|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:54:42 GMT -5
2) Nước Chiến Chủ chu vi hơn hai ngàn dặm. Đô thành giáp với sông Hằng, chu vi hơn mười dặm. Cư dân giàu có ở san sát bên nhau. Đất đai màu mỡ dùng để cày cấy trồng trọt. Khí hậu ôn hòa. Gió mưa phong tục thuần chất. Tánh tình con người thô bạo. Tà chánh đều tin. Có hơn 10 ngôi Già Lam, có gần 1000 Tăng Sĩ tu theo giáo lý Tiểu Thừa. Có 20 ngôi đền. Cuộc sống của Ngoại Đạo hỗn tạp. Phía tây bắc của Đại Thành, trong vuờn chùa có một Đại Tháp. Do Vua A Dục xây. Theo người Ấn Độ xưa nói rằng nơi nầy có Xá Lợi của Như Lai độ một đấu. Ngày xưa đức Như Lai ở nơi đây trong bảy ngày vì trời người và mọi loài mà thuyết pháp. Bên cạnh đó cũng có một nơi di tích của ba vị Phật trong quá khứ ngồi Thiền và kinh hành. Gần đó lại có tôn tượng của đức Từ Thị Bồ Tát. Tượng tuy nhỏ nhưng rất uy nghi và có thần sắc. Những chuyện linh ứng biến hóa đều khởi đi từ chốn nầy.
Phía đông Đại Thành đi hơn hai trăm dặm, đến Chùa A Tỳ Đa Yết Sách Noa, chu vi rất rộng và điêu khắc rất công phu. Hoa lá trên mặt hồ và lầu các hai bên giao nhau đã tạo nên cảnh rất sinh động. Tăng đồ rất trang nghiêm, mọi người kính nể. Nghe người xưa thuật lại rằng:
- Ngày xưa, từ núi Tuyết Sơn phía bắc thuộc nước Đỗ Hóa La có ba vị Sa Môn vui học. Hai trong ba người cùng một ý, lễ bái tụng niệm và an nhàn. Mỗi người như vậy tự nói rằng:
- Diệu Lý thâm sâu khó có thể dùng ngôn từ để đàm luận và nghiên cứu. Nhưng Thánh Tích thì đã sờ sờ ra đó có thể tìm hiểu được. Nghi hỏi chưa đến đâu mà sao xem Thánh Tích được. Rồi sau đó hai trong ba người đấu trượng với nhau rồi ra đi. Khi đến Ấn Độ, họ ở trong những ngôi chùa. Có lúc nơi xa xôi, không tìm chỗ ở được, cho nên phải ở bên ngoài, gió mưa vào bên trong thấm mệt. Miệng bụng nhan sắc hình dung khô kiệt đói rét. Lúc bấy giờ Vua của nước nầy xuất du gần đó thấy họ là những khách tăng cho nên kinh ngạc mà nói rằng:
- Những vị khất sĩ từ đâu đến vậy? Mà sao hình thù quái dị quá?
Các vị Sa Môn đáp:
- Chúng tôi thuộc nước Đỗ Hóa La, theo lời di giáo cao cả ngày xưa, nên cùng đi lễ Thánh Tích. Bởi vì bạc phước cho nên chưa có toại nguyện. Các vị Sa Môn Ấn Độ chưa quan tâm việc du hành nầy cho nên muốn trở về bổn quốc mà đi tham lễ chưa xong, còn ở lại thì khổ tâm biết mấy.
Vua nghe xong, lòng thêm thương xót, cho nên ra lệnh kiến tạo Già Lam và ra chiếu chỉ rằng:
- Ta tuy là kẻ được thế nhân tôn trọng, là bậc cao quý, nhưng so ra Tam Bảo còn cao cả hơn. Cho nên dầu là Vua cũng phải quy y Phật. Ai đắp y hoại sắc ta phải chiếu cố. Nay kiến lập đạo tràng nầy để làm nơi lui tới của người hành hương. Từ đây trở về sau, khi các vị tăng đến phải ở trong Già Lam không được ở trong nhà.
Vì thế mới có tên già lam như vậy. Ở phía đông nam của Già Lam A Tỳ Đa Yết Sắc Noa, đi hơn 100 dặm qua sông Hằng, đến làng Ma Ha Bà La gặp một vị Bà La Môn chẳng tôn trọng Phật Pháp. Lúc bấy giờ thấy các vị Sa Môn mới hỏi về chuyện tu học biết được trí thức của họ rất cao và sâu cho nên kính lễ.
Phía bắc sông Hằng, có một đền thờ Na La Diên. Lầu các nhiều tầng, trang hoàng xinh đẹp. Các tượng chư Thiên đều làm bằng đá. Người đời nói rằng rất linh ứng khó có thể nói hết. Phía đông của đền thờ Na La Diên, đi hơn 30 dặm có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Một nữa trụ đá đã bị ngã xuống đất cao hơn hai trượng. Phía bên trên có tạo hình đầu Sư Tử và khắc ghi những sự tích chiến đấu với Quỷ. Ngày xưa ở nơi nầy có một khu rừng bị Quỷ chiếm, có uy lực lớn chờ bắt người ăn thịt uống máu, sát hại rất nhiều sinh linh, vô cùng khốn khổ. Đức Như Lai, thương chúng sanh không muốn thấy sự chết nầy, nên dùng thần thông biến hóa để dụ các loài Quỷ nầy dẫn chúng quy y và thọ giới không sát sanh. Các loài quỷ vâng theo lời dạy quay quanh hòn đá và thỉnh Phật ngồi, nguyện nghe Chánh Pháp và hết sức giữ gìn. Từ đó về sau không còn ai sợ nữa. Cả hai bên đến ngồi bên phiến đá, có đến số ngàn mà đá kia không thể lay chuyển. Nơi đây có rừng cây và ao nước bao bọc tả hữu cho nên người đến đây tâm rất lắng đọng.
Gần nơi hàng phục quỷ có một số chùa, tuy đa phần bị hư hoại nhưng vẫn còn tu sĩ. Tất cả tu theo giáo lý Đại Thừa. Từ phía đông nam đi hơn một trăm dặm nữa, đến một Bảo Tháp. Bảo Tháp đã nghiêng và cao hơn mấy chục mét. Chuyện xưa kể lại rằng: Sau khi Như Lai diệt độ. Khi tám ông vua của tám nước phân chia Xá Lợi của Phật. Phần Xá Lợi mà ông Bà La Môn nhận không còn mà gửi hết cho các Vua. Ông ta mang bát không trở về, sau đó được Xá Lợi dính vào bát nên tạo thành tháp nầy. Sau đó để bình bát vào bên trong nên có tên như vậy. Sau nầy vua A Dục cho mở tháp và lấy Xá Lợi trong bát ra để kiến tạo một Bảo Tháp khác. Khi mặt trời lên, phóng quang minh. Từ phía đông bắc tháp đi qua sông Hằng hơn 145 dặm đến nước Phệ Xá Phong (Tỳ Xá Ly).
3) Nước Phệ Xá Phong (Tỳ Xá Ly), chu vi hơn năm ngàn dặm, đất đai màu mở, hoa quả xanh tươi. Đặc biệt là xoài và mía, nơi đây có nhiều nông sản quý. Khí hậu phong tục tập quán thuần chất. Dân thích làm phước ưa học tập, tà chánh đều tin lẫn lộn. Có hơn 100 ngôi già lam đa phần bị hư hoại chỉ còn lại 35 ngôi. Tăng tín đồ rất ít. Đền thờ hơn 10 ngôi. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Những người tu lõa thể rất nhiều. Thành Tỳ Xá Ly cũng đã bị loang lỗ hư hại. Dấu tích ngày xưa còn lại nơi đây chu vi khoảng 67 dặm. Cung thành chu vi bốn dặm ruỡi, ít có người ở. Cung thành phía tây bắc năm dặm sáu đến một ngôi Già Lam, tăng sĩ nơi đây cũng ít. Họ học theo phái Tiểu thừa Chánh Luợng Bộ. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp. Ngày xưa đức Như Lai đã nói kinh Tỳ Ma La Cật (Duy Ma Cật) tại đây. Đây là nơi mà Truởng Giả đã hiến Bảo Cái quý. Ở tại phía đông nầy có một Bảo Tháp, ở đó ngài Xá Lợi Phất đã chứng được quả Vô Học (A La Hán). Phía đông nam nơi ngài Xá Lợi Phất chứng quả có một Bảo Tháp do Vua Tỳ Xá Ly kiến lập. Sau Phật Nhập Niết Bàn, Tiên Vương của nước nầy cũng được Xá Lợi khi phân chia cho nên xây dựng Bảo Tháp nầy. Có truyền thuyết rằng ở trong nầy Xá lợi Như Lai một hộc, khoảng mười đấu. Vua A Dục mở ra lấy chín đấu, chỉ còn lưu lại một đấu.
Sau đó có vị Quốc Vương muốn khai mở tiếp để tìm thì đất ở đây chấn động nên chẳng dám khai mở. Từ phía tây bắc có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên, bên cạnh có một trụ đá, cao 56 thước ta. Bên trên thì có tượng đầu Sư Tử. Phía nam trụ đá có một cái hồ. Nơi đây những con khỉ đã hầu cận Phật. Tương truyền rằng đức Như Lai đã ở nơi đó. Cách hồ phía tây không xa mấy lại có Bảo Tháp, có những con khỉ chờ đức Như Lai đặt bát chúng đem mật đến. Cách hồ về phía nam không xa mấy nơi đây những con khỉ dâng cúng mật cho Phật. Phía tây bắc của hồ, có xây dựng hình tượng những con khỉ. Cách 3 dặm về phía đông bắc ngôi Già Lam có một Bảo Tháp, là nơi nhà cũ của ông Duy Ma Cật. Có nhiều điềm linh dị. Từ đây chẳng bao xa, có một thần xá còn một bờ gạch. Tương truyền rằng Truởng giả Duy Ma Cật thị hiện tật bệnh mà thuyết pháp. Đi cách đây không xa mấy có một Bảo Tháp là nơi nhà chứa những đồ quý. Từ đây đi không xa mấy, có một Bảo Tháp, đó là vuờn xoài nơi ni chúng ở. Nơi mà Di mẫu của Phật cùng với các vị Tỳ Kheo Ni chứng nhập Niết Bàn ở nơi nầy.
Cách ngôi Già Lam về phía bắc ba dặm tư có một Bảo Tháp là nơi Như Lai chuẩn bị đi về nước Câu Thi Na. Khi đức Phật nhập Niết Bàn, người cùng phi nhơn đi theo Thế Tôn đến đây thì dừng lại. Kế tiếp phía tây bắc không xa có một Bảo Tháp, đây là nơi đức Phật nhìn thành Tỳ Xá Ly cuối cùng. Cách không xa về phía nam có một tinh xá, phía trước có xây dựng một tinh xá. Đây là nơi vuờn xoài một nữ thí chủ cúng cho Phật.
Phía bên vuờn xoài, có một Bảo Tháp, đây là nơi Như Lai bảo rằng Như Lai sẽ vào Niết Bàn. Ngày xưa tại nơi đây Phật bảo ngài A Nan rằng:
- Kẻ chứng được tứ thần túc có thể ở lại đời một kiếp. Như Lai bây giờ nên thọ bao nhiêu tuổi?
Hỏi đến ba lần nhưng A Nan chẳng đáp lại, vì Thiên ma đã mê hoặc, cho nên Ngài A Nan từ tòa đứng dậy đi vào trong rừng trầm ngâm. Lúc bấy giờ ma lại thỉnh Phật rằng:
- Như Lai ở đời giáo hóa xong rồi. Số người được tế độ nhiều như trần sa. Tịch diệt là niềm vui, bây giờ đã đến lúc rồi.
Thế Tôn chống tay xuống đất đứng lên nói với ma rằng:
- Đất ở bên ngoài nhiều hơn hay đất trong móng tay nhiều hơn?
Đáp rằng:
- Đất ở dưới đất nhiều
Phật bảo:
- Những gì ta đã độ giống như đất trong móng tay nầy. Những gì ta chưa độ như đất dưới mặt đất nầy. Sau ba tháng nữa ta sẽ vào Niết Bàn.
Ma nghe rất hoan hỷ rồi lui. Ngài A Nan ở trong rừng cảm thấy khó chịu và nằm mơ đến bạch Phật rằng:
- Con ở trong rừng nằm thấy một cây đại thọ cành lá sum sê bóng mát che phủ nhưng bỗng nhiên gió thổi mạnh làm tiêu tán hết không còn gì cả, nên nghĩ rằng không lẽ Thế Tôn muốn nhập diệt sao! Tâm con hoài nghi, cho nên đến đây để thưa thỉnh.
Phật bảo:
- A Nan, ta nói với ngươi trước rồi, ngươi thì bị ma lực không chịu thưa thỉnh ngay lúc đó cho nên ma vương đã khuyên ta sớm nhập Niết Bàn. Ta vừa hứa xong. Điềm mộng đó là vậy.
Không xa cách nơi thông báo thời kỳ nhập Niết bàn, có một Bảo Tháp là nơi mà một ngàn người con gặp mẹ. Tích xưa kể lại có một vị tiên nhơn ẩn cư trong hang động. Thời tiết giữa mùa xuân khí trời tốt tươi, có một con nai sắp sanh con, đi uống nước. Thấy dáng nai đi qua, tiên nhơn bắt giữ để nuôi. Một hôm bảo nai đi tìm lửa, bỗng dưng tiên thấy dưới chân nai có một đóa hoa sen khi nai đến gần vị tiên. Thấy vậy lấy làm kỳ lạ, bèn ra lệnh đi quanh thảo lư tự nhiên được lửa. Nai mẹ vâng lời như vậy, khi được lửa xong thì lui. Lúc bấy giờ Phạm vương dạo chơi tìm bông hoa, sự thấy việc lạ lùng kinh dị nên đem cả hai cùng về. Có người tiên đoán rằng nai sẽ sanh một ngàn đứa con.
Nghe như vậy và ngày tháng đầy đủ thì sinh ra một hoa sen, mà hoa sen đó có ngàn cánh, mỗi cánh như vậy có một đứa bé ngồi. Nai cái ấy không biết, nên đem ném xuống sông Hằng. Có một con chim tha hoa ấy đến bên vuờn vua hạ xuống. Mây vàng và Bảo Cái che chở. Hoa sen nở ra một ngàn đứa bé. Nhà Vua lấy sữa để nuôi lớn lên, chúng rất mạnh khỏe.
Lúc bấy giờ thành một ngàn chàng trai mang binh hùng mạnh đi chinh phạt bốn phương. Tại nước nầy, Phạm vương nghe được rất lo toan. Binh lực không địch được, không thể xuất quân. Lúc bấy giờ con nai mẹ biết con mình cho nên nói với vua rằng:
- Nếu mà đánh thì trên dưới sẽ không hòa. Dù là giặc hay trung, khôn hay dại sẽ thất bại trước sức mạnh không thể địch nổi. Vua chưa tin điều đó nên lo lắng vô cùng.
Con nai cái lên thành chờ, một ngàn người con và binh lính đến vây thành, con nai cái bảo:
- Đừng có phản nghịch. Ta là mẹ các ngươi, các ngươi là con ta.
Một ngàn người con nói:
- Sao nói bậy vậy?
Con nai cái lấy tay chỉ vào hai vú, liền chảy ra một ngàn giọt. Nhờ thiên tánh chiêu cảm nên sữa vào thẳng trong miệng của họ. Vì vậy họ giải giáp trở lại với dòng Thích, sau đó hai nước giao hảo với nhau và bá tánh được an lạc.
Không xa, cách nơi một ngàn đứa con quy thuận có một Bảo Tháp ghi lại dấu tích nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã đi kinh hành, và Ngài lấy tay để chỉ đại chúng rằng:
- Ngày xưa ta ở đây quy thuận trở về thân tộc một ngàn đứa con đó, tức là một ngàn vị Phật trong hiền kiếp nầy.
Đó là sự tuờng thuật có trong kinh Bổn Sanh, và ở phía đông nơi nầy lại có một Bảo Tháp được dựng lên. Nơi đó ánh sáng chói lọi, ai kỳ nguyện sẽ được toại ý, mà Như Lai nói trong kinh Phổ Môn Đà La Ni.
Nhà cửa giảng đường đều còn dấu vết nơi đây.
Không xa mấy, cách giảng đường có một Bảo Tháp. Ở giữa đó có nửa thân Xá Lợi của Ngài A Nan. Từ đây chẳng xa mấy lại có hàng trăm Bảo Tháp khác. Muốn biết rõ số bao nhiêu cũng không thể biết được. Đây là nơi nhập diệt của một ngàn vị Độc Giác Phật. Chu vi trong ngoài của thành Tỳ Xá Ly rất rộng. Thánh tích có rất nhiều nhưng mà khó có thể biết hết được. Có nơi hình thức vẫn còn nhưng đã hư hoại, thời gian năm tháng gió mưa làm thay đổi. Bên rừng lại còn một hồ nước mà nay thì nước đã khô. Những dấu tích của cây quý vẫn còn nơi đây. Phía Tây bắc của đại thành, đi hơn 56 dặm, đến một Bảo Tháp lớn. Nơi đây ghi lại chỗ ông Phiêu Chiêm Bà Tử từ biệt đức Thích Ca. Như Lai từ thành Tỳ Xá Ly hướng về nước Câu Thi Na. Vị Phiêu Chiêm Bà Tử nghe Phật sẽ nhập diệt rất buồn rầu khổ sở đến để đưa đi. Đức Thế Tôn thấy ông buồn như thế thì không có lời nào để khuyên được tức thời dùng thần lực để hóa ra một con sông lớn. Bờ sông đó rất sâu, sóng mạnh, nước chảy xiết, ông Phiêu Chiêm Bà sầu bi dừng lại và đức Như Lai để bình bát lại làm kỷ niệm.
Ít hơn 200 dặm về phía Tây bắc thành Tỳ Xá Ly, lại có một cổ thành hoang phế từ lâu không có người cư trú, trong đó có một Bảo Tháp, đây là nơi Phật ngày xưa đã vì chư vị Bồ Tát, Trời, người đại chúng diễn thuyết kinh Bổn Sanh khi tu hạnh Bồ Tát. Từng ở nơi thành này làm Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là Ma Ha Đề Bà (Đại Thiên). Vua có đầy đủ thất bảo và bốn phương trời đất. Khi hiểu lý vô thường làm cho thân thể thay đổi, nhớ lời nguyện uớc cao xa, bỗng quên hẳn địa vị lớn của mình, bỏ nước xuất gia, mặc y hoại sắc để tu học. Phía đông nam thành, đi hơn 14.5 dặm đến một Bảo Tháp lớn. Đây là nơi mà bảy trăm vị Hiền Thánh kết tập sau Phật nhập Niết Bàn 110 năm. Có các vị Tỳ kheo của thành Tỳ Xá Ly xa rời Pháp Phật, thực hành sai giới luật. Lúc bấy giờ Truởng Lão Da Giá ở nước Kiều Tất La. Truởng Lão Tam Bồ Da ở nước Châu Thố La, Truởng Lão Phấn Ba Đa ở nước Hàng Nhược; Truởng Lão A Nha ở nước Tỳ Xá Ly; Truởng Lão Phú Phiệt Tô Di La ở tại nước Bà La Lị Phất, Các Truởng Lão Đại A La Hán tâm được tự tại trì giữ Tam Tạng chứng được tam minh, được đại danh xưng là những bậc tri thức, tất cả đều là đệ tử của Tôn Giả A Nan. Lúc bấy giờ ngài Da Xá bảo các vị Hiền Thánh rằng:
- Tất cả đều tập họp ở thành Tỳ Xá Ly, chỉ thiếu một người nữa là đủ 700 vị.
Khi ấy ngài Phú Phiệt Tô Di La dùng thiên nhãn để thấy các bậc Đại Hiền Thánh vân tập hội nghị, rồi vận thần túc đi đến Pháp Hội. Khi ấy ngài Tam Bồ Da ở trong đại chúng sửa y bày vai phải ra và quỳ xuống bạch rằng:
- Mọi người đừng có rầu rĩ mà hãy nhớ lại rằng ngày xưa khi đấng Đại Thánh Pháp Vương quyền biến thị tịch. Thời gian dầu trôi qua nhưng lời dạy của Ngài còn đó. Các thầy Tỳ Kheo giải đãi tại thành Tỳ Xá Ly hủy báng giới luật đưa ra mười sự việc sai với mười luật đã dạy. Bây giờ các vị Hiền giả ấy đã rõ ràng biết phạm mà nhờ ngài A Nan chỉ giáo sám hối, nhớ lại ân Phật mà trùng tuyên Thánh Chỉ. Lúc đó các bậc Thánh mới khỏi lo lắng, liền triệu tập các vị Tỳ Kheo y theo Tỳ Nại Da (Luật tạng) quở trách và ngăn cấm. Để trừ sự hủy báng Pháp và tuyên dương Thánh Giáo.
Phía nam của nơi 700 Hiền Thánh kiết tập đi hơn 89 dặm, đến chùa Thất Phệ Đa Bổ La. Chùa Viện đổ nát. Nhà cửa hư hoại. Tuy nhiên, tăng chúng thanh tịnh và tu theo Đại Thừa. Bên cạnh đó là nơi ghi lại di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Tháp nầy do Vua A Dục xây dựng. Tại nơi đây ngày xưa Như Lai về phương nam đi đến nước Ma Kiệt Đà, về phía bắc ngoái nhìn thành Tỳ Xá Ly, giữa đường ngài dừng lại di tích nầy.
Ở phía đông nam chùa Thất Phệ Đa Bổ La hơn 30 dặm, đến sông Hằng, nam bắc của bờ sông nầy mỗi nơi có một Bảo Tháp. Đó là nơi Tôn Giả A Nan đã phân thân cho hai nước. Ngài A Nan là anh em chú bác với Như Lai, đa văn hiểu rộng biết nhiều kiến thức dồi dào. Sau khi Phật nhập diệt, kế đến ngài Ca Diếp giữ gìn Chánh Pháp lãnh đạo mọi người. Khi đi trong rừng của nước Ma Kiệt Đà, thấy một Sa Di phúng tụng kinh Phật. Chương cú sai, văn tự lẫn lộn, Ngài A Nan nghe xong liền cảm hoài lo lắng mới hỏi và chỉ bày. Sa Di cười và bảo rằng:
- Sư Ông già rồi, Sư Ông lầm. Thầy của con cao minh còn sáng suốt lắm.
Chính Ngài chỉ giáo nhưng Sa Di không sửa đổi. Ngài A Nan bèn thôi và than rằng:
- Ta tuy tuổi đã cao nhưng vì các chúng sanh muốn ở lại đời lâu hơn để giữ gìn Chánh Pháp, mà thấy chúng sanh nghiệp nặng khó dùng lời để chỉ giáo, nên dẫu có ở lại lâu hơn cũng chẳng lợi ích gì, thôi sớm diệt độ.
Rồi Ngài đi đến nước Ma Kiệt Đà, từ thành Tỳ Xá Ly, Ngài đi qua sông Hằng bằng thuyền. Khi đó Vua nước Ma Kiệt Đà nghe ngài A Nan đến nhớ lại Đức xưa liền đem xa giá đến để nghinh thỉnh. Số luợng có hơn 100 ngàn quân lính tập trung ở bờ sông phía nam. Vua Tỳ Xá Ly nghe ngài A Nan đi rồi, tâm sầu muộn, liền sai quân lính hơn 100 ngàn người nghinh tiễn tập trung ở bờ sông phía bắc. Hai bên quân trận đối nhau dàn cờ, Ngài A Nan sợ chiến đấu, binh lính sát hại lẫn nhau cho nên từ trong thuyền, Ngài bay lên hư không thị hiện thần biến, tức nhập tịch diệt. Ngài dùng lửa tam muội thiêu thân và xá lợi bay trong không trung. Một phần rơi về phía nam, một phần rơi về bờ sông phía bắc. Mỗi bên hai vua được một phần, liền ra lệnh cho quân lính lui về xứ của mình, rồi cho xây dựng Bảo Tháp để tu hành cúng dường. Từ phía đông bắc nầy đi hơn năm trăm dặm, đến nước Phất Phiêu Trì.
4) Nước Phiêu Trì chu vi hơn 4000 dặm, từ đông qua tây dài, từ nam ra bắc hẹp. Đất đai màu mỡ, hoa trái xinh tươi. Khí hậu ấm áp. Nhơn tình còn thô tháo, đa phần tôn kính ngoại đạo, thiếu tín tâm đối với Phật Pháp. Có hơn 10 ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng sĩ, tu theo cả hai bộ phái Đại thừa và Tiểu thừa. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Đại Đô Thành tên là Chiêm Mậu Na Noa, đa phần bị hư hoại. Trong cung thành xưa có hơn 3000 nóc nhà, chia ra từng thôn ấp.
Phía đông bắc của sông lớn có một Già Lam, tu sĩ ít nhưng học nghiệp rất thanh cao. Từ đây đi về hướng tây, nương theo bờ sông có một Bảo Tháp cao hơn ba trượng. Dọc theo phía Nam là nơi mà đức Đại Bi Thế Tôn độ cho người câu cá.
Lúc Phật còn tại thế, có năm trăm ngư phủ đan luới bắt cá và các loài thủy tộc. Ở tại sông nầy họ bắt được một con cá lớn 18 đầu, mỗi đầu có hai mắt, những ngư phủ muốn sát hại nó. Lúc đó đức Như Lai đang ở nước Tỳ Xá Ly dùng Thiên Nhãn để quán chiếu và dùng lòng đại bi mà nhân cơ hội nầy đến đây để hóa đạo làm cho mọi người được hiểu biết và báo cho chư vị tu theo Đại thừa biết rằng trong nước Phất Phiệt Trì có một con cá lớn. Ta muốn hóa đạo làm cho những ngư dân kia được tỏ ngộ, Ngài dùng thần túc thông đưa đại chúng đến bờ sông nầy, ngồi kiết già và bảo những ngư phủ rằng:
- Đừng giết con cá đó, ta sẽ dùng thần lực để mở cửa phương tiện cho các ngươi biết về túc mệnh của con cá nầy. Cá ơi! Có thể nói lời của con người mà hóa giải nhân tình.
Lúc bấy giờ đức Như Lai mới hỏi rằng:
- Thân trước của con đã tạo nghiệp gì mà phải thọ thân nầy trong ác thú vậy?
Con cá đáp rằng:
- Con nhờ chút phước lực sanh vào gia đình Bà La Môn giàu có. Người ấy chính là thân con. Con ỷ vào dòng dõi cho nên khuynh loát nhân luân, ỷ vào của cải mà khinh khi kinh Pháp, đem tâm khinh mạn chư Phật, dùng lời cực ác để nhục mạ chúng tăng, ví chúng tăng như các loài lạc đà, voi, ngựa. Do ác nghiệp nầy mà thọ thân cá, nhưng nhờ một chút thiện duyên con sanh gặp thời Phật còn tại thế, còn thấy được sự giáo hóa của Phật, còn được nghe lời dạy của ngài, do đó mà xin sám hối tội nghiệp đời trước đã làm.
Như Lai tùy theo căn cơ nhiếp hóa, từ đó khai đạo. Nhờ nghe Pháp, con cá liền thác. Với phước lực đó sanh lên Thiên cung và tự biết thân nầy do duyên gì mà sanh ra. Liền biết túc mệnh của mình và niệm báo ân của Phật đã cùng với chư Thiên nguyện dứt những việc ác. Lễ Phật xong, đi nhiễu bên tay phải rồi đem hương hoa cùng với vật quý cõi trời dùng để cúng dường.
Nhân cơ hội nầy, đức Phật thuyết Diệu Pháp cho ngư dân, họ nghe xong liền tỏ ngộ, chân thành lễ sám, đốt luới và thuyền, quy y thọ Pháp. Nghe Phật chỉ dạy, họ phát tâm mặc áo hoại sắc xa rời trần cấu, tu hành chứng được quả Thánh.
Phía đông bắc, nơi độ cho những ngư dân đi hơn 100 dặm đến cổ thành phía tây. Tại đây có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây cao hơn 100 mét. Đây là nơi ngày xưa đức Phật thuyết pháp sáu tháng để độ cho trời người. Từ phía bắc đi hơn 145 bước, có một Bảo Tháp nhỏ. Chính nơi đây ngày xưa đức Như Lai vì các vị Tỳ Kheo mà chế giới. Tiếp đến phía tây chẳng xa bao nhiêu lại có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Như Lai ngày xưa ở nơi đây, những người trong ấp đem hương hoa đèn quả đến cúng dường không diệt. Từ phía tây bắc nầy đi hơn 1450 dặm, vào động của núi thuộc nước Ni Ba La.
5) Nước Ni Ba La chu vi hơn 4000 dặm, nằm trong núi Tuyết. Đô thành chu vi hơn 20 dặm. Núi sông giao nhau, nên lúa thóc và hoa quả rất nhiều. Nơi đây sản xuất đồng đỏ, trâu đuôi dài, và chim chóc. Tiền dùng trao đổi bằng đồng đỏ. Khí hậu lạnh có gió nhiều và phong tục bí hiểm. Tánh người cang cường. Niềm tin hời hợt. Không học tập mà cũng chẳng có nghề nghiệp gì, hình tướng khó coi, tà chánh đều tin. Chùa Viện và đền thờ liên tục gần nhau, hơn 2000 tăng sĩ tu theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu thừa. Số người theo ngoại đạo bao nhiêu thì không biết. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợi, dòng dõi Phiêu Chiêm Ba. Chí học thanh cao thuần tín Phật Pháp. Gần đây có Vua tên là Ô Luân Phạp Ma là bậc thạc học thông minh, tự soạn ra Thanh Minh Luận. Vua là người trọng học vấn, cung kính đạo đức và những gì mới lạ.
Đô thành phía đông nam có một cái hồ rất nhỏ. Người ta dùng nước nầy để dập lửa cháy. Từ đây lại đi về nước Tỳ Xá Ly, phía nam đi qua sông Hằng, đến nước Ma Kiệt Đà.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển bảy
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 17:56:15 GMT -5
Quyển thứ tám (1 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
Nước Ma Kiệt Đà - Phần một.
Nước Ma Kiệt Đà chu vi năm ngàn dặm. Trong thành nhỏ có nhiều người ở. Đất đai màu mỡ dễ dàng trồng trọt, có nhiều loại lúa hạt rất to, mùi thơm đặc biệt và màu sắc lóng lánh. Tục lệ hay dùng lúa gạo để cúng dường. Đất trồng trọt nằm dưới thấp. Cư dân ở miền cao. Sau mùa hạ và trước mùa thu, dân chúng bơi thuyền trên sông. Phong tục thuần chất. Khí hậu ôn hòa. Rất ưa học hỏi và tôn kính Phật Pháp. Có hơn 50 ngôi Già Lam, và 10.000 tăng sĩ. Có nhiều phái tu tập theo Đại thừa giáo, có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp.
Phía nam sông Hằng có một thành cổ, chu vi hơn 70 dặm, đã hoang phế chỉ còn lại dấu tích ngày xưa. Chuyện xưa kể lại rằng nơi đây có người tuổi thọ không lường được. Thành nầy có tên là Câu Tô Ma Bổ La (Hương Hoa Cung Thành) Vương cung có nhiều hoa nên gọi như vậy. Đa phần người ta sống thọ đến 1000 tuổi. Cho nên có tên gọi là Ba Tháp Phóng Tử Thành (Ba Liên Phất). Đầu tiên có người Bà La Môn học rộng tài cao, có hơn 1000 người học trò đến học. Những người học trò đó từ xa đến tham học. Có một thư sinh bồi hồi thất vọng. Người đồng liêu hỏi:
- Sao mà buồn thế?
- Có nhiều việc ràng buộc và ám ảnh. Thời gian năm tháng chất chồng mà không thành công học nghiệp, nhớ lại việc nầy mà lo buồn vậy thôi.
Người bạn đồng học vui miệng nói rằng:
- Anh nên đi tìm vợ đi.
Kế đó giả lập ba người bên nhà trai và hai người bên nhà gái cùng ngồi nói chuyện với nhau dưới gốc cây, thì người con gái trong cây nghe được. Lúc ấy cây đang ra trái tốt đẹp bày ra đám cuới mong muốn được kết duyên. Cha cô gái nhận được cành hoa của người thư sinh và nói rằng:
- Thật là tốt thay không có lời nào nói hết được
Tâm hồn của thư sinh rất là vui vẻ. Mặt trời lặn xuống trở về lưu luyến không cùng.
Người bạn đồng học nói rằng:
- Trước chỉ nói vui vậy mà bây giờ thành tốt thật.
Trong rừng lúc ấy, những con thú dữ đang tàn sát với nhau mà thư sinh kia thì hay tới lui gốc cây nầy. Khi màn đêm buông xuống ánh sáng khác trong rừng nổi lên, tiệc cuới bày ra la liệt. Trong chốc lát thấy lão ông đến an ủi, dẫn theo một người thiếu nữ. Tân lang từ trong bước ra với y phục đẹp đẽ và âm nhạc tấu lên. Ông già chỉ thiếu nữ và bảo:
- Đây là phòng của vợ chồng con.
Thế rồi họ ca hát yến tiệc trong bảy ngày. Người bạn học nghĩ rằng bạn mình bị thú dữ hại nên mới đi tìm. Liền thấy ngồi một mình dưới tàng cây mà đối đáp với người khách ở bên trên, người bạn bảo cùng đi về mà hắn chẳng chịu theo. Sau đó tự vào trong thành để gặp người thân, nói lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong người ta kinh ngạc, những người bạn cùng đi vào trong rừng và thấy cây hoa là một con người đi qua đi lại được. Lão ông là người tiếp ruớc nói chuyện, bày bánh tấu âm nhạc cho khách nghe. Khi các người bạn trở lại thành thì báo tin cho xa gần biết rằng cuối năm thì sanh được một đứa con trai. Đồng thời người vợ nói:
- Em bây giờ phải trở về nhưng chưa muốn xa lìa, mà thích ở lại cho qua mùa lạnh.
Người vợ nghe đầy đủ và thưa với Lão ông, đoạn thư sinh nói:
- Nìềm vui của con người há phải có quê hương. Nay ta sẽ làm phòng ốc không khác điều mong uớc của con và cho người làm việc nầy thành công không tới một ngày. Thành Hương Hoa cũ dời sang ấp nầy vì người con cũ của vị thần xây nên thành nầy. Từ đó về sau, thành nầy có tên là Ba Tháp Phấn Tử.
Phía bắc của cố cung có một trụ đá cao hơn mười thước là nơi mà Vua A Dục cho làm một cái địa ngục. Sau khi đức Thích Ca Nhập Niết Bàn một trăm năm, Vua A Thâu Giá (A Dục Vương) là cháu của Vua Tần Tỳ Ba La (Tần Bà Sa La). Từ thành Vương Xá đã dời đô về Ba Thát Phấn, kiến trúc phía bên ngoài vòng thành cổ. Năm tháng trôi qua chẳng còn dấu tích; bây giờ chỉ lưu lại nền móng mà thôi. Ở đây Già Lam, Đền Thờ cùng Bảo Tháp dấu tích còn lại hơn cả trăm. Nhưng loại tốt chỉ còn hai ba cái.
Phía bắc của cố cung, giáp với sông Hằng, bên trong thành nhỏ có độ ngàn nóc nhà. Sau khi Vua A Dục tức vị liền cho xây dựng nên một địa ngục để tác hại sanh linh. Chu vi rất rộng rãi có nhiều chỗ ở, có hầm lửa, có nước dâng, có đao kiếm cùng các cực hình và các chỗ thọ khổ bắt những kẻ hung ác làm ngục chủ. Đa phần là những người phạm tội trong nước, chẳng kể tội nặng, tội nhẹ đều bị bôi than, sau đó đem nhốt vào ngục, sau đó mới giết. Mọi người chết rồi bịt được miệng hết.
Lúc bấy giờ có một vị Sa Môn mới nhập chúng, khi đi khất thực thì gặp cửa ngục nầy. Thấy kẻ hung nhân bị sát hại. Sa Môn hoảng kinh mong được sám hối, đoạn thấy người khác bị trói cho vào ngục, chặt hết chân tay và phá hủy hình hài, thân thể gập xuống. Sa Môn thấy vậy tăng thêm phần bi ai, liền quán về vô thường chứng quả Vô Học. Ngục tốt nói:
- Có thể chết được!
Sa Môn liền chứng Thánh quả, lòng thương sanh tử, tuy vào nước đồng sôi, nhưng ở hồ nước thanh tịnh, có hoa sen lớn rồi ngồi trên đó. Lúc ấy ngục chủ mới kinh hãi liền thưa lên với Vua. Vua liền thân chinh đến quan sát và tán thán sự linh nghiệm đó. Ngục chủ nói:
- Đại Vương cũng sẽ chết.
Vương hỏi:
- Thế nào?
Đáp rằng:
- Nhà Vua không bị mệnh lệnh mà thọ ngục hình. Phàm đến ngục kia, tất cả đều bị sát hại. Dẫu là Vua, cũng không thể khỏi chết.
Vua nói:
- Luật Pháp định chế như vậy rồi, không thể sửa đổi được. Ta trước chưa chết, há rằng ngươi khỏi sao? ngươi liệu có sống lâu để đáp được lời của ta chăng?
Liền ra lệnh cho ngục tốt xô vào hầm lửa. Ngục chủ chết, Nhà Vua thoát khỏi. Ngày nay, tường đã đổ, hào đã lấp không còn hành hình nữa.
Phía nam của địa ngục không xa, có một Bảo Tháp bị xiêu vẹo, chỉ còn lại trục chính. Trục đá chính nầy trang sức như những lan can, tức là một trong tám mươi bốn ngàn Bảo Tháp do Vua A Dục cho nhân công kiến tạo nơi cung điện nầy. Trong đó có một đấu Xá Lợi của Như Lai rất linh hiển và thường phóng quang rực rỡ. Sau khi Vua A Dục bỏ địa ngục kia, gặp gỡ thân cận với sự hộ trì của các bậc A La Hán. Dùng phương tiện thiện xảo tùy cơ nghi mà hóa đạo. Nhà Vua thưa với A La Hán rằng:
- Hạnh phúc thay! Nhờ những phước báo của đời trước mà ngồi vào ngôi vị được mọi người tôn kính, nhưng có chướng lụy nên không được gặp Phật giáo hóa. Bây giờ chỉ có di thân Xá Lợi của Đức Như Lai cho nên muốn xây dựng những Bảo Tháp.
Vị A La Hán nói:
- Đại Vương đã có phước đức lớn, giúp cho bá tánh và có tâm rộng rãi để hộ trì Tam Bảo. Tâm nguyện nầy đến lúc phát rộng ra, cũng như hiến đất đai tạo công đức như đức Như Lai huyền ký. Vua A Dục nghe xong tâm rất hoan hỷ, triệu tập các thần mà ra lệnh rằng:
- Giáo Pháp của đức Phật làm lợi lạc tất cả các loài hàm linh nên phải vui mừng. Ta nay có túc duyên đời trước làm được bậc tôn quý trong loài người, nên phải cúng dường sửa sang di thân của đức Như Lai. Nay ra lệnh cho chư Thần hãy cùng ta hợp ý xây dựng tháp miếu để thờ Xá Lợi Phật tại cõi Diêm Phù nầy. Phát tâm là việc của ta còn công đức ấy có thành tựu hay không là việc của các ngươi, vì phước ấy có lợi lạc hay không ,không phải chỉ riêng một mình ta mà được. Khi tuyên bố việc đã xong, sau đó tiếp tục công việc. Chư Thần lãnh thọ Thánh chỉ rồi bắt đầu hưng công. Sau đó lại đến thỉnh cầu Vua A Dục để liên hệ với tám nước xây dựng các Bảo Tháp, rồi cho các vị Thần đem Xá Lợi vào thờ. Sau đó Vua nói với vị A La Hán rằng:
- Ta muốn tất cả các nơi đều cùng lưu Xá Lợi. Tâm tuy là vậy nhưng sự việc khó thành.
Vị A La Hán đáp:
- Vua ra lệnh cho các thần đến kỳ hạn mà chưa ổn thì mới ra tay. Đến lúc đó mới đưa Xá Lợi vào.
Vua y lời ra lệnh cho chư Thần như thế, phải làm trong một ngày. Sau đó Vua A Dục quan sát phong cảnh ngay giữa giờ Ngọ. A La Hán liền vận thần thông lấy tay che mặt trời và những nơi xây dựng đều được hoàn tất. Cùng lúc đó mọi việc xong xuôi, bên cạnh Bảo Tháp nầy không xa có một Tịnh Xá, trong đó có một viên đá lớn còn lại dấu chân của Như Lai, chiều dài tám tấc, chiều ngang sáu tấc. Cả hai bên đều có hình luân xa và cả mười ngón chân đều có hoa văn. Có lúc có hình con cá chiếu ra ánh sáng. Ngày xưa khi đức Như Lai thâu thần tịch diệt, nhìn về nước Câu Thi Na ở phương bắc và hướng về nước Ma Kiệt Đà ở phương nam. Ngài đứng trên tảng đá nầy nói với ngài A Nan rằng:
Đây là nơi cuối cùng ta lưu dấu bàn chân lại rồi sẽ nhập Niết Bàn. Còn nước Ma Kiệt Đà. Trong một trăm năm sau có Vua A Dục là vị mệnh thế quân vương sẽ đến đây đóng đô, hộ trì Tam Bảo, ra lệnh cho hàng trăm vị Thần và sau khi Vua A Dục tức vị sẽ thiên đô đến đây. Chung quanh di tích tảng đá nầy và sau đó xây dựng cung thành để thân cận cúng dường.
Sau đó Vua các nước muốn đem tảng đá nầy đi, nhưng mọi người không ai có thể di chuyển nổi. Gần đây có Vua Thiết Thường Ca phá hoại Phật Pháp, muốn làm cho di tích tảng đá tiêu diệt, bèn đục bỏ đi những bài văn khắc lên đó, rồi cho người khiên vức xuống sông Hằng, nhưng sau đó tự nhiên trở về chỗ cũ. Bên cạnh Bảo Tháp có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền.
Phía bên Tịnh Xá Phật tích không xa, có một trụ đá lớn, cao hơn ba mươi thước có ghi lại đại luợc như sau:
- Lòng tin của Vua A Dục rất kiên cố, ba lần phát nguyện cúng dường Phật Pháp Tăng ở cõi Thiệm Bộ Châu nầy, và đã ba lần các đồ trân bảo tự động bay đến. Lời nói như thế vẫn còn tồn tại.
Phía bắc của cố cung có một phòng bằng đá lớn. Bên ngoài, đồi núi cao. Bên trong rộng rãi. Đây là nơi em của Vua A Dục xuất gia và bảo các thần xây dựng lên nơi nầy. Người nầy cùng mẹ với Vua A Dục tên là Ma Ê Nhân Đà La sanh từ dòng dõi quý tộc, được phong làm Vua, dân chúng xứ Xà Đa Tòng Bộ rất phẩn nộ, cho nên các lão thần trong nước thưa với Vua rằng:
- Kiêu đệ tác oai tác quái quá lắm rồi. Phàm để kỷ cương được tốt đẹp phải lấy Luật nước để trị. Khi dân chúng hòa bình thì Vua chúa mới yên ổn. Đây là nguyên tắc tự ngàn xưa được dạy dỗ đến ngày nay. Mong cho tục lệ của nước còn tồn tại thì phải giữ lấy quốc pháp.
Vua A Dục vì em mình khóc, nói rằng:
- Ta thừa tự công việc nầy mà làm việc cho sanh linh. Làm sao đồng bào há có thể quên được cái lòng chiếu cố của ta. Không có khuông phò phép nước đừng nên đạp đổ pháp luật. Trên ta xấu hổ với tiên linh, dưới thì mọi người bức bách.
Ma Ê Nhân Đa La cúi đầu tạ tội và nói rằng:
- Chẳng tự mình cẩn trọng làm cho trái hiến, dám lụy vào hiến, xin cho tái sanh trong vòng bảy ngày. Hãy cho vào trong phòng tối giữ gìn cẩn thận. Đem đồ ăn để bên trên để cung cấp.
Kẻ giữ phòng nói rằng:
- Đã qua một ngày rồi còn sáu ngày nữa, đến ngày thứ sáu rất lấy làm lo lắng. Thân tâm thay đổi chuẩn bị chứng quả. Bay lên hư không dùng thần lực tìm ra khỏi trần tục. Xa rời phòng ở. Vua Asoka đích thân đến nói rằng:
- Ngày xưa quốc lục của nước Câu rất nghiêm khắc. Há tự ý đi khỏi nơi đây để chứng Thánh Quả, xong rồi chẳng có hệ lụy nào trở lại nước sao?
Người em đáp:
- Xưa nay bị luới ái ràng buộc tâm nầy vào âm thanh, sắc đẹp. Bây giờ ra khỏi chỗ nguy hiểm có ý đi khỏi sơn cốc nầy. Nguyện bỏ nhân gian vào trong hang động.
Vua nói:
- Muốn tâm được thanh tịnh hà tất phải ở chỗ núi non! Ta vì ý chí của ngươi sẽ làm cây đại thọ.
Rồi ra lịnh chư thần rằng:
- Ngày hôm sau ta chuẩn bị những đồ trân quý, ngươi cũng nên đến đó cùng ta.
Mỗi người mang theo một tảng đá lớn để tự làm chỗ ngồi cho mình. Các quan quân vâng mệnh đến vào nơi hội họp xong, vua bảo các quan rằng:
- Hãy xếp những viên đá ngồi thành một cái phòng trống.
Trong vòng một ngày các quan làm xong. Vua A Dục thân chinh đến bảo em ở phòng ấy.
Phía bắc cố cung, có địa ngục, có một cái nồi đá, do Vua A Dục ra lệnh các vị thần tạo nên đồ đựng thức ăn cho Tăng.
Phía tây nam của cố cung, có một núi đá nhỏ. Trong núi, có hơn mười động đá, Vua A Dục đã vì các vị A La Hán mà ra lệnh các quan tạo ra. Bên cạnh đó có một đài cao, cũng được dựng bằng đá. Phía dưới mặt hồ yên lặng trong suốt, mà người của nước láng giềng đến đây nói rằng đây là nước Thánh, nếu mà uống được nước nầy tội sẽ được tiêu diệt.
Phía tây nam của núi có năm Bảo Tháp, chỉ còn nền móng xiêu vẹo, không biết cao bao nhiêu. Từ xa nhìn đến, thấy cao như núi và lớn cả hàng trăm bước. Người đời sau đã cho kiến thiết tu bổ lại trên đó những Bảo Tháp. Theo truyền ký của Ấn Độ nói rằng:
- Ngày xưa khi Vua A Dục xây dựng xong 84.000 Tháp rồi, có dư năm đấu Xá Lợi cho nên đặc biệt đã tôn trí vào trong năm Bảo Tháp nầy để chế ngự nơi đây. Rất linh hiển kỳ dị. Có khi ngũ phần pháp thân của Như Lai biểu hiện ở nơi đây. Người nhẹ lòng tin thì bàn tán rằng:
- Ngày xưa, Vua Nan Đà xây dựng Tháp ở nơi đây để chứa những trân bảo. Sau đó, vua chẳng có tín tâm sâu dày khi nghe lời dị nghị trước, bèn khởi tâm tham cùng với quân sư đến đây để khai quật lên, đất liền chấn động núi nghiêng mây che khuất mặt trời. Trong Bảo Tháp ấy có tiếng vang lên:
- Đồ sĩ tốt voi ngựa!
Nghe vậy, hoảng sợ bỏ chạy và nói rằng:
- Sự dị nghị tuy nhiều nhưng mà chưa có điều gì xác nhận được. Bây giờ trông thấy điều nầy mới tin là sự thật.
Phía đông nam của cổ thành có một ngôi chùa trong hang đá tên là Thát A Lam Ma, do vua A Dục kiến tạo nên. Đây là lúc Vua A Dục mới phát tín tâm đối với Phật Pháp, biết tôn trọng nên kiến thiết chùa để trồng thiện căn. Triệu tập cả ngàn vị Tăng hai chúng Thánh và Phàm và mang đồ tứ sự cúng dường chu cấp tất cả.
Thời gian qua đi nơi nầy hoang phế chỉ còn lại dấu tích. Bên chùa có một Bảo Tháp lớn, tên là A Ma Lạt Già. Đó cũng là tên thuốc của trái cây Ấn Độ nầy. Khi Vua A Dục bị bịnh biết rằng không còn sống bao lâu nữa, muốn xả bỏ những đồ trân quý, muốn trồng ruộng phước, quyền thần chấp chính khuyên răn mọi người chớ có ham muốn. Từ đó về sau, khi người ta ăn thì còn giữ lại trái A Ma Lặt. Cuộc vui nửa chừng như trái cây vừa bị bỏng lửa. Liền hỏi các thần rằng:
- Ai là chủ cõi Thiệm Bộ Châu nầy?
Chư quan đáp rằng:
- Chỉ có Đại Vương thôi.
Vua đáp:
- Chưa hẳn thế. Ta nay không còn là chủ nữa. Ta chỉ có nửa trái cây nầy là còn nguyên đúng không?
Giàu có trong thế gian nầy rất nguy hiểm cũng giống như là đèn trước gió. Tước vị càng lớn, danh càng cao, khi lâm chung cũng thiếu thốn thôi, thấy bị oai quyền đè bẹp. Thiên hạ cũng chẳng bằng nửa trái cây nầy, rồi ra lệnh cho các quan và nói rằng:
- Đem nửa trái cây nầy vào trong vuờn Gà cúng thí cho chúng Tăng. Hãy nói như thế nầy:
- Ngày xưa có một ông chủ ở Thiệm Bộ Châu, bây giờ là Vua của nửa trái A Ma Lặt. Cúi đầu trước đại chúng tăng nguyện thọ cho bữa thí tối hậu nầy. Phàm ai có những gì sở hữu đều bị hoại diệt. Duy chỉ có nửa trái cây nầy còn tồn tại. Hãy thương những kẻ nghèo khó. Hãy trồng những phước đức lâu dài. Lúc bấy giờ trong chúng có một bậc Thuợng Tọa nói như thế này:
- Đại Vương A Dục kiếp trước làm phước rất nhiều, bây giờ thân đã tật bịnh, gian thần nhiếp chánh, chứa của phi pháp mà cúng chỉ có nửa trái cây. Tuy nhiên họ thay vua đến cúng thí cho chúng Tăng.
Liền bảo ông Tri sự đổ nước vào nấu canh cho chúng rồi thâu hạt lại, bắt đầu xây Bảo Tháp. Với ân đức đó Vua được khỏe mạnh trở lại.
Phía bên tây bắc của Bảo Tháp A Ma Lặt Già có một chùa cổ, trong đó có một Bảo Tháp, thường nghe tiếng chuông. Nội chúng trong Già Lam, hơn 100 vị đều là những người đặc biệt học cao biết rộng đã bịt miệng được những kẻ ngọai đạo. Sau đó chúng tăng bị suy yếu. Nhưng mà những kẻ sau nầy chưa có ai kế tục giống như người đi trước được. Ngọai đạo lấy chuyện nầy để răn dạy. Các Ngọai đạo huấn luyện thành nghề nghiệp rồi phát thẻ triệu tập hàng ngày tăng lữ đến tại tăng phòng lớn tiếng bảo rằng:
- Phàm đánh kiền chùy để triệu tập người học lại, thì kẻ ngu kia xin dừng đi đừng đánh nữa. Rồi thưa với vua để xem ai thắng bại. Vì ngoại đạo là những kẻ cao tài thật học còn tăng đồ nói về những vấn đề luận nghị rất thô thiển và cạn cợt, cho nên ngoại đạo bảo rằng họ đã thắng và từ nay về sau, chư Tăng ở chùa không được đánh kiền chùy để vân tập chúng nữa.
Nhà Vua theo lời ước lệ như đã thảo luận đó. Tăng đồ nhận sự sỉ nhục rồi thối lui, suốt trong 12 năm trường không đánh một tiếng chuông nào cả.
Lúc bấy giờ ở miền nam Ấn Độ có Bồ Tát Na Già U Sách Thụ Na (Long Mãnh) Từ thưở ấu thời đã nổi tiếng nhưng cắt bỏ ái ân để xuất gia tu học, nghiên cứu Diệu Lý và chứng được sơ địa. Có người đệ tử tên là Đề Bà, trí huệ minh mẫn, việc gì cũng biết bạch với sư phụ rằng:
- Những vị ở tại thành Ba Thác Phấn đã chịu thua ngoại đạo không đánh kiền chùy. Ngày tháng như thế phải đến 12 năm. Bây giờ muốn phá tà thắp ánh đèn Chánh Pháp như núi cao cho mọi người thấy. Bồ Tát Long Mãnh đáp rằng:
- Ngoại đạo ở thành Ba Thác Phấn là những kẻ bác học. Ngươi không thể đi một mình mà ta cùng đi với.
Đề Bà thưa:
- Muốn phá cái đám cỏ mục kia, hà tất phải động đến núi. Con xin sự chỉ giáo và sám hối để đến điểm mặt bọn dị học kia. Thầy đã vững về giáo nghĩa của ngoại đạo rồi. Con sẽ tùy theo văn mạch bẻ gãy và giành ưu thế về sau nầy.
Long Mãnh rõ nghĩa bên ngoài, còn Đề Bà phá cái lý bên trong. Bảy ngày sau thì Long Mãnh thua và tự thán rằng, thật là sai lầm khi dùng lời nói dễ để phá tà nghĩa kia. Còn có thể làm điều đó và chắc chắn được.
Lúc bấy giờ Bồ Tát Đề Bà ở trên đài cao tiếng nói rằng:
- Hỡi những người ngoại đạo của thành Ba Thác Phấn hãy nghe đây, nên triệu tập lại rồi thưa với Vua rằng:
- Đã nghe ngài ra lệnh cho các Sa Môn không được đánh kiền chùy. Nguyện thừa mệnh lệnh ấy cho nên chư tăng lân cận chưa có thể vào thành, sợ rằng làm thế tức khinh xuất lời phán trước.
Vua nghe điều nầy rồi, và y như trước cho nên khi Đề Bà đến thì không được vô thành. Khi nghe lệnh đó bèn mặc y khác bằng cỏ, thay vì mặc tăng già lê và giả làm người bịnh mới vào bên trong. Lúc đến thành, ngài bỏ đồ cỏ, mặc y vào như cũ. Đến tại Già Lam nầy, muốn dừng lại nghỉ ngơi, người ta biết mình, không có chỗ ở, nên ở trên lầu chuông. Buổi sáng tinh sương đánh chuông lớn lên, chúng tăng xem ra thấy là một du khách Tỳ Kheo, chư Tăng trong Già Lam truyền nhau hưởng ứng. Vua nghe hỏi việc nầy chưa biết thế nào cho nên đến chùa gặp hỏi Đề Bà, Đề Bà đáp rằng:
- Phàm đánh kiền chùy là để tập trung chúng tăng, nếu như không dùng thì để làm gì?
Người hầu Vua đáp rằng:
- Trước đây Tăng chúng luận nghị bị thua cho nên không được đánh kiền chùy trong vòng 12 năm.
Đề Bà nói:
- Có việc ấy sao? Ta hôm nay đến đây muốn nghe Pháp Cổ.
Sứ của Vua nói rằng:
- Vị Sa Môn lạ thường kia, có muốn xấu hổ ở trước chân lý không?
Vua triệu tập các học nhân mà ra quyết định rằng:
- Nếu mà luận thua không chỉ mất tông môn mà còn phải tự sát để tạ lỗi.
Nhân đây mà ngoại đạo dương cờ trống lên và đàm đạo những điều khác nữa. Bồ Tát Đề Bà liền thăng tòa đàm luận. Nghe điều hỏi trước, giảng ý nghĩa sau để bẻ gãy, chưa từng bị bại. Quốc Vương và đại thần chưa có hoan hỷ lắm, nhưng phải kiến tạo nên linh địa nầy để nhớ đến cái đức ấy.
Phía bắc của Tháp đánh kiền chùy có một nền cũ, nơi ở của Bà La Môn Ngụy Biện. Tương truyền rằng phía bắc thành nầy có một Bà La Môn, sống một mình chẳng giao thiệp với thế nhân, là nơi nương tựa cầu phước của những con quỷ khác. Chúng thường đến hưởng ứng những khi nghị luận cao đàm. Chẳng ai có thể hơn được. Ngay cả những bậc học thức tài năng không ai địch nổi. Người dân mặc nhiên cung kính như một vị Thánh. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát tên là A Thấp Phược Lư Sa (Asavaghosa Mã Minh) biết khắp vạn vật, và thông suốt tam thừa. Một ngày nọ có người đến nói rằng:
- Ông Bà La Môn nầy tuy không có thầy, nhưng sự học xưa nay ông chua cúi đầu trước ai cả, tuy là ở chỗ vắng vẻ nhưng tên tuổi của ông cao chất ngất. Các loài quỷ thần nương tựa nơi ông. Theo ngài, người đó là người như thế nào? Khi lời ngụy biện của ông phát ra không ai có thể đối lại. Nghe lời ông nói không ai có thể tường thuật lại được.
- Để ta đến đó xem thử ông ta thi thố như thế nào!
Nói xong liền đi đến thảo lư mà nói rằng:
- Khâm nguỡng đức lớn mà ngày tháng trôi qua, hạnh phúc thay với ý chí độc cư đó mà một Bà La Môn an nhiên ở ẩn, chưa vén màn đối diện cùng ai.
Ngài Mã Minh tâm trí cao vời rất là tự phụ nói lời ấy xong, liền thối lui mà bảo với mọi người rằng:
- Ta biết kẻ đó rồi! Thôi! Ông ấy rõ ràng rồi.
Ngài tâu lên Vua rằng:
- Mong Vua hứa khả cho một cuộc tranh luận với vị cư sĩ kia.
Nghe như vậy, Vua sợ hãi nói rằng:
- Thầy là ai? Nếu thầy chưa chứng tam minh và đủ lục thông, làm sao có thể luận được với ông ta?
Vua ra lệnh đem xa giá thân chinh đến nơi biện luận. Lúc bấy giờ ngài Mã Minh luận Tam Tạng rõ từng lời. Tường thuật lại ý nghĩa lớn của Ngũ Minh, nói lên Diệu Lý ngang dọc cao thấp gần xa rõ ràng, bảo ông Bà La Môn thuật lại. Bồ Tát Mã Minh nói:
- Thua rồi, Ông đọc lại đi.
Lúc đó Bà La Môn ngậm miệng. Bồ Tát Mã Minh quát lên:
- Sao mà khó giải thích vậy? Sự việc rõ ràng như thế mà không lãnh thọ được. Bộ có bệnh gì mà che đậy kinh dị vậy?
Bà La Môn kinh hoàng đáp rằng:
- Hãy dừng, hãy dừng.
Mã Minh thối lui mà còn nói rằng:
- Ông kia hôm nay nghe cái hư danh nầy mất rồi, chẳng còn tiếng tăm gì nữa phải thế không?
Vua đáp rằng:
- Chẳng phải là kẻ có đức lớn, ai là người có thể biết được tà đạo. Biết được người có triết thuyết tuyệt vời như vậy, trước sau chưa có ai hơn được. Đất nước mà có những vị lịch lãm như vậy quả thật đáng quý thay.
Phía tây nam của thành có hơn 200 ngôi Già Lam, bên cạnh đó có Bảo Tháp, phát ra ánh sáng quang minh linh diệu. Mọi người ở xa gần, không ai không đến cầu nguyện. Nơi đây cũng là nơi di tích về việc kinh hành tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ.
Phía tây nam của ngôi Già lam cũ đi hơn trăm dặm, đến Già Lam Thi La Thích Ca Già. Trong vuờn chùa có bốn chùa khác, mỗi chùa có ba tầng. Trên những tầng cao cửa thường mở, do cháu của Vua Tần Bà Sa La kiến tạo. Nơi đây đã tập hợp những bậc cao tăng thạc đức. Ở nơi thành khác, có rất nhiều người có học và thông minh đến từ nơi xa khác. Những người cùng chí hướng cùng sánh vai dừng lại nơi đây. Có hơn một ngàn Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa. Ở ngay cửa giữa có xây ngôi tháp, bên trên có hình bánh xe Pháp Luân bằng đồng, phía dưới được điêu khắc rất đẹp. Trên trần và đòn dông đều chạm trỗ. Tất cả đều làm bằng đồng hoặc bằng vàng bao bọc những cây cột đều trang nghiêm. Giữa tháp thờ tượng Phật đứng cao ba thước. Phía bên trái có tượng Bồ Tát Đa La. Phía bên phải có thờ tượng Quán Tự Tại Bồ Tát. Cả ba tượng nầy tạc bằng đá quý rất uy linh mầu nhiệm, xa gần đều biết. Trong mỗi tháp như vậy có thờ một đấu Xá Lợi, ánh sáng linh diệu chiếu tỏa khắp gian phòng.
Phía tây nam của Già Lam Thi La Ca Già, hơn 90 dặm, thì đến một ngọn núi cao. Đây là nơi u tịch linh thiêng. Có nhiều rắn độc và hang rồng quy tụ. Mãnh thú, chim lạ cũng đều ở trong rừng nầy. Ở trên đỉnh núi có một tảng đá lớn, trên đó có xây dựng Bảo Tháp cao hơn 10 thước là nơi Phật nhập định.
Ngày xưa đức Như Lai đã giáng thần xuống nơi nầy. Ngài ngồi nơi tảng đá nhập vào Diệt Tận Định. Khi xả định, chư Thiên và chư Thần đem thiên nhạc và hoa đến cúng dường đức Như Lai. Lúc Như Lai xuất định chư Thiên rất cảm mộ và dùng vàng bạc xây Bảo Tháp nầy. Khi chư Thánh rời khỏi thì Bảo Vật biến thành hòn đá. Từ xưa đến nay chưa có ai đến đây. Người ta nguớc nhìn lên núi cao, thấy có nhiều loại ánh sáng khác biệt, cũng như rắn lớn và mãnh thú quay quanh tảng đá nầy. Chư Thiên, chư Tiên và chư Thần cũng thường đến lễ bái.
Phía đông của núi, có một Bảo Tháp, nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã dừng lại để trông về nước Ma Kiệt Đà. Phía tây bắc của núi đi hơn 30 dặm. Lại có một Già Lam được kiến tạo trên đảnh núi.Có hơn 50 vị Tăng sĩ tu theo Đại Thừa giáo. Đây là nơi mà Bồ Tát Cù Na Mạc Đệ (Đức Huệ) hàng phục ngoại đạo.
Đầu tiên ở trong núi nầy có một người ngoại đạo tên là Ma Đát Bà, tổ của Học Pháp Ngoại đaọ Tăng Khư (Samkhya). Ông ta học thông cả nội và ngoại điển, được xem là một bậc tài đức đương thời, tiếng tăm chẳng ai bằng. Quân vương quý trọng giống như là quốc bảo, thần dân kính nguỡng như một bậc gia sư, các nước láng giềng xa gần đều cung kính đức độ của ngài. Do đó ngài trở thành người thông thái. Trong ấp đó xây thành hai làng. Lúc bấy giờ ở Nam Ấn Độ có Bồ Tát Đức Huệ, từ nhỏ là người mẫn tiệp, sớm thông lãm tinh tuờng, học thông Tam Tạng, lý giải thâm sâu Tứ Đế. Khi nghe Ma Đạp Bà Luận thật thâm huyền và muốn đến tham cứu. Liền cho người mang thư đến rằng:
- Kính vấn an ngài Ma Đạp Bà được an lạc. Ngài quên đi sự lao nhọc mà tinh cần tu tập học thuật người xưa. Ba năm như thế nghe được tiếng tăm của ngài. Cả năm thứ hai và năm thứ ba, mỗi năm đều có người báo cho biết như vậy.
Trong thư lại viết thêm rằng:
- Năm nầy học nghiệp tối cao là như thế nào, tôi có thể đến được không xin cho biết?
Ông Ma Đạt Bà cảm thấy lo lắng, bèn bảo các môn nhân trong thành ấp rằng. Từ nay về sau không được cho Sa Môn của đạo khác ở. Hãy theo tuyên cáo nầy đừng có vi phạm. Lúc bấy giờ ngài Đức Huệ Bồ Tát chống tích trượng đến. Người trong ấp theo lời dạy, không cho ở, và những người Bà La Môn nói rằng:
- Người cạo tóc và ăn mặc cái gì mà khác người thế! Nói xong đi nơi khác, đừng ở lại nơi nầy.
Bồ Tát Đức Huệ muốn cùng với Bồ Tát ở lại nơi ấp ấy, bởi thế cho nên lấy tâm từ bi để từ tạ và nói:
Vì cuộc đời mà ta tu hành tịnh hạnh, vì ý nghĩa cao cả mà ta tu tịnh hạnh. Tịnh hạnh không phải là việc thấy biết được. Khi Bà La Môn nghe như vậy mới đuổi ra khỏi làng. Ngài đi vào trong rừng sâu, mà nơi đó có mãnh thú rất hung bạo. Lại có một người tịnh tín sợ mãnh thú hại ngài, đưa cây đèn cho ngài và thưa với Bồ Tát rằng:
- Nam Ấn Độ có Bồ Tát Đức Huệ, nghe nói muốn đến đây để luận nghị, cho nên người chủ của làng nầy sợ hãi mà nghiêm cấm không cho phép Sa Môn ấy dừng ở đây. Lại cũng sợ thú dữ, cho nên đi đến thảo lư kia để được an ổn.
Đức Huệ nói:
- Thật là khổ công cho ngươi quá. Ta là Đức Huệ đây
Khi Thiện Tín nghe rồi, thân tâm cung kính thưa với Đức Huệ rằng:
- Như vậy, ngài nên đi xa chỗ đây đi.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:01:17 GMT -5
Sau đó ngài rời khỏi rừng và dừng lại nơi một đồng trống. Người Tịnh Tín cầm đuốc đi theo hầu hai bên, rồi thưa với Đức Huệ rằng:
- Có thể đi được rồi đấy. Sợ người nghe tiếng nói đến làm hại được.
Đức Huệ cảm tạ không bao giờ quên đức đó, đi đến Vương cung nói với người gác cổng rằng:
- Có một Bà La Môn từ xa đến, kính mong nhà vua hứa khả cho nghị luận cùng Ma Đạt Bà
Vua nghe xong kinh ngạc, tự hỏi người nầy là ai thế, dám to gan vậy. Liền ra lệnh cho người đến chỗ Ma Đặt Bà và tuyên thánh chỉ:
- Có một vị Sa Môn của đạo khác muốn đến đây để đàm luận. Ta ra thông báo cho gần xa biết ở nơi luận trường. Hãy đến nơi đó và nên tuân chỉ.
Ma Đặt Bà nghe lệnh của Sứ Vua liền nói: Há chẳng phải là luận sư Đức Huệ đến từ Nam Ấn sao?
- Đúng
Ma Đáp Bà nghe xong chẳng vui, nhưng sự việc khó từ chối, nên phải đến nơi luận trường. Quốc Vương, Bá quan, sĩ thứ trăm họ, đều tập trung muốn nghe sự đàm luận cao siêu nầy.
Đức Huệ đầu tiên, tuyên lập ý nghĩa của tông mình và trình bày tất cả diệu nghĩa. Ma Đạt Bà từ chối vì tuổi cao, huệ kém, nhờ ông Quy Tinh Tư phương Thù đến để vấn nạn. Nói xong rồi bỏ đi. Hôm sau lại lên tòa để đàm luận cũng chẳng có điều gì khác, cho đến ngày thứ sáu thổ huyết mà chết. Với việc ra đi nầy, người vợ nói rằng:
- Ngài là bậc cao tài, thật không có gì xấu hổ.
Ma Đáp Bà chết nhưng không phát tang, cứ để như thế mà đến luận nghị tiếp. Trong chúng có người nghi ngờ, mới nói:
- Ma Đáp Bà tự phụ tài cao rất hổ thẹn đối với Đức Huệ, cho nên người vợ đến phân bua tốt xấu. Đức Huệ Bồ Tát nói với y rằng:
- Ngươi nên tự chế phục mình, ta tự chế ta rồi.
Vợ của Ma Đáp Bà biết khó khăn nên thối lui, đoạn Vua hỏi:
- Với lời lẽ bí mật nào mà làm cho yên lặng như thế?
Đức Huệ thưa:
-Tiếc rằng khi Ma Đạp Bà chết rồi, vợ hắn đến muốn luận nghị.
Vua hỏi:
- Làm sao biết được nói cho ta rõ với.
Đức Huệ thưa:
- Vợ ông ta đến với sắc diện tang thương. Nghe lời nói đầy ai oán mà tôi biết vậy! Ma Đạp Bà đã chết, có thể cô ấy nên tự chế để lo cho chồng.
Lúc bấy giờ Vua cho người đi xem hư thật, thì đúng như vậy. Vua bèn cảm tạ rằng:
- Phật pháp huyền diệu linh thiêng vô kể. Đạo Vô Vi làm cho tất cả hàm linh được nhuận hoá. Nương vào quốc pháp mà tuyên dương cái đức nầy vậy.
Đức Huệ thưa:
- Chớ có ngu muội vì đạo mà tồn tại. Việc nghị luận sẽ mang đến sự hấp dẫn. Trước tiên là để chế ngự sự ngã mạn của ngoại đạo rồi nhiếp hóa là việc làm hợp thời. Mong rằng Đại Vương hãy cho tất cả con cháu ngàn đời ở trong thành của Ma Đạp Bà, sung vào người phụ việc cho chùa, được như thế cho đến đời sau lưu lại điều tốt đẹp vô cùng. Những người tịnh tín khuông phò kia, nhờ vào phước đức mà có ăn, giống như chư tăng vậy, nên siêng năng tinh tấn để có được cái đức dày. Từ đó kiến tạo Già Lam nầy trở thành một thánh tích.
Sau khi Ma Đạp Bà nghị luận thưa, có khoảng mười Tịnh Hạnh nhơn bỏ sang nước lân cận, thông báo cho các ngoại đạo về việc sỉ nhục nầy chiêu mộ anh tài, vào trong núi tuyết nhớ lại việc tranh luận trước. Vua bây giờ trân kính Đức Huệ cho nên cùng nhau đến thưa rằng:
- Bây giờ các ngoại đạo không tự luợng sức mình nên đã liên kết lại cùng luận nghị. Mong rằng Đại Sư có thể luận nghị với ngoại đạo chăng?
Đức Huệ tiếp:
- Cùng nghị luận, những người ngoại đạo học nhân, họ đã an ủi với nhau, còn ta chắc rằng hôm nay sẽ là ngày tất thắng. Lúc bấy giờ ngoại đạo dương cao nghĩa lý và Bồ Tát Đức Huệ nói:
- Ngoại đạo các ngươi khó mà đào thoát đi xa được. Như điều lệ trước Vua đặt ra, các ngươi là bọn giặc. Ta như thế nầy mà cùng các ngươi luận nghị sao!
Đức Huệ ngồi yên để nghe những luận nghị bàn tán nhỏ to, chờ cho họ đứng lên rồi và nghe có nhiều tiếng nói lớn, Đức Huệ vẫn ngồi đó và nói rằng:
- Cái giường đây, các anh có thể luận được không?
Ngoại đạo ngơ ngác không hiểu khi nghe mệnh lệnh nầy, bèn dựng đứng chỗ ngồi lên nhưng không được. Mọi người hô to đồng làm nhưng cả ba lần đều thất bại. Chỗ ngồi kia càng nặng thêm. Từ sự hàng phục nầy mà nơi đây đã dựng làm ngôi Già Lam
Từ phía tây nam của Già Lam Đức Huệ đi đến Cô Sơn. Lại có một Già Lam, Ngài Thi La Phạt Đa La (Silabhadra) luận sư đã thắng trong một cuộc tranh luận tại nơi đây và xây dựng thành một ngôi tháp và an trí Xá Lợi Phật. Luận sư là người Vương tộc nước Tam Ma Đản Tháp, thuộc dòng dõi Bà Là Môn. Lúc nhỏ ham học và có phong cách, hay đi khắp Ấn Độ để tìm cầu Minh Triết. Đến nước nầy thuộc chùa Na Lan Đà, gặp ngài Hộ Pháp Bồ Tát. Nghe Pháp tín ngộ rồi mong muốn mặc áo hoại sắc, để nghiên cứu tầm cầu cho thấu đáo, hay hỏi về con đường giải thoát, cho đến rõ lý mới thôi. Tiếng tăm lúc bấy giờ lan xa ra nhiều nơi.
Lúc bấy giờ ở nam Ấn có một ngoại đạo rất giỏi nghe tiếng tăm của ngài Hộ Pháp liền khởi lên ngã mạn khinh thường, chẳng ngại núi sông cách trở, đến đánh trống để tranh luận, nói rằng:
- Tôi là người Nam Ấn, là một đại luận sư trong nước đó. Tôi tuy chưa hài lòng và muốn rõ ràng ý nghĩa, rồi Vua nói:
- Có như vậy sao thật sự mốn phải biết ý nghĩa thật sự sao?
Rồi ra lệnh Sứ Thần thỉnh ngài Hộ Pháp rằng:
- Có một ngoại đạo từ Nam Ấn xa xôi đi hơn ngàn dặm đến cầu tranh luận. Muốn Ngài đến đạo tràng để cùng tranh luận.
Khi ngài Hộ Pháp nghe xong liền mang y áo đến cùng môn nhân là ngài Giới Hiền cùng đi theo. Kẻ đến trước bảo rằng:
- Đi đâu mà vội vàng vậy?
Ngài Hộ Pháp đáp:
- Kể từ khi mặt trời trí huệ lặn xuống, ánh sáng được truyền qua những ngọn đèn tịch chiếu. Những ngoại đạo hợp lại với nhau như kiến, với những học Thuyết khác tỏa ra như ong đi hút mật. Hôm nay, ta cùng với họ tranh luận.
Ngài Giới Hiền thưa:
- Bạch Ngài, con có nghe luận của ngoại đạo rõ ràng rồi.
Ngài Hộ Pháp biết vậy rất vui mừng. Lúc bấy giờ ngài Giới Hiền tuổi khoảng 30. Ở trong chúng thường bị chê là nhỏ, sợ khó mà đảm nhận một mình được. Ngài Hộ Pháp biết được tâm của chúng nên tâm rất bất bình, liền giải thích rằng:
- Là bậc cao minh đâu có cần tuổi tác. Nay ta quán thấy có thể chắc chắn phá được kẻ kia. Đến ngày tập trung để nghị luận, xa gần đều náo nức, ngoại đạo thì tự nghi rằng mình sẽ thấu triệt hết lẽ u huyền. Nhưng trong khi đó Giới Hiền nương chân lý chân thật, biết được cực sâu của lẽ u huyền. Do đó ngoại đạo cuối cùng đã xấu hổ mà thối lui.
Nhà Vua muốn báo đức nầy nên phong ấp nhưng luận sư từ chối nói:
- Kẻ đắp y hoại sắc luôn luôn tri túc, sống thanh bần thủ đạo, cần thành ấp làm gì?
Nhà Vua đáp:
- Ngày xưa đấng Pháp Vương dong thuyền đó đây, không riêng biệt cho ai, và cho người đời sau nào hết. Nay, vì hoằng dương Chánh Pháp xin ngài hứa khả nạp thọ.
Thế rồi luận sư chẳng từ chối được cho nên thọ nhận ấp nầy tạo thành Già Lam cùng các quy cũ. Sau đó ngài cúng dường lại và ra đi.
Phía tây nam chùa của ngài Giới Hiền đi hơn 45 dặm qua sông Ni Liên Thiền, đến thành Dà Gia (Gaya) nơi nầy rất hiểm yếu cho nên ít người ở, chỉ có độ hơn 1000 người Bà La Môn. Có đại tiên nhơn nối dõi ở đây. Vua cùng đại thần đều tôn kính. Ở phía bắc cách 30 dặm có một hồ nước trong, mà người Ấn Độ tương truyền rằng là hồ nước Thánh, nếu uống vào tội cấu sẽ tiêu trừ. Phía tây nam của thành hơn 5.6 dặm đến núi Gaya. Nơi đó có động đá rất nguy hiểm. Người Ấn Độ gọi là núi linh thiêng. Từ xưa đến nay, Vua chúa cũng đều nhận như thế. Người ở xa đến đây tắm gội thì nhuần được ân đức của đời trước chưa nói gì đến việc thành công. Trên đỉnh núi có một bảo tháp cao hơn trăm thước do Vua A Dục dựng nên. Nhiều khi phát ra ánh sáng rất linh thiêng, chuyện xưa kể rằng:
- Đức Như Lai khi diễn thuyết kinh nơi đây có mây lành bao phủ.
Phía đông nam núi Gaya có một Bảo Tháp. Đây là làng của Ngài Ca Diếp Ba sanh ra. Phía Nam lại có hai Bảo Tháp. Đây là nơi hỏa thiêu ngài Dà Gia Ca Diếp Ba, và Na Đề Ca Diếp Ba. Từ phía đông nơi hỏa thiêu của ngài Dà Gia Ca Diếp Ba, qua con sông lớn đến Bát La Hấp Bồ Đề Sơn (Chánh Giác Sơn). Nơi đây Như Lai tu sáu năm khổ hạnh mà chưa thành Chánh Giác, và sau khi xả khổ hạnh rồi liền thọ bát cháo sữa. Tự đi về hướng đông bắc để đến núi nầy và mong được chứng thành Chánh Giác. Từ phía đồi đông bắc lên đến đảnh, đất tự nhiên rúng động nghiêng ngữa. Sơn thần kinh hoảng mới thưa với Bồ Tát rằng:
- Núi nầy không phải là nơi thành Chánh Giác, chẳng phải là phước địa, nên dừng việc nhập kim cang định nơi đây.
Đất hết rung chuyển và núi trở lại bình thường. Bồ Tát đi xuống phía tây nam đến lưng chừng núi, ngoảnh mặt thấy một hang đá lớn, ngài liền ngồi kiết già phu tọa. Đất đai liền chấn động một lần nữa núi lại nghiêng thêm. Lúc bấy giờ Tịnh Cư Thiên từ không trung xướng lên rằng:
- Đây không phải là nơi đức Như Lai thành Chánh Giác.
Từ phía tây nam đi hơn 14.5 dặm ruỡi cách nơi Khổ hạnh chẳng xa, có một cây Tất Bát La dưới đó có Kim Cang Tòa, mà chư Phật trong ba đời từ quá khứ đến vị lai đều thành Chánh Giác ở đây, và nguyện sẽ được thành tựu.
Khi Bồ Tát đứng dậy ở trong không trung con rồng lên tiếng. Đây là nơi thù thắng có thể thành Chánh Quả ngưỡng mong đấng từ bi đừng bỏ qua. Bồ Tát liền biết rằng:
- Không thể chối bỏ nơi đây, vì vậy cho nên Rồng biết ý rồi lưu ảnh lại mà đi. chư Thiên dẫn đường đi trước đến cây Bồ Đề. Về sau Vua A Dục hưng thịnh lên nơi chứng Bồ Đề trên dưới vẫn còn dấu tích. Tất cả chung quanh cây ấy đều được xây dựng những Bảo Tháp mà qua đó vô số đặc thù linh ứng khó tả, như mưa hoa từ trên trời rơi xuống và hào quang chiếu sáng u nhàn. Mỗi năm nhân mùa an cư, nhiều nơi tăng tục đến đây tu phước cúng dường, lòng tin bất hoại.
- Phía trước núi Chánh Giác hướng tây nam đi hơn 14 dặm ruỡi, đến gốc cây Bồ Đề. Chung quanh nơi đây được bao bọc bởi gạch đá kiên cố, phía đông tây dài phía nam bắc hẹp. Chu vi hơn 500 bộ. Cây nầy soi bóng xuống hồ nước có hoa sen, nhiều cây cỏ hoa lá xanh tươi màu biếc. Cổng chánh phía đông đối diện với sông Ni Liên Thiền, cổng phía nam nối tiếp với hồ lớn đầy hoa. Phía tây thì nguy hiểm. Phía bắc thông qua đại Già Lam. Trong vuờn đất đai rất rộng. Bên cạnh Thánh tích hoặc có Bảo Tháp hoặc làm tịnh xá do các Vua và đại thần ở các nước tại Thiệm Bộ Châu thừa sự Di Giáo của đức Phật mà kiến tạo để kỷ niệm. Ngay dưới gốc cây Bồ Đề là Kim Cang Tòa mà ngày xưa lúc hiền kiếp, đất nơi đây từ phía dưới tự nhiên nổi lên như vậy. Trong tam thiên đại thiên thế giới, phía dưới cùng là bánh xe vàng, phía trên cùng là phủ bằng đất để trở thành Kim Cang, chu vi hơn 100 bước. Trong hiền kiếp có một ngàn vị Phật đã ngồi nơi đây mà nhập Kim Cang định cho nên gọi là Kim Cang Tòa, để chứng thánh quả. Lại có tên là đạo tràng. Khi đại địa chấn động, không bao giờ lay chuyển. Cho nên Như Lai thành Chánh Giác. Đất bốn phía nầy có giao động nhưng sau khi đến rồi trở nên an tịnh không giao động nữa. Đến thời Mạt Pháp cuối cùng, Chánh Pháp không còn gì nữa, nơi nầy sẽ bị đất cát phủ lên không thấy được nữa. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, Vua chúa các nước cùng đến nghe Phật Pháp tại Kim Cang Tòa rất nhiều. Có hai tượng toàn thân của đức Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi ở phía Tây Bắc, mặt xây về hướng đông. Nghe các bậc kỳ cựu nói rằng:
- Tượng Bồ Tát nầy mà chìm hết thì Phật Pháp sẽ diệt tận, và bây giờ đã thấy tượng Bồ Tát ở đó đã chìm đến ngực rồi.
Trên Kim Cang tòa là gốc cây Bồ Đề, tức là cây Tất Bát La. Khi Phật còn tại thế cao hơn trăm thước, trải qua nhiều lần bị đốn chặt chỉ còn 45 thước. Phật ngồi dưới cây nầy thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác cho nên gọi đây là cây Bồ Đề.
Gốc cây màu vàng, cành màu trắng, lá màu xanh. Mùa đông cũng như mùa hạ, màu sắc ấy không thay đổi. Mỗi năm đến ngày Như Lai nhập Niết Bàn, tất cả lá đều rụng hết, rồi được mọc trở lại. Ngày đó là ngày mà Vua các nước cũng như Tăng Tục số đến hàng vạn người, chả mời thỉnh mà ai cũng về. Dùng nước hoa, nước hương, sữa để gội rửa rồi phụng tấu âm nhạc cùng cúng dường hương hoa đèn nến luôn ngày không dứt.
Sau khi đức Như Lai tịch diệt và lúc Vua A Dục (Asoka) mới lên ngôi đầu tiên theo tà đạo hủy báng Phật tích, khởi binh và thân chinh đến triệt hạ và chặt bỏ gốc cành lá thành từng khúc, rồi đem qua phía tây cách đó 10 bước chất đống lên, rồi ra lệnh Bà La Môn đốt lửa tế trời. Nhưng khói bay chưa hết bỗng nhiên sanh ra hai gốc khác, kỳ lạ trong ánh lửa mạnh đó lá vẫn còn xanh. Nhân việc nầy gọi là than của cây Bồ Đề. Vua A Dục thấy điều linh dị như thế liền hối quá, mang hương hoa và sữa để tuới vào gốc, liền sau đó tự nhiên gốc cây trở lại như cũ. Vua thấy điều linh dị như vậy càng thêm vui mừng, đích thân tu phước cúng dường và khi ra về rất vui vẻ. Vương phi là người tin theo ngoại đạo mật cho người đến lúc đêm tối chặt cây Bồ Đề một lần nữa. Nơi mà Vua A Dục thường hay kính lễ. Thấy như vậy, Vua vô cùng sầu não nên đến thành tâm kỳ nguyện hương hoa sữa nước tuới tẫm, qua một ngày cây mọc lại như cũ. Vua thâm kính lạ thường rồi cho lấy đá xây chung quanh cao hơn 10 thước mà bây giờ vẫn còn nhìn thấy đó.
Gần đó có một ông Vương Giả Thường Già tin theo ngoại đạo, phỉ báng Phật Pháp và phá hoại Già Lam, chặt cây Bồ Đề, đào thành suối cho nước chảy đến tận gốc rễ, rồi lấy lửa đốt, lấy nước mía đổ xuống muốn cho tiêu tiệt vết tích đi. Mấy tháng sau, làm vua nước Ma Kiệt Đà tức là Bổ Sách Noa Phạt Ma. Cháu của Vua A Dục nghe vậy than rằng:
- Ánh sáng trí huệ mất rồi, chỉ còn có gốc cây dấu tích nơi Phật, mà nay cũng mất, làm sao người đời sau có thể thấy được.
Liền cúi sát đất khóc thương thảm thiết, lấy sữa của ngàn con bò, đem đến tuới lên, chỉ trong một đêm thôi cây mọc trở lại cao hơn một trượng. Sợ sau nầy bị chặt phá nữa, cho nên cho xây đá chung quanh cao hai thước bốn tấc. Bây giờ cây Bồ Đề được yên ổn bao bọc bởi bức tường đá bên ngoài hơn một trượng.
Phía đông cây Bồ Đề, có tinh xá cao 167 thước. Nền tảng rộng hơn 20 bộ, là loại đá xanh tẫm màu than. Bên trên tinh xá có tượng bằng vàng, bốn bức tường đều có tạo những hình lạ. Hoặc hình hoa sen, hình chư Thiên. Trên đó có những trái xoài bằng đồng. Phía đông giáp với những nhà cao xây cất cả ba tầng. Đòn dông của những nhà nầy nằm san sát bên nhau được điêu khắc chạm trỗ bằng vàng bạc ngọc ngà bao chung quanh. Bên trong phòng ốc cũng có ba tầng. Phía ngòai cửa tả hữu mỗi nơi đều có phòng riêng. Phía bên tả thờ tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát. Phía bên hữu thờ tượng đức Từ Thị Bồ Tát làm bằng bạc trắng cao hơn 10 trượng. Nơi tinh xá cũ nầy, Vua A Dục đã kiến tạo một tịnh xá nhỏ và sau đó có Bà La Môn xây rộng thêm.
Đầu tiên, vị Bà La Môn nầy không tin Phật Pháp mà tin theo Đại Tự Tại Thiên hay nghe theo những thiên thần trong núi Tuyết và cùng người em đến đây cầu nguyện.
Chư Thiên nói:
- Phàm các nguyện cầu được phước quả. Điều được chẳng phải của anh, cũng chẳng phải tôi làm được điều đó.
Bà La Môn hỏi rằng:
- Tu phước gì có thể toại tâm toại ý? Vị trời đáp:
- Muốn trồng giống lành, cầu phước điền tốt, nơi gốc cây Bồ Đề có thể thành Phật quả.
Sau khi nghe xong liền trở lại cây Bồ Đề kiến lập đại tinh xá và tạo nên hồ nước lớn để cúng dường mong rằng uớc nguyện sẽ thành tựu.
Bà La Môn ấy theo lời dạy của chư Thiên nên phát đại tín tâm hồi đầu, người anh xây dựng tinh xá, người em đào ao cho có nước, và rộng tu cúng dường cần cầu tâm nguyện để mai sau được hưởng quả làm Vua, Đại Thần. thường được nhân duyên vào trong nơi nầy. Sau khi tinh xá hoàn thành liền chiêu mộ công nhân muốn làm tượng của Như Lai lúc thành Phật. Qua năm tháng chẳng có người nào có thể đáp ứng. Lâu sau, có Bà La Môn đến và bảo họ rằng:
Chính ta đây có thể họa vẽ hình tượng Diệu tướng của Như Lai. Hai người bảo:
- Nay muốn tạo tượng thì nhan sắc phải như thế nào?
Đáp rằng:
- Màu của khói hương. Nên để trong tinh xá một ngọn đèn thôi. Tôi sẽ vào đây, đóng cửa lại, sáu tháng sau mới mở ra.
Lúc bấy giờ tăng chúng cứ như thế mà làm. Còn bốn ngày nữa đủ sáu tháng, tăng chúng liền mở xem thử, thấy trong tinh xá tượng Phật ngồi nghiễm nhiên kiết già phu tọa chân phải để lên trên, tay trái để lên trên tay mặt, mặt xây về hướng đông, hình dáng tự tại, ngồi cao bốn thước hai tấc, ngang hai thước năm tấc. Bệ thờ cao một thước năm tấc. Hai bên hông tám thước tám tấc. Hai vai sáu thước hai tấc, tướng hảo cụ túc, hình dáng từ bi thật đẹp. Tuy phía trên ngực bên phải chưa làm xong, mà đã thấy người vào cho nên thần biến mất. Chúng tăng buồn khổ than trách và bảo cho mọi người biết. Lại có một vị Sa Môn tâm tánh thuần hậu, nằm mộng thấy một Bà La Môn đến bảo rằng:
- Ta chính là Từ Thị Bồ Tát, sợ công nhân không thể đo luờng được dung nhan của bậc Thánh, cho nên chính ta đã đến để vẽ và làm tượng Phật, tay bên phải giống như đức Như Lai hàng phục ma binh khí ma chúng quây chung quanh, có một vị hiện ra giúp Phật hàng ma. Như Lai bảo rằng:
- Ngươi đừng sợ hãi. Ta dùng nhẫn lực mà hàng phục cho xong.
Ma Vương đáp:
- Ai là người có thể chứng được?
Như Lai liền chỉ tay xuống đất mà nói rằng:
- Sẽ chứng ở đây.
Lúc bấy giờ vị địa thần thứ hai từ dưới đất liền chứng. Cho nên tượng bây giờ tay thả xuống như ngày xưa. Chúng tăng biết sự linh nghiệm đó nên hết buồn tiếc. Liền sơn lên phía bên trên chỗ chưa xong những đồ quý báu và trang trí những anh lạc quý giá trân bảo.
Sau khi Vua Thiết Thường Ca chặt cây Bồ Đề rồi, liền muốn phá hoại tượng Phật nầy, nhưng khi thấy từ dung, tâm chẳng an, nên hồi giá trở về và ra lệnh đại thần rằng:
- Đập tượng Phật đi chỉ để lại tượng Đại Tự Tại Thiên.
Quan quân y lời và than rằng:
- Phá hủy Phật thì đời kiếp sẽ chẳng an, mà sai trái Vương mệnh thì mạng sống không còn mà gia tộc cũng bị diệt.
Tiến lui đều khổ không biết làm sao! Đem lòng tín tâm mà tự sát. Bỗng nhiên trước tượng gạch ngói đổ xuống, thấy ánh đèn phía trước bay về cõi Tự Tại Thiên. Vua nghe như vậy lòng rất lo sợ sai người đến xem thử, thấy tượng vẫn không hề gì. Các thần sau khi phá trở lại, đập bức tượng nầy. Lúc ấy trải qua nhiều ngày ánh đèn vẫn không tắt. Tượng vẫn còn tự tại. Thần sắc vô cùng. Ở bên trong căn phòng ngọn đèn vẫn cháy liên tục. Muốn thấy từ nhan nhưng chưa rõ được. Vào một buổi sáng mang một tấm kính lớn để chiếu lại thì thấy linh dị vô cùng. Phàm kẻ nào thấy được tự tăng lòng cảm thương. Như Lai đã thành Chánh Giác theo lịch Ấn Độ vào nửa đêm ngày mồng tám tháng Phệ Xá Khư, nhằm ngày mồng tám tháng ba bây giờ. Trong khi đó theo Thuợng Tọa Bộ nói rằng Như Lai thành Chánh Đẳng Chánh Giác vào nửa đêm ngày 15 tháng Phệ Xá Khư tức là ngày 15 tháng 3. Lúc ấy Như Lai 30 tuổi, hoặc có nơi nói Như Lai 35 tuổi.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:05:06 GMT -5
Phía bắc nơi cây Bồ Đề là nơi kinh hành của đức Phật. Sau khi Như Lai thành Chánh Giác, Ngài không rời khỏi tòa ngồi, có bảy ngày nhập định. Sau đó đứng lên và đi về phía bắc của cây Bồ Đề, rồi bảy ngày sau nữa đi qua lại hướng đông và hướng tây. Đi hơn mười bước có bông hoa quý hiện lên dưới chân ngài. Người đời sau nhân đây mà khắc thành dấu tích, cao hơn ba thước. Tương truyền rằng Thánh tích nầy là nơi tu hành đoản kỳ của con người, đầu tiên thành tâm phát lời nguyện sau đó sẽ được độ, tùy theo sự tu học dài ngắn và sự thành tâm sẽ được tăng giảm. Đường đi phía bắc nơi kinh hành có một tảng đá lớn, trên đó có một tịnh xá, trong đó có tượng Phật mắt ngước lên. Ngày xưa, đức Như Lai ở nơi nầy bảy ngày để hướng về cây Bồ Đề mắt đăm chiêu không nháy vì để cảm ơn cây Bồ Đề cho nên ở đây gọi là nơi chiêm vọng. Phía tây cây Bồ đề không xa, trong đại tinh xá có một tượng bằng ngọc sáng, trang sức rất là tân kỳ. Ngồi xây mặt về hướng đông. Phía trước có một tảng đá xanh có chạm nhiều chữ lạ. Đây là nơi đức Như Lai sau khi thành Chánh Giác, Phạm vương tạo nhà Thất Bảo, Đế Thích xây chỗ ngồi Thất Bảo và Phật đã ở nơi đó bảy ngày để tư duy. Ngài phóng quang minh chiếu xuống cây Bồ Đề. Các vị Thánh ra đi, lưu lại dấu tích trên đá.
Phía nam cây Bồ Đề chẳng xa mấy lại có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, do Vua A Dục dựng nên. Sau khi tắm dưới sông Ni Liên, Bồ Tát đi đến cây Bồ Đề, phải tự mình suy nghĩ lấy gì để làm chỗ ngồi và tự nghĩ ra phải lấy cỏ Cát Tuờng (Kusa). Thiên Đế Thích hóa thân làm người cắt cỏ mang đi trên đường. Bồ Tát hỏi:
- Ta có thể dùng cỏ ngươi đang mang đó chăng?
Người biến hóa đó nghe như vậy phát tâm cung kính dâng cỏ cho Bồ Tát. Nhận xong, Bồ Tát đi đến phía trước.
Phía đông bắc chỗ nhận cỏ không xa mấy có một Bảo Tháp. Đây là nơi Bồ Tát sẽ chứng Phật quả. Những con công xanh và con nai quây quần quanh đây. Ấn Độ là nơi có nhiều linh ứng, cho nên trời Tịnh Cư tùy thuận thế gian nầy để hóa hiện ra những loài bay nhảy linh hiển như thế.
Con đường phía đông nơi cây Bồ Đề hai bên đều có Bảo Tháp. Đây là nơi Ma Vương quấy nhiễu Bồ Tát. Khi Bồ Tát sắp chứng Phật quả, Ma Vương khuyên nên trở thành Luân Vương. Đề nghị ấy được nêu lên nhưng không được thực hành, mà còn làm nguợc lại. Ma Vương biến thành người nữ để dụ dỗ Bồ Tát. Oai thần của Bồ Tát linh động biến hiện để trừng trị sắc đẹp kia. Khi dụ dỗ không được liền bỏ mà đi.
Phía tây bắc cây Bồ Đề có một Tịnh Xá, trong Tịnh Xá ấy có thờ tượng Phật Ca Diếp. Tượng nầy thường hay phóng hào quang và người xưa nói rằng nếu có ai chí thành đảnh lễ và đi nhiễu bảy tuần, thì tại nơi đây sẽ được túc mạng trí.
Phía tây bắc của Tinh Xá Ca Diếp có hai phòng bằng gạch nung. Mỗi nơi đều có tượng địa thần. Ngày xưa, nơi đây đức Như Lai sắp thành Chánh Giác, một vị báo Ma Vương đến, một vị cảm niệm ân đức của Phật thành đạo mà vẽ đồ hình.
Phía tây cây Bồ Đề chẳng xa mấy có một Bảo Tháp, đây là nơi có cây Nghệ (Uất Kim Hương). Tháp cao hơn 40 thước, do những thương nhân của người nước Tào Cự Thác lập nên. Tích xưa kể lại rằng: Có một đại thương chủ người nước Tào Cự Thác, có việc muốn tìm đến Thiên Thần để cầu phước lợi, khinh miệt Phật Pháp chẳng tin Nhân Quả. Sau đó, việc buôn bán với những người bạn không được gì hết. Lúc ấy, thuyền gặp gió lớn, trôi dạt trên biển Nam Hải. Gió trôi đánh bạt cả ba năm như thế, đồ ăn thức uống không còn một thứ gì. Những người cùng thuyền sớm tối không biết làm sao. Họ hiệp lực ra sức chí thành hướng về chư Thiên, khổ công khó nhọc nhưng chưa được việc gì, họ thấy được một đỉnh núi cao và hai ngày sau thấy được ánh sáng huyền diệu. Lúc bấy giờ thương nhân mới an ủi với nhau rằng:
- Chúng ta có phước cho nên mới thấy được núi nầy. Nếu ở lại đó được thì chắc là an lạc.
Thương chủ nói:
- Chắc không phải núi đâu mà là con cá Ma Kiệt đó. Không thấy đỉnh cao chót vót sao?
Hai ngày sau lại thấy ánh sáng chiếu rọi tiếp. Đang bàn cãi và nói chuyện chưa xong gió lại thổi. Thương chủ vì các thương nhân mà bạch rằng:
- Con nghe đức Quán Tự Tại Bồ Tát thường cứu giúp chúng sanh gặp nguy hiểm.
Bạch như thế xong, mỗi người thành tâm niệm danh hiệu ngài và chí thành. Hai ngày sau đỉnh núi kia biến mất. Họ thấy một Sa Môn uy nghi tịch tinh tay cầm tích trượng từ hư không mà đến giúp họ đến nước nầy. Do vậy tín tâm của họ kiên cố luôn luôn cầu phước chẳng thôi, rồi họ kiến thiết Bảo Tháp tu phước cúng dường và lấy màu Uất Kim Hương sơn chung quanh Tháp, rồi phát tín tâm cùng lòng tu học, mọi người đều đến lễ Thánh tích cùng quan sát cây Bồ Đề. Ai chưa phát được lời quy thuận, thì chờ đến ngày sám hối mà quy y. Những người thương nhân đồng đi đến và nói rằng:
- Núi sông là nơi lo lắng mà quê hương cố quốc lại xa vời, cho nên kiến lập Bảo Tháp nơi đây, nhưng khi tôi ở tại đây ai là người quét dọn chăm sóc. Nói xong liền đi nhiễu, đến nơi nầy thì gặp Bảo Tháp, sợ hãi với lý do nầy cho nên đến đây chiêm ngưỡng đảnh lễ và nơi quê hương cũng sẽ kiến tạo Bảo Tháp. Cho nên ngày nay ở Ấn Độ gọi là Tháp Uất Kim Hương.
Phía đông nam cây Bồ Đề nhằm nơi cây Ni Câu Luật, lại có một Bảo Tháp bên cạnh có Tịnh xá, bên trong có tạo một tượng Phật ngồi. Đây là nơi Như Lai ngày xưa mới chứng Phật Quả. Đại Phạm Thiên Vương khiến thỉnh ngài chuyển Diệu Pháp Luân. Chung quanh bốn bên cây Bồ Đề đều có những Bảo Tháp lớn. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai nhận cỏ kiết tường rồi đi đến nơi cây Bồ Đề trải qua bốn lần đại địa chấn động mới đến Kim Cang Tòa, sau đó mới an tịnh. Bên trong thánh tích đẹp đẽ là Cây Bồ Đề biến đổi khổ tai ách nạn. Phía bên ngoài cây Bồ Đề hướng tây nam có một Bảo Tháp là nơi nhà cũ của hai nàng mục nữ dâng bát cháo sữa (Cháo Nhũ Mi). Ở phía Bảo Tháp nầy, một cô nấu cháo đoạn dâng cháo cho đức Như Lai và ngài thọ nhận.
Bên ngoài cửa phía Nam cây Bồ Đề có một hồ lớn, chu vi 700 bộ. Nơi đây rất nhiều cá và rồng. Hai anh em Bà La Môn theo y lệnh của Đại Tự Tại Thiên mà làm hồ nầy. Tiếp đó ở phía nam có một cái hồ nữa. Ngày xưa khi Như Lai mới thành Chánh Giác, ngài muốn tắm gội, Thiên Đế Thích hóa ra hồ ấy cho Phật. Phía Tây có một tảng đá lớn. Nơi đây đức Phật giặt y và muốn cho mau khô. Thiên Đế Thích từ trong núi Tuyết mang nắng đến. Phía bên Bảo Tháp, Như Lai nhận lại y nầy. Tiếp đến, trong rừng phía Nam có một Bảo Tháp, nơi đây Như Lai thọ nhận y áo của một Bà Lão nghèo. Đế Thích hóa ra một cái ao ở phía rừng, đó là cái hồ của Mục Chi Lân Đà Long Vương. Nước của hồ nầy xanh biếc vị trong ngọt. Phía tây của hồ nầy có một tinh xá nhỏ, bên trong có tạo một tượng Phật. Ngày xưa khi Như Lai mới thành Chánh Giác ở nơi đây nhập thiền định suốt bảy ngày. Lúc ấy Long Vương hầu hạ đức Như Lai rồi dùng thân mình quấn Phật bảy vòng, hóa thành nhiều đầu để làm cái lọng che Phật. Bên bờ hồ phía đông có một căn phòng và phía đông hồ Mục Chi Lân Đà Long Vương, ở giữa rừng có một tinh xá và trong tinh xá ấy có một tượng Phật. Đây là nơi kinh hành của Phật, chiều dài 70 bộ. Nam Bắc mỗi bên đều có cây Tất Bát La. Xưa nay những người bị tật bịnh hay dùng hương và dầu đến cúng dường nơi tượng nầy đa phần được khỏi bệnh. Đó là nơi Bồ Tát tu khổ hạnh. Như Lai hàng phục ngoại đạo, nhận lời thỉnh cầu của Ma Vương, tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt gạo và hạt lúa mạch, hình dung tiều tụy da bọc lấy xương. Ngài đi qua lại cây nầy và sau đó đứng lên. Nơi cây Tất Bát La mà Bồ Tát tu khổ hạnh có một Bảo Tháp. Đây là nơi mà năm anh em A Nhã Kiều Trần Như ở. Nơi đầu tiên Thái Tử rời khỏi hoàng cung, bàng hoàng trước núi sông cây cỏ. Lúc bấy giờ Vua Tịnh Phạn cho năm người đi tìm, biết rằng Thái Tử đang tu khổ hạnh với anh em Kiều Trần Như rất tinh cần.
Phía nơi ở của anh em Kiều Trần Như đi về hướng đông nam có một tháp . Đây là nơi Bồ Tát vào sông Ni Liên tắm gội. Phía bên sông chẳng xa là nơi Bồ Tát thọ nhận bát cháo Nhũ Mi và phía hai tháp nầy có một truởng giả hiến lúa mật. Đức Phật ngồi kiết già phu tọa dưới gốc cây điềm nhiên an tịnh, nhận được sự giải thoát an lạc, qua bảy ngày sau ngài từ định mà dậy. Lúc ấy có hai thương chủ đi từ rừng ngoài vào và bị thần rừng bảo các thương chủ rằng:
- Thái tử dòng họ Thích đang ở tại nơi đây, sơ chứng Phật quả tâm thường nhập định đến 49 ngày rồi mà chưa thấy ăn. Tùy theo đó mà cúng dường tạo phước đức.
Lúc ấy hai vị thương chủ mỗi người đều mang lúa mạch lên phụng cúng và Thế Tôn nạp thọ.
Phía Truởng giả hiến lúa mật lại có một Bảo Tháp, nơi mà Tứ Thiên Vương phụng cúng Bình Bát, để thương chủ cúng lúa mật. Khi đó đức Thế Tôn đang nghĩ lấy đồ gì để đựng thì bốn vị Tứ Thiên Vương từ bốn nơi lại, mỗi vị đều mang bát vàng đến phụng cúng. Thế Tôn mặc nhiên không nạp thọ, vì người xuất gia không dùng bát quý nầy, đoạn Tứ Thiên Vương bỏ bình bát vàng dâng bình bát bạc, rồi pha lê, lưu ly, mã não, xa cừ, trân châu v..v... nhưng đức Thế Tôn không nhận tất cả những lọai nầy. Tứ Thiên Vương phải lấy lại và cúng dường bát đá. Bát màu xanh lóng lánh rất nặng mang đến để hiến cúng. Lúc ấy đức Thế Tôn nhận tất cả bát nầy, rồi chọn một bát bên ngoài có chạm trỗ chung quanh.
Phía bên Tứ Thiên Vương cúng bát có một Bảo Tháp, nơi mà Như Lai Thuyết Pháp cho mẹ. Sau khi thành Chánh Giác, được tôn xưng là Thiên Nhơn Sư. Mẫu Hậu Ma Gia nghe tin từ thiên cung xuống nơi nầy. Đức Thế Tôn theo căn cơ giáo hóa làm lợi lạc an vui. Nơi đây có một cái hồ, bên bờ hồ có một Bảo Tháp là nơi mà ngày xưa Như Lai thấy và có nhân duyên gặp gỡ các chư thần biến hoá. Ở phía bên nơi hiện thần biến hóa lại có một Bảo Tháp là nơi mà đức Như Lai độ cho ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp cùng với hơn 1000 người đệ tử. Như Lai vì con đường thiện mỹ mà tùy cơ nghi ứng phó để hàng phục. Thế rồi, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp cùng năm trăm người phát tâm hành trì theo lời Phật dạy. Ngài Ca Diếp nói :
- Ta cùng với các ngươi hãy bỏ đường mê, đến đây theo Phật.
Đức Như Lai bảo:
- Hãy cởi tất cả y áo bằng da nai đốt đi.
Lúc ấy các vị Phạm Chí cung thừa Thánh Giáo, cởi y phục bỏ xuống sông Ni Liên, nhận chìm xuống nước. Ngài Ca Diếp thấy y trôi lềnh bềnh để xem huynh đệ động tĩnh, thì thấy một số đã đổi y hoại sắc. Dà Gia Ca Diếp và hai trăm đệ tử nghe sư huynh mình đã bỏ pháp lại cũng đến nơi Phật cũng phát nguyện tu Phạm Hạnh.
Nơi độ cho huynh đệ Ca Diếp, phía bắc lại có một Bảo Tháp, nơi đây là nơi mà Như Lai đã hàng phục con rồng lửa của Ca Diếp. Như Lai hóa thành người để chế phục con rồng lửa của Phạm Chí. Nửa đêm con rồng phun khói. Phật bèn nhập định liền nổi ánh sáng lên và động ấy tự nhiên phát ra ánh sáng dữ dội. Lúc ấy các vị Phạm Chí sợ Phật bị thiêu, không ai không chạy khỏi trong bi lụy thương tiếc. Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp vừa chạy vừa nói:
- Nay thấy việc lửa cháy chưa xong đó là việc Sa Môn hàng phục rồng lửa. Như Lai bắt nhốt con rồng lửa trong bình bát, ngày hôm sau mang đến cho các ngoại đạo môn nhân xem.
Bên cạnh Bảo Tháp là nơi mà năm trăm vị Độc Giác cùng vào Niết Bàn một luợt.
Phía nam của hồ rồng Mục Chi Lân Đà có một Bảo Tháp, đó là nơi mà ngài Ca Diếp cứu đức Như Lai bị ngập nước. Lúc bấy giờ huynh đệ ngài Ca Diếp vận dụng thần thông làm cho xa gần đều ngưỡng mộ mọi người đều quy y. Thế Tôn trên đường đi hóa đạo để nhiếp hóa mọi loài. Lúc ấy mây che và mưa lớn, nhưng chung quanh chỗ Phật ở không có một chút nước nào. Lúc ấy ngài Ca Diếp thấy mây mưa vần vũ như thế liền nói với môn nhân rằng:
- Chỗ ở của Sa môn chắc chắn sẽ không thể không chìm xuống nước, phải dùng thuyền đến cứu.
Lúc ấy đức Thế Tôn đi trên mặt nước như đi trên đất, đạp trên sóng rẻ nước ra. Khi nước rẻ ra cát liền hiện lên. Ca Diếp thấy như vậy cho nên tâm phục mà thối lui.
Cửa ngoài bên phía đông nơi gốc cây Bồ Đề cách hai ba dặm có một cái phòng của con rồng mù. Con rồng nầy bị tai ương, vì túc nghiệp quả báo nhiều đời nên sanh ra đã bị mù. Trước khi đức Như Lai từ núi Chánh Giác muốn đi thẳng đến cây Bồ Đề, giữa đường gặp một hang rồng. Con mắt rồng tự nhiên sáng lên, lại thấy Bồ Tát sẽ thành Phật dưới cây đó nên thưa với Bồ Tát rằng:
- Nhân thấy không còn bao lâu nữa, ngài sẽ thành Phật, mắt của con đã mù từ lâu rồi mà có Phật ra đời cho nên mắt của con sáng lại. Trong hiền kiếp nầy khi ba vị Phật quá khứ qua đời thì lúc đó mắt con được sáng cho đến bây giờ mắt con mới mở được cho nên con biết rằng ngài sẽ thành Phật.
Phía bên cửa đông của cây Bồ Đề lại có một Bảo Tháp, Đây là nơi mà Ma Vương khủng bố Bồ Tát. Đầu tiên Ma Vương biết Bồ Tát sắp thành Chánh Giác liền dụ dỗ dấy loạn làm cho mọi người lo lắng không yên tập trung các chúng quỷ thần lại để chỉnh trang binh ma, sửa soạn binh lính để mang đến uy hiếp Bồ Tát làm gió mưa sấm sét nổi lên, rồi lửa gió khói cát đá hỗn tạp với nhau. Rồi chuẩn bị những cung tên để bắn. Lúc ấy Bồ Tát đang nhập định đại từ cho nên những binh khí gậy gộc biến thành liên hoa, Ma quân khiếp đãm bèn tan rã thối lui. Nơi nầy chẳng xa lại có hai Bảo Tháp nữa do Đế Thích Phạm Vương kiến tạo nên.
Bên ngoài cổng phía bắc của cây Bồ Đề có ngôi chùa tên là MahaBodhi. Đầu tiên do Vua nước Tăng Già La kiến tạo. Trong vuờn có sáu chùa viện đều có ba tầng, chu vi rất rộng rãi và cao ba bốn thước. Những nhân công tài nghệ dùng những nét đan thanh để trang sức cho đến tượng Phật cũng bằng vàng, bằng bạc và tất cả những đồ trang sức bằng trân bảo treo lên trên các Bảo Tháp rất đẹp. Ở giữa có thờ Xá lợi của đức Như Lai. Những cốt xá lợi nầy lớn như lóng tay, ánh sáng trắng trong chiếu từ trong ra ngoài và nhục Xá Lợi của Phật như châu bảo quý, ánh sắc hồng hồng. Mỗi năm, đức Như Lai biến đại thần thông vào những ngày của tháng trăng tròn (15 tháng giêng), để thị hiện phóng quang hoặc mưa hoa. Tăng đồ ít hơn 1000 người, học tập theo giáo lý Đại Thừa nhưng hành trì theo Thuợng Tọa bộ. Giới luật oai nghi trang nghiêm thanh thoát. Ngày xưa, Vua nước Nam Hải Tăng Già La thâm tín Phật Pháp phát tâm tự nhiên trong gia tộc có người em xuất gia muốn đến Thánh tích của Phật. Từ xa xôi đến Ấn Độ ngụ ở chùa nầy, nhưng bị khinh chê liền trở về bổn quốc. Vua thân chinh đi đón. Sa Môn buồn thảm giống như chẳng nói được lời nào. Vua hỏi:
- Hiền đệ sao có vẻ buồn vậy?
Sa môn trả lời:
- Nương tựa vào uy của quốc gia mà ra đi học đạo. Qua nước khác lạ, gặp bao chuyện nắng mưa gió lạnh lại còn bị nhục mạ, thấy rất là nguy cơ, cho nên âu lo xấu hổ. Ai có thể hoan hỷ được.
Vua hỏi:
- Như thế nghĩa là sao?
Đáp rằng:
- Đó là ý chơn thành của Đại Vương về việc phước điền nơi mà các ông vua Ấn Độ xây dựng chùa chiền làm cho các Thánh Tích đó được rạng rỡ mà nhờ ân của tiên vương để lại cho đời sau.
Hỏi rằng:
- Việc đẹp như thế nghe qua thì đâu có gì?
Mang đồ quý sang hiến cho Ấn Độ, Vua nhận lễ cống rồi vẫn còn nhớ đến ngày xưa cho nên sai sứ thần đến bảo:
- Nay ta muốn đến để báo đáp.
Sứ thần thưa:
- Vua Tăng Già La cúi đầu trước Vua Ấn Độ. Ngài có uy đức chấn động xa gần, mà đất nước của tôi có vị Sa Môn nhờ gió đưa đến để chiêm lễ liền đến nước ngài để chiêm bái Thánh tích, chỉ ở chùa mà không thấy những nhà trọ, cho nên rất khổ tâm xấu hổ mà quay về. Cho nên từ xa đến đây mong muốn được kiến tạo Già Lam tại Ấn Độ. Sau khi sứ giả đến đây rồi, liền có cơ sở. Sau đó hai nước giao lưu vui vẻ mọi việc tốt đẹp. Vua nói:
- Như Lai hoằng hóa những phong vị vẫn còn đây. Thánh tích là nơi đó, nếu sứ giả muốn báo ân báo đức cùng với quần thần đến chiêm bái, đồng thời tập họp để hỏi ý kiến các vị Sa Môn kiến lập. Sa Môn đáp:
- Nơi gốc cây Bồ Đề, trước sau chư Phật đều từ ở nơi nầy mà thành Chánh Giác. Khảo sát những điều xưa nay thì không có đâu bằng, mang của quý của nước chúng tôi đem đến đây để kiến tạo Già Lam, vì chư tăng nước nầy mà tu phúc cúng dường.
Tạo một bảng đồng để lại như sau:
- Phàm việc chu cấp là phải vô tư theo lời dạy của chư Phật, để cho những người hữu duyên tu học trí tuệ, nhằm làm sáng tỏ lời dạy của bậc Thánh. Nay tôi là em của Vua muốn xây dựng Già Lam nơi Thánh Tích. Phước ấy là do tổ tiên. Huệ ấy là do dân chúng. Không phải chỉ có tăng ở nước chúng tôi được tự tại mà tăng của nước nào khác cũng đồng là tăng vậy. Họ là những người truyền thừa đời đời miên viễn về sau. Cho nên tại Già Lam nầy có nhiều chư tăng từ nước Chấp Sư Tử (Tích Lan). Phía nam cây Bồ Đề hơn 10 dặm, gần bên Thánh Tích khó mà có chỗ đầy đủ vì mỗi năm sau khi các vị Tỳ kheo giải chế an cư, bốn phương chư Tăng và Phật tử về đây cả trăm ngàn vạn người. Trong bảy ngày bảy đêm luôn luôn có hương hoa trống nhạc tuần du trong rừng để lễ bái cúng dường. Tăng Tín Đồ của Ấn Độ cũng y theo lời Phật dạy. Tất cả đều nhập hạ an cư, trước ngày mồng một tháng Thất La Phạt Nõa, nhằm ngày 16 tháng 5 và xả an cư vào ngày 15 tháng 8. Lịch tháng của Ấn Độ căn cứ theo các vì sao mà thành. Xưa nay giữa các bộ phái đều có sự sai khác nhau. Có thể tốt với địa phương nhưng khi di chuyển đến nơi khác chưa chắc đúng và sự phân chia thời gian năm tháng có sai biệt. Do vậy có nơi an cư vào ngày 16 tháng 4 và giải hạ vào ngày 15 tháng 7.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển tám
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:05:52 GMT -5
Quyển thứ chín (1 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
Nước Ma Kiệt Đà - Phần hai
Phía đông cây Bồ Đề qua sông Ni Liên vào trong rừng lớn có một Bảo Tháp. Phía bắc Bảo Tháp có một cái hồ, nơi đây một con voi con chờ con voi mẹ. Ngày xưa, khi đức Như Lai còn tu khổ hạnh, hai con voi từ núi phía bắc đến ở hồ nầy. Trong khi con voi mẹ thì mù tìm nước để uống, vì hiếu dưỡng cho nên con voi con đã đến đây gặp một người bị lạc trong rừng, ông ta đang lo sợ khóc lóc khổ sở. Thấy và nghe như vậy, con voi con thương cảm dẫn đường đưa ông ta trở về lại chỗ cũ. Người nầy sau khi về thưa với Vua rằng:
- Hạ thần có gặp một con voi con trong rừng là một con voi quý có thể bắt được
Nghe như vậy, vua cùng binh lính vào rừng để săn voi. Người nầy đi trước dẫn đường chỉ voi cho Vua. Tức thời nó quỳ hai chân xuống, nhà vua tuy kinh ngạc điều kỳ lạ, nhưng cho bắt voi con đem về. Khi voi về đó, không chịu ăn cỏ, không chịu uống nước. Người nài thấy vậy thưa Vua, Vua liền đến hỏi. Con voi con trả lời:
- Mẹ tôi bị mù già yếu đói khát, mà tôi nay trong sự nguy nàn nầy nào có thể ăn ngon được. Vua cảm động liền cho thả đi. Phía bên bảo tháp nầy có dựng một trụ đá. Đây là nơi ngày xưa Phật Ca Diếp đã ngồi và ở phía nầy có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành cùng ngồi thiền.
Phía đông nơi bốn vị Phật ngồi thiền qua chưa hết khỏi sông, đến rừng lớn nơi đó có một trụ đá. Đây là nơi mà ngoại đạo nhập định và phát ra lời thề ác. Ngày xưa, ông Uất Đầu Lam Phất ý chí như mây khói, thân trụ đám cỏ và ẩn dật trong rừng nầy, chứng được ngũ thông đệ nhứt định, làm cho Vua nước Ma Kiệt Đà rất tôn kính và cũng thỉnh vào cung dùng ngọ mỗi ngày. Ông Uất Đầu Lam Phất đến đi qua lại trong hư không cho nên Vua nước Ma Kiệt Đà rất là ngưỡng vọng và tiếp đón đến hoàng cung. Khi vua ra đi ủy thác lại cho ông được phép ra vào trong cung không cần mệnh lệnh.
Có một thiếu nữ hiền lành, lãnh nhiệm vụ vua giao để đón tiếp. Vua nước Ma Kiệt Đà triệu đến và nói rằng:
- Nay ta phải đi xa nên uỷ thác cho ngươi, ngươi đừng quên lo cho tròn công việc, khi ông Tiên Uất Đầu Lam tới phải tôn kính giống như khi đến dùng cơm mà ta cung phụng vậy.
Liền ra lệnh xong lại đi tuần du. Thiếu nữ thừa Thánh chỉ mà làm theo như thế.
Khi đại tiên đến thì mời ngồi. Uất Đầu Lam Phất đụng vào thân người nữ, tâm dục ô nhiễm khởi lên, bị mất thần thông. Ăn cơm xong rồi, nói lời từ tạ nhưng không bay lên hư không được. Trong tâm rất xấu hổ quỳ xuống nói với người nữ rằng:
- Ta đã tu đạo vào thiền định và được thần thông, qua lại trong hư không không có gì chướng ngại. Mọi người đã nghe thấy lâu nay rồi. Dĩ nhiên trước đây tôi đạt được những điều như thế là muốn làm lợi lạc cho muôn loài há muốn giữ riêng việc lợi cho mình quên đi những kẻ khác. Tôi sẽ đi bộ ra cửa để mọi người thấy mà được phước.
Sau khi vương nữ nghe xong liền bảo cho mọi người xa gần biết. Lúc ấy sai người quét dọn đường sá có cả trăm ngàn vạn người ra bái vọng nghinh tiếp. Ông Uất Đầu Lam Phất đi bộ từ vương cung đến nơi rừng ông ta ngồi nhập định, tâm rơi vào ngoại cảnh. Trong rừng quạ chim kêu vang trời. Dưới hồ gần bên, cá rùa lên tiếng. Tâm ông tán loạn mất thần thông dẹp thiền định, sanh tâm sân hận và phát lời thề ác.
- Ta sẽ làm con chồn dữ, nhưng thân có cánh như chim, bắt hết các loài khác. Thân to ba ngàn dặm. Hai cánh mỗi bên rộng một ngàn năm trăm dặm. Khi vào rừng thì bắt hết tất cả các loài trong rừng. Lặn vào nước bắt hết các loài ở dưới nước.
Thề xong tâm sân hận giảm xuống mà chuyên cần cầu để trở lại định cũ, chẳng bao lâu sau mệnh chung sanh lên cõi trời thứ nhất thọ tám vạn kiếp và đức Như Lai cho biết rằng khi thọ mạng ở thiên giới hết, quả báo đời xưa với lời thề cũ, làm cho thân xấu và lưu chuyển vào trong ác đạo, chưa biết bao giờ ra khỏi.
Phía đông sông Mạt Ha vào trong rừng lớn đi hơn 100 dặm đến động núi Thất Phát Đa (Kê Túc Sơn) cũng còn gọi là núi Lầu Lô Phát Đa. Núi cao nhọn nguy hiểm và có những động sâu. Triền núi có cỏ cây cùng hang đá. Trên đảnh sầm uất cây cỏ và đá. Bên trên có ba đỉnh liền nhau tiếp giáp với trời cao, thỉnh thoảng mây phủ. Sau nầy tôn giả Đại Ca Diếp ở trong nầy mà tịch diệt chả nói lời nào cho nên gọi là Tôn Túc. Ngài Ma Ha Ca Diếp là đệ tử của đức Phật chứng được lục thần thông và tám giải thoát. Lúc ấy biết Như Lai hóa duyên đã mãn, sắp vào Niết Bàn, Ngài bảo với ngài Ca Diếp rằng:
- Ta đã nhiều kiếp siêng tu khổ hạnh vì các chúng sanh mà cầu Vô Thượng Pháp. Sở nguyện ngày xưa ấy bây giờ đã hoàn mãn, bây giờ muốn vào đại Niết Bàn và các Chánh Pháp Tạng phó chúc cho ngươi giữ gìn truyền rộng đừng cho suy giảm. Di mẫu thì hiến Cà Sa bằng chỉ vàng chờ ngày đức Di Lặc thành Phật đến mà trao lại. Cùng với những pháp tu hành của ta đã dạy. Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả đã được tế độ làm cho lìa khỏi sự lưu chuyển.
Ngài Ca Diếp y giáo thừa nhận Chánh Pháp, sau khi kiết tập xong đến năm thứ 20, ngài thấy cuộc đời vô thường cho nên đã nhập diệt, bèn đến Kê túc sơn, bóng núi che lên trên.
Hang đá có đường đi đến phía đỉnh của núi Tây Nam. Trên đỉnh, rất nguy hiểm trải qua nhiều khúc khuỷu có thể làm hại người được. Khi vào trong núi rồi, lúc trở ra đường đi khúc chiết khó thông. Đến phía đỉnh núi bên đông bắc thì ra khỏi. Khi vào trong ba đỉnh núi thì thấy Ca Sa của Phật ở đó. Vì nguyện lực nầy mà ba đỉnh kia cao vút, cho nên bây giờ ba đỉnh núi ấy rất linh thiêng. Trong tương lai khi đức Từ Thị ra đời sau ba hội thuyết pháp có không biết bao nhiêu là chúng sanh kiêu mạn muốn lên núi nầy, đến thăm Ngài Ca Diếp. Đức Di Lặc khảy móng tay đỉnh núi tự mở và những chúng sanh thấy được ngài Ca Diếp liền tăng thêm kiêu mạn. Lúc đó ngài Đại Ca Diếp trao y và từ tạ lễ bái rồi thân bay lên hư không thị hiện các thần biến tự hóa lửa tam muội đốt thân và nhập diệt. Thời những chúng sanh ấy khi chiêm ngưỡng tâm kiêu mạn mất đi. Nhân đây chiêu mộ tất cả được chứng quả. Cho nên bây giờ trên đỉnh núi có xây một Bảo Tháp. Những đêm thanh vắng từ xa người ta thấy được ánh sáng từ Bảo Tháp phát ra, nhưng khi lên núi rồi không còn thấy nữa.
Phía đông bắc núi Kê Túc đi hơn 100 dặm, đến núi Phật Đà Phạt Na. Đỉnh núi rất cao và nguy hiểm. Trên đó có một phòng bằng đá có ghi lại dấu chân của Phật. Bên cạnh đó có một tảng đá. Đế Thích, Phạm Vương, Ma Ngưu Đầu dùng hương thom của gỗ chiên đàn cúng dường Như Lai. Ở trên tảng đá nầy còn phảng phất mùi hương. Năm trăm A La Hán đã hiển linh nơi đây. Người có duyên được gặp hoặc được thấy. Có lúc là hình Sa Di đi vào trong làng để khất thực. Đây là di tích rất linh thiêng khó có thể tường thuật hết. Phía giữa núi Phật Đà Phạt Na đi qua hướng đông hơn 30 dặm đi đến nơi Tiết Sắc, thì biết được là Rừng Trúc (Trúc Lâm), vườn nầy cũng đã biến thể từ hang núi mà thành. Đầu tiên các vị Bà La Môn nghe Đức Phật Thích Ca thân dài 6 trượng cho nên thường hoài nghi chưa tin tưởng, bèn lấy sáu cây trúc để đo thân Phật, nhưng khi đó mới biết còn hơn 6 trượng nữa. Lúc đó chiều cao cứ cao dần không cùng tận, họ bỏ trúc mà đi, rồi bốn phía trồng trúc, chính giữa có một Đại Tháp do Vua A Dục dựng nên. Ngày xưa đức Như Lai ở đây bảy ngày đã vì chư Thiên và loài người hiện đại thần thông thuyết các Diệu Pháp. Ở giữa rừng Trúc gần đó có một người thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi tên là Ưu Ba Tát Già Phiệt Gia Tê Na (Thắng Quân). Có ý muốn dọ thăm tình huống của Sơn Lâm. Từ thưở nhỏ đã ở riêng biệt nên tâm thật trong sáng, nghiên cứu Nội ngọai điển vô cùng thâm u và hiểu rõ những luận cứ cao siêu trong sáng mô phạm. Các vị Sa Môn, Bà La Môn, Ngoại Đạo, Quốc Vương, Đại Thần, Bậc Trưởng Giả, những người giàu có thường biết đến sự thông suốt đó lấy làm phục và luôn luôn thỉnh cầu để được lợi ích. Những người đến thọ học hơn sáu phần mười trong thiên hạ. Đến năm gần 70 tuổi, sức yếu chẳng đọc được nên đã phế bỏ tất cả duy chỉ học tập kinh Phật mà thôi. Sách tấn thân tâm, ngày đêm chẳng nghĩ. Pháp của Dị Giáo giống như mùi bùn. Sau đó dựng nên một Bảo Tháp nhỏ cao 5.6 thước và những bản kinh văn được để vào bên trong, gọi là Tháp Xá Lợi. Những năm sau nầy, người ta xây dựng nên Đại Bảo Tháp. Mọi người đều đến đây để tu phước cúng dường. Đây là sự nghiệp của Vua Thắng Quân. Ở phía trước cửa dùng để nói Diệu Pháp dụ những người học trò đến để làm tháp, làm hình thức để tôn sùng Phước Đức. Ban đêm lại đi kinh hành lễ bái đọc tụng ngồi thiền tư duy ăn uống chẳng cần ngày đêm không mõi mệt. Đến năm 100 tuổi ý chí vẫn chưa suy. Ròng rã ba mươi năm trường làm bảy ức Bảo Tháp thờ Pháp Xá Lợi. Đủ một ức thì xây một Bảo Tháp lớn rồi để Pháp Xá Lợi vào trong đó để cúng dường. Thỉnh chư tăng đến làm Pháp Hội xưng dương tán thán. Lúc ấy ánh sáng chiếu rọi khác thường. Từ đó về sau, thường hay phóng đại quang minh.
Phía tây nam của rừng trúc, đi hơn 10 dặm ở phía núi cao có hai suối nước nóng. Nước rất là nóng. Tại đây ngày xưa đức Như Lai đã biến nước nầy chảy ra rồi tắm ở đó, cho đến bây giờ vẫn còn. Nước trong vắt chảy liên tục không hết. Người người xa gần đều đến đây để tắm gội. Trầm mình ở dưới bao lâu chẳng sao cả. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp là nơi mà Như Lai thường đi kinh hành.
Bên phía đông nam của rừng trúc cách 6.7 dặm đến một đỉnh núi lớn. Phía bên phải có một Bảo Tháp. Đây là nơi ngày xưa đức Như Lai đã vì trời người đến đây thuyết pháp mỗi ba tháng hai lần. Lúc ấy vua Tần Bà Sa La cũng muốn đến nghe Pháp, nên đã băng núi xẻ đá mà đến. Nơi nầy rộng hơn 20 bộ chiều dài 3.4 dặm. Phía bắc của núi cao hơn 3.4 dặm là núi Cô Sơn. Nơi đây ngày xưa, có một vị tiên nhơn học rộng ẩn cư và tại nơi nầy dấu tích phòng ốc vẫn còn tồn tại. Những người học trò vẫn còn lui tới nơi đó. Phía đông bắc của núi Cô Sơn hơn 4.5 dặm, có một núi Cô Sơn nhỏ, tường phòng bằng đá rộng rãi có thể ngồi hơn cả ngàn người. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai thuyết pháp ba tháng. Trên phòng bằng đá có tảng đá lớn là nơi mà Đế Thích, Phạm Vương, Ma Ngưu Đầu lấy gỗ chiên đàn cúng dường trang sức thân Phật và trên đá vẫn còn phảng phất mùi hương.
Phía tây nam của phòng bằng đá có một ngọn núi tròn. Ấn Độ ngày xưa gọi là cung của A Tố Lạc (A Tu La). Người có những việc cần đến đây để luyện chú thuật và lo cho vận mệnh đó thì tăng lữ có hơn 14 người. Đã nguyện cùng chí hướng vào trong núi tròn nầy. Đi hơn ba bốn chục dặm thì bỗng nhiên trời sáng. Lại thấy thành ấp nhà cửa tất cả đều bằng vàng bạc lưu ly. Những người nầy đến rồi lại có những thiếu nữ chờ ở phía cửa ra vào hoan hỷ nghinh tiếp để đón mừng người đến, rồi đưa dần vào bên trong. Cửa bên ngoài có hai cô tỳ nữ, mỗi tỳ nữ đều cầm một cái mâm bằng vàng, trên mâm ấy toàn những hương hoa để nghinh đón, vì những người ấy nói rằng:
- Xin hãy vào Hồ để tắm bằng hương hoa sau đó mới được vào trong. Nơi đó rất là đẹp có một người có chú thuật tiến đến nhanh trong khi mười ba người kia tắm gội. Khi vào trong hồ rồi thì quên hết tất cả. Họ ngồi như là mạ cấy xuống ruộng.
Đi khỏi nơi nầy đến phía bắc, có sông rộng hơn ba bốn dặm.
Phía bên phòng bằng đá lại có con đường cầu treo rộng hơn mười bộ dài bốn năm dặm. Ngày xưa Vua Tần Bà Sa La muốn đến thăm Phật tạm lấy đá bắt ngang qua suối, hoặc lấy những hòn đá trên núi làm thành những bậc thang để đi đến nơi Phật. Từ đây đi lên núi cao, hướng đông hơn 60 dặm đến Kỳ Xà Quật thuộc thành La Bổ Sa, (thành Vương Xá) nằm giữa nước Ma Kiệt Đà. Đây cũng là cố đô của quân vương đời trước. Đa phần các bậc quân vương dùng hương thơm của cỏ Kiết tường cho nên trong thành có rất nhiều cỏ. Chung quanh bốn phía núi là làng mạc. Phía tây thông với đèo hẹp. Phía bắc có cửa vào núi. Phía đông tây dài và phía nam bắc hẹp chu vi độ 150 dặm. Nội thành còn dấu tích hơn 30 dặm. Cây Yết Ni Già thường có nhiều ở đây. Hoa và màu sắc của hoa là vàng kim, đến giữa mùa xuân nở cả một rừng hoa màu vàng.
Ngoài cửa cung thành phía bắc, lại có một Bảo Tháp nơi mà Đề Bà Đạt Đa cùng với A Xà Thế làm bạn, rồi thả voi say muốn hại Phật. Như Lai lấy tay chỉ, biến thành năm con Sư Tử, con voi say quỳ xuống phục mạng.
Phía đông bắc nơi voi say có một Bảo Tháp là nơi mà ngài Xá Lợi Phất nghe Tỳ Kheo A Thấp Ba Tỳ (Mã Thắng Assajit) thuyết pháp liền chứng quả. Đầu tiên khi ngài Xá Lợi Phất còn tại gia được tôn xưng là tài cao phong nhã, có nhiều học trò đến thọ giáo. Khi ấy ngài vào thành Vương Xá gặp ngài Mã Thắng Tỳ Kheo đang đi khất thực. Ngài Xá Lợi Phất đưa mắt nhìn ngài Mã Thắng bảo với môn nhân rằng:
- Ông nào kia sao trông đặc biệt quá. Nếu không phải là bậc chứng quả làm sao có được phong cách tịch tĩnh như vậy.
Khi nói như vậy thì đi tới một chút rồi dừng lại xem rồi tiến tới. Lúc ấy Ngài Mã Thắng Tỳ Kheo đã chứng quả A La Hán rồi. Tâm được tự tại dung mạo đoan nghiêm, đường đường oai nghi. Ngài Xá Lợi Phất thưa:
- Trưởng Lão là bậc quá an lạc. Thầy của ngài là ai? Ngài chứng pháp gì mà có được sự an vui như vậy.
Ngài Mã Thắng đáp rằng:
- Nhà ngươi không biết sao. Thái Tử con Vua Tịnh Phạn đã từ bỏ ngôi vị chuyển Luân Thánh Vương, có lòng từ bi thương cảm đến sáu đường, tu khổ hạnh sáu năm, chứng thành Chánh Giác, đầy đủ tất cả trí tuệ. Ngài là thầy của ta. Pháp thì chẳng có mà cũng chẳng phải không, thật là khó thực hành như quay tơ vậy. Chỉ có Phật với Phật mới có thể tường lãm. Những kẻ ngu muội làm sao hiểu rõ nghĩa lý. Vì vậy cho nên được xưng tụng tán dương là Giáo Pháp của chư Phật.
Khi ngài Xá Lợi Phất nghe như vậy liền chứng quả. Nơi chứng quả về phía bắc không xa mấy có một cái hầm rất sâu. Bên cạnh đó có xây dựng một Bảo Tháp. Đây là phòng của Lợi Cúc Đa (Thắng Mật) đào hầm lửa và tạo thức ăn độc để hại Phật. Thắng Mật là người tôn sùng Ngoại Đạo, nhiễm nặng tà kiến của các Phạm Chí nên nói rằng:
Sa Môn Cồ Đàm người được cả nước tôn kính, liền ra lệnh cho học trò đừng có tin tưởng nữa, bèn mời ông ta đến nhà để dùng cơm, rồi cho Nha Môn đào một cái hầm trong đó chất toàn là lửa, dùng cây mục bắt ngang qua. Tất cả những thức ăn trộn toàn là độc dược vào. Khi mà hầm lửa nổi lên. Nếu qua khỏi hầm lửa sẽ bị đồ độc. Đoạn Thắng Mật cho lệnh thiết soạn toàn là thức ăn độc.
Trong thành mọi người đều biết Thắng Mật khởi tâm ác độc muốn hại Thế Tôn. Mọi người đã mong rằng Phật đừng đến đó; nhưng Thế Tôn bảo rằng:
- Chẳng có gì để lo lắng cả. Thân thể của Như Lai không có vật nào có thể hại được. Cho nên ngài đã nhận lời thỉnh mà đến. Khi chân vừa đến cửa ngõ thì hầm lửa kia biến thành ao nước trong ngần và hoa sen toả ra mùi thơm ngát. Thắng Mật thấy như vậy liền lo lắng không nguôi, và cho môn đồ biết rằng:
- Không gặp lửa chắc chắn sẽ gặp độc.
Thế Tôn ăn xong rồi, liền thuyết Diệu Pháp. Thắng Mật nghe xong cảm tạ rồi xin phép quy y.
Phía bên hầm lửa của Thắng Mật, từ núi đông bắc đi quanh có một Bảo Tháp. Đây là Pháp Đường của Bác Sĩ Phược Già (Kỳ Bà) nghe Phật thuyết pháp, kiến tạo nên, chung quanh rất là rộng rãi và trồng nhiều hoa quả. Bây giờ dấu tích vẫn còn nơi đó. Ngày xưa Như Lai nhiều lần dừng lại nơi đây và bên cạnh đó lại có nhà của ông Kỳ Bà. Nơi đó ngày xưa vẫn còn một cái giếng. Từ cung thành đi về phía đông bắc hơn 14 dặm rưỡi đến núi Kiết Phiêu Đa La Cự Thác (Kỳ Xà Quật) có đỉnh núi Thứu, nằm ở phía bắc, có hình dáng rất đặc thù giống như mỏ con chim Thứu. Nơi đỉnh cao đó thoáng mát, khí hậu dễ chịu. Trong 50 năm hoằng pháp trong cuộc đời, gần như hầu hết Đức Như Lai ở tại đây. Vua Tần Bà Sa La muốn nghe Pháp đã cùng với mọi người, phát tâm từ chân núi đi lên đến đỉnh núi, dọc đường những hang động đã biến đá ấy làm thang cấp rộng hơn 10 bộ, dài hơn 5.6 dặm. Giữa đường có hai Bảo Tháp nhỏ. Một nơi là nơi xuống Xa Giá để Vua từ đây bắt đầu đi bộ lên. Một nơi khác là đuổi hết đoàn tùy tùng chỉ một mình đi lên. Đỉnh núi phía đông tây dài, nam bắc hẹp. Tiếp giáp phía đông tây có một tinh xá bằng gạch, rất cao thoáng và phòng nào cũng có lan can hướng ra phía đông. Đức Như Lai phần nhiều thuyết pháp ở nơi đây. Nên ngày nay có dựng một tượng Phật thuyết pháp tại đó, cao bằng thân của Như Lai. Tịnh xá phía đông có một tảng đá dài là nơi đức Như Lai kinh hành qua lại. Bên cạnh đó lại có một tảng đá lớn. Cao một trượng tư. Chu vi hơn 30 bộ là nơi Đề Bà Đạt Đa xô đá hại Phật. Dưới phía nam nầy có một Bảo Tháp. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã giảng kinh Pháp Hoa. Tinh xá phía nam có một phòng bằng đá. Nơi đó Như Lai ngày xưa đã nhập định.
Phía tây bắc của phòng bằng đá lại có một phòng đá khác. Phía trước có một tảng đá lớn, là nơi A Nan bị Ma dọa. Tôn Giả nhập định nơi nầy và Ma Vương hóa thành con chim Thứu nhằm tháng không có trăng ở trên tảng đá lớn, kêu tiếng con chim Thứu mà nhác Tôn Giả. Tôn Giả lúc bấy giờ rất là kinh hãi không yên. Như Lai xem thấy an ủi và đưa tay qua khỏi tường đá chạm vào đầu A Nan. Rồi lấy lòng từ bi mà nói rằng:
- Đó là do ma biến hóa đấy đừng sợ hãi gì cả.
Ngài A Nan nghe lời an ủi như thế thân tâm an lạc cho nên trên miếng đá có dấu tích của chim ấy và có một lỗ thông qua.Thời gian trải qua lâu rồi nhưng bây giờ vẫn còn tồn tại.
Phía bên Tịnh xá có rất nhiều phòng bằng đá mà ngài Xá Lợi Phất và các bậc A La Hán đã ở nơi nầy nhập định. Trước phòng đá của ngài Xá Lợi Phất có một cái giếng lớn. Bây giờ nước đã khô nhưng giếng vẫn còn. Phía đông bắc của Tịnh Xá có một tảng đá ướt. Trên đó có một tảng đá nữa. Đó là nơi phơi áo Cà Sa của Như Lai và hình ảnh của chiếc y ấy vẫn còn tồn tại in lên đó. Bên cạnh tảng đá có dấu tích bàn chân của Phật và những đường chỉ bánh xe dưới bàn chân vẫn còn ghi đậm nơi đây.
Phía bắc đỉnh núi có một Bảo Tháp. Đây là nơi đức Như Lai vọng hướng về thành Ma Kiệt Đà, nơi đây đức Phật đã thuyết pháp bảy ngày. Phía cửa bắc của thành có núi Tỳ Bổ La. Nghe qua truyền thuyết thì biết rằng:
- Phía tây nam của núi nầy, ngày xưa có năm trăm suối nước nóng mà bây giờ chỉ còn lại hơn 10 cái do khí hậu lúc nóng lúc lạnh, không có nóng lắm. Những suối nước nóng phát xuất từ phía nam núi Tuyết của hồ Vô Nhiệt Não, chảy đến nơi nầy. Nước rất xanh và vị rất ngọt giống như trên nguồn vậy. Chảy qua hơn 500 nhánh của những tầng địa ngục tiểu nhiệt. Lửa đó đốt làm cho nước nóng. Nước từ trong miệng đá chảy ra tạo thành những hình Sư Tử hoặc là đầu rồng, hoặc tạo thành những máng nước dài. Phía dưới biến thành đá và thành ao. Người ở những nơi khác đến đây để tắm. Những kẻ bị bịnh tắm xong liền khỏi. Hai bên tả hữu của suối nước nóng đều có Bảo Tháp và Tinh Xá. Nơi đây cũng còn dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Nơi đây là nơi mà sơn thủy giao nhau. Cho nên người ở đây phát sinh trí tuệ, đất đai tạo nên sự an ổn để che chở mọi người.
Phía tây của suối nước nóng, có một phòng đá gọi là Bi Bát La. Nơi mà Thế Tôn ngày xưa đã ở lại trong nầy và nằm sâu trong động là nơi ở của các vị A La Hán. Đa phần những vị Tỳ kheo thiền định ở đây bị những hình ảnh kinh dị của rắn hoặc Sư Tử hiện ra làm cho tâm họ sợ hãi phát cuồng khi thấy như vậy. Cho nên đây cũng là nơi các thánh hiện ra làm gió thổi để giúp họ xua tan những tai nạn kia. Những Tỳ Kheo giới hạnh tinh nghiêm muốn tâm được thanh tịnh liền dùng phòng nầy để tu tập thiền định. Nhưng cũng có người bảo đừng nên đến đó. Vì nơi đó có những tai nạn kinh dị làm cho không ít kẻ bị hại, khó có thể tu định mà còn có thể mang họa vào thân. Hãy lo trước vẫn hơn là hối hận về sau.
Vị Tỳ kheo ấy đáp rằng:
- Chẳng sao cả tôi chỉ có chí nguyện cầu Phật quả sẽ hàng phục được thiên ma. Nếu mà hại được, lấy gì bảo chứng.
Rồi liền chống gậy đi đến phòng đó. Sau đó lập đàn tràng trì Chú. Một tuần sau có một người đàn bà xuất hiện bảo Tỳ Kheo rằng:
- Tôn Giả mặc áo hoại sắc giữ giới làm chỗ nương tựa của mọi loài, tu định huệ hướng dẫn sinh linh trở vào đường thiện mà bây giờ ở nơi đây lại sợ hãi ta như vậy. Lời dạy của Như Lai há là như vậy sao?
Tỳ Kheo đáp:
- Tôi là người giữ tịnh giới tôn trọng Thánh Giáo muốn vào trong núi sâu để xa lìa những tạp nhiễm. Thấy đây là nơi an tịnh có thể ở được.
Đáp rằng:
- Tôn Giả trì Chú nghe phát ra lửa từ ngoài bay vào, thiêu phòng tôi ở, làm cho tôi khổ sở mong rằng lấy lòng từ bi đừng tụng chú nữa.
Tỳ Kheo đáp rằng tụng chú là để hộ thân chứ đâu có muốn hại ai. Đến đây chỉ muốn ngồi thiền để chứng Thánh Quả và cứu khổ hàm linh. Thấy điều kinh dị không muốn thân mạng bị hại. Có làm gì hại cô đâu mà nói như vậy.
Đáp rằng:
- Tội chướng quá dày, trí huệ thô thiển, cho nên từ nay về sau chỉ giữ phận ở đây và mong rằng tôn giả đừng tụng thần chú nữa.
Kể từ đó vị Tỳ kheo kia, khi Thiền định được an tịnh không bị hại nữa.
Trên núi Tỳ Bổ La, có một Bảo Tháp, ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp nơi đây. Còn bây giờ thì ngoại đạo lõa thể đang ở nơi nầy. Họ tu tập khổ hạnh ngày đêm siêng năng, từ sáng đến tối tinh chuyên quán sát. Cửa phía bắc của thành nầy đi về phía đông hơn hai ba dặm gặp một phòng đá lớn là nơi mà ngày xưa Đề Bà Đạt Đa đã nhập định.
Phía đông của phòng đá nầy không xa mấy, có một tảng đá trên đó còn lưu lại vết máu. Bên cạnh Bảo Tháp đó là nơi thiền định của vị Tỳ kheo, vị nầy tự hại mình để chứng Thánh Quả. Chuyện ngày xưa có kể lại rằng:
Có vị Tỳ kheo chuyên cần thân tâm tu tập thiền định, ngày tháng trôi qua nhưng chẳng chứng Thánh quả, có ý thối lui liền than rằng:
- Nếu quả vị A La Hán mà không chứng được thì để cho thân dơ nhớp nầy còn tồn tại có hữu ích gì, lấy đá tự đập vào đầu. Lúc ấy liền chứng A La Hán. Bay lên hư không thị hiện thần biến, hóa lửa để thiêu thân vào nơi tịch diệt. Đây là câu chuyện ly kỳ vẫn còn ghi lại.
Phía đông nơi Tỳ kheo chứng quả, có một tảng đá. Trên tảng đá có một Bảo Tháp. Đây là nơi tập định của Tỳ Kheo muốn chứng Thánh Quả. Câu chuyện được kể rằng ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một vị Tỳ Kheo, ngồi thiền lâu năm trong núi rừng và muốn chứng quả thiền định. Rất siêng năng cần mẫn lâu năm, nhưng chưa chứng được đạo quả. Ngày đêm luôn luôn nhớ nghĩ chẳng quên thiền định. Đức Phật biết rằng người nầy căn cơ đã đến cho nên ngài đã từ vườn Trúc Lâm đến dưới chân núi nầy khảy móng tay để triệu hồi vị Tỳ Kheo ấy. Vị Tỳ Kheo liền thấy Thánh Chúng thân ý hoan hỷ cúi xuống đảnh lễ.Thân tâm tự nhiên thanh tịnh kính vâng lời Phật đến tại nơi đây liền chứng Thánh Quả. Đức Thế Tôn bảo rằng:
- Hãy biết đã đến lúc rồi.
Vị ấy liền bay lên hư không thị hiện thần biến. Dùng hình ảnh ấy để tạo nên tín tâm, cho nên được ghi lại như vậy.
Cửa phía bắc của thành đi hơn một dặm, đến vườn trúc Ca Lan Đà, bây giờ vẫn còn tịnh xá, phòng ốc được xây bằng gạch và đá lan can hướng về hướng đông. Ngày xưa đức Như Lai còn tại thế đa phần ngài ở nơi nầy thuyết pháp để giáo hóa chúng sanh. Bây giờ còn một tượng giống như thân hình của Như Lai.
Sơ khởi ở tại thành nầy, có một vị Trưởng Giả tên là Ca Lan Đà (Caranda) Lúc ấy là một bậc hào phú của rừng Trúc đã cúng cho ngọai đạo, nhưng khi nghe Như Lai thuyết pháp liền phát tín tâm, đòi lại vườn Trúc xưa nơi họ cư ngụ bảo rằng:
- Bây giờ đấng Thiên Nhơn Sư không có chỗ ở.
Cho nên quỷ thần cảm động sự thành tâm liền bảo với ngoại đạo rằng:
- Trưởng Giả Ca Lan Đà sẽ xây dựng tịnh xá nơi vườn Trúc nầy, các ngươi nên đi xa đi để khỏi bị nguy hiểm. Lúc ấy ngoại đạo phẫn nộ sân si rồi đi.
Trưởng giả kiến lập tinh xá nơi nầy. Sự việc xong xuôi đích thân đến thỉnh Phật. Đức Như Lai lúc bấy giờ đã nhận sự cúng dường nầy.
Phía đông của rừng Trúc Ca Lan Đa có một Bảo Tháp, nơi đây vua A Xà Thế làm con đường đi ra. Sau khi đức Như Lai nhập Niết Bàn, các vua chúa cùng phân chia Xá Lợi. A Xà Thế cũng được và mang về đây rồi xây Tháp cung kính để cúng dường. Nơi đây cũng là nơi Vua A Dục phát sinh tín tâm cho mở Xá Lợi ra kiến tạo Bảo Tháp khác để thờ. Nơi đây cũng thường phóng ra ánh sáng vi diệu.
Bảo Tháp của Vua A Xà Thế có thờ nửa thân Xá Lợi của Tôn Giả A Nan. Ngày xưa khi Tôn Giả sắp tịch diệt đi đến nước Ma Kiệt Đà hướng đến thành Tỳ Xá Ly. Cả hai nước đều muốn dùng binh để giao tranh với nhau. Tôn giả đã ai mẫn và thương cảm nên đã phân thân. Vua nước Ma Kiệt Đà đem Xá Lợi về để cúng dường. Tức ở nơi đây kiến tạo nên Bảo Tháp để tu Phước. Bên cạnh đó là nơi kinh hành của đức Như Lai. Tiếp theo chẳng bao xa lại có một Bảo Tháp. Đây chính là nơi ở của Ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên.
Phía tây nam của vườn trúc đi hơn năm sáu dặm đến núi phía nam. Ở trong vườn trúc có một phòng bằng đá rất lớn. Đây là nơi Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp cùng với 999 vị A La Hán sau khi đức Như Lai nhập Niết Bàn kiết tập Tam Tạng. Trước đó còn di tích cũ. Vua A Xà Thế đã vì sự kiết tập Pháp Tạng, mà dựng nên nơi nầy cho các vị Đại A La Hán. Đầu tiên ngài Đại Ca Diếp tĩnh tọa nơi sơn lâm, rồi phóng đại quang minh lại thấy đất đai chấn động và nghĩ rằng điềm lành gì mà có sự dị biến nầy. Đoạn dùng thiên nhãn để quán sát, thấy Thế Tôn đang ở giữa hai cây Sa La sắp nhập Bát Niết Bàn, có ý gọi Ngài đến rừng thành Câu Thi Na. Đi dọc đường gặp Phạm Chí tay cầm hoa trời và hỏi Ngài Phạm Chí:
- Ngài từ đâu đến? Có biết thầy của ta bây giờ ở đâu không?
Phạm Chí đáp rằng:
- Tôi mới từ thành Câu Thi Na đến, thấy Thầy của ngài đã nhập Niết Bàn. Trời người đại chúng đang vây quanh cúng dường. Tôi đã được hoa nầy từ nơi đó.
Ngài Ca Diếp nghe xong nói với môn đồ rằng:
- Ánh sáng trí tuệ đã chìm. Thế giới nầy không còn mặt trời nữa. Kẻ dẫn đường cho chúng sanh đã bị đảo lộn. Trong khi đó, giải đãi Tỳ Kheo vui mừng nói rằng:
- Như Lai tịch diệt rồi tôi rất là an lạc. Nếu có phạm điều gì đâu có ai mà qưở trách.
Ngài Ca Diếp nghe xong liền bi cảm thương tâm. Suy nghĩ rằng phải tập họp để tuyên dương Pháp tạng giáo hóa những người phạm lỗi. Thế rồi đến nơi Sa La đảnh lễ dưới chân Phật. Biết rằng Đấng Pháp Vương ra đi thì không có ai hướng dẫn trời người, cả các bậc Đại A La Hán cũng đều muốn diệt độ. Lúc ấy Ngài Đại Ca Diếp liền suy nghĩ rằng nên thuận theo lời Phật dạy để triệu tập gìn giữ Pháp Tạng, cho nên đã lên trên núi Tô Mê Lô, đánh đại kiền chùy xướng lên như thế này:
- Nay tại thành Vương Xá sẽ có Pháp Sự các bậc đã chứng quả nên vân tập.
Khi nghe tiếng kiền chùy của Ngài Ca Diếp báo hiệu rung động đến 3000 đại thiên thế giới. Những bậc đã chứng được thần thông nghe xong liền vân tập. Lúc bấy giờ Ngài Ca Diếp bảo với đại chúng rằng:
- Như Lai đã tịch diệt thế giới chẳng còn gì. Nay ta tập trung những Pháp Tạng nhằm để báo ân Phật. Nay tập họp Pháp Tạng là nhiệm vụ đến không phải để tranh tụng. Há chẳng phải là dịp hội họp để chẳng thành gì cả thì không nên. Chỉ những bậc đầy đủ tam minh lục thông nghe điều ấy rồi chẳng dùng đến biện tài vô ngại như lời Thượng Nhơn đã truyền đạt mà đến để kiết tập. Trừ những bậc đã chứng đắc ra thì ở lại còn kẻ khác trở về. Tại đây có 999 người, còn sót lại ngài A Nan là bậc hữu học, ngài Đại Ca Diếp mời vào và bảo rằng:
- Ngươi là người chưa dứt lậu tận mà ở trong hàng thánh chúng, theo làm thị giả Như Lai trong nhiều năm, mà trong Pháp Hội nầy chưa đạt được quả vị sự kiết tập nầy khó thành. Đấng Pháp Vương đã tịch diệt rồi mất đi chỗ nương tựa cho nên ngài Ca Diếp bảo tiếp:
- Hãy đừng có lo rầu khổ não. Ngươi là người thân cận gần gũi làm thị giả Phật, thành bậc đa văn. Tuy nhiên việc ái cảm chưa dứt trừ và những kiết sử chưa đoạn hết.
A Nan liền đứng dậy ra đi đến một nơi yên tịnh muốn chứng quả Vô Học, hết lòng cần cầu mà chẳng chứng càng bị giải đãi nên muốn thối lui. Thế rồi, chưa gục đầu đã chứng A La Hán, đoạn đi đến nơi kiết tập, cúi đầu trước cửa để gọi. Ngài Ca Diếp hỏi rằng:
- Ngươi đã hết lậu hoặc chưa? Nếu đã hết rồi thì vận thần thông mà vào.
Ngài A Nan thừa mệnh ngang qua lỗ cửa mà vào. Sau đó đảnh lễ chư tăng rồi đến chỗ ngồi.
Lúc đó đúng vào ngày 15 của mùa an cư kiết hạ.
Ngài Ca Diếp cao tiếng nói rằng:
- Hãy lắng nghe đây! A Nan đã nghe nhớ giữ được lời dạy của Như Lai về Kinh Tạng. Ưu Ba Ly trì giữ Luật Tạng, bậc thông suốt, hiểu biết về Luật Tạng nên trùng đọc kiết tập Tỳ Nại Da. Ta là Ca Diếp sẽ kết tập A Tỳ Đạt Ma tạng.
Sau ba tháng mùa mưa nầy, việc kiết tập Tam Tạng đã xong. Thế rồi ngài Ca Diếp từ trong chúng lên ngồi ở ngôi vị Thượng Tọa. Nhân đây mà gọi là Thượng Tọa Bộ.
Phía tây bắc nơi ngài Đại Ca Diếp kiết tập lại có một Bảo Tháp ngài A Nan bị Tăng khiển trách không được dự phần kiết tập đến để ngồi thiền và chứng quả A La Hán và sau khi chứng quả rồi mới đến tham dự. Phía tây nơi chứng quả A La Hán đi hơn 20 dặm, lại có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là nơi mà Đại chúng bộ đã kiết tập. Những bậc có học vô học số hơn trăm ngàn người không tham dự việc kiết tập của ngài Đại Ca Diếp đến nơi này bàn với nhau rằng:
- Khi Như Lai còn tại thế, chúng ta cùng học một Thầy. Khi đấng Pháp Vương tịch diệt rồi, chúng ta khó gặp nên muốn báo ân Phật thì phải gìn giữ Pháp Tạng. Cho nên phàm thánh hiền ngu đều được vân tập để kiết tập gồm Tu Đa La tạng (Kinh Tạng), Tỳ Nại Da tạng (Luật Tạng) và A Tỳ Đạt Ma tạng (Luận tạng) rồi Tạp Tập Tạng và Cấm chú tạng gồm tất cả năm tạng mà kiết tập thành. Lần nầy có cả Phàm Thánh đồng câu hội cho nên gọi là Đại Chúng Bộ.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:06:21 GMT -5
Phía bắc của Trúc Lâm Tịnh Xá đi hơn 200 bước đến Hồ Ca Lan Đà, nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp nhiều lần. Nước trong veo đầy đủ tám công đức. Sau khi Phật nhập Niết Bàn nước không còn nữa. Phía tây bắc hồ Ca Lan Đà đi hai ba dặm có một Bảo Tháp do vua A Dục dựng nên cao hơn 60 thước. Bên cạnh đó có trụ đá khắc ghi việc lập Bảo Tháp nầy. Bảo Tháp cao hơn 50 thước trên đó có làm hình con voi.
Phía đông bắc thạch trụ chẳng bao xa, đến thành Yết La Xà Kiết Lỵ Tu (Vương Xá). Bên ngoài khó có thể đột nhập vào, bên trong thành đã hư hoại chỉ còn lại dấu tích mà thôi, chu vi hơn 20 dặm, chỉ có một cửa. Đây là kinh đô đầu tiên của Vua Tần Bà Sa La. Phía trên cung thành có nhiều nhà cửa đã gặp hỏa hoạn làm hại. Thân tộc của Vua Tần bốn bên đều bị nguy nàn, phòng lửa không kỹ cho nên bị hư hoại hết sản nghiệp, chúng dân oán hận vì ở nơi nầy không yên. Vua bảo:
- Ta chẳng có đức cho nên làm cho dân chúng không yên. Vậy phải tu phước gì để được?
Quần thần tâu rằng:
- Đại Vương là bậc có đủ tài uy đức nhuận hóa quần sanh, chỉ vì tệ dân bất cẩn mới sanh việc hỏa tai. Nên chế ra luật nghiêm khắc để trừ hậu hoạn. Nếu mà lửa còn bốc cháy nữa, thì phải đày người bị tội vào nơi rừng sâu và sẽ chết trong đó để chẳng ai biết đến được và những kẻ a tòng cũng phải bị vào đó mà chết theo. Họ sẽ xấu hổ mà ở yên và phải tự cẩn trọng lo lắng cho mình.
Vua bảo:
- Đúng là lấy độc trị độc. Lúc ấy hướng về Vương cung thấy lửa tắt mới bảo với các thần rằng:
- Ta sẽ ra đi rồi ra lệnh cho Thái Tử nhiếp chính và gìn giữ kỷ cương của đất nước.
Lúc ấy Vua Tỳ Xá Ly nghe vua Tần Bà Sa La vào nơi rừng lạnh đoạn chỉnh trang binh lính muốn đánh úp. Những người hầu cận nghe tin nầy liền xây thành ấp. Thành xây cho tiên vương nên gọi là Vương Xá Thành. Các quan chức và thứ dân hoặc ở lại, hoặc chuyển nhà cửa đến thành mới của Vua A Xà Thế kiến trúc. Sau khi Vua lên ngôi dời đô đến đây. Mãi cho đến thời Vua A Dục mới dời đô về thành Ba Thác Ly, còn Vương Xá thành dành cho người Bà La Môn. Cho nên trong thành nầy bây giờ không có phàm dân mà toàn là người Bà La Môn chưa tới 1000 gia đình.
Phía tây nam cung thành có hai Già Lam nhỏ, chư tăng các nước đến ở lại đây. Đây là nơi đức Phật ngày xưa thuyết pháp hằng ngày, tiếp đó phía tây bắc có một Bảo Tháp. Đó là nơi sinh trưởng của Trưởng giả Châu Đệ Sắc Già, Thụ Đề Già.
Bên ngoài cửa phía nam của thành, phía bên trái của đường đi có một Bảo Tháp. Đây là nơi Như Lai thuyết pháp để độ cho La Hầu La. Từ phía bắc nầy đi hơn 30 dặm, đến Na Lan Đà Tăng Già Lam. (Thí Vô Yểm). Nghe các bậc kỳ lão nói lại rằng:
Ở phía nam của Già Lam nầy, có một cái ao nằm giữa vườn xoài. Trong đó có con rồng có tên là Na Lan Đà, bên cạnh đó có xây một ngôi chùa, lấy tên của rồng mà đặt tên chùa. Khi đức Như Lai còn tu Bồ Tát hạnh làm một đại quốc vương đã thành lập thủ đô ở đây. Vì thương chúng sanh mà cho họ niềm vui. Với cái đức tốt đẹp đó người ta gọi là Thí Vô Yểm, (cho mà không ngại). Do lý do nầy mà tên chùa được gọi như vậy. Nguyên đây là một vườn Xoài có năm trăm người thương nhân, dùng mười ức tiền vàng để mua cúng Phật. Phật ở xứ nầy thuyết pháp ba tháng. Các thương nhân đều chứng Thánh quả. Phật nhập Niết Bàn chẳng bao lâu, tiên vương của nước nầy là Lạc Ca La A Dật Đa (Đế Nhựt) kính trọng Phật thừa tôn sùng Tam Bảo, nên cúng đất nầy để xây Già Lam. Việc nầy làm cho con rồng bị thương, lủng thân. Lúc ấy ngoại đạo Ni Kiền Tử thấy vậy nói rằng:
- Đây là một thắng địa muốn kiến lập Già Lam tất nhiên là hưng thạnh. Vì năm nước Ấn Độ mà làm tiêu bìểu cho ngàn năm hưng thạnh và những kẻ đến sau dễ thành đạt. Nhưng sẽ có nhiều máu huyết làm tổn thương thân con rồng. Kẻ học ở đó dễ đạt được học nghiệp nhưng sau nầy bị mửa máu. Sau đó Vua Phật Đà Cúc Đa, (Giác Hộ) kế tục truyền thống ấy để tôn thừa Phật Nghiệp. Tiếp theo nơi nầy ở phía Nam kiến tạo một Già Lam. Sau đó Vua Đản Tha Yết Đà Cúc Đa ( Như Lai) tu bổ lại. Tiếp đến phía đông lại kiến lập một Già Lam sau khi Vua Bà La A Dật Đa (Ấu Nhựt) tức vị. Kế tiếp đó ở phía đông bắc lại kiến lập một Già Lam. Sau khi làm xong liền tổ chức Pháp Hội và tổ chức lễ nghi cũng thỉnh các bậc hiền thánh, đến tham dự lễ có chư tăng của năm xứ Ấn Độ. Họ đến từ ngàn dặm xa xôi. Chư tăng đã ngồi hết xuống, có hai vị mới đến sau được đưa lên tầng thứ ba, hỏi rằng:
- Nay Vua thiết lễ trước để thỉnh các vị Phàm Thánh. Đại Đức từ phương nào sao đến muộn vậy?
Đáp rằng:
- Ta đến nước nầy. Hòa thượng của tôi bị bịnh, chờ ngài ăn xong mới đi. Nhận được thiếp thỉnh của Vua nên đến đây.
Người hỏi đó kinh ngạc tâu lên Vua. Khi Vua biết đó là vị Thánh, đích thân đến vấn an rồi từ từ lên lầu nhưng mà chưa biết đi đâu. Được biết rằng vị đó là một vị có thâm tín Tam Bảo, bỏ nước xuất gia. Khi mới xuất gia thì phải ngồi sau cùng trong tăng, cho nên tâm thường không vui bảo rằng:
Ngày xưa mình làm Vua là đấng tối cao ở trên đời. Bây giờ xuất gia mà ngồi sau cùng trong chúng. Sau đó, bạch lên chư tăng thuật lại sự tình và chúng Tăng được hòa hợp. Rồi ra lệnh cho những người chưa thọ giới ngồi theo thứ đệ tuổi tác của mình. Cho nên đây là ngôi Già Lam riêng có chế độ nầy.
Sau khi con của Vua Phạt Xà La (Kim Cang) tức vị, với tín tâm kiên cố Vua cho xây dựng phía tây nầy một ngôi Già Lam khác. Sau nầy các Vua khác kiến tạo một Đại Già Lam nữa ở phía bắc. Vườn chùa rất rộng rãi nhưng chỉ một cửa ra vào. Những vua kế tiếp luôn luôn trùng tu kiến tạo cùng với những sự sửa chửa để trở thành trang nghiêm. Vua nói:
- Ngôi Già Lam nầy bây giờ an trí tượng Phật và mỗi ngày thỉnh trong chúng ra 40 vị tăng đến đây để dùng trai. Đó là ân đức của thí chủ. Có hơn 1000 vị tăng ở đây đều là những người thật tu, thật học, đạo đức cao vời, đương thời đâu đâu cũng nghe tiếng, số ấy hơn 100 người. Họ là những người giới hạnh thanh bạch, luật nghi trang nghiêm. Những gì mà tăng đã chế thì họ đều vâng giữ tốt đẹp. Khắp xứ Ấn Độ bây giờ ai ai cũng đều kính ngưỡng, cầu thỉnh họ đến để đàm luận huyền nghĩa suốt ngày không đủ. Đêm đến tọa thiền tỉnh thức để tiến tu. Những người không đàm luận về lẽ u huyền của Tam Tạng tự mình thấy xấu hổ cho nên tìm đến những người khác mà vấn đạo hoặc đến cúi đầu vâng mệnh để hỏi những điều nghi. Những ai mạo danh để đi khỏi hoặc được trọng vọng ở nơi khác, muốn vào đàm luận nghĩa lý hỏi han, thì bị hỏi khó cho nên đa phần đều thối lui. Chỉ những kẻ học sâu biết thông kim cổ thì mới được vào. Đây là nơi mà các vị du tăng sau nầy đến đó có thể luận bàn rõ ràng. Trong mười người đã có hết bảy, tám người cao bay xa chạy, hai ba người còn lại toàn là những bác học bác vật ở trong chúng tiếp tục cật vấn. Những ai chưa bị bẽ gãy cũng bị tà đi rồi mới nêu danh.
Phàm là kẻ cao tài bác vật, hiểu biết sâu xa thì có nhiều tài. Làm sáng tỏ cái đức của triết nhân biện hộ quang huy tiếp tục cho điều mô phạm, cho đến việc gìn giữ Phật pháp như gìn giữ mặt trăng làm chấn động nơi nơi để giữ lại lời giáo huấn. Đạo đức sáng ngời ấy chảy thông suốt cho đến bây giờ là nhờ vào ánh sáng lý luận minh bạch. Kẻ được thắng thì được vinh danh cao, trí tuệ như mặt trăng như gió thổi sáng suốt vô cùng. Ngài Giới Hiền ở đâu là có cái đức cao vời như thế. Đó là bậc Thượng Nhơn trong chúng đầy đủ đức độ đã làm hưng long, cho cái học ở trước cũng như kinh điển ngày xưa. Ngài đã thuật lại cũng như trước tác cả hơn mười bộ luận mà cho đến ngày nay vẫn còn lưu thông và được trân quý như lúc đương thời. Bốn phía Già Lam đều có thắng tích hơn 100 nơi. Đây chỉ lược nói hai ba cái mà thôi.
Phía tây của Già Lam không xa có một tinh xá. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã dừng lại ba tháng, vì trời người mà diễn nói Diệu Pháp. Phía nam hơn 100 bộ có một Bảo Tháp nhỏ là nơi các Tỳ Kheo ở xa đến gặp Phật. Tương truyền rằng: Ngày xưa có những Tỳ Kheo đến từ phương xa. Tại đây họ gặp đức Như Lai và Thánh Chúng liền phát tâm ngũ thể đầu địa. Sau đó phát nguyện cầu được địa vị của chuyển Luân Vương. Như Lai nghe xong liền bảo Đại Chúng rằng:
- Ông Tỳ Kheo kia thật là đáng thương, phước đức thâm sâu tín tâm kiên cố, như cầu quả vị Phật, không bao lâu sẽ chứng mà nay phát nguyện làm chuyển Luân Vương, trong đời vị lai chắc chắn sẽ thọ báo nầy. Thân thể khi gieo xuống đất thì thành vòng vàng, ở giữa đó có rất nhiều vi trần và mỗi mỗi vi trần như vậy là một Báo Thân của Luân Vương. Cứ thế với niềm vui như vậy sẽ làm xa lìa Thánh Quả.
Phía nam nầy có một bức tượng Bồ Tát Quán Tự Tại đứng, với hình dáng tay bưng lư hương đi nhiễu bên phải của Phật.
Phía nam của tượng Bồ Tát Quan Tự Tại có một Bảo Tháp, nơi đây thờ tóc và móng tay của Như Lai sau ba tháng mới cắt, vì Ngài đi nhiều và bịnh yếu. Ở phía tây có một cái hồ lớn, nơi đó có một Bảo Tháp, nơi đây ngoại đạo đã cầm con chim sẻ và hỏi đức Phật rằng con chim nầy sống hay chết. Tiếp theo phía đông nam, đi hơn 50 bước, có một cây đặc biệt cao tám chín thước. Thân cây có hai cành. Tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã ngồi đây để xỉa răng. Nhơn đây trồng cây ấy xuống ngày tháng trôi qua, nhưng chẳng tăng giảm.
Tiếp đến phía đông, có một Tinh Xá lớn cao hơn 200 thước. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã ở lại bốn tháng và thuyết Diệu Pháp. Tiếp theo phía bắc hơn 100 bước, có một Tinh Xá trong đó có thờ tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát, những thiện nam tín nữ thường đến đây để cúng dường. Có nhiều người thấy biết khác nhau hoặc ngài đứng nơi cửa, hoặc đi ra phía trước. Chư tăng và Phật tử các nước đến đây cúng dường rất nhiều.
Phía bắc của Tinh Xá Quán Tự Tại Bồ Tát, có một Tịnh Xá lớn cao hơn 300 thước do Vua Bà La A Dật đã kiến thiết, rất trang nghiêm tốt đẹp và bên trong có một tượng Phật giống như tượng ở Chùa nơi có gốc cây Bồ Đề. Phía đông bắc có một Bảo Tháp, tại đây đức Như Lai ngày xưa đã ở lại bảy ngày để diễn thuyết Diệu Pháp.
Phía tây bắc là nơi tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Phía nam lại có một Tinh Xá bằng đá, do Vua Giới Nhật kiến lập. Tuy chưa xong nhưng to lớn hơn mười trượng và sau nầy tiếp tục xây dựng. Tiếp theo phía đông hơn 200 bước, ở bên ngoài có một tượng Phật đứng bằng đồng cao đến 80 thước. Chùa Viện cao năm sáu tầng, do vua Mãn Tào dựng lên ngày xưa. Phía bắc tượng đồng của Vua Mãn Tào đi hai ba dặm gặp một tịnh xá bằng gạch, trong đó có nhiều tượng Bồ Tát. Nhiều tượng rất cao và linh ứng vô cùng. Mỗi năm vào ngày mồng một, Phật tử đến chiêm lễ và cúng dường rất nhiều.
Các vua và đại thần của các nước lân bang thường hay mang hương hoa, tràng phan, bảo cái, vàng bạc, đá quý, tơ lụa, trúc v.v... dâng lên. Kiến lập Pháp Hội suốt bảy ngày bảy đêm như thế. Cửa phía nam có một cái giếng lớn. Ngày xưa nơi đây đức Thế Tôn đã gặp một đại thương nhân bị sốt nóng hành hạ, đức Phật lấy tay chỉ xuống đất nơi có nước. Thương chủ cho xe đến để đào đất lên. Nước tự nhiên phun lên thành vòi. Ông ta uống rồi nghe Phật thuyết pháp liền chứng ngộ quả Thánh.
Phía tây nam của Già Lam đi tám chín dặm, đến ấp Câu Lý Ca. Giữa đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là quê hương của Tôn Giả Mục Kiền Liên. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp là nơi mà Tôn Giả đã nhập Vô Dư Niết Bàn. Ở trong nầy vẫn còn thờ di thân xá lợi của Tôn Giả. Tôn Giả là dòng dõi của Đại Bà La Môn cùng với Xá Lợi Phất thưở thiếu thời là bạn thân. Xá Lợi Phất là bậc tài trí thông minh hiếm có. Còn Tôn Giả tinh thông tài trí không ai bằng được. Nguyện là trước sau cùng nhau đồng sống chết và cả hai đều chối bỏ cuộc sống thế tục mà muốn xuất gia, liền bỏ Thầy mình là Sách Xà Da Phiệt.
Sau đó ngài Xá Lợi Phất gặp ngài Mã Thắng là bậc A La Hán, sau khi nghe Pháp chứng thánh quả, bèn trở lại tìm Tôn Giả để tường thuật lại. Khi Tôn Giả nghe xong liền ngộ và chứng sơ quả. Liền cùng với 250 đồ đệ đến nơi đức Phật. Đức Phật thấy liền bảo đại chúng rằng:
- Người mà đến kia trong đệ tử của ta sẽ là người có thần túc đệ nhất.
Đoạn Phật mời vào trong Pháp Hội. Thế Tôn nói tiếp:
- Thiện Lai Tỳ Kheo! khéo tu phạm hạnh xa lìa trần cấu.
Sau khi nghe lời ấy xong, tóc trên đầu rụng xuống, biến hóa khỏi hình người tục. Giới phẩm thanh tịnh uy nghi điều phục, qua khỏi bảy ngày chứng quả A La Hán được lục thần thông.
Ở phía đông nơi quê hương của ngài Mục Kiền Liên đi ba bốn dặm có một Bảo Tháp. Đây là nơi Vua Tần Bà Sa La nghinh đón đức Phật. Sau khi Như Lai vừa chứng Phật quả được biết rằng Người ở nước Ma Kiệt Đà có tâm khát ngưỡng, nên đã nhận lời thỉnh cầu của Vua Tần Bà Sa La. Vào một buổi sáng tinh sương, ngài đắp y mang bình bát cùng với một ngàn vị Tỳ kheo hai bên tả hữu quây quanh cùng với những vị Phạm Chí kỳ cựu, tóc xoắn ốc cùng một đoàn chư Tăng mặc áo hoại sắc theo sau vào thành Vương Xá. Lúc bấy giờ Đế Thích Thiên Vương biến thành Ma Na Bà. Đầu cũng bới tóc, tay trái cầm vòng vàng tay phải cầm tích trượng quý. Chân đi trên không cách mặt đất khoảng bốn lóng tay làm kẻ dẫn đường cho Phật và Đại chúng. Lúc bấy giờ Vua Tần Bà Sa La của nước Ma Kiệt Đà cùng với Bà La Môn Trưởng Giả Cư Sĩ ở trong nước số người lên đến trăm ngàn vạn, trước sau ra khỏi Vương Xá Thành để cung nghinh Thánh Chúng.
Phía đông nam nơi Vua Tần Bà Sa La nghinh Phật đi hơn 20 dặm liền đến nơi Ca La Tỵ Noa Ca. Nơi đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Đây là nơi cố hương của Tôn Giả Xá Lợi Phất. Có một cái giếng bây giờ vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó có một Bảo Tháp là nơi Tôn Giả tịch diệt, trong nầy có toàn thân Xá Lợi của Tôn Giả. Tôn Giả xuất thân từ giòng Bà La Môn. Thân phụ của Ngài tài cao học rộng, thông đạt những lẽ huyền vi. Chưa có một điển tịch nào mà chưa nghiên tầm đến. Thân mẫu ngài nằm mộng và kể lại cho thân phụ ngài rằng:
- Đêm qua, tôi mộng thấy một người lạ thân hình to lớn trên tay cầm chày kim cang phá vỡ các hòn núi lớn, đập bể ngọn núi xuống.
Thân phụ bảo:
- Giấc mộng thật là lành. Bà chắc chắn sẽ sanh một đứa con trai, là người học hết việc thế gian và trên tất cả các luận sư, phá hết tất cả các tông phái, chỉ trừ có một người mà phải làm đệ tử.
Sau khi có thai, mẹ của Ngài bỗng nhiên rất thông mẫn, luận bàn với những bậc cao kiến, không ai có thể khuất phục nổi. Tôn giả năm lên tám tuổi thanh danh rạng rỡ bốn phương, tánh tình thuần hậu, giàu lòng từ bi, xả bỏ những xưa cũ, thành tựu trí huệ. Đã cùng với Mục Kiền Liên, người bạn thân tthưở thiếu thời chán ngán trần tục, chưa có chỗ nương tựa. Đã cùng với Mục Kiền Liên đến nơi Ngọai Đạo Sách Xà Gia để tu tập và cùng nói với nhau rằng:
- Lý chưa đạt được cứu cánh, thì chưa thoát khỏi khổ đau, mỗi chúng ta nên tìm con đường sáng, ai được cam lồ thì san sẽ cùng hưởng một lúc. Lúc bấy giờ có ngài Đại A La Hán Mã Thắng cầm bình đi vào thành khất thực. Ngài Xá Lợi Phất thấy uy nghi tịch tịnh liền hỏi rằng:
- Thầy của ngài là ai?
Đáp rằng:
- Thái Tử dòng họ Thích, đã thấy cuộc đời vô thường nên xuất gia thành Đẳng Chánh Giác. Ngài là Thầy của ta.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi:
- Có thể nói cho tôi nghe Pháp đó được không?
Đáp rằng:
- Tôi mới thọ Pháp chưa đạt hết cái nghĩa thâm hậu.
Ngài Xá Lợi Phất bảo:
- Nguyện được nghe những điều như thế
Ngài Mã Thắng tùy nghi theo đó mà diễn thuyết. Nghe xong Ngài Xá Lợi Phất liền chứng sơ quả. Sau đó, liền cùng với 250 người đến gặp Phật. Đức Thế Tôn trông thấy bảo đại chúng rằng:
- Trong đệ tử của ta, đây là người có trí tuệ bậc nhất.
Khi đến rồi ngài liền đảnh lễ và nguyện theo học Pháp.
Đức Thế Tôn liền bảo:
- Thiện Lai Tỷ Kheo!
Nghe xong rồi, liền đầy đủ giới phẩm. Sau đó nửa tháng nghe Phật thuyết pháp cho Phạm Chí có móng tay dài. Nghe sự đàm luận xong, thì giác ngộ chứng đắc A La Hán.
Sau khi A Nan nghe Phật cho biết sắp đến thời kỳ tịch diệt liền hồi tưởng những lời nói đó buồn khổ thê thảm. Ngài Xá Lợi Phật càng tăng thêm sự luyến nhớ và ngưỡng vọng. Không thể nhẫn tâm để thấy Phật vào Niết Bàn, liền xin phép Đức Thế Tôn được nhập diệt trước. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo:
Đã đến lúc nên thông báo và cảm tạ với mẫu thân. Hãy đi về nơi sanh quán và thị giả Sa Di sẽ thông báo trong thành ấp biết cùng Vua A Xà Thế và quốc dân, chỉ trong chốc lác mọi người đều vân tập. Ngài Xá Lợi Phất vì mọi người mà nói rộng. Tất cả nghe xong rồi lui. Rồi giữa đêm sau trong Chánh Định tâm sáng suốt vào Diệt tận định rồi từ Định nầy mà vào tịch diệt.
Phía đông nam của làng Ca Na Tỳ Noa Ca đi bốn năm dặm có một Bảo Tháp là nơi Tôn Giả Xá Lợi Phất cùng với môn nhân nhập Niết Bàn. Lại cũng có Thuyết cho rằng:
Đây là nơi mà Phật Ca Diếp khi còn tại thế đã cùng với ba ức Đại A La Hán nhập Vô Dư Niết Bàn ở đây.
Phía đông của Bảo Tháp nơi ngài Xá Lợi Phất cùng môn nhân nhập diệt, đi hơn 30 dặm, đến núi Đà La Thế La Tốt Ha (Đế Thích Động) Núi nầy có nhiều hang đá rừng cây u tịch, núi tự nhiên có hai đỉnh đột khởi cao lên. Giữa đỉnh phía tây và đỉnh phía nam có một hòn đá lớn. Tuy rất rộng mà chẳng cao. Đây là nơi mà Như Lai ngày xưa thường hay dừng lại. Thường thường Thiên Đế Thích đã hỏi 42 điều nghi ở nơi tảng đá nầy để thỉnh vấn và Phật đã thuyết pháp cho Đế Thích ở đây. Nơi đây vẫn còn tượng ghi lại câu chuyện ngày xưa. Người vào bên trong lễ bái không thể không ngạc nhiên trước vẻ đẹp. Phía bên trên núi là di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi Thiền. Trên đỉnh phía đông có một Già Lam. Người xưa bảo rằng:
- Tăng chúng thường hay thấy ban đêm nơi đây chia ra làm bốn ngọn núi và trước phòng đá có thờ tượng Phật mỗi bên đều có ánh đèn chiếu sáng rực rỡ.
Ngọn núi phía đông của núi Nhơn Đà La Thế La Tốt Ha có một Già Lam và phía trước đó có một Bảo Tháp, gọi tên là Đan Ba. Ngày xưa đã ở nơi Già Lam nầy để tu tập theo Tiểu Thừa thuộc về Tiểu Thừa Tiệm Giáo. Cho nên khai mở việc dùng Tam Tịnh Nhục, để Già Lam nầy khỏi rơi vào chỗ phạm giới. Nhưng về sau việc dùng Tam Tịnh Nhục không còn tiếp tục nữa. Có một Tỳ Kheo đi kinh hành ngang qua, thấy có bầy chim nhạn bay ngang nghe nói rằng:
- Hôm nay trong phần ăn của chúng tăng không đủ. Sau khi ngài Ma Ha Tát Đỏa thông báo như vậy rồi.
Lời nói chưa dứt liền nghe tiếng vỗ cánh đập mạnh tự sát trước chư tăng. Vị Tỳ Kheo thấy thế liền bạch chúng Tăng. Nghe thấy như vậy rất động lòng cho nên xin thưa:
- Như Lai thuyết pháp tùy theo căn cơ chúng sanh, nhưng chúng sanh ngu muội chỉ giữ tiệm giáo, còn Giáo Lý Đại Thừa thì chính đáng hơn, cho nên bỏ việc nầy đi để cải đổi theo Thánh Chỉ, con nhạn nầy là một giới răn cho chúng ta thấy rồi đó. Đó là một cái đức rất dày, không làm sao tả hết được. Nơi đây có một Bảo Tháp để khuyên răn và làm kỷ niệm nơi con chim nhạn đã chết.
Phía đông bắc của núi Nhân Đà La Thế Ha Tốt Ha đi hơn 156 dặm đến chùa Ca Bố Đức Ca. Nơi đây tăng đồ hơn hai trăm người. Họ theo học Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phía đông của chùa lại có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng nên. Ngày xưa, Phật đã ở nơi nầy vì Đại chúng có một đêm thuyết pháp, có một người thợ săn vào rừng đặt lưới bắt những loài có cánh. Một ngày nọ chẳng bắt được con nào cả cho nên nói rằng:
- Tôi là người bạc phước chẳng làm nên sự tình gì
Cho nên đến nơi Phật mà nói lớn rằng:
- Hôm nay, Đức Như Lai nói Pháp ở tại đây, làm cho con không bắt được con chim nào cả, vợ con của con sẽ giận dữ vì đói khát và sẽ bỏ con ra đi.
Như Lai bảo:
- Nhà người hãy mang lửa lại đây sẽ có ăn.
Đức Như Lai hóa thành con chim Đại Bàng lao vào trong lửa rồi chết. Người thợ săn mang về vợ chồng gia đình cùng ăn. Sau đó đến nơi đức Phật, Như Lai vì phương tiện đã nhiếp hóa. Kẻ bắt chim nghe Pháp xong liền hối quá tự sửa mới lại đời mình, liền bỏ tục xuất gia tu học chứng Thánh qủa. Vì vậy có tên là Chùa Đại Bàng.
Chùa Ca Bố Đức Ca về phía nam hơn hai ba dặm đến núi Cô Sơn, núi nầy có nhiều cây cỏ tốt tươi. Có nhiều hoa đẹp lẫn trong rừng cây xanh mướt một màu. Bên trên có nhiều Tịnh Xá và Miếu Thờ điêu khắc rất là công phu. Chính giữa tịnh xá có tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát. Thân mình cao lớn đẹp đẽ giống như một vị thần tay cầm hoa sen. Trên đảnh đầu có tượng Phật. Thường có nhiều người nhịn ăn để tâm cầu thấy được Bồ Tát. Sau bảy ngày, mười bốn ngày cho đến một tháng thì có sự linh cảm. Thấy được đức Quán Tự Tại Bồ Tát diệu tướng trang nghiêm uy quang rực rỡ từ trong tượng nầy bước ra an ủi mọi người. Ngày xưa Vua Tăng Già La từ biển Nam, một ngày đẹp trời soi kiếng chỉ thấy mặt mà không thấy được thân, nghe biết rằng ở nước Ma Kiệt Đà thuộc Thiệm Bộ Châu, nơi rừng Đa La trong đó có một núi nhỏ, trên cao có tượng Bồ Tát nầy. Do đó nhà Vua, một lòng mong cầu được đến và quả thật như vậy, khi đến đây đã gặp. Nhân đây mà kiến thiết tịnh xá để tu phước cúng dường. Từ đó về sau, các Vua chúa thường theo phong tục nầy đến đây để lập tinh xá, chùa, viện rồi đem hương hoa kỷ nhạc cúng dường không dứt.
Phía đông nam của núi Cô Sơn, nơi có tượng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát đi hơn 40 dặm đến một Già Lam tăng đồ hơn 50 người. Họ học theo Tiểu Thừa. Phía trước chùa có một Bảo Tháp lớn rất là linh dị. Đây là nơi mà Phật ngày xưa, đã vì Phạm Thiên Vương thuyết pháp trong vòng bảy ngày. Nơi đây cũng là di tích của ba vị Phật trong quá khứ ngồi thiền và kinh hành.
Phía đông bắc của Già Lam đi hơn 70 dặm, gặp sông Hằng. Phía nam của sông Hằng có một làng rất lớn. Nhân dân giàu có và có rất nhiều đền thờ cùng những hình tượng điêu khắc. Phía đông nam chẳng bao xa lại có một Bảo Tháp mà Phật ngày xưa đã ở lại nơi đây để thuyết pháp. Từ đây đi đến phía đông vào trong rừng núi đi bộ hơn 100 dặm, đến làng Lạc Bát Nị La. Phía trước chùa có một Bảo Tháp lớn do Vua A Dục xây dựng. Nơi đây ngày xưa đức Phật đã ở lại ba tháng để thuyết pháp. Từ đây đến phía bắc hơn hai ba dặm có một ao lớn chu vi hơn 30 dặm, trong hồ nầy có hoa sen bốn màu nở quanh năm suốt tháng. Từ đây đi về phía đông vào trong rừng cây, đi bộ hơn 200 dặm nữa, đến nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dã.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển chín
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:07:10 GMT -5
Quyển thứ mười (17 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà 2. Nước Chiêm Ba 3. Nước Yết Châu Ôn Đệ La 4. Nước Bôn Na Phạt Đản Na 5. Nước Ca Ma Lầu Ba 6. Nước Tam Ma Đản Thát 7. Nước Trầm Ma Phiêu Đệ 8. Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Na 9. Nước Ô Trà 10. Nước Cung Ngự Đà 11. Nước Yết Lăng Già 12. Nước Kiều Tát La 13. Nước Án Đạt La 14. Nước Đà Na Yết Lân Ca 15. Nước Châu Lợi Da 16. Nước Đạt La Tỳ Trà 17. Nước Chư La Cự Thác
1) Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà chu vi hơn 3000 dặm, kinh đô phía bắc giáp sông Hằng, chu vi hơn 20 dặm. Nơi đây trồng lúa hoa quả rất tốt tươi, khí hậu điều hòa phong tục thưần chất. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 4000 tăng tín đồ, đa phần tu theo Tiểu thừa phái Chánh Lượng Bộ. Có hơn 20 đền thờ, ngoại đạo sống hỗn hợp với nhau. Có ông Vua bên cạnh lật đổ Vua nước nầy mang kinh đô nước nầy cúng thí cho chúng Tăng. Tại thành nầy có xây dựng hai ngôi Già Lam, mỗi nơi gần 1000 người. Họ tu học theo Tiểu thừa Giáo thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ.
Phía bên thành lớn tiếp giáp với sông Hằng là núi Y Lan Nõa, sương khói luôn luôn che phủ ngày đêm. Xưa nay các vị tiên thánh, tiếp tục hiển thánh nơi đây. Bây giờ có đền thờ ở phía nầy. Tại đây đức Như Lai cũng thường hay trú ngụ, đã vì trời người mà diễn thuyết Diệu Pháp. Thành lớn phía Nam có một Bảo Tháp, Như Lai đã ở đây ba tháng để thuyết pháp. Bên cạnh là nơi ghi lại dấu tích của ba vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền.
Phía tây nơi ba vị Phật kinh hành chẳng xa mấy, có một Bảo Tháp. Đây là nơi sanh trưởng của hai trăm ức Tỳ Kheo Lâu Đà Tần. Ngày xưa nơi thành nầy có một vị Trưởng Giả giàu có cự phú, nhưng chưa có người thừa kế. Cho nên đem hai trăm ức tiền vàng làm phước cầu con. Vì thế đứa con có tên là Cậu bé nghe hai trăm ngàn ức tiền vàng, liền đến chỗ chưa từng đặt chân đến. Với một bàn chân dài có cái lông chân hơn một thước, phát ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Cậu bé rất là xinh tươi đẹp đẽ, nhà ở tận trên núi Tuyết Sơn, được bảo đến ở bên nhà, để chế tạo thuốc nhưng không ai học được.
Người giàu có như thế, đức Thế Tôn biết rằng sẽ có một thiện căn phát triển cho nên mới bảo ngài Mục Kiền Liên đến để hóa độ. Ngài đến trước cửa nhà ông Trưởng giả chưa thông báo cho Trưởng giả và gia đình biết. Sáng đó ông đang hướng về hướng đông để lễ bái, lúc đó Tôn Giả dùng thần thông lực từ mặt trời mà hạ xuống phía trước. Trưởng giả nghi rằng đó là ông thần mặt trời do vậy cúng thí hương hoa đồ ăn rồi về. Đồ ăn và hương hoa nầy xông đến thành Vương Xá. Lúc ấy Vua Tần Bà Sa La nghe mùi hương khác lạ nên mới ra lệnh tìm xem, bèn đến Tinh Xá Trúc Lâm để gặp Ngài Mục Kiền Liên và Ngài lại mới từ nhà của Trưởng Giả trở về, do vậy biết con ông Trưởng Giả có một điều rất kỳ dị cho nên mới triệu vào. Trưởng Giả thừa mệnh Vua và vui vẻ chèo thuyền đánh trống vượt sóng gió lớn rất nguy hiểm, rồi lên xe cỡi voi đến. Người xem đông đảo chen lấn đạp lên nhau, như thế từ nhà ông cho đến Vương Xá Thành, họ dẫm lên đè bẹp cây cỏ. Thuyền rồng phía trước hướng dẫn đến Vương Xá thành, trước đảnh lễ đức Thế Tôn, đoạn Thế Tôn bảo rằng:
- Vua Tần Bà Sa La ra lệnh mời ông đến muốn xem lông chân của ông. Vua muốn xem cho nên ông ngồi kiết già và đưa chân về phía Vua. Theo quốc pháp thì chết, nên Trưởng giả xin sám hối trước rồi vào bên trong. Vua muốn thấy cái lông chân bèn bảo ngồi kiết già. Vua rất vui vẻ khi thấy được điều đặt biệt trân quý nầy rồi cho trở về nơi Phật.
Lúc ấy Như Lai đã nói về pháp sám hối. Nghe xong tỉnh ngộ liền xin xuất gia. Ông rất siêng năng tu tập muốn cầu chứng thánh quả, đi kinh hành không ngừng nghỉ nên chân ra máu. Đức Thế Tôn kêu lại bảo rằng:
- Nầy gã thiện nam! Lúc còn tại gia ngươi biết đàn phải không?
Đáp rằng:
- Dạ biết.
- Nếu biết rồi thì lấy đó làm thí dụ. Nếu dây căng quá thì chẳng hợp âm. Nếu dây dùn quá nghe chẳng hòa nhã, cho nên chẳng nhanh mà cũng chẳng chậm thì nghe mới được. Phàm kẻ tu hành cũng giống như vậy. Khi quá siêng năng thân sinh tật bịnh và tâm sinh giải đãi. Còn quá chậm chạp thì ý chí hao mòn.
Ông ta nghe Phật chỉ giáo rồi liền phụng hành không bao lâu được chứng quả.
Biên giới phía tây của nước là sông Hằng và phía nam đến núi Cô Sơn, nơi có nhiều núi non hiểm trở. Ngày xưa đức Phật đã an cư ở đây ba tháng, hàng phục Dạ Xoa Bạt Câu La. Phía đông nam của núi ở dưới chân núi có một tảng đá lớn nơi đó có dấu chân Phật còn lưu lại trên đá hơn cả thước. Chiều dài năm tấc hai và chiều ngang là hai tấc mốt. Trên đây có kiến tạo một Bảo Tháp. Tiếp đến phía nam gần tảng đá đó dấu tích nơi Phật để bình bát lún sâu hơn một tấc và có tám cái hoa sen mọc lên.
Không xa về phía nam cách chỗ Phật ngồi là dấu tích vết chân của Dạ Xoa Bạt Câu La, chiều dài năm sáu tấc, chiều rộng bảy tám tấc, ấn sâu xuống đá hai tấc. Phía sau dấu chân của Dạ Xoa, có một tượng Phật ngồi bằng đá rất lớn cao đến sáu bảy thước. Tiếp đến phía tây không xa mấy là nơi của Phật đi kinh hành. Ở trên đảnh núi nầy có chỗ của Dạ Xoa ở. Tiếp theo phía bắc có dấu chân của Phật dài hơn tám tấc và ngang hơn sáu tấc, ấn sâu xuống nửa tấc. Trên dấu tích nầy lại có một Bảo Tháp. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai hàng phục Dạ Xoa làm cho chúng chẳng giết người để ăn thịt, cung kính lãnh thọ giới của Phật sau đó rồi sanh Thiên. Phía tây có đến sáu bảy suối nước nóng. Nước ở đây rất nóng, biên giới phía nam giáp với rừng già. Trong đó có nhiều voi thân hình vĩ đại. Từ đây thuận theo sông Hằng về phía nam cách phía đông ba trăm dặm là nước Chiêm Ba.
2) Nước Chiêm Ba, chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành nằm ở phía bắc giáp với sông Hằng, chu vi hơn 40 dặm. Ruộng sâu nên cấy được nhiều lúa tốt. Khí hậu ôn hòa phong tục thuần chất. Có hơn 10 ngôi Già Lam, hầu hết bị hư. Tăng đồ hơn 200 người, họ tu theo Tiểu Thừa. Có hơn 20 đền thờ. Ngoại đạo sống lộn xộn. Tường của Đô Thành xây bằng gạch cao hơn một trượng. Bước được qua nơi nầy cũng rất nguy hiểm.
Ngày xưa ở kiếp sơ, con người cùng muôn vật sống nơi hoang dã lấy hang núi làm nhà chưa có phòng ốc. Có một Thiên Nữ xuống trần dạo chơi. Đến sông Hằng tắm rửa uống nước, sau đó thọ thai, sinh ra bốn người con, chia đi hùng cứ mỗi phương ở Thiệm Bộ Châu, kiến thiết thủ đô thành ấp phân chia ranh giới và mỗi người cai trị một nước. Thành Thiệm Bộ Châu là thành đầu tiên. Phía đông của thành có hơn 150 dặm là sông Hằng Hà. Phía nam nước chảy xiết, trên đó có một đền thờ linh ứng. Người ta lấy đá làm phòng, lấy nước dẫn vào hồ. Hoa rừng có nhiều loại quý báu. Đỉnh núi nầy có nhiều đá cheo leo. Kẻ hiền nhơn và người có trí đều cư ngụ nơi đó. Khi xem nơi này thì quên trở về cố quốc. Biên giới phía nam của nước nầy là rừng hoang, trong đó có nhiều voi, mãnh thú số có hơn ngàn. Từ đây đi về phía đông hơn bốn trăm dặm đến nước Yết Châu Ôn Đệ La.
3) Nước Yết Châu Ôn Đệ La chu vi hơn 2000 dặm, đất đai nước non ẩm thấp cho nên trồng lúa rất tốt. Khí hậu ôn hòa, phong tục tốt đẹp.Thường kính trọng những bậc học cao và quý trọng nghề nghiệp. Có sáu bảy ngôi Già Lam, và hơn 300 Tăng Sĩ. Có hơn 10 ngôi đền thờ, ngoại đạo tạp cư. Từ hàng trăm năm nay, Vương tộc đã tuyệt tự cho nên phụ thuộc nước bên cạnh. Vì vậy nơi thành có nhiều thôn xóm lập ra lộn xộn. Ngày xưa Vua Giới Nhựt đi về phía đông Ấn Độ liền cho xây dựng cung nầy và đặt chỗ cai trị. Đến ngày nay chỉ còn lại dấu tích vì lửa đã hỏa thiêu hết rồi.
Biên giới phía nam của nước ấy có nhiều voi rừng. Biên giới phía bắc giáp với sông Hằng. Không xa mấy, có một đài rất cao được xây bằng đá gạch. Đài nầy được chạm trỗ rất tinh vi. Chung quanh đài bốn mặt đều có chạm hình các vị Thánh. Hình Phật và hình chư Thiên được khắc riêng. Từ đây đi qua phía đông gặp sông Hằng. Đi hơn 600 dặm nữa, gặp nước Bôn Na Phạt Đản Na.
4) Nước Bôn Na Phạt Đản Na chu vi hơn 4000 dặm. Đô thành chu vi hơn 30 dặm. Cư dân sống rất đông đúc. Có ao hồ có nhà cửa, có hoa lá rừng cây. Người người qua lại rất vui vẻ, đất đai nằm dưới thấp nên cày cấy rất thưận lợi. Có nhiều trái cây rất trân quý. Quả nầy lớn như trái bí đỏ và chuyển màu vàng đỏ sau khi chín. Cắt ra trong ruột có nhiều hạt nhỏ. Lớn như trứng chim hạc, khi đập ra trong đó có nước vàng đỏ. Mùi vị rất ngọt ngào. Hoặc tại nơi cành cây có nhiều trái kết lại với nhau, hoặc tại nơi gốc cây trái cũng như thế. Khí hậu điều hòa, phong tục tốt đẹp ưa chưộng sự học hỏi. Có hơn 20 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ. Họ tu tập theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Đền thờ của ngoại đạo có hơn 100 ngôi. Họ sống tạp nhạp tu theo đạo lõa thể.
Phía tây của thành hơn 20 dặm có một chùa tên là Bạt Thỉ. Vườn Chùa rất rộng có xây đài cao. Tăng đồ hơn 700 người, tu học theo Giáo Pháp Đại Thừa.
Biên giới phía đông Ấn Độ đa phần những bậc thạc học danh tăng đều sinh ra ở nơi nầy. Cách đây không xa, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Ngày xưa đức Như Lai đã ở lại nơi đây ba tháng vì chư Thiên và loài người mà thuyết pháp. Đến giờ ngọ thường phát ra ánh sáng. Phía nầy còn có di tích của bốn vị Phật ngồi thiền và đi kinh hành. Nơi đây chẳng xa lại có một tinh xá trong đó có dựng tượng Bồ Tát Quán Tự Tại rất linh thiêng và thường hay ứng hiện, xa gần mọi người đều đến đây để cầu khẩn. Từ đây sang phía đông đi hơn 900 dặm, qua sông đến nước Ca Ma Lầu Ba ở phía đông xứ Ấn Độ
5) Nước Ca Ma Lầu Ba, chu vi hơn vạn dặm. Đô Thành hơn 30 dặm, đất đai màu mỡ trồng trọt, thu hoạch tốt. Có nhiều trái cây quý. Trên rừng có nhiều danh mộc. Ngoài ra, sông ngòi và ao hồ giao nhau bên cạnh thành ấp. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất. Người ở đây tướng tốt nhưng da ngăm đen. Ngôn ngữ không khác mấy với người miền trung Ấn Độ. Tánh tình rộng rãi phóng khoáng. Ý chí cao cả ưa học tập. Người ở đây thờ thần là chính, không tin tưởng Phật Pháp. Cho nên từ thời đức Phật cho đến bây giờ, vẫn chưa thành lập được Già Lam nào để mời chư Tăng về. Tuy có một số ít tín đồ; nhưng chưa làm được gì cả. Có cả hàng trăm đền thờ và hàng vạn người theo ngoại đạo.
Vua bây giờ thuộc dòng dõi của Bổn Na La Diên Thiên, giai cấp Bà La Môn tên là Bà Tắc Kệ La Phạt Ma, hiệu là Câu Ma La, chiếm cứ lãnh thổ gần Vua Dịch Diệp. Nối tiếp cho đến bây giờ là đời Vua thứ 1000. Quốc Vương ham học. Cho nên dân chúng cũng noi theo. Những người học cao biết rộng đến đây rất đông. Tuy họ không thuần tín Phật Pháp, nhưng rất cung kính bậc Sa Môn, học cao, biết rộng. Đầu tiên họ nghe có vị Sa Môn đến nước nầy từ chùa Na Lan Đà của nước Ma Kiệt Đà, vị nầy là người từ xa đến học, nhưng Phật Pháp rất thâm hậu, khuyên răn mọi người đến ba lần. Nếu kẻ nào chưa đến thì ngài Thi La Phạt Đa La (Giới Hiền) luận sư nói rằng:
- Muốn báo ân Phật phải nên hoằng truyền Chánh Pháp. Con hãy đi đi, đừng nản lòng gì cả. Vua Câu Ma La tin theo ngoại đạo. Nhưng nay thỉnh Sa Môn đến là điều rất quý hóa. Nay nhân cơ hội nầy có thể biến đổi để được phước lợi về sau. Con ngày xưa với tâm từ quảng đại đã khởi lên tâm niệm và phát thệ hoằng thâm. Nguyện đi một mình đến các nơi khác. Bỏ thân để cầu Pháp, nhằm phổ tế hàm linh. Há điều đó từ nơi quê hương đã quên rồi sao? Chớ nệ hà vinh nhục hãy tuyên dương Thánh Giáo và khai đạo quần mê. Trước vì sự hoằng pháp mà hãy quên đi danh phận của mình. Đây là điều không được giải đãi mà nên tiến hành để hội kiến gặp gỡ.
Vua Câu Na La nói:
- Tuy là kẻ bất tài nhưng thường hay ái mộ những bậc học rộng tài cao, đã nghe danh từ lâu và muốn cung thỉnh.
Trả lời rằng:
- Kẻ nầy tài trí thô thiển thấp kém, không biết rằng có lưu được cái gì lại chăng?
Vua Câu Ma La đáp:
- Lành thay, lành thay! Vì ham học Phật pháp mà làm cho ngài phải khổ thân. Vượt qua những khó khăn nguy hiểm, từ xa đến nước nầy, để theo những phong tục mà học hỏi. Bây giờ ở Ấn Độ nầy, các nước đều ca tụng ngài là bậc Đại Tỳ Kheo đã đến đây mang lại niềm vui cho bao người, cũng giống như quê hương của Đại Đức vậy.
Đáp rằng:
- Thật là một lời ca ngợi quá tốt đẹp. Đó là nhờ cái đức của quân vương.
Vua Câu Ma La nói:
- Bạch Đại Đức, đừng lo lắng. Người nước nầy ái mộ phong tục phía đông từ lâu. Không vì sơn xuyên cách trở, đường sá xa xôi, mà đã đến đây được là điều rất quý.
Đáp rằng:
- Với tôi, Vua là một bậc Thánh có cái đức rất cao cả, xa gần đều gội nhuần, đã làm cho mọi người cung kính trọng vọng.
Vua Câu Ma La đáp:
- Nhờ được che chở, lòng nầy muốn được triều cống cho Vua Giới Nhựt ở nước Yết Chư Ôn Đệ La sẽ làm đại Pháp Thí để trồng cây Phước Đức. Các vị Sa Môn, Bà La Môn có học của năm nước Ấn Độ, chưa được triệu tập, nay lại thỉnh mời mong ngài cùng đi, đến nơi đó. Nước nầy ở phía đông dãy núi gần đây và không có đô thành lớn. Phía Tây Nam, tiếp giáp với biên giới, cho nên người ở đây như mọi rợ. Muốn biết vấn đề rõ ràng của nơi ấy thì cứ hai tháng đi về phía biên giới tây nam một lần. Tuy nhiên núi sông hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Rắn độc, cây độc sẽ làm hại đến người và phía đông nam của nước ấy lại có nhiều bầy voi dữ. Cho nên trong xứ, có nhiều chiến trận sử dụng bằng voi. Từ đây đi về phía Nam hơn 1230 dặm, đến nước Tam Ma Đản Thát.
6) Nước Tam Ma Đản Thát chu vi hơn 3000 dặm, nằm gần bờ biển, đất đai ẩm thấp. Đô thành rộng hơn 20 dặm. Cày cấy trồng trọt hoa quả tốt tươi. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần nhã, người tánh tình cương trực, da ngăm màu nắng. Siêng năng học tập, tà chánh đều tin. Có 30 ngôi Già Lam. Có hơn 2000 tăng đồ. Họ đều tu tập theo phái Thượng Tọa Bộ. Có 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Nơi đây họ tu theo phái Ni Kiền Tử (Lõa Thể). Cách thành không xa mấy, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Ngày xưa đức Như Lai đã vì chư Thiên và loài người thuyết pháp ở nơi đây bảy ngày. Bên cạnh đó là dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Cách nơi nầy không xa có một Già Lam, trong đó có một tượng Phật ngọc xanh, chiều cao tám thước, tướng hảo trang nghiêm viên mãn, vô cùng linh diệu. Từ đây đi đến phía đông bắc gặp bờ biển. Cách núi phía bên kia là nước Thất Lợi Sai Đản La. Tiếp đến phía tây nam của biển lớn là nước Ca Ma Lãng Ca. Tiếp đến phía đông là nước Tri La Bát Đệ. Tiếp đến phía đông có nước Y Thưởng Na Bổ La.
Tiếp theo phía đông có nước Ma Ha Chiêm Ba, là nước Lâm Ấp. Đến phía Tây Nam là nước Chiêm Ma Na Châu. Phàm sáu nước nầy núi sông cách trở cho nên không nhập cảnh được. Tuy nhiên những phong tục tập quán của các nước nầy đều được nghe biết. Từ nước Tam Ma Đản Thác đi qua phía tây hơn 900 dặm, đến nước Trầm Ma Phiêu Đệ.
7) Nước Trầm Ma Phiêu Đệ chu vi 1450 dặm. Đô Thành hơn 10 dặm. Nằm gần bờ biển nên đất đai ẩm thấp, cày cấy được mùa, hoa quả tốt tươi, khí hậu nóng nực, phong tục hùng tráng. Tánh người háo động, tà chánh đều tin. Có hơn 10 ngôi Già Lam, hơn 1000 Tăng Sĩ, có hơn 50 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Nước nầy có bờ biển và sông ngòi giao nhau, cho nên có nhiều vật quý báu tụ tập nơi đây. Phải nói rằng người của nước nầy rất giàu có. Phía trong thành có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng. Bên cạnh đó là nơi dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền. Từ đây đi đến hướng tây bắc hơn 700 dặm, đến nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Na.
8) Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Noa có chu vi hơn 4450 dặm, có đô thành với chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng nơi đây rất giàu có sung túc. Ruộng nương nằm dưới thấp nên rất được mùa. Hoa trái cây cỏ tốt tươi. Khí hậu điều hòa, phong tục thuần hậu. Học vấn và nghề nghiệp cao. Tin theo cả tà lẫn chánh. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 2000 Tăng Sĩ, tu theo phái Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ, có 50 đền thờ, theo ngoại đạo tạp cư. Đặc biệt có ba ngôi chùa không ăn sữa đặc, vì tôn sùng lời dạy của Tôn Giả Đề Bà Đạt Đa.
Phía bên Đại Thành có một chùa tên là Lạt Đà Vị Tri, có vườn rất rộng, cũng như có các cốc nhỏ chung quanh. Trong nước có những bậc tài cao, thông minh, mẫn tiệp, hoặc tập trung ở đây là những vị giới đức trang nghiêm mô phạm. Đầu tiên ở nước nầy, dân chúng chưa tin tưởng Phật Pháp. Khi ấy ở phía nam Ấn Độ có một người ngoại đạo, bụng mang lá đồng, đầu đội đèn sáng, tay chống tích trượng từ xa đi vào thành, liền đánh chuông trống muốn cầu luận nghị. Có người hỏi rằng:
- Đầu và bụng mang cái gì lạ lùng như vậy?
Đáp rằng:
- Ta có nhiều khả năng về học thuật, nhưng sợ cái bụng nó bể và buồn cho những kẻ ngu ám nên mới mang đèn đến để chiếu sáng.
Nhiều ngày sau người kỳ dị đó đi trên đường mà chẳng có ai hỏi đến. Vua bảo rằng:
- Trong nước của mình không có bậc minh triết nào sao? Đối với vị khách kia khó mà thù đáp, nhưng vì thể diện quốc gia, phải làm sao cầu thỉnh cho được người hiền đức.
Lại có kẻ thưa:
- Trong rừng sâu, cũng có một kẻ khác đời, khác người, tự xưng là Nhật Sa Môn. Có sở học rất cao cường và đã ở lâu nơi sơn lâm tịch tinh. Vì thể diện quốc gia cũng như đức độ của Vua, chẳng lẽ không thể mời được người nầy sao?
Vua nghe như vậy đích thân đi đến thỉnh mời. Sa Môn đáp rằng:
- Tôi là người phía nam xứ Ấn Độ, đến đây ở lại học nghiệp rất nông cạn, sợ chẳng giống như điều nghe. Có thể đến được chẳng dám chối từ, nhưng xin thưa nếu luận nghị không thua phải kiến lập Già Lam để triệu tập tăng đồ đến chấn hưng Phật pháp.
Vua đáp:
- Xin cung kính ghi nhận và không quên công đức đó. Sau đó Sa Môn nhận lời thỉnh cầu đến đạo tràng để luận nghị. Lúc ấy ngoại đạo đọc tụng hơn ba vạn lời. Ý nghĩa sâu xa văn chương bác học bao hàm danh tướng thấy nghe trùng trùng như lỗ lưới. Sa Môn nghe qua một lần thì đã hiểu rõ từng câu từng chữ chẳng sai lầm, dùng lời để biện bạch cả trăm lần và giải thích cũng như để hỏi lại Ngoại Đạo. Ngoại Đạo ý hết lý đuối, câm miệng chẳng thể trả lời. đã thua xấu hổ rồi lui. Vua thâm kỉnh cái đức ấy cho nên cho kiến tạo Già Lam nầy và từ đó về sau dùng nơi nầy để hoằng pháp.
Cách Già Lam chẳng bao xa, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Tại đây ngày xưa đức Như Lai đã khai đạo thuyết pháp bảy ngày. Bên cạnh đó có một tinh xá là nơi ghi lại dấu vết của bốn vị Phật trong quá khứ đã kinh hành và ngồi thiền. Lại có Bảo Tháp là nơi Như Lai đã ngồi thuyết pháp do Vua A Dục dựng nên. Từ đây đi qua phía tây nam, hơn 700 dặm, đến nước Ô Trà.
9) Nước Ô Trà có chu vi hơn 7000 dặm, có đô thành chu vi 20 dặm. Đất đai màu mỡ, lúa thóc được mùa. Hoa trái thật là sum sê và nhiều hoa thơm cỏ lạ, khó mà tường thuật hết. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần hậu. Người dung mạo đẹp đẽ. Ngôn từ dịu dàng, khác với miền trung Ấn Độ. Thích học hỏi nhưng chẳng thâm tín Phật Pháp, có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 10 ngàn Tăng Sĩ, tất cả đều tu theo Đại Thừa. Có hơn 50 đền thờ, ngoại đạo sống tạp nhạp. Có hơn 10 Bảo Tháp, đều là những nơi đức Như Lai thuyết pháp và do Vua A Dục dựng nên.
Phía tây nam biên giới là núi cao, lại có một Già Lam nơi đó cũng có một Bảo Tháp bằng đá rất linh dị, đến trưa hào quang chiếu sáng rực rỡ. Cho nên có nhiều tịnh tín xa gần đến đây để lễ bái, hoặc mang hương hoa tràng phan bảo cái để tu phước cúng dường. Số nhiều vô kể và những Bảo Cái được dựng ở bên ngoài rất đẹp đẽ. Từ phía tây bắc của Già Lam lại có một Bảo Tháp cũng giống như phía trước. Đây là hai Bảo Tháp mà do chư Thần kiến tạo nên. Cho nên rất linh dị. Phía đông nam biên giới của nước, giáp bờ biển lớn có thành Chiếc Lợi Đản La với chu vi hơn 20 dặm. Tại xứ nầy có nhiều lữ khách đến từ vùng biển. Họ qua lại các nơi khác và dừng ở đây. Thành quách rất kiên cố vì có nhiều của quý. Bên ngoài thành có hơn 50 ngôi Già Lam.Trong chùa có trang trí những tượng rất trang nghiêm. Phía nam đến nước Tăng Già La hơn hai vạn dặm. Những đêm thanh tịnh đáo mắt nhìn về nước kia thấy Bảo Tháp răng của Phật, trên đó có phóng ra hào quang, giống như đèn chiếu sáng huyền bí nhiệm mầu. Từ đây đi về phía tây nam vào trong rừng sâu đi hơn 1200 dặm, đến nước Cung Ngự Đà.
10) Nước Cung Ngự Đà có chu vi hơn 1000 dặm, Đô Thành hơn 20 dặm, nằm cạnh bờ biển lại có núi cao. đất đai ẩm thấp, lúa thóc được mùa. Khí hậu ấm áp. Phong tục náo động. Hình tướng kỳ dị, nước da đen bóng. Tuy có lễ nghĩa nhưng ưa dối trá. Chữ viết giống như miền trung Ấn Độ, lời nói và phong tục có nhiều khác biệt. Tôn sùng ngoại đạo chẳng tin Phật Pháp. Có hơn 100 ngôi đền thờ và hơn vạn người ngoại đạo. Trong nước có 10 thành nhỏ. Biển và núi giao nhau cho nên thành rất kiên cố, binh lính mạnh mẽ oai hùng nằm ở biên giới, chẳng ai địch nổi. Đất nước nầy giáp biển cho nên có nhiều vật quý. Dùng ốc sò trân châu là phương tiện trao đổi khi mua bán. Nơi đây có nhiều voi xanh, chạy rất nhanh. Từ đây qua phía tây nam vào nơi hoang dã đến rừng sâu, có cây cối rậm rạp, đi hơn 1450 dặm, đến nước Yết Lăng Già nằm ở miền nam Ấn Độ.
11) Nước Yết Lăng Già có chu vi hơn 5000 dặm, đô thành hơn 20 dặm. Lúa thóc hoa quả được mùa. Rừng rậm cây cối hoang vu, có cả hàng trăm loại động vật khác nhau. Có nhiều voi xanh sanh sản ở đây được xuất khẩu qua các nước bên cạnh. Khí hậu nóng bức, phong tục thô bạo. Tánh tình con người hung tợn, nhưng ý chí còn tin nơi điều nghĩa. Ngôn ngữ nhẹ nhàng khi phát âm điều tiết. Tiếng nói phong tục khác với miền trung Ấn Độ, ít tin tưởng chánh pháp, lại hay tin theo ngoại đạo. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 500 tăng đồ, họ theo cả hai truyền thống Đại Thừa và Thượng Tọa Bộ. Có hơn 100 ngôi đền thờ, Ngoại đạo sống hỗn tạp, đa phần là Ni Kiền Tử.
Nước Yết Lăng Già, tại đây ngày xưa có lúc tập tục của nhân gian rất thịnh hành. Người xứ nầy xúc phạm đến vị Tiên Nhơn, đạt đến Ngũ Thông và vị ấy mất hết thần thông cho nên dùng chú thuật tàn hại người cả nước. Do đó người ở đây còn lại rất ít. Ngày tháng trôi qua càng ngày càng giảm. Vì phạm lỗi đó cho nên người càng ngày càng ít.
Thành phía Nam chẳng xa có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, do Vua A Dục dựng lên. Bên cạnh đó có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ ngồi Thiền và kinh hành. Biên giới phía bắc đến đỉnh núi cao lại có một Bảo Tháp bằng đá cao hơn 100 thước. Vào một kiếp sơ nọ khi con người thọ nhiều tuổi, có một vị Độc Giác Phật nhập Niết Bàn nơi đây. Từ đây đi về phía tây bắc chỉ toàn là núi và rừng rậm. Đi hơn 1800 dặm, đến nước Kiều Tát La, nằm ở miền trung Ấn Độ.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:07:47 GMT -5
12) Nước Kiều Tát La có chu vi hơn 6000 dặm. Có núi non rừng rậm bao bọc chung quanh. Đô thành có chu vi hơn 40 dặm, đất đai trồng trọt thuận lợi tốt tươi. Làng mạc nhà cửa san sát, người người giàu có. Hình dáng người kỳ dị, nước da ngâm đen, phong tục hùng tráng. Tánh tình thô bạo. Tin theo tà và chánh. Nghề nghiệp tinh xảo. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợi. Tôn kính Phật Pháp nhơn từ đức độ. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn một vạn Tăng Sĩ, tu theo Giáo lý Đại Thừa. Có 70 đền thờ. Ngoại Đạo sống hỗn tạp. Cách thành về phía nam chẳng xa, có một ngôi chùa cũ, bên cạnh đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã từng đến và ở, hiện đại thần thông nhiếp phục ngoại đạo. Nơi nầy, cũng là nơi dừng chân của Bồ Tát Long Mãnh. Lúc bấy giờ có vị vua tên là Bà Đà Bà Ha (Dẫn Chánh) rất trân quý và cung kính ngài Long Mãnh. Bốn bên đều có hộ vệ. Lúc bấy giờ có Bồ Tát Đề Bà từ nước Chấp Sư Tử đến muốn cầu Luận nghĩa nói với các môn nhân rằng:
- Hân hạnh xin được yết kiến.
Thời môn nhân đến bạch Ngài Long Mãnh biết danh tánh. Ngài Long Mãnh đổ nước đầy bình bát và ra lệnh cho đệ tử rằng:
- Ông mang nước nầy đưa cho Đề Bà.
Đề Bà chờ nước đứng yên rồi bỏ cây kim vào. Đệ tử mang bát trở lại với vẻ hoài nghi. Long Mãnh hỏi:
- Ông ấy nói gì?
Đáp rằng:
- Yên lặng, không nói gì hết, rồi bỏ cây kim vào bát.
Long Mãnh nói:
- Thật là kẻ tài trí! Kẻ đó biết việc như thần. Phải là bậc Á Thánh. Đạo đức cao vời. Hãy mời vào.
Hỏi rằng:
- Nghĩa là sao? Không lời nói vi diệu biện tài nào hơn.
Đáp rằng:
- Phàm là nước thì tùy theo đồ đựng mà có hình dáng tròn hay vuông, theo đó mà hiện sạch hay dơ, không có gì có thể ngăn cản và đong lường hết được. Đem sự to lớn đó mà so sánh với sự học của ta thật là tài trí. Việc bỏ cây kim vào trong nước, phải nói rằng một điều hy hữu. Đây là kẻ rất phi thường hãy cho vào.
Long Mãnh thấy phong thái tư cách an nhiên đẹp đẽ, lời nói ôn tồn sanh ra cảm phục. Đề Bà có đầy đủ phong cách như thế mà từ xa còn đến đây muốn học hỏi. Dáng dấp oai thần đi đến rất oai nghiêm, rồi lên tòa ngồi và đàm luận suốt ngày không hết. Câu nghĩa chương cú thanh tao. Cho nên Long Mãnh nói:
- Kẻ hậu học nhìn đời vi diệu. Sự biện bác sáng sủa hơn trước. Tôi nay gặp người tuấn kiệt và thành thật nói rằng đây là điều hy hữu và ngọn đèn Chánh Pháp không thể tắt. Giáo Pháp ấy có thể hoằng dương cho người đời sau thật là hân hạnh. Có thể đến cái ghế trước mặt để đàm luận huyền nghĩa.
Đề Bà nghe nói như vậy, tâm liền tự phụ đến trước phát lời biện luận nghĩa lý. Đề Bà dùng từ thật mạnh hướng về đối chất nghĩa lý. Nhưng thấy uy nghi dung mạo rồi quên đi lời và ngậm miệng. Đoạn từ chỗ ngồi bước xuống rồi xin theo học. Long Mãnh nói:
- Hãy ngồi xuống lại đi. Bây giờ ngươi là học trò, ta sẽ dạy cho Chân Diêụ Lý Pháp Vương. Lúc ấy Đề Bà ngũ thể đầu địa một lòng nghe lời và thưa:
- Từ nay về sau con xin vâng mệnh. Long Mãnh Bồ Tát sống nhàn nhã nhờ thuốc dưỡng sinh, thọ mạng hơn 100 tuổi mà dung mạo không suy. Cũng giúp nhà Vua thuốc men như thế để thọ hơn 100 tuổi.
Nhà vua có một Vương tử, hỏi mẹ rằng:
- Con bao giờ được làm Vua?
Mẹ đáp:
- Ta thấy chưa có cơ hội nào cả. Ta nghe vua sống đến hàng trăm tuổi cho nên con cháu già hết, và cũng sống lâu. Lại được Long Mãnh cho thêm phước lực bằng thuốc trường sanh. Nếu Bồ Tát tịch diệt, nhà vua mất ngôi.
- Long Mãnh Bồ Tát là bậc trí huệ cao vời, từ bi thâm hậu, ban cho tất cả quần sanh một đời sống như thế. Nên con có thể đến đó, xin cái đầu của Ngài. Nếu được thì kết quả sẽ như ý.
Vương tử theo lời dạy của mẹ, đến Già Lam và xin người gác cổng được vào bên trong. Lúc ấy ngài Long Mãnh Bồ Tát đang tụng kinh và nhiễu Phật, liền thấy Vương Tử nên hỏi rằng:
- Vì lý do gì mà đến tăng phòng vào ban đêm vậy? Có gì nguy hại tật bịnh mà đến phải không?
Đáp rằng:
- Từ mẫu của con dạy con rằng kẻ sĩ xả thân, sự xả thân ấy cũng mang lại lợi lạc cho quần sanh. Qua lời dạy đó con chưa có thể bỏ được báo thân nầy để cầu được điều như ý muốn. Mẹ con bảo không sao, Chư Thiện Thệ Như Lai của ba đời trong mười phương xưa nay để được chứng quả phải cần cầu Phật Đạo, tu tập Giới Nhẫn. Hoặc hiến thân cho thú, hoặc cắt thịt cho chim. Vua Nguyệt Quang đã thí đầu cho Bà La Môn. Vua Từ Lực đã hiến máu cho Dạ Xoa. Những việc như thế khó mà nói hết, trước cầu cho mình giác ngộ chứ không phải cho người khác. Nay, Bồ Tát Long Mãnh có ý chí cao vời cho nên con cũng cầu xin được cái đầu của ngài để có việc. Nếu ngài xả thì có thể vào cuối năm nầy. Như ngài xả liền thì tội con rất nhiều, việc đó sẽ hại đến cái đức. Nguyện cho sự tu tập của Bồ Tát sẽ thành Phật quả, đem lòng từ đến cho chúng sanh và trí tuệ ấy thì vô cùng. Xin xem nhẹ sinh mạng và xem thân nầy trôi nổi như một loại giặc, Ngài có thể vì bổn nguyện mà cho con được toại nguyện không?
Long Mãnh Bồ Tát đáp:
- Lời nói hay thật, Ta vốn cầu Thánh quả, và học Phật nên thường xả bỏ. Thân nầy như âm hưởng như bọt nước lưu chuyển trong tứ sanh, qua lại trong lục thú, chứa chấp nhiều lời nguyện, chẳng muốn một việc gì mà nay Vương Tử chỉ có một chứ không khác. Nếu Vương Tử vẫn một lòng mong muốn ta sẽ tuân mệnh. Nhưng khi thân ta mạng chung rồi thì Phụ Vương của Vương Tử cũng mất. Nhưng rồi ai là người bảo hộ ngươi. Long Mãnh bồi hồi đáp sự yêu cầu rồi tuyệt mệnh. Bèn lấy lá khô tự vận, sau đó lấy kiếm để cắt đầu. Vương Tử thấy thế rất kinh ngạc rồi lui. Người gác cổng thưa:
- Việc ấy xong chưa?
Vua nghe bi cảm và kết quả là ngài đã ra đi.
Phía tây nam của nước đi hơn 300 dặm, đến núi Phạt La Mạt La Kỳ Lý. Nơi đây có đỉnh cao rất nguy hiểm. Có nhiều hang động bao bọc toàn là đá. Vua Chánh Vương đã vì Long Mãnh Bồ Tát mà xây dựng Già Lam trong núi ấy. Đi khỏi núi khoảng 10 dặm có đường trống. Từ núi nhìn xuống có rất nhiều đá. Nơi đó có nhiều hành lang đi bộ, giống như những ngôi nhà xây nhiều tầng. Có nơi cao đến năm tầng và có nhiều Viện khác nhau. Trong mỗi tinh xá như thế đều có những tượng bằng vàng, lớn bằng thân Phật điêu khắc kỳ công, tướng hảo trang nghiêm và tất cả những trang sức đều bằng vàng quý. Gần nơi đỉnh núi cao ấy, có một thác nước từ trên chảy xuống, bên ngoài các hang động có phát ra ánh sáng. Nơi đây Vua Chánh Vương có kiến thiết Già Lam. Nhân lực hao mòn, công khố trống rỗng. Việc ấy chưa xong phân nửa, mà tâm hay âu lo cho nên Long Mãnh thưa rằng:
- Đại Vương vì sao có sự ưu sầu như thế?
Vua đáp:
- Ta đã dùng tất cả tấm lòng để làm việc phước đức lâu dài đợi Ngài Từ Thị, công việc chưa xong mà tiền tài hết sạch. Mỗi lần nghĩ đến buồn lo, ngồi đây để chờ.
Ngài Long Mãnh thưa:
- Xin đừng lo âu. Phàm là phước đức thắng diên thì không có cái cuối cùng. Cứ phát nguyện lớn đừng lo chẳng xong.
Ngày hôm đó, Vua về lại cũng rất là an lạc. Sau đó Vua xuất du để thăm sông núi liền đến nơi bình nghị nầy mà kiến thiết Bảo Tháp. Vua đã thọ nhận sự hối quá và tiếp tục phụng trì Chánh Pháp. Long Mãnh Bồ Tát có thần dược vi diệu đã rải lên trên đá lớn, liền biến thành vàng. Vua đến thấy vàng, tâm rất sung sướng. Khi hồi giá đến nơi Long Mãnh thưa rằng:
- Hôm nay, du ngoạn đã có sự cảm ứng của thần linh, nơi đất đai núi rừng kia, đã thấy được vàng bạc tụ lại.
Long Mãnh nói:
- Chẳng phải quỷ thần cảm động đâu. Đó là do lòng chí thành mà cảm ứng nên vàng bạc vậy.
Sau khi nói như vậy liền cho lấy về để xây dựng chùa Tháp. Sau khi xây dựng xong, chùa năm tầng, mỗi tầng như thế đều có bốn tượng Phật lớn bằng vàng. Những vàng còn dư đem cho vào kho, rồi triệu tập một ngàn vị tăng đến để lễ tụng và Long Mãnh Bồ Tát vì Giáo Pháp của đức Thích Ca mà tuyên dương và vì các vị Bồ Tát khác diễn thuật và bàn luận, soạn ra biệt tạng ở nơi nầy. Nơi tầng lầu một chỉ để tượng Phật và các kinh luận. Tầng năm phía dưới cùng để cho tịnh nhân ở và những đồ vật riêng tư. Ở giữa ba tầng thì làm phòng ốc. Nghe người xưa bảo lại rằng:
- Khi Vua Chánh Vương xây dựng xong, kể cả công nhân ăn uống và chư Tăng dùng hết chín ức tiền vàng.
Cho nên sau nầy tăng tín đồ phẫn nộ tranh đấu và phê phán Vua. Lúc ấy các tịnh nhơn liền nói rằng:
- Tăng đồ tranh tụng nói lời hủy báng nhau. Kẻ ác sẽ nhân đây mà hủy hoại Già Lam. Cho nên những lầu nầy không cho tăng đồ ở. Từ đây về sau chư Tăng không được qua lại, tới lui nơi cửa của nước nầy.
Lúc bấy giờ, liền cho những y sư giỏi vào bên trong để trị bệnh, nhiều cửa ra vào chẳng biết làm sao kiểm soát. Từ đây vào trong rừng sâu phía Nam đi hơn 900 dặm, đến nước An Đạt La ở phía Nam Ấn Độ.
13) Nước An Đạt La có chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. Tên thành là Bình Kỳ La, đất đai tốt tươi. Cày cấy trồng trọt được mùa. Khí hậu ôn hòa, phong tục phức tạp. Ngôn ngữ nhẹ nhàng khác với miền trung Ấn Độ. Chữ nghĩa quy tắc giống nhau. Có hơn 20 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ. Đền thờ có hơn 30 ngôi. Ngoại đạo sống tạp nhạp. Cách thành Bình Kỳ La chẳng bao xa có một ngôi Già Lam lớn. Ngôi chùa nầy có nhiều tầng lầu vô cùng đẹp đẽ. Tượng Phật và các tượng Bồ Tát hình tướng trang nghiêm chạm trổ rất công phu. Phía trước Già Lam có một ngôi Bảo Tháp cao hơn 100 thước. Đây là do vị Chiết La A La Hán kiến tạo.
Sau chùa A La Hán, về hướng tây nam chẳng bao xa lại có một Bảo Tháp, do Vua A Dục dựng nên. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp, hiện đại thần thông độ vô lượng chúng.
Rồi cũng từ phía tây nam của chùa A La Hán đi hơn 20 dặm, đến núi Cô Sơn. Trên đảnh núi có một Bảo Tháp bằng đá, nơi đây Ngài Trần Na Bồ Tát tạo nên Nhân Minh Luận (Dinnagà-Đồng Thụ). Bồ Tát Trần Na là người sau Phật Nhập Diệt mặc Pháp Y, chí nguyện rộng lớn, huệ lực thăm thẳm, thương đời chẳng nơi nương tựa, nên muốn hoằng dương Thánh Giáo, mà tạo ra Nhân Minh Luận. Lời sâu lý rộng. Nếu bậc học giả không cố gắng thì khó thành sự nghiệp, bèn vào thâm sơn tham thiền nhập định quán sát nội tâm, xem xét lợi hại mới tạo nên văn nghĩa. Lúc bấy giờ trong động đá gây nên tiếng vang, khói mây biến thái, cho nên sơn thần đến gặp Bồ Tát thân cao trăm thước và xướng lên lời rằng:
- Ngày xưa, đức Phật Thế Tôn vì quyền biến hướng dẫn hàm linh và vì tâm từ bi mà Thuyết Nhơn Minh Luận, diệu lý bao quát ngôn từ sâu sắc. Như Lai tịch diệt nghĩa ấy đã bị chôn vùi. Bây giờ có ngài Trần Na Bồ Tát, phước trí cao vời, sâu hiểu Thánh Giáo về Nhân Minh Luận cho nên trùng tuyên lại.
Lúc đó Bồ Tát phóng đại quang minh chiếu đến những nơi u ám và Vua của nước nầy sanh tín tâm sâu xa và tôn kính Tam Bảo. Thấy tướng quang minh nầy, nghi rằng đã vào Kim Cang Định, nhân đây mà thỉnh Bồ Tát chứng quả Vô Sanh. Bồ Tát Trần Na đáp:
- Ta đã nhập định và quán sát. Nếu muốn dịch nghĩa chú thích kinh nầy sâu sắc, thì tâm phải hiểu rộng biết nhiều chẳng nguyện chứng quả Vô Sanh.
Vua đáp:
- Quả Vô Sanh là nơi Thánh chúng ngưỡng mộ, xa lìa tam giới, chứng được tam minh là điều rất cao cả. Nguyện nên chứng lấy.
Bồ Tát Trần Na lúc ấy rất hoan hỷ lời thỉnh cầu của Vua nên liền chứng quả Vô Học. Bồ Tát Văn Thù (Diệu Cát Tường) thương tiếc, muốn cảnh giới khảy móng tay liền ngộ và nói rằng:
- Tiếc thay! Làm sao mà bỏ cái tâm rộng lớn chỉ vì ý chí hẹp hòi. Từ việc nhớ nghĩ cho riêng mình kể cả luôn cái chí nguyện. Nếu muốn có lợi lạc, hãy nói rộng cái Thuyết Du Già Sư Địa Luận của Bồ Tát Từ Thị hướng dẫn cho kẻ hậu học được lợi ích biết là bao.
Bồ Tát Trần Na kỉnh thọ ý chỉ phụng trì sám hối. Rồi từ đây nổi trôi nghiên cứu rộng thêm Nhân Minh Luận. Nếu những học giả sợ giải bày luận có tính chất từ chương thì hãy đưa nghĩa lớn của tông phong mà bày ra lời nói vi diệu làm nên Nhân Minh Luận để hướng dẫn cho kẻ hậu học về sau.
Từ nay về sau nên tuyên dương Du Già. Từ đó có rất nhiều môn nhân và những kẻ hiểu biết trong đời. Từ đây đi vào giữa rừng qua hướng nam hơn ngàn dặm, đến nước Đà Na Yết Lân Ca (Nước An Đạt La), thuộc miền nam xứ Ấn Độ.
14) Nước Đà Na Yết Lân Ca có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành có chu vi hơn 60 dặm, đất đai màu mỡ, lúa thóc được mùa. Có nhiều làng ấp hoang dã ít người sanh sống. Khí hậu ôn hòa, người da màu đen sậm. Tánh tình hung bạo, ham học nghề nghiệp. Có nhiều ngôi Già Lam bị hoang vu, còn lại chừng hai chục ngôi. Tăng đồ hơn 1000 người. Đa phần học theo Đại Chúng Bộ. Đền thờ có hơn 100 ngôi, ngoại đạo sống tạp nhạp.
Phía đông của thành là núi, nơi đó có một Tăng Già Lam tên là Phất Bà Thế La (Đông Sơn). Phía tây của thành cũng là núi. Nơi đó có ngôi chùa A Phạt La Thế La (Thế Sơn). Xứ nầy đầu tiên, Vua vì Phật Pháp mà kiến tạo nên Già Lam. Có sông chảy qua phía trước chùa, những hành lang đi bộ dọc theo núi. Có những vị thần linh xuất hiện và các bậc Thánh Hiền tới lui. Kể từ khi Phật Nhập Diệt sau 1000 năm, mỗi năm như vậy có khoảng 1000 chư Tăng cùng đến đây an cư. Khi giải chế mọi người chứng A La Hán, dùng thần lực bay lên hư không mà đi. Một ngàn năm sau, phàm thánh đồng cư. Nhưng kể từ 100 năm nay không có Tăng Lữ vãng lai. Cũng có những Sơn Thần dị hình, hoặc làm hình con chó, hoặc làm hình khỉ vượn, để dọa nạt người đi qua nơi chỗ hoang vắng, chẳng có tăng nào cả.
Cách về phía nam của thành không xa, có một ngọn núi cao. Nơi đó là nơi mà Luận Sư Bà Tỳ Phệ Dà (Thanh Biện) ở trong động A Tu La để chờ gặp Bồ Tát Di Lặc thành Phật. Luận sư có đức sâu dày khó tả. Bên ngoài mặc áo ngoại đạo, nhưng bên trong hoằng dương tư tưởng học thuật của Long Mãnh. Khi nghe Ngài Hộ Pháp Bồ Tát ở nước Ma Kiệt Đà muốn hoằng dương giáo lý của đức Phật có cả ngàn người theo và muốn luận nghị cho nên chống tích trượng mà đến thành Ba Thác Ly. Biết rằng Bồ Tát Hộ Pháp đang ở dưới cây Bồ Đề cho nên luận sư đã nói với môn nhân rằng:
- Quý vị hãy đến cây Bồ Đề để gặp Bồ Tát Hộ Pháp vì tôi mà thưa rằng: "Bồ Tát đã tuyên dương Giáo Pháp hướng dẫn nhiều người bỏ tà quy chánh, ngưỡng đức cao dày từ lâu mà nguyện chưa xong, nay muốn đến yết kiến và lễ bái dưới gốc cây Bồ Đề, thệ nguyện nếu không gặp được, thì sẽ gặp khi chứng được quả trời người" .
Bồ Tát Hộ Pháp bảo với người sứ rằng:
- Cuộc đời con người giống như huyễn, thân mệnh lại nổi trôi, khát khao ngày tháng chưa đến để được đàm luận, mà người tin tưởng chưa gặp được.
Luận sư nghe vậy liền trở về quê hương, ngồi thiền chờ đợi và nghĩ rằng nếu không phải ngài Từ Thị thành Phật, ai có thể giải được cái nghi của mình, cho nên đã ở trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, thành tâm tụng chú Đà La Ni. Không ăn chỉ uống nước trong vòng ba năm. Đức Quán Tự Tại Bồ Tát liền hiện ra sắc thân vi diệu vì luận sư mà bảo rằng ý mong muốn gì vậy?
Đáp rằng:
- Nguyện lưu giữ thân nầy để chờ được gặp đức Từ Thị.
Bồ Tát Quán Tự Tại bảo:
- Đời sống con người ở thế gian nầy rất nguy hiểm, nổi trôi phù phiếm. Cho nên muốn như ước nguyện thì nên sanh về cõi trời Đẩu Suất để lễ bái và chờ đợi gặp đức Di Lặc.
Luận sư đáp rằng:
- Ý chí không thể đạt được và tâm nầy không có hai.
Bồ Tát đáp:
- Nếu quả như vậy thì nên đến nước Đà Na Yết Lân; nơi thành phía nam có một ngọn núi cao, nơi đó có thần Chấp Kim Cang và hãy thành tâm tụng chú Kim Cang Đà La Ni, ông sẽ được toại nguyện.
Luận sư đến đó để tụng và ba năm sau thì thần nhân mách bảo rằng:
- Nhà ngươi mong muốn gì mà siêng năng như vậy?
Luận sư đáp:
- Nguyện lưu giữ thân nầy lại để chờ gặp đức Từ Thị. Bồ Tát Quán Tự Tại đã chỉ điểm đến đây để thỉnh cầu và nguyện của tôi có thành được thì ở tại nơi nầy. Mong thần mật hiểu cho.
Rồi chỉ trong ngày ấy trong ngọn núi nầy có một cung của A Tu La. Theo sự thỉnh cầu tường đá kia lại mở ra. Khi mở ra, đi vào bên trong chờ gặp và luận sư nói:
- Chỗ ở tối tăm không thấy, làm sao biết được Phật?
Chấp Kim Cang đáp rằng:
- Khi Bồ Tát Từ Thị xuất thế tôi sẽ báo cho ông.
Luận sư y lời rồi chuyên tâm trì tụng. Cả ba năm như thế chẳng có suy nghĩ gì khác.
Trì chú xong rồi, có người gõ cửa động, động liền mở ra. Lúc ấy có trăm ngàn vạn người thấy rồi quên trở về. Luận sư khóa cửa lại mà bảo với họ rằng:
- Ta có lời nguyện ở lâu để chờ gặp đức Di Lặc. Thánh chúng đã khuyên như thế thì đại nguyện mới thành cho nên bảo rằng vào nơi nầy thì sẽ gặp Phật. Họ nghe như vậy rất kinh ngạc mới đóng cửa lại, trở thành một hang rắn độc. Họ sợ hại đến thân mệnh. Ba lần nói như vậy tuy chỉ có được sáu người vào. Luận sư lại cảm tạ và những người ấy đi vào. Khi vào rồi tường đá trở lại như cũ và mọi người mới hối hận giận mình đã nói ra lời nói ấy.
Từ đây đi qua phía tây nam hơn 1000 dặm, đến nước Châu Lợi Da nằm ở phía nam xứ Ấn Độ.
15) Nước Châu Lợi Da, chu vi hơn 2450 dặm. Đô thành chu vi hơn 10 dặm, đất đai trống trải trở nên hoang phế. Cư dân sống rải rác, cho nên đạo tặc hoành hành. Khí hậu ôn hòa, phong tục gian ác. Tánh người cuồng bạo. Sùng tín ngoại đạo. Nhiều ngôi Già Lam bị hủy hoại nhưng cũng còn tu sĩ. Có hơn 10 ngôi đền đa phần theo đạo lõa thể.
Cách về phía đông nam của thành không xa mấy, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Như Lai ngày xưa đã từng ở nơi nầy, hiện đại thần thông thuyết Vi Diệu Pháp để hàng phục ngoại đạo và độ cho trời người.
Phía tây thành chẳng bao xa, lại có một ngôi Già Lam cũ. Đây là nơi luận nghị của Đề Bà Bồ Tát và A La Hán. Đầu tiên Bồ Tát Đề Bà nghe nơi Già Lam nầy có vị A La Hán Ôn Đản La chứng được thần thông và đầy đủ tám giải thoát, liền từ xa đến để tìm hiểu xem xét về phong cách mô phạm ra sao, cho nên đã đến đó, đảnh lễ A La Hán. A La Hán là bậc thiểu dục tri túc chỉ có một cái giường. Khi Bồ Tát Đề Bà đến không có chỗ ngồi, nên gom lá cây lại làm tòa để mời ngồi. A La Hán nhập định nửa đêm thì xuất. Bồ Tát Đề Bà thỉnh cầu giải quyết chỗ nghi của mình. A La Hán tùy theo chỗ khó mà giải thích. Bồ Tát Đề Bà nghe và hỏi đến lần thứ bảy thì im lặng không trả lời. Rồi vận thần thông lực bay lên cõi Đẩu Suất để hỏi ngài Di Lặc. Ngài Từ Thị vì đó mà giải thích, nhân đây bảo rằng:
- Ông Đề Bà ấy, nhiều kiếp đã tu hành và trong hiền kiếp nầy sẽ được quả vị Phật, nên biết như vậy.
Đoạn thi lễ rồi như trong khoảng khảy móng tay thì trở lại chỗ ngồi cũ, dùng diệu nghĩa tuyên dương và bẻ gãy những điều nghi. Bồ Tát Đề Bà thưa:
- Điều nầy đức Bồ Tát Từ Thị đã dùng Thánh trí mà giải thích, há có phải là ngài có thể tường tận?
A La Hán đáp:
- Đúng vậy!
Đó là sự chỉ bày của Như Lai. Từ chỗ ngồi tán thán thâm kính lễ bái. Từ đây đến phía Nam vào trong rừng sâu đi hơn 1560 dặm, đến nước Đạt La Tỳ Trà.
16) Nước Đạt La Tỳ Trà có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành tên là Khang Chí Bổ La có chu vi hơn 30 dặm, đất đai màu mỡ lúa thóc giàu có. Lại có nhiều hoa quả và sản xuất vật quý. Khí hậu ôn hòa, phong tục thô bạo. Người tin sâu nghĩa lý, biết nhiều học rộng. Nhưng ngôn ngữ, chữ viết thì sai khác miền trung Ấn Độ một ít. Có 100 ngôi Già Lam, tăng đồ hơn vạn người, học theo Thượng Tọa Bộ. Có 80 ngôi đền thờ đa phần theo đạo lõa thể.
Như Lai khi còn tại thế đã đến đây nhiều lần, thuyết pháp độ người, cho nên Vua A Dục đã đến Thánh Tích nầy mà cho xây dựng nên các Bảo Tháp.
Thành Kham Chí Bổ La là nơi mà Bồ Tát Đạt Ma Ba La (Hộ Pháp) sanh trưởng. Bồ Tát là con đầu của vị Đại Thần của nước nầy. Lúc nhỏ thiên tư đặc biệt, lớn lên thấy xa biết rộng. Hồi ấy, rất lâu nhưng Vương Thần chưa sinh. Hằng đem lo lắng suy nghĩ, đối trước tượng Phật thiết tha kỳ nguyện một cách chí thành cho nên cảm ứng đến thần linh, từ xa mà đến.
Sau khi sanh ra lớn lên một hôm đi hơn 100 dặm, đến ngôi chùa trên núi. Đến giữa giảng đường có vị tăng mở cửa. Thấy thiếu niên nầy, vị tăng nghi là kẻ trộm bèn cật vấn, Bồ Tát liền đưa tay ra hiệu ý bảo người xuất gia không nên kinh dị và ý ngài đã toại nguyện. Nhà Vua đã biết sự mong muốn của ngài và biết Bồ Tát có ý xuất trần cho nên Vua lại càng thâm kính hơn nữa. Bồ Tát đã tự mặc áo hoại sắc tinh cần học tập, tìm đến nơi vị A La Hán để biết phong cách mô phạm như trên đã thuật.
Cách về phía nam thành không xa có một Đại Già Lam mà trong nước khắp nơi đều giống vậy. Lại có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước do Vua A Dục dựng nên. Đức Như Lai ngày xưa ở nơi đây thuyết pháp để hàng phục ngoại đạo và rộng độ trời người. Gần đó cũng có một di tích là nơi của bốn vị Phật quá khứ, ngồi thiền và kinh hành. Từ đây đến phía nam đi hơn 3000 dặm đến nước Chu La Cự Thác.
17) Nước Chu La Cự Thác có chu vi hơn 5000 dặm, đô thành có chu vi hơn 40 dặm, đất đai khô cằn không trồng trọt được mấy; nhưng những hải sản trân quý đều tập họp nơi nước nầy. Khí hậu ấm áp, người da ngăm đen. Tánh tình cương nghị, tà chánh đều tin, ít thích nghề nghiệp, ưa làm điều thiện. Đa phần Chùa Viện nơi đây đều bị hoang phế, chỉ còn lại một số ít chư Tăng. Có hơn 100 ngôi đền thờ, tin theo ngoại đạo, đa phần theo đạo lõa thể. Thành phía đông chẳng xa, có một Già Lam cũ, vườn Chùa trở nên hoang phế. Do em của Vua A Dục kiến thiết nên. Phía đông nầy lại có một Bảo Tháp, chỉ còn nền móng. Bảo Tháp nầy do Vua A Dục xây. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp hiện đại thần thông độ vô lượng chúng. Vì hình ảnh của Thánh tích nầy, Vua đã xây dựng nên, thời gian năm tháng trôi qua, người ta đến cầu nguyện và xem ở đây như là chỗ ở của thần linh.
Phía nam của nước nầy là bờ biển lại có núi Châu Sắc Gia. Đỉnh cao và hẹp lại có những động đá ăn sâu vào trong. Trong núi, có cây Bạch Đàn, cây Chu Đàn và nhiều loại cây khác, khó có thể phân biệt hết, duy chỉ có mùa hạ lên núi chiêm ngưỡng thấy nơi đây có nhiều rắn lớn. Được biết rằng vì chất của gỗ mục ẩm ướt cho nên rắn thích ở, cũng có nhiều người thấy thế liền lấy tên bắn. Mùa đông như ẩn nấp vào trong thân cây. Tại đây cũng có cây Yết Bố La Hương (Cây Long Não), cây tùng, cây bách và có nhiều cây khác. Những cây ở dưới ẩm thấp không có mùi hương. Khi cây khô người ta chặt đi, trong đó có mùi hương và từ trong lõi cây có những đường vân màu sắc giống như nước và như tuyết. Đây chính là mùi hương của Long Não.
Núi Chư Sắc Gia về phía đông có núi Bố Đản Lạt Ca. Núi nầy rất nguy hiểm, có nhiều hang động. Trên đảnh núi có Hồ, nước trong như mặt gương, chảy thành sông, chảy quanh núi đến hai mươi vòng rồi đi vào biển Nam Hải. Bên cạnh cái hồ đó, có động đá rất đẹp là nơi mà Bồ Tát Quan Tự Tại qua lại dạo chơi. Nếu ai có lời nguyện muốn gặp Bồ Tát chẳng quản thân mệnh, lội nước trèo non, quên đi nguy hiểm thì có thể đạt được lời nguyện ấy. Dưới chân núi có người ở, đến đây kỳ nguyện thỉnh cầu để được thấy, hoặc tạo nên hình Tự Tại Thiên, hoặc bôi than lên mình như ngoại đạo, để an ủi dụ dỗ những người có lời nguyện. Từ núi nầy đi qua phía đông bắc thì đến bờ biển. Từ bờ biển phía nam, có đường đi qua nước Tăng Già La. Người xưa nói rằng từ đây đi vào biển phía đông nam đi hơn 3000 dặm đến nước Tăng Già La (Nước Chấp Sư Tử) không thuộc nước Ấn Độ.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển mười
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:08:31 GMT -5
Quyển thứ mười một (23 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Tăng Già La (Tích Lan) 2. Nước Trà Kiến Na Bổ La 3. Nước Ma Ha Sách Trạch 4. Nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba 5. Nước Ma Lạp Ba 6. Nước A Thác Lý 7. Nước Khiết Thác 8. Nước Phạt Lạp Tỳ 9. Nước A Nan Đà Bổ La 10. Nước Tô Sắc Đà 11. Nước Cù Chiết La 12. Nước Ô Phiệt Diễn Na 13. Nước Trinh Chỉ Đà 14. Nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa 15. Nước Tín Độ 16. Nước Mậu La Tam Bộ Lô 17. Nước Bát Phạt Đa 18. Nước A Điểm Ba Sí La 19. Nước Lang Yết La 20. Nước Ba Sắc Tư (Ba Tư) 21. Nước Kiên Đa Thế La 22. Nước A Quân Trà 23. Nước Phạt Sắc Noa
1) Nước Tăng Già La (Tích Lan) có chu vi 7000 dặm. Đô Thành có chu vi 40 dặm. Đất đai màu mỡ khí hậu ôn hòa. Cày cấy trồng trọt hoa quả tốt tươi. Cửa nhà to lớn, gia sản giàu có. Người nước da ngăm đen, tánh tình hung bạo, ham học hỏi, ưa phước đức, thích làm thiện. Nước nầy là một hòn đảo nhỏ có nhiều trân bảo đồ quý giá, là nơi dừng chân của chư Thần, nằm phía nam của xứ Ấn Độ, có một Quốc Vương, nguyên là một nữ tỳ bị tống đi giữa đường gặp Sư Tử kẻ thị vệ bỏ chạy. Vì không chạy được, nên người nữ ấy phải ở lại cam chịu số phận. Không ngờ chúa Sư Tử đến giúp người nữ mang về hang động trên núi cao. Những con nai mang rau quả đến. Thời gian sau có thai sinh ra một trai một gái, hình mạo giống con người nhưng bản tánh còn súc sanh. Con trai dùng thương giáo đâm chết mãnh thú. Thời gian sau biết được, người mẹ than rằng không biết nói sao. Cha là dã thú mẹ là người, không cùng chủng loại làm sao trở nên chồng vợ được. Bà mẹ thuật lại chuyện xưa mà bảo với đứa con rằng:
- Người Vật xa xôi chẳng có thệ nguyền.
Rồi người mẹ nói tiếp:
- Ngày ấy ta cố chạy nhưng không chạy nổi. Con là đứa con sau khi Sư Tử cha bắt mẹ vào núi mà mẹ không thể thoát khỏi để mà đi, cho nên phải chịu cảnh mẹ con ở nơi đó.
Người mẹ tiếp:
- Những chuyện sâu kín như thế rất ân hận nhưng chẳng biết nói nguồn gốc như thế nào. Bởi vì khi mọi người biết được chúng ta sẽ bị khinh bỉ.
Rồi đến nước của cha mình. Nước nầy không có gia tộc, tông môn đã diệt hết. Gặp người thôn trưởng, được bảo rằng:
- Quý vị là người nước nào?
Đáp:
- Tôi là người lưu lạc đến xứ nầy, mẹ con muốn trở lại cố hương.
Được mọi người thương chu cấp. Vua Sư Tử lại chẳng thấy nữa. Do chỗ quấn quýt nam nữ mà vô minh sanh khởi, bây giờ ra khỏi hang đá đến tại thôn nầy. Hét lên chấn động tàn độc con người. Người trong làng trục xuất ra và giết chết. Rồi đánh trống, thổi tù và, gương nỏ, cầm xà mâu chạy từng đoàn, nhưng thú không bị hại. Vua nước đó sợ không thích hợp với lòng người cho nên muốn đuổi kẻ mọi rợ ấy đi. Vua thân chinh suất binh lính kéo vào rừng, khóa cửa hang động lại. Sư Tử rống lên làm chấn động núi rừng. Người Vật đều bỏ chạy. Đã bắt không được con thú nào, mà còn tổn thất nữa. Nếu bắt được con Sư Tử nầy thì trừ được hậu hoạn cho đất nước, sẽ đền đáp trọng thưởng cho những ai tìm được.
Đứa nhỏ nghe Vua ra lệnh như thế liền thưa với mẹ rằng:
- Đã đến lúc vô cùng đói khổ rồi, làm sao có thể ứng phó được. Hoặc có thể phủ dụ được?
Bà mẹ nói:
- Nói vậy không được. Sư Tử tuy là loài súc sanh nhưng là cha của con, làm sao con có thể làm điều nghịch hại như vậy.
Người con nói:
- Người và súc vật là hai loại khác nhau, lễ nghi đã có sự sai khác thì sao phải giữ lòng như thế.
Cậu bé mang dao nhỏ ra nhận lời triệu tập. Lúc ấy có ngàn vạn loài cỡi mây bay đến chỗ Sư Tử ở trong rừng. Người chưa đến gần, đứa con đến trước mặt cha nó quỳ xuống, làm ra vẻ thân ái để cho Sư Tử không nỗi sân hận. Rồi lấy dao đâm xuyên qua bụng Sư Tử. Vì lòng thương yêu cậu bé, Sư Tử không có chút sân hận nào hết. Bụng vở ra rồi chết. Vua nói rằng:
- Người ở đâu mà kỳ tài thế! Vì phước lợi mà dụ được Sư Tử, hơn cả sức mạnh kia. Từ đó về sau chẳng còn lo lắng nữa. Cậu bé thuật lại sự tình của mình cho Vua nghe. Vua nói:
- Đồ phản nghịch! Cha mầy mà còn bị mầy hại huống gì là những người không phải thân thuộc.
Loài súc sanh khó dạy. Tánh tình hung bạo dễ náo động. Dù tạo được công lớn trừ hại cho dân nhưng giết cha là đồ nghịch tặc. Cho đồ trọng thưởng rồi bảo lui. Vua phóng thích vào tận nơi xa xôi để đề phòng sự mưu nghịch. Vua sắm sửa hai chiếc thuyền lớn có nhiều lương thực cho người mẹ ở lại, chu cấp thưởng công. Người con gái đi một chiếc thuyền khác bị sóng gió thổi đi xa biệt tích. Thuyền người con trai ra biển rồi trôi dạt vào bờ, gặp đảo nhiều ngọc ngà châu báu. Sau đó có một người thương nhân tìm trân bảo nên đến bờ biển nầy. Bèn giết người thương chủ để lại người con gái. Như thế sinh ra con cái rất nhiều sau đó lên làm Vua và có triều thần trên dưới cho xây lại thành quách biên cương mà tổ tiên của họ là giống Sư Tử. Nhân đây, lấy tên đó đặt quốc hiệu, còn thuyền của người con gái bị trôi đến nước Ba Sắc Tu Tây, bị quỷ thần hiếp sanh ra một bầy con gái.Ở phía tây nước nầy là nước chỉ có toàn đàn bà. Cho nên người nước Sư Tử hình dáng đen đúa, có vầng trán và gò má rộng. Tánh tình mạnh bạo, an nhẫn, độc ngầm. Vì họ thuộc dòng dõi mãnh thú cho nên người ở đây rất mạnh khoẻ.
Lại một thuyết khác, trong Phật Pháp có nêu ra như sau:
Ngày xưa nơi nầy là một nơi có nhiều của quý. Nơi đó có năm trăm La Sát Nữ cu ngụ. Trên thành có hai cây phan cao báo hiệu việc tốt xấu. Khi có việc tốt cây phan dao dộng bày phía chữ tốt, ngược lại khi xấu bày chữ xấu. Có một người thương nhân đến đảo quý nầy, La sát nữ biến thành mỹ nữ, mang hương hoa và tấu âm nhạc nghinh đón và dụ cho đi vào trong thành bằng sắt nầy hoan lạc trong ngục bằng sắt kia. Dần dần lấy làm thức ăn. Lúc đó ở Thiệm Bộ Châu có một thương chủ tên là Tăng Già, cũng còn gọi là Tăng Già La. Cha đã già cho nên thay cha làm việc cùng với năm trăm thương nhân đi vào trong biển tìm vật quý. Sóng gió làm thuyền trôi dạt vào đảo nầy. Lúc ấy cây phướn của La Sát Nữ hiện lên chữ Tốt. La Sát Nữ dùng hương hoa tấu âm nhạc để nghinh tiếp dụ dỗ họ vào thành sắt. Thương chủ đã cùng với La Sát Nữ Vương vui chơi thỏa thích. Còn những thương nhân khác vui đưa với những La Sát Nữ khác. Thời gian trôi qua sanh được một người con, kết quả của mối tình thâm giao nầy. Rồi muốn giam những người lái buôn vào trong ngục sắt. Lúc ấy ông Tăng Già La ngủ thấy ác mộng biết là không phải việc tốt, liền muốn trở về đất liền, nhưng gặp phải ngục sắt và nghe tiếng khóc bi thương, leo lên cây cao hỏi rằng:
- Ai thốt ra lời bi thương oán hờn như thế?
Đáp rằng:
- Ông không biết à. Những người nữ trong thành nầy đều là La Sát cả. Ngày xưa họ dụ tôi vào trong thành nầy hoan lạc vui chơi. Anh cũng sẽ đến nơi ngục tối đó và cũng sẽ bị chúng ăn thịt như tôi đã bị. Bây giờ ở trong đó đã có nhiều người rồi, không bao lâu nữa các anh sẽ chịu họa nầy.
Tăng Già La đáp:
- Có kế gì thoát ra không?
Tôi nghe rằng ở bờ biển có một con ngựa trời. Nếu đến đó cầu thỉnh, sẽ được cứu giúp. Nghe như vậy, Tăng Già La liền cáo từ người thương nhân ấy, chạy ra bờ biển nhất tâm cầu cứu. Lúc bấy giờ Thiên Mã (Ngựa Trời) đến bảo với ông ấy rằng:
-Các anh mỗi người bám vào cái lông của tôi, nhớ đừng nhìn xuống. Tôi sẽ mang các anh bay qua biển thoát nạn. Khi nào đến Thiệm Bộ Châu, sẽ báo cho biết đã đến cố hương.
Các thương nhân y theo lời dặn, hết sức bám chặt vào lông ngựa. Thiên Mã bay lên mây qua biển đến bờ.
Các La Sát Nữ biết mọi người ấy đã đào thoát liền nói rằng:
- Kỳ lạ thay họ đi hết rồi. Họ đã mang đứa bé bay lên hư không mà đi rồi.
Biết rằng những người thương nhân kia đáp xuống bờ biển; cho nên ra lệnh bay theo để tìm, đang bay gặp các vị thương nhân trên hư không, La Sát Nữ khóc lóc nước mắt đầm đìa. Những người thương nhân không cho khóc nữa. La Sát Nữ nói rằng:
- Tôi thật cảm động khi gặp người tốt đã cùng tôi ân ái vui vầy lâu rồi mà bây giờ lại bỏ đi, bỏ vợ bơ vơ lo lắng. Ai có thể nhẫn tâm như thế! Hãy vì hạnh phúc mà lưu lại nơi thành.
Những người thương nhân nhứt quyết không muốn quay lại. Các La Sát Nữ cố gắng nài nỉ nhưng không thành, bèn dùng yêu mị để chiêu dụ. Các vị thương nhân yêu đắm thật khó nhẫn chịu. Tâm muốn bỏ đi, nhưng thân muốn trở lại. Lúc ấy các La Sát Nữ liền bái tạ rồi mang những thương nhân về trở lại. Còn Tăng Già La trí huệ sâu thẳm, tâm lực kiên cố cho nên không mõi mệt, được vượt qua biển lớn, khỏi bị hiểm nguy. Lúc ấy, La Sát Nữ Vương trở về thành sắt một mình. Các La Sát Nữ khác nói:
- Cô chẳng có mưu lược nên mới bị mất. Phải dùng những chước thuật đừng để mất cơ hội nầy.
La Sát Nữ Vương mang đứa con bay đến trước Tăng Già La dùng những lời cực kỳ ủy mị phỉnh mời trở lại. Tăng Già La miệng tụng thần chú tay cầm kiếm bén đoạn hô lên:
- Ngươi là La Sát. Ta là Người. Người và Quỷ hai loài khác nhau không thể sống chung được. Nếu mà làm khổ nữa ta sẽ giết ngươi ngay.
La Sát Nữ biết dùng tình cảm để dụ dỗ không được, cho nên bay lên hư không đến tận nhà của Tăng Già La lừa gạt cha của Tăng Già rằng:
- Con là Nữ Vương của một nước. Tăng Già La đã sống với con theo nghĩa vợ chồng và đã sanh hạ một đứa con. Chúng con mang đồ vật quý về lại cố hương nhưng thuyền qua biển gặp gió lớn chỉ còn lại mẹ con của con và Tăng Già La may mắn thoát được. Dầu núi sông cách trở, hạnh ngộ khó được nhưng một lời một ý nầy khi gặp được cũng đã toại nguyện rồi.
Tăng Già La chửi mắng La Sát Nữ thậm tệ không chút vị nể. La Sát nói:
- Đường về lại quê hương thì xa xôi, mang tấm thân cô độc tới lui không nơi nương tựa, chẳng biết trần tình cùng ai. Tăng Già nói:
- Nếu thật như vậy thì hãy vào phòng.
Ở chưa được bao lâu thì Tăng Già La về, Người cha nói rằng:
- Sao con coi trọng tiền tài mà xem nhẹ tình nghĩa vợ chồng thế?
Tăng Già La đáp:
- Đây là con quỷ La Sát Nữ. Nó đã đến đây trước thưa cùng cha mẹ, thân tộc không biết việc gì mà xua đuổi.
Lúc ấy La Sát đến tố cáo với Vua. Vua muốn xử tội Tăng Già La
Tăng Già La nói:
- La Sát Nữ vốn đa tình mỵ cảm, Vua làm sao tin được với cái tình huống nói lời tốt đẹp kia, rồi nói với Tăng Già La rằng:
- Vậy đem người con gái nầy để vào hậu cung.
Tăng Già La thưa:
- Sợ rằng sẽ có tai họa. Bởi vì La Sát chỉ ăn máu thịt.
Vua không nhận lời nói của Tăng Già La, mà sung La Sát vào hậu cung. Đêm sau phân thân bay về lại chỗ cũ triệu tập hơn 500 quỷ La Sát Nữ cùng đến Vương cung dùng chú thuật độc hại để tàn hại trong cung, để ăn thịt và uống máu người và vật. Sau đó mang những tử thi nầy về lại chỗ của mình. Ngày hôm sau quần thần triều đinh tụ tập trước Ngọ Môn, nhưng cửa không mở. Ngay cả bên trong không có một tiếng người. Cho nên đập cửa xông vào. Mọi người tiến vào nơi cung đình, chẳng có người nào cả, chỉ còn hài cốt. Các quan xem xét trước sau thấy mất mác bi thảm khóc lên và biết đây là nguyên nhân của hoạn sự. Điều mà Tăng Già La đã nói trước, nhưng Vua không tin cho nên tự rước họa vào thân.
Những vị lão Thần trong nước nầy cùng các quan lại, đồng hiểu rằng đức sáng và tài cao mà ngưỡng vọng Tăng Già La là bậc nhiều phước trí cho nên mới bảo với nhau rằng:
-Phàm là Vua sao lại cẩu thả vậy! Phải nghĩ đến phước trí sau mới thể hiện minh triết. Nếu chẳng có phước trí, thì không có đức để bảo vệ ngôi Vua. Nếu không có minh triết không thể thông hiểu chơn lý cũng như thời cơ. Tăng Già La là bậc hiểu biết như vậy.
Nhờ giấc mộng mà đã cảm ứng được Thiên Mã. Sự trình bày chân thật đó đúng là một bậc mưu trí có thừa, cho nên mang đến nơi đây một sự thành công mới, nên chúng dân xin tôn lên ngôi vị làm Vua. Tăng Già La không từ chối, hoan hỷ chấp nhận lời cung thỉnh của quần thần và các quan, sau đó lên ngôi Vua. Với gương trước mà liền tiêu biểu cho kẻ hiền lương cho nên ra lệnh rằng:
- Ta trước đây là thương nhân đến nước La Sát. Sự sống chết khó lường và việc tốt xấu khó phân. Nay được cứu ra khỏi nạn dữ nên hãy chỉnh đốn binh giáp để cứu nguy và giúp kẻ hoạn nạn làm phước cho quốc gia và lấy những của quý nầy làm lợi cho quốc gia, cho nên cử binh đi qua đảo kia. Lúc đó trên thành sắt lá cờ hiện lên chữ Hung, các La Sát Nữ thấy vậy bàng hoàng lo sợ liền ủy mị ra nghinh dụ dỗ. Vương đã biết điều dối trá ấy, nên ra lệnh các binh sĩ miệng tụng thần chú, thân hiện uy vũ. Các La Sát Nữ trấn giữ không được nên thối lui và bại trận. Khi chạy khỏi rồi, đảo nầy trở nên an ổn. Nước chảy thành màu hồng là do phá thành sắt, đập bể ngục sắt để cứu những thương nhân nhặt được nhiều của quý. Vua chiêu mộ lê dân đến ở đảo nầy, kiến lập thành ấp tạo nên quốc gia. Lấy tên của Vua làm tên của quốc gia, mà trong Bổn Sanh truyện của đức Thích Ca có ghi.
Nước Tăng Già La có nguồn gốc xuất phát từ sự dâm loạn, nhưng sau khi Phật nhập diệt 100 năm, thì có em (con) của Vua A Dục Ma Hê Nhơn Đa La (Mahindha) xả ly ái dục, chí cầu Thánh Quả, chứng được lục thông và đầy đủ tám giải thoát. Ngài dùng thần túc bay qua hư không, để đến nước nầy, hoằng truyền Chánh Pháp lưu giữ lời dạy của đức Phật. Từ đó về sau phong tục thuần tín. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn hai vạn Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa và Thượng Tọa bộ. Sau khi Phật Giáo truyền vào hơn 200 năm, ở đây chia ra làm hai bộ phái rõ ràng. Một là Ma Ha Tỳ Ha La Trụ Bộ, bài bác Đại Thừa tu tập Tiểu thừa. Phái khác, theo A Phạt Già Đệ Lý Trụ Bộ. Họ học cả hai thừa và hoằng truyền Tam Tạng. Tăng đồ giới hạnh thanh tịnh, định huệ sáng trong là những bậc mô phạm tuyệt vời, nơi Vương cung là một tinh xá thờ răng Phật, cao hơn 100 thước, lại trang sức bằng trân châu và những đồ trân quý. Bên trên tịnh xá có xây một cây trụ cao. Trên đó có để một cái bát báu gọi là Đàm Ma La Ca. Từ cái bát báu nầy phát ra ánh sáng rất vi diệu. Ngày đêm xa gần đều thấy sáng như ngôi sao. Nhà Vua cứ ba ngày lại đến nơi thờ răng Phật, để dâng nước, dâng hương cúng dường. Hoặc đốt nến, hoặc dùng những đồ trân bảo để tu phước cúng dường. Phía bên tịnh xá răng Phật có một tịnh xá nhỏ, nơi đây cũng được trang sức gồm nhiều kim loại quý, trong đó có một tượng Phật bằng vàng, mà tiên vương đã tự thân hiến cúng. Trên nhục kế của tượng được trang sức bằng đồ quý. Nhưng sau đó, có kẻ muốn lấy trộm, nhưng nhờ nhiều lớp cửa bao bọc mà trấn giữ được. Ăn trộm đào hầm thông dưới tinh xá để đi vào bằng hang, muốn trộm tượng quý, nhưng không được. Bọn trộm rút lui và than rằng:
- Như Lai ngày xưa tu hành khổ hạnh, khởi lòng đại bi phát hoằng thệ nguyện. Trên từ thân mệnh dưới đến quốc thành, vì lòng thương bốn loài mà chu cấp tất cả, mà bây giờ thì tượng quý như thế. Lời nói rất là hay nhưng bây giờ không phải là việc làm ngày xưa nữa, nên cúi đầu trước tượng quý và nếu lấy được sẽ đem đi bán. Có người thấy vậy mới nói rằng:
- Đồ quý như thế là của tiên vương đã để trên đầu tượng Phật bằng vàng, mà nay từ đâu có mà bán?
Sau đó, họ đến thưa với Vua và Vua hỏi xuất xứ từ đâu, kẻ trộm đáp rằng:
- Phật tự cho con, con đâu có lấy.
Vua biết là không thành thật cho nên ra lệnh kiểm tra trên đầu tượng Phật. Vua thấy linh thiêng tín tâm thuần chất cho nên không bắt tội người nầy mà lại chưộc gấp đôi đồ quý đó rồi cho an trí lên trên tượng trở lại, và tượng ấy gục đầu xuống cho đến ngày hôm nay. Bên cạnh nhà Vua cũng kiến thiết một nhà ăn lớn, mỗi ngày có cả một vạn tám ngàn tăng ăn uống. Lúc ăn thì chư tăng mang bình bát đến để dùng. Ăn xong rồi thì trở về chỗ ở của mình. Từ khi Phật giáo được truyền sang, họ đều kiến thiết nơi thừa tự và sự cúng dường như thế. Con cháu nối tiếp truyền thống ấy cho đến ngày nay. Cả mười mấy năm, nước nầy chính sự bị rối loạn và chưa biết rõ ràng hưng phế ra sao (thời ngài Huyền Trang).
Hải sản của nước nầy thâu thập được nhiều sản vật trân quý. Hoàng tộc của Vua đem cúng thần hoặc là bán đi. Cho nên đô nhân si tử đến đây rất nhiều, để mua bán để cầu phước báo. Nhiều loại như thế không giống nhau. Tùy theo từng loại vật quý mà được đóng thuế lên đó.
Phía đông nam của nước có núi Lăng Già, có nhiều hang động u tịch thần bí nên chư thần hay tới lui. Tại nơi đây ngày xưa đức Phật nói kinh Lăng Già. Phía nam của nước nầy có bờ biển dài cả ngàn dặm, thuộc về châu Na La Khể La. Người ở Châu nầy nhỏ thó, cao khoảng ba thước ta, không dùng lúa gạo mà chỉ ăn dừa thôi.
Phía tây của châu Na Lê Khể La, cũng có bờ biển dài hơn 1000 dặm. Dọc theo đảo nầy phía đông có tượng Phật bằng đá cao hơn 100 thước, mặt ngồi xây về hướng đông, để trái cầu Nguyệt Ái trên nhục kế, mỗi khi ánh trăng chiếu thì nước từ trái cầu chảy ra thấm vào đá, chảy ra suối. Lúc ấy có một thương nhân gặp gió to bão lớn thuyền tấp vào đảo nầy. Ở đây không có gì để uống, vì quá khát nước, người ấy gặp đúng hôm rằm, nên trên đỉnh đầu của tượng nước chảy ra tràn trề, người ấy chí thành nên có sự linh ứng ấy, cho nên có thể ở lại đây thêm nhiều ngày. Mỗi tháng sau đó, nước không chảy nữa. Lúc ấy thương nhân nghĩ rằng:
- Chắc chắn nhờ sự gia hộ mà mình đã gặp được nước chảy ra. Nghe đến trái cầu Nguyệt Ái dưới ánh trăng chiếu, nước liền tuôn ra, chứ không phải trên đỉnh đầu có đồ vật quý sao?
Liền leo lên để xem thì nhục kế trên tượng, thấy có một trái cầu tròn bằng đá và kể lại như vậy.
Phía tây của đất nước, một bờ biển dài hơn 1000 dặm, đến Châu Đại Bảo. Nơi đây chẳng có người ở mà nơi của chư Thần, đem thanh vắng thấy ánh sáng phát ra từ núi và nước. Có nhiều thương nhân tới lui ở đây cảm nhận được những điều khó nói. Họ đến từ nước Đạt La Tỳ Trà, từ phía bắc xâm nhập vào rừng rậm rồi băng qua những thành ấp. cũng có những kẻ hung bạo kết bè với nhau để sát hại người lữ hành. Đi xa hơn 2000 dặm đến nước Trà Kiến Na Bố La.
2) Nước Trà Kiến Na Bổ La chu vi hơn 5000 dặm, Đô Thành có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai màu mỡ cày cấy được mùa. Khí hậu nóng, phong tục mạnh bạo. Hình dáng đen đúa. Tánh tình dũng mãnh. Ưa học nghề nghiệp. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn vạn Tăng Sĩ, tu theo Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có hơn 100 ngôi đền thờ. Ngoại Đạo sống tạp nhạp.
Gần Vương cung, có một ngôi chùa lớn. Tăng đồ hơn 300 vị là những người có thật đức trong Già Lam này, có một Đại Tinh Xá cao hơn 100 thước. Bên trong có thờ một cái mũ báu của thái tử cao gần hai thước trang hoàng bằng đồ báu. Đến giờ Ngọ, người ta đem hương hoa cúng dường thì nơi thờ tự ấy phóng ra ánh sáng.
Bên thành của Đại Già Lam có một tịnh xá cao hơn 50 thước. Trong đó có chạm tượng đức Từ Thị Bồ Tát bằng gỗ Bạch Đàn cao hơn 10 thước; đến giờ Ngọ phóng ra hào quang. Được biết rằng tượng nầy do hai trăm ức A La Hán tạo nên. Thành phía bắc chẳng xa có một rừng cây Đa La chu vi hơn 30 dặm. Lá của nó dài và rộng có màu sắc tươi nhuận. Thư từ của các nước đều dùng lá cây nầy. Trong rừng có một Bảo Tháp, đây là di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đã đi kinh hành ngồi thiền. Ở đây được nghe rằng có cả hàng hai trăm ức Bảo Tháp như thế để thờ di thân xá lợi của những vị A La Hán.
Thành phía đông chẳng xa có một Bảo Tháp. Nơi đây hư hoại hơn 3 thước cao. Nghe người xưa nói lại rằng trong có thờ Xá Lợi của Đức Phật, đến giờ Ngọ phát ra ánh sáng diệu kỳ. Tại đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp, hiện thần thông lực để hóa độ chúng sanh.
Phía tây nam của thành không xa có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước do Vua A Dục kiến tạo. Được nghe rằng nơi đây đã có hai trăm ức vị A La Hán đã hiện thần thông để hóa độ chúng sanh. Bên cạnh đó có một Già Lam, bây giờ chỉ còn nền móng. Chùa nầy do các A La Hán kiến tạo nên. Từ đây đi về hướng Tây Bắc, vào trong rừng sâu, có rất nhiều mãnh thú nguy hiểm, mạnh bạo hung tàn. Đi hơn 2450 dặm nữa đến nước Ma Ha Sách Trạch.
3) Nước Ma Ha Sách Trạch có chu vi hơn 6000 dặm. Đô Thành ở phía tây giáp với sông lớn có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai màu mỡ cày cấy trồng trọt tốt tươi. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất. Hình thù to lớn, tánh tình buông lung. Có ân thì đền, có oán thì trả. Người bị lăng nhục có thể chết cũng báo thù. Lúc cùng quẫn dù bị chặt đầu chặt chân cũng báo thù. Cả hai bên đều kiên cường nhưng sau đó thì lắng dịu. Lâm trận mà thối lui, nếu không bị giết cũng bị giáng chức. Lính mà thất trận sẽ bị hình phạt cho mặc đồ đàn bà xấu hổ mà chết. Nhà nước nuôi những kẻ lực sĩ và dũng sĩ hơn cả trăm người, mỗi mỗi vì sự quyết chiến mà cho uống rượu say, mang hàng vạn mũi tên nhọn đâm tới. Gặp người phản quốc, hình phạt chẳng kém. Khi ra đi đánh trống đánh chuông làm tiền đạo, lại phục rượu cho hàng trăm con voi say để chiến đấu và chúng dày xéo lên người khác không tha. Vua nước nầy mang người và voi đến nước bên cạnh. Vua thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi, tên gọi là Bổ La Khể Xá, mưu kế sâu xa, nhân từ rộng rãi. Thiên hạ đã vì chữ trung mà hy sinh hết mình. Lúc ấy Vua Giới Nhựt đông chinh, tây phạt từ xa đến đây duy chỉ có người nước nầy là không thần phục, kêu gọi năm nước Ấn Độ, và chiêu mộ các nước lân bang, thân chinh thảo phạt, tức sẽ thắng. Đúng ra binh lính ở đây như vậy và tục lệ ở đây cũng như thế. Người ở đây thích học tập nhưng tin theo cả tà lẫn chánh. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 5000 Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có hơn 100 ngôi đền thờ, có nhiều ngoại đạo sinh sống ở đó.
Trong và ngoài thành lớn có 5 Bảo Tháp thờ bốn vị Phật quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền do Vua A Dục dựng nên. Trừ những Bảo tháp bằng gạch và đá, đa phần đều bị hư họai không dùng được.
Phía Nam thành không xa, có một Già Lam cũ. Trong đó có một tượng Bồ Tát Quán Tự Tại bằng đá rất linh thiêng khi nguyện cầu có nhiều kết quả.
Biên giới phía đông nam của nước có dãy núi lớn làm cương lĩnh trọng yếu. Tại đây có nhiều Chùa Viện trong hang cốc, cũng có nhiều chùa xây trên núi, có nhiều tầng và lưng chùa là vách núi. Do ngài A La Hán A Chiết La xây dựng, vị A La Hán nầy là người miền tây Ấn Độ, mẹ của ngài sau khi mạng chung, Ngài muốn quán sát xem sanh về xứ nào thì thấy sanh vào nước nầy và thọ thân người nữ. Vị A La Hán ấy lại đi đến nơi đây, muốn hóa độ phải tùy cơ nhiếp thọ vào làng khất thực, rồi đến nhà của mẹ ngài sanh ra. Người mẹ mang đồ ăn cúng thí, rồi sữa trong mình tự nhiên chảy ra, bà cảm nhận vị tu sĩ nầy là kẻ thân thuộc nhưng chưa có rõ. Vị A La Hán thuyết pháp Nhân Duyên, bà nghe mà chứng thánh quả. Vị A La Hán ấy nhớ ơn sanh thành duỡng dục và mong được đền đáp được nghiệp duyên đó là sự trả hiếu tạo đức một cách sâu dày nên xây dựng Già Lam nầy.
Trong Già Lam đó có một tịnh xá lớn, cao hơn 100 thước, trong đó có một tượng Phật bằng đá, cao hơn 70 thước. Bên trên tượng đá có Bảo Cái bảy lớp, dệt thêu đẹp đẽ. Bảo cái ấy cao cả ba thước. Nghe người xưa nói rằng đây là do nguyện lực của A La Hán mà có được, hoặc cũng có nơi nói đây là nhờ vào thần thông lực, hoặc cũng có nơi nói do công lao của nghề làm thuốc..... mà những khảo sát thực tế chưa có rõ ràng.
Bốn bên tịnh xá tường đá được điêu khắc chạm trỗ, những hình ảnh của đức Như Lai ngày xưa khi tu hạnh Bồ Tát và những nguyên nhân trước. Sau khi chứng Thánh Quả vào nơi nhập diệt rồi có nhiều linh ứng. Những điều nhỏ nhặt không có di tích cũng đều cho khắc vào. Bên ngoài cửa của Già Lam mỗi bên đều có một con voi đá. Nghe người xưa nói lại rằng: Con voi nầy có lúc nó rống lên tiếng lớn đất đai chấn động và ngày xưa đây cũng là chùa mà Bồ Tát Trần Na dừng chân. Từ đây đi về phía tây hơn 1000 dặm, qua sông Nại Chư đã đến nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba.
4) Nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba có chu vi 2450 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Đất đai khô cằn, cây cỏ mọc hoang. Biển nóng nên nghề nghiệp hướng về biển cả. Khí hậu rất nóng. Gió mùa thổi đột ngột, phong tục đơn sơ. Tánh người ngụy trá. Chẳng biết học tập nghề nghiệp. Tà chánh đều tin. Có được 10 ngôi Già Lam, và hơn 300 Tăng Sĩ tu tập theo Đại Thừa và Thượng Tọa bộ. Có 10 đền thờ, ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Từ đây qua phía tây bắc đi hơn 2000 dặm, đến nước Ma Lạp Bà.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:09:07 GMT -5
5) Nước Ma Lạp Bà có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành có chu vi hơn 30 dặm, giáp với sông Mạc Ê ở phía đông nam. Đất đai màu mỡ, Cày cấy trồng trọt tốt tươi. Cây cỏ hoa trái sum sê. Đặc biệt họ dùng nhiều lúa mạch và bánh trái cũng bằng lúa mì. Tâm tánh thuần hậu, thật là thông minh. Ngôn ngữ hoành tráng. Nghề nghiệp ưu tú thâm sâu. Nơi biên giới của 5 nước Ấn Độ có 2 nước ham học hỏi. Ở phía tây nam có nước Ma Lạp Ba, ở phía đông bắc có nước Ma Yết Đà. Tại hai nước nầy có những bậc thạc đức cao minh, mẫn tiệp thông thái, nhưng mà những nước nầy cũng đều tin tà chánh không phân biệt. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và có hơn hai vạn Tăng Sĩ, tu theo Tiểu thừa Chánh Lượng Bộ. Có hơn 100 ngôi đền ngoại đạo, họ sống tạp cư rất ư lộn xộn, đa phần tu theo đạo lõa thể. Theo sử của nước cho biết rằng:
Sáu mươi năm trước đây, Vua Thi La A Dật Đa (Giới Nhựt) có trí huệ cao minh, tài cao học rộng, biết trước, yêu mến bốn loài, kính sùng Tam Bảo. Vốn sanh ra từ một vị thần, từ khi chưa mọc răng, mặt chưa hề sân hận và tay không hại một vật. Khi cho voi ngựa uống nước, sợ tánh của nước bị tổn. Lòng nhân từ như vậy đó, cho nên ở ngôi Vua đến 50 năm. Loài dã thú cũng như người ở trong nước nầy lê dân chẳng sát hại. Trong cung Điện có kiến lập tinh xá, trang trí rất tinh xảo, thật là trang nghiêm. Bên trong có tạc bảy tượng Thế Tôn. Mỗi nơi đều thiết lễ cúng trai đàn Thủy Lục, triệu tập bốn phương tăng đồ tu phước bố thí, tứ sự cúng dường, hoặc ba y bình bát, hoặc thất bảo trân kỳ. Trên đời thật hiếm có khó thấy. Phía tây bắc thành lớn đi hơn 20 dặm, đến làng của Bà La Môn. Bên cạnh đó có một cái hố cạn. Mùa thu mùa hạ thì đọng lại, rồi ngấm sâu từng ngày. Tuy có nước chảy vô nhưng chưa bao giờ đầy. Bên cạnh đó lại xây dựng một Bảo Tháp nhỏ và nghe người xưa kể lại, đây là nơi ngày xưa Đại Ngã Mạn Bà La Môn bị đọa vào địa ngục. Ở ấp nầy, có một vị Bà La Môn khi sanh ra biết rộng hiểu nhiều thâm cứu hết thảy nội và ngoại điển đến chỗ thâm huyền. Ngày tháng văn tự cái gì cũng thông suốt. Phong cách mô phạm thanh cao, ai nghe cũng đều kính nể. Cho đến Vua cũng trân quý cung kính và quốc dân đều tôn trọng. Học trò có hơn 1000 người đều là những bậc nổi danh. Một hôm nói rằng:
- Ta vốn vì đời mà xuất thế, thuật lại các việc Thánh để hướng dẫn cho người Phàm. Trước là những kẻ hiền nhân, sau là những nhà triết học, chẳng có ai có thể so sánh với ta. Sánh với Đại Tự Tại Thiên, Bà Sổ Thiên, Na La Diên Thiên, cùng với Phật. Người nào cũng có những kỹ thuật để dạy đạo, nhưng mà chưa thể cạnh tranh, được tôn kính triệt để. Ta nay đức độ đã đầy đủ, đã có tên trên danh đàn một thời với họ, chẳng khác gì những sự vinh hiển. Bèn dùng gỗ chiên đàn màu đỏ, khắc tượng Đại Tự Tại Thiên, Bà Sổ Thiên, Na La Diên Thiên, Phật Thế Tôn v.v...đoạn làm tòa ngồi có bốn chân. Khi nào có ai đến, ông ta tự phụ leo lên ngồi, với tâm đầy ngã mạn như thế. Lúc ấy ở phía tây Ấn Độ có một vị Tỳ Kheo, tên là Bạt Đà La Sổ Chi (Hiền Ái). Hiểu rất rõ ràng về Nhân Minh và nghiên cứu thâm sâu các Luận khác. Đạo phong thuần hậu, hương giới lan xa, thiểu dục tri túc, chẳng mong muốn một việc gì. Nghe như thế than rằng :
- Tiếc thay! trên đời chẳng ai có! Ông ta dại quá, làm việc thất đức.
Từ xa, chống tích trượng mang đãy đến nước nầy với tâm tha thiết tâu lên Vua. Vua thấy cách ăn mặc xềnh xoàng nên không có cảm tình, nhưng nghe ý chí cao cả mạnh hơn hình thức lễ nghi, vì thế bèn sửa soạn nơi đàm luận và mời Bà La Môn đến.
Bà La Môn nghe cười bảo:
- Ông ấy là ai? Ý muốn gì mà đến đây? Thuộc trường phái nào mà đến luận bàn?
Liền kêu cả trăm ngàn người đến đứng trước sau chờ nghe.
Ngài Hiền Ái vận y đơn sơ, trải cỏ làm tòa ngồi, trong khi Bà La Môn ngồi nguyên như trước phỉ báng Chánh Pháp, nêu cao ý tà. Thầy Tỳ Kheo biện luận thanh cao, lưu loát trước sau, cho nên Bà La Môn cảm tạ khuất phục. Vua mới bảo rằng:
- Đã lâu ông là kẻ hư danh, lạm dụng lòng của mọi người, theo luật lệ xưa ghi lại, kẻ nào luận thua thì phải chết, bị bánh xe sắt nghiền thây ngay chỗ ngồi.
Bà La Môn cùng quẫn bức bách vâng mệnh cầu cứu. Ngài Hiền Ái xót thương xin Vua rằng:
- Tâu Đại Vương, xin ngài lấy lòng nhân từ cho kẻ xa đến, để đời đời được nghe tiếng tốt truyền tụng. Hãy ban bố lượng từ bi giáo hóa, đừng làm cái việc kia nữa. Nếu Vua không thi hành thì Bần tăng sẽ bỏ đi.
Vua ra lệnh cỡi lừa đi khắp nơi trong thành để loan báo. Bà La Môn xấu hổ nhục nhã sinh phẩn hận thổ huyết. Vị Tỳ Kheo kia nghe xong liền đến an ủi mà nói rằng:
- Nhà ngươi học hết nội ngoại điển, nghe hiểu mọi điều mà sự vinh nhục chỉ là sự tới lui thường tình. Phàm cái danh ấy đâu có phải là thật. Bà La Môn lại còn phẩn nộ vô cùng, mắng vị Tỳ Kheo thê thảm và phỉ báng Đại Thừa, khinh chê các bậc tiên Thánh.
Lời nói chưa xong, đất liền nứt ra, thân sống nầy rơi xuống sâu. Di tích vẫn còn đây. Từ đây qua phía tây nam ra đến biển gặp phía tây bắc đi hơn 2450 dặm lại đến nước A Thác Lý.
6) Nước A Thác Lý có chu vi hơn 6000 dặm. Đô Thành hơn 20 dặm, Cư dân đông đúc, của quý tích tụ, cày cấy tuy được mùa, nhưng hưng bại lại khó biết. Đất đai nhiều cát, hoa quả rất ít, sản xuất hồ tiêu và lá tiêu non. Sản xuất gỗ trầm hương và những cây lê. Khí hậu nhiệt đới, có nhiều gió mùa. Người tánh tình thô thiển, trọng tài chê đức. Ngôn ngữ, văn tự, nghi lễ các việc giống như nước Ma Lạp Ba. Đa phần không tin phước đức. Những tín đồ đều tin theo Thiên Thần, có hơn 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống lẫn lộn. Từ nước Ma Lạp Ba đi về phía tây bắc hơn 3 ngày, đến nước Khiết Thác.
7) Nước Khiết Thác có chu vi hơn 300 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 200 dặm. Dân cư sống đông đúc, nhà cửa giàu có, không người cai trị nên trực thuộc nước Ma Lạp Ba. Vì phong tục tập quán, thổ sản cũng giống với nước nầy. Có hơn 10 ngôi Già Lam, và hơn 10 ngàn Tăng Sĩ, tu theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có hơn 10 ngôi đền thờ, đa phần là ngoại đạo. Từ đây đi về hướng bắc hơn 1000 dặm, đến nước Phạt Lạp Tỳ.
8) Nước Phạt Lạp Tỳ có chu vi hơn 6000 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai thổ sản khí hậu điều hòa, phong tục tánh tình giống như người nước Ma Lạp Ba. Cư dân ở trong những nhà cửa sang trọng giàu có. Có người giàu có trở thành tỷ phú, số đó hơn 100 người. Xa gần đồ quý đều đem đến nước nầy. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn 6000 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống tạp cư. Khi đức Như Lai còn tại thế đã nhiều lần đi đến nước nầy, cho nên Vua A Dục đã cho kiến thiết những Bảo Tháp và trồng cây nơi Phật dừng chân. Đây cũng còn là di tích của ba vị Phật trong quá khứ đã kinh hành ngồi thiền và thuyết pháp. Vua bây giờ thuộc dòng Sát Đế Lợi là cháu của Vua nước Ma Lạt Ba, là con của Vua Thi La A Dật Đa thuộc nước Yết Nhược Cúc Phiệt bây giờ, hiệu là Đỗ Ngư Ba Phạt Thác. Tánh tình thô tháo, trí mưu đều thiển cận. Tuy nhiên thuần tín nơi Tam Bảo. Mỗi năm đều thiết lễ Đại Hội bảy ngày, dùng món ngon vật lạ để cúng dường chư Tăng cùng với ba y và thuốc men các thứ, gồm đủ bảy loại quý báu, rồi thêm bố thí làm phước để đức lại cho đời. Tôn trọng đạo lý học thuật, xa gần cao tăng đều được kính lễ. Đi ra khỏi thành chẳng xa, có một đại Già Lam, do vị A La Hán A Chiết La kiến lập. Nơi đây cũng là nơi dừng chân của ngài Bồ Tát Đức Huệ, Kiên Huệ. Tại đây ngài đã chế Luận và truyền đi một cách rộng rãi. Từ phía tây bắc, đi hơn 700 dặm đến núi A Nan Đà Bổ La nằm phía tây Ấn Độ.
9) Nước A Nan Đà Bổ La có chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành chu vi hơn 20 dặm. Dân cư đông đúc, nhà cửa giàu có, vì không có người đứng đầu nên lệ thuộc nước Ma Lạp Ba. Đất đai, khí hậu, văn tự, pháp luật đều giống như nhau. Có hơn 10 ngôi Già Lam, gần 1000 tu sĩ tu tập theo Tiểu thừa Chánh Lượng Bộ. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống tạp nhạp. Từ nước Phạt Lạp Tỳ đi qua phía tây hơn 500 dặm, đến nước Tô Sắc Đà nằm phía tây của biên giới Ấn Độ.
10) Nước Tô Sắc Đà chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 30 dặm. Phía tây giáp với sông Mạc Ê. Cư dân sống đông đúc, nhà cửa tài sản phong phú, lệ thuộc nước Phạt Lạp Tỳ. Đất đai khô cằn, hoa quả rất ít. Mùa đông có gió thổi mạnh, phong tục thô sơ. Tánh tình nhẹ dạ. Chẳng ham học tập nghề nghiệp. Dân chúng tà chánh đều tin. Có hơn 50 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa và Thượng Tọa Bộ. Có hơn 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Đất nước nầy có bờ biển nằm về phía tây. Ai sống gần biển rất thuận lợi, để mua bán trao đổi. Đi khỏi thành không xa mấy, có núi Hữu Thiện Đà. Trên đỉnh có một ngôi Già Lam, phòng ốc hành lang đã hư hoại, cây cối suối chảy giao nhau. Đây cũng là nơi thánh hiền lui tới dừng chân, cũng như các tiên thánh qua lại tập hợp. Từ nước Phạt Lạp Tỳ đi về phía bắc hơn 1800 dặm, đến nước Cù Chiết La nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
11) Nước Cù Chiết La có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành hiệu là Tỳ La Ma La có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai phong tục giống như nước Tô Sắc Đà. Cư dân sống phồn thịnh, nhà cửa giàu sang, vì có nhiều ngoại đạo nên ít tin Phật Pháp. Chỉ có một ngôi Già Lam, và hơn 100 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống hỗn tạp. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợi. Khi tuổi còn nhỏ trí dũng lại cao mưu, thâm tín Phật Pháp, nhưng đến khi cao tuổi luôn thay đổi khác thường. Từ đây qua phía đông nam đi hơn 2800 dặm đến nước Ô Phiệt Diễn Na thuộc miền nam Ấn Độ.
12) Nước Ô Phiệt Diễn Na có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai phong tục giống như nước Tô Sắc Đà. Cư dân phồn thịnh, nhà cửa giàu có. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đã hư hoại, chỉ còn lại năm ba ngôi và có hơn 300 Tăng Sĩ tu theo cả Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có hơn 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo hầu hết sống tạp nhạp. Vua thuộc giai cấp Bà La Môn, thông suốt kinh điển ngoại đạo, không tin Phật Pháp. Đi khỏi thành chẳng bao xa, có một Bảo Tháp là nơi mà Vua A Dục làm nên một cái địa ngục. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 1000 dặm, đến nước Trịnh Chỉ Đà.
13) Nước Trịnh Chỉ Đà có chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành có chu vi 15 hay 16 dặm. Đất thấp nên cày cấy lúa thóc được mùa. Cũng có trồng được lúa mạch và hoa quả. Khí hậu điều hòa, tánh tình người ở đây thuần lương. Đa phần tin theo ngoại đạo, ít kính tín Phật Pháp. Có 10 ngôi Già Lam, rất ít chư tăng. Có khoảng 10 ngôi đền thờ, mà ngoại đạo lên đến số ngàn.
Vua thuộc dòng dõi Bà La Môn, bài bác Tam Bảo, nhưng tôn trọng đức cho nên các bậc học rộng hiểu nhiều đều vân tập nơi đây. Từ đây đi về hướng bắc hơn 900 dặm, đến nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa, nằm ở miền trung Ấn Độ.
14) Nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa có chu vi hơn 3000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 30 dặm. Đất đai, phong tục giống như núi Ô Phạt Diễn Na, tôn kính ngoại đạo chẳng tin Phật Pháp. Đền Thờ có 10 ngôi, đa phần tu theo đạo lõa thể. Nhà Vua thuộc dòng dõi Bà La Môn, cũng chẳng tin sâu Phật Pháp. Từ đây đi trở lại thì đến nước Cù Chiết La. Lại hướng về phương bắc đi qua những nơi hoang dã nguy hiểm hơn 1900 dặm, qua sông Tín Độ (Sông Sin Đu), đến nước Tín Độ ở phía tây Ấn Độ.
15) Nước Tín Độ chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành hiệu là Tỳ Thiêm Bà Bổ La (Vichavapura) có chu vi hơn 30 dặm. Cày cấy lúa thóc được mùa. Đây là nơi sản xuất vàng bạc, ngọc ngà, đá quý. Lại có thêm trâu, dê, lạc đà, lừa và những loại gia súc khác. Tuy chỉ có một ngọn núi sản xuất muối đỏ, có màu sắc giống như đá đỏ, trắng, đen v.v...như người ở nơi khác đến đây lấy để làm thuốc. Con người tánh tình cương nghị, chất trực, hay đấu tranh, ưa phỉ báng, học hành, không đến đâu, nhưng lại thâm tín Phật Pháp. Có 100 ngôi Già Lam, hơn vạn tăng đồ, tất cả đều học theo Tiểu Thừa phái Chánh Lượng Bộ. Lại thêm tánh tình biếng nhác, tệ hại, nhưng cũng có người siêng năng. Họ thường thích ở riêng một mình nơi núi rừng yên tĩnh. Có người trước kia là ăn trộm nhưng lại chứng thánh quả. Có hơn 30 ngôi đền. Ngoại đạo sống tạp cư. Vua thuộc dòng Thủ Đà La (Sùdra - Giai cấp nông dân), tánh tình thuần hậu, tôn kính Phật Pháp. Ngày xưa đức Như Lai có lần đi đến xứ nầy, nên với tâm nguyện xây dựng Thánh tích, Vua A Dục kiến tạo hơn 10 Bảo Tháp ở đây. Ngài A La Hán Ô Ba Cúc Đa cũng đã từng đi đến đây, thuyết pháp khai đạo. Ngày nay vẫn còn di tích lối kiến tạo Già Lam, hoặc kiến tạo Bảo Tháp còn nhiều việc khác nữa nhưng đại lược là như vậy.
Bên sông Tín Độ, đi hơn 1000 dặm, có hơn 100 ngàn nhà ở nơi bờ sông. Người dân tánh tình cương nghị, nhưng việc chánh là sát sanh nhưng không giết bò trâu. Nam nữ sống lẫn lộn nhau không biết xấu hổ. Tóc cắt ngắn, y phục xùng xình, mặc giống như tu sĩ nhưng làm việc thế tục. Chấp Tiểu thừa, phỉ báng Đại Thừa. Tương truyền rằng:
- Xưa kia tại đất nầy, cư dân rất đau khổ trong sự bạo tàn nầy. Có một vị A La Hán thương cảm sự điên đảo ấy, muốn hóa độ họ nên từ hư không mà đến. Hiện đại thần thông tạo nên những việc hy hữu, làm cho họ tin theo, rồi từ từ nghe lời dạy. Những kẻ ấy vui vẻ cung kính, nguyện y theo lời dạy mà sám hối. Vị A La Hán ấy biết họ tâm đã quy thuận, liền cho họ thọ tam quy, rồi việc hung bạo sát hại sanh mạng tất nhiên đoạn diệt. Cạo tóc mặc áo hoại sắc để thừa hành Phật sự. Thời gian trôi qua tuy càng thâm nhập, nhưng thói đời càng xa càng dễ thay đổi. Dù có giữ việc thiện nhưng không còn hoàn hảo. Tuy mặc pháp y nhưng thường hay phạm giới. Con cái đời nầy qua đời kia theo thói quen mà thành tục lệ. Từ phía đông, đi hơn 900 dặm qua sông Tín Độ đến bờ sông phía đông gặp nước Mậu La Tam Bộ Lô, thuộc biên giới phía tây Ấn Độ.
16) Nước Mậu La Tam Bộ Lô có chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 30 dặm. Cư dân phồn thịnh, nhà cửa giàu có. Họ lệ thuộc nước Trách Già. Đất đai màu mỡ. Khí hậu ôn hòa, phong tục chất trực ham học và ưa cái Đức, tin nhiều về Thiên Thần và ít tin tưởng Phật Pháp. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đã bị hoang phế và có rất ít Tăng Sĩ, có học nhưng không chịu thực hành. Có 8 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống tạp cư. Có một đền thờ rất trang nghiêm tráng lệ. Một ngày nọ tượng thiên thần phát ra ánh sáng màu vàng rực rỡ, linh dị u hiển thần thông kỳ diệu. Đàn bà tấu nhạc suốt đêm đến sáng. Rồi hương hoa cúng dường chẳng dứt. Chính các Vua của nước Ấn Độ giàu có nên đã bỏ của thí ấy dùng những của trân bảo để kiến lập nhà Từ Thiện để chu cấp thuốc men, đồ ăn uống cho những người bệnh nghèo. Những người của nước khác đến đây nguyện cầu số thường trên ngàn người. Chung quanh bốn bên đền thờ đều có ao hồ hoa trái, tạo nên chỗ thưởng ngoạn tuyệt mỹ. Từ phía đông nầy đi qua phía bắc hơn 700 dặm đến nước Bát Phạt Đa thuộc miền bắc Ấn Độ.
17) Nước Bát Phạt Đa có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Cư dân phồn thịnh, thuộc nước Trách Già, có nhiều lúa mì và lúa mạch. Khí hậu điều hòa, phong tục chất trực. Người dân tánh tình nóng nảy, hay nói những lời thô bỉ. Nghề nghiệp chuyên tinh, tin cả tà lẫn chánh. Có mười ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có bốn Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Có 20 ngôi đền và ngoại đạo sống lộn xộn. Phía bên thành có một ngôi Già Lam rất lớn có hơn 100 Tăng Sĩ, tu học theo Đại Thừa Giáo. Ở đây ngày xưa, ngài Sân Na Phất Đản La (Tối Thắng Tử) soạn Du Già Sư Địa thích luận ở đây. Ngài Hiền Ái luận sư và Ngài Đức Quang luận sư cũng xuất gia nơi đây. Chùa nầy đã bị hỏa thiêu cho nên bây giờ rất hoang tàn. Từ nước Tín Độ phía tây nam đi hơn 1560 dặm, đến nước A Điểm Bà Sí La nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
18) Nước A Điểm Bà Sí La có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành hiệu là Yết Tế Thấp Phạt La có chu vi hơn 30 dặm nằm ở biên giới phía tây gần sông Tín Độ và bên cạnh bờ biển. Nhà cửa giàu có và có nhiều của quý. Gần đây không có người kế tục cho nên trực thuộc nước Tín Độ, đất đai ẩm thấp lồi lõm, cỏ lúa mọc đầy. Lúa thóc tuy có, nhưng đa phần lúa mạch là đặc sản. Khí hậu lạnh. Gió rét cắt da. Nơi đây có nhiều bò, dê, lạc đà, lừa. Tánh tình con người nóng nảy, chẳng thích học tập. Ngôn ngữ sổ sàng khác với miền trung Ấn Độ. Tập tục thuần hậu kính sùng Tam Bảo. Có 80 ngôi Già Lam, và hơn 5000 Tăng Sĩ đa phần học theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có mười ngôi đền thờ. Họ theo đạo lõa thể. Trong thành có một đền thờ Đại Tự Tại Thiên. Đền thờ và tượng được điêu khắc rất đẹp và linh thiêng. Những người ngoại đạo dời nhà cửa vào ở bên trong. Ngày xưa đức Như Lai cũng đến đó để độ người, chỉ dẫn cho những kẻ phàm tục được lợi lạc. Cho nên Vua A Dục xây dựng những Thánh Tích đến 6 Bảo Tháp tất cả. Từ đây đi về phía tây hơn 2000 dặm đến nước Lang Yết La, ở phía tây biên giới Ấn Độ.
19) Nước Lang Yết La từ phía đông sang phía tây và từ phía bắc xuống phía nam hơn 1000 dặm. Đô Thành hơn 30 dặm. Đô Thành tên là Tốt Thố Lê Thấp Phạt La. Đất đai màu mỡ. Lúa thóc được mùa. Khí hậu phong tục giống như nước A Điểm Bà Sí La. Cư dân giàu có, chứa nhiều của quý. Nước nằm gần biển lớn. Đi về phía tây gặp nước toàn phụ nữ. Vì không có người lãnh đạo, cho nên có nhiều kẻ tự phát không vâng lệnh ai cả. Bây giờ thuộc nước Ba Sắc Tư. Chữ viết giống như Ấn Độ nhưng tiếng nói thì khác. Tin theo cả tà lẫn chánh. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 6000 Tăng Sĩ tu theo cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa. Có hơn 100 đền thờ. Ngoại đạo đa phần tu theo phái lõa thể. Trong thành có đền thờ Tự Tại Thiên rất trang nghiêm tráng lệ. Đây là nơi tập họp của những người tu lõa thể. Từ phía tây bắc đến nước Ba Sắc Tư (không phải bên trong nước Ấn Độ - Nước Ba Tư).
20) Nước Ba Sắc Tư có chu vi hơn vạn dặm. Đô Thành hiệu là Tô Sách Tát Quân Na có chu vi hơn 40 dặm. Đất đai sông núi có nhiều. Khí hậu lại thay đổi thuộc miền nhiệt đới nên phải dẫn nước vào ruộng. Người người giàu có. Nơi đây sản xuất vàng, kim loại quý, đá quý, những loại thủy tinh trân kỳ. Ở đây có dệt vải và làm những loại lông thú. Giỏi cỡi ngựa và lạc đà, trao đổi bằng tiền kẽm, bằng bạc. Tánh người thô bạo. Tục lệ chẳng có lễ nghi. Văn tự ngôn ngữ khác với các nước. Chẳng có nghề nghiệp nhưng có nhiều sản phẩm công nghệ. Sản phẩm đều do người ở nước bên cạnh mang qua là chính yếu. Hôn nhân lộn xộn. Thây chết vứt bừa bãi. Hình dáng người to lớn, đầu hói trán rộng. Mặc y phục bằng da và bằng bông. thuế nhà bốn đồng tiền kẽm. Có rất nhiều đền thờ, thuộc học trò của phái Ngoại đạo Đề Na Phạt. Chỉ có hai ba ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ. Họ học tập theo Tiểu Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Bình bát của đức Phật Thích Ca nằm trong vương cung. Biên giới phía đông có thành Hạt Chu. Bên trong thành không rộng, nhưng mà thành ngoài chu vi hơn 60 dặm. Người ở đây sinh sống giàu có. Phía tây bắc giáp với nước Phất Lẫm, vì ở gần cho nên phong tục cũng giống như nước Ba Tư. Hình mạo và ngôn ngữ cũng khác, có nhiều tài nguyên thiên nhiên giàu có phong phú. Phía tây nam của nước Phất Lẫm là biển và đảo. Phía tây là nước Nữ Quốc, tất cả dân chúng đều là đàn bà chẳng có đàn ông. Những đồ trân bảo được bán vào nước Phất Lẫm cho nên kho Vua của Phất Lẫm được đem phân phát cho mọi người. Phong tục của nước nầy, nếu sinh ra con trai, không được chọn. Từ nước A Điểm Bà Sí La đi qua phía bắc hơn 700 dặm, đến nước Kiên Đa Thế La nằm ở biên giới phía tây của Ấn Độ.
21) Nước Kiên Đa Thế La chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành chu vi hơn 30 dặm. Nhân dân giàu có nhưng không người lãnh đạo, nên phải lệ thuộc nước Tín Độ. Đất đai có nhiều cát. Gió lạnh thổi mạnh. Đa phần trồng được lúa mạch nhưng ít hoa quả, phong tục bạo ác. Ngôn ngữ khác với miền trung Ấn Độ, họ chẳng muốn học nghề nghiệp, nhưng biết tin tưởng. Có hơn 50 ngôi Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có hơn 20 đền thờ đa phần theo đạo lõa thể. Về phía bắc cách thành 15 hay 16 dặm là một khu rừng lớn, trong đó có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước do Vua A Dục dựng nên. Trong đó có thờ Xá Lợi và thường phóng ra ánh sáng rực rỡ. Đây là nơi mà ngày xưa đức Như Lai đã làm một vị tiên nhơn bị Vua nước ấy sát hại. Từ phía đông đi không xa có một ngôi Già Lam đã cũ, do ngài Đại A La Hán Đại Ca Na Đa Diên Na kiến lập ngày xưa. Bây giờ bên cạnh đó còn di tích của bốn vị Phật trong quá khứ ngồi thiền và đi kinh hành. Cho nên Bảo Tháp được xây dựng để làm chỗ tiêu biểu. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 300 dặm, đến nước A Quân Trà nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
22) Nước A Quân Trà chu vi hơn 2450 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Không người lãnh đạo cho nên lệ thuộc nước Tín Độ. Đất đai trồng được lúa mì và lúa mạch rất tốt. Hoa quả ít, cây cối thưa. Khí hậu gió lạnh. Tánh tình con người hung bạo, ngôn ngữ phong phú, chẳng thích học nghề. Tuy nhiên đối với Tam Bảo giữ tâm thuần tín. Có hơn 20 ngôi Già Lam, và hơn 2000 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Có 5 ngôi đền thờ, tu theo phái ngoại đạo lõa thể. Phía đông bắc của thành chẳng xa có một rừng trúc lớn, trong đó có dấu tích của một ngôi chùa. Nơi ấy ngày xưa Như Lai nghe các vị Tỳ Kheo về việc mặc y và mang tất. Bên cạnh đó có Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên, bây giờ đã nghiêng đổ, cao hơn 100 thước. Gần đó cũng có một Tịnh Xá, có tượng Phật đứng bằng đá xanh. Cứ mỗi ngày đến giờ Ngọ thì phóng ra ánh sáng.
Đi về phía nam hơn 800 bước vào trong rừng có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên. Nơi đây đức Như Lai đã dừng lại nhiều ngày. Đêm về lạnh lẽo cho nên Ngài đã đắp ba y cùng một lúc cho nên sáng ngày hôm sau, khai mở cho các Tỳ Kheo được mặc nhiều lớp y. Ở giữa rừng, có nơi Phật đi kinh hành, có những Bảo Tháp chiếu lên ánh sáng. Cũng là nơi tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Trong Bảo Tháp nầy có tóc và móng tay của Như Lai, mỗi ngày đến giờ Ngọ, ánh sáng phóng ra rất đẹp. Đi về phía đông bắc hơn 900 dặm đến nước Phạt Sắc Noa thuộc miền tây Ấn Độ.
23) Nước Phạt Sắc Noa chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Người người giàu có, nhưng lệ thuộc nước Ca Tất Thí. Đất đai có nhiều núi rừng, nên lúa gạo tương đối ít. Khí hậu tương đối lạnh, phong tục thô bạo. Tánh tình nóng nảy. Ý chí thậm tệ. Ngôn ngữ ít giống với miền trung Ấn Độ, tin theo cả tà lẫn chánh. Không thích học hỏi nghề nghiệp. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đều hoang tàn. Có hơn 300 Tăng Sĩ tu theo giáo lý Đại Thừa. Có hơn 5 ngôi đền thờ, hầu hết ngoại đạo ở đây tu theo đạo lõa thể.
Không xa thành về phía nam có một ngôi Già Lam cũ, ngày xưa Như Lai thường thuyết pháp ở đây, đã chỉ dạy sự lợi lạc của niềm vui và khai mở cho mọi người hiểu được sự sống của mọi loài. Bên cạnh đó là nơi di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền.
Tương truyền rằng xứ nầy, phía tây tiếp giáp với nước Khể Lượng Na, người ở đó cách trở núi sông không có người cầm đầu, có nhiều dê ngựa và nhiều ngựa quý. Hình dáng con người cao lớn. Các nước khác mang nhiều loại bảo vật quý giá đến nước nầy trao đổi.
Từ đây đi về phía tây bắc vào trong núi sâu rồi băng qua sông rộng, qua một thành ấp nhỏ rồi đi hơn 2000 dặm nữa mới ra khỏi biên giới nước Ấn Độ, đến nước Tào Cự Thác.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển thứ mười một
Ghi chú:
Đoạn sau đây gồm có 516 chữ Hán giải thích rõ ràng về nước Tăng Già La (Tích Lan):
Nước Tăng Già La (Tích Lan) ngày xưa gọi là nước Sư Tử, cũng gọi là nước Vô Ưu nằm phía nam xứ Ấn Độ, đất đai có nhiều của quý, cũng có tên là Bảo Chữ (Bãi Cát Quý). Ngày xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni hóa thân với tên là Tăng Già La. Ngài là bậc đạo đức, quốc dân suy tôn làm Vua, cho nên nước nầy lấy quốc hiệu là Tăng Già La, dùng đại thần thông lực phá thành bằng thiếc, diệt trừ La Sát Nữ, vì thương xót cứu giúp sự nguy nàn. Sau đó xây dựng kinh đô, kiến thiết làng ấp đã giáo hóa mọi người. Ngài hoằng dương Chánh Pháp và sau khi viên tịch để lại răng xá lợi. Đất tại đây cứng như kim cương trải qua bao nhiêu kiếp vẫn không bị hoại, ánh sáng chiếu rọi giống như ngôi sao trên hư không, như mặt trăng sáng tỏa, như mặt trời tỏ rõ ban ngày. Nếu có cúng kiến thì kết quả như thần. Trong nước có nhiều chỗ hoang sơ, nguy hiểm tai nạn khác nhau, nếu tinh cần cầu nguyện sẽ được linh ứng rõ ràng. Bây giờ là núi Dương Lan, ngày xưa thuộc nước Tăng Già La. Tại vương cung có răng Phật thờ trong tịnh xá, trang trí nhiều đồ quý giá phát ra ánh sáng. Đời đời tương thừa kính lễ không dứt. Quốc Vương bấy giờ tên là A Lạt Khổ Nại Nhi trấn thủ tại đây. Hay tôn sùng ngoại đạo chẳng tôn kính Phật Pháp, tàn bạo hung hăng, chẳng giúp đỡ quốc dân, ngạo mạn với răng Phật.
Ghi chú:
Đại Minh Vinh Lạc năm thứ ba, Hoàng Đế sai Thái Giám Trịnh Hòa mang hương hoa đến đây để cúng dường. Trịnh Hòa muốn gặp Quốc Vương A Liệt Khổ Nại Nhi để khuyên Quốc Vương nên sùng kính Phật Pháp xa lìa ngoại đạo. Vua giận dữ liền muốn gia hình sát hại. Trịnh Hòa biết được mưu nầy nên thoát khỏi. Sau đó, Trịnh Hòa sang các nước lân bang để báo tin và bái yết Vua nước Dương Lan Sơn, Vua cũng kiêu mạn chẳng cung kính lại có ý đồ hại sứ giả. Dùng năm vạn binh và dùng gỗ để lấp đường, chia quân lính ra để cướp thuyền. Mưu chờ thời cơ. Trịnh Hòa biết được nên lui thuyền lại. Đường trở lại rất hiểm nguy. Cho người ra khỏi thuyền, ông ta cùng ba ngàn binh lính ban đêm xâm nhập vào Vương Thành cố thủ. Những lính cướp thuyền cùng với những lính nội công bốn mặt xáp lại, hợp lực bao vây nhiều vòng, công phá chiến đấu trong sáu ngày. Trịnh Hòa bắt được Vua, bắt buộc phải mở cửa và dẹp gỗ chắn đường ngăn chận lối đi. Cả hơn hai mươi dặm như thế thì mới đến thuyền. Rồi thỉnh răng Phật xuống thuyền, linh dị phi thường. Hào quang chiếu diệu như trước đã nói, làm chấn động kinh ngạc những người xa gần. Rồi trải qua biển cả hơn 10 vạn dặm. Gió mưa trôi dạt nhưng chẳng sợ lại như bình địa. Rồng dữ, cá ác chia nhau xuất hiện phía trước, rồi lặng lẽ ra đi chẳng làm hại. Mọi người trong thuyền vẫn yên ổn vui tươi. Đến ngày mồng 9 tháng 7 năm Vinh Lạc thứ 9 triều nhà Minh, về đến kinh sư. Hoàng Đế ra lệnh trong hoàng thành dùng gỗ Bạch Đàn thật trang nghiêm để làm Kim Cương Bảo Tọa lưu giữ răng Phật, rồi dùng nghi thức tế lễ cúng dường, lợi ích cho loài hữu tình, cầu phước cho thứ dân làm lợi lạc vô lượng công đức.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển mười một
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:09:47 GMT -5
Quyển thứ mười hai (22 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Tào Cự Thác 2. Nước Phất Phiêu Trì Tát Quân Na 3. Nước An Đản La Phược 4. Nước Hoạt Tất Đa 5. Nước Hoạt 6. Nước Tào Kiến 7. Nước A Lợi Ni 8. Nước Yết La Hồ 9. Nước Ngật Phiêu Sắc Ma 10. Nước Bát Lợi Yết 11. Nước Tu Ma Đản La 12. Nước Bát Thích Sán Na 13. Nước Nhâm Bạ Kiến 14. Nước Quật Nãn Noa 15. Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế 16. Nước Thi Khí Ni 17. Nước Thương Di 18. Nước Yết Bàn Đà 19. Nước Ô Sát 20. Nước Khư Sa 21. Nước Nghiên Cẩu Da 22. Nước Cù Tác Đản Na
1) Nước Tào Cự Thác chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành hiệu là Hạt Tất Na, chu vi hơn 30 dặm. Lại có thành Hạt Tác La, chu vi cũng 30 dặm, rất kiên cố hiểm trở, sơn xuyên cách trở, lúa thóc từng thời vụ, có nhiều lúa mạch, cây cỏ, ít hoa quả nhiều. Nơi đây có sản xuất Uất Kim Hương (Nghệ) và có những loại cỏ quý. Cỏ quý phát sanh tại sông La Ma của Ấn Độ, giữa thành Hạt Tác La có một suối nước phun lên, mà người trong xứ lấy đó để tưới tẩm đất đai. Khí hậu lạnh, sương tuyết nhiều, tánh người nhẹ dạ thường hay ngụy trá, ham học nghề nghiệp, có nhiều kỹ thuật. Nghe nhưng không rõ ràng. Vì được truyền tụng lời nói nhiều vạn lời, văn tự, ngôn ngữ khác với các nước khác, hay nói những chuyện hư cấu rồi trở thành sự thật. Tuy là thờ cả hàng trăm vị thần, nhưng cũng tôn sùng Tam Bảo. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và tăng đồ hơn vạn người, đều học tập theo Đại Thừa Giáo. Vua bây giờ thuần tín, nhờ truyền thống đời đời để lại. Có nhiều phước đức và ưa học hỏi. Vua A Dục kiến tạo hơn 10 ngôi Bảo Tháp ở nơi đây và hơn 10 đền thờ ngoại đạo, họ sống rất lộn xộn. Nói chung có rất nhiều ngoại đạo và hầu như rất thịnh hành ở đây. Họ tin theo Câu Na Thiên. Vị Thiên Thần ngày xưa từ nước Ca Tất Thí thuộc núi A Lộ như đến sinh sống ở nước nầy thuộc về miền nam của nước Câu La Tứ La, làm mưa làm gió. Vì sự hung ác cho nên những người tin tưởng mất đi lời nguyện, kẻ khinh chê bị đưa về trở lại, cho nên xa gần những kẻ tín ngưỡng trên dưới cùng với các nước lân bang thứ dân mỗi năm đều tham gia những kỳ đại hội. Hoặc cúng vàng bạc trân bảo, hoặc cúng bò ngựa gia súc, đem cống hiến đầy đủ như cầu: vàng, bạc, dê, ngựa bày la liệt trong hang động. Chẳng phải cho mình mà cúng thí tu phước, cốt yếu của ngoại đạo là giữ tâm khổ hạnh, thiên thần chỉ thọ giữ chú thuật. Ngoại đạo trị liệu được nhiều chứng bịnh nan y. Từ đây đi về phía bắc hơn 500 dặm đến nước Phất Phiêu Trì Tát Quân Na.
2) Nước Phất Phiêu Trì Tát Quân Na từ phía đông qua tây hơn 2000 dặm, từ phía nam ra bắc hơn 1000 dặm. Đô Thành hiệu là Hộ Tất Na có chu vi hơn 20 dặm, đất đai phong tục giống như nước Tào Cự Thác nhưng ngôn ngữ thì khác biệt. Khí hậu lạnh, tánh tình người cuồng bạo. Vua thuộc dòng Đột Quyết, thâm tín Tam Bảo, ưa học tập và tôn trọng đạo đức. Từ đông bắc xứ nầy vào núi băng sông đến bên thành của nước Ca Tất Thí. Có hơn 10 ấp nhỏ, dẫn đến Đại Tuyết Sơn, núi lớn Bà La Tê Na. Đỉnh núi rất cao, nguy hiểm, có nhiều hang động nơi đó. Hoặc đi vào trong hang, hoặc leo lên trên núi. Mùa hè tuyết tan thành nước. Đi cả ba ngày mới đến trên đỉnh. Mùa đông gió lạnh mang theo nhiều tuyết vào cốc. Kẻ lữ hành trải qua không biết bao nhiêu cực nhọc của chân tay, xòe cánh bay lượn cũng không thể qua khỏi. Chân bước đi bộ lại giống như bay, nhìn xuống dưới các núi khác rất đẹp. Đây là đỉnh cao đặc biệt của Thiệm Bộ Châu. Trên đảnh chẳng có cây, chỉ có nhiều đá, thỉnh thoảng lại có rừng nhưng cây còn nhỏ. Lại đi hai ba ngày mới xuống được núi, mới đến nước An Đản La Phược.
3) Nước An Đản La Phược là đất cũ của nước Đổ Hóa La chu vi hơn 3000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 14 hay 15 dặm. Vì không có người lãnh đạo nên thuộc nước Đột Quyết. Núi và sông liền nhau cho nên đất đai rất hẹp. Khí hậu lạnh lẽo, gió tuyết vào đông. Giàu có lúa thóc và khan hiếm hoa quả. Tánh người hung bạo, chẳng có phong tục kỹ cương, chẳng biết tội phước. Chẳng muốn học tập chỉ tu thần bí. Ít tin tưởng Phật Pháp. Có ba ngôi Già Lam và chỉ có 10 vị Tăng Sĩ. Tất cả đều học theo Đại chúng Bộ, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng. Từ đây đi về phía tây bắc vào trong động qua khỏi núi đến một thành nhỏ. Đi hơn 400 dặm đến nước Hoạt Tất Đa.
4) Nước Hoạt Tất Đa ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La có chu vi ít hơn 1000 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 10 dặm. Không có người lãnh đạo nên thuộc nước Đột Quyết. Núi nhiều, sông hẹp, gió lạnh. Ngũ cốc phong phú. Hoa quả rất nhiều. Tánh tình hung bạo. Tục lệ chẳng có phép tắc gì. Có hơn 3 ngôi Già Lam nhưng rất ít tăng sĩ. Từ đây đi về phía tây bắc qua núi, qua hang động đến thành ấp, khoảng 300 dặm đến nước Hoạt.
5) Nước Hoạt, ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 2000 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Không có người lãnh đạo cho nên thuộc nước Đột Quyết. Đất đai bằng phẳng. Lúa thóc được mùa. Cây cỏ xanh tươi. Hoa trái sum sê. Khí hậu ôn hòa. Phong tục thuần chất, tánh tình con người thô bạo. Y phục bằng da thú. Đa phần có tín tâm đối với Tam Bảo, ít tin thần linh. Có 10 ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ tu tập cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Vua thuộc dòng Đột Quyết. Qua cổng sắt phía nam có những nước nhỏ. Thỉnh thoảng có những con chim lạ bay đến lưu trú tại đây. Từ đây đi về phía đông, lên một ngọn đồi trống nằm giữa Thiệm Bộ Châu. Phía nam giáp với núi tuyết. Phía bắc giáp với nhiệt hải có hàng ngàn con suối. Phía tây giáp nước Hoạt, phía đông giáp nước Ô Sát. Từ đông sang tây, từ nam ra bắc mỗi chiều 1000 dặm. Núi cao hàng trăm dặm. Động đá cheo leo nguy hiểm băng tuyết đóng đầy. Mỗi khi gió lạnh về thật là khủng khiếp. Cho nên ở đây gọi là Đồi Trống, cũng còn một tên khác là núi cao trống gió. Từ phía đông đi hơn 100 dặm đến nước Tào Kiến.
6) Nước Tào Kiến ngày xưa cũng thuộc nước Đổ Hóa La có chu vi hơn 400 dặm. Đô Thành có chu vi khoảng 15 hay 16 dặm. Đất đai phong tục cũng giống như nước Hoạt. Không có người lãnh đạo cho nên thuộc nước Đột Quyết. Phía bắc đến nước A Lợi Ni.
7) Nước A Lợi Ni ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, nằm hai bên bờ sông Phượt Sô chu vi hơn 300 dặm. Đô Thành chu vi hơn 14 hay 15 dặm. Đất đai phong tục cũng giống như nước Hoạt. Phía đông giáp nước Yết La Hồ.
8) Nước Yết La Hồ, ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, bắc giáp sông Phượt Sô có chu vi hơn 200 dặm. Đô Thành chu vi 14 hay15 dặm. Đất đai, phong tục cũng giống như nước Hoạt. Từ nước Tào Kiên đi về phía đông gặp đỉnh núi qua những hang động rồi sông ngòi lại đến thành ấp. Đi hơn 300 dặm nữa đến nước Ngật Phiêu Sắc Ma.
9) Nước Ngật Phiêu Sắc Ma ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, từ đông sang tây hơn 10 dặm và từ nam ra bắc hơn 300 dặm. Đô Thành chu vi khoảng 15 hay 16 dặm. Đất đai phong tục giống như xứ Tào Kiến, chỉ riêng nhân tình của nước nầy thô bạo, ngu xuẩn ác độc khác với các nước kia. Đi lên phía bắc đến nước Bát Lợi Yết.
10) Nước Bát Lợi Yết, ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, từ đông sang tây hơn 100 dặm và từ nam ra bắc hơn 300 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Đất đai, phong tục giống như nước Ngật Phiêu Sắc Ma. Từ nước Ngật Phiêu Sắc Ma đi đến phía đông vào núi vượt sông, đi hơn 300 dặm nữa, đến nước Tu Ma Đản La
11) Nước Tu Ma Đản La, trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 3000 dặm, núi sông liền nhau, đất đai cằn cỗi ít lúa mùa, nhiều lúa mạch, rau cải có hàng trăm thứ, khí hậu lạnh. Tánh tình người thô bạo, chẳng biết tội phước, hình mạo xấu xí ngay cả đứng đi. Y phục bằng da, giống như nước Đột Quyết. Đàn bà trùm khăn trên đầu cao ba tấc. Giữa đầu rẽ tóc ra làm hai tượng trưng cho cha mẹ. Phía trên tượng trung cho cha, phía dưới tượng trưng cho mẹ. Tùy theo sự chết trước hay sau của cha mẹ mà lấy đi một miếng. Nếu cha mẹ còn thì để nguyên vẹn. Nhà Vua nước nầy thuộc dòng họ Thích. Núi phía tây thấy giống như là một người đang nằm. Bên kia là biên giới của nước Đột Quyết, vì ảnh hưởng rất nhiều phong tục nơi đây, nên biên giới bị xâm phạm dễ dàng. Có một thành riêng biệt gọi là thành Lưu Ly, trong đó có mười thành kiên cố và mỗi thành có kẻ đứng đầu riêng. Thành dày như thế nhưng có kẻ hở có thể qua lại được. Phía tây tiếp với nước Ngật Phiêu Sắc. Phía đông của nước Tu Ma Đản La có nhiều hang động. Đi hơn 200 dặm đến nước Bát Thích Sán Na.
12) Nước Bát Thích Sán Na trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 2000 dặm. Đô Thành nằm trên núi, có chu vi 6 hay 7 dặm. Nhiều núi sông cho nên có nhiều cát đá. Đất trồng được lúa mạch. Có nhiều nho, hồ tiêu, đào, lê, quả nại v.v....Khí hậu lạnh lẽo. Tánh người cương nghị, chẳng có lễ nghĩa, không biết học nghề. Hình thù xấu xí. Đa phần mặc đồ bằng lông. Có 3 hay 4 ngôi Già Lam và ít tu sĩ. Tánh tình thuần chất kính tín Tam Bảo. Đi về phía đông nam của lãnh thổ vào động đá và đi hơn 200 dặm nữa là nước Nhâm Bạ Kiến.
13) Nước Nhâm Bạ Kiến trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 1000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 10 dặm. Sông núi nhiều nên ruộng đất hẹp. Đất đai thổ sản khí hậu ở đây đơn giản và thuần thục. Tánh tình của người khác với nước Ba Tích Sán Na rất nhiều. Lời nói cũng có phần khác hẳn. Tánh tình thô bạo, không rõ thiện ác. Đi về phía đông nam là núi cao, vượt qua những đoạn đường đèo nguy hiểm, đi hơn 300 dặm đến nước Quật Nãn Noa.
14) Nước Quật Nãn Noa, trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 2000 dặm. Đất đai sông núi khí hậu giống như nước Nhâm Bá Kiến, chẳng có lễ nghi pháp luật, tánh người thô bạo. Chẳng muốn làm phước, ít tin tưởng Phật Pháp, dáng hình xấu xí mặc nhiều đồ bằng da. Có nhiều mỏ ở trong núi, sản xuất vàng bạc và nhiều đá quý. Chùa Viện chẳng có Tăng Già. Vua xứ đó thuần hậu, kính sùng Tam Bảo. Từ phía đông bắc leo qua núi vào hang động, đường đi nguy hiểm, đến nước Đạt Ma Tất Thiết Đế.
15) Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế nằm hai bên dãy núi, trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La. Từ đông sang tây hơn 1560 dặm, từ nam ra bắc hơn 4 hay 5 dặm. Đất hẹp cho nên khó mở mang thêm một dặm nào. Gần sông Phạt Sô, đất đai khúc khủyu lồi lõm chỗ cao chỗ thấp có nhiều cát đá, mùa đông gió lạnh. Chỉ trồng được lúa mạch, đậu và một ít cây trái hoa quả. Nơi đây có sản xuất nhiều ngựa tốt. Ngựa tuy nhỏ con nhưng rất khỏe và dai. Phong tục không hoàn hảo. Tánh tình con người thô bạo. Hình dạng xấu xí. Mặc áo da, khác với các nước khác. Có hơn 10 ngôi Già Lam và rất ít Tăng Sĩ. Đô Thành tên là Hôn Đà Đa. Bên trong có Già Lam, do tiên vương xây dựng trong động đá. Cách đây hơn 100 năm về trước, tại đây Phật Giáo bị tà thần uy hiếp. Ngày xưa nhà vua thương người con bị tật, đi tìm những y thuật để cứu chữa mà bịnh chỉ thêm chứ không giảm. Nhà Vua đích thân đến đền thờ để thỉnh cầu cứu mạng. Lúc bấy giờ bị giáo sĩ giả làm thần mà lên tiếng rằng bệnh nầy sẽ khỏi không có gì lo. Vua nghe như vậy, rồi cho xa giá trở về, dọc đường gặp vị Sa Môn đáng kính, thấy vận y phục kỳ lạ, vua sợ hãi mà hỏi từ đâu đến vậy. Vị Sa Môn là bậc chứng Thánh quả muốn hoằng truyền Phật Pháp nên có hình dáng đặc biệt và nói với Vua rằng:
- Tôi là đệ tử của đức Như Lai, là một vị Tỳ kheo.
Vua nghe xong lo lắng liền hỏi lại:
- Ta có một đứa con bị bệnh chưa biết sống chết như thế nào?
Sa Môn nói:
- Ngài nên đối trước thần linh để cầu nguyện và bày tỏ tâm thương con vô bờ.
Vua nói:
- Thiên thần có thể làm cho đừng chết được không?
Sa Môn đáp:
- Dĩ nhiên là phải có ngày cuối cùng. Người mà dối đời nói lời cho người tin thì không nên.
Về đến cung Vua, đứa con đã chết. Vua không cho phát tang, đến hỏi thần một lần nữa. Tại sao nói rằng không chết nhưng không cứu được và Vua phát giận vị thần chủ cả một thời gian rồi nói:
- Ông là người xấu ác, ở đây nói vọng ngữ, dùng uy quyền để tạo phước. Nay con ta đã chết thì nói sao về việc dối trá nầy. Đối với việc sai trái đó thì không thể bỏ qua được. Vì thế cho nên Vua ra lệnh phá ngôi đền để phạt ông thần. Sau đó giết ông chủ và đập tượng thần liện xuống sông Phược Sô về lại cung Vua. Đoạn gặp vị Sa Môn liền cung kính và vui vẻ, cúi đầu lễ tạ và nói:
- Bởi vì vô minh dắt dẫn cho nên niệm tà lôi kéo vây bủa xấu xa lâu nay, ở nơi đây, nên mong rằng Sa Môn hãy đến để ở nơi nầy.
Sa Môn nhận lời thỉnh cầu vào trong cung. Sau khi chôn đứa con của Vua xong Sa Môn nói:
- Cuộc sống của người do sanh tử lưu chuyển, nếu con của ngài bệnh mà vẫn còn sống, thần cũng chỉ nói dối về bịnh tật đó. Tưởng là chỉ nói vậy thôi nhưng mà kết quả thật không như thế. Vậy thì làm sao có thể tin được. Chỉ có lòng ai mẫn mới hướng dẫn đi khỏi đường lầm mê.
Sau đó Vua thỉnh Sa Môn đo đất rồi tạo dựng Già Lam, từ đó về sau Phật giáo được hưng thịnh. Cho nên, trong Già Lam có một tinh xá để thờ vị A La Hán đó.
Trong tinh xá, có một tượng Phật bằng đá lớn. Trên tượng có một cái lọng tròn bằng vàng che bên trên đều dùng những đồ quý báu để trang sức. Khi người ta đi nhiễu, cái vòng tròn xoay theo và khi người ta dừng thì nó sẽ dừng lại. Nghe người xưa nói rằng do nguyện lực, Thánh nhơn hộ trì hoặc do những kỷ thuật bí mật tạo thành. Xem các tường đá nơi nầy rất là kiên cố. Khảo sát bình luận, vẫn chưa biết hết. Từ nước nầy đi qua núi lớn đến nước Thi Khí Ni.
16) Nước Thi Khí Ni có chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành chu vi khoảng năm sáu dặm. Núi sông trùng điệp, đá cát rất nhiều. Có nhiều lúa mạch nhưng ít lúa mùa, cây cối nhiều hoa quả ít. Khí hậu lạnh, phong tục thô bạo, họ có thể giết người hoặc trộm cướp mà chẳng biết lễ nghi thiện ác gì cả. Mê tín chẳng biết làm phước, hiện đời gặp nhiều tai ách. Hình dạng người xấu xí hay mặc đồ da. Chữ nghĩa như nước Đỗ Hóa La. Lời nói có khác. Qua khỏi nước Đạt Ma Tất Thiết Đế là núi cao nằm ở phía nam, và sau đó đến nước Thương Di.
17) Nước Thương Di có chu vi hơn 2560 dặm. Núi sông liên tục nhau. Ngũ cốc trồng khó nhưng lúa mạch dễ trồng, có nhiều chim hoàng hạc mái. Do đất đá đổ xuống mà thành rẫy. Nhiều trận cháy rừng dữ dội và sau đó người ta qua lại được bình an. Nếu thiếu cầu nguyện thì gió mưa sấm sét bộc phát. Thời tiết lạnh lẽo, phong tục vội vã, tánh người thuần chất chẳng có lễ nghi. Trí mưu hẹp hòi, kỷ năng thô thiển. Chữ viết giống như nước Đỗ Hóa La, ngôn ngữ khác biệt. Áo quần bằng da. Dòng dõi thuộc họ Thích. Tôn trọng Phật pháp. Tuy thế quốc dân cũng chưa thuần tín. Có hai ngôi Già Lam, ít tu sĩ.
Từ biên giới phía đông bắc đi vào núi qua những hang động nguy hiểm hơn 700 dặm đến sông Ba Mê La. Từ đông sang tây hơn 1000 dặm, từ nam ra bắc hơn 500 dặm. Đất hẹp, có nơi không quá 10 dặm. Hai bên tuyết đóng cho nên rất lạnh, ngay cả mùa xuân mùa hạ tuyết vẫn bay cả ngày lẫn đêm. Đất đai khô cằn chỉ còn sỏi đá. Khó trồng cây, chỉ có cỏ mọc nhiều những nơi hoang vu như thế chẳng có người nào dừng chân.
Trong sông Ba Mê La, có một cái hồ rồng lớn, từ đông sang tây 300 dặm, từ nam ra bắc 50 dặm. Giáp liền với núi cao, nằm giữa Thiệm Bộ Châu và đất này nằm chỗ cao nhất, nước rất là trong như gương và rất sâu, màu sắc xanh đen, vị rất ngọt. Có nhiều loại cá giao, cá chép, rùa v.v...bơi lội trên mặt nước, có ba ba, nhạn, hà mã, ngỗng.
Những trứng chim rất lớn, con thú lấy cỏ che khuất lại, hoặc lấy cát phủ lên trên. Phía tây có một dòng nước chảy vào hồ, rồi chảy đến phía đông của nước Phạt La Đế Quốc chảy vào sông Phược Sô tạo ra bốn nhánh khác, cho nên nước ở đây là nước của bốn con sông hợp lại. Phía đông của hồ có một nhánh chảy xuống phía đông bắc đến nước Khư Sa và cùng với những sông khác, hợp thành nhánh chảy về phía đông. Dòng nước bên tả hợp với dòng nước bên hữu.
Qua khỏi phía nam của sông Ba Mê La là núi. Nơi ấy có nước Bát Lộ La, nước nầy có nhiều vàng bạc, màu vàng hực như lửa. Từ phía đông nam của sông nầy, đi đến núi đường đi rất hiểm trở chả có bộ hành qua lại chỉ toàn là tuyết. Đi hơn 500 dặm, đến nước Yết Bàn Đà.
18) Nước Yết Bàn Đà có chu vi hơn 2000 dặm. Đô Thành toàn là đá núi lớn, lưng dựa vào núi, dọc theo là sông có chu vi hơn 20 dặm. Núi và sông nối liền nhau cho nên bình nguyên rất hẹp. Lúa mùa ít, lúa mạch nhiều. Cây cối trong rừng nhiều, hoa quả ít. Người ta sống trên đồi cho nên thành ấp bỏ không. Lễ nghi chẳng có gì, đặc biệt người ta ít ưa nghề nghiệp. Tánh tình thô bạo, mạnh mẽ kiêu hùng. Người dung mạo xấu xí. Y phục toàn bằng lông. Văn tự chữ nghĩa giống như nước Khứ Sa. Tuy nhiên, biết tin tưởng cung kính Phật Pháp. Có mười ngôi Già Lam và hơn 500 tăng đồ, tu theo Tiểu thừa Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Vua biết tôn kính ngôi Tam Bảo. Những kẻ nhàn nhã thường không thích những kẻ siêng học. Từ khi lập quốc cho đến nay, đã trải qua nhiều năm tháng, vua mới tự xưng vương. Từ đây đến nước Na Đề Ba Cù Đản La, có núi cao sông dài tương đối hoang vắng.
Ngày xưa Vua của nước Ba Lợi Sách Tu (Thiên Chủng) lấy vợ người Hán, vinh quy đến đây thời gặp loạn binh đông tây tuyệt lộ, liền giấu vương nữ trên đỉnh núi nầy, rất nguy hiểm khó mà lên xuống được, cho lính canh phòng ngày đêm. Trải qua ba tháng như thế thì yên. Muốn trở về thì người đàn bà đó có thai. Sứ thần bàng hoàng chạy báo. Vua ra lệnh đem người đàn bà hoang loạn đó bỏ vào rừng, sớm tối chẳng quan tâm. Nhưng vì vua cảm cái đức và cái đẹp cho nên lòng giận nguôi ngoa nghĩ rằng nếu trả người đàn bà có thai nầy về nước, chắc là rất lo không biết chết ở đâu, nếu về đến nước cũng bị chém đầu hoặc bị tru lục.
Khi biết được sự thật. Sứ thần nói:
- Đừng có oán trách, sẽ gặp thần linh. Mỗi ngày vào lúc giữa trưa có một người đàn ông từ mặt trời lên xe ngựa đến đây.
Sứ thần nói:
- Nếu là kẻ ấy thì tội như tuyết. Trở về tất sẽ bị tru di, cho nên ở lại là hơn. Việc tới lui thật là khó phân.
Lại nói:
- Việc nầy chẳng rõ ai làm sao giết được, chờ tội nầy rõ ràng mới biết trắng đen.
Rồi sau đó cho xây dựng trên đỉnh núi đá một cung điện có chu vi 300 bộ. Cung thành nầy người nữ đó làm chủ. Sau khi kiến thiết xong, sinh ra được một đứa con trai, dung mạo đẹp đẽ. Bà mẹ nhiếp chánh, người con xưng tôn hiệu rồi bay vào trong hư không, cưỡi mây đưa gió uy đức xa gần đều biết. Các nước bên cạnh đến thần phục.
Vua của nước đó khi mạng chung, thi hài được lưu lại trong núi đá, cách thành về phía đông nam 120 dặm. Thi hài ấy cho đến nay chưa hư hoại. Nhìn dáng người giống như đang ngủ. Mặc Y phục và có hương hoa được bài trí để cho tử tôn đời đời về sau, thờ đây là tiên tổ của họ. Mẹ là người nhà Hán, cha là thần mặt trời, cho nên tự xưng là dòng dõi Hán Mặt Trời
Vương tộc có hình dáng giống như người Trung Hoa, đầu đội mũ, thân mặc áo và sau nầy trở thành nước mạnh.
Khi Vua A Dục còn ở đời cho xây trong cung một Bảo Tháp. Vua nầy sau dời đô về phía bắc và cố cung làm chùa cho Tôn Giả Đồng Thọ luận sư, có lầu gác cao rộng, có Phật tượng uy nghiêm. Tôn Giả là người của nước Đản Xoa ý La, lúc nhỏ đã hiểu biết và sớm ly trần xuất gia, và sách vở còn ghi lại cho biết, mỗi ngày Tôn Giả tụng ba vạn hai ngàn lời kinh, và đọc ba vạn hai ngàn chữ trong trang sách. Cho nên đương thời là một bậc học rộng nổi tiếng, hiển lập chánh pháp, bài xích ngọai đạo tà kiến. Lời giảng cao cả, khó ai có thể đáp lại được, mà ngay cả năm nước Ấn Độ thấy cũng không ai bằng. Ngài đã chế ra cả mười bộ Luận. Lời nói và việc làm đi đôi với nhau, tức là những lời dạy của Phật. Thời ấy, có ngài Mã Minh ở phương đông; Có ngài Đề Bà ở phía nam; Có ngài Long Mãnh ở phía tây và ngài Đồng Thọ ở phương bắc. Quý Ngài được xem là bốn mặt trời chiếu thế gian. Vua nước đó nghe uy đức của Tôn Giả liền cử binh đến chinh phạt nước Đản Xoa Thủy La uy hiếp thỉnh tôn giả về, rồi xây dựng ngôi Già Lam nầy để mà cúng dường và đảnh lễ. Phía đông nam của thành đi hơn 300 dặm, có một tảng đá rất lớn và có hai phòng bằng đá, mỗi một phòng như vậy là nơi nhập diệt tận định của A La Hán. Các ngài vẫn còn ngồi nguyên không giao động. Hình hài, xương cốt vẫn không hư mục, mặc dầu đã trải qua bảy trăm năm. Tóc tai vẫn còn ra dài cho nên mỗi năm chư tăng đều cắt tóc và thay y.
Phía tây bắc của động đá kia vào nơi núi cao nguy hiểm, đi hơn 200 dặm, đến đỉnh núi Trà Quyền Xá La. Phía đông của núi bốn bề cung là núi. Đi hơn 100 dặm nữa, đến một địa phương, dù mùa đông hay mùa hạ tuyết và gió vẫn lạnh. Ở đây chỉ có cây Long Não, còn lúa thóc rất ít. Những cây lớn không nhiều, chỉ toàn là những cây nhỏ. Tuy có lúc cũng nóng nhưng bầu trời vẫn đầy gió tuyết. Chỉ có những người lái buôn và tăng lữ đi trong sương tuyết, rất là khó khăn và nguy hiểm. Nghe người xưa nói:
Xưa kia có một khách buôn trên vạn dặm xa, dùng lạc đà để chở hàng ngàn loại hàng hóa. Gặp bão tuyết, người và vật chẳng còn. Lúc ấy, tại nước Yết Bàn Đà, có một vị Đại A La Hán nhìn thấy thương xót cho sự nguy hiểm nầy, nên muốn vận thần thông để cứu giúp họ. Khi A La Hán đến thì thương nhân đã chết. Ngài nhặt những đồ hàng hóa trân quý đó lập nên một nơi bảo vệ tài sản. Ngài mua đất của nước bên cạnh, làm nơi nuôi duỡng những nhà ở quanh thành và có cơ sở để cho người tới lui, cho nên ngày nay những người thương nhân và tu sĩ đi ngang qua đây được chu cấp. Từ phía đông đi xuống núi gặp một ngọn đồi, leo lên đồi cũng rất nguy hiểm vì phải vượt qua những động đá, suối khe hiểm trở gió tuyết lại nhiều. Đi hơn 800 dặm ra khỏi núi đến nước Ô Sát
19) Nước Ô Sát có chu vi hơn 1000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 10 dặm. Phía nam giáp với sông Tòng Đà, đất đai màu mỡ, lúa thóc được mùa. Trong rừng có nhiều cây cao. Hoa quả phồn thịnh. Ở đây có sản xuất nhiều loại ngọc quý, như ngọc trắng, ngọc lam, ngọc xanh. Khí hậu điều hòa, mưa gió thuận lợi, phong tục, lễ nghi, tánh tình con người thô bạo, nhiều dối trá, không biết xấu hổ.Văn tự ngữ ngôn ít giống nước Khư Sa. Dung mạo xấu xí. Y phục toàn đồ da. Nhưng lại sùng tín, tôn kính Phật Pháp. Có hơn 10 ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo phái Tiểu Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Cả hàng trăm năm nay, dòng Vua đã tuyệt tự, không có kẻ nắm quyền cho nên lệ thuộc nước Yết Bàn Đà.
Cách thành phía tây hơn 200 dặm có một núi lớn. Khí hậu miền núi rất lạnh, vì đá và tuyết. Khi băng tan tuyết rã, nguy hiểm vô cùng. Trên đảnh nầy có một Bảo Tháp, tự nhiên mà có. Nghe người xưa nói lại rằng:
Cả hàng trăm năm về trước, khi động đá băng hoại, trong đó có một vị Tỳ Kheo đang ngồi thiền, thân hình vĩ đại và đã khô kiệt. Tóc tai dài xuống đến vai và mặt. Có một người thợ săn thấy và tâu với Vua. Vua đích thân đến quan sát và mọi người không mời mà đến, dùng hương hoa rải lên đó mà cúng dường. Vua bảo người nầy là người như thế nào mà vĩ đại thế. Có một vị Tỳ Kheo đáp rằng:
Tóc tai đã dài nhưng mà mặc áo cà sa, lại nhập Diệt Tận Định tức là A La Hán. Kẻ nhập Diệt Tận Định cho đến kỳ hạn, hoặc nghe tiếng kiền chùy, hoặc chờ ánh sáng mặt trời chiếu, tự nhiên từ Định trở dậy. Nếu không có sự cảnh báo ấy thì an nhiên bất động. Nhờ trú trong Định lực nên thân không bị hoại diệt. Thời gian không ăn đến khi xuất định, dùng một ít cháo sữa thân thể khỏe lại, rồi sau đó đánh trống, để đánh thức ngài xuất định.
Vua bảo:
- Thế sao?
Vua cho đánh kiền chùy, âm thanh ấy làm chấn động vị A La Hán tỉnh lại hồi lâu và Vua hỏi:
- Ngài là ai, mà hình dáng khác thường vậy? Y phục của ông lại là Ca Sa?
Đáp rằng:
- Tôi là Tỳ Kheo và Thầy của tôi là ngài Ca Diếp Như Lai đang ở tại đây và nhập Đại Niết Bàn đã lâu. Mỗi khi nhớ lại tôi buồn vô cùng.
Lại nói thêm rằng:
- Thích Ca Như Lai xuất thế rồi chưa?
Đáp rằng:
- Đã xuất thế và cũng nhập diệt rồi.
Nghe xong liền cúi đầu và bay lên hư không hiện thần thông biến hóa rồi dùng lửa tam muội thiêu thân, di cốt rơi xuống đất. Vua nhặt cốt để xây tháp.
Đi về phía bắc hướng núi Tích Quảng Giả hơn 500 dặm đến nước Khư Sa.
20) Nước Khư Sa có chu vi hơn 5000 dặm, toàn là cát và đất đai rất ít nhưng ngũ cốc tốt tươi, hoa trái đa dạng. Xứ nầy chuyên sản xuất lông cừu và bông vải. Khí hậu ở đây điều hòa, nhưng đôi khi nhiều gió mưa. Tánh tình con người cuồng bạo, thường dối trá. Lễ nghi thô thiển. Nghề nghiệp hời hợt. Tục lệ khi sinh con, viết lên bảng để báo tin. Dung mạo khá xấu xí, Hình dáng rất xanh nhạt. Ở đây, dùng văn tự Ấn Độ. Sách vở sửa đổi nhiều. Ngôn ngữ tiếng nói đều khác với các nước. Ở đây họ tin tưởng theo Phật Pháp. Khuyến khích làm việc thiện, có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn vạn tăng đồ. Họ học tập theo Tiểu thừa thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Không cần tìm hiểu nguồn gốc sâu xa. Đa phần đều đọc thuộc những bản kinh, tụng thuộc làu Tam Tạng. Có nhiều người thuộc Tỳ Bà Sa. Từ phía đông nam, đi hơn 500 dặm đến sông Tế Độ Đa. Qua khỏi sông lớn gặp núi đến nước Nghiên Cẩu Da.
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:10:50 GMT -5
21) Nước Nghiên Cẩu Da chu vi hơn 1000 dặm. Đô thành chu vi hơn 10 dặm. Nơi đây rất nguy hiểm nhưng nhà cửa xây dựng kiên cố, có rất nhiều người ở. Núi non trùng trùng điệp điệp. Đất đầy sỏi đá, giáp với hai con sông. Cho nên ở đây người ta trồng nhiều nho, lê và quả tần... Rau cải xanh tốt. Có gió lạnh. Người ở đây tánh tình thô bạo. Tập tục dối trá, hay làm những việc trộm cướp. Văn tự giống như nước Cù Tác Đản Na. Ngôn ngữ lại khác. Xem nhẹ lễ nghi. Nghề nghiệp thiển cận. Có tín tâm Tam Bảo ham làm việc phước lợi. Có 10 ngôi Già Lam, đa phần bị hư hoại và hơn 100 Tăng Sĩ, tu học theo phái Đại Thừa. Biên giới phía nam của đất nước nầy, có một núi lớn. Đỉnh cao chót vót. Núi non quanh co bao bọc. Mùa đông không còn cây cỏ. Mùa xuân tươi tốt. Khe suối có nhiều nước chảy. Có nhiều động đá và có nhiều cây cối. Những vị tu sĩ Ấn Độ chứng quả thường dùng thần túc thông dạo chơi và thường dừng chân xứ nầy. Ở đây có nhiều vị A La Hán tịch diệt cho nên còn nhiều Bảo Tháp lưu lại. Cho đến bây giờ vẫn còn ba vị A La Hán tọa thiền trong động đá đang nhập Diệt Tận Định. Hình hài tóc tai ra dài. Các vị Sa Môn đến đây cắt tóc cho họ. Ở nước nầy kinh điển Đại Thừa có rất nhiều và Phật Pháp truyền đến chẳng bao lâu thì hưng thạnh. Có người đọc tụng cả mười vạn bộ. Hiện có 10 người. Từ đó về sau kinh điển được lưu truyền rộng rãi ra. Đi về phía đông vào núi và qua khỏi hang động, đi hơn 800 dặm nữa đến nước Cù Tác Đản Na.
22) Nước Cù Tác Đản Na (Nước Vu Điền - Custanna) chu vi hơn 4000 dặm, hơn quá nữa là cát đá, đất đai thì hẹp, cày cấy trồng trọt được hoa quả nhiều, sản xuất nhiều lông trừu và có nhiều bông vải. Lại cũng có sản xuất bạch ngọc và lam ngọc. Khí hậu điều hòa, gió nhiều. Người dân ở đây biết trọng lễ nghĩa, tánh tình thuần hậu, ham học điển chương, nghề nghiệp kỹ thuật tốt. Dân chúng giàu có cho nên an vui với nghề nghiệp. Trong nước thường thích nghe âm nhạc và nhiều người thích múa hát. Ít người mặc áo bằng lông hoặc da. Đa phần mặc vải sợi màu trắng. Hình mạo lễ nghi phong tục có kỹ cương. Văn tự hiến chương đều tôn sùng Ấn Độ, có sửa đổi lại một ít, vì địa lý cách trở. Tiếng nói khác với các nước khác, sùng kính Phật Pháp. Có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn 5000 tu sĩ đa phần tu theo Đại Thừa Phật giáo. Nhà Vua rất tôn kính Tam Bảo. Tự ví mình như một vị Tỳ Sa Môn Thiên.
Ngày xưa ở nước nầy, chẳng có người, Tỳ Sa Môn Thiên xuống đây. Thái Tử con Vua A Dục ở tại nước Đản Xoa Thủy La bị Vua giận ra lệnh móc mắt và đày xuống làm thường dân lên ở trong những hang động hoang phế trên núi tuyết đến ở phía bắc. Vua chuyển người và vật ở đó về phía tây. Rồi suy cử người quý phái khác lên làm Vương. Trong khi đó, con của Vua lưu chuyển đến đây và tụ họp mọi người lại cũng xưng vương. Thời gian tuy lâu nhưng phong tục chẳng thuần.
Những người thợ săn gặp nơi hoang phế liền hỏi tông tích rồi bèn tranh nhau chức trưởng. Hai bên tranh qua lại rồi muốn đánh nhau. Có bên nói:
- Nguyên nhân gì mà người thợ săn quyết chiến cho khổ binh lính. Nên rút binh về.
Nghe vậy liền kéo binh lui về. Những người trở về lại nước liền luyện tập binh mã đốc suất sĩ tốt đem binh đến, cờ trống gióng lên ngày đêm để hợp chiến. Người chủ phía tây bất lợi chạy đến phía bắc bị chém đầu, chủ phía đông thừa thắng phủ dụ kẻ mất nước dời đô về giữa nước thành lập nhà cửa làng xóm. Sợ việc không có đất đai, khủng hoảng khó thành công, cho nên báo tin cho xa gần biết ai biết về địa lý thì hãy đến xem.
Lúc bấy giờ có một ngoại đạo lõa thể, tự phụ khoa trương biết rành phong thủy cho nên tiến đến nói:
- Tôi biết về địa lý, dưới này có nước ngầm đang chảy chung quanh đây cho nên bịnh tật khó có thể qua được. nhưng căn cứ vào nước ngầm mà xây dựng cơ đồ. Sau đó sẽ được hưng thịnh, cứ thế mà tiếp tục trị nước.
Vua bây giờ vẫn ở thành ấy. Thành khó vào cho nên việc công phá khó thành công. Từ xưa đến nay chưa ai có thể thắng. Vua dời đô đến đây để lập ấp xây dựng đất nước và an dân. Tích công bồi đức mà thành nhưng sợ tuyệt tự không còn kẻ nối dõi cho nên đến nơi Thiên Thần Tỳ Sa Môn để kỳ nguyện thỉnh cầu. Tượng thần ở bên trên ban cho một đứa bé anh tài bồng về nước mình. Dân chúng hoan ca, nhưng cậu bé không biết uống sữa. Vua sợ không thọ liền sắc chỉ cho người giữ đền chăm sóc duỡng dục. Trước mặt của thần từ dưới đất vụt lên một giòng nước như dòng sữa. Đứa bé đó uống cạn, càng ngày, càng lớn trí dũng đa mưu thắp sáng lên phong tục rồi dựng đền thờ trở thành tiên tổ. Từ đó về sau đời đời kế thừa mà Vua chúa nước nầy chưa bao giờ thất bại với nước bên cạnh, nên cho đến bây giờ miếu thần có nhiều đồ trân quý được người ta đem đến cúng. Vì thế nước ấy lấy tên là sữa từ đất để làm quốc hiệu.
Cách Vương thành về phía nam hơn 10 dặm có một Đại Già Lam, tiên vương của xứ nầy vì vị A La Hán Tỳ Lô Kỳ Na đã kiến lập nên. Tích xưa kể rằng:
Nước nầy khi Phật Pháp chưa có, có vị A La Hán từ nước Ca Thấp Di La đến rừng ở đây tọa thiền định. Có kẻ thấy người mặc y phục lạ bèn tâu Vua. Vua đích thân đến xem dung mạo, hỏi ngài là ai mà ở trong rừng vắng vẻ như vậy. Vị A La Hán đáp:
- Tôi là đệ tử của Phật thích ở nơi vắng vẻ để thiền định.
Vua nghe như vậy muốn trồng cây phước và hoằng truyền Phật Pháp cho nên kiến tạo Già Lam và mời tăng chúng đến. Vua hỏi:
- Như Lai là vị có đức gì, có thần gì, mà ông chuyên cần khổ hạnh phụng thờ như thế?
Đáp rằng:
- Như Lai là bậc thương xót bốn loài, muốn đưa họ ra khỏi tam giới hoặc rõ ràng, hoặc thí dụ để chỉ cho chúng sanh sự sanh và sự diệt. Ai tôn kính Pháp nầy sẽ xa lìa sanh tử. Kẻ nào mê mờ sẽ bị sa đọa nơi lưới ái.
Vua bảo:
- Thực là một lý Thuyết có ý nghĩa cao siêu của bậc đại thánh. Nếu là bậc Đại Thánh vì ta nên hiện hình để ta được chiêm ngưỡng, ta sẽ kiến lập chùa Viện phát tâm quy y hoằng dương Chánh Pháp.
A La Hán nói:
- Vua xây dựng Già Lam thành công, sẽ được cảm ứng.
Sau đó Vua cho xây Già Lam rồi triệu tập người xa gần đến làm Pháp Hội ăn mừng. Khi tiếng kiền chùy chưa dứt lúc triệu tập, Vua hỏi vị A La Hán rằng:
- Ngôi Già Lam đã xây xong, Phật ở đâu?
A La Hán đáp:
- Đang đến. Ở gần bên ngài chớ không có xa. Vua nên lễ thỉnh.
Đoạn từ trên hư không thấy tượng Phật hạ xuống nơi chỗ đánh kiền chùy. Nhờ thế Vua phát tín tâm với Tam Bảo và nguyện hoằng dương Phật Pháp.
Phía tây nam của Vương thành hơn 20 dặm, có một núi tên là Cù Thất Lăng Già. Trên đỉnh, núi chẻ ra làm đôi, kiến tạo Già Lam trên đó, bên trong có tượng Phật chiếu sáng. Nơi đây ngày xưa Như Lai cũng đã từng đến, đã vì trời người mà lược nói những pháp quan trọng. Và theo huyền ký đất nước được lập quốc, sùng kính Giáo Pháp tôn trọng Đại Thừa.
Trên đảnh núi ấy, có một động đá lớn. Trong đó, một vị A La Hán đang nhập Diệt Tận Định để chờ đức Di Lặc ra đời. Cả hàng trăm năm nay, sự cúng dường liên tục không dừng. Gần đây núi bị lỡ và cửa động vẫn bị khóa. Quốc Vương sai binh lính muốn dẹp dọn đá vỡ. Lúc đó ong đen trên đỉnh bay xuống chích độc vào người, cho đến bây giờ cửa động ấy vẫn không mở được.
Cách Vương thành về phía tây nam hơn 10 dặm, có một thành tên là Địa Già Ba Phượt Na. Bên trong có một tượng Phật. Tượng ấy từ nước Nhục Chi mang đến. Ngày xưa ở đây có Vua, nhưng bị bắt đem qua ở bên nước Nhục Chi gửi tượng Phật này về tạ lễ mong rằng được trở về lại nước. Vì muốn về nước cho nên tâm luôn luôn cung kính Phật. Sau một đêm cầu nguyện tượng kia tự đến nước nầy. Người ở đây, lấy nhà sửa đổi thành Già Lam.
Cách phía tây Vương thành đi hơn 200 dặm đến thành Lạc Già Di, trong đó một tượng Phật ngồi cao hơn 7 thước, tướng hảo trang nghiêm, uy nghi tịch tịnh. Trên đầu có bảo cái, ánh sáng chiếu ra. Nghe người xưa bảo lại rằng chỗ nầy thuộc nước Ca Thấp Di La, thỉnh đến nơi nầy, có một vị A La Hán. Vị ấy có một đệ tử Sa Di lâm bệnh rồi mất. Muốn tìm đồ ăn, vị A La Hán dùng thiên nhãn để thấy, ở nước Cù Tát La có hương vị nầy nên vận thần thông lực đến để tìm. Sa Di ăn được xong nguyện sanh về nước nầy. Do quả đó mà được làm Vua rồi tức vị uy hiếp xa gần, rồi vào trong núi Tuyết chinh phạt nước Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La chỉnh trang binh mã muốn ngự đến biên thùy. Lúc ấy vị A La Hán thưa rằng:
- Chớ nên dùng binh, tôi có thể làm cho họ rút lui.
A La Hán tìm gặp Vua Câu Tác Đản Na thuyết pháp. Lúc đầu Vua chưa tin, vẫn giữ ý dụng binh. A La Hán bèn giữ Vua nầy chỉ cho Vua thấy thân trước là Sa Di. Khi nhà Vua thấy được y áo của Sa Di liền chứng được túc mạng trí, bèn cảm tạ Vua Ca Thấp Di La hai bên giao hảo rồi rút binh, tiếp đón tượng của ông Sa Di và cúng dường theo lễ nghi của Vua. Tượng ấy cho đến nay vẫn còn ở đây không ai di chuyển được. Hoặc kiến tạo Già Lam, hoặc mời Tăng Lữ đến ở. Lấy bảo cái bên trên tượng ra, mà bảo cái đó Vua trước cúng thí.
Phía tây Vương thành cách hơn 156 dặm. Ngay giữa đường đi có một gò cát nổi, chuột làm ổ ở đó. Tương truyền rằng trong gò cát nầy chuột lớn như con nhím. Lông nó màu vàng bạc. Sống thành nhóm, mỗi lần ra khỏi hang chúng chạy nối đuôi theo con đầu đàn. Ngày xưa ở tại đây bọn hung nô có cả trên mười vạn người tấn công vương thành. Đến đóng quân tại nơi gò chuột nầy. Vua Cù Tát Đản Na đem vạn binh tới nhưng sợ địch không nổi. Biết rằng trong mộ kia có chuột chưa phải là thần, nhưng chuyện đến gấp không thể cầu cứu được. Vì sợ và chưa biết kế gì nên ông thiết lễ cầu thỉnh rằng chuột có linh thiêng gia nhập vào quân lực. Trong đêm đó Vua mộng thấy con chuột lớn nói rằng sẽ hổ trợ cho binh lính đến ngày hôm sau hợp chiến tất nhiên thắng lợi. Vua Cù Tát Đản Na biết rằng có sự linh hiển cho nên chỉnh trang binh mã ra lệnh cho tướng sĩ. Trời chưa sáng đã ra đi. Từ xa hung nô nghe thấy tiếng nhưng chưa chưẩn bị. Rồi lên xa giá, cưỡi ngựa mang cung tên v.v....Không ngờ chuột bò ra cắn đứt dây đai khi giáp trận, binh lính bên nầy thừa thắng tấn công. Binh lính hung nô sợ hãi, vì biết có thần linh giúp đỡ bên kia nên tan rã. Vua Cù Tát Đản Na cảm ơn chuột nên dựng đền nầy để cúng tế. Trải qua đời đời đều tôn kính đặc biệt khác thường. Cho nên trên từ quân vương dưới đến lê thứ, hoặc sửa sang đền thờ, hoặc đến đây cầu phước. Khi đi đến hang đó thường xuống xa mã, tỏ lòng tôn kính. Thường hay cúng tế cầu phước bằng y phục và cung tên hoặc hương hoa đồ ăn v.v.....Lâu ngày thành một tục lệ. Nếu không cúng tế sẽ có tai biến.
Cách phía tây của thành hơn 5 hay 6 dặm, có một ngôi Già Lam tên là Ba Ma Nhược, trong đó có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, thật là linh diệu, thường phát ra ánh sáng. Tương truyền rằng có một vị A La Hán từ xa đến dừng chân ở trong rừng nầy dùng đại thần lực phóng đại hào quang. Lúc ấy vào ban đêm vua ở trong cung điện nhìn vào rừng thấy ánh sáng chiếu diệu, cho nên mới hỏi và được báo lại rằng:
- Có một Sa Môn từ xa đến, ngồi yên trong rừng sâu hiện đại thần thông.
Vua bèn ra lệnh xa giá đích thân đến quan sát, thấy được người hiền, tâm thầm cung kính. Khâm thừa lời thỉnh, A La Hán cỡi gió đến cung Vua. Sa Môn nói:
- Muôn vật đều có ý chí và có sự tồn tại. Rừng sâu, đầm lạnh cũng có tình thức. Nhà cao, lầu đẹp cũng chẳng phải là điều ta nghe.
Vua thấy thế càng thêm kính ngưỡng hơn nữa, cho nên Vua kiến tạo Già Lam và xây Bảo Tháp. Sa Môn thọ sự thỉnh cầu và ở yên trong đó. Rồi Vua nhận được cả hàng trăm viên xá lợi rất vui mừng liền tự nghĩ rằng:
Xá Lợi ứng hiện như thế có điềm gì, liền cho an trí vào nơi bảo tháp, há chẳng phải là một Thánh tích sao? Tìm đến Già Lam bạch cùng Sa Môn và vị A La Hán bảo rằng. Vua đừng có lo. Bây giờ an trí vào rồi sẽ có vàng bạc đồng thiếc ở trong động đá đấy nữa, mà càng ngày càng nhiều.
Vua ra lệnh cho thợ phải hoàn tất trong vòng một ngày rồi chở những bảo vật ấy đem vào cúng dường trong Già Lam. Lúc ấy, cung Vua quan dẫn hàng vạn thứ dân đến chiêm ngưỡng và cung nghinh xá lợi. Vị A La Hán nâng Bảo Tháp đặt vào giữa và nói với Vua:
- Có thể giữ ở đây rồi sẽ để yên trong hộp nơi đất. Sau đó để vào tháp chẳng có mất mác. Xem xong liền than rằng thật là hiếm có rồi tâm thâm tín Phật càng tăng và lòng kính trọng Giáo Pháp càng kiên cố. Vua nói với quần thần:
- Ta thường nghe Phật lực khó biết, thần thông khó được, hoặc phân thân trăm ngàn ức lần, hoặc ứng hiện nơi trời người, ở thế giới nầy cầm giữ chúng sanh, làm cho không động tịnh rồi diễn nói pháp tánh với âm thanh bình thường, chúng sanh tùy từng loại một mà giác ngộ. Đây là loại thần lực chẳng phải binh lính mà trí tuệ không phải dùng lời. Sự linh thiêng đó đã làm ổn định lời dạy dỗ truyền đạt. Thức ăn nước uống theo gió mà đến. Thấy sự linh diệu nầy càng tin tưởng vào phước đức hơn. Rồi ai nấy cũng tôn kính sâu xa. Phật Pháp cao sâu đã làm sáng ra điều đó.
Phía đông nam vương thành đi năm sáu dặm, có ngôi Già Lam tên là Ma Xà. Già Lam do Hoàng hậu của nước nầy lập nên. Ngày xưa nước ấy chưa biết dệt vải nuôi tằm. Cho nên ra lệnh cho sứ đi tìm nơi nước phía đông. Lúc ấy, Vua nước phía đông nghiêm cấm không cho xuất cảng tơ tằm ra ngoài, cho nên Vua Cù Tát Đản Na mới cầu hôn với nước phía đông để mong được giống như chí nguyện. Sự thỉnh cầu của Vua được như ý. Sau đó Vua Cù Tác Đản Na ra lệnh đi đón dâu và nói:
- Cô sẽ là quận chúa từ phía đông thuộc nước của cha nơi đây, chưa có loại tơ sợi dâu tằm, cho nên cố gắng mang đến để may y phục.
Công nương nghe lời liền mật tìm được loại ấy, rồi cho con tằm bỏ vào trong lá dâu để mang đi và canh phòng cẩn mật. Mọi người bị lục soát, nhưng trên mũ của vương nữ không bị kiểm tra. Dâu tằm được mang vào nước Cưu Tác Ma Đản Na. Quận chúa ở tạm chùa Ma Tạ. Rồi từ đó dùng nghi lễ nghinh vào cung nội. Mùa xuân cây dâu được trồng xuống đất. Khi con tằm đến tháng, lá dâu nuôi duỡng. Đây là thức ăn chính của tằm. Từ đó về sau cây dâu càng ngày càng nhiều. Vương phi đã cho khắc lên bia đá không được giết hại tằm, vì tằm ấy sẽ nở ra con. Nếu ai vi phạm, sẽ bị thần linh phạt vạ. Vì con tằm ấy mà kiến tạo nên Già Lam và dùng rất nhiều cây dâu khô. Đây là cây căn bản cho tằm. Ra lệnh nước đó không được giết hại tằm, rồi thâu lấy những loại tơ sang năm sẽ có tằm trở lại.
Về phía đông nam của thành đi hơn 100 dặm có một sông lớn chảy qua hướng tây bắc. Người dân ở đó lợi dụng để đưa nước vào ruộng và cứ tiếp tục chảy mãi như thế. Nhà Vua thầm kinh dị liền xa giá đến hỏi vị A La Hán rằng:
- Nước của sông lớn mà người dân lấy đi như vậy có làm giảm nguồn nước và ở có yên không, chánh sự có bình thường không, cái đức có hợp chăng. Chẳng biết việc gì xảy ra nữa?
A La Hán đáp:
- Đại Vương trị nước đã thuần hóa nhân dân. Nước sông lưu chảy vì Long Vương đã từ xa do sự cầu khẩn mà làm lợi ích.
Do vậy, Vua hồi giá dựng đền thờ Long Vương. Có một người con gái bị chết chìm, đến nói rằng:
- Con bị chết sớm, Vua không có người nối dõi cho nên nước sông kia còn chảy thì làm cho nông dân thất lợi. Vua nên tuyển một người trong quốc nội gã cho con thì nước sẽ chảy trở lại như xưa.
Vua đáp
- Ta đồng ý ước muốn của ngươi.
Con rồng vui vẻ với vị Đại Thần. Vua liền hồi giá họp quần thần lại và bảo.
- Đại thần của các nước đã trấn giữ. Sự ăn uống của con người là do nông vụ cung cấp. Nước mà không có sự trấn giữ thì sẽ nguy nan. Người mà không ăn sẽ chết. Sự nguy hiểm của chết chóc đến có thể làm gì được.
Đại thần rời khỏi ghế quỳ xuống mà tâu rằng:
- Đã lâu rồi lãnh trọng trách nầy thường muốn báo đền ơn nước mà chưa gặp lúc. Nay phần dự tuyển nầy đã đến, thật là đúng lúc. Há trong bá tánh chỉ có một mình thần, mà thần là cánh tay phải của đất nước. Đất nước đối với người là chánh. Nguyện đại vương nên xét lại, vì hạnh phúc của người dân mà tu phước kiến tạo Già Lam
Vua đã theo sự mong cầu mà làm trong vòng một ngày. Vị thần kia được thỉnh vào Long cung và đã cùng quốc dân đánh trống thổi nhạc ăn uống. Rồi vị thần đó mặc áo cỡi ngựa trắng từ tạ Vua, cảm tạ Quốc Dân, cùng ngựa lặn vào trong nước. Vào trong nước mà không bị chết đuối, rồi chạy dọc theo dòng nước. Nước đã mở ra rộng dần, rộng dần mãi, còn con Bạch Mã thì nổi lên mang lên một trống chiên đàn cùng một phong thư. Trong thư đại ý viết rằng:
- Đại Vương rất là tử tế tuyển chọn thần không sai. Nguyện vì lợi ích của quốc dân mà làm thần. Cái trống lớn nầy nên treo phía đông nam của thành. Nếu có kẻ cướp đến, đánh trống lên sẽ bị chấn động, nước sông sẽ chảy.
Cho đến bây giờ người ta vẫn còn lợi dụng, nước chảy nhưng thời gian năm tháng cái trống của rồng không còn nữa và sự linh nghiệm của ngày xưa, bây giờ chỉ còn một cái ao hoang phế nằm bên cạnh Già Lam chẳng có Tăng đồ.
Cách Vương thành về phía đông hơn 300 dặm, có một đầm lớn hoang sơ. Trong đó có mười khoảng đất trống không có cây cỏ. Đất ở đây màu đen màu đỏ. Nghe các bậc kỳ lão kể rằng:
Đây là nơi bại quân. Ngày xưa hàng trăm vạn binh lính từ phía đông kéo qua xâm lăng. Lúc ấy Vua Cù Tát Đản Na cũng chỉnh trang binh mã, số hơn vạn người chống lại quân bên đông. Khi đến đây, hai bên quân lính xáp trận đánh nhau. Binh phía tây thất lợi nên binh phía đông thừa thắng tàn sát và Vua cũng bị giết cho nên thù nầy sĩ tốt chưa phục hận được và máu huyết ấy nhuộm đất nầy trở thành màu như vậy.
Cách chiến địa về phía đông hơn 30 dặm đến thành Câu Ma. Nơi đây có khắc một tượng Phật đứng bằng cây Bạch Đàn cao hơn 2 thước, rất linh ứng, thường chiếu ra ánh sáng. Phàm có kẻ tật bịnh đến cầu nguyện. Họ dùng vàng lá dán lên tượng và dùng tâm chí thành cầu nguyện bịnh kia được thuyên giảm. Nghe người xưa nói lại rằng:
- Tượng Phật ấy ngày xưa khi còn tại thế do Vua Ô Đà Diễn Na của nước Kiều Thường Di làm nên. Sau khi Phật Nhập Diệt rồi. Tượng ấy tự bay lên hư không đến nước nầy và ở thành Yết Lao Lạt Già nằm phía bắc. Lúc đầu, khi tượng vừa đến thành thì nhân dân an lạc giàu có. Sự thâm tín tà kiến bây giờ không còn trân quý nữa. Họ truyền nhau rằng từ đó thần không được quý trọng. Sau đó có một vị A La Hán đến lễ bái tượng và người dân rất kinh ngạc lạ lùng trước dung mạo và y phục cho nên mới đến tâu Vua và Vua hạ lệnh lấy đất cát để phủ lên người nầy. Thời A La Hán bị đất cát phủ lên thân, không ăn uống gì được. Lúc bấy giờ có một người chẳng nhẫn được vì ngày trước thường cung kính tôn trọng lễ bái tượng nầy, lại thấy vị A La Hán không ăn uống được cho nên vị A La Hán đến bảo người này rằng sau bảy ngày thường có mưa, cát và đất sẽ chôn lấp đầy cái thành nầy, không trừ một loại nào. Ngươi nên biết mà hãy đi sớm đi. Nếu mà bị bột phủ lên tôi thì tai ương không thể lường được. Nói xong rồi đi không ai thấy nữa. Người ấy vào thành báo cho mọi người biết. Có người nghe chưa tin mà còn cười. Đến ngày thứ hai gió lớn thổi đến, mưa nặng hạt, nước dâng lên đường. Người mà bị chửi bới đó bây giờ họ mới biết tâm của người nầy và họ đã mở đường sống bằng cách đục một cái hang ra khỏi thành. Đến đêm ngày thứ bảy, mưa cát và đất đầy trong thành. Mọi người ra khỏi thành bằng đường hầm. Đi về phía đông đến nước này dừng lại ở thành Câu Ma. Người lạ lùng đó đến viếng tượng nầy cúng dường mà không thể di chuyển cái tượng được. Nghe người xưa kể lại rằng:
- Khi Giáo Pháp của đức Như Lai diệt tận rồi, tượng nầy sẽ vào Long cung và bây giờ tượng còn ở tại nước thành Yết Lao Lạt Già. Đa phần các vị quân vương của các nước khác đều muốn đào lên để lấy Bảo Vật nầy; nhưng liền bị gió mạnh thổi đến một cách tàn bạo, khói lửa sấm sét nổi lên bốn bề, không thấy đường sá. Sông Côn Ma ở phía đông cát tràn vào đầy. Đi hơn 200 dặm, đến thành Ni Hoạch. Chu vi thành nầy khoảng ba bốn dặm. Tại giữa hồ, nước rất nóng, khó có thể lội được. Cỏ cây hoang tàn chẳng mọc được, chỉ có một con đường thông qua thành có thể đi được mà khách vãng lai chưa biết lý do thành nầy. Nguyên do là Vua Cù Tát Đản Na đã vì biên giới phía đông mà phòng ngừa cho nên từ đây qua đông phải vào trong một bãi cát lớn. Bãi cát đó tụ tán tùy theo gió thổi. Người đi khó để lại dấu vết, nhiều lúc quên đường. Bốn phía mênh mông chẳng biết nơi đâu. Có nhiều khách vãng lai đã để lại hài cốt nơi nầy. Hiếm nước, cỏ nhiều, gió nóng. Khi gió thổi người và vật bị hôn mê, nhân đây thành bịnh. Lúc ấy nghe tiếng ca hát hoặc nghe tiếng khóc lóc bi thương. Khi nghe thấy như vậy thì bỗng nhiên chẳng còn thấy đâu nữa mà mạng mình cũng bị diệt vong theo. Đây là do quỷ mị hôn ám che lấp vậy. Đi hơn 400 dặm đến nước Đổ La. Nước nầy thành không nhà trống tất cả đều hoang phế. Từ đây đi về phía đông hơn 600 dặm, đến nước Kỳ Ma Đà Na.
Nước Kỳ Ma Đà Na thuộc xứ Ổn Mạt, thành quách xiêu vẹo. Chẳng thấy một bóng người. Từ đây đi về phía đông bắc hơn 1000 dặm, đến nước Nạp Phạt Ba tức là thuộc đất Lầu Lang. Nơi đây sông núi hiện hữu nhưng khó tường. Nước nầy phong tục cương nhu. Đất nước gió lửa động tĩnh khó lường.
* * *
|
|
|
Post by TCTV on Mar 29, 2010 18:11:38 GMT -5
Sự thế khó lường chẳng biết nói sao cho đủ. Sự ra đi đã được tùy nguyện nên sự trở về chỉ lược nói như thế thôi. Ai nghe biết được việc nầy mà cảm hóa, thì cũng biết rằng ngày tháng đã trôi qua và tương lai sẽ thấm nhuần ơn huệ. Gió bụi trên đường dài cùng với lòng khát ngưỡng cái đức ở trong thiên hạ mà giữ lấy bên trong. Cái đức đó đồng với thiên hạ trong vũ trụ nầy. Há một kẻ đơn thương độc mã ra đi làm sứ giả thông qua vạn dặm. Chẳng đúng sao?
Ghi lại nơi đây rằng thật là vui thay. Pháp Vương đã ứng thế vận chuyển đã giáo hóa sinh linh. Dùng thần thông để biến hoá nơi hư không cho đến hình thức con người nơi sa giới. Tất cả đều khởi lên sự cảm tạ nơi kiếp trần ai. Hình hài tuy mai một nhưng sự ứng hóa thì chẳng sanh. Thâm tạ nơi hiển thị tịch diệt nhưng thật ra không diệt. Há thật nơi dòng họ Thích Ca mà giáng thế, nơi Sa La diệt độ, phải nên biết rằng đó chỉ là ứng vật giao linh. Cảm đến nhân duyên mà tồn tại, làm cho mọi loài được lợi lạc. Nơi dòng họ Thích Ca là bậc trung tôn kính ngưỡng. Đối với bên ngoài đã từ bỏ ngôi vị Kim Luân mà ngự phục trong Pháp giới, bỏ sự giàu sang mà nhiếp hóa hàm sanh trong mười phương. Biết tất cả vạn vật tuy rằng khó ra khỏi mà ai nghe được ba lần chuyển Pháp Luân trong đại thiên. Âm thanh chấn động đến mọi loài, tám vạn pháp môn riêng biệt, mười hai bộ kinh làm tông yếu. Đây là văn giáo làm tươi nhuận quần sanh. Phước đức giống như rừng, gió mưa như trống giục. Chở nơi này đến nơi thọ mạng, mà Thánh Hiền do nghiệp dĩ mà thành. Trời người cũng nằm trong nghĩa ấy. Sau nầy quên đi sự động tịch giữ vững nơi rừng sâu, biết trước sau thế gian đều là huyễn cảnh, nhưng không thể chờ đợi, chẳng có gì mà không toại nguyện. Tôn giả Ca Diếp đã chọn ứng chân, muốn báo ân Phật liền vân tập Pháp bảo, gồm lại trước sau ba tạng thiết yếu. Vì sự chấp trước của bộ phái mà giáo pháp có khác nhau trong sự tồn tại.
Từ khi giáng sanh cho đến khi thác hóa, nơi Thánh tích cả ngàn sự biến dạng linh hiển vạn năng. Điều linh hiển ấy khôn cùng. Dạy cái lẽ vô vi mà mới thêm vào cho đẹp kinh văn. Rồi biên chép rõ ràng lưu truyền sau đó trở thành lời nói. Tuy khác nghĩa nhưng hổ tương nhau đầu đuôi đều là những lời chân chánh. Vì sự thật mà sao lục lại, vì đại chúng mà luận nói nghĩa văn. Huống gì Chánh Pháp lại thâm sâu mà lý giải lại nông cạn. Sự nghiên cứu về áo nghĩa cũng như văn chương có nhiều sự liên hệ, cho nên trước phải tu cái đức, kế tiếp mới học cái việc dịch kinh để cho người sau làm mô phạm vì thế mà giản lược lời văn, mà ý nghĩa lớn vẫn không bị che lấp. Lời nói ấy chưa được nghe, thì giáo pháp lần lần lưu chuyển.
Qua nhiều năm tháng bắt đầu từ nhà Hán đến bây giờ. Vua ra lệnh truyền dịch để đời đời được lưu danh sáng ngời nơi hậu thế. Cái lẽ huyền diệu của Đạo chưa được hả dạ mà cái chân tông ấy như là mùi ngon. Chẳng phải bậc Thánh dạy để làm hành trạng mà do Vua được phong hóa có nên. Ta đã được sinh ra trong triều đại nhà Đường làm cái việc nổi trôi nơi Hải ngọai. Khảo sát những hành tung của Thánh Nhơn vì tiên vương mà tìm nên điển cũ. Nhằm thời tượng pháp khuất đi lời dạy mà đạo chẳng phải là cái không không. Sự truyền thừa là do cái đức sáng làm cho ba thừa áo nghĩa che khuất cả nghìn năm, mười lực hiển linh xa xôi ngoài vạn dặm. Thần thông chẳng có nhưng lời dạy của Thánh ly kỳ cho nên chờ nhân duyên thuận tiện mới dùng lời nói để làm tin. Phàm Huyền Trang Pháp Sư nầy việc chú giải rõ ràng lưu chuyển như sấm như nước cuồn cuộn chảy như sông kia, đó đều do cái đức bên trên mà làm tỏ rõ vậy. Thân ngũ uẩn điều hòa thuận lợi là do hợp với cái đức của lòng người. Sống trong sạch ra đi đơn độc là do cây phước lấy làm nhơn. Thân mệnh nầy ngẫu nhiên trôi nổi ở trong kiếp phù trần ở yên học tập. Thờ thầy trước với lời giáo huấn, ngưỡng vọng cái triết lý sâu xa, vì cái đức mà phụ tất cả để ra đi học hỏi. Đi đến nơi xa xôi để học tập rồi lưu lạc nơi xứ người. Trải qua không biết bao nhiêu nơi chốn. Bỏ lại sau lưng ba sông mà vào nước Tần, đi bộ ba phen vào nơi đất Thục, rồi đến nước Ngô, học hỏi tìm cầu nhận được bao nhiêu lời khưyến khích của những bậc mẫn thế anh hiền. Thông cảm cho ý chí cầu pháp mà vì những dư luận xôn xao. Khảo sát lòng người tìm kẻ chuyên môn giúp sức. Sự ghen ghét của người ngoại đạo, do tấm chân tình trải rộng bàn sâu mà ý chí còn tồn tại để khảo tra tinh tế. Thuộc bốn biển, lại có nơi cắt đứt gặp tám bề chẳng phải không Nghiêu. Vào ngày mồng một giữa mùa thu năm Trinh Quán thứ ba, đã y áo ra đi, chống gậy mà thẳng tiến. Nhờ ơn đức của Vua mà hỏi đường ra đi chỉ một mình cô độc. Khỏi cửa thiết, gặp cửa đá hiểm nguy, vào rừng sâu vượt núi tuyết gian nan muôn phần. Nhiều lần khó khăn mới đến được Ấn Độ. Thấy phong tục tập quán của nước đặc thù như thay đổi vào lãnh vực khác. Tự thân lo học Phạn ngữ tìm cầu triết nhân. Những điều nghi đã được rõ nhờ chữ nghĩa phơi bày. Yếu chỉ học vấn rộng rãi tài cao cũng nhờ hồng ân gia hộ mà thâm sâu diệu lý. Đó là cái đạo của con người vậy. Nghe cái điều chưa từng nghe, được những gì chưa từng được. Vì đạo tràng mà làm lợi ích cho mọi người, đã trở thành Long Tượng trong Pháp Môn tu học. Biết được cái đạo phong như thế nên chiêu mộ trước tác. Với đức hạnh cao minh cùng cái học sâu dày xa xôi nơi vạn dặm, mà người Ấn Độ ngưỡng vọng cái đức nầy. Mắt thấy tai nghe và nhìn xem Pháp tướng là học trò của tiểu thừa ngài Mộc Xoa Đề Bà (Thoát Thiên) là học trò của Đại Thừa hiệu là Ma Ha Già Na Đề Bà (Đại Thừa Thiên) đều là những bậc đức cao hạnh cả truyền lại. Cung kính những bậc Thầy nầy mà tạo thêm danh tiếng. Cho đến việc ý nghĩa của ba thừa ba lần thỉnh của lời xưa. Nghiên tầm sâu xa cặn kẽ nguồn chơn lưu chuyển. Biết rõ cái Diệu Lý vô cùng như cành lá, rồi hoát nhiên trí huệ khai thông. Lý nào rồi cũng thuận, việc nghi ngờ nào rồi cũng rành rẽ phơi bày. Nghĩa là rõ cái nghĩa và thông cái ý như chuyên chở được gió mát trăng trong mà học cái điều cao rộng để cái đức làm hưng thạnh cho đời. Như thế đó mà trải qua sông núi, bồi hồi nơi làng ấp. Ra khỏi thành nầy vào nơi Lộc Uyển rồi đi đến rừng kia gặp động Kê Túc. Trở lại nước Bào Ca Di, lưu nước mắt nơi thành Câu Thi cũng như nơi ngài giáng thế. Rồi băng sông vượt suối tìm đến dấu tích cũ chốn Linh Sơn. Đối trước cảnh cũ như mang mang. Thấy di tích ngày xưa còn đọng lại. Ngưỡng mặt lên chỉ còn trách than dài. Chẳng biết gì hơn là nỗi niềm bi thống. Hận mình quá xa di vãng và bây giờ chỉ có cách làm rõ đức của Thích Ca. Vẽ lại sự thật của Ấn Độ từng phong thái được ghi ra nhiều Thuyết khác mà năm tháng đã trải qua. Sự lạnh lẽo của đêm đông, sự nhớ mong niềm vui cố quốc nhưng không quên tìm ra dấu tích, và thỉnh được:
- Nhục xá lợi của Như Lai được 150 viên.
- Một bức tượng Phật vàng cao độ 6 tấc.
- Lại có thêm ảnh tượng nơi nước Ma Kiệt Đà của thần rồng trước khi thành Chánh Giác.
- Lại một tượng bằng vàng khác chiếu sáng hào quang cao hơn 3 tấc 3.
- Tại nước Bà La Ni Tư, nơi vườn Lộc Uyển với thân thế sơ chuyển Pháp Luân. - Rồi một tượng Phật bằng Bạch Đàn với tư thế hào quang chiếu rọi cao 5 tấc tại nước Kiều Thường Di do Vua Xuất Ái cảm thâm ân Như Lai mà cho điêu khắc trên gỗ Bạch Đàn.
- Lại một tượng gỗ Bạch Đàn khác cao 2.9 tấc với dáng ngồi phóng quang thuộc nước Kiếp Tỷ Tha, khi Như Lai từ Thiên Cung bước xuống.
- Một tượng Phật bằng bạc với dáng ngồi phóng quang cao 4 tấc từ nước Ma Kiệt Đà ở Linh Thứu Sơn thuyết pháp.
- Lại một tượng Phật bằng vàng ngồi phóng hào quang cao 3.5 tấc tại nước Na Yết La Yết, với hình dáng hàng phục Độc Long.
- Lại một tượng Phật bằng trầm ngồi phóng hào quang cao hơn 3 tấc tại nước Tỳ Xá Ly khi đi tuần hành.
- Đại Thừa Kinh gồm có 224 bộ
- Đại Thừa Luận gồm có 190 bộ
- Thượng Tọa Bộ Kinh, Luật, Luận 14 bộ
- Đại Chúng Bộ Kinh, Luật, Luận 15 bộ
- Tam Di Đề Bộ Kinh, Luật, Luận 15 bộ
- Sa Di Tắc Bộ Kinh, Luật, Luận 22 bộ
- Ca Diếp Tý Da Bộ Kinh, Luật, Luận 17 bộ
- Pháp Mật Bộ Kinh, Luật, Luận 42 bộ
- Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Kinh, Luật, Luận 67 bộ
- Nhơn Luận 36 bộ
- Thanh Luận 13 bộ
- Những bộ khác khoảng 520 quyển.
Tổng cộng là 657 bộ để hoằng truyền Thánh Giáo vượt qua những chặng đường khó khăn hiểm trở mới chuyên chở được trở về. Ra khỏi nước Xá Vệ rồi lần dò đến thành Già Da, Bồ Đề Đạo Tràng. Xuyên qua núi non hiểm trở; vượt qua sa mạc gay go.
* * *
Vào tháng giêng mùa xuân năm Trinh Quán thứ 19 (645) về đến kinh thành. Về đến Lạc Dương, liền được triệu thỉnh phiên dịch kinh văn. Triệu tập những người có học để hoàn thành sự nghiệp. Mưa Pháp lại bao trùm, ánh sáng mặt trời lại rạng tỏa. Vì mạng mạch lưu thông giáo hóa nơi non Linh Thứu và cũng vì huyền nghĩa nơi Long cung mà diễn dịch cùng với hình tượng mang về. Pháp sư là bậc thâm diệu vô cùng Phạn Ngữ cho nên đã giải nghĩa kinh văn một cách sâu sắc. Biết rành mạch văn như thế nào rồi, chuyển âm ấy ra như tiếng thật.
Cung thừa Thánh chỉ, tuy văn mạch không hay, phương ngôn chẳng thông. Phạn ngữ không rành hết, nhưng vì nhiệm vụ phải chu toàn, để thu thập phần chánh yếu của kinh điển, cho nên phải tham khảo vì sợ sai sự thật, mà có điều phạm với người xưa. Nhọc tới hình hài liên hệ đến sắc tướng, rồi nghiễm nhiên như thế mà tiến hành Tây du.
Phàm Ấn Độ là một quốc gia mà nơi các bậc Thánh đã giáng sanh, là nơi những bậc Hiền minh trụ thế. Sách vở được gọi là Thiên Thơ, tiếng được gọi là Thiên Ngữ. Văn chương sâu kín, âm vận khó lường, hoặc một chữ có nhiều nghĩa, hoặc một nghĩa có nhiều chữ, nghe thật khó hiểu phải điều hòa âm tiết. Tiếng Phạn thật thâm sâu, dịch phải là người thật giỏi mới diễn tả hết thật nghĩa mà cái nghĩa đó gồm cả cái đức nữa. Với ngòi bút dịch thuật như thế phải điều hòa cung điệu như dây đàn thật không phải dễ. Đúng hay không đúng không phải là điều luận nghị, mà cái chính là truyền đạt được cái thâm sâu của kinh điển, là nhiệm vụ rõ ràng. Cẩu thả sẽ không giống bản gốc đó là cái Thiện của người dịch. Văn chương không phải màu mè, mà cái chất lượng là điều quan trọng không thể quên được. Khi biện bạch mà không có chất lượng không thể thắng được, bắt đầu bằng những điều như thế mà phiên dịch. Lý Lão nói rằng:
- Kẻ dùng lời hoa mỹ là kẻ khó tin, mà tin được kẻ đó phải là người không hoa mỹ.
Hàn Tử nói;
- Cái lý mà đúng nằm ở nơi lời nói thẳng. Kẻ nói lời trang sức để làm rõ cái lý, thì biết rằng chưa thuận với sư phạm. Cái thâm thúy của sự vật ý nghĩa vốn giống nhau. Huống đây là giáo pháp cao siêu phải làm sao cho tồn tại cái niềm hỷ lạc. Sai bản gốc, khác lời văn là một sự tai hại lớn. Mà sự sơ suất đó do lời văn xưa mà đấng Pháp Vương đã hình thành.
Sào Tố Kiểm nói:
- Diệu vợi thay! lời nói thẳng mà ngày xưa đức Khổng Tử còn tại thế đã nghe nói văn và người là một không thể riêng biệt mà có, cho đến sách Xuân Thu ngòi bút liền bút và lời liền lời như học trò tắm vào mùa hạ. Văn học của cửa Khổng thường chẳng phải chỉ một từ, còn Pháp sư dịch Kinh lại cũng ví như thế. Nếu chẳng phải vậy thì làm sao có thể hiểu nghĩa được câu văn và trách nhiệm ấy thuộc về người cầm bút. Huống hồ đây là vì Đời và vì Người, mà ghi khắc lại để cho đời sau. Có thể tăng thêm sự tổn hại Thánh Chỉ, nếu dịch sai ý Kinh Văn.
Biện Cơ nối dõi nhớ ít, trong những điều cao cả mà năm năm đã dùng ý chí để học hành. Bỏ áo mão từ quan làm đệ tử của Pháp Sư Đạo Nhạc thuộc Tác Bà Đà Bộ chùa Đại Tổng Trì. Tuy gặp đá tốt nhưng cây khô khó khắc, để cho lời Pháp lưu truyền, mỡ thoa không thấm, nhân công ăn tốn mà ngày tháng cứ qua. Ngồi nhìn tường qua năm tháng cứ thế mà trôi. Đến kỳ lễ Hội phụ lòng kẻ có công đã rộng tay bảo bọc. Chừng ấy mệnh lệnh mà tài trí lại thường, chỉ nương vào ý chí mà làm. Học chưa thông bác cổ, Văn cũng không diễm lệ nhu mì. Mài dũa làm đẹp. Sức lực mõi mòn chỉ cung thừa chí nguyện mà ghi lại, để viết thành Văn. Thượng Thọ dâng bút tạo lễ hoàn thành. Trí thiển có thể lệch lạc, nhiều điều thất thoát, hoặc tươi sáng thường chẳng sai lầm. Ngày xưa Tư Mã là sứ giả của Trương Lương là bậc tài đức đã viết tựa công thơ cho Thái Sứ nhưng cha con kế nghiệp, hoặc có tên mà không có chữ, hoặc có tên huyện mà không có tên quận. Cho nên nói rằng một người mà tinh thông suy nghĩ thì câu văn già dặn, vì không rõ vậy. Huống gì kẻ trí ngu mà có thể lãm tường được tất cả. Lại phong thổ tập tục khác nhau, ghi lại những cương giới vật sản. Tánh trí cũng khác biệt. Thời tiết lạnh nóng khó lường. Cho nên viết lại có ưu có nhược, chỉ lấy cái gốc thật và tánh để gọi xưng tên nước. Về phong hóa của nước Ấn Độ, xấu tốt phân chia và trong sách nầy chỉ khái lược mà thôi như ở phần vào đề đã nói. Nghĩa là làm người khách thì vấn đề lễ nghi càng phải cẩn trọng hơn. Những kẻ chứng đắc hoặc những người mặc y hoại sắc cũng chưa ghi rõ ràng. Chỉ nhờ vào thần thông của Phật mà tiếp nhận sự linh thiêng kỳ diệu chưa tường. Cho nên nói rằng thần thông ấy là một đạo thẩm sâu mà con người không thể dùng lý để giải được. Sự linh thiêng u hiển là cái sự để ra khỏi bầu trời. Đây là lãnh vực nơi Phật giáng thế,mà bậc Thánh ngày xưa đã truyền lại cái đẹp đẽ ấy. Lược tuyển những điều linh dị để góp nhặt ghi vào đây. Đường đi diệu vợi, nơi chốn trở về và cuộc hành trình ấy đã viết nên thành sách, chẳng phải ghi hết nơi tập sách nầy. Cho nên ở Ấn Độ không có biên giới để ngăn chặn sách vở của nước, khác trong từng khu vực. Vì vậy sách vở đã theo người trở lại đây. Kẻ viết lời ấy đã đích thân nghe và ghi lại được mà giải rõ trong sách nầy, hoặc tạo thành câu văn, để thấy chỗ tốt hoặc là chỗ yếu mà thuật lại như trên, vì nhiệm vụ đã sao lại như thật. Sau đó kính dâng lên Hoàng Đế vào tháng 7 mùa thư năm Trinh Quán thứ 20 (năm 646 ND).
Dừng bút, dứt lời tạo thành một bức tranh chữ nghĩa và mong Thánh Hoàng chiếu giám để cho tỏ mặt Thiên Nhan, mà bày hết cái chỗ vô cùng, với lòng thành thật được triều đình cảm hóa, hoài mong gửi đến thành thật tấu bày.
Tiên Vương linh thiêng chiếu giám trong cảnh hoang sơ chẳng phụ công phụ vương mà biết được ngàn dặm, nghe và thấy được công đức kia, từ núi Linh Thứu ở nơi xa xôi; Vườn Lộc Uyển xứ ấy ngàn dặm xa vời như hiện ra trước mắt. Tưởng như đích thân mình đi đến đó mà trong kim cổ chưa từng nghe biết. Những điều chưa nghe, chưa biết đó đã ghi lại ở trước rồi. Đây là do cái đức thọ mệnh đặc thù của quân vương mà có được. Thuần phong mỹ tục ở cánh cửa phương xa, thật khó mà hiểu hết. Là điều ở bên ngoài mà do địa phương núi sông cách trở. Ban bố sách nầy ra khắp nơi, vì sự hiểu biết của người khác mà biên tập thành.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển thứ mười hai
-ooOoo-
Dịch tổng cộng 12 quyển xong vào ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi Nhằm ngày Vía Đức Phật A Di Đà 17 tháng 11 năm Quý Mùi, PL 2547
Công đức Phiên dịch lớn vô cùng Phước báu vô biên hồi hướng chung Nguyện cầu chúng sanh trong pháp giới Tất cả sanh về cõi Tây phương
Nguyện đem công đức nầy Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sanh Đều trọn thành Phật Đạo
|
|
|
Post by TCTV on Jun 29, 2010 15:15:47 GMT -5
Chu Y : Dai Duong Tay Vuc Ky khac voi truyen phim TAY DU KY TayDuKy_001-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/t4xjmtiwjmoTayDuKy_002-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/kznhi4zziwyTayDuKy_003-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/hm15myttittTayDuKy_004-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/4gmgzyyzezmTayDuKy_005-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/rjim2grzjtkTayDuKy_006-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/zggt22zjvjmTayDuKy_007-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/xzzzmdjtdzjTayDuKy_008-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/ltye2o2yzmbTayDuKy_009-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/nymnix2zezgTayDuKy_010-NgoThuaAn_docBachMinh.mp3 = > www.mediafire.com/file/nmqjj1nwz4jSỰ THẬT VỀ THẦY TRẦN HUYỀN TRANG TỨC ĐƯỜNG TAM TẠNG ĐI TÂY PHƯƠNG THỈNH KINH Vương Hồng Sển Mọi người Việt Nam chúng ta, ai ai cũng đã từng được nghe kể lại, hoặc đọc truyện Ông Ðường Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký Diễn Nghĩa. Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, bộ Tây Du Ký Diễn Nghĩa có cái đặc điểm ngộ nghĩnh là trẻ nhỏ đọc thì mê theo trẻ nhỏ; người lơn đọc thì lại say sưa theo ngươì lớn. Trẻ nhỏ thì thích Tây du diễn nghĩa thần thông quảng đại, có bảy mươi hai phép biến hóa, Có Trư Bát giới chọc cười duyên dáng .... Còn người lớn thì say mê vì những ý nghĩa thâm trầm, trào lộng. So vơí các bộ tiểu thuyết danh tiếng khác như Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử v..v... phạm vi phổ biến của Tây Du diễn nghĩa còn rộng hơn nhiều. Căn cứ theo bộ truyện Tây du diễn nghĩa, thì thầy trò Tam tạng gồm bốn ngươì (Tam tạng, Ngộ không, Ngộ năng, Ngộ tịnh) và một con ngựa (bạch mã) tướng tinh là rồng mắc đọa. Cả đòan đi qua Tây phương ròng rã 14 năm trơì, khi thỉnh được kinh trở về có tám vị Kim Cang đằng vân theo hộ tống đưa về Trường an, vừa khứ hồi trở lại Tây phương cõi Phật chỉ mất có tám ngày vãng phản. Truyện kể bốn thấy trò và một ngựa ngày đêm vượt rừng trèo núi, gặp yêu dẹp yêu, gặp phước làm phước, gian nan không sờn, tử sanh chẳng nệ, trải qua tám mươi mốt nạn lớn, nào là Bàn Ty động quyến rũ, nào là Hỏa diệm sơn đỏ hực, Tiểu lôi kinh khủng v..v... mới đến được Tây phương. Trong truyện vì làm việc của Tam Tạng là khó, không ai làm được, nên muốn cho dân chúng dễ tin, phải thêm thắt và thi vị hóa cuộc hành trình bằng bao nhiêu yêu tinh đón đương, lớp đòi ăn thịt Ðường Tăng, lớp cám dỗ (chuyện bảy con nhện cơỉ truồng tắm sông có Bát giới tắm hùa, còn khêu gợi gấp mấy chuyện ngày nay in hình khiêu dâm). Thực sự, Tây du diễn nghĩa là một bộ truyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt. Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh Kinh Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðường. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau TL) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ "Ðại Ðường Tây Vực Ký". Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đm lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc. Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình, cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (sau TL) mới về đến thành Trường an (Trung quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về: - 150 Xá Lợi tử ( Tinh cốt của Như Lai). - 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước - 3 Tượng Phật bằng đàn hương : Cao 3th5, 2th9, 2th3 - 657 bộ Kinh, chia làm 520 hiệp - Cùng một số bảo vật khác nữa. và phải dùng voi, lạc đà và 24 ngưạ mới chở hết. Trên thực tế, đường đi không có gặp yêu tinh cản trở (có chăng là bọn mọi dữ thích ăn thịt người) nhưng những khó khăn trở ngại cản trở lẫn vật chất và tinh thần lại hết sức nhiều và lơn, nếu là người khác ắt vô phương vượt khỏi. Có lúc Thầy Huyền Trang nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây, cũng không một bóng người qua lại. Nhưng ý chí của Thầy thật là sắt đá. Có lần đói khát khổ quá, bụng tính quay trở về phía đông để tìm chỗ xin nước uống đem theo rồi sẽ đi nữa, nhưng vừa quày ngựa trở về hương đông đi đặng một đỗi đường thầy lại tự nhủ: "Trước kia, đã thề nếu qua không đến Ấn Ðộ, quyết không trở về Ðông một bước. Nay thà đi về hướng Tây mà chết, chớ lẽ nào đi về Ðông để sống hèn". Một lần khác, thầy gặp bọn mọi ăn thịt người (Tức bọn yêu tinh kể trong truyện Tây Du). Thầy Tam Tạng sẵn lòng hiến thân cho bọn quỷ khát máu ấy. Nhưng giữa lúc bàn tính, xảy có mưa to sét lơn. Bọn người rừng kinh sợ vì cho rằng trời không bằng lòng. Chúng lật đật giục thầy lên đường, nhưng thầy khăng khăng một mực nài bọn kia: hoặc hãy "ăn thịt Thầy" nếu quả thật thầy có phép làm cho bọn nó sống lâu muôn tuổi, hoặc nếu bọn chúng muốn cho thầy lên đường thì phải ăn năn sám hối, chừa thú tánh, chừa ăn thịt người từ đây. Và rốt cuộc Tam Tạng cải hóa được bọn chúng. Hơn một ngàn ba trăm năm trước đây dám một người một ngựa vượt suối trèo non, băng sa mạc, càn rừng sâu đi đến xứ Ấn Ðộ huyền bí xa xăm, Trần Huyền Trang quả là một nhà du thám vĩ đại trong lịch sử. Kỳ công đó, tinh thần nghị lực đó, người đời sau không thể không nghiêng mình bái phục. Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấn độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v... đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo. Sau sáu năm học tập, Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền. Theo sách khảo cứu Pháp văn, chẳng những là một nhà sư đạo đức, Huyền Trang còn tỏ ra là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhứt là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Phương, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường an, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của 128 nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của Thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của Thầy Huyền Trang rất là đích xác. Từ ngày về Trường an, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã (từ 645-644) thầy dịch được tất cả bẩy mươi lăm bộ kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ Phạn tự dịch qua Hán tự và một bộ (Ðạo đức Kinh) và một bản dịch "Ðại Thừa khởi tín luận" từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ "Ðại Ðường Tây Vực ký" . Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bịnh hoạn và già yếu. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu ngươì ở Trường An và các vùng lân cận qui tựu để tiễn chân thầy về nơi Cực Lạc. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này. Vương Hồng Sển (Trích "Con ngựa già của Ðường Tam Tạng" ) *************** Hỏi Gia đình chúng tôi được xem bộ phim Tây Du Ký, hầu như ai cũng cảm thấy thích thú và tiếp cận được phần nào Phật giáo qua bộ phim này. Riêng tôi có nhận xét ngược lại: Bộ phim đã có nội dung xuyên tạc và bôi bác Phật giáo, thí dụ như hình ảnh Ðức Phật dùng thần thông chụp năm quả núi lớn đè xuống mình Tôn Ngộ Không một cách thiếu từ bi rồi liền quay lại hớn hở nhìn cô Hằng Nga ca múa và hình ảnh ngài Ca Diếp và ngài A Nan, hai đại đệ tử của Ðức Phật, đòi “hối lộ” vàng bạc mới cho thỉnh bộ kinh mang về Trung Hoa. Và cuối cùng ngài Đường Tăng đã phải hối lộ chiếc bình bát bằng vàng do vua trao tặng để đổi lấy bộ kinh đem về nước. Vậy xin ban biên tập, nếu có thể được, hoan hỷ cho chúng tôi biết ý kiến về bộ truyện cũng như bộ phim Tây Du Ký này. Xin cảm ơn ban biên tập trước. Đáp: Đại lão Hoà thượng Hư Vân đã nhận định như sau: Trong đời Đường, pháp sư Huyền Trang có viết quyển Tây Du Ký. Nội dung của quyển này vốn là những lời chân thật. Song, truyện Tây Du Ký được lưu truyền trên thế gian hoàn toàn là những lời ma qủy. Hòa thượng Bạch Vân ở chùa Bạch Vân giảng kinh Đạo Đức, khiến rất nhiều đạo sĩ xuất gia làm tăng sĩ. Do đó, các đạo sĩ tại Trường Xuân Quán không vừa lòng, nên nói dối là theo lệnh quán quân, sửa Trường Xuân Quán thành Chùa Trường Xuân, và chùa Bạch Vân thành Bạch Vân Quán. Các đạo sĩ tự viết ra quyển tiểu thuyết Tây Du Ký để phỉ báng Phật giáo. Xem xét kỹ càng quyển tiểu thuyết Tây Du Ký này thì sẽ thấy chân tướng của họ. Sự lợi hại nhất là họ chẳng hề ghi lại việc pháp sư Huyền Trang mang kinh vượt qua các bãi sa mạc mà trở về bổn quốc. Họ viết là pháp sư Huyền Trang chỉ lưu lại sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật". Những kinh điển do pháp sư Huyền Trang phiên dịch, họ hoàn toàn bỏ qua không nhắc đến. Thế nhân rất tin tưởng vào quyển truyện Tây Du Ký giả dối đó, khiến quyển Tây Du Ký chân thật lại bị chôn vùi (Trích đoạn Pháp Ngữ của Thiền Sư Hư Vân, TT. Thích Hằng Đạt Việt dịch)
|
|
|
Post by tk on Jun 18, 2012 13:31:23 GMT -5
TÁC HẠI CỦA TÂY DU KÝ. TUỆ ĐĂNG Có câu hỏi như sau: "Trong lễ Hồng Danh Sám Hối, chúng tôi niệm danh hiệu "Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật". Theo truyện Tây Du, sau khi cùng với Sư Phụ là thày Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh, ngài Tôn Ngộ Không được phong là Đấu Chiên Thắng Phật. Vậy Đấu Chiến Thắng Phật Tôn NgộKhông này có phải chính là vị Phật trong kinh Hồng Danh Sám Hối không?" Đây là một câu hỏi rất đặc biệt. Nhân câu hỏi này, chúng ta sẽ có dịp thảo luận về một đề tài gây nhiều hiểu lầm trải dài nhiều thế kỷ và lan rộng tại nhiều vùng địa danh trên thế giới. Thật vậy, tác phẩm Tây Du Ký đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Việt ngữ, Nhật ngữ, Thái ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ vân vân ... và đã được nhiều đạo diễn dựng thành kịch bản, thành phim điện ảnh, dođó, nội dung Tây Du Ký đã tạo dấu ấn vào tâm tư của nhiều thế hệ và nhiều tầng lớp người thưởng ngoạn. Vì thế, chúng ta rất nên tìm hiểu coi dấu ấn và ảnh hưởng của cuốn sách này tác động vào tâm tư độc giả là tốt hay xấu và có lợi hay có hại cho người đọc. Vậy Tây Du Ký là gì? Đó là tên cuốn truyện do tác giả Ngô Thừa Ân sáng tác, chỉ dựa vào một chi tiết có thật độc nhất là «Tam Tạng pháp sưHuyền Trang được vua nhà Đường nước Trung Hoa cử sang Tây Trúc (tức là Ấn Độ)thỉnh kinh ». Từ chi tiết có thật đó, tác giả đã viết ra một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, hoang đường, xúc phạm sự tôn nghiêm của đức Phật, hạthấp phẩm cách chư đại đệ tử Phật và nhất là bôi nhọ pháp sư Huyền Trang, khiến cho độc giả mất thiện cảm với giới tu hành nhà Phật, cản trở con đường tìm hiểu và tu tập theo Phật pháp một cách nghiêm túc. Nếu tác giả dùng thể tiểu thuyết để hư cấu một câu chuyện thì không có gì đáng nói vì độc giả sẽ coi như đó chỉ là cuốn tiểu thuyết giả tưởng để giải trí. Nhưng vì ông dùng thể ký sựvà lạm dụng tên nhân vật chính cùng với câu chuyện có thật là "Đường Tam Tạng thỉnh kinh tại Tây Trúc" trong sáng tác của ông, nên đã tạoấn tượng vào tâm trí độc giả rằng đây là chuyện đã thật sự xảy ra, khiến cho có những người đã dùng cuốn Tây Du Ký như tài liệu để học tập, thảo luận, thậm chí có người đã viết thành những cuốn sách bình luận, ca ngợi vai trò của những con khỉ Tôn, con heo Trư trong truyện Tây Du, cố tình gán ghép triết lý kiểu «gọt chân cho vừa giầy», gán cho cuốn sách những tư tưởng cao siêu một cách hoang đường đề cao hành động của mấy con vật hư cấu trong khi xóa tan côngđức cao cả vĩ đại của ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang. Cũng vì sự xuyên tạc này của cuốn Tây Du Kývà sự suy tôn cuốn sách một cách vô trách nhiệm của một số người khiến đã nảy sinh những hiểu lầm, đưa tới giảm thiểu sự tôn kính Phật tổ Như Lai và chư ĐạiĐệ Tử, đồng thời cũng hiểu lầm luôn cả giáo lý nhà Phật cùng với lịch sử Phật giáo. Cũng xin thưa rằng từ ngữ "pháp sư"trong nhà Phật có nghĩa là thày dạy Phật pháp, Tam Tạng Pháp Sư là vị thày thông suốt ba kho sách nhà Phật là Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng, không phải là ông thầy có pháp thuật, bày đàn bát quái cúng kiếng quỷ thần, hô gió gọi mưa. Trước hết, xin tóm tắt nội dung cuộc thỉnh kinh trong thực tế, đã được Tam Tạng pháp sư Huyền Trang ghi lại thành bộsách "ĐạiĐường Tây Vực Ký". Bộ sách này được hòa thượng Thích Như Điển dịch ra Việt ngữ, với lời đề tựa như sau: "Bộ Đại Đường Tây Vực Ký này sởdĩ chúng tôi dịch trước vì nghĩ rằng chính đây là tấm bản đồ đầy đủ nhất, chi ly nhất mà đương thời từ năm 628 đến năm 645 tại Ấn Độ và Trung Hoa chưa có một người nào viết được một bộ Sử Phật Giáo như thế. Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộcđời đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát, A La Hán. Số nước mà Ngài đã đi qua là 110, ngày nay chúng ta có thể gọi là những tiểu bang, vì ngày xưa mỗi một vùng có một ông Vua nhỏ, hoặc tù trưởng đứng đầu. Còn ngày nay, Ấn Độ chỉ còn một nước mà thôi. Chung quanh đó có một số nước, ngoài Ấn Độ như Ba Tư, Kasmir, Tân Cương v.v... là những nước lớn ta có thể kể riêng. Nhưng tựu chung chỉ đi bộ và dùng voi ngựa mà vượt qua được những chặng đường dài gần 50 ngàn dặm ấy thì quả thật thếgian nầy chỉ có một không hai. Nhờ bản đồ hành hương của Ngài qua truyện ĐạiĐường Tây Vực Ký này mà những học giả, những nhà Khảo Cổ người Âu Châu mới tìm đến Ấn Độ để xác nhận, tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18 và cho đến nay thì bốn Thánh Địa căn bản của đức Phật từ khi Đản Sinh cho đến khi Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch Đại Bát Niết Bàn đã rõ ràng. Bây giờ các nhà Khảo Cổ người Nhật Bản vẫn còn đang tiếp tục tìm kiếm các di tích cũ ngày xưa cách đây trên 2500 năm về trước. Tất cả đều nhờ vào côngđức của Ngài Huyền Trang đã vẽ cho chúng ta một tấm bản đồ cách đây 1375 năm.Đây là tấm bản đồ cũ nhất trong tất cả những tấm bản đồ của thế giới hiện nay". Trên đây là lời xác nhận của hòa thượng Thích Như Điển về công trình thỉnh kinh của ngài Đường Tam Tạng. Ngoài ra, trong cuốn "Con Ngựa Già của Đường Tam Tạng", nhà khảo cổ Vương Hồng Sển cũng viết như sau: "Thực sự, Tây Du diễn nghĩa là một bộtruyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt. Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh kinh tại Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðường. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau TL) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ "Ðại Ðường Tây Vực Ký". Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm bề tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đem lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc. Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình, cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (thế kỷ thứ 7 sau Tây Lịch) mới về đến thành Trường An (Trung Quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm,đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về: - 150 viên xá lợi (tinh cốt của NhưLai). - 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước - 3 tượng Phật bằng đàn hương : cao 3 thước rưỡi, 2thước 9 và 2 thước 3. - 657 bộ kinh - cùng một số bảo vật khác nữa, phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết. Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấnđộ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹthuật v v... đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo. Sau sáu năm học tập, thày Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền. Chẳng những là một nhà sư đạo đức, thày Huyền Trang còn là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sửhọc uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhất là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Trúc, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường An, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủlịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của những nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận nhữngđiều nghe thấy và ghi chép của thầy Huyền Trang rất là đích xác. Từ ngày về Trường An, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã, từ năm 645 đến năm 664, thầy dịch được tất cả 75 bộ kinh, khoảng 1335 quyển từ tiếng Phạn dịch qua Hán tự, bộ Ðạo Đức Kinh và một bản dịch "Ðại Thừa Khởi Tín Luận" từchữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ "Ðại Ðường Tây Vực ký" . Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài thầy Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận đến để tiễn đưa thầy. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này". Trên đây là lời xác nhận của học giả Vương Hồng Sển, nhà khảo cổ danh tiếng của miền Nam Việt Nam. Như thế, câu chuyện ngài Tam Tạng pháp sưHuyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh đã thật sự xảy ra vào thời đại nhà Đường. Duy chi tiết về công cuộc thỉnh kinh gian khổ thì hoàn toàn khác hẳn với những sự mô tả trong cuốn Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân viết. Vì vậy, để mọi sự được minh bạch, chúng ta cùng lần giở lại trang sử Phật giáo để tìm ra nội dung chính xác về người thật việc thật, về nhân vật lịch sử Đường Tam Tạng, vị cao tăng đã một mình một ngựa từ kinh đô Tràng An nước Trung Hoa lặn lội vượt qua 50 ngàn dặm đường tới Ấn Độthỉnh kinh. Sự việc được ghi lại rõ ràng trong cuốn Đại Đường Tây Vực Ký. Khiđó là vào thế kỷ thứ 7. Gần một ngàn năm sau, vào khoảng cuối thế kỷthứ 16, tác giả Ngô Thừa Ân sáng tác cuốn Tây Du Ký dựa vào một sự thật độc nhất là pháp sư Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh, ngoài ra, tất cả các chi tiết thí dụ 3 đệ tử là Tôn hành giả, Bát Giới và Sa Tăng cùng các hành vi huyền bí bất thường của họ đều là do tác giả hư cấu. Chúng tôi xin lược trích ý kiến của thày Thích Nhật Từ, chủ biên thư viện điện tử Đạo Phật Ngày Nay như sau: "... Theo Tây Du Ký thì chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm đã bắt giam Tôn dưới chân núi Ngũ Hành ngót 500 năm dài và cũng chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm một lần nữa tạo ra 81 nạn cho 4 thầy trò Ðường Tăng, để rồi dẫn đến kết thúc của tác phẩm chẳng có nghĩa lý gì: ‘’Như Lai là người chủ mưu cuộc hối lộ cái "bát vàng" trước khi giao chân kinh có chữ về Ðông Thổ’’. Trong truyện Tây Du Ký, Phật Tổ Như Lai chủmưu cuộc hối lộ bằng cách "ném đá dấu tay," ra lệnh cho hai tôn giảCa-diếp và A-nan-đà, những vị thánh tăng hàng đầu trong hàng đệ tử Phật, đòi "quà thông cảm" với bốn thầy trò Ðường Tăng. Ðiều đó đã làm cho ba vị đồ đệ cương trực của Ðường Tăng bất bình. Nhưng vì thấy tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà "xuống nước nhỏ" (nhưng thật chất là đánh lừa), cả ba vị đã hỷ xả mà không làm lớn chuyện! Bốn thầy trò tưởng mọi việc êm xuôi, hớn hở đem kinh về. Gần về đến Ðại Ðường thì bổng đâu chim Ðại Bàng của Phật Di-lặc cướp bay lên không, rồi sau đó bỏ xuống đất. Lúc đó, thầy trò Ðường Tăng mới vỡlẽ ra là kinh mà họ khổ công mang về là "kinh vô tự." Cái gút "kinh vô tự và kinh hữu tự"mà tác giả dựng lên không mang dụng ý thiền học như nhiều người đã cố tình lý giải. Thật ra, nó nhằm tạo ra thái độ căm phẫn của độc giả đối với đức Phật và Bồ-tát, thông qua đó, bôi bác, xuyên tạc Phật giáo. Tôi cho rằng Ngô Thừa Ân đã xúc phạm một cách trịch thượng đến đức Phật, các vịBồ-tát và các vị thánh tăng. Những điều gì mà đức Phật khuyên người ta nên từbỏ, xa lìa thì Ngô Thừa Ân lại đem những cái đó gán lên đức Phật". Trên đây là ý kiến của thày Thích Nhật Từ, chủ biên thư viện điện tử Đạo Phật Ngày Nay. Như chúng ta đã biết, đạo Phật xuất hiện trênđời khởi nguồn từ sự giác ngộ thực tại của đức Phật. Ngay sau khi bừng tỉnh, Ngài trực nhận ra rằng : ‘’Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng giác ngộ như Ngài’’. Từ đó cho tới suốt gần 50 năm, đến tận ngày cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn, Ngài đã tận tụy đi khắp nơi để truyền dạy giáo pháp, với nguyện vọng là: ‘’Mọi chúng sinh đều được giác ngộ giải thoát, đều thành Phật như Ngài.’’ Tuy nhiên, kinh nghiệm chứng đắc của Ngài là do thực tập, không phải là lý thuyết suông mà đạt được, cho nên nếu ai chưa từng hành trì các pháp môn tu thì sẽ thấy rất khó hiểu. Vì thế, nhà Phật tạm thời phân sự tu tập thành 2 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là: ‘’Không làm điều xấu ác’’ và‘’Siêng làm đều tốt lành’’. Giai đoạn tu này để chuyển hóa nghiệp xấu thành nghiệp tốt, cùng với các tôn giáo và các nền giáo dục tạo dựng một xã hội lành mạnh, bớt khổ đau, tạo cơ duyên lành cho sự tu giải thoát sau này. Sau đó, qua giai đoạn thứ nhì là ‘’Tựthanh tịnh tâm ý’’. Đây là lúc hành giả buông xả hết tất cả mọi bám víu vào thế gian để tiến tới giác ngộ giải thoát như đức Phật. Hai giai đoạn tu này thuộc về hai chân lý, là đối với chân lý quy ước, có phải trái, hay dở, tốt xấu tương đối với nhau thì ‘’chuyển hóa từ xấu thành tốt’’. Nhưng qua giai đoạn "Tự thanh tịnh tâm ý" là giaiđoạn vượt lên trên cả sự phân biệt tốt xấu, thánh phàm, hay dở, tiêu dung Tham Sân Si, gọi là cảnh giới Bất Nhị, tạm gọi là Chân Lý Tuyệt Đối, là giai đoạn tu xuất thế gian, mới chính là bản hoài của đức Phật mong mỏi cho chúng sinh đạt tới. Như thế, hai giai đoạn tu hành rất rõ ràng. Tuy nhiên, nếu không đi sâu vào giáo lý và hành trì của nhà Phật thì người ta có thể hiểu lầm, thí dụ cho rằng đạo Phật là "thế lưỡng phân", hoặc cho là "đạo Phật thì phải phá chấp". Truyền bá sự hiểu lầm như vậy sẽ gây hoang mang cho quần chúng độc giả, khiến cho có những người luôn luôn chép miệng phê phán "chấp quá, chấp quá", cho là phải vứt bỏ những quy luật sống của xã hội thì mới là "sống Thiền". Đó là một sự lầm lẫn rất đáng tiếc. Thực tế, hai giai đoạn tu này có những mục tiêu khác nhau và đường lối tu cũng khác nhau, tạm ví như người họa sĩ khi mới tập vẽ cũng phải dùng thước đo để tạo ra những hình ảnh đầu tiên. Nhưng khi đã qua giai đoạn sơ đẳng, họ phải buông thước, hoàn toàn phóng bút theo cảm quan, hai giai đoạn đó không thể lẫn lộn. Hoặc em bé chưa biết đi thì phải theo quy luật, dùng xe tập đi giúp em đứng vững, khi biết đi rồi thì bỏ xe. Chưa biết đi mà bỏ xe thì em bé sẽ té ngã. Người tu hành trong giai đoạn chuyển xấu thành tốt thì phải nghiêm chỉnh tuân theo giới luật. Khi đã qua giai đoạn buông xả được mọi chấp trước Tham Sân Si thì mới có thể phá chấp, tự tại trong cảnh giới Bất Nhị.Đó là lúc vượt lên trên mọi quan điểm về Thánh Phàm, là lúc ‘’Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt’’ (chấm dứt nói năng, nơi tâm suy nghĩ ngưng bặt). Ở trên, chúng ta đã đọc những lời minh xác của các bậc tôn túc về con người và hành trạng của vị cao tăng là Đường Tam Tạng, ai cũng đã thấy rõ con người ấy hoàn toàn không giống chút nào với Đường Tam Tạng trong Tây Du Ký. Và trên thực tế, không hề có 3 đệ tử là Tôn hành giả, Bát Giới và Sa Tăng đi cùng, mà là ngài đi thỉnh kinh một mình. Thế nhưng trong Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân đã bôi nhọ hình ảnh vị cao tăng, thí dụ để cho tên đồ đệ hư cấu là con khỉ mắng vịTam Tạng pháp sư (người thông suốt 3 kho Kinh, Luật và Luận) rằng ‘’ngayđến bài kinh Bát Nhã có 270 chữ nói rằng vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ýmà thầy cũng không nhớ’’, hoặc đưa ra hình ảnh Đường Tam Tạng rất tàn ác,đã dối trá để đánh lừa Tôn hành giả đội chiếc mũ có vòng kim cô rồi sau đó thường nghe lời gièm pha của Trư Bát Giới mà đọc "khẩn cô nhi chú" siết vòng kim cô vào đầu tên đệ tử tận tụy là Tôn hành giả khiến cho hắn đauđớn rên siết lăn lộn kinh hoàng... vân.. vân... Đến đây, chúng ta đã thấy tất cả câu chuyện Tây Du Ký và các nhân vật như Tôn hành giả, Bát Giới, Sa Tăng là hoàn toàn bịađặt, hoang đường, không có trong thực tế. Cũng xin thưa rằng câu "Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật" trong Hồng Danh Sám Hối là trích từ kinh Đại Bảo Tích, tôn xưngđức tu hành chân chính, chiến thắng được Tham Sân Si của bản thân, phá trừ được Ngã Chấp, thoát được mọi khổ não trong biển sinh tử, không liên hệ gì tới con khỉ trong câu chuyện bịa đặt Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân sáng tác. Nhà Phật không kêu gọi hành giả tu Phật chiếnđấu với mọi người hoặc mọi thế lực bên ngoài mà phải luôn luôn thức tỉnh, tựthanh lọc tam độc Tham Sân Si, tự chiến đấu với bản thân để tiêu dung Bản Ngã, hóa giải lòng vị kỷ, sự thù hận và si mê. Hoàn tất quá trình tu chứng đó là trở thànhĐấu Chiến Thắng Phật. Tuệ Đăng
|
|