMT -5
HƯỚNG DẪN THIỀN NIỆM HƠI THỞ (Buổi thứ 1) (Đại Thiền Sư Ashin Kovida - Thiền Lâm Viện Pa-Auk - Myanmar)
Câu Hỏi 1 : Con là người mới bắt đầu hành thiền, xin hướng dẫn cho con phương pháp cơ bản để hành thiền niệm hơi thở.
Trả Lời : Trước hết tôi sẽ giải thích một vài điểm quan trọng sau đây trong việc hành thiền của một vị Hành giả (Yogi) :
Sự chú ý theo dõi một đối tượng thường xuyên xuất hiện trên thân thể của một người bình thường được gọi là việc Hành thiền. Đối tượng đang thường xuyên xuất hiện trên thân thể đó chính là Hơi thở vào (viết tắt là HTV) và hơi thở ra (viết tắt là HTR). Luồng hơi đi vào - luồng hơi đi ra (HTV) và (HTR) thường xuyên xuất hiện. Một người nếu không có HTV và HTR thì gọi là người chết, không còn sự sống. Từ khi bắt đầu sanh ra cho đến khi chết đi, cái thường xuyên xuất hiện chính là hơi thở. Việc chú ý nhận biết theo dõi HTV và HTR gọi là việc hành thiền niệm hơi thở (ānāpānasati). Trong việc thực hành theo dõi HTV-HTR, đòi hỏi vị hành giả trước hết nên giữ tâm an vui, mát mẻ, tỉnh táo, sáng suốt, để tâm thoải mái, dễ chịu. Vị hành giả ý thức được rằng: “Tâm của tôi đang an tỉnh, mát mẻ, sáng suốt, thoải mái, dễ chịu; tâm của tôi chẳng có một chút lo âu, sợ hãi – nóng nảy nào; không có một tham muốn nào, không có sân hận buồn bực nào, kiêu mạn nào khởi lên nơi tâm của tôi”. Với Tâm hiện thời đang an tỉnh, sáng suốt, nhẹ nhàng, mát mẻ, thoải mái này, hành giả sẽ thở hơi thở vào, hành giả sẽ thở hơi thở ra.
HTV là luồng hơi chạm lỗ mũi và đi vào, chú ý nhận biết đến luồng hơi đó là HTV.
HTR là luồng hơi chạm lỗ mũi và đi ra, chú ý nhận biết đến luồng hơi đó là HTR.
Nên chú ý nhận biết hơi thở đi vào - hơi thở đi ra, Hơi thở đi vào – Hơi thở đi ra trong tâm. Sự nổ lực chú ý nhận biết HTV – HTR như vậy gọi là việc nổ lực hành thiền niệm hơi thở.
Việc thường xuyên chú ý nhận biết HTV – HTR như vậy có những lợi ích gì?
Việc để tâm chú ý nhận biết đối tượng hơi thở thường xuyên liên tục như vậy, nếu kiểm tra tâm mình hành giả sẽ nhận thấy rằng: Tâm của vị ấy không bị Tham xâm nhập, Sân hận, bực tức – kiêu mạn không thể xâm nhập; lo âu - buồn bực không thể xâm nhập. Tất cả những Tâm bất thiện (viết tắt là TBT); tất cả những phiền não, không thể xâm nhâp được. Tất cả những Bất thiện pháp (viết tắt là bất thiện pháp), những tâm bất trị kia không thể xâm nhập, hay nói cách khác tâm hành giả đang vắng lặng các bất thiện pháp, tham, sân,… nên được gọi là Samatha (Thiền Chỉ). Trong việc hành thiền – hay tập trung chú ý nhận biết HTV – HTR, Khi Tâm đã vắng lặng các bất thiện pháp, các phiền não…, đây chính là kết quả đầu tiên mà vị hành giả đạt được. Tâm hành giả khi ấy trong sạch, sáng suốt, an tỉnh, thanh tịnh, không một bất thiện pháp nào có thể xâm nhập được. Không để các bất thiện pháp thâm nhập như vậy, vị ấy tiếp tục chú tâm nhận biết HTR – HTV, HTR – HTV.
Trước hết thực hành trong khoảng 10 phút, nếu được rồi thì tiếp tục tăng lên 20 phút, hoặc 30 phút nữa. Đối tượng HTV – HTR được chú ý nhận biết liên tục rồi, tâm không phóng chỗ này chỗ kia nữa, chỉ có HTV – HTR mà thôi, tâm không để ý đến các đối tượng nào khác nữa. Nếu tâm được thiết lập liên tục không gián đoạn trên đối tượng hơi thở như vậy, đến đây đã thành tựu Giai đoạn thứ nhất: thiết lập niệm liên tục – hay sự chú ý nhận biết được duy trì liên tục. Nếu giai đoạn thứ nhất thành tựu được, tất cả các giai đoạn còn lại của Thiền Niệm Hơi thở cũng sẽ tự động thành tựu. Bốn giai đoạn ấy là:
- Biết liên tục HTV–HTR đang DÀI hoặc đang NGẮN, (1-2) - Biết được toàn bộ HTV–HTR rõ ràng, - Biết đầu - giữa - cuối của mỗi HTV- HTR (3) - Biết được HTV–HTR vi tế. (4)
Nếu niệm được thiết lập liên tục trên đối tượng hơi thở đã được thành tựu, thì tất cả các giai đoạn còn lại cũng sẽ thành tựu. Vì thế để thành tựu được Niệm thơi thở, thì hãy thiết lập sự chú ý nhận biết hơi thở cho được liên tục được chừng nào tốt chừng nấy. Như vậy gọi là nổ lực hành thiền Niệm Hơi thở trong giai đoạn thứ nhất.
* Câu hỏi 2: Trong lúc hành thiền niệm hơi thở, suy nghĩ xuất hiện nhiều, con không thể tập trung được, con nên làm sao?
Trả lời: Nếu mà nói suy nghĩ nhiều, phóng tâm nhiều, trạo cử nhiều khiến chúng ta không thể hành thiền niệm hơi thở được, hãy lắng nghe lời Đức Phật :
{Pāḷi} Ānāpānaṃ mohacaritassa vitakkacaritassa ca sappāyaṃ, … (Abhidhammatthasaṅgaho)
Nghĩa từng chữ như sau:
Ānāpānaṃ : Niệm hơi thở (ānāpānakammatthāna) Mohacaritassa ca : cho người có tánh si, mê muội, (và) vitakkacaritassa ca : cho Người thường hay phóng tâm, vọng động, trạo cử, hối quá sappāyaṃ : thích hợp, có ích.
Dịch nghĩa : “Niệm hơi thở thích hợp cho những người có tính mê muội (muội lượt), những người tánh si, những người thường hay suy nghĩ, phóng tâm, vọng động, trạo cử, hối quá…”
Vậy: Nếu nói trong việc thực hành niệm hơi thở lại xuất hiện phóng tâm nhiều, trạo cử nhiều thì như vậy, e lại không đúng với những lời Đức Phật đã thuyết sao?
Khi niệm hơi thở - theo dõi chú ý nhận biết HTV – HTR, trạo cử, vọng động, phóng tâm xuất hiện nhiều như thế nào nơi tâm thì có thể biết được. Quý vị trước kia chưa từng hành thiền Niệm hơi thở , có biết Tâm mình phóng dật, vọng động, trạo cử nhiều như vậy hay chưa? Nếu không có hành thiền Niệm hơi thở quý vị sẽ không biết được tâm mình vọng động, phóng dật, trạo cử, suy nghĩ, lo lắng nhiều như vậy phải không? Vì có được năng lực tập trung - chú ý nhận biết HTV-HTR nên quý vị biết được điều đó. Đối với những người không có năng lực tập trung – chú ý nhận biết HTV-HTR; những người không thực hành thiền thì không thể biết được điều đó.
Vì biết được như vậy, sự tiến bộ đã bắt đầu nơi vị ấy, sự định tâm sẽ sinh khởi ở người ấy, sự chú ý nhận biết sẽ phát triển ở người ấy. Vì thế khoảng 10 phút, vị ấy khởi ý: “Tôi sẽ không cho tâm phóng đi nơi này nơi khác, không vọng động chuyện này chuyện kia, chỉ để ý đến đối tượng hơi thở mà thôi” Vị hành giả giáo hoá tâm của mình như vậy. Trước tiên vị ấy thực hành khoảng 10 phút, nếu được 10 phút rồi tiếp tục thêm 10 phút nữa,+…. Và cứ tiếp tục mỗi lần gia tăng như vậy, sau này trong khoảng 1 giờ đồng hồ tâm của vị ấy sẽ không còn vọng động phóng đi chỗ này chỗ khác nữa. Chỉ còn tâm (sự nhận biết) và đối tượng mà thôi. Tâm đã đạt được chỗ an trú của nó. Việc cho an trú tâm vào một chỗ trú ngụ được gọi là việc hành thiền. Chỗ an trú là chỗ nào? chỗ an trú là HTV-HTR, nói cách khác tâm được an trú trên đối tượng HTV-HTR. Tâm khi không được an trú nó có thể phóng đến bất cứ chổ nào nó thích, nghĩ những gì nó thích như vậy đó. Khi đã có được chỗ an trú, việc nổ lực an trú tâm như vậy gọi là việc hành thiền.
* Câu hỏi 3: Khi con ngồi thường hay bị tê nhức, con nên ngồi như thế nào?
Trả lời: Trong thân này, thọ khởi lên bao nhiêu thì khởi: đau nhức, mỏi, tê, ngứa ngáy, khó chịu…, những thọ này xin đừng để ý đến. Chỉ chú ý đến HTV-HTR mà thôi. Hơi thở đang vào – hơi thở đang ra. Hãy nhớ, tất cả những cảm thọ sinh khởi trên thân xin đừng để ý đến. HTV và HTR: chỉ có hai điều đó là đáng chú ý nhận biết đến mà thôi. Nếu để ý đến các cảm thọ trên… thì các cảm thọ sẽ xuất hiện mỗi lúc một nhiều hơn và làm phiền, quấy rầy việc chú ý nhận biết hơi thở của hành giả. Chỉ để ý đến HTV-HTR mà thôi. Nếu cứ tiếp tục theo dõi HTV-HTR như vậy, các cảm thọ sẽ dần dần loại trừ. Cuối cùng trong việc thực hành Niệm hơi thở, các cảm thọ đó sẽ không còn xuất hiện nữa. Nếu không để ý đến chuyện : “Tôi đang ngứa, tôi đau nhức, tôi mỏi…” thì ngứa ngáy, đau nhức, tê mỏi sẽ không tiếp tục gia tăng. Tất cả các cảm thọ đã ngưng bặt do việc duy trì liên tục sự chú ý nhận biết đến hơi thở. Hãy nhớ để có thể làm ngưng các cảm thọ đó chỉ có việc để ý đến HTV-HTR mà thôi.
Tư Thế ngồi :
1. Không nên đặt chân này chèn lên chân kia, nếu đặt chân này chèn chân kia sẽ không ngồi lâu được. (có vị thị giả của Ngài ngồi mẫu) 2. Lưng giữ thẳng 3. Đầu không gục về phía trước, không ngã ra phía sau, chỉ nhìn thẳng về phía trước. 4. Mắt nhắm không chặt quá, chỉ nhẹ nhàng nhắm lại. 5. Tay phải đặt lên tay trái, hai ngón cái chạm vào nhau. (hoặc ngược lại tuỳ ý) 6. Giữ Tâm thư thái, nhẹ nhàng, an tỉnh, sáng suốt. 7. “Tâm của tôi đang thư thái, nhẹ nhàng, an tỉnh, sáng suốt, chẳng còn chút lo âu, buồn bực, thất vọng, sợ hãi nào. Với tâm an tỉnh nhẹ nhàng sáng suốt như vậy, tôi sẽ hướng tâm đến HTV-HTR, Phương Pháp niệm hơi thở này là Phương pháp của Bao đời chư Phật từ trong quá khứ đến vị lai. Tôi ý thức rất rõ tôi đang thư thái, an tỉnh, sáng suốt thực hành phương pháp thiền của Chư Phật. Tôi sẽ thực hành đúng đắn phương pháp ấy.” vị ấy khởi niệm như vậy. 8. + Các kết quả, lợi ích của Phương Pháp Niệm Hơi thở. Có 5 : 1. Tâm trong sạch, thanh tịnh, 2. Lo âu, buồn bực, thất vọng, căng thẳng sẽ biến mất 3. Thọ khổ về thân, thọ khổ về tâm sẽ chấm dứt 4. Sinh khởi các loại trí 5. Chứng ngộ được Niết Bàn Hay còn gọi là sẽ chứng ngộ được Niết Bàn với 5 quả báu.
Sādhu! Sādhu! Lành thay. (Dứt buổi thứ 1)
|
|